Fwd: ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 08-09-2025 (SỐ 238-2025)

1 view
Skip to first unread message

Giu Tran

unread,
Sep 8, 2025, 11:46:35 AM (4 days ago) Sep 8
to


---------- Forwarded message ---------
From: soan....@hotmail.com <soan....@hotmail.com>
Date: Mon, Sep 8, 2025 at 8:28 AM
Subject: ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 08-09-2025 (SỐ 238-2025)
To:




GOOD MORNING VIET NAM - CANADA - USA

ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 08-09-2025  (SỐ 238-2025)

Image insérée

Image insérée




MỤC LỤC

  1. THAY THIÊN LÔI (chuyện vui)
  2. Tôi đã gặp lại hắn sau 20 năm
  3. Vu Lan Nhớ Mẹ
  4. Qua các trại tù cộng sản
  5. Văn Hóa Cãi Nhau Của Người Việt
  6. Chuyện Chẳng Ngờ
  7. Buổi chiều ở Dak Pek
  8. Cả sân bóng hỗn loạn, cầu thủ và trọng tài nằm la liệt trên sân
  9. Nguyễn văn Đông





THAY THIÊN LÔI (chuyện vui)

  • Thiên đình mùa cô hồn vắng vẻ lạ thường. Trong cung chỉ còn Ngọc Hoàng đang chơi game trên laptop, Thái Thượng lão quân đang chat zalo với Tây Vương Mẫu. Còn Nam Tào, Bắc Đẩu lướt facebook giải sầu.
    Ngoài vườn hoa thiên đình thì nhiều tiên nữ uốn éo nhảy nhót để đăng lên Tiktok.
    Ngọc Hoàng nghe tiếng nhạc xập xình bèn ngó ra. Thấy đám tiên nữ đang ưỡn ẹo bèn chán nản thở dài:
    - Mẹ nó! Dưới trần có gì thì trên này có nấy. Con gái con đứa mấy ngàn năm nay yểu điệu tha thướt... Đùng cái, bây giờ bắt chước đám trẻ trâu dưới trần nhảy cà giựt như khỉ mắc kinh phong. Bà Tây Vương Mẫu không lo cai quản, ăn rồi lo suốt ngày chát chít trên mấy cái mạng xã hội. Thà chơi game như ta cho nó lành...
    Ngọc Hoàng đang than vãn thì thấy từ xa Thiên Lôi tóc tai rũ rượi bước vô. Trên tay cầm cái búa bị mẻ tùm lum. Cán búa thì gãy còn có 1 khúc ngắn ngủn.
    Ngọc Hoàng cau mày hỏi: 
    - Ta giao nhiệm vụ ngươi làm tới đâu rồi? Đã uýnh sạch tụi nó chưa? Chứ để dân chúng cứ réo tên tao ra mà kêu làm tao nhức đầu quá. 
    Thiên Lôi rầu rĩ: 
    - Dạ bẩm Ngọc Hoàng, con vác búa xuống trần uýnh hơn 10 ngàn nhát búa. Nhưng...
    Ngọc Hoàng: 
    - Nhưng cái gì? Nói mau!
    Thiên Lôi: 
    - Ngọc Hoàng thông cảm! Hồi thanh niên mắt còn tỏ, con uýnh phát nào trúng phát đó. Giờ cao tuổi nên uýnh banh chành nhưng... trật lất hết. Vả lại, vừa thấy bóng con từ xa là tụi quan tham chụp tô cơm rồi ngồi ăn từng hột. Mà Ngọc Hoàng nghĩ coi "Trời đánh còn tránh bữa ăn..." Cả tô cơm bự chảng mà tụi nó cứ ăn từng hột thì đời cha nào hết, làm sao con chờ được. Thành ra con ra đồng uýnh vài con trâu đỡ buồn...
    Ngọc Hoàng nhăn mặt: 
    - Trời ơi là trời... Tao kêu mầy đi uýnh đám quan tham mày không uýnh, đi uýnh trâu bò của dân làm gì...???
    Thái Thượng lão quân đế vô: 
    - Ngọc Hoàng coi thay thằng Thiên lôi nào trẻ trẻ đi. Thằng này già rồi, mắt mũi lèm nhèm sai nó đi uýnh chỉ tổ tốn tiền xăng thôi...Rồi có bữa quan tham nó không uýnh, ba chớp ba nháng nhè dân mà nó uýnh là thấy mụ nội luôn.
    Ngọc Hoàng: 
    - Thôi, mày về viết tờ đơn xin nghỉ công việc uýnh mướn. Tao duyệt rồi tìm đứa khác thay.
    Nói xong Ngọc Hoàng quay sang Nam Tào, Bắc Đẩu: 
    - Hai ông coi làm cái bảng tuyển thiên lôi dán trước cổng thiên đình với tiêu chí: Cao to, 6 múi và đặc biệt men 100% chứ đừng tuyển loại bống xà bang bán xà bông. Loại đó giao cái búa cho tụi nó, nội lo dẹo dẹo không đủ hết ngày, rồi không đánh đấm gì được.
    Giao nhiệm vụ xong xuôi. Ngọc Hoàng chỉ tay xuống Đông Lào nói lớn: 
    - Tụi quan tham chờ đó. Lần tới tao cho đứa thiên lôi mới đi uýnh từng thằng. Lần này tao phá lệ "Trời đánh không tránh bữa ăn". Tụi bây có đang ăn cơm, ăn phở, bún, mì hay bánh canh gì..gì...cũng đều bị uýnh ráo trọi.
    Thứ tham nhũng ăn tàn phá mạt, nhũng nhiễu lương dân, làm người dân cứ kêu tao ra mà réo ngày réo đêm. Sao chịu nổi!
    !!!!!!!!!!!
    Cao Hoàng



Tôi đã gặp lại hắn, sau hơn 20 năm.

image005.jpg

Một sự tình cờ, tôi đã gặp lại hắn, sau hơn 20 năm, kể từ lúc cả hai cùng được thả ra, vào một ngày đầu Tháng Năm, 1981, từ trại tù Bình Điền, Thừa Thiên Huế. Tôi biết hắn từ trước năm 1975 không những vì cả hai cùng học một lớp bậc trung học, cùng một khóa Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, thậm chí, sau đó lại về cùng một đơn vị. Trước ngày mất nước năm tháng, hắn lấy vợ. Vợ hắn, tên là Hạ, đúng là một cô giáo hiền thục, đoan trang và thương chồng theo cách tăn măn tỉ mỉ của những cô gái Huế (thời trước.)

Rồi trôi theo vận nước, tôi đi với hắn vào cùng một trại tù và thật kỳ lạ, sáu năm sau lại cùng với hắn ra khỏi trại. Trong khoảng thời gian ở tù này và nhất là sau khi cùng được thả ra về sống tại địa phương. Tôi mới biết được và hết sức khâm phục lòng hy sinh và sự chịu đựng của vợ hắn…

Khi cuộc đời nhà binh của hắn và kể cả tôi nữa kết thúc tại bãi biển Thuận An, Huế vào ngày 26 Tháng Ba, 1975. Chúng tôi bị lùa lên trại tù Khe Sanh, rồi về Cồn Tiên, hắn hay chắt lưỡi với tôi: Trời hỡi!! vậy mà cũng còn may. Tôi hỏi thì hắn trả lời: May là vì hai vợ chồng tôi chưa có con, không bị ràng buộc chi hết, nàng có thể tự do đi lấy chồng khác, chớ đeo theo mình, cái thằng tù chung thân khổ sai này làm cái chi?!

Tại trại tù Cồn Tiên (Tỉnh Quảng Trị) lần thăm nuôi đầu tiên, vợ hắn lên thăm. Hắn nói ngay với với nàng: Thôi đến mức ni là đủ rồi, em còn trẻ, chưa có con, anh cho phép em ly dị anh, rồi về mà kiếm một thằng chồng khác, chớ đeo theo anh làm cái chi nữa, lấy ai cũng được, miễn răng em hạnh phúc là anh mừng rồi. Vợ hắn im lặng không nói. Ba tháng sau, về trại Ái Tử (Đồng Hà) lại thấy nàng tay xách nách mang giỏ lớn, giỏ nhỏ lên thăm. Hắn lại khuyên nàng như lần trước, thì bị nàng nạt: Đừng có giở trò cao thượng với tui, tui là vợ anh thì đến chết tui vẫn là vợ anh, đừng có nói ba xàm ba láp. Đến đây thì hắn tắt đài không dám hó hé thêm một tiếng. Vì chuyện này tôi không biết hắn vui hay là buồn, vui cũng đúng thôi vì thời buổi này có được một người chung tình như vợ hắn thì cũng đáng vui, nhưng buồn như trường hợp hắn lại cũng đúng. Buồn vì tội nghiệp cho cô vợ trẻ không biết có mắc nợ nần chi từ đời kiếp nào mà bây giờ phải đeo theo mà trả.

Sau này khi được phóng thích về địa phương, nghe thuật lại thì ra vợ hắn đã bỏ nghề giáo từ lâu, để lăn lưng ra chợ trời, buôn thúng bán bưng mà kiếm từng đồng bạc lên thăm nuôi anh chồng đang sa cơ thất thế.

Lại nghe nói trước đó có anh trưởng Ban Thuế Vụ tỉnh đeo theo nàng như đỉa nhưng luôn luôn bị nàng quyết liệt từ chối. Trước ngày đi vùng kinh tế mới trong Nam, tôi nói với hắn: Ông có phước lắm mới có được người vợ như rứa, ráng mà sống với nhau trọn đời. Hắn trả lời: Mẹ tôi sinh ra tôi làm người còn vợ tôi mới là người mở mắt cho tôi biết cái gì gọi tấm lòng cao thượng.

Khoảng vài năm sau thì nghe nói hai vợ chồng hắn đã lên tàu vượt biên.

Nghe tin này tôi cầu mong hai vợ chồng hắn đi đến nơi đến chốn bình yên và mãi mãi hạnh phúc bên nhau.

Mười năm sau, gia đình tôi đi Mỹ theo diện H.O. Qua Mỹ, tôi ra sức tìm kiếm hai vợ chồng hắn. Và qua nhiều người bạn tôi nghe tin hắn đang sinh sống tại một tiểu bang miền Đông và cũng nghe nhiều chuyện về hắn. Nhưng mãi đến hơn hai chục năm sau, tình cờ, tôi mới có dịp gặp lại người bạn cũ này.

Đó là một đêm Giao Thừa âm lịch tại thành phố Salt Lake City, tiểu bang Utah. Ngoài trời tuyết rơi trắng xóa. Trong một căn chung cư ẩm thấp nghèo nàn ở vùng North Salt Lake. Ngồi trước mặt tôi là một người đàn ông ốm yếu, đầu tóc bạc trắng, nhìn tôi qua cặp mắt ủ rủ, chính là hắn.

Tôi hỏi hắn:

Chuyện gì đã xảy ra? ông có nhớ tôi đã từng nói với ông là hãy sống hạnh phúc với Hạ và hãy biết quý trọng tấm lòng cao thượng của nàng.

Hắn nhìn tôi, với ánh mắt sáng lên chút diễu cợt, rồi biến mất, chỉ còn hai bên khóe mắt của hắn tôi nhìn thấy những vết hằn buồn rầu ai oán.

Đúng rồi, chính cái tấm lòng cao thượng hay là sự hy sinh cao cả đó nhưng than ôi, kết quả mà nó mang lại là tất cả những gì anh đang thấy đây…

Hắn bắt đầu câu chuyện.

Chiếc thuyền mỏng manh chở khoảng 150 người rời khỏi Lăng Cô nhắm hướng hải phận quốc tế, vào cái ngày định mệnh đó. Chỉ 4 tiếng đồng hồ sau thì nó vỡ tan ra từng mảnh. Khi tôi tỉnh dậy thì thấy đang nằm trên một tàu hàng Nam Dương. Trong số 150 người trong đêm đen bão táp, chỉ có chừng vài mạng được vớt lên, còn hầu hết đều mất tích, vợ tôi nằm trong số người mất tích đó. Thì anh cũng biết, trên biển cả mênh mông mất tích là đồng nghĩa với cái chết. Vì thế, anh hiểu là tôi đau khổ đến mức nào không??? Vợ tôi đã hy sinh hết mọi thứ, kể cả tuổi xuân của nàng chỉ vì nàng yêu tôi. Vậy mà tôi chưa kịp đền đáp mang lại cho nàng sự hạnh phúc, chỉ còn vài bước nữa là đến bến bờ tự do thì nàng đã vĩnh viễn chìm sâu dưới lòng đại dương. Nỗi mất mát lớn lao này đã cào xé, dằn vặt tôi, tạo nên một cơn hoảng loạn dai dẳng đến nỗi người ta phải đem tôi vào bệnh viện. Tôi nằm trong một bệnh viện tâm thần, hay nói cho đúng đó là nhà thương điên trong vòng một tháng trời, và ở trong tình trạng nửa mê nửa tỉnh, nửa điên nửa khùng. Trầm trọng đến nỗi ai cũng nghĩ chỉ còn nước ngồi chờ đến giờ đem tôi đi chôn.

Nhưng rồi như một định mệnh đã được an bài, một ngày kia, tôi bỗng tỉnh dậy và thấy một cô gái người Việt đang đứng nhìn tôi ở đầu giường. Hỏi ra, mới biết, đó là một cô gái sống tại Mỹ và làm trong một cơ quan thiện nguyện chuyên giúp đỡ những người tị nạn. Hiểu được và thông cảm nguyên nhân căn bệnh của tôi, cô gái tên là Huyền, đã tình nguyện chăm sóc cho tôi và dần dần đem tôi lên từ dưới đáy sâu của cơn khủng hoảng tuyệt vọng để hồi sinh trở thành một người bình thường. Rồi cũng dần dần cả hai chúng tôi trở thành hai người bạn thân lúc nào cũng không hay. Huyền chỉ nhỏ hơn tôi vài tuổi, không đẹp, nhưng đằm thắm, dịu dàng. Nàng đã có một đời chồng, và chính điều này cũng là một tâm sự buồn mà có vài lần nàng đã bộc lộ cho tôi biết.

Nhưng nàng nói cũng nhờ sự bộc lộ đó mà nàng luôn luôn giữ được trạng thái cân bằng trong tâm lý. Tôi cũng kể cho nàng thêm những chi tiết về Hạ người vợ xấu số của tôi, về cái tình yêu và sự hy sinh của nàng dành cho tôi. Tôi nói với Huyền:

Suốt đời có lẽ không bao giờ tôi quên được vợ tôi.

Huyền nói:

Đừng bao giờ quên cô ấy vì chính lúc anh nghĩ về cô ấy là chính lúc anh tự cảm thấy an ủi được rất nhiều. Nhưng anh cũng nên nhớ, anh cũng cần nghĩ về anh nữa, bởi anh cũng cần phải sống và biết cách sống nữa chứ.

Phải nói tôi cám ơn Huyền rất nhiều về những gì mà nàng đã làm cho tôi trong thời gian vừa qua và khi nhìn vào đôi mắt đằm thắm của nàng tôi chợt nghĩ biết đâu hương hồn vợ tôi đã phù hộ cho tôi gặp được cô gái này cũng nên? Hóa ra trong cuộc sống trước mắt, tôi đang có hai người đàn bà ở bên cạnh, một người ở quá khứ và một người đang sống ở hiện tại. Họ đã tạo cho tôi một thế cân bằng trong tâm lý và giúp tôi dần dần vượt qua được trạng thái hụt hẫng đau đớn trước kia.

Chừng vài tháng sau, cũng nhờ sự giúp đỡ bảo trợ của Huyền, tôi đã được phái đoàn phỏng vấn chấp thuận cho định cư tại Mỹ. Lúc đó tôi về một tiểu bang miền Đông với Huyền, và theo lời khuyên của nàng tôi ghi danh đi học, bắt đầu từ các lớp ESL, rồi qua college, sau đó lên đại học. Trong thời gian đi học tôi và nàng thuê chung một căn apartment hai phòng (dĩ nhiên). Tôi đi học ban ngày, cuối tuần đi làm thêm kiếm tiền phụ giúp một phần trả tiền ăn ở. Còn nàng thì đi làm ca đêm. Cũng nên nói thêm, chúng tôi luôn luôn coi nhau như là bạn, tôn trọng nhau, đối xử với nhau một cách vui vẻ và chân thật. Tôi ráng sức học và hiểu rằng đó là cách để khỏi phụ lòng người đã giúp đỡ tôi đến nơi đến chốn. Tôi cũng hiểu rằng, nàng cũng đang ráng sức đi làm để tạo điều kiện dễ dàng trong việc học của tôi. Nghĩ lại, mới thấy cả hai chúng tôi đều ráng sức và cũng vì nhau mà ráng sức. Phải chăng chúng tôi đang làm một việc mà chỉ có hai người đang yêu nhau mới làm?

Trong đời tôi, định mệnh đã cướp đi của tôi một cơ hội là mang lại hạnh phúc cho người đã từng hy sinh cho mình, đó là Hạ. Lần này tôi không muốn mình vuột đi một cơ hội tương tự như vậy. Tôi quyết định chọn một ngày quan trọng nhất để tôi ngỏ lời cầu hôn với Huyền. Ngày đó cũng là ngày tôi tốt nghiệp với mảnh bằng kỹ sư công chánh.

Rồi cái ngày đó đã tới.

Buổi trưa sau khi làm lễ tốt nghiệp xong cả hai chúng tôi về nhà. Chúng tôi quyết định cùng nấu chung một vài món để ăn mừng và đó cũng là một cơ hội để tôi nói lời tình yêu với Huyền. Tôi nghĩ không có một cơ hội nào tốt hơn là cơ hội này. Tôi đang lau chén đũa và trải khăn bàn trong lúc chờ nàng chạy ra cái chợ ở đầu phố nói là mua thêm ít rau, và vừa lẩm bẩm trong miệng câu nói mà tôi chờ đợi được nói suốt cả năm trời nay. Đúng lúc thì có tiếng chuông cửa. Một người đi bỏ báo đứng chờ ở ngoài, đưa cho tôi một lá thư nhỏ, nói: Phải anh là anh Tiến không? Có một người ở đằng kia nhờ tôi trao cho anh tờ giấy này.

Tờ giấy nhỏ bằng bàn tay, chữ viết tròn trịa quen thuộc.

Anh Tiến, Em là HẠ đây, em vẫn còn sống đây, nhưng chuyện dài dòng lắm, em thì không tiện vào nhà. Qua gặp em trong cái công viên phía bên kia đường.

Tôi không còn nhớ lúc đó tâm thần tôi hoảng loạn đến mức độ nào. Tôi cũng không biết mình nên làm gì nữa. Giá lúc đó mà động đất xảy ra hay núi lửa phun lên, sóng thần tràn vào tôi cũng không cần biết. Tâm trạng hoảng loạn này có lẽ cũng lớn ngang với lúc tôi tỉnh dậy trên chiếc tàu hàng Nam Dương và biết người vợ mình đã bị nhận chìm giữa lòng đại dương cách đây 7, 8 năm về trước. Nhưng rồi như cái máy tôi bước ra cửa lảo đảo băng qua bên kia đường.

Tôi nhận ra nàng ngay. Chính là Hạ. Vợ tôi, nàng không khác mấy như tôi gặp nhiều lần trong những giấc mơ trước kia. Nhưng bây giờ không phải là trong giấc mơ mà bằng xương thịt nàng, hiện ra dưới ánh nắng buổi trưa với làn da có vẻ xanh xao hơn và đôi mắt buồn rầu. Cơn xúc động đến nỗi tôi muốn ôm chầm lấy nàng. Nhưng nàng ngăn tôi lại rồi hấp tấp nói.

Anh Tiến, em không còn nhiều thì giờ nữa vì trong vòng một tiếng nữa em sẽ rời nước Mỹ trở về lại Úc.

Tôi nhìn thấy nàng cười nhưng nước mắt thì ràn rụa trên má.

Anh biết không, khi em trôi dạt trên biển và được một thương thuyền Úc vớt lên, đem về Úc. Lúc đó em vẫn tin rằng chỉ có em là người duy nhất sống sót trên chiếc tàu định mệnh đó. Mãi vài năm sau thì có người liên lạc với em và cho biết anh vẫn còn sống. Anh biết là ai không?

NGƯỜI ĐÓ LÀ CÔ HUYỀN. Chính cô Huyền đã bỏ rất nhiều công sức để truy tìm em trên khắp các trại tị nạn, trong một hy vọng là em còn sống. Và thật không uổng công cho cô ấy. Huyền đã tìm ra em. Cô ấy đã liên lạc với em nhiều lần, kể hết mọi chuyện về anh và nói với em rằng sẽ tạo điều kiện cho hai người gặp nhau nhưng phải chờ anh tốt nghiệp xong. Hai ngày trước cô Huyền mua vé cho em từ Úc bay qua đây và hẹn em đúng giờ này đến ăn cơm chung để mừng anh và em. Nhưng ngồi trên máy bay em đã nghĩ lại rồi. Chính cô Huyền mới là người xứng đáng với anh, cô Huyền là người đã cứu anh ra khỏi cơn khủng hoảng tâm thần, đưa anh qua Mỹ và tạo điều kiện cho anh ăn học thành tài. Anh nên nhớ, nếu không nhờ cô ấy, chắc gì anh còn sống được đến ngày hôm nay. Hồi sáng em đứng ở đây nhìn anh và cô Huyền bước xuống xe, nhìn trong mắt anh lúc đó, anh hiểu không, em là đàn bà mà, em biết liền, trong đôi mắt anh lúc đó đang tràn trề sự hạnh phúc của một người đang yêu. Cô Huyền mới xứng đáng là người được anh trao cái hạnh phúc đó. Cô ấy đã hy sinh cho anh nhiều rồi. Đừng nên để cô ấy hy sinh thêm nữa, vì hơn ai hết chính em biết cô Huyền cũng đang yêu anh. Và em cũng yêu anh dường nào.

Tôi không hiểu Hạ bỏ đi từ lúc nào. Tôi ngồi xuống chiếc ghế đá bên cạnh, đầu óc vẫn còn choáng váng những lời nói của Hạ hồi nãy. Thật sự đến lúc này tôi vẫn không biết mình nên nghiêng về bên nào. Trời đất ơi! Tôi không ngờ Huyền là người đã âm thầm đi tìm Hạ thay cho tôi. Tôi đã mang ơn nàng nhiều quá, và không biết bằng cách nào để trả được cái ơn đó, trừ phi. Nhưng chỉ có Hạ là người biết được điều khó xử này của chồng mình. Cô ấy đã có một quyết định cũng giống như cái quyết định cách đây chục năm về trước, khi thả nổi đời xuân xanh của mình để đi nuôi một thằng tù không biết ngày nào mới được tha ra. Đó là người đàn bà suốt đời hy sinh cho hạnh phúc của chồng.

Và, trời ơi, Anh biết không. Đó là định mệnh, lại một định mệnh cay nghiệt. Nó vẫn không buông tha cho tôi. Tôi nhận ra ngay khi vừa bước chân vào nhà. Căn nhà vẫn trống rỗng y chang như lúc tôi bước ra.

Hạ đã lầm!

Tôi cũng lầm!

Làm gì có chuyện Huyền mời Hạ đến để ĂN CHUNG với CÔ ẤY bữa cơm mừng ngày tái ngộ.

Làm gì có chuyện Huyền chạy ra chợ mua thêm ít rau.

TẤT CẢ CHỈ LÀ CÁI CỚ.

Tôi đi ngay vào trong phòng nàng. Và tìm thấy một lá thư trên bàn. Chỉ có vài dòng run rẩy:

Chúc mừng hai người tìm lại được hạnh phúc bên nhau

Đừng bao giờ tìm em nữa

Huyền

Những dòng chữ còn ướt đẫm nước mắt của nàng.

Tôi lịm người đi giữa câu chuyện mà Tiến đang kể, giọng kể của hắn nghe đều đều như lời cầu nguyện, đầy cam phận cho một tên tử tù trên đường ra pháp trường.

Một lúc sau đó tôi mới hỏi hắn, một câu thiệt vô duyên:

Sao ông không đi tìm họ???

Theo anh thì tôi nên tìm ai? Nhưng định mệnh không cho tôi làm việc đó. Hai người đàn bà này, người nào cũng cho rằng tôi đang sống trong hạnh phúc với người kia. Hãy để cho họ tin như vậy đi, đừng bao giờ làm họ thất vọng. Đó cũng là một cách trả ơn những sự hy sinh đó.

Chính vì thế tôi bỏ hết tất cả và đến đây – một mình – trong cái xó này.

Salt Lake City-Utah

Nguyễn Đình Liên

Share Lại Quê Mẹ

 



Vu Lan Nhớ Mẹ
5552 VuLanNhoMeNgThiThem
      Người ta hay nói thắng về nội, thối về ngoại. Tôi không biết thiên hạ như thế nào. Riêng tôi, khi khốn cùng nhất, khi buồn bã nhất tôi lại về ôm lấy má. Không phải để kể lể những đau khổ của mình. Mà là chỉ để ôm má, hít cái mùi mồ hôi nồng nàn quen thuộc và nghe mình nhẹ nhàng nhiều lắm.
     Chuyện không vui của tôi, nhất là về chồng, con tôi hoàn toàn không nói gì với má. Tôi không muốn má tôi buồn. Má đã quá cực khổ vì chồng, vì con, vì cuộc sống. Hãy để má vui trong niềm hạnh phúc của con cái.
      Tôi “Xuất giá tòng phu” theo chồng. Má tôi không can ngăn, nhưng khóc nhiều vì má chỉ có tôi là con gái. Má sợ tôi làm dâu khổ cực, lo tôi không chịu đựng được thời tiết miền Trung. Nhất là má không hề đi đâu xa làm sao thăm con gái.
      Rồi Sài Gòn mất, em tôi bặt tin, tôi cũng vậy. Tội nghiệp cha mẹ già khóc ráo nước mắt vì con. Chờ em tôi hoài không thấy, má cầm bằng thằng 10 đã chết. Con Chín không tin tức, chết sống không hay. Má ăn không ngon, ngủ không yên. Má mòn mỏi, gầy rạc cả người, đầu óc mông lung lúc quên lúc nhớ.
      Vậy mà sau mấy năm, tôi lủi thủi bồng con về nhà.Tôi bước qua cổng nhà sân trước, chưa gặp được ai mà nước mắt tôi đã ràn rụa. Tôi tưởng chừng như mình sống lại. Cực khổ chi không biết, về nhà, được sống bên má là tôi đã tìm lại cuộc đời mình.
      Nghe tiếng chó sủa, ba tôi bước ra trước hiên nhà, má tôi đứng ở thềm che mắt nhìn ra. Chừng nghe ba tôi kêu lên”Con Chín” Má tôi bỏ cả dép chạy tuôn về phía mẹ con tôi. Tôi quăng giỏ đồ, quên luôn cả con, tôi ôm lấy má. Tôi khóc như trút hết ruột gan. Như trút hết bi ai, khổ sở ra ngoài. Mùi mồ hôi quen thuộc của má sao  làm tôi yên bình đến thế.
      Cảm giác đó sống mãi trong lòng tôi. Cảm giác tìm lại cội nguồn. Về nơi mình yêu thương gắn bó. Và tôi đã thật sự ” Thối về ngoại” để về bên cha mẹ ruột, những lúc cuộc sống tôi bấp bênh và buồn bã nhất.
      Buổi sáng đầu tiên của ngày đoàn tụ. Tôi thức dậy bước ra nhà sau. Một buổi sớm mai đẹp nhất trong đời. Nắng lung linh trên cành cây vú sữa sau nhà. Không khí quê nhà sao mà trong lành quá đỗi. Ở nhà bếp má đang nấu cho tôi một nồi cháo nấm mối thơm lừng, cái mùi nấm mối ai ăn một lần rồi phải nhớ hoài.
      Tôi bước tới ôm lấy má. Sao mà vòng tay tôi lỏng le vậy nè!  Thì ra má tôi ốm hơn trước quá nhiều. Tôi hít thật sâu như hưởng cả hương hoa tốt đẹp của đất trời. Mà không! Chỉ là mùi của má tôi. Cái mùi thịt da quen thuộc từ thuở tôi còn bé bỏng.
      “Quê nhà và má”. Tôi có cảm giác như mình còn nằm mơ. Cuộc đời quá đẹp. Ơn trên vẫn luôn giúp tôi mọi điều. Tôi đã được sống còn, tôi đã thoát qua một giai đoạn kinh khủng nhất cuộc đời. Giờ đây tôi được về với má, tôi sẽ vì má, vì con mà không còn sợ bất cứ điều gì. Má ơi! con gái má đã trưởng thành, sẽ đứng lên chịu đựng tất cả bão giông cuộc đời để được sống bên má, để được ôm lấy má mỗi ngày.
      Tôi thật sự biết đời khi đã bước qua một đoạn đường gian truân định mệnh. Tôi nhìn ra cái quý báo trong tình mẫu tử. Tôi có cảm giác tôi yêu thương má tôi trăm vạn lần hơn xưa. Vườn nhà tôi đẹp hơn, tình yêu thương gia đình nồng nàn hơn bao giờ hết.
      Tô cháo má nấu bằng tất cả tình yêu của một người mẹ. Gia vị nêm trong đó là rau cỏ từ vườn nhà mà mỗi sáng má chăm chút tưới nước, bắt sâu. Tôi ăn mà chảy cả nước mắt. Có thể vì thương má, vì mừng mà cũng vì vị cay của những hạt tiêu má hái từ vườn nhà.
      Sau khi mẹ con tôi đã ăn xong. Ba bước xuống đưa tiền cho má đi chợ. Tôi ngạc nhiên quá đỗi. Bây giờ đất nước xoay chiều, xã hôi thay đổi, nhà tôi cũng thay đổi rồi sao? Tại sao ba phải đưa tiền đong gạo phát cho từng bữa chợ? tại sao vậy? Má tôi đi ra cổng tôi còn đứng đó tần ngần, hai mắt cay xè. Tự dưng tôi thấy mình hụt hẫng.
Ba dường như hiểu được những suy nghĩ trong đầu tôi. Ba bước lại cười cười.
     Con đừng ngạc nhiên! Ba không phải không tin má con. Nhưng từ sau ngày 30 tháng tư. Mấy đợt đổi tiền, má con không còn tính ra được đồng tiền sử dụng. Bả lộn tiền trước 75, sau 75, tiền cũ, tiền mới tùm lum. Trong đầu bả tiền bạc sao mà lung tung lộn xộn, tính mãi không ra. Má con không chịu nỗi với những mất mát và thay đổi hiện nay. Cuối cùng má con giao quyền giữ ngân quỹ gia đình lại cho ba. Khi nào cần xài cái gì thì ba đưa và mua từng đó là xong. Bả không còn muốn giữ tiền, không muốn đi hội họp hay giao thiệp bên ngoài. Bả bây giờ như tu tại gia để cầu nguyện cho con và thằng 10. Thường thì gửi chị Sáu con đi chợ mua thức ăn dùm. Hôm nay con về, má con quá vui nên mới đi chợ đó thôi.
      Thì ra tôi đã hiểu. Những biến cố thời cuộc và mất tin tức con cái đã đã ảnh hưởng không nhỏ tới tâm trí má tôi. Trong tâm hồn đơn giản của bà. Chính phủ nào cũng là chính phủ. Công Sản hay Quốc Gia người dân cũng đầu tắt mặt tối kiếm miếng cơm ăn. Mấy đứa con bà đi lính. Mấy đứa cháu trong xóm hay bà con xa đi theo phía bên kia. Hòa bình rồi, hết chiến tranh cùng nhau về làm ăn sum họp gia đình. Có cái gì mà phải bị tù đày không biết ngày về. Có cái gì phải bị tịch thu nhà cửa, lấy đất lấy nhà. Có cái gì phải lên loa chửi rủa ra rả cả ngày. Má tôi và má chồng tôi, những người mẹ chơn chất tội nghiệp, là nạn nhân của chiến tranh chịu nhiều gian truân và mất mát quá lớn.
      Tôi có điều ân hận, là tôi chưa cùng má tôi chụp một tấm hình chung nào. Ngày đó muốn chụp hình phải đi tới tiệm Má tôi thì nhà quê, rất sợ phải chụp hình. Còn tôi lại không muốn ép má.Thật tình tôi cũng ỷ y vì mình không hề nghĩ đến phải có ngày bỏ má để đi xa.
      Bây giờ với thời đại tiên tiến, máy móc dư thừa. Cầm Iphone, ipad trên tay, nếu còn mẹ, bạn hãy bấm cho mẹ những bức hình mỗi khi có dịp. Bạn hãy nghiêm túc chụp hình cho mẹ mỗi năm, để thấy sự thay đổi nơi mẹ. Hãy yêu quý thời gian được có mẹ bên cạnh. Đó là những ngày đẹp và thiêng liêng nhất trong đời. Đừng như tôi mà tiếc nuối thì đã quá muộn màng.
***
      Má ơi! Vu Lan lại về nữa rồi. Bao nhiêu năm má mất. Nhưng sao cứ mỗi mùa Vu Lan con lại vẫn thấy má luôn hiện hữu bên con. Khi cầm những sợi tóc của mình rụng. con lại nhớ má và thấy mình có lỗi. Con nhớ bàn tay má vuốt ve trên mái tóc dài đen nhánh thuở con mới lớn. Con đua đòi bạn bè cắt ngắn hay uốn quăn. Lần nào má cũng không cho. Má vuốt tóc con yêu thương như nhớ lại mình thuở nào trẻ trung xinh đẹp. Mái tóc dài mượt mà khỏe mạnh ngày xưa đó con không biết quý, không biết nâng niu. Tuổi trẻ dại khờ chỉ mơ mộng hão huyền, chỉ muốn thay đổi mới.
      Con gái duy nhất của má chạy theo chữ nghĩa học hành quên đi mình có một người mẹ tảo tần vất vả. Quên đi má cần có người để tâm sự an ủi những lúc cơm canh không ngọt. Những lúc má thật cô đơn.
     Rồi con đi làm xa nhà, lấy chồng xa xứ. Những lần về thăm lại được má chìều chuộng thương yêu lo lắng mọi điều. Con chỉ biết hưởng thụ mà không biết đáp đền. Đến khi vận nước xoay chiều, con sa cơ thất thế trở về bên gối má thì má đã già. Người ta mai mỉa: “Cóc chết ba năm mới quay đầu về núi” hay: “Ăn học cho cố rồi cũng về cầm cái cuốc lao động”. Con nhịn nhục, quăng bỏ tự ái làm người qua một bên, con dang nắng giữa trời để kiếm miếng cơm ăn, để ba má khỏi phải gánh vác thêm hai miệng ăn trong nhà. Má ơi! Dù con cố gắng thế nào, sự thật một lần nữa má cũng phải đem thân già bảo bọc cho con, chăm lo cho cháu.
***
      Má ơi! Khi con đưa tay mân mê mái tóc bạc xác xơ của má là lúc con phải nghe lời má cắt cụt nó đi để cạo trọc đầu cho má. Má nói:” Đầu má nặng nề nhức nhối quá. Những nghiệp chướng mang vào thân đã quá lâu. Bây giờ con hãy cạo sạch nó đi cho nhẹ thân của má.”  Con cầm cái kéo, cắt những sợi tóc bạc rơi lả tả xuống nền sân sau mà thương mà tủi. Cảm giác đó xé nát trái tim con vì con biết đoạn đường đời má còn sống bên con là rất ngắn. 
Con khẻ đưa lưỡi dao
Tóc má rơi nhè nhẹ
Những sợi tóc trắng xóa
Rớt xuống đời hư không.
Tóc má con cạo sạch
Xóa những điều đảo điên
Má mỉm cười khẽ nói
“Phủi sạch mọi ưu phiền “
Ôi! Một đời vất vả
Tóc xanh rồi bạc phơ
Bây giờ cạo trọc lóc
Đời như một giấc mơ.
Má xoa đầu hoan hỉ
Hết nhức đầu con ơi.
Những nặng nề vướng bận
Má phủi sạch hết rồi.
Đầu má giờ trắng xóa
Tâm nhẹ nhàng thảnh thơi
Mây bay không trở lại.
Con sợ ngày chia phôi.
       Con tắm rửa cho má lần cuối cùng và cũng là lần đầu tiên con thực sự nhìn toàn thân của má. Má như một bộ xương khô gầy tóp tội nghiệp. Má nhắm mắt bình yên, gương mặt bình thản như yên lòng trả lại mọi sự cho thế gian. Hơi thở má yếu đuối thoi thóp như ngọn đèn trong cơn gió bão. Con lau từng ngón tay, ngón chân và khắp người má với rượu pha nước ấm. Con mặc cho má bộ đồ trắng má cất kỹ dưới đáy rương. Bộ đồ rộng thùng thình trong cơ thể hao gầy của người mẹ thương yêu. Con niệm Phật bên tai má và má hắt hơi thở sau cùng trong bàn tay nắm chặt của con.
      Vĩnh biệt má yêu kính nhân từ của con. Con không khóc được dù con thương và yêu kính má vô cùng. Trong thâm tâm con, má sẽ được siêu thoát hay đầu thai, tái sinh làm một người nào đó xinh đẹp, hạnh phúc. Bởi vì cả cuộc đời má đã gieo nhiều duyên lành, làm nhiều điều tốt. Trái tim nhân từ của má mở ra không chỉ cho riêng con cái của mình mà cho biết bao người xung quanh.
Nguyễn thị Thêm


Qua các trại tù cộng sản

  • Image en ligne

    12 giờ trưa ngày 30/4/75. Tổng thống VNCH Dương văn Minh đọc trên Đài phát thanh Sài gòn, ra lệnh cho Quân Lực VNCH buông súng, chờ giao chính quyền cho Cộng Sản. Như cơn sét đánh bên tai, tôi bàng hoàng trong giây lát. Miền Nam mến yêu đâu còn nữa, qua bao năm chiến đấu tốn không ít máu xương, giờ phải chịu buông súng đầu hàng.
    Tôi chào từ biệt vịTiểu đoàn trưởng TĐ/229/ĐP Nguyễn hữu Tiến và anh em trong đơn vị, tìm đường trở về quê Chợ Lầu, Phan Rí thăm mẹ già và vợ cùng hai con. Tôi băn khoăn mãi không biết nên đi bằng đường bộ hay bằng ghe và khi về thì phải trình diện ở đâu. Chợ Lầu tuy là quê tôi nhưng mà tôi đã gây ân oán giang hồ với VC nằm vùng rất nhiều, vì khi còn ở ĐĐ118/ĐPQ, tôi đã chỉ huy binh sĩ làm cỏ bọn du kích nằm vùng nhiều quá, có thể tôi chưa kịp nhìn thấy vợ con thì đã bị trả thù cũng có. Tôi cũng vừa nhận được tin ba tôi đã tự tử chết tại nhà, mãi đến 3 ngày sau ông ngoại tôi lên xã xin đem chôn mới được “Cách mạng” đồng ý.
    Ngày 17/4/75 sau khi Bắc Bình Thuận bỏ ngỏ, VC từ trong rừng tràn về chiếm chánh quyền, Ba tôi không chịu trình diện tại Xã để chúng sai khiến. Tối đó ông quyết định uống độc dược quyên sinh. Trước khi chết ông dùng Sơn viết lên tường nhà hàng chữ để lại cho các con. “Ba thà làm phân xanh cho cây cỏ còn hơn sống chung với Cộng Sản.” Chúng kết tội ông là CIA phản động, với chức vụ nhỏ nhoi là phụ tá cho Chi Chiêu Hồi Hòa Đa. Chính quyền vừa cướp được lấy làm tức tối, vì có một tên cực kỳ phản động dám công khai dùng cái chết để phỉ nhổ vào mặt chúng. Thế là cả bọn kéo đến đầy nhà, lục soát lấy đi những gì mà không thuộc về chúng, như một lũ kên kên cướp cạn, chỉ thiếu một điều là không ăn xác chết. Và tôi cũng nhận được tin Th/sĩ Nguyễn Thìn, Cảnh sát Đặc biệt Chi Khu Phan lý Chàm bị chúng bắt trói đem vào rừng giết man rợ còn hơn thời Trung Cổ. 
    Cuối cùng tôi quyết định dùng ghe từ Long Hải để về Phan Rí Cửa và trình diện tại đây, dầu sao cũng đỡ hơn tại Chợ lầu, nơi cạm bẫy đang rình rập tôi, muốn một lần nhìn lại người thân rồi thì thân xác này có bị ra sao thì mặc. Tôi biết Việt cộng sẽ trả thù lên thân xác và gia đình những chiến sĩ QLVNCH, trong đó có tôi.
    Sáng sớm ngày 3/5/75 tôi đã về đến nhà bình yên. Tôi đi trình diện ngay theo lời khuyên của gia đình ở Thôn Song Thanh, nằm trong Trường Tiểu học Thanh Lộc. Những lời chửi bới của tên Kỷ, Thôn trưởng mà sau mấy mươi năm còn văng vẳng bên tai, trước đây hắn là cơ sở nằm vùng vừa mới ngoi lên mấy ngày nay. Chúng để tôi yên ổn cho đến sáng ngày 5/5/75 thì cho một du kích nguyên trước đây là Nhân dân tự vệ dưới quyền chỉ huy của tôi đến thông báo là trưa nay trình diện tại Thôn lúc 1 giờ để đi học tập. Tôi không có nghe bảo đem cơm gạo, chỉ nhận lệnh tập trung. Vì nghĩ là đi học tâp nên cần gì phải đem đồ nhiều, cần gì thì sau này người nhà sẽ mang cho. Từ giã vợ con tôi lên đường nhưng thực tâm biết rõ là khó có ngày về. Hơn 12 giờ trưa tôi đã có mặt tại thôn với một ít hành trang. Tên thôn Trưởng sai du kích đem nhốt tôi vào trong một lớp học, ánh sáng lờ mờ qua khe cửa. Một lúc sau thì có mặt đầy đủ khoảng 10 người. Điểm danh sơ qua tôi thấy có Ấp Trưởng Song Thanh là Nhu, Tr/úy Tăng văn Đồng Tr/Ban 5 Chi Khu Hòa Đa, Th/úy Trần văn Xuân Trưởng ban NDTV /HĐ, tôi Cao hoài Sơn ĐĐT/ĐĐ4/TĐ/ 229/ĐP, số còn lại là nhân viên Xã ấp và Cảnh Sát viên.
    Trong lúc chờ đợi xe đến chở đi, tôi được người thân báo cho biết qua khe cửa sổ, có một nhóm định đánh chúng tôi khi trên đường ra xe. Khi tên Thôn trưởng có mặt, tôi liền phản đối thì được hắn trả lời là Nhân dân phẫn nộ không can thiệp được. Thì ra chính bọn này mang danh nhân dân để tổ chức đánh chúng tôi. Thật quá ư là hèn hạ,chỉ có chế độ cộng sản ưu việt mới sản sinh ra giống người này, chuyên môn đánh người ngã ngựa. Lúc này dân chúng đến xem chật cả sân trường, chỉ chừa một lối đi nhỏ. Nhìn ra không phân biệt được bạn thù, trong số này cũng có rất đông thân nhân đang ra sức ngầm bảo vệ cho chúng tôi lên đường. Xe đã đến nhưng chúng tôi không ai chịu đi cả, cuối cùng Trưởng Ấp Nhu thí mạng già đi đầu, đám đông chỉ chen lấn. Tôi có ngay quyết định là phải chạy thật nhanh ra xe. Vừa được nửa đường thì vòng vây khép lại, bất chợt một tên chen vào đấm vào mặt tôi, với giỏ xách trên tay, tôi phản ứng nhanh bằng cách quất mạnh vào mặt nó thật mạnh. Một tên khác giơ cao cái mõ lếch loại lớn nhắm đầu tôi đánh xuống. Không còn cách nào khác tôi đành ném cái túi xách giơ hai tay bảo vệ cái đầu. Nhát đánh thật mạnh làm bầm cả tay và trượt xuống trúng đầu sưng một cục lớn. May mắn cho tôi, người nhà can thiệp kip thời bảo vệ lên xe. Nhìn xuống bên dưới một cảnh hỗn loạn xảy ra, hai anh Xuân và Đồng bị tràn ngập trong đám đông, kẻ đánh người đạp đến chừng lên được xe thì máu me đầy mình, đấy là nhờ có thân nhân bảo vệ không thì có lẽ khó mà toàn mạng. Lúc này bên dưới có hai phe đánh nhau kịch liệt, một bên gồm thân nhân chúng tôi ra sức bảo vệ, bên còn lại cố đánh chúng tôi cho bằng được theo lệnh. Bọn du kích phải bắn chỉ thiên loạn xạ để giải tán. Ngày ra đi như vậy, tôi hình dung ra một ngày về thật ảm đam. Nhưng mà còn đỡ hơn mấy anh em ở Chợ lầu. Ngày ra đi bị một nhóm lão già có con bị phơi xác cho Bác và Đảng quang vinh chận xe lại leo lên xe dùng gậy đánh vào đầu từng anh một, cho đến khi mệt lừ mới thôi. Đây mới tht sự là nhân dân phẩn nộ.
    VC đã trưng dụng các xe chở hàng để chở chúng tôi. Xe của các Thôn Giang Hải, Hải Tân, Phú Ninh, Phú Hải Đà tập trung về đầy đủ trước Thôn Song Thanh. Bọn Du kích 30/4 hăm hở, đạn lên nòng áp giải chúng tôi lên đường. Tôi còn nhớ nét mặt tên Thôn trưởng Song Thanh, tên KỶ đã hân hoan đưa tiễn chúng tôi đi như vừa lập được chiến công hiển hách.
    LAO XÁ PHAN THIẾT
    Đoàn xe đi về hướng Phan Thiết và dừng lại trước Lao Xá. Chúng tôi bi lùa vào tập trung ở sân lớn để điểm danh và học nội quy. Lúc này, tôi thấy có đầy đủ các Sĩ quan, Cảnh sát, Xã, Ấp trưởng và hầu hết các Trung đội trưởng nghĩa quân. Tôi chợt thấy Trúc viên Trương gia Kỳ Sanh, cựu Dân biểu VNCH, người đã thiên về VC chống lại chính quyền miền nam, đã từng đâm sau lưng chiến sĩ. Người đã dày công tranh đấu chống lại chính quyền Miền nam qua chiêu bài đối lập cuội, làm lợi cho chế độ bạo tàn, đang ngồi bó gối trước 1 phòng nhỏ gần sân tập trung. Đó là ân huệ duy nhất mà đảng đã ban phát,ông ta khỏi phải bi nhốt chung trong những dãy nhà tập thể chật chội. Không biết lúc đó và sau này tới khi qua đời, ông ta nghĩ gì và có thấm thía cho cuộc đời lầm lạc đã qua không?
    Dãy nhà trước đây thời VNCH chỉ nhốt 50 người, nay thì chứa hơn 120 người nên vô cùng chật chội và nóng. Hàng ngày chúng tôi chỉ mặc độc nhất cái quần đùi, khi nào ra sân ăn cơm mới mặc đồ vào. Ngày được Cách mạng cho ăn 3 lần, mỗi lần một chén cơm với muối hột. Buổi chiều được cho ra sân tắm ở giếng nước.
    Tôi thấy có mặt Th/tá ThổThêm người hùng BìnhThuận, Trung tá Diệp Sắn Cảnh Quận/CKT/Hải Ninh và hầu hết những Sĩ Quan trình diện ở Bình Thuận. Tôi nghe anh em nói Đ/úy Lê văn Trò, Đại Đội trưởng Trinh Sát Tỉnh bị bắt đem lên Tân Điền, khi anh vừa mới từ Sài gòn trở về. Sau khi đọc bản án trước cái gọi là tòa án nhân dân, anh b đem đặt lên vĩ sắt nướng cho chết. Sau đó thi thể lại bị VC đâm nát bấy và dìm xuống ruộng, mấy ngày sau nhờ các em chăn trâu phát giác, thân nhân mới xin đem về chôn. Không biết có phải anh đã chết thảm khốc như vậy không? Nếu sự thật như vậy thì không còn gì để nói.
    TRẠI TÙ CÀ TÓT
    Ngày 10/5/75 chúng tôi b tập trung tại sân lao xá, phân chia thành hai nhóm Ngụy quyền và Ngụy quân. Không biết tại sao anh Tăng văn Đồng lại được sắp xếp vào nhóm Ngụy quyền mặc dù anh là Tr/úy Trưởng ban 5 CK/Hòa Đa. Chỉ ít ngày sau anh chết tại Cà Lon vì vết thương của trận đòn thù khi đưa tiễn anh lên đường và bệnh sốt rét.
    Đoàn xe chở chúng tôi gồm 105 người rẽ vào Tỉnh lộ 8 hướng về Ma Lâm Thiện Giáo. Ra khỏi Ma Lâm đi theo Tỉnh lộ 8 về hướng tây chừng chục cây số. Xe rẽ trái vào con đường sỏi đá. Đường càng đi độ dốc càng cao, phía trước mặt là núi thấp, rừng lim. Con Sông Quao hay sông Cái phát nguyên từ Di linh nằm bên phải đường, tới đây dòng sông bi mất hút vì rặng núi Bà che khuất. Vùng này là rừng già đầy tre nứa và cây lớn, bao trùm luôn cả Quận Tánh Linh, Hoài Đức của Tỉnh Bình Tuy. Vùng này có nhiều mật khu VC, nhờ ẩn nấp kín đáo trong rừng tre bạt ngàn, che kín những con đường mòn chằng chịt chạy dọc theo con sông La Ngà lên tới đèo Chuối trên QL20 tại quận Định Quán (Long Khánh). Có tiếng thì thào chuyền cho nhau nghe, Cà Tót. Đoàn xe GMC chở chúng tôi dừng lại ở một lán trống, tất cả xuống xe chuẩn bị đi bộ. Đoàn người đi hàng một trong im lặng. Súng AK của du kích áp tải chỉa lăm lăm vào đoàn người. Tội nghiệp cho Tr/úy Sét là thương phế binh bị mất một chân quá gối phải đi chân giả, một mắt đui, mắt còn lại chỉ thấy lờ mờ, làm sao anh có thể đi theo kịp đoàn người. Vì vậy anh bị chửi bới thậm tệ và chúng hăm bắn bỏ. Anh Sét trước đây đã từng là 1 Đại Đội Trưởng oai hùng. Năm 1969 anh là ĐĐT/ĐĐ/118/ĐPQ đóng quân tại xóm Châu hanh bên kia Sông lũy, bên này là Bò phèn. VC đã đem Trung đoàn 820/ĐP, quyết san bằng đại đội này với 1 đoàn XDNT đang công tác tại đây. Trực thăng võ trang đã đến chi viện kịp thời, và Pháo binh của Mỹ tại Lương Sơn đã bẻ gãy cuộc tấn công của địch. Theo tin tình báo lúc đó cho biết địch chết 80 tên và tên chỉ huy trận đánh bị cách chức. Có lẽ mối hận chưa nguôi, nên giờ này mặc dù anh đã bị tàn phế vẫn còn bị hành hạ. Một tên du kích đi sau với anh. Trong đoàn có 1 Tr/Sĩ tên On người Phan Rí Thành (Hòa Đa), không biết vì có thù oán gì với các quan chức Cách mạng địa phương mà được các ngài phong lên Tr/úy nên cũng bị bắt theo chúng tôi lên đây, sau này anh bị bệnh gần chết. Mãi hơn 10 giờ đêm đoàn người mới tới được trại. Qua ánh đèn dầu leo lét chúng tôi chả thấy được gì. Chúng tôi được tập trung ngoài sân để nghe thủ trưởng lên lớp.Thủ trưởng ở đây tên Hoa, người Đức Nghĩa Phan Thiết, tươm tất trong bộ quân phục với nón cối dép râu, khẩu K54 đeo ngang hông và mang quân hàm Thiếu tá. Một lần nữa, Thủ trưởng Hoa chửi bới chúng tôi không còn lời lẽ gì để nói. Những danh từ xấu xa nhất được gán ghép cho đám tù binh VNCH, nào là ôm chân đế quốc, ăn bơ thừa sữa cặn, lũ giết người không gớm tay...Sao không chạy theo chủ MỸ lại quay về đây...Cá đã nằm trên thớt biết làm sao đây, giờ chúng tôi thấy hối hận vì tin lời Cộng sản ra trình diện.
    Sau khi đọc danh sách 105 ngụy quân chúng tôi, hắn chợt bắt gặp tên Thổ Thêm. Ngó thẳng vào hàng quân quát lớn: “Anh nào là Thổ Thêm bước ra khỏi hàng”, trong đầu tôi nghĩ nhanh chắc là tụi nó thanh toán ông Thêm ngay tại đây để trả thù đây.
    Từ trong hàng Th/tá Thổ Thêm nói “có” và bước ra khỏi hàng, hắn dùng đèn Pin rọi từ đầu đến chân để coi thật kỹ con người đã đi vào huyền thoại này. Hắn không tìm ra được một chút nào bơ thừa sữa cặn, ôm chân đế quốc, trên thân thể gầy guộc của ông mà hắn vừa chửi khi lên lớp. Không nói tiếng nào, hắn phất tay cho ông Thêm về hàng.
    Cũng nên nói thêm về ông. Th/tá Thổ Thêm đã giãi ngũ gần 2 năm. Những ngày tháng 4/75, ông về sống tại Xã Hậu Quách. Ngày 17/4 sau khi làm chủ Bắc Bình Thuận chúng lo thanh toán ân oán giang hồ với những người cho là Ác ôn của chế độ cũ. Ông bị giam vào lao xá từ đó đến nay, đói khát triền miên, nên con người vốn ốm o lại càng hốc hác.
    Từ khi là Đại đội trưởng ĐĐ/888/ĐPQ và là Tiểu đoàn Trưởng TĐ/230/ĐP hoạt động tại Thiện Giáo,ông là một thiên tài về quân sự.Từ cấp nhỏ nhất lên cấp Th/tá, ông đã trãi qua bao trận đánh kinh hồn. Chỉ có thắng chứ chưa hề chiến bại. Ông có 2 Bảo quốc Huân chương và hơn 80 Huy chương đủ loại. Cộng quân nghe đến đơn vị ông là chỉ có đường chạy. Mật khu Tam Giác Sắt và Cà Tót này, đơn vị ông ch huy đã dẫm nát nhiều lần, gây cho địch không biết bao nhiêu thương vong. Nếu không phải là người Chàm chắc ông đã bị tử hình.
    Tối hôm đó, chúng tôi nằm ngủ ngay trên nền đất ẩm ướt. Muỗi rừng như trấu vãi tấn công chúng tôi không thương tiếc. Sáng hôm sau, khi mặt trời vừa hừng sáng, chúng tôi thấy lố nhố ở 3 dãy nhà hình chữ U giữa là một sân rộng. Có khoảng trên 4000 ngàn người ăn bận lôi thôi lếch thếch, nhiều người phải chống gậy mới đi nổi. Cách đó 40m là con suối lớn, hàng ngày tù binh tắm giặt ở đây.
    Được biết Tỉnh ủy Bình Thuận của VC đặt tại đây, trong 3 túp lều núp dưới tàn cây lớn để trốn máy bay của ta. BCH chỉ le que vài mạng, không đủ người canh đám tù nên 1 trung đội du kích thành lập hồi 30/4 được điều lên đây canh giữ. Trung đội này mấy ngày đầu thì hùng hổ, chửi bới chúng tôi không tiếc lời, qua chừng 20 ngày không còn thằng nào đủ sức lết đi vì bị bệnh sốt rét.
    Nhìn xung quanh rừng núi âm u, không gian vắng lặng một cách đáng sợ. Bốn bề là núi cao, trại nằm trong một thung lũng chết. Đây là nơi tử địa chứ nào phải nơi học tập lao động như lời chúng nói ở Lao xá. Thì ra dã tâm của bọn VC là muốn giết toàn bộ chúng tôi nhưng sợ thế giới lên án là bọn đồ tể, giống như tụi khờ me đỏ, nên đem lên đây mượn tay Sốt rét rừng, cùng bỏ đói khát cho chết lần mòn để trả thù rửa hận.
    Chừng 8 giờ sáng, chúng lục soát tịch thu tất cả mền mùng võng. Tóm lại những gì có liên quan tới quân đội là b tch thu. Chúng thấy cái mền Poncho light là chộp ngay làm của riêng, không nghĩ những người tù họ đắp bằng gì giữa trời lạnh giá của núi rừng nghiệt ngã... Thực phẩm,thuốc men ít ỏi mang theo cũng bị vét sạch. Giày dép, bình đựng nước, tập trung lại một đống lớn, khi nào đi lao động mới cho mang. Chỗ ở thì sơ sài lợp bằng cỏ tranh. Giường nằm là những thanh tre được bện lại bằng dây mấu. Dưới chân giường là hàng cùm bằng gỗ như thời trung cổ. 3 dãy nhà hoàn toàn không có vách che, mặc cho gió rừng lạnh buốt xuyên qua.
    Những đêm mưa bão bùng, gió đập phành phạch như muốn thổi tung mái lá. Cây rừng ngã đổ, may mà không đè lên mái. Gió lạnh buốt thổi từng cơn qua những hình hài tàn tạ, đang co ro trong những chiếc mền mỏng còn sót lại. Ba ăn thì toàn khoai mì với ít gạo ẩm mốc. Đọt khoai mì, măng rừng nấu với muối hột là món ăn chính. Không ai có thể sng quá 3 tháng nếu bị ngã bệnh rét rừng. Nơi đây thật sự là địa ngục trần gian.
    Ngay ngày hôm đó gần như toàn bộ Hạ sĩ quan, Binh sĩ, Nghĩa quân, Cảnh sát, Nhân viên Xã p... b bắt khi di chuyển từ Lâm Đồng về Phan Thiết vào đầu tháng 4/75 cùng cán bộ hành chánh của Bình Thuận cấp thấp được thả về. Bị bắt chưa đến 1 tháng mà hình hài quá đỗi tang thương, anh em dìu nhau đi gia rừng núi âm u mà lòng buốt giá. Ôi thê thảm xiết bao, mạng người đâu phải cầm thú, hởi những tên dã man không tánh người mang danh cách mạng.
    Trong ngày 11/5/75 tại Cà Tót chỉ còn lại khoảng 1000 người, cấp bậc cao nhất là Thiếu tá. Chỗ ở trở nên rộng rãi, những người bị bắt trước đã bắt đầu ngã bệnh nằm la liệt, không thuốc men gì cả. Đến cuối tháng toán 105 người chúng tôi lên từ Lao xá đã có người bị bệnh sốt rét. Ngày nào cũng có người chết, tôi không biết tên vì là từ các đơn vị khác từ Lâm đồng chạy về theo Tỉnh lộ 8. May mắn cho chúng tôi là vợ đã tìm được đường lên thăm. Thật là vất vả gian nan cho các chị. Qua hai ngày lội suối băng rừng, tối đến các chị phải leo lên cây ngủ vì sợ cop. Cuối cùng nhờ sự chỉ đường của các người Thượng, các chị mới tìm được đến nơi. Lúc đầu tên Trại trưởng không đồng ý cho gặp chồng. Cuối cùng chúng tôi được gặp các Bà vợ vào lúc hoàng hôn và chỉ một tiếng đồng hồ. Chúng tôi nhận được một số thuốc trị sốt rét cùng thực phẩm, áo quần... Nhất là gặp lại người vợ mà chỉ tưởng thấy trong mơ. Qua hai đêm ở rừng Cà Tót, 11 chị lên thăm chồng trở về tất cả đều ngã bệnh sốt rét nhưng may mắn không ai chết. Chỉ có chị vợ của Anh Xã Ngọc ở Phan Rí Cửa lên thăm anh ở Cà Lon về bị bệnh chết.
    Ngày 19/6/75, chúng chọn ngày Quân lực của VNCH, toàn bộ Sĩ quan còn sót lại, kể cả giáo chức biệt phái, được VC gọi là Giáo gian, tất cả bị hốt hết lên đây, không ít anh em có cha chú nằm vùng có ám số, là Liệt sĩ, và con em gia đình có công với cách mạng. Trong số này có nhà văn Quân đội Hải Triều (Lê Văn Hai). Đây là một cố tình bôi nhục ngày quân lực của ta.
    Lúc này số người tăng lên hơn 3000 người, trong số này có hơn 10 vị Bác Sĩ Quân y tài ba nhưng cũng đành bó tay vì không có thuốc. Chúng tôi được phân thành Tổ Đội. Th/tá Đỗ Phương Gia, đại diện trại viên để nhận lệnh từ BCH trại. Đ/úy Lâm, Sĩ quan trợ y của CK/Thiện Giáo coi về y tế. Th/úy Trần văn Xuân nhận trưởng bếp lo việc ăn uống cho toàn trại. Tôi và 6 anh em khác được phân công vào toán đào khoai mì, sắn măng, hái rau rừng cho toàn trại. Còn lại làm các công việc linh tinh như làm cỏ hai đám bắp, chặt tre, gỗ, tu sửa lán trại, ngoài ra không có việc gì để làm. Ngoài việc làm bản khai Lý lịch, phải khai 3 đời và tội ác đã gây ra với nhân dân và Cách mạng.
    Đại úy Thông Ngộ (người Chàm) Đại đội trưởng ĐĐ/ 888/ĐPQ lừng danh, thay thế ông Thêm khi lên nắm Tiểu đoàn Trưởng 230/ĐP. Không biết anh khai lý lịch thế nào mà b chúng kêu lên chửi bới thậm tệ và bắt cùm trên sạp tre. Hai tay còn bị cột chặt xuống vạt tre hai ngày, mặc cho muỗi mòng thiêu đốt, thật tàn bạo hết nói. Đại úy Thông Ngộ đã vượt trại ở Hàm Trí và mất tích từ đó đến nay cùng Đ/úy Đặng Phiên.
    Nhiều người khác cũng bị kêu lên làm đi làm lại nhiều lần cho đến khi gọi là “Đạt”. Trong thời gian này, Huyện ủy Mười Trung về làm trại trưởng. Thấy chúng tôi bệnh chết nhiều quá nên cũng cảm thấy ít nhiều ân hận. Hàng ngày thường xuyên xuống chỗ anh em đang bệnh nằm, khuyến khích đứng dậy đi tập thể dục.
    Đám tù già như Thổ Thêm, Nguyễn văn Thứ cho vào tổ xay lúa, sàng gạo lấy cám cho heo ăn.Lâu quá rồi chưa có miếng thịt nào vào bụng nên thèm vô cùng.Thấy ông Thêm đứng nhìn mấy con heo, tôi lại gần thì ông hỏi:
    - Sơn mày có muốn ăn thịt heo không? 
    Tôi cười cười đáp: 
    - Thịt ở đâu mà ăn? 
    Ông chỉ vào mấy con bò cạp đang bò ở vỏ cây gần đó. Tôi chợt hiểu và nói khẽ:
    - Cẩn thận chú, nó biết được thì mệt.
    Hôm sau chúng tôi có thịt heo ăn, tôi biết ngay đây là tác phẩm của ông Thêm. Một hôm nọ, tay Th/sĩ VC tên Hợi đi bắn được một con khỉ đột thật lớn vác về quăng giữa sân, hắn nói anh nào muốn ăn thì lấy về làm thịt. Tôi cùng vài anh bạn đem về làm thịt ăn, hầu hết rất đói đều muốn ăn nhưng ngại thịt khỉ thành ra còn lưỡng lự. Tay đang cầm cái đùi khỉ vừa nướng chín,tôi nghe tiếng thì thào gọi tên tôi: “Sơn, cho anh một miếng”, quay lại thấy Th/tá Phạm Minh, Trung Tâm Trưởng TT/TVYT/BT, ngày 4/4/75 tôi đã cùng anh cầm vòi rồng cứu chợ Phan Thiết và Phố Gia Long.
    Anh đang nằm trên sạp tre đi không nỗi vì cơn sốt rét. Tôi đưa cho anh ngay cái đùi khỉ, mãi đến hôm nay tôi không quên hình ảnh đó. Còn Th/tá Trịnh vĩnh Bình đang nhăn nhó vì cơn đau bao tử đang hành hạ, ông chết khi bị chuyển ra Bắc tại trại Vĩnh Phú năm 1977.
    Lúc này chúng tôi đã sức tàn lực kiệt vì cơn bịnh sốt rét, ngày nào cũng có người chết. Trong số bạn bè thân có 3 người ra đi. Tr/úy Đặng văn Hai, TĐ/229, Tr/úy Nguyễn văn Biên, Trưởng ban 5/CK/Tuy Phong, Th/úy Pháo Binh Nguyễn Phong người Chợ Lầu. Các anh đã chết đi trong cô lạnh, thân thể được quấn trong cái mền và 7 nẹp tre, chôn bên gốc cây, không mộ bia. Trong gần 100 ngày sống ở đây đã có hơn 40 người nằm xuống. Nếu không về Sông Mao kịp thời chắc chúng tôi phải bỏ mạng tại đây.
    Những tiếng thét đầy ma quái vang lên đột ngột trong đêm vắng, đánh thức mọi người trong cơn ngái ngủ. Tiếng rên rỉ, tiếng run lập cập của người bạn nằm bên, cho ta cái cảm giác rờn rợn... Cái chết tới thật bất chợt không ai ngờ. Hai nguyên nhân chính dẫn đến những cái chết đau thương là Sốt rét và Đói triền miên.
    Cuối tháng 6/75 cấp Thiếu tá được chuyển ra Bắc, từ Đi úy đến chuẩn úy còn ở Cà Tót. Không hiểu lý do gì giữa tháng 8/75, VC đã chuyển chúng tôi về Sông Mao. Cấp chuẩn úy được cho về học tập và quản lý tại địa phương. Trong số anh em lên ngày 19/6/75, tôi quen với 1 trung sĩ Cảnh sát, trước đây anh làm việc ở vùng Bình An, Bình Lâm. Anh có biệt danh là Tư Búa, một hôm anh nói nhỏ với tôi, chắc tụi nó tử hình tôi nay mai thôi, vì dân VC ở đó chúng lập tòa án nhân dân kết án tôi rồi. Mặc dù biết cái chết sẽ đến trong nay mai nhưng anh vẫn xem thường. Quả thật sáng 2 ngày sau anh bị trói thúc ké dẫn đi, gặp tôi anh gật đầu chào như một lời giã biệt. Giữa tháng 8/75, tức là sau khi bị nhốt ở Cà tót chừng 100 ngày, không biết vì lý do gì tất cả chúng tôi được lệnh chuẩn bị rời trại. Thật quá đổi vui mừng vì thoát khỏi địa ngục này.
    Đoàn xe chở chúng tôi đậu cách BCH trại chừng 1 km, nhưng đám người chúng tôi đa số đi không nỗi, phải chống gậy quần áo tả tơi tệ hơn đám ăn mày. Để khỏi mất mặt vì sợ nhân dân thấy cảnh đối xử tàn tệ với tù binh, chúng ra lệnh cho chúng tôi phải quăng gậy gộc mới cho ra đi. Vì muốn thoát khỏi địa ngục này càng nhanh càng tốt, nên anh em người còn mạnh dìu người yếu cố dìu nhau đi trong tang thương. Hình ảnh này đã không phai nhòa trong tâm trí tôi cho đến hết cuộc đời.
    TỔNG TRẠI 8 SÔNG MAO
    Tổng trại 8 sông Mao lấy căn cứ của Trung đoàn 44/Sư đoàn 23/BB làm trại tù. Khu gia Binh thì nhốt khối B (trung úy) và khối C (thiếu úy) ngăn đôi bởi một hàng rào kẽm gai. Khối A từ Đại úy trở lên nằm tại khu nhà tiền chế, trước đây TĐ/229/ĐP dùng làm doanh trại.
    Tổng trại 8 do Trung đoàn 482 của VC Bình Thuận quản lý, thuộc Quân khu 6 với chính trị viên là Trung tá Loan. Trại A có 4 khối. Khối 1 dành cho cấp thiếu tá không đi bắc. Khối 2 Bình Thuận, khối 3 Bình Tuy, khối 4 dành cho Lâm Đồng, Ninh Thuận, Tuyên Đức. Chúng tuyển lựa đám có dây mơ rễ má, có cha là nằm vùng, liệt sĩ, hoặc có công với Cách mạng làm Khối trưởng, Đội trưởng. Nhà văn quân đội Hải Triều Lê văn Hai là một trong số khối trưởng, nên ở trại rất ít ngày và về sớm nhất, chỉ thua Đại Úy Lê Dũng (Bình Tuy) là cháu gọi Lê Duẩn là cậu ruột.
    Trại B Trung úy được chia làm 5 khối.Khối 1 Lâm Đồng, khối 2 Bình Tuy, khối 3 Ninh Thuận, khối 4 Bình Thuận, khối 5 Tuyên Đức và Đà Lạt. Cũng có vài người ở lẩn lộn. Khối trưởng khối 4 là Nguyễn văn Tánh, có cha là huyện ủy VC. Khối 5 là nhà giáo Lưu hữu Được có cha là Huyện ủy đã chết khi kháng chiến chống pháp.
    Trại tù ở SôngMao so với CàTót là thiên đường.Tôi nhớ ngày mới về, tối đó được cho ăn cơm trắng với cá khô, dù không được no lòng nhưng tôi cứ tưởng trong mơ. Những ngày đầu tất cả còn ở chung với nhau tại khu gia binh. Chúng tôi tự bầu lấy người chỉ huy trong lao động.Tôi được các anh bầuchọn làm người coi về phân công lao động vì thành tích trước đó ít ngày dám bạt tai giáo gian con 1 huyện ủy VC được VC chỉ định quản lý nhà kho, vì tên này dám ỷ thế coi thường chúng tôi.
    Khi tôi từ Cà Tót về đây thì trại này đã có trên vài ngàn. Các anh từ Lâm Đồng, Bình Tuy, Phan Rang, Đà Lạt .... đã tập trung về đây. Không biết chính xác nhưng ước lượng 3 trại có khoảng 5000 người. Thân nhân những người tù từ Cà Tót hàng ngày lên đứng ngoài vòng rào kẽm gai dòm vào tìm xem thân nhân của mình còn hay mất. Không ai được biết tin gì cả.Tất cả Chuẩn úy được cho về đều b cảnh cáo trước không được tiết lộ tin tức chết ti Cà Tót. Không biết tại sao tin anh Đặng văn Hai bị chết lại đến tai vợ anh. Gia đình lên Xã Chợ Lầu hỏi thì bị chối phăng. Họ nghi ngờ anh Chuẩn úy Nguyễn Hai tiết lộ, vì nhà anh sát nhà vợ anh Hai. Thế là anh Nguyễn Hai phải lãnh đủ, thiếu điều bắt nhốt anh. VC thật hèn hạ, đã có gan giết người lại còn muốn bưng bít, qua 35 năm chứng nào tật nấy vẫn còn. Thôi thì để lịch sử phán xét vậy.
    Chúng tôi chiều chiều ra đứng trên các hồ chứa nước bằng xi măng rất cao để thân nhân nhìn thấy biết mình còn sống. Chỉ được vài ngày,BCH Trại quyết định chấm dứt tình trạng này, bằng cách điều toàn bộ chúng tôi lên phi trường Sông Mao cách đó hơn 1 km khiêng loại vĩ sắt làm phi đạo về rào kín mít, đến nổi gió cũng bị cản lại. Sông Mao là địa danh có tiếng nóng nhất Bình Thuận, nay như cái lò lửa. Tình trạng khô hạn không đủ nước sinh hoạt, mặc dù chúng tôi đã đào hàng trăm giếng nước. Một tuần một lần được lên đập É Chiêm ở trên con sông Mao tắm giặt.
    Cuộc vượt trại đầu tiên xảy ra trong tháng 9/75, do ba anh em ở khối C (thiếu úy) thực hiện. Cầm đầu nhóm là Thiếu úy Tám, biệt danh Tám đặc công, trước đây anh là 1 đặc công VC hồi chánh, được mang cấp bậc Th/úy của QLVNCH, và là trưởng toán Thám báo tại Chi khu/ Hòa Đa. Nhân việc đi khiêng vĩ sắt về rào khu trại, anh đã lôi kéo anh Trần văn Xuân và một số anh em khác cùng trốn vào rừng lập chiến khu. Nhưng chỉ có anh Đoàn tiến Xe (người Chàm thuộc Đại đội 118/ĐPQ) và anh Bá tự là Bá lé người Phan Thiết là vượt thoát, sau đó bị bắt lại, riêng anh Tám đặc công là một người có võ nghệ cao cường, lại từng là đặc công VC, nên anh trốn thoát dễ dàng và cướp súng của du kích địch, hoạt động tại vùng phía tây Hòa Đa. Anh đánh phá VC hơn 1 năm làm cho chúng nhiều tổn thất, cuối cùng anh bị VC bao vây bắn chết kéo xác về cho dân chúng Hòa Đa coi.
    Nguồn an ủi duy nhất là chiều về leo lên hồ nước để hy vọng nhìn thấy vợ con nay chấm dứt. Khối A, Đ/úy chuyển lên khu nhà tiền chế. Tổ đội khối được thành lập để chuẩn bị học tập. Trước khi học tập, toàn trại làm bản Tự khai lý lịch. Lần này có kinh nghiệm ở lần làm trên Cà Tót, tôi chép lại y chang nên thông qua trước tổ và trại dễ dàng. Một số rất đông cứ làm đi làm lại hoài mà không được thông qua. Chỉ tội cho nhóm Giáo chức biệt phái và các anh làm việc văn phòng, không biết lấy tội ở đâu ra mà nhận, đành phải bịa ra những tội thật ngớ ngẫn để được thông qua. Hơn nửa tháng trời mới xong phần lý lịch và được phát giấy đặc biệt cùng mực Cửu Long để chép vào đem nộp. Tôi nghiệm ra một chân lý, trong nhà tù Cộng sản, tay nào nói dóc hay thì được đánh giá là học tập tốt, nhưng ở tù lâu hơn.
    Trước khi bước vào học tập chính trị gồm cả thảy10 bài BCH trại quyết định cho chúng tôi thăm nuôi để lên tinh thần. Khu rạp hát cũ kế lầu nước được chọn làm chỗ thăm nuôi. Anh em tôi hăng hái tình nguyện xin đi ra đó quét dọn mục đích được ngắm cảnh người qua lại và tìm người quen. Nhà tôi chỉ cách đây 3km nên rất nhiều người quen biết. Nhiều lúc họ lén ném thuốc lá vào cho vì khu này chỉ cách con đườngTự Do một hàng rào kẽm gai thấp. Đang quét dọn tôi bỗng nghe một tiếng nổ lớn, quay lại thì thấy anh Trần Quang Ảnh (em ruột dược sĩ Trần Quang Tuấn), Trưởng ban 4 CK/PLC nằm ngã bên cạnh. Môt bàn chân đã bị nát, máu me cùng mình, tôi vội sốc anh lên lưng cõng chạy về trại cấp cứu. Anh được chuyển đi bệnh viện và sau đó về luôn nhà.
    Sau gần 5 tháng mới gặp lại người thân, thật vui mừng không kể xiết. Một giờ thăm nuôi quá ngắn ngủi nhưng có còn hơn không. Nhờ gia đình tiếp tế đầy đủ các vật cần thiết, nhất là thuốc trị sốt rét nên sức khỏe tôi có khá hơn trước.
    Ngày đầu tiên được học tập ai nấy cũng hăm hở, áo quần nghiêm chỉnh, giấy bút đầy đủ để ghi chép. Tôi hoàn toàn thất vọng khi biết ban giảng huấn là ai. Trưởng ban là Đại úy VC tên Phong người Phan Rí, trước khi tập kết là giáo viên trường làng. Chính trị viên Tiểu Đoàn.. anh em đặt cho biệt danh là Phong gió, vì tài nói phéc có hạng. Phụ tá cho Chính trị viên Phong người Xuân Hội, Chợ Lầu cũng mang quân hàm Đ/úy. Tôi quên mất tên chỉ nhớ biệt danh “LÀ” mà anh em lén đặt. Chúng tôi gọi hắn là đại úy Là, bởi vì ăn nói cà lăm và trong 2 tiếng lên lớp tôi thấy hắn dùng chữ Là cũng có trên vài trăm lần. Thường trong khi lên lớp chúng tôi thường đếm hôm nay y nói bao nhiêu tiếng Là. Nguyên gốc của hắn xuất thân từ chăn trâu cho gia đình Phú hộ. Sau bị dụ dỗ nhảy rừng tập kết ra bắc nay trở về làm ông lớn, nhưng cái gốc dốt nát làm sao cha được nếu không được đi học. Không biết tại sao VC lại chọn một người có trình độ như vậy làm chính trị viên, hèn nào cấp dưới tay nào cũng đạt trình độ siêu nhân..
    Thành phần quản giáo đa số là người địa phương đi tập kết ra Bắc nay trở về, gồm Tr/úy Thanh người Chợ Lầu, Th/úy Cảnh Phan Rí, Th/úy Tùng Phan Rí, Th/úy Bảng người Hà Nội. Chuẩn úy Xây trước đây là lính SĐ/22/BB nội tuyến, sau chạy theo VC lập nên công trạng được phong quân hàm chuẩn úy. Nhìn chung vì là người địa phương nên cũng đôi chút dễ dãi, chỉ phải vì sống, hc tập chung lâu ngày với Cộng sản nên tiêm nhiễm cái tật cố hữu của cán binh cộng sản là bốc phéc không chê vào đâu được.
    Ngày học đầu tiên, chúng tôi bị ngay tên CTV Phong gió phán một câu nghe nhức nhối. Các anh chưa phải là thành phần Trí thức, các anh chỉ tạm thời là người gọi là có học. Đây là đòn đánh phủ đầu để che giấu cái dốt của bản thân hắn, vì rất nhiều trong chúng tôi biết gốc gác tam đời cổ đại nhà hắn. Ngồi phía dưới chúng tôi ngơ ngác không hiểu hắn nói gì. Trong chúng tôi quy tụ cả tinh hoa miền nam có cả Bác sĩ, Luật sư, Cao học, người nào ít nhất cũng là ông Tú, đủ sức dạy dỗ tất cả các tên cán ngố như hắn. Những đầu đề các bài học nghe thật kêu, nhưng đầy lố bịch và rỗng tuếch.
    – Đế quốc Mỹ là tên Xâm lược và là Sen Đầm quốc tế.
    – Ngụy Quân ngụy quyền là tay sai của Đế quốc Mỹ.
    – Xã hội chủ nghĩa nhất định thành công.
    –  Hồ chí Minh vĩ đại, vị cha già cứu tinh của dân tộc.
    –  Đảng cộng sản việt nam quang vinh, đời đời sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta.
    – Chính Sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước trước sau như một.
    Đại loại những bài như vậy, trong học tập phải đào sâu tư tưởng, phát biểu đúng trọng tâm, sau khi lên lớp về thảo luận ở tổ gồm 18 người cho thật nhuần nhuyễn. Mỗi bài chúng tôi phải thảo luận bốc phéc trong 1 tuần. Trong học tp khi thảo luận phải nghiêm chỉnh, tự đánh giá bản thân là người có tội, được cách mạng khoan hồng tha chết, đem về đây cho cải tạo thành người hữu ích mai sau. Để đền ơn Bác và đảng, chúng tôi phải học tập tt, lao động tt. Sẵn sàng tố giác bất cứ ai có hành vi cử chỉ lời nói chống lại chính quyền cách mạng. Tuyệt đối tin tưởng vào đường lối chính sách của đảng. Vì căng thẳng quá nên có một anh ở Lâm Đồng tối ngủ cắt đứt mạch máu tự tử chết. Lúc đi vệ sinh trong giờ giải lao, anh Nguyễn Hoành biệt kích nói móc họng “tụi mày nhớ đái cho đúng trọng tâm”. Có vậy thôi mà anh bị kiểm điểm trước tổ rồi đội. Anh Lê văn Vinh trong lúc đánh Domino với chúng tôi, vô tình nói “đừng nghe lời mấy thằng Cộng sản”. Thế là mang đại họa vào mình. Thời gian hc tập chỉ có 2 tháng rưỡi nhưng cảm thấy nó dài vô tận. Đầu óc như mụ mẫm vì phải vắt óc nói láo theo đơn đặt hàng. Thế rồi cũng qua cơn gay go, chờ ngày đi lao động.
    Trong một đêm tháng 11/75 vào khoảng 11 giờ đêm, cả trại đang ngủ, bỗng hốt hong vì những tràng đạn bắn như sát bên tai. Một bóng người từ cửa sau lao vào leo lên sạp nằm kế bên tôi, chuyện gì đã xảy ra? Chừng 10 phút sau, Quản giáo và vệ binh ập vào phòng chúng tôi bắt đi anh Vinh. Thì ra anh đã cùng một nhóm ở Lâm Đồng tổ chức vượt trại. Trong khi vượt rào kẽm gai, bị phát giác nên cảnh vệ trên chòi canh bắn chết một anh, số còn lại may mắn chạy được vào phòng. 
    Tổng cộng số người chết ở Sông Mao vì di chứng của Căn bệnh Sốt rét ở Cà Tót lên đến hơn 20 chục người
    Sau khi học tập xong, 1 số đông trên 1000 người được cho về. Hầu hết là các anh có thân nhân có công với cách mng. Có cha chú tập kết trở về bảo lãnh, hoặc giữ những chức vụ không gây nợ máu với nhân dân, trong lần này có nhà văn quân đội Hải Triều (Lê Văn Hai) và hầu như những anh em có thân nhân đi tập kết trở về đều được cho về.
    Cái tết đầu tiên đến với tù cải to trong buồn tẻ, người nhà lại được phép thăm nuôi. Chúng tôi được lệnh tổ chức đêm văn nghệ thật “hoành tráng” để đón xuân. Về thể thao thì có các đội bóng chuyền ở Chợ Lầu và Hải Ninh được phép vào thi đấu. Với Tuyển thủ từ 4 quân khu về đây, Đội bóng chuyền Tổng trại 8 đã hạ dễ dàng các đối thủ vô trại thi đấu.
    Về văn nghệ, Trại B phối hợp với trại C, cùng tổ chức đêm văn nghệ ngoài trời. Tất nhiên chương trình phải được thông qua trước. Với sự tham dự của toàn thể trại viên cùng ban quản giáo. Hầu như tất cả vệ binh và gia đình đều có mặt để xem cái tụi ngụy quân này trình diễn ra sao. Đêm văn nghệ rất thành công về mặt nghệ thuật. Cán bộ quản giáo phải thừa nhận trong tù cải tạo có nhiều nhân tài, làm cái gì cũng hay cũng giỏi. Những vở kịch, mặc dù đã kiểm duyệt trước, nhưng khi trình diễn mấy anh đã cương vào nói xỏ xiên vào chính sách nên ngày hôm sau toàn bộ nghệ sĩ và trưởng ban văn nghệ Khối phải làm bản kiểm điểm.
    Ngoài ra chúng tôi còn có tờ bích báo, nội dung rất súc tích, trong đó có những bài viết có những ẩn ý sâu xa, nhưng vì trình độ cán bộ kiểm duyệt quá thấp, không thấy được nên cho đăng. Về ăn uống, tuy có thiếu thốn nhưng nhờ có thăm nuôi nên cũng tạm đủ, chúng tôi tận dng tất cả đất trong khu gia binh còn trống để trồng thêm rau xanh, trong những tháng có mưa.
    Để chuẩn bị đi lao động, chúng tôi lại phải học thêm bài lao động là vinh quang. Sau tết, toàn bộ chúng tôi rời sông Mao để bước vào cái gọi là lao động quang vinh. Chả thấy quang vinh ở chổ nào, chỉ thấy chúng nó vắt kiệt mồ hôi của người tù cải tạo, sau khi đã bẻ gãy bằng tinh thần qua các buổi học tập. Đại bộ phận làm việc tại Nông trường Bông vải Lương Sơn, Nông trường này kéo dài từ Đập Đồng mới tới Suối nhum, chạy sát với sông lũy và nằm bên kia bờ. Khu vực này trước đây thời Đại tá Ngô tấn Nghĩa còn làm Tỉnh trưởng đã khai quang phát đất cho dân Quảng ngãi vào định cư ở xã Nghĩa thuận nằm sát Đập đồng mới.
    200 người, trong đó có tôi di chuyển đến đóng quân tại Dốc Bà Chá. Nơi đây trong đêm 16 rạng 17/4/75, ĐĐ/1/ 212/ĐP của Đại úy Vĩnh đã gài địch vào trận địa mìn chống chiến Xa. Tiêu diệt 7 chiếc làm rối loạn hàng ngũ địch, tiêu diệt 7 chiếc tank và chậm bước tiến của địch trên đường tiến về Phan thiết. Chúng còn bỏ lại tại chỗ 3 chiếc, bên bờ sông chúng tôi dùng làm nhà cầu..... Nhiệm vụ của Đội chúng tôi là đắp một con đường bằng đất rải đá từ QL1 đến bờ sông có bến phà qua Sông, mục đích là chuyển số bông thu hoạch khi mùa mưa đến. Làm việc thật nặng nề, lúc đầu vừa cuốc đất vừa khiêng về đổ. Sau được tăng cường một xe chở đất. Chúng tôi phải đi xuống đồi đá ở xóm nùng Đập Đồng Mới để cuốc đá sỏi. Sau 3 tháng làm việc nặng nhọc, con đường hoàn thành. Một việc đáng tiếc xảy ra là một trái mìn chống chiến xa đã phát nổ, một em bé chăn bò đã biến mất trước mắt chúng tôi. Trước khi chuyển chỗ khác chúng tôi được cho thăm nuôi.
    Chúng tôi tập trung về nông trường Bông để thu hoạch cho đến gần tết.Trại C (thiếu úy) một số anh em khoảng 20 người tổ chức Vượt trại, Trưởng nhóm là Th/úy Trần văn Xuân và các anh Hoàng văn Toàn,Nguyễn Phương, Phạm Thời v..v... Công việc bị VC phát hiện vì có ai đó mật báo, các anh vừa lội qua sông trong đêm để qua Lương Sơn định phân tán mỏng thì lọt vào ổ phục kích của Vệ binh trại do Chính trị viên Hồng dẹo chỉ huy. Các anh toàn bộ bị bắt, may mà không có ai bị bắn chết. Anh Trần văn Xuân chủ chốt nên bị bắt cùm một năm tại Giếng Triềng, Tà Dôn, mãi khi về đến Hàm Trí mới được thả ra đi lao động.
    Gần tết một nhóm khá đông gần 400 người được cho về, gây cho chúng tôi thêm niềm hy vọng dù mong manh. Tết 1976 lại đến, chúng tôi lại tổ chức văn nghệ vui xuân, lần này Quản ca Hoàng bị làm kiểm điểm vì cho rằng dám ví quản giáo như con cò ngóng cổ nghe trong câu hát Ca dao sau đây “Ở đây không hát thì hò, hò lơ. Chẳng phải con cò mà ngóng cổ nghe”.
    ĐẬP TRÀN SÔNG LŨY
    Trước khi đi làm việc ở chỗ khác chúng tôi được cho biết là cố gắng lao động tốt sau 3 năm sẽ được cho về. Vì vậy niềm hy vọng tăng thêm, tin tưởng ngày về đã gần kề. Sau khi ăn tết xong vài ngày, Đại bộ phận đi ngược dọc con sông lũy lên đầu nguồn, qua đêm ở trong rừng ngày hôm sau đến vị trí đóng quân. Chúng tôi mới biết nhiệm vụ mới là làm con Đập tràn trên thượng nguồn Sông lũy, và đào con mương dẫn nước về tưới cho cánh đồng Bông Lương Sơn. Một bộ phận vài trăm người đến Giếng Triềng gần núi Tà Dôn để khai khẩn ruộng, sản xuất lúa gạo nuôi quân.
    BCH chỉ cho một ngày để làm chỗ ở, may mà chúng tôi qua thời gian làm việc nặng nhọc đã chân cứng đá mền mới làm kịp. Cán Bộ Thủy lợi Đoàn 8 chịu trách nhiệm thiết kế, đo đạc. Tù cải tạo chịu trách nhiệm thi công. Việc khảo sát địa chất vùng này được thực hiện vội vã, hay sự bất tài của Kỹ sư thiết kế dự án mà khi đào mương gặp phải lớp đá nằm dưới mặt đất chừng 1mét. Không thể nào đào bằng dụng cụ thông thường và bằng sức người, Quân khu 6 tại Đà Nẵng phải cung cấp chất nổ để chúng tôi đánh đá đào mương. Làm kéo dài thời gian và không hoàn thành được.
    Con Đập đã làm xong nhưng nước thì cứ bị rò rỉ, nước không tràn qua được. Ngày khánh thành con Đập đã đến, các Kỹ sư trách nhiệm bí quá đành phải hỏi ý kiến chúng tôi xin giúp đỡ. Sau khi hội ý chúng tôi giải quyết trong một đêm, bằng cách lặn xuống đáy dùng đá nhỏ chèn lại các lổ rò rỉ, nước tràn qua đập. Ngày hôm sau Đại tá Sư trưởng đến khánh thành Đập, hết lời tán dương đoàn 8, nhưng quên nhắc đến công lao đám tù cải tạo đã đổ mồ hôi, thậm chí cả máu để hoàn thành đúng kỳ hạn con Đập. Mặc dù chúng tôi đã có nhiều sáng kiến như chế tạo cần cẩu theo nguyên tắc đòn bẩy để chuyển đá lên bớt cực nhọc và năng xuất tăng rất cao, nhưng vì con mương nằm trên vĩa đá, nên đến giờ này con Đập thì làm xong nhưng con mương không hoàn thành được. Uổng công cho chúng tôi đã đổ biết bao nhiêu mồ hôi, công sức. Đúng với câu “nước sông công tù”. Gần đó đám Thanh niên xung phong được điều lên đây làm không được đành bó tay. Các em than thở là bị bắt buộc đi Thanh Niên Xung Phong. Một số lớn đã trốn về nhà vì không chụi nỗi công việc nặng nhọc và cái nắng nóng như thiêu như đốt.
    Đoàn quay phim của nhà nước lên quay đám này về làm phim tài liệu tuyên truyền, nhưng có khúc nào mà đám thanh niên xung phong làm ra hồn, nên tới mượn chỗ chúng tôi làm để quay về tuyên truyền. Tù cải tạo thì bắt trốn kỷ vào rừng, thật xảo trá hết chỗ chê.
    Thấm thoát Tết lại đến, hơn 9 tháng không được thăm nuôi lại làm việc trong điều kiện quá tồi tệ, ngày thì nắng cháy da người, đêm thì lạnh buốt xương, ăn uống đói khát, nên ai nấy đều hc hác thấy rõ. Có lần phải ăn củ nần bị trúng độc xém chết cả đội. 
    Để chuẩn bị ăn tết, BCH trại cho Tù Cải tạo thăm nuôi, để thân nhân tiếp tế thực phẩm cho tù cải to có thêm thực phẩm mà có sức cày tiếp. Ngày thăm nuôi thật rộn rịp. Bên bờ sông, từng gia đình quây quần trên bãi cỏ ăn cơm. Một anh bạn Đi úy viết một lá thư trao cho vợ gởi về cho mẹ bị cán bộ quản giáo bắt được. Tối đến bức thư được đem ra đọc cho toàn trại nghe, vì lâu quá nên tôi chỉ nhớ đại ý. Đầu thư là gởi lời thăm gia đình sau đó có đoạn viết than thở về sự cực khổ ở đây. Đồng thời cho biết là có hy vọng là sẽ được về nay mai. Trong thơ có đon viết “Đêm thì trăng sao, ngày thì nắng dọi. Con nay đã ở cuối đường hầm, con đã thấy vài tia sáng le lói ở cuối đường.” Cả đám tù như lặng câm, cảm thấy bị xúc phạm nặng nề, ngồi im lặng và càng thấm thía cho kiếp tù, giận thay lũ VC ngu xuẩn, đem cảm xúc ý nghĩ thành thật của một tù nhân ra làm trò đùa. Bức thư này được cho là phản động, nên bắt anh phải kiểm điểm nhận lỗi.
    Tết năm đó ăn tết trong buồn tẻ. Mai rừng nở rộ tô điểm cho rừng hoang thêm sắc màu. Nhưng lòng người càng ảm đạm. Càng ngày mương dài ra và gặp toàn đá, công trình bị chm lại, không biết bao giờ mới xong. Sau tết hơn 200 tù cải tạo được về. Không biết vì lý do gì toàn bộ rút về Hàm Trí. Các anh em làm ruộng ở Giếng Triềng cũng tụ hết về đây.
    HÀM TRÍ LONG HOA
    Ngay trước đồn NORA Long Hoa có con đường đất nối liền QL1 với Hàm Trí chừng 3km. Vùng này khô cằn đất đai không được màu mỡ, cách chỗ trại đóng chừng 2 km mới có vài ngôi nhà và có một giếng nước. Trong phạm vi trại có con suối cạn chảy qua. Khi có mưa thì có nước, hết mưa thì khô cn. Chúng tôi phải làm đập chận nước lại mà phải đào giếng dưới lòng suôi cũng không có nước.
    Trại A ở cách trại B + C một quãng đường ngắn, nhưng ít khi thấy nhau. Hai trại được rào lại bằng cây rừng cao 3 m. Mỗi trại được lệnh phải cất 1 hội trường. Không có dụng cụ và đinh để đóng tole. BCH trại điều 1 đội khối Đại úy ra đồn Nôra lấy Concertina về chặt làm đinh. Sáng hôm đi như đi vào cõi chết, đoàn người phải mang theo võng để khiêng người, có thể có người chết vì vòng rào Đồn toàn mìn, may mà không ai có việc gì. VC đã coi mạng những người Tù cải tạo VNCH không ra gì, thua mấy cây đinh.
    Tại đây, chúng tôi phá rừng làm rẫy, trồng bắp, cao lương, lúa, đậu phụng, đậu xanh... Một đội lên rừng lấy gỗ về cưa xẻ thành từng miếng đóng sạp cung cấp cho Quân khu 6. Nói chung Trại trung úy và thiếu úy có phần dễ dãi. Bên đại úy bị kềm kẹp một cách tàn độc.
    Toán đầu tiên vượt trại là nhóm của Đại úy Nguyễn văn Ba, Đi úy Thông Minh Xê (gồm 4 người). Sau đó không lâu, nhờ sự giúp sức của gia đình thêm một Đại úy vượt trại thành công, gây tức tối cho BCH trại, các anh càng bị khe khắt hơn.
    Trung tuần tháng 3/78, một toán Đại úy khoảng 20 anh vai mang ba lô đi ngang qua trại B, gặp lúc chúng tôi đang làm việc sát đường nên hỏi các anh đi đâu đó, các anh cho biết là đi chặt tre. Tôi thấy trong toán có những người tôi quen như Đại úy Nguyễn văn Ngư, Thông Ngộ, Đặng Phiên... Hôm sau thì nghe tin các anh vượt trại thành công. Riêng Đại úy Ngư trở về Đồng trên Sông Mao giả làm thầy Chang làm ruộng. Vì bị tố giác nên anh bị bắt nhốt tại Đồn Công an Bắc Bình (tại CK/Hải Ninh) năm 1981.
    Sau đó Trại B cũng tổ chức vượt trại nhưng bất thành, các anh bi bắt cùm chân biệt giam cho đến khi được chuyển ra A30 Phú Khánh, gồm Hoành Biệt kích, Lê quang Nồng, Trác, Quý... Để răn đe, BCH trại cho tập họp toàn thể trại viên để nghe lời thú tội của Đại tá Ngô Tấn Nghĩa gởi đến toàn thể Quân Dân Cán Chính Tiểu Khu Bình Thuận. Thật là láo khoét, lúc này Đại tá Nghĩa đã vượt biên được qua Thái Lan và đang định cư tại Mỹ. Không biết Đi tá Nghĩa nào đây. Qua giọng nói rè rè nghe không rõ. Giọng Đại tá dõm, kêu gọi tất cả mọi người an tâm học tập. Chính bản thân ông cũng đang được nhà nước khoan hồng cho cải tạo.
    Đi úy Thông minh Xê, người thượng vượt trại trước đó về sống ở buông thượng trên Buôn mê Thuộc bị bắt lại đem về dằn mặt chúng tôi. Lúc này Cộng sản VN đã tấn công và chiếm Cam Bốt. Kế tiếp là chuẩn bị đánh nhau với Trung cng, anh em môi hở răng lạnh dạy cho VN bài học. Chúng tôi được lên lớp cho biết bọn Bá quyền Tàu đỏ xâm lăng nước ta. Không còn tình hữu nghị gắn bó Môi hở răng lạnh như trong lúc học tập mà đảng đã rêu rao.
    Đầu năm 1979, còn 1 tháng nữa là Tết Âm lịch. Không phải ngày Lễ mà trại làm bò cho ăn. Chắc có chuyện gì đây, và quả nhiên như vậy. Sáng sớm tất cả mang toàn bộ hành lý tập trung ngoài sân. Danh sách đọc chia làm 3 nhóm. 100 người được cho về, 400 đi trại Sông Cái Phan Rang. Số còn lại hơn 600 lên xe ra quốc lộ 1 trực chỉ về Bắc cùng với trại A đi úy. Đây toàn là thành phần cực kỳ ác ôn còn sót lại sau bao lần sàng lọc.... theo lời kết tội của VC.
    TRẠI A 30 PHÚ KHÁNH
    Qua 1 ngày 1 đêm di chuyển liên tục, cửa bửng sau của xe tải bị khóa chặt. Mỗi xe 50 người ngồi thờ thẫn trong thùng xe. Tiểu tiện trong những thùng mang theo. Điều oái oăm, không biết vô tình hay cố ý, món thịt bò ăn hôm ra đi làm chúng tôi tiêu chảy khủng khiếp, nếu muốn nhân lúc này chạy trốn cũng không nỗi. Khuya hôm đó, xe dừng lại ở đỉnh đèo Cả cho đi vệ sinh với sự canh phòng nghiêm ngặt. Đến Tuy Hòa, xe quẹo trái trên Tỉnh lộ 7B (đại lộ kinh hoàng). Chừng 10km, phía bên phải đường là xã Thạch Thành. Bên trái là trại A 30 Phú Khánh khét tiếng. Phía trên chừng 2km là Đập Đồng Cam lớn nhất miền trung. Trại nằm sát bờ Sông Ba, cách đó 3km dọc theo sông là Phân trại Bình Sơn.
    Trước 75 khu này là Đồn điền trồng mía của người Pháp. Hệ thống dẫn thủy nhập điền rất hiện đại, đất đai phì nhiêu.VC dùng nơi này làm nông trường cho trại tù. Quá mệt mõi vì lái xe liên tục, một xe chở tù lủi xuống mương nước, may không ai bị chết, xe vào trại lúc 9g sáng, chúng tôi được bàn giao cho công an quản lý. Tiêu chảy làm toàn bộ đuối sức, không còn đứng nỗi để tập họp bàn giao. Anh em kéo ra ngồi tiêu chật kín cả hai đám ruộng lớn.
    Trại A30 là một trại khét tiếng về mức độ tàn ác dã man của CSVN. Chúng dùng tù hình sự làm toán trật tự đàn áp thẳng tay các vụ chống đối. Đứng đầu nhóm này là tên Ghe, trước đây là Xã đội trưởng VC.Y đã lạm dụng quyền lực giết chết người nên vào tù.Phụ tá là tên Bình, tên Đức, tên Sơn... Phân trại Bình Sơn dùng nhốt tù Hình sự và phản động. Trại được chia theo các đội ngành nghề gồm có Đội Rau xanh, Đội Mộc, Đội cưa xẻ, Đội gạch ngói, Đội xây sát... Đặc biệt có hai đội nữ hơn 400 chị em, tội phản động, vượt biên, hình sự, đều nhốt chung. Có 2 đội nam, tuổi các em còn rất nhỏ, có em chỉ 17 vì can tội vượt biên. Một nhà kỷ luật trang bị gông cùm chuyên nhốt những tù chính trị cứng đầu. Bên cạnh đó là nhà giam các Linh mục. Tôi thấy có 3 vị bị nhốt tại đây, trong một nhà riêng có rào bao quanh không cho ai được tiếp xúc. Bên các sư Phật giáo có vài Sư Tuyên úy nhưng cho ở chung với thường phạm nhưng phải để tóc. Chừng nửa tháng sau, các anh em của tổng trại 5 cũng bị dồn về đây. Số người tại đây tăng lên hơn 6000 người. Quả là kinh hoàng, nhưng cũng nhờ sống chung đụng như vậy mà tôi ghi nhận được nhiều điều lý thú về chế độ tàn bạo này.
    Nhà ở chật chội, tối ngủ phải nằm nghiêng mới ngủ được. Ăn uống rất kham khổ, mà lao động làm theo chỉ tiêu nên chúng tôi có phản ứng mạnh. Đại tá Phó Trưởng ty công an Phú Khánh phải đến trấn an ngọn lửa phản kháng gần như công khai qua các buổi họp đội có quản giáo tham dự. Chúng tôi có đặt thẳng những câu hỏi như: Cách mạng có nói láo hay không khi hứa với chúng tôi sau 3 năm lao động tốt sẽ cho về. Đại tá Công an tìm cách lẫn tránh, giải thích rằng tình hình biến chuyển bên ngoài rất khó khăn, các anh ở đây an toàn hơn.
    Lúc ở Tổng trại 8 cách xưng hô có phần tôn trọng phẩm giá con người, Dùng ANH và TÔI để xưng hô, nay phải xưng hô thưa Cán bộ, Ban trưởng. Thằng công an cảnh vệ quèn cũng phải đứng cách 3 bước trình với thưa vì thế chúng tôi rất bực mình nên nổ ra các cuộc vượt trại. Gần 500 người của trung úy và thiếu úy và một ít đi úy được chuyển lên Bình Sơn, vì tại đây mới được tân trang mở rộng. Đội Nữ chủ yếu là vượt biên cùng các em trai mang tội vượt biên, già thì cho về, trẻ thì tống vào Thanh niên Xung Phong.
    Gần 600 mạng khi đến nơi giao quân chỉ còn mấy mạng vì sợ không dám nhảy xe, hoặc vì lý do gì đó không dám trốn, số còn lại trốn mất làm Ban trưởng Tr/ tá Hạnh điên lên. Mới ra đây hơn tháng, gặp bão lớn ập vào, nước sông Ba lên cao, chúng tôi phải chạy lụt ra xã Thạch Thành. Đội chúng tôi được ở chung với nhà Kỷ luật trong một ngôi trường. Phòng bên hơn 40 người bị xiềng chân lại với nhau. Người gầy gò xanh xao hc hác trông rất thương tâm. Trong đó có một nữ tù nhân. Tôi hiểu ngay đây là những người tù chính trị, theo cách gọi của đảng là phản động. Những ai chống lại chế độ, không ca tụng Bác Hồ vĩ đại đều là phản động.
    Qua tìm hiểu tôi biết chị tên HỒNG. Sau ngày 30 tháng 4 ch gia nhập Phục quốc, thư ký cho nhóm Phục quốc Quân ti Nha Trang. Giáo sư Tháo, Trường Võ Tánh Nha Trang làm Chủ tịch Đảng. Năm 1976 bị bắt ra tòa ở tòa án Nha Trang. Giáo sư Tháo bị kêu án 20 năm. Riêng chị 8 năm. Sau khi bị kết án, quan tòa cho phép chị nói lời cuối cùng. Đứng dậy, chị chỉ thẳng vào mặt tên quan tòa nói lớn: “Liệu chế độ của các ông có tồn tại 8 năm nữa hay không mà các ông kêu án tôi chừng đó”. Đây mới là Anh thư của thời đại. Bọn cò mồi lập tức tuyên án chị lên 20 năm, và chị bị cùm tại nhà kỷ luật A30 Phú Khánh 1 năm. Sau khi được thả ra đội nữ, chị tiếp tục kêu gọi ch em trong đội không tham gia lao động và tỏ ra khinh miệt bọn công an. Chúng lại tiếp tục đem chị vào cùm cho đến hôm nay.
    Riêng giáo sư Tháo bị giam ở Bình Sơn trong Đội phản động. Khi được chuyển về Bình Sơn tôi ở chung với đội Phản Động này. Cái Tết 1978 đến trong lặng lẽ, ngày tết hoặc lễ lớn, khẩu phần ăn của tù cải tạo có thêm miếng thịt bằng ngón tay. Anh em sng được là nhờ cải thiện thêm khi đi lao động và của gia đình thăm nuôi.
    Ban trưởng là Trung tá Công an Trần Đức Hạnh, người Bình Định, quê mùa dốt nát, không biết sao lên được trung tá, nghe cách ăn nói thì đủ biết. Tay này rất thích hát bội nên đội văn nghệ trại có thêm gánh hát bội. Thật khổ sở chođám tù cải tạo chúng tôi vô cùng.Hễ có quan chức nào đến thăm viếng là mỗi lần gánh hát bội phải hát và khán giả là đám tù mệt mõi. Có tuồng hát đến chục lần,đó là tuồng Ngũ hổ Bình Tây.Nhân vật chính là tên tướng Tàu Địch Thanh đời nhà Tống. 1 tên đã từng cầm quân xâm lược nước ta, vậy mà y không biết lại hết lời ca tụng tên Địch Thanh là hiếu nghĩa vẹn toàn. 
    Ban Hạnh ưa trình diễn nên trại có đủ các bộ môn, Báo chí, Thể thao, Văn nghệ. Có một đêm Ban ta ghé nhà thăm nuôi được các chị nói sao không biết, Ban ta quyết định cho tất cả ai có thân nhân trong đêm đó được ra nhà thăm nuôi ngủ với gia đình. Vì nặng phần trình diễn nên Ban nhà ta tổ chức đám cưới rình rang cho một cặp ở ban văn nghệ. Trong ban văn nghệ có ch Hồng, ca sĩ đài Truyền hình Nha Trang, chị hát rất hay nên Ban Hnh rất cưng. Chị xin về Nha Trang chữa bệnh viêm mũi và trốn vượt biên luôn.
    2 anh thuộc diện phản động vượt trại thành công nhưng sau 1 tuần b bắt lại 1 anh. Ngay lập tức 1 tòa án được lập ra để xét xử Nguyễn Đỏ tại hội trường trại. Thành phần tham dự được giới hạn. Anh Nguyễn Đỏ lúc bấy giờ chừng 22 tuổi bị cái tòa án quái gỡ kết án tử hình (án trước của anh là 20 năm vì tham gia phục quốc). Ba ngày sau anh bị đem ra bắn tại chân Đèo Cả.
    Trong nhóm Đại úy từ tổng trại 8 ra đây, các anh đã có kế hoạch vượt trại chỉ chờ thời cơ. Nhân khi đi làm, các anh cướp súng đánh vào đầu tên cảnh vệ và đào thoát. Vụ này gây chấn động trong trại. Bọn vệ binh trở nên sợ sệt và có lễ độ hơn với anh em. Trong toán vượt tri hôm đó có Đại úy Trương đức Tuấn (em ruột bàTrương Đức Nghi vợ Thiếu Tá Trịnh Vĩnh Bình) và Đại úy Dậu. Tháng sau nghe tin các anh bị bắt lại khi tính vượt qua biên giới Lào. Các anh bị giải về lại A30. Nhốt trong nhà kỷ luật, những tên trật tự trại đánh các anh dã man, nhất là Đại úy Tuấn. Riêng Tr/úy Lương Hải người Chợ Lầu, trong lúc đi rừng chặt cây anh đã có hẹn với gia đình đưa bằng Honda về Sài gòn. Được một năm sống không có hộ khẩu, lại không đủ tiền chung cho công an khu vực nên anh bị bắt giải li A30. Ngày anh ra nhà Kỷ luật, tôi thấy anh như một thây ma biết đi. Khi qua được Mỹ theo diện HO, anh chết năm 1995 vì vết thương của đòn thù năm nào.
    Tôi được ở chung đội với các anh tù chính trị, VC gọi là phản động vì tham gia lực lượng Phục quốc. Ngoài giáo sư Tháo ra còn có thêm 40 anh hùng, án từ 8 năm đến 20 năm. Có một giáo sư dạy pháp văn mà tôi quên tên đã gần 80 tuổi. Bác Quang, chú Triển. Đặc biệt Th/sĩ Biệt kích Sạc lai... nhiều lắm những chiến sĩ vô danh cấp bậc chỉ là Tr/sĩ, hạ sĩ, binh nhì mà có tinh thần yêu nước một cách nồng nàn. Tôi tự thấy hổ thẹn cho bản thân vì không bằng được một phần của các anh.
    Một tù nhân đặc biệt, khi em vào đây chỉ mới 15 nay 18 tuổi. Được em kể lại lý do vào đây, tôi càng cảm phục. Khi VC tiến chiếm Quận Diên Khánh,Khánh Hòa,tuy em mới 15 tuổi, nhưng em căm thù VC vô cùng.Em giấu lại 1 khẩu carbin M1 với vài băng đạn.Khi Phong trào tham gia Phục quốc lan rộng,em cùng với 1 s lính VNCH lên rừng chống lại VC. Bị bao vây, tất cả giơ tay đầu hàng giặc nhưng em thì không. Em đã chiến đấu tới viên đạn cuối cùng và bị thương bất tĩnh. VC nghĩ em đã chết nên không bắn bồi. Khi xác em được khiêng về thì em tĩnh lại. Nếu em trưởng thành chắc đã lãnh án tử hình vì có vài công an đã bỏ mạng trước mũi súng của em.
    Với án tập trung cải tạo, không có ngày về. Còn nữa, Anh Sơn, anh Doan, biệt kích cũng là những chiến sĩ kiêu hùng. Trên đường đi về sau khi lao động, 2 anh đã lẫn vào đám cỏ biến mất.Vài người cóbiết nhưng không ai báo cho quản giáo. Đến khi điểm danh vào cổng mới thấy thiếu 2 anh. Nửa tháng sau, nghe tin 2 anh đã bị bắt lại nhốt vào nhà Kỷ luật, khỏi phải nói 2 anh lãnh đủ mọi đòn thù. Đa số các anh trong Nhóm phản động này đều xanh xao và ho ra máu. Các anh cho biết b công an tra tấn khi bị bắt vì tham gia phục quốc.
    Vì vượt trại quá nhiều, để trấn an và tìm kế hoạch chận đứng, Ban trưởng Hạnh cho triệu tập 1 cuộc họp gồm tất cả Quản giáo, Đội trưởng, Đội phó và Thư ký đội (Trại có 54 đội) ngoài ra còn có nhiều tổ biệt lập... Mở đầu, Ban Hạnh yêu cầu tất cả mọi người cho biết sự thật, lý do tại sao gần đây lại vượt trại nhiều. Ông ta hứa danh dự là không bắt tội vì nói sự thật, có đụng chạm với BCH trại. Sau gần 5 phút im lặng, một anh xin phát biểu như sau: 
    - Thưa Ban và Quản giáo. Không có gì khó hiểu cả, lúc còn ở Tổng trại 8 có hứa là sau 3 năm sẽ giải quyết cho về. Nay trên không giữ lời hứa. Là con người, chúng tôi có tình cảm. Vợ con ở nhà nheo nhóc, đói khát. Có chị phải bán thân trong tủi nhục mà nuôi con chờ chồng. Ban có biết không? Các anh Đại úy nhìn thấy Th/úy, Tr/úy chưa về thì đến bao giờ các anh mới được về đây? Chỉ còn con đường vượt trại. Nếu 1 năm nữa mà không được về chắc bản thân tôi cũng phải tự ra đi. 
    Ban Hạnh đánh rầm một cái xuống bàn quát im ngay. Sau đó ông ta hứa là sẽ cứu xét, đề nghị cho về, và đề nghị Trại viên an tâm, chấm dứt việc vượt trại. May mắn sau đó Ban Hạnh giữ lời hứa không truy cứu người phát biểu hôm đó.
    Cái Tết năm 1979 lại qua trong lặng lẽ tại phân trại Bình Sơn. Những đợt về thì nhỏ giọt tượng trưng vài chục mạng. Lao động càng ngày càng gian nan, nên tiếp tục có những cuộc vượt trại. Tại Phân trại Bình Sơn, Tr/úy Hoành Biệt kích, hẹn cùng Quý người Đà Lạt cùng vượt trại. Đây là nhóm 2 người vượt trại ở Hàm Trí. Không biết lý do gì anh Quý thất lạc với anh Hoành, nên chỉ mình anh Hoành ra đi, còn anh Quý lẫn quẩn trong đêm bị Công an trại truy đuổi bắn chết khiêng về bỏ nằm trước trại cho tất cả thấy để dằn mặt.
    Nhờ sự đấu tranh của Tù cải tạo mà Tháng 10/80, 500 người được thả về. Sau đó tháng 12 lại thả về vài trăm. Gia năm 1981 coi như gần hết các anh em ở tổng trại 8 Sông Mao đưc về. Người Tù có cấp bậc cao nhất ti đây là Đại tá Lương, ông đã bị cô lập không cho chúng tôi tiếp xúc. Luôn luôn bị đám Trật tự rình mò theo dõi, không biết ông về thời gian nào.
    Ra khỏi nhà tù nhỏ, bước chân vào nhà tù lớn hơn. Tất cả Chiến Sĩ Quân lực VNCH bị đày đọa về thể xác lẫn tinh thần. Hận thù triền miên do cộng sản tiếp tục gây ra biết đến bao giờ chấm dứt.
    Ghi lại đây một đoạn đời bi thảm, không phải để kể l hay kêu than cho số phận của người lính, người dân Miền Nam bị bán đứng, đến nổi phải nát cửa tan nhà. Tất cả những dòng chữ trên đây đều là máu và nước mắt của không riêng tôi mà là của tất cả bạn bè đồng đội đã cùng bước vào cổng thiên đường xã nghĩa và một số may mắn trong số này có tôi đã trở về để làm một nhân chứng trước lịch sử dân tộc. Mục đích cũng chỉ thế thôi!
    Cao Hoài Sơn
    Cựu Trung Úy QLVNCH



Văn Hóa Cãi Nhau Của Người Việt
  • Tôi có một bