Chúa Giêsu có làm chính trị hay không? - Google Groups

131 views
Skip to first unread message

Mikali Nguyễn

unread,
Nov 9, 2025, 6:52:28 PMNov 9
to Alphons...@googlegroups.com, Giaitri...@googlegroups.com
Chúa Giêsu có làm chính trị hay không?
image.png

Dẫn nhập:
1. Ai cũng biết là cuộc đời Chúa Giêsu được ghi lại trong 4 cuốn Phúc âm: Matthew, Marco, Luca và Yoan. Việc xem xét Ngài có làm chính trị hay không được đối chiếu ở 4 sách phúc âm nói trên.

2. Chủ đề này xem ra không phức tạp cho lắm vì căn cứ vào trình thuật tại 4 cuốn phúc âm nói trên ta sẽ có câu trả lời rõ ràng. Tuy nhiên muốn trình bày đầy đủ và thấu đáo phải viết thành một cuốn sách.

3. Trong lịch sử, ta thấy Giáo hội Công giáo đã từng là thế lực chính trị chi phối các quốc gia (ở thời Trung Cổ), nhiều lần phát động chiến tranh, đàn áp, hay can thiệp liên quan đến các tôn giáo khác (Hồi giáo, Do thái giáo, Anh giáo, Tin Lành)chủ thuyết chính trị (Cộng sản, Đức quốc xã) và các quốc gia...Nhiều tu sĩ, linh mục hô hào chống chính quyền bằng nhiều lý lẽ và biện minh khác nhau. 

4. Việc Chúa Giêsu làm chính trị không, hay Ngài có chủ trương hô hào các tín đồ làm chính trị hay không? Đây là câu trả lời cốt lõi vì Ngài là Đấng sáng lập Giáo hội Công giáo, là Đầu (nguồn gốc) của Giáo hội và là tấm gương cho các tín hữu noi theo. Hành động và các lời rao giảng của Ngài là niềm tin và nỗ lực thực hành của các tín hữu Kitô giáo.

5. Chính trị ở đây có nghĩa là: trong 4 sách Phúc âm được ghi nhận lại, ở vào thời của Ngài (vào TK 1 Công nguyên, ở vùng Palestine nay là Israel, Palestine, Jordan, Syria...), Ngài có làm các việc này hay không:
👉 Chủ trương giải phóng dân tộc, chống lại ách xâm lược và thống trị của đế quốc La Mã đối với xứ Palestine.
👉 Ủng hộ hay chống lại nguyện vọng khởi nghĩa giải phóng đất nước, cách mạng vũ trang của người dân Do Thái.
👉 Chống lại chính quyền bù nhìn do La Mã bổ nhiệm: Hêrôđê và phe thân Hêrôđê.
👉 Chống lại chính sách quản lý hành chính, chính sách thuế của chính quyền. 
👉 Kỳ thị hay kêu gọi kỳ thị, bất hợp tác với những viên chức, người làm việc trong chính quyền sở tại.
👉 Chống áp bức bất công của xã hội, chính sách đàn áp của chính quyền La Mã và bù nhìn.
👉 Vận động thành lập hay tham gia đảng phái, hô hào dân chúng phản đối, nổi dậy bằng hình thức vũ trang hay bất bạo động. 
👉 Phá luật tôn giáo (Do Thái Giáo), chống hàng giáo sĩ, chống người ngoại đạo. 
👉 Tham gia, hợp tác, kết thân hay chống lại các đảng phái, thế lực chính trị và tôn giáo lúc bấy giờ: Pharisee, Sadducee, Zealot.
👉 Lợi dụng uy tín và sự thu hút của mình đối với dân chúng để thành lập đội ngũ, chuẩn bị mưu đồ cho các hoạt động nói trên.

MS (còn tiếp)

Mikali Nguyễn

unread,
Nov 13, 2025, 5:36:01 PMNov 13
to Alphons...@googlegroups.com, Giaitri...@googlegroups.com
Tập 1. Bối cảnh chính trị của xứ Palestine thời Chúa Giêsu
image.png

* "Bối cảnh chính trị của xứ Palestine thời Chúa Giêsu" đã được ta đề cập nhiều lần, mà gần đây nhất là tại Tập 1 của bài "Chúa Giêsu đã không bị đóng đinh nếu không có 4 sự kiện sau đây ở Kinh thánh"
https://groups.google.com/g/alphonsefamily/c/92ghupepb6U
Lúc đó AI chưa thịnh hành, nay ta xét lại lần nữa với sự trợ giúp của AI (có điều chỉnh) 
* Có thể nói ở thời đó, xã hội Do Thái không bình yên mà bị chia cắt, dằn xé bởi các thế lực chính trị. Bầu không khí sôi sục, chỉ cần 1 mồi lửa nhỏ cũng có thể dẫn đến nổi dậy, khởi nghĩa vũ trang,  Trong bối cảnh đó đa số người dân Do Thái muốn có 1 vị cứu tinh xuất hiện để tái lập lại nước Israel và không ít người dân Do Thái bị lôi kéo ngả theo phe này, phe nọ. Còn Chúa Giêsu thì sao? Ta sẽ làm rõ trong tập này và các tập tiếp theo (tập trung ở tập cuối).
---o0o---

Thời Chúa Giêsu (khoảng thế kỷ I sau Công nguyên), vùng Palestina (nay là Israel, Palestine, Jordan, Syria...) nằm dưới sự cai trị của Đế quốc Rôma, và có nhiều thế lực chính trị – tôn giáo cùng tồn tại, thường xung đột hoặc cạnh tranh ảnh hưởng. Dưới đây là tóm tắt các thế lực chính chính trị – tôn giáo thời đó:  

1. Đế quốc Rôma
Người nắm quyền tối cao: Hoàng đế La Mã (lúc Chúa Giêsu sinh ra là Augustus Caesar, sau đó là Tiberius Caesar). Đại diện tại Giuđêa: Tổng trấn (Procurator), thời Chúa Giêsu là Pontius Pilate 
Với mục tiêu duy trì hòa bình và thu thuế ổn định, đàn áp nổi dậy (như phong trào “Nhiệt thành”). Người La mã chủ trương:
👉 Nắm giữ vai trò quản lý hành chính, thu thuế, duy trì trật tự. 
👉 Nhưng vẫn cho phép người Do Thái giữ tôn giáo riêng nhưng phải trung thành với Rôma.

Có thế thấy đây là chế độ thuộc địa gián tiếp: Rôma không can thiệp toàn diện vào đời sống tôn giáo, nhưng kiểm soát chính trị, tài chính và an ninh. Chế độ cai trị của Rôma là thực dụng và khôn khéo: vừa đàn áp, vừa “nhân nhượng tôn giáo” để dễ cai trị.
Nhưng hệ thống ấy thiếu công bằng, gây bất mãn và xung đột nội bộ, là mảnh đất cho các phong trào cứu thế và nổi dậy nảy sinh. Người Do Thái cảm thấy bị xúc phạm và bị áp bức do:
👉 Phải nộp thuế cho ngoại bang.
👉 Bị binh lính Rôma chiếm đóng, mang biểu tượng tà thần (đại bàng).
👉 Đền Thờ bị kiểm soát gián tiếp qua giới tư tế thân Rôma.
Về bản chất, đây là một nền thống trị ngoại bang dựa trên bạo lực và lợi ích kinh tế, che phủ bằng lớp vỏ “tự do tôn giáo”.

2. Giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái
image.png
Gồm nhiều phe phái khác nhau, vừa có vai trò tôn giáo vừa có ảnh hưởng chính trị.
a. Thượng tế và Hội đồng Công nghị (Sanhedrin)
Chủ yếu bao gồm các thành viên thuộc phái Xa-đốc và Pha-ri-sêu. Là Cơ quan cao nhất của người Do Thái (giống quốc hội tôn giáo).
Gồm 71 thành viên: thượng tế, trưởng lão, luật sĩ. Có quyền xét xử các vụ việc tôn giáo và một số dân sự (trừ án tử hình – phải xin phép Rôma).
Đương thời có Thượng tế Caipha (Caiaphas) và nhạc phụ Anna (Annas).

b. Phe Xa-đu-kê (Sadducees)
Thành phần là giới thượng lưu, tư tế, quý tộc có quyền lực chính trị - tôn giáo lớn thông qua việc kiểm soát Đền thờ và Hội đồng Tối cao (Sanhedrin). 
Hợp tác với Rôma để giữ quyền lợi.
Chỉ tin vào Ngũ Thư (5 sách đầu của Kinh Thánh). Không tin vào sự sống lại, không tin và thiên thần và sự thưởng phạt đời sau.
 
c. Phe Pharisêu (Pharisees)
Thành phần gồm: luật sĩ, kinh sư, giới trung lưu, đạo đức nghiêm ngặt.
👉 Trong dân chúng, Pharisêu được tôn trọng vì sống đạo đức và giảng dạy Lề luật.
👉 Họ tin vào các chân lý mà nhóm Sa-đu-kê không tin: kẻ chết sống lại, thiên thần, ma quỷ và sự phán xét đời sau
👉 Họ nhấn mạnh sự thánh thiện: Mọi người đều có thể sống thánh thiện qua việc tuân giữ Luật, không chỉ tư tế.  
👉 Phe Pharisêu có tư tưởng chống Roma nhưng không dùng bạo lực
- Không hợp tác thân thiết với Rôma
- Nhưng cũng không tham gia nổi dậy như Zealot
* Chúa Giêsu nhiều lần chỉ trích vì giả hình, đặt nặng luật lệ hơn lòng nhân.

d. Phe Ê-sênê (Essenes)
Sống tách biệt, khổ hạnh, có thể là nhóm giữ Cuộn Sách Biển Chết (Dead Sea Scrolls).
Chờ đợi Đấng Mêsia đến thiết lập vương quốc Thiên Chúa.
Nhóm này chỉ liệt kê thêm, họ không liên quan nhiều đến chính trị
3. Phe Nhiệt thành (Zealot)
Nhóm Zealot là một phong trào yêu nước có tổ chức, chủ trương chống lại sự cai trị của đế quốc Rôma bằng bạo lực. Đây là  lực lượng chính trị, cực đoan nhất trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu. 
Một nhóm cực đoan trong phong trào này gọi là Sicarii (từ sica = con dao ngắn), chuyên ám sát người Rôma và Do Thái thân Rôma ở nơi công cộng.  
Một trong 12 Tông đồ của Chúa Giêsu, Simon Nhiệt thành, thuộc nhóm này.
Đối với Roma, họ là lực lượng bán du kích, khủng bố chính trị 
Zealot chủ trương:
👉 Làm cách mạng giải phóng dân tộc, chống Rôma bằng bạo lực.
👉 Tin rằng chỉ có Thiên Chúa mới là Vua Israel. Mọi quyền lực chính trị ngoại bang đều là xúc phạm Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ giúp họ thắng Rôma qua vũ lực
👉 Coi mọi hợp tác với Rôma là phản bội dân tộc
  
4. Vương triều Hêrôđê (Herod)
Là triều đình “bù nhìn” do Rôma dựng lên để cai trị người Do Thái.
- Hêrôđê Cả (Herod the Great): Cai trị khi Chúa Giêsu sinh ra, ra lệnh giết các trẻ thơ ở Bêlem (Mt 2).
- Sau khi ông chết, vương quốc chia cho các con:
Hêrôđê Antipas: cai trị Galilê và Pêrêa (xử Gioan Tẩy Giả, gặp Chúa Giêsu trong phiên tòa).
- Philippê và Arkhêlaô cai trị các vùng khác.
 
Tóm tắt bối cảnh chính trị thời Chúa Giêsu :
👉 Do Thái bị Đế quốc Rôma cai trị, có sự phụ giúp của vua người Do Thái: Herôđê và các con (bù nhìn Rôma).
👉 Tôn giáo do Thượng Hội Đồng Do Thái quản lý, nhưng bị Rôma giám sát.
👉 Xã hội chia rẽ: Pharisêu, Sađốc, Nhiệt thành (Zealots), Esseni, mỗi nhóm một quan điểm.
  Các thế lực này thường xuyên xung đột về quyền lực, niềm tin tôn giáo và thái độ đối với chính quyền La Mã, tạo nên một bối cảnh chính trị - xã hội phức tạp và căng thẳng vào thời Chúa Giêsu thi hành sứ mạng.  

Trong bối cảnh đó, dân chúng Do Thái sống trong căng thẳng do:
👉 Bị đánh thuế nặng, chịu kiểm soát của lính Rôma.
👉 Mâu thuẫn giữa mong đợi Đấng Mêsia chính trị và quyền lực Rôma ngày càng tăng.
👉 Sự áp bức này nuôi dưỡng: các phong trào giải phóng, các tiên tri giả, niềm hy vọng sôi sục về một Messia do Thiên Chúa cử đến giúp họ khởi nghĩa tái lập lại nhà nước Israel

Chính trong bối cảnh này, Chúa Giêsu xuất hiện, giảng về một Nước Thiên Chúa không giống bất cứ lực lượng chính trị nào.

Mikali Nguyễn

unread,
Nov 15, 2025, 6:22:45 PMNov 15
to Alphons...@googlegroups.com, Giaitri...@googlegroups.com
Tập 2: Lịch sử xâm lược và thống trị xứ Palestine của đế quốc La Mã 
& Các cuộc khởi nghĩa của dân Do Thái
 image.png
* Tập này bổ sung cho tập 1 để có thể hình dung được tình hình căng thẳng địa - chính trị thời Chúa Giêsu và tinh thần khởi nghĩa chống xâm lược La Mã của dân Do Thái. Điều này cũng lý giải tại sao dân Do Thái khao khát, kỳ vọng vào 1 đấng Messiah do Thiên Chúa cử đến để giúp họ giải phóng dân tộc. Trong bối cảnh đó Chúa Giêsu xuất hiện thi hành sứ vụ và bị lôi kéo vào hay nghi ngại bởi các thế lực chính trị đương thời.
* Tập này trình bày có sự trợ giúp của AI.

 Phần 1: Lịch sử Đế quốc La Mã xâm lược và thống trị xứ Palestine thời Chúa Giêsu (khoảng 63 TCN – 30 SCN)
image.png
Xứ Palestine thời Chúa Giêsu (bao gồm các vùng Judea, Samaria, Galilee và một phần Perea) nằm dưới sự thống trị của Đế quốc La Mã. Quá trình xâm lược và kiểm soát diễn ra qua ba giai đoạn chính: chinh phục ban đầu, thống trị gián tiếp qua vua chư hầu, và trực trị tỉnh La Mã.

1. Giai đoạn chinh phục (63 TCN)
image.png
👉 Vương quốc Hasmonean (Do Thái độc lập) suy yếu do nội chiến giữa hai anh em Hyrcanus II và Aristobulus II tranh giành ngai vàng và chức Đại tư tế.
👉  Năm 63 TCN, tướng La Mã Pompey Đại đế (Pompeius Magnus) nhân cơ hội này can thiệp vào Judea trong chiến dịch mở rộng ảnh hưởng ở Đông Địa Trung Hải.
👉  Sau ba tháng vây hãm, Pompey chiếm được Jerusalem. Ông vào tận Nơi Chí Thánh trong Đền Thờ (hành động bị người Do Thái coi là báng bổ).
Hậu quả:
- Judea mất độc lập, trở thành nước chư hầu của Cộng hòa La Mã.
- Hyrcanus II được phục chức Đại tư tế nhưng không có quyền vua.
- Hàng nghìn người Do Thái bị bắt làm nô lệ, nhiều vùng đất bị tách ra (như các thành Hy Lạp Decapolis).
- La Mã bắt đầu thu cống nạp hàng năm.

2. Giai đoạn thống trị gián tiếp qua vua chư hầu (63 TCN – 6 SCN)
Herod Đại đế (37–4 TCN):
👉 Năm 40 TCN, Thượng viện La Mã phong Herod (người gốc Idumea, cha là người Ả Rập cải đạo) làm Vua của người Do Thái.
👉  Năm 37 TCN, với sự hỗ trợ quân sự của tướng Marcus Antonius, Herod chiếm Jerusalem từ tay Antigonus (con Aristobulus II).
👉 Herod cai trị như một vua chư hầu trung thành với La Mã, nộp thuế nặng và xây dựng các công trình tôn vinh hoàng đế (như thành cảng Caesarea Maritima).
👉 Ông mở rộng và tu sửa Đền Thờ Jerusalem thành một trong những kỳ quan kiến trúc thời cổ đại.
Tuy nhiên, Herod bị dân Do Thái ghét vì:
- Gốc gác không phải Do Thái thuần túy.
- Tàn bạo (giết vợ, con, nhiều rabbi).
- Đưa tượng và văn hóa Hy-La vào xứ sở.
* Thời Chúa Giêsu sinh: Theo truyền thống Kitô giáo, Chúa Giêsu sinh khoảng 6–4 TCN, dưới triều Herod (xem “vụ tàn sát trẻ em ở Bethlehem” – Mt 2:16).

Sau Herod:
👉  Herod chết năm 4 TCN. Di chúc chia vương quốc cho ba con:
👉  Archelaus cai trị Judea và Samaria.
👉  Herod Antipas cai trị Galilee và Perea.
👉  Philip cai trị các vùng phía bắc.
Archelaus cai trị tàn bạo → dân chúng nổi loạn → năm 6 SCN, hoàng đế Augustus phế truất Archelaus, lưu đày ông ta đến Gaul.

3. Giai đoạn trực trị tỉnh La Mã (6 SCN – 70 SCN)
Judea thành tỉnh La Mã:
👉 Từ năm 6 SCN, Judea chính thức trở thành tỉnh trực trị (provincia) thuộc quyền tổng trấn Syria, nhưng có tổng đốc riêng (praefectus) đóng ở Caesarea.
👉 Cuộc điều tra dân số của Quirinius (6 SCN) nhằm mục đích thu thuế cá nhân (tributum capitis) và thuế đất.
👉 Gây phẫn nộ → dẫn đến phong trào Zealot (người nhiệt thành) chống La Mã, coi việc nộp thuế cho ngoại bang là phản bội Đức Chúa Trời.

Tổng đốc nổi bật:
Pontius Pilate (26–36 SCN): là tổng đốc trong thời Chúa Giêsu thi hành sứ vụ (khoảng 27–30 SCN).
Nổi tiếng tàn bạo:
- Mang cờ hiệu có hình Caesar vào Jerusalem → xúc phạm người Do Thái.
- Dùng tiền Đền Thờ xây cống dẫn nước → gây bạo loạn.
- Ra lệnh đóng đinh Chúa Giêsu (khoảng năm 30 SCN) vì bị cáo buộc “xưng vương chống Caesar” (Ga 19:12).
- Cuối cùng bị triệu về La Mã vì tàn sát người Samaria (36 SCN).

Xã hội dưới ách La Mã:
Thuế má nặng nề: Thuế đất, thuế thân, thuế muối, thuế Đền Thờ → dân nghèo khổ.
Quân đội La Mã đóng khắp nơi: Đặc biệt ở Jerusalem (pháo đài Antonia cạnh Đền Thờ).
Xung đột tôn giáo–chính trị: Người Do Thái chia rẽ:
- Pharisêu: Tập trung giữ luật, chống đồng hóa.
- Saducêu: Hợp tác với La Mã để giữ quyền lực.
- Zealot: Khủng bố, nổi dậy vũ trang.
- Essene: Rút vào sa mạc (Qumran).

Tóm tắt niên biểu chính
63 TCN: Pompey chiếm Jerusalem → Judea thành chư hầu
37 TCN: Herod lên ngôi vua chư hầu
6–4 TCN: Chúa Giêsu sinh (dưới triều Herod)
4 TCN: Herod chết
6 SCN: Judea thành tỉnh trực trị → Quirinius kiểm tra dân số
26–36 SCN: Pontius Pilate làm tổng đốc
~30 SCN: Chúa Giêsu bị đóng đinh dưới lệnh Pilate
70 SCN: Titus phá hủy Jerusalem và Đền Thờ

Kết luận: Dưới ách thống trị La Mã, xứ Palestine là một tỉnh nhỏ bất ổn ở rìa đế quốc. Người Do Thái chờ đợi Đấng Mêsia giải phóng dân tộc khỏi ách ngoại bang – nhưng Chúa Giêsu đến với sứ điệp Nước Trời không thuộc về thế gian này (Ga 18:36). Chính điều này đã dẫn đến xung đột cuối cùng với cả giới lãnh đạo Do Thái và chính quyền La Mã.

Phần 2. Các cuộc khởi nghĩa chống đế quốc La Mã của dân Do Thái thời Chúa Giêsu
image.png
Thời Chúa Giêsu và sau đó (thế kỷ I), dân Do Thái dưới ách thống trị La Mã đã có nhiều cuộc nổi dậy, mang màu sắc tôn giáo – dân tộc – chính trị.

 I. Trước và trong thời Chúa Giêsu (khoảng 6 TCN – 30 CN)
Nổi dậy của Giuđa người Galilê (Judas the Galilean) — năm 6 CN
Do Rôma tiến hành kiểm kê dân số ở Giuđêa để đánh thuế (th
ời Tổng trấn Quirinius) nên lãnh tụ Giuđa người Galilê (cũng gọi là Judas xứ Gamala) nổi dậy với chủ trương: Chỉ có Thiên Chúa là Vua, không nộp thuế cho Rôma.
Kết quả: Bị đàn áp, nhưng phong trào của ông sinh ra nhóm “Nhiệt thành” (Zealots) — nhóm này tồn tại dai dẳng suốt thế kỷ I.

* Trong Công vụ Tông đồ (Cv 5,37), Thầy Gamaliel nhắc đến cuộc nổi dậy này.

II. Sau thời Chúa Giêsu
Phong trào Nhiệt thành (Zealots) — từ khoảng năm 30–66 CN

image.png

Đây không phải một cuộc nổi dậy riêng lẻ, mà là chuỗi kháng chiến vũ trang âm ỉ chống Rôma. Họ là những người sùng đạo cực đoan, tin rằng Thiên Chúa sẽ giúp họ chiến thắng. Nhiều thành viên ẩn náu trong vùng Galilê, sa mạc, hoặc vùng núi Giuđêa.
 * Một số học giả cho rằng trong các môn đệ của Chúa Giêsu có Simon Nhiệt thành thuộc nhóm này (Lc 6,15).

III. Cuộc nổi dậy lớn thứ nhất — “Chiến tranh Do Thái – Rôma” (66–73 CN)

image.png

Do thuế má nặng, tham nhũng, xúc phạm tôn giáo (người Rôma chiếm Đền Thờ, cướp của tế lễ) và mâu thuẫn giữa các phe Do Thái (Pharisêu, Sadducees, Zealots).
Diễn biến:
- Năm 66: Nhiệt thành chiếm Giêrusalem, giết các quan chức Rôma.
- Năm 70: Quân Rôma do Tướng Titus (con của Hoàng đế Vespasian) bao vây, phá hủy Đền Thờ Giêrusalem.
Hàng trăm ngàn người chết. Một nhóm chiến đấu cố thủ đến năm 73 ở pháo đài Masada, sau đó tự sát tập thể để không rơi vào tay Rôma.
Kết quả:
👉 Đền Thờ bị phá hủy hoàn toàn (chỉ còn bức tường phía Tây – “Bức tường than khóc”).
👉 Kết thúc vai trò của Sadducees và Thượng tế.
👉 Pharisêu trở thành nhóm lãnh đạo tôn giáo chính sau đó (Do Thái giáo thời hậu Đền Thờ).

IV. Cuộc nổi dậy Kitos (Kitos War) — năm 115–117 CN

image.png

👉 Xảy ra ngoài đất Israel: ở Ai Cập, Libya, Síp, và Lưỡng Hà.
👉 Người Do Thái di cư nổi dậy chống Rôma trong thời Hoàng đế Trajan.
👉 Bị dẹp tàn khốc, hàng trăm ngàn người bị giết.
👉 Không ảnh hưởng trực tiếp đến Giêrusalem, nhưng làm Rôma thêm khắt khe với người Do Thái.

V. Cuộc nổi dậy Bar Kokhba (132–135 CN)

image.png 

Lãnh tụ là Simon Bar Kokhba (“Con của Ngôi Sao”), người ủng hộ: Rabbi Akiva tin ông là Đấng Mêsia được hứa.
Nguyên nhân:
Hoàng đế Hadrian cấm cắt bì và định xây đền thờ Jupiter trên nền Đền Thờ cũ.
Kết quả:
👉 Ban đầu thắng lợi, tái lập nhà nước Do Thái ngắn ngủi (~3 năm).
👉 Rôma phản công, giết khoảng 580.000 người, phá hủy hơn 50 pháo đài và 985 làng.
👉 Giêrusalem bị đổi tên thành Aelia Capitolina, cấm người Do Thái bước vào.

🧭 Tóm tắt các cuộc nổi dậy chính

NămTên cuộc nổi dậyLãnh tụKết quảGhi chú
6 CNGiuđa GalilêJudas GalileanBị đàn ápKhởi nguồn nhóm Nhiệt thành
30–66 CNHoạt động Nhiệt thànhNhiều nhómBị truy quétTiền đề cho chiến tranh Do Thái–Rôma
66–73 CNChiến tranh Do Thái–RômaZealotsĐền Thờ bị phá, hàng trăm ngàn chếtMasada tự sát
115–117 CNNổi dậy KitosCộng đồng Do Thái kiều dânBị đàn áp nặng nềXảy ra ngoài Israel
132–135 CNBar KokhbaSimon Bar KokhbaBị tiêu diệt, dân bị lưu đàyNgười Do Thái mất quê hương 1.800 năm

MS tổng hợp

Mikali Nguyễn

unread,
Nov 17, 2025, 7:53:02 PM (13 days ago) Nov 17
to Alphons...@googlegroups.com, Giaitri...@googlegroups.com
Tập 3. Những sự kiện mang sắc thái chính trị trong Kinh thánh 
& Thái độ của Chúa Giêsu

* Dưới đây là những sự kiện trong Kinh Thánh có màu sắc chính trị (hay bị suy đoán là có ý nghĩa chính trị) liên quan đến Chúa Giêsu, và thái độ của Ngài – tức là cách Ngài ứng xử trước quyền lực, chế độ cai trị, và các nhóm chính trị – tôn giáo thời bấy giờ. Bài này không tập trung trình bày theo sự kiện mà trình bày theo chủ đề đã mô tả ở Tập dẫn nhập và minh họa bằng sự kiện.
* Vì phải trích dẫn nhiều đoạn Kinh thánh, khá dài, nên chia ra thành các tập nhỏ

Tập 3.1. Chủ trương tách biệt, phân định ranh giới giữa chính trị và tôn giáo

Sự kiện: Câu hỏi về đồng tiền César 
image.png
Đây là 1 một sự kiện nổi tiếng mang ý nghĩa chính trị rõ rệt được ghi lại ở 3 sách Phúc âm Nhất Lãm: Mt (22:15–22), Mác-cô (12:17), và Lu-ca (20:25)
Tóm tắt: 
Người Pharisêu đưa cho Ngài coi 1 đồng tiền có khắc hình Cesar và gài bẫy: “Có được phép nộp thuế cho César không?” .
👉 Nếu nói “Không” = kích động và có thể bị lôi kéo theo các thành phần chống đế quốc Roma xâm lược. Sẽ bị chính quyền La Mã buộc tội xúi giục chống chính sách thuế, có thể bị tố cáo và bị bắt.
👉 Nếu nói “Có” = thể hiện sự thần phục theo Roma, bị căm ghét và mất sự ủng hộ dân.
Thái độ của Chúa Giêsu:
Người nói: “Cái gì của César thì trả cho César; của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa.”
Như vậy: 
👉 Ngài không chống Rôma. Ngài tách biệt giữa chính trị và tôn giáo.
👉 Ngài nhấn mạnh sự tách biệt giữa nghĩa vụ đối với chính quyền thế gian (đại diện bởi César, hoàng đế La Mã) và nghĩa vụ đối với Thiên Chúa. Nghĩa là, con người nên tuân thủ luật pháp và nghĩa vụ dân sự (như nộp thuế), nhưng đồng thời phải trung thành và tôn thờ Thiên Chúa ở mức độ cao hơn, thuộc về lĩnh vực tinh thần.
Lời dạy của Ngài cũng nhắc nhở:
👉 Phân biệt rõ ràng giữa những gì thuộc về vật chất/thế gian và những gì thuộc về tinh thần/thần thánh, khuyến khích trách nhiệm cá nhân trong cả hai lĩnh vực. 
👉 Khuyến khích tín hữu sống hòa hợp với xã hội, chấp nhận quyền lực thế gian miễn là không vi phạm nguyên tắc tôn giáo và không đánh mất giá trị tinh thần.

Câu nói này còn biện minh cho nguyên tắc "tách biệt giữa nhà nước và tôn giáo - giáo hội" (secularism) ở nhiều quốc gia hiện đại. 

Có thể nói Chúa Giêsu là cha đẻ, người sáng lập ra nguyên tắc secularism này. Nhân tiện ta hãy tìm hiểu thêm về khái niệm và lịch sử hình thành của học thuyết này (tóm tắt, chỉ liệt kê liên quan đến Kitô giáo) để thấy rõ thêm giá trị của lời Ngài dạy:

Secularism (Chủ nghĩa thế tục) là một nguyên tắc hoặc học thuyết tách biệt, phân lập các tổ chức nhà nước và các tổ chức tôn giáo khỏi nhau
Dựa theo 3 khía cạnh cốt lõi:
1. Nhà nước không được can thiệp vào hoạt động của tôn giáo (trừ khi các hoạt động đó vi phạm pháp luật hoặc xâm phạm quyền của người khác).
2. Tôn giáo không được can thiệp vào các quyết định hoặc chính sách của nhà nước.
3.  Nhà nước phải duy trì tính trung lập về mặt tôn giáo và đối xử với tất cả các nhóm tôn giáo và phi tôn giáo một cách công bằng. Không công nhận một tôn giáo chính thức, ưu tiên một tôn giáo này hơn tôn giáo khác, hoặc buộc người dân phải tuân theo bất kỳ tôn giáo nào.

Đây là học thuyết chống lại và chấm dứt chế độ thần quyền (theocracy) thực tế ở châu Âu thời Trung cổ: Giáo hội không chỉ cai quản linh hồn mà còn cai quản cả thân xác, tài sản, luật pháp, và vương quyền. Do vậy sau này mới có tên là "chủ nghĩa thế tục"

Tuy nhiên, ngược lại với lời dạy của Chúa Giêsu, lịch sử đã diễn biến như sau:
1. Kitô giáo bước ra ánh sáng
Sau thời kỳ bị cấm đoán, bắt bớ và tàn sát phải sinh hoạt bí mật trong hầm mộ. Kitô giáo đã bước ra ánh sáng và hoạt động công khai nhờ vào sự công nhận hợp pháp và ủng hộ của Hoàng đế Constantine Đại đế (Constantine I, trị vì 306–337 SCN) qua Chiếu Chỉ Milan (313 SCN). Đây là sự chuyển đổi từ "Tôn giáo bị cấm" thành "Lực lượng nòng cốt" trong xã hội La Mã.

2. Thời kỳ chính quyền La Mã chi phối Giáo hội
Tuy nhiên, đây là thời chính quyền La Mã can thiệp vào các tranh chấp thần học nội bộ của Kitô giáo, nổi b
ật nhất là việc triệu tập Công đồng Nicea I (Nicaea) vào năm 325 SCN để giải quyết lạc giáo Arian và còn can thiệp sâu đáng kể vào các Công đồng khác sau Nicea I còn được gọi là Công đồng Đại kết:

Công đồngNămLý do Thần họcVai trò Chính quyền La Mã
Nicêa I325Lên án lạc giáo Arian (về Thần tính của Chúa Giêsu).Hoàng đế Constantine I triệu tập, chủ trì và hỗ trợ hậu cần toàn diện.
Constantinopolis I381Khẳng định Thần tính của Chúa Thánh Thần.Triệu tập dưới thời Hoàng đế Theodosius I, người đã chính thức đưa Kitô giáo thành Quốc giáo.
Êphêsô431Tranh cãi Nestorius (về thiên tính và nhân tính của Chúa Giêsu).Hoàng đế Theodosius II triệu tập để cố gắng giải quyết tranh chấp.
Chalcedon451Giải quyết vấn đề Monophysitism (Đơn tính thuyết).Hoàng đế Marcian triệu tập Công đồng để khôi phục sự thống nhất sau Công đồng Êphêsô thứ hai gây chia rẽ.
Constantinopolis II553Về "Ba Chương" (Three Chapters).Hoàng đế Justinian I (một nhà thần học có ảnh hưởng) triệu tập và giám sát để thống nhất Đế quốc.
Constantinopolis III680–681Giải quyết Monothelitism (Đơn ý thuyết).Triệu tập dưới sự giám sát của Hoàng đế Constantine IV.
Nicêa II787Giải quyết cuộc khủng hoảng Phá Hủy Ảnh Thánh (Iconoclasm).Được Nữ hoàng Irene ( nhiếp chính) triệu tập dưới sự hỗ trợ của Giáo hoàng.

3. Học thuyết 2 thanh gươm của St. Thomas Aquinas
image.png
Sau Chúa Giêsu, một nhà thần học và triết học có nhiều ảnh hưởng trong truyền thống chủ nghĩa kinh viện là Thánh Thomas Aquinas đã  phân biệt rõ “quyền lực tinh thần” (Giáo hội) và “quyền lực trần thế” (vua chúa). Đây là tiền đề lý thuyết sớm nhất sau câu nói của Chúa Giêsu nói trên. Học thuyết này đi ngược lại quan điểm trước đó của Giáo hội (vào thế kỷ 5–12) là Giáo hội luôn khẳng định quyền “trực tiếp” trên cả chính trị
* Học thuyết “hai thanh gươm” (doctrine of the two swords) của Thomas Aquinas: Chúa trao thanh gươm tinh thần cho Phêrô (Giáo hội), còn thanh gươm trần thế thì trao qua trật tự tự nhiên cho các vua chúa → vua có quyền tự trị thật sự trong phạm vi của mình.
* Nguyên văn quan trọng nhất: “Quyền lực tinh thần và quyền lực trần thế đều do quyền lực Thiên Chúa mà có. Vì thế quyền lực trần thế chỉ phục tùng quyền lực tinh thần trong những gì Chúa đã xếp đặt như vậy, tức là trong những gì thuộc về phần rỗi linh hồn. Trong những việc ấy, nếu người nắm quyền tinh thần sai lầm thì phải vâng phục hơn là người nắm quyền trần thế. Ngược lại, trong những việc thuộc công ích trần thế thì phải vâng phục quyền lực trần thế hơn, theo lời Chúa: "Cái gì của César hãy trả cho César…’”

4. Kitô giáo được coi quốc giáo của đế quốc La Mã
Năm 380 SCN, khoảng 43 năm sau khi Constantine qua đời. Hoàng đế: Theodosius I đã ban hành Chiếu chỉ Thessalonica (380 SCN)  tuyên bố Kitô giáo là Quốc giáo chính thức của Đế quốc La Mã, và mọi người dân đều phải theo. Các tôn giáo và giáo phái khác bị cấm hoặc bị hạn chế. 
Đây là tiền đề và cơ hội để Kitô giáo mở rộng tầm ảnh hưởng vượt biên giới sau này.

5. Sự chi phối thế tục ở thời Trung cổ (thế kỷ 5 – 15)
image.png
Sau khi được công nhận là quốc giáo, Công giáo bắt đầu mở rộng chi phối đời sống thế tục và quyền lãnh đạo ở các quốc gia khác. Giáo hội Công giáo La Mã đã chi phối đời sống thế tục (xã hội, chính trị, kinh tế và văn hóa) ở Tây Âu một cách sâu rộng trong khoảng thời gian từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 15 (thời kỳ Trung Cổ).

Lĩnh vựcQuyền lực thực tế của Giáo hội
Chính trịGiáo hoàng phong vương, phế truất vua (ví dụ: Giáo hoàng Grêgôriô VII bắt Hoàng đế Heinrich IV quỳ 3 ngày ở Canossa năm 1077).
Quân sựPhát động Thập tự chinh, Tòa án Dị giáo (Inquisition), bán “ân xá” để lấy tiền đánh trận.
Kinh tếSở hữu 1/3 – 1/2 đất đai ở Tây Âu, thu thuế thập phân (10% thu nhập dân chúng).
Tư phápTòa án giáo hội xét xử cả người thường (vụ Galileo 1633 là ví dụ điển hình).
Giáo dục & văn hóaĐại học do Giáo hội lập, kiểm duyệt sách vở, cấm dịch và đọc Kinh Thánh bản địa ngữ.
Đời sống cá nhânQuy định hôn nhân, ly dị, ăn chay, ngày lễ, thậm chí cả chuyện quan hệ vợ chồng.

Đó chính là chế độ thần quyền (theocracy) thực tế ở châu Âu thời Trung cổ: Giáo hội không chỉ cai quản linh hồn mà còn cai quản cả thân xác, tài sản, luật pháp, và vương quyền.

Hình ảnh tiêu biểu của chế độ thần quyền ở thời kỳ này là câu chuyện Canossa (năm 1077): Hoàng đế La Mã Thần thánh Henry IV phải đứng bên ngoài cổng lâu đài trong 3 ngày, ăn mặc như một người sám hối (mặc bao bố và đi chân trần trên tuyết), để cầu xin sự tha thứ của Đức Giáo Hoàng.

image.png

6. Secularism ra đời chính là để chấm dứt tình trạng đó

image.png


Giai đoạnNguyên nhân trực tiếp dẫn đến secularismKết quả
Thế kỷ 14–15Giáo hội chia rẽ (Đại ly giáo Đông-Tây 1054, rồi Đại ly giáo Tây phương 1378–1417), tham nhũng, bán ân xá → mất uy tín trầm trọng.Phong trào Phục hưng nhân văn bắt đầu đề cao lý trí con người hơn thần quyền.
1517–1555Cải cách Tin Lành (Martin Luther, Calvin) tấn công quyền lực Giáo hoàng và đòi tách nhà nước khỏi Giáo hội Công giáo.Nhiều nước Bắc Âu trở thành Tin Lành, quốc vương nắm quyền tôn giáo (Anglican ở Anh, Lutheran ở Đức, Bắc Âu).
1618–1648Chiến tranh Ba Mươi Năm: Công giáo đánh Tin Lành, giết chết 1/3 dân số Đức → mọi người kinh hãi.Hòa ước Westphalia 1648: lần đầu công nhận quyền tự do tôn giáo cá nhân và chủ quyền quốc gia vượt trên Giáo hoàng.
Thế kỷ 18 (Khai sáng)Voltaire, Diderot, Rousseau chỉ trích Giáo hội kìm hãm khoa học, tự do tư tưởng.Ý tưởng “nhà nước phải trung lập tôn giáo” trở thành tư tưởng chủ đạo.
1789–1905Cách mạng Pháp và Luật 1905 tước bỏ hoàn toàn đặc quyền chính trị, kinh tế của Giáo hội.Mô hình secularism cứng (Laïcité) ra đời.
 
MS

Mikali Nguyễn

unread,
Nov 18, 2025, 6:34:59 PM (13 days ago) Nov 18
to Alphons...@googlegroups.com, Giaitri...@googlegroups.com
3.2. Khẳng định vương quốc của Ngài không ở thế gian này
image.png
* Tập này bổ sung cho cho Tập 3.1 về đồng tiền Cesar, mang ý nghĩa tách biệt giữa chính trị và tôn giáo. Nhưng có khác: ở tập 3.1, Ngài trả lời với tư cách là người dân của xứ Palestine đang bị đế quốc La Mã đô hộ, còn ở Tập này tuy Ngài bộc lộ là đấng Kitô, con Thiên chúa nhưng không phải là đấng Messiah theo cách hiểu của người Do Thái.
Đây là các sự kiện trong Kinh Thánh nói rõ Ngài tuyên bố mạnh mẽ:
👉 Ngài không phải  Messiah, nhà lãnh đạo chính trị–quân sự như người Do Thái mong đợi 
👉 Từ chối làm vua trần thế trước sự ủng hộ của dân chúng. 
👉 Vương quốc của Ngài là ở nước trời, không thuộc thế gian này.
- Yoan 6,15“Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt Ngài để tôn làm vua, thì Ngài lại lánh đi lên núi một mình.”  
- Yoan 18,36: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu…Nhưng Nước tôi không thuộc chốn này.” 
Mc 14,61–62 — trước Thượng Hội đồng
Thượng tế hỏi thẳng: “Ông có phải là Đấng Kitô, Con Đấng Đáng Chúc Tụng không?”
Chúa Giêsu đáp: “Phải, chính Ta đây.”

3.3. Không phân biệt đối xử hay kỳ thị với tội nhân, những viên chức làm việc hay hợp tác với nhà cầm quyền

Đối với những người bị dân Do Thái thời đó coi là “kẻ phản bội”, “tội nhân” và thường bị khinh bỉ nặng nề, Ngài đối xử với họ bằng tình thương, tôn trọng nhân phẩm và thậm chí còn chủ động tiếp cận họ.
1. Người thu thuế Lêvi (Mathew) – một viên chức thuế cao cấp của La Mã
image.png
Matt 9:9-13; Mác 2:13-14; Luca 5:27-28: “Khi Đức Chúa Jêsus ra khỏi nơi đó, Ngài thấy một người tên là Mathew ngồi tại trạm thu thuế, thì phán cùng người rằng: Hãy theo ta! Người liền đứng dậy mà theo Ngài.” 
👉 Matthew t
rực tiếp làm việc cho vua Hêrốt Antia (vua bù nhìn của La Mã) và cuối cùng là cho Hoàng đế La Mã (vì thuế quan là nguồn thu chính của La Mã), là người thuộc tầng lớp bị dân Do Thái ghét cay ghét đắng. Nhưng Chúa Giêsu đã chủ động gọi ông làm môn đồ, và ngay sau đó còn đến nhà ông ăn uống với rất nhiều người thu thuế và tội nhân khác 

2. Ăn uống với người thu thuế và tội nhân
Matt 9:11-13; Mác 2:15-17; Luca 5:29-32: “Khi người Pharisêu thấy vậy thì nói với môn đồ Ngài rằng: Tại sao thầy các ngươi ăn chung với người thâu thuế và kẻ có tội như vậy? Đức Chúa Jêsus nghe điều đó thì phán rằng: …Ta đến đây không phải để kêu kẻ công bình, song kêu kẻ có tội ăn năn.” 
👉 Ngài công khai bênh vực và bảo vệ họ trước sự chỉ trích của giới lãnh đạo tôn giáo.

3. Người đàn bà Samari tại giếng Gia-cốp – đại diện cho dân tộc bị kỳ thị chính trị và tôn giáo
image.png
Yoan 4:7-42: Chúa Giêsu chủ động nói chuyện, xin nước, và giảng Tin mừng cho một phụ nữ Samari – điều mà người Do Thái chính thống không bao giờ làm, vì coi họ dân Samari là “dơ dáy” và “phản bội” vì đã từng hợp tác với đế quốc ngoại bang trước đó.
* Người Samari bị người Do Thái chính thống ghét không chỉ vì khác biệt tôn giáo, mà chủ yếu vì họ bị coi là những kẻ đã nhiều lần “bán đứng dân tộc và đức tin để hợp tác với các đế quốc ngoại bang” trong lịch sử từ Asiri, Hy Lạp cho đến thời La Mã. Vì thế khi Chúa Giêsu chủ động nói chuyện, xin nước, và giảng Tin Mừng cho người phụ nữ Samari (Yoan 4), hành động đó bị các môn đồ và người Do Thái thời đó coi là cực kỳ gây sốc và gần như không thể chấp nhận được.

4. Viên sĩ quan La Mã (bách phu trưởng) ở Cabênaum – sĩ quan quân đội chiếm đóng
Matt 8:5-13; Lu-ca 7:1-10:  “Khi Đức Chúa Jêsus vừa vào thành Ca-bê-na-um, có một viên đại đội trưởng đến gần Ngài, nài xin rằng: … Đức Chúa Jêsus phán: Ta sẽ đến chữa cho. Viên đại đội trưởng thưa: … Thầy chỉ phán một lời thì đầy tớ tôi sẽ lành… Đức Chúa Jêsus nghe vậy thì lấy làm lạ, phán cùng những kẻ theo mình rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, ngay trong dân Y-sơ-ra-ên ta cũng chưa thấy đức tin lớn dường ấy… Rồi Ngài phán cùng viên đại đội trưởng rằng: Hãy về, theo như ngươi tin thì được thành vậy. Ngay giờ đó, đầy tớ được lành.” 
👉 Đây là một sĩ quan quân đội La Mã (kẻ chiếm đóng, thù địch với dân Do Thái), nhưng Chúa Giêsu khen ngợi đức tin của ông lớn hơn bất kỳ ai trong dân Y-sơ-ra-ên và chữa lành đầy tớ cho ông ngay lập tức.

5. Xachê – trưởng ban thu thuế (một trong những người giàu có và bị khinh bỉ nhất)
Lu-ca 19:1-10: “Có một người tên là Xachê, làm đầu bọn thâu thuế và là người giàu… Khi Đức Chúa Jêsus đến chỗ ấy, Ngài ngó lên và phán rằng: Hỡi Xachê, hãy xuống mau, vì hôm nay ta phải ở nhà ngươi… Xachê đứng đó thưa cùng Chúa rằng: … Nếu tôi có làm thiệt hại ai, tôi sẽ đền gấp tư… Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hôm nay sự cứu rỗi đã vào nhà nầy… Vì Con người đã đến tìm và cứu kẻ bị mất.” 
👉 Chúa Giêsu chủ động mời mình đến nhà một kẻ thu thuế giàu có nhất vùng – hành động gây sốc dư luận lúc bấy giờ.

6. Trên thập tự giá: lời cầu nguyện cho lính La Mã hành hình mình
Lu-ca 23:33-34: “Bấy giờ có hai tên cướp bị đóng đinh với Ngài… Những lính canh cũng nhạo báng Ngài… Nhưng Đức Chúa Jêsus cầu rằng: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì.” 
👉 Những người lính này chính là lính La Mã, đại diện cho đế quốc đang hành quyết Ngài, nhưng Ngài vẫn cầu xin ơn tha thứ cho họ.

Kết luận từ chính lời Chúa Giêsu:
“Ta không đến để kêu kẻ công bình, nhưng kêu kẻ có tội” (Mác 2:17) “Con người đã đến tìm và cứu kẻ bị mất” (Luca 19:10)
Chúa Giêsu hoàn toàn không kỳ thị người làm việc cho nhà cầm quyền La Mã hay những người bị xã hội Do Thái coi là “phản quốc”, “dơ dáy”. Trái lại, Ngài chủ động tiếp cận, ăn uống, chữa lành, gọi làm môn đồ và chết thay cho chính họ – thể hiện tình yêu thương không phân biệt chính trị, dân tộc hay nghề nghiệp.

Điều đáng thú vị là trong 12 tông đồ chính thức, có 2 người có dính líu đến chính trị và chính quyền ở hai phía đối lập:
Mathiơtừng là viên chức thuế của La Mã
Si-môn Zealot: tình nghi từng là thành viên phong trào vũ trang chống La Mã
Chúa Giêsu cố ý chọn họ để cho thấy: Không có ai – dù làm việc cho chính quyền hay chống chính quyền – bị loại trừ khỏi lời mời gọi của Ngài.
Ngoài 12 tông đồ, còn có những người khác gần gũi với Chúa Giêsu cũng làm việc cho chính quyền:
Giôsép người Arimathê: Thành viên Thượng hội đồng (Sanhedrin – cơ quan lập pháp và tư pháp cao nhất Do Thái, hợp tác với La Mã), nhưng là môn đồ bí mật của Chúa Giêsu (Yoan 19:38).
Nicôđem: Cũng là thành viên Thượng hội đồng, đến gặp Chúa Giêsu ban đêm (Yoan 3), sau giúp an táng Ngài.

MS

Mikali Nguyễn

unread,
Nov 20, 2025, 6:31:12 PM (11 days ago) Nov 20
to Alphons...@googlegroups.com, Giaitri...@googlegroups.com
3.4 Không lợi dụng các đồ đệ và sự ủng hộ của dân chúng để thành lập đảng phái chính trị, mưu đồ chống chính quyền
image.png

Chúa Giêsu rõ ràng là người có uy tín, có sức thu hút lớn trong dân chúng. Cộng với niềm tin của các môn đồ và người Do Thái rằng Ngài là đấng Messiah do Thiên Chúa phái đến để giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, xâm lược. Ngài hoàn toàn có thể lợi dụng sự
 mong đợi này và sử dụng lực lượng hậu thuẫn mình để làm chuyện đó, nhưng thực tế lịch sử cho thấy như sau:

1. Các môn đệ
👉 Phúc âm cho biết Ngài có 12 môn đồ. 
Trong đó ít nhất có 2 môn đồ được vũ trang bằng gươm là Phêrô và 1 người nữa không rõ tên:
Luca 22,35-38: Chúa Giêsu nói với các môn đệ: " ... Bây giờ thì ai có túi tiền thì hãy mang theo, ai có bao bị cũng vậy. Còn ai không có gươm thì bán áo ngoài mà mua gươm lấy...". Các ông thưa: "Thưa Thầy, đây đã có hai thanh gươm rồi!". Ngài bảo: "Đủ rồi!"
Gioan 18,10: Ông Simon Phêrô đã rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế tên là Malchus
Ngoài ra, Simon Nhiệt Thành có thể có quá khứ gắn với phong trào đấu tranh vũ trang Zealot.
👉 Ngoài nhóm 12, Phúc Âm nhắc đến: 72 môn đệ được Chúa sai đi rao giảng (Luca 10:1).
Như trên, có lần Ngài bảo các môn đệ này "hãy mua gươm và mang theo gươm" nhưng không nhằm cổ vũ chiến đấu mà chỉ là để tự vệ trên đường dài (chống thú dữ, kẻ cướp). Ngài không cho phép dùng vũ lực: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì ai dùng gươm sẽ chết vì gươm.” (Mt 26:52)  
Các môn đồ của Chúa Giêsu có thể trở thành lực lượng nòng cốt để lợi dụng mưu đồ chuyện chính trị. Nhưng Ngài đã không làm thế.

2. Sự ủng hộ của dân chúng
Các học giả Kinh Thánh thống kê được khoảng 15–20 lần Tin Mừng trực tiếp mô tả rõ ràng rằng Ngài được đám đông dân chúng vì tò mò hay ngưỡng mộ mà đi theo: "đám đông đi theo Người”, “quần chúng tụ họp đông đảo”, “dân chúng vây quanh”, “nhiều người từ các miền kéo đến”...
image.png

Trong đó có 2 lần Ngài được đám đông ủng hộ và chào đón có mang sắc thái chính trị
👉 Sự kiện muốn tôn vinh khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều: 
Đức Giêsu biết rõ được là họ sắp đến bắt lấy Ngài để tôn làm vua, nhưng Ngài lại tránh và rút lui trên núi một mình (Ga 6,14–15)
👉 Sự kiện long trọng chào đón Chúa vào thành Giêrusalem
image.png

Đây là 1 sự kiện quan trọng trong Kinh Thánh mà sau này được tổ chức kỷ niệm thành ngày lễ Lá. Sự kiện này diễn ra vào ngày 10 tháng Nisan lịch Do Thái khi Chúa Giêsu muốn ăn mừng Lễ Vượt Qua tại Jerusalem nên đã vào Thành. Các sách Phúc âm đều ghi lại sự kiện này ở Matthêu 21:1-11, Máccô 11:1-11, Luca 19:28-44, Yoan 12:12-19.

Tóm tắt sự kiện này như sau:
- Ngài vào thành Jerusalem bằng cách cưỡi 1 con lừa nhỏ và dặn các môn đệ không tiết lộ gì việc Ngài vào Thành.
- Trên đường đi vào Thành có dân chúng  rất đông đảo. Nhiều người cầm nhành lá vạn tuế ra đón Ngài, nhiều người trải áo choàng của họ trên đường vào Thành; nhóm khác rải hoa lá hoặc nhánh cây đã chặt ngoài đồng.
- Tất cả đều tung hô Chúc muôn lành cho Nước sẽ đến của Ðavit, Hosanna cho Con Ðavít! Muôn chúc lành cho Ðấng nhân danh Chúa mà đến, Ngài là vua Israel!...
- Khi Ngài vào Giêrusalem, thì tất cả thành chấn động mà rằng: "Ngài là ai?" Dân chúng đáp lại: "Ngài là tiên tri Giêsu, người Nazareth, xứ Galilê".
- Biệt phái mới bảo nhau: "Các ông thấy, các ông chẳng đi đến đâu! Kìa, cả thế gian đã đi theo ông ấy!"
- Khi chứng kiến cảnh tượng như vậy, Chúa Giêsu không tỏ thái độ hay nói lời nào. Ngài đi ra Bêthania với nhóm mười hai.
Trong sự kiện này, Ngài tỏ ra rất khiêm tốn (cưỡi con lừa nhỏ thay vì cưỡi ngựa để khỏi hiểu lầm là chiến mã), không muốn ai biết chào đón và cuối cùng im lặng và lánh mặt.

Cần nhắc lại, trong lịch sử Do Thái, có các nhân vật nổi tiếng sau đây, ngoài Chúa Giêsu, được chào đón khi vào thánh Jerusalem:
- Vua Đa-vít nhập Thành sau khi tái chiếm Giê-ru-sa-lem từ tay dân Giê-bu-sít vào khoảng năm 1000 TCN
- Salômôn (con vua David) cưỡi lừa con vào thành Giê-ru-sa-lem để lên ngôi vua (1 Các Vua 1:28-40) vào khoảng năm 970 TCN
- Simon Maccabeus giải phóng Giê-ru-sa-lem năm 141 TCN, được dân chúng chào đón long trọng, rước vào thành (1 Mác-ca-bê 13:49-53)
- Thầy tế lễ E-xơ-ra (Ezra the Scribe) được chào đón long trọng khi dẫn đoàn dân Do Thái trở về Giê-ru-sa-lem vào năm 458 TCN
Nhưng mức độ được chào đón long trọng nhất là sự kiện Chúa Giêsu nhập thành Jerusalem nói trên.

Hai sự kiện trên chính là cơ hội thuận lợi để Chúa Giêsu lợi dụng mưu đồ chuyện chính trị. Nhưng lịch sử đã không xảy ra như thế.

Hầu hết các môn đồ và đám đông dân chúng thời Chúa Giêsu tin chắc rằng Ngài sẽ làm Vua trần thế và chính là Đấng Messiah chính trị – nghĩa là một vị vua mạnh mẽ kiểu vua Đa-vít ngày xưa, sẽ dùng quyền năng và lãnh đạo quân sự để đánh đuổi quân La Mã ra khỏi đất nước, tái lập vương quốc Israel hùng mạnh, ngồi trên ngai tại Giêrusalem. 
Chỉ sau Lễ Ngũ Tuần (Công vụ 2), khi nhận Thánh Linh, các môn đồ mới hiểu đúng rằng Vương quốc của Ngài là vương quốc tinh thần, công bình và yêu thương, không dùng gươm giáo mà dùng thập giá và sự sống lại để chiến thắng.

MS
Message has been deleted

Mikali Nguyễn

unread,
Nov 22, 2025, 7:39:55 PM (8 days ago) Nov 22
to Alphons...@googlegroups.com, Giaitri...@googlegroups.com
3.5. Từ chối sự cám dỗ về quyền lực thế gian 
image.png

Sự kiện này được ghi nhận tại Mtt: 4:8-10, Luc 4:5-8 như sau:
Ma quỷ đem Ngài lên cao, và trong nháy mắt, nó chỉ cho Ngài thấy hết các nước thiên hạ; và ma quỷ nói với Ngài: "Tôi hiến cho Ngài uy quyền đó hết thảy và vinh quang của các nước ấy, vì nó đã được phó thác cho tôi, và tôi muốn hiến cho ai tùy ý tôi; vậy nếu Ngài bái xuống lạy tôi, thì nó sẽ là của Ngài tất cả".  Và đáp lại, Ðức Yêsu bảo nó: "Ðã viết: Người phải bái lạy Chúa, Thiên Chúa của ngươi, và chỉ thờ phượng một mình Người".

Đây là cám dỗ về quyền lực chính trị không chỉ ở phạm vi đất nước Israel mà còn bao trùm trên cả toàn cầu: các đế quốc, thành quách, cung điện, quân đội, vàng bạc, quyền lực tối cao… Đây được coi là cám dỗ lớn nhất so với các cám dỗ khác (hóa đá thành bánh nhảy từ nóc đền thờ chỉ liên quan đến nhu cầu cá nhân hoặc danh tiếng tôn giáo).

Nếu Chúa Giêsu chấp nhận thì hệ quả sẽ là:
👉 Ngài sẽ trở thành một vị vua trần thế còn mạnh mẽ hơn cả dân Do Thái mong đợi (Messiah).
👉 Sẽ không có sự chết thay trên thập tự giá và không có sự cứu chuộc tội lỗi.
👉 Nhân loại vẫn còn trong tội lỗi và sự chết.
👉 
Satan vẫn là “vua của thế gian này” (Yoan 12:31).

Nhưng Ngài từ chối và trích Kinh Thánh để trả lời : "Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi". 
Đây là lời từ chối tuyệt đối, không thương lượng. 

Điều này cho thấy Ngài ưu tiên nhắm vào vương quốc tinh thần hơn quyền lực trần thế.  Chính sự từ chối quyết liệt này ở Mtt 4:8-10 đã định hình toàn bộ sứ mệnh của Ngài: Không phải Vua bằng gươm, mà là Vua bằng thập tự giá.

MS


Mikali Nguyễn

unread,
Nov 23, 2025, 6:41:50 PM (8 days ago) Nov 23
to Alphons...@googlegroups.com, Giaitri...@googlegroups.com
3.6. Thái độ đối với vua bù nhìn Herod và đối với nhà cầm quyền La Mã 
image.png

1. Thái độ đối với vua bù nhìn Herod Antipa
Herod Antipa, con trai Herod Đại Đế, đang là vua bù nhìn (tiểu vương chư hầu) của đế quốc La Mã đang cai trị vùng Galilê, là vùng cư trú và là trung tâm hoạt động rao giảng của Chúa Giêsu trong phần lớn sứ vụ công khai. 

Ngài thể hiện thái độ chính trị rõ ràng với Herod Antipa qua 2 sự kiện chính:
1. Chỉ trích vua Herod:
Luca 13:31-33: Cũng vào giờ ấy, có ít người Biệt phái đến gặp Ngài mà nói: "Ông hãy ra đi khỏi nơi đây vì Hêrôđê muốn giết ông". Và Ngài bảo họ: "Các ông hãy đi nói với con cáo đó: Này! Ta trừ quỷ và xong xuôi các việc chữa lành hôm nay và ngày mai; và ngày thứ ba là Ta được chu toàn. Song hôm nay và ngày mai, cùng ngày mốt, Ta phải ra đi vì không lẽ một tiên tri lại chết ngoài Jerusalem".  

2. Im lặng tuyệt đối khi bị Herod thẩm vấn
Lu-ca 23:8-9: Khi bị giải nộp cho Philatô, 
Philatô lại đẩy sang Herod Antipa (vì Chúa Giêsu là người Galilê). “Herod thấy Đức Chúa Jêsus thì mừng rỡ lắm… ông hỏi Ngài nhiều lời, nhưng Ngài chẳng trả lời ông câu nào.”

Đây là lời chỉ trích công khai mạnh mẽ nhất (con cáo) và sự khinh miệt (không thèm trả lời một lời khi bị thẩm vấn), là thái độ cực kỳ xúc phạm đối với một ông vua đang nắm quyền sinh sát. Không một người Do Thái bình thường nào làm như vậy.

Điều đó cho thấy:
👉 Chúa Giêsu không hề sợ hãi, không nể nang, không khoan nhượng và thậm chí còn 
khinh bỉ công khai với Herod Antipa
👉 Ngài đã bộc lộ quan điểm chính trị bằng lời nói phê phán công khai mạnh nhất và là thái độ cứng rắn nhất mà Chúa Giêsu từng dành cho bất kỳ nhà cầm quyền nào trong suốt chức vụ của Ngài. Nhưng Ngài phê phán bằng 1 từ ngắn gọn (con cáo), chỉ xuất hiện một lần duy nhất, và không kêu gọi cổ vũ chống đối và dùng bạo lực vũ trang

Đó cũng chính là bài học sâu sắc nhất về phê phán chính quyền mà Chúa Giêsu để lại cho mọi thế hệ môn đồ sau này:
👉 Không công nhận quyền lực xuất phát từ sự ác. Phê phán chính quyền làm sai là bổn phận của người công dân.
👉 Phê phán phải dựa trên sự thật và công lý, không dựa trên tham vọng cá nhân hay đảng phái.
👉 Phê phán công khai, không sợ hãi, không né tránh nhưng không chửi bới và phải mô tả đúng bản chất, không vu khống và phóng đại.
👉 Phê phán không kêu gọi bạo lực. Không nhân danh tôn giáo để hô hào nổi dậy, không tổ chức biểu tình đập phá. Vũ khí duy nhất là lời chân lý sắc bén và sự bất khuất cá nhân.

2. Thái độ đối với nhà cầm quyền Rôma
👉 Chúa Giêsu không theo, không ủng hộ, cũng không chống Rôma. Không có đoạn Kinh Thánh nào nói ngược lại.
👉 Ngài đặt chính trị trần thế “đúng vị trí” và chỉ rao giảng về một Vương quốc nước trời, không bị giới hạn bởi bạo lực hoặc quyền lực thế gian.  
👉 Ngài không phản bác việc thực hiện nghĩa vụ của công dân, của người Do Thái là nộp thuế cho nhà cầm quyền và cho Đền thờ.
Ngoài đoạn ở Mt 22,21: "Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa", còn có đoạn Mt 17, 27: con hãy ra biển, thả câu; con sẽ bắt được một con cá. Hãy mở miệng nó ra, sẽ thấy một đồng tiền. Hãy lấy mà nộp thuế cho Ta và cho con.”

Tóm tắt thái độ của Chúa Giêsu đối với Roma
Chủ đềNội dung tóm tắtTrích Kinh Thánh
1. Không chủ trương chống RômaGiêsu từ chối vai trò Mêsia chính trị – quân sự; không lãnh đạo nổi dậy.Ga 18,36
2. Tránh bị hiểu là thủ lĩnh chính trịKhi dân muốn tôn làm vua, Ngài rút lui.Ga 6,15
3. Tôn trọng quyền dân sự“Trả cho Xêda những gì thuộc về Xêda.” Thừa nhận thẩm quyền hợp pháp của nhà nước.Mt 22,21
4. Không xem người Rôma là kẻ thù tôn giáoChữa đầy tớ của sĩ quan Rôma và khen đức tin của ông.Mt 8,5–13
5. Bác bỏ bạo lực chống RômaQuở trách Phêrô khi dùng gươm: “Ai dùng gươm sẽ chết vì gươm.”Mt 26,52
6. Không kích động quần chúng gây rốiLãnh đạo Do Thái lo Ngài có thể gây loạn nhưng thực tế Ngài không hướng theo đường ấy.Ga 11,48
7. Thái độ trước tổng trấn PhilatôBình thản, không công kích Rôma, nhìn quyền lực trần thế trong viễn tượng Thiên Chúa.Ga 19,11


Có lẽ vì nhận định Chúa Giêsu không phải là phần tử gây rối và kích động bạo loạn nên không hề thấy lính La mã xuất hiện để theo dõi, giám sát hay can thiệp khi Ngài đi rao giảng. Chế độ cầm quyền La Mã có mật thám nhưng không có bằng chứng họ theo dõi Chúa Giêsu trong thời rao giảng ở Galilê. Rôma không xem Giêsu là đối tượng nguy hiểm trong suốt 3 năm rao giảng.

MS

Mikali Nguyễn

unread,
Nov 25, 2025, 8:21:36 PM (5 days ago) Nov 25
to Alphons...@googlegroups.com, Giaitri...@googlegroups.com
3.7. Sự kiện trục xuất đánh vào "lợi ích nhóm" của lãnh đạo tôn giáo
image.png

Đây là sự kiện Chúa Giêsu nổi giận và trục xuất những kẻ đổi tiền và bán động vật khỏi đền thờ (thường gọi là “thanh tẩy Đền Thờ”) ghi lại ở trong cả bốn sách Tin Mừng (Mt 21,12-13; Mc 11,15-18; Lc 19,45-48 và đặc biệt Gioan 2,13-22).

Tóm tắt sự kiện trục xuất:
- Chúa Giêsu đến đền thờ ở Giêrusalem và thấy có nhiều người đổi tiền và bán động vật trong khuôn viên đền.
- Ngài tức giận vì họ biến đền thờ thành nơi buôn bán, thay vì là nơi thờ phượng Thiên Chúa.
- Chúa Giêsu đã lật đổ bàn ghế của những kẻ đổi tiền, đuổi họ ra khỏi đền thờ, và giải thoát những con bò, con chiên khỏi nơi buôn bán.
- Ngài tuyên bố rằng đền thờ là nhà Cha Ngài, và không phải là nơi để buôn bán.
Sự kiện này xảy ra 1 ngày sau khi Ngài vào Thành Giêrusalem, tức là vào ngày 11 tháng Nisan.

Việc Chúa Giêsu nổi giận trục xuất những kẻ đổi tiền và bán động vật có nhiều cách lý giải mang tính chất thuần túy về tôn giáo:
- Phẫn nộ trước hành động làm ô uế đền thờ: Chúa Giêsu coi việc buôn bán trong đền thờ là một hành động xúc phạm đến Thiên Chúa và làm ô uế nơi thánh.
Mong muốn bảo vệ sự thánh khiết của đền thờ: Đền thờ là nơi dành riêng cho việc thờ phượng Thiên Chúa, và Chúa Giêsu muốn bảo vệ sự thánh khiết của nơi này.
Lời kêu gọi quay trở lại với Thiên Chúa: Hành động của Chúa Giêsu là lời kêu gọi người dân Do Thái quay trở lại với Thiên Chúa và thờ phượng Ngài một cách chân thành...
Đây có thể là điều mà Chúa Giêsu muốn nhắm tới. 

Tuy nhiên đối với lãnh đạo tôn giáo, đây là sự kiện này mang một chiều kích chính trị rất mạnh, dù không phải theo nghĩa “cách mạng vũ trang” hay “lật đổ đế quốc Rôma”. 
Dưới đây là phân tích cụ thể để thấy rõ ý nghĩa chính trị của hành động này:

1. Bối cảnh chính trị - tôn giáo thời đó
Đền Thờ Giêrusalem không chỉ là trung tâm tôn giáo mà còn là trung tâm quyền lực chính trị - kinh tế của Do Thái giáo lúc bấy giờ. 
Việc đổi tiền và buôn bán động vật để hiến tế ở Đền thờ là lợi ích và nguồn lợi khổng lồ của:
👉 Hội đồng Công tọa (Sanhedrin) và đặc biệt gia tộc thượng tế nhà Annas (Anna) – Caipha, vốn thuộc dòng Sadducees (Sadoc), là những người trực tiếp hưởng lợi rất lớn từ việc đổi tiền và buôn bán súc vật hiến tế trong Đền Thờ Giêrusalem. Đây là một trong những nguồn thu nhập khổng lồ và là nền tảng quyền lực kinh tế của họ.
👉 Sadducees là nhóm quý tộc tư tế nắm quyền kiểm soát và hưởng lợi chính từ Đền Thờ Giêrusalem”.
Như vậy, Chúa Giêsu tấn công trực tiếp vào hệ thống kinh tài của giới lãnh đạo Đền Thờ, tức là tấn công vào quyền lực (ngày nay gọi là "lợi ích nhóm")là hành động “đụng vào tim đen” của họ
👉 Ngoài giới lãnh đạo chóp bu của Do Thái, việc này còn cản trở nguồn thu nhập của những người đổi tiền, người buôn bán động vật.

2. Hành động mang tính biểu tượng chính trị mạnh mẽ
👉 Chúa Giêsu trích dẫn hai tiên tri:
Is 56,7: “Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân”
Gr 7,11: “Các ngươi biến nhà này thành hang trộm cướp”
Đặc biệt trong Gioan 2,16: “Đừng biến nhà Cha Ta thành chợ búa!” (hoặc “chỗ buôn bán”).
👉 Hành động lật bàn đổi tiền, đuổi chiên bò ra khỏi Đền Thờ là một hành vi công khai thách thức quyền kiểm soát Đền Thờ của giới thượng tế và hệ thống hợp tác với Rôma.
Đây là một hành động mang tính chính trị - tôn giáo, tương tự như các ngôn sứ xưa (như Giêrêmia, Isaia) dùng hành động biểu tượng để tố cáo sự bất trung của dân và lãnh đạo.

3. Phản ứng của giới lãnh đạo tôn giáo cho thấy họ hiểu rất rõ ý nghĩa chính trị
Mc 11,18: “Các thượng tế và kinh sư nghe thế thì tìm cách giết Người, vì họ sợ Người”.
Gioan 2,18-20: Người Do Thái đòi “dấu lạ” và Chúa Giêsu đáp: “Hãy phá Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại” → họ hiểu đây là lời tuyên bố thay thế hệ thống Đền Thờ hiện tại (và quyền lực của họ) bằng một Đền Thờ mới (Thân Thể Người, Giáo Hội).
Trong phiên xử trước Thượng Hội Đồng, lời cáo buộc chính là lời Chúa nói về Đền Thờ (Mc 14,58; Mt 26,61), và đây là một trong những lý do chính để kết án tử cho Người.

4. Ý nghĩa chính trị 
👉 Không phải là kêu gọi nổi dậy vũ trang chống Rôma mà là tố cáo sự thoả hiệp giữa giới lãnh đạo Do Thái với đế quốc Rôma, và sự biến chất của hệ thống thờ phượng.
👉 Chúa Giêsu công bố một Vương quốc mới (Vương quốc Thiên Chúa) không dựa trên Đền Thờ vật chất, không dựa trên quyền lực chính trị - tôn giáo cũ, mà dựa trên chính Người.

Kết luận
Sự kiện thanh tẩy Đền Thờ mang ý nghĩa chính trị rất rõ ràng:
👉 Là lời tuyên chiến công khai với hệ thống quyền lực tôn giáo đương thời (giới thượng tế + hệ thống kinh tài Đền Thờ).
👉 Là hành động tiên tri tố cáo sự bất trung của Israel và lãnh đạo.
👉 
Là tuyên bố thay thế trật tự Đền Thờ cũ bằng một trật tự mới (Thân Thể Chúa Kitô phục sinh).

Trước đây, khi đi rao giảng, Chúa Giêsu thường chỉ trích các nhóm Pharisêu, 
Sađốc; cộng với sự ủng hộ của dân chúng, họ ganh ghét và không ưa gì Ngài nhưng không làm gì khác. Nhưng sự kiện này đã như giọt nước làm tràn ly và là cái cớ để họ quyết tâm triệt hạ Ngài. Vì thế, đây chính là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc Chúa Giêsu bị bắt và bị giết – không chỉ vì lý do tôn giáo thuần tuý, mà vì Người đã đụng đến quyền lợi và quyền lực chính trị của giới cầm quyền Giêrusalem lúc ấy.

MS

Mikali Nguyễn

unread,
Nov 29, 2025, 8:22:08 AM (2 days ago) Nov 29
to Alphons...@googlegroups.com, Giaitri...@googlegroups.com
Tập 4. Họ có coi Chúa Giêsu là một nhân vật chính trị không? 
image.png

Sao khi đã tập trung phân tích về thái độ của Chúa Giêsu đối với các vấn đề có liên quan đến chính trị, ta bước qua nhiều kích ngược lại: chính quyền La Mã, chế độ chư hầu bù nhìn: Herod, giới lãnh đạo Do Thái chóp bu, các phe phái tôn giáo: Hội đồng Công tọa, Sađốc, Pharisêu và dân chúng Do Thái đã thấy Ngài qua lăng kính chính trị như thế nào? 

4.1. Giới cầm quyền Roma và vua bù nhìn Herod có thấy Ngài làm chính trị không?
image.png

Chính quyền Roma thời Chúa Giêsu không hề thấy Chúa Giêsu là một người “làm chính trị” theo nghĩa thông thường”. Họ chỉ bắt đầu lo ngại và cuối cùng kết án Ngài khi bị ép buộc phải nhìn Ngài dưới lăng kính chính trị – mà chính xác hơn là do người Do Thái lãnh đạo tôn giáo đẩy Ngài vào cái khung đó.

1. Hãy xem chính xác người Roma nghĩ gì, theo từng giai đoạn:
Giai đoạn đầu (trước khi bị bắt): 
Người Roma hầu như không biết hoặc không quan tâm
👉 Chúa Giêsu hoạt động chủ yếu ở Galilê, một vùng xa xôi, nghèo nàn, ít lính Roma đồn trú. Tổng trấn Philatô đóng ở Sêsarê ven biển, chỉ lên Giêrusalem vào các dịp lễ lớn để giữ trật tự.
👉 Các viên sĩ quan và binh lính Roma không ghi nhận bất kỳ hoạt động nổi loạn vũ trang nào từ nhóm của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu bị xung đột chủ yếu với: PharisiêuKinh sưThượng tếHội đồng Công nghị (Sanhedrin). Ngài không liên quan đến La Mã nên Rôma không can thiệp.
👉 Trong suốt thời gian Chúa Giêsu rao giảng (khoảng 3 năm), quân Rôma hầu như không theo dõi Ngài, không xuất hiện trong các sự kiện, và không can thiệp gì, ngoại trừ giai đoạn bắt giữ – xét xử – đóng đinh.

Lúc này, trong mắt người Roma, Ngài chỉ là một rabbi lang thang giảng đạo, chữa bệnh, có đông đảo dân chúng theo nghe – không khác gì hàng chục “tiên tri lang thang” khác thời đó. Đây là điểm rất quan trọng để hiểu tính phi–chính trị của sứ vụ Đức Giêsu.

Khi bị bắt và đưa ra xét xử: 
image.png
👉 Philatô thẩm vấn trực tiếp Chúa Giêsu (Ga 18,28–38; Lc 23,1–5). Câu hỏi then chốt của Philatô là: “Ông có phải là vua dân Do-thái không?”
Câu trả lời của Chúa Giêsu: “Nước Tôi không thuộc về thế gian này… Tôi đến thế gian này để làm chứng cho sự thật.”
Philatô kết luận ngay: “Ta không tìm thấy lý do nào để kết án người này” (Lc 23,4).
Ông còn nói với đám đông: “Ta xét thấy người này không có tội gì” (Ga 18,38; 19,4–6).
Philatô – một người Roma thực dụng, dày dạn kinh nghiệm đàn áp nổi loạn – không hề thấy Chúa Giêsu là kẻ làm chính trị hay đe dọa đế quốc Roma. Ông coi vụ việc chỉ là tranh chấp nội bộ tôn giáo Do Thái.

Tại sao cuối cùng Philatô vẫn kết án tử hình?
👉 Vì áp lực chính trị từ giới lãnh đạo Do Thái: 
“Hễ ông tha nó, ông không phải là bạn của Cesar! Ai tự xưng là vua thì chống lại Cesar!” (Ga 19,12).
Và họ hét lên: “Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Cesar!” (Ga 19,15).
👉 Họ cố tình đẩy Chúa Giêsu vào tội danh chính trị nguy hiểm nhất theo luật Roma: tự xưng làm vua mà không được Cesar công nhận (tội maiestas – phản nghịch đế quốc).
👉 Philatô sợ bị tố cáo với hoàng đế (lúc đó ông đã có tiếng xấu ở Roma), nên nhượng bộ. Và ông còn mỉa mai viết trên bảng treo trên thập giá:
“GIÊSU NADARÉT, VUA DÂN DO-THÁI” (INRI)
– vừa để chế giễu người Do Thái, vừa để cảnh cáo: “Đây là số phận của kẻ nào dám để dân chúng gọi mình là vua”.

Kết luận ngắn gọn
👉 Nhà cầm quyền La Mã không hề thấy Chúa Giêsu là người làm chính trị. Họ chỉ kết án Ngài vì bị ép phải nhìn Ngài qua lăng kính chính trị mà giới lãnh đạo Do Thái gán cho.
👉 Với người Roma, Ngài là một “nhà tiên tri bị dân chúng mê hoặc”, chứ không phải một nhà cách mạng, một lãnh tụ quân sự hay một ứng cử viên chính trị.
Nên ngay cả kẻ đóng đinh Ngài là viên sĩ quan người Roma cũng phải thốt lên:
“Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39) 
– chứ không phải “người này là một chính trị gia nguy hiểm”.

2. Herod Antipas  có coi Ngài là mối đe dọa chính trị thực sự ?
image.png
👉 Hêrôđê Antipa (vua chư hầu của Roma ở Galilê) rất nhạy cảm với phong trào chính trị. Ông ta từng bắt, giết Gioan Tẩy Giả và đàn áp nhiều nhóm quần chúng sợ gây rối.
Herod luôn cử người “theo dõi” Chúa Giêsu. Herod nhận báo cáo chi tiết về lời nói và hành động của Chúa. 
Trong Lc 9,7–9, Herod “nghe biết tất cả những gì Đức Giêsu đã làm”
👉 Mặc dù ông lo ngại Chúa Giêsu có thể là “một Gioan Tẩy Giả tái sinh” gây ảnh hưởng lớn và có khả năng tạo bất ổn. Tức Herod coi Ngài là một nhân vật tôn giáo nguy hiểm tiềm tàng, nhưng không phải một nhà chính trị theo nghĩa chống chính quyền
Herod không đặt Chúa Giêsu vào nhóm chính trị – chống La Mã
👉 Trong Tin Mừng, không có chỗ nào Herod: gọi Chúa Giêsu là kẻ phản loạn, cho rằng Ngài chống Rôma, hay đòi tiêu diệt Ngài vì lý do chính trị. Nếu Herod xem Chúa Giêsu là chính trị gia, ông đã bắt Ngài từ rất sớm, vì Galilê là lãnh địa của ông.
Nhưng ông không làm vậy.
Tại sao? Vì Chúa Giêsu không hề kích động chính trị:
- Không chống thuế Rôma,
- Không chống Herod,
- Không kêu gọi lập quân đội,
- Không mang khẩu hiệu phục quốc.
→ Herod không kết luận Ngài là chính trị gia.
Trong Lc 13,31, có chi tiết rất quan trọng: “Có mấy người Pharisêu đến thưa với Đức Giêsu rằng: Ông hãy đi khỏi đây, vì vua Hêrôđê đang muốn giết ông.” Nhưng có lẽ đây là báo trước một âm mưu? Người Pharisêu báo tin nhưng không biết là thành thực hay gài bẫy. Nếu nghi ngờ và muốn giết Chúa Giêsu, Herod Antipas đã làm một cách dễ dàng 
👉 Khi gặp Chúa Giêsu trong cuộc xử án, Herod vẫn không xem Ngài là chính trị gia
image.png
Lc 23,8–11 mô tả rất rõ: Herod chỉ hỏi nhiều điều vì tò mò. Chúa Giêsu không nói một lời. Herod chế nhạo, mặc áo lộng lẫy cho Ngài → mỉa mai, không xem là đe dọa chính trị. Herod trả Ngài lại cho Philatô ngay lập tức.
Nếu là tội chính trị, Herod sẽ: xét hỏi nghiêm túc, giữ lại để điều tra, kết án theo luật Rôma (vì tội phản loạn).
Nhưng ông không làm gì cả.

Điều này chứng tỏ: 
👉 Herod không coi Chúa Giêsu là chính trị gia hay thủ lĩnh nổi loạn
👉 Ông chỉ sợ Ngài giống Gioan Tẩy Giả: một nhà giảng đạo gây ảnh hưởng lớn.
👉 Khi đối mặt với Ngài, ông chỉ tò mò và chế nhạo – không hề xử lý như một vụ án chính trị.


 MS
Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages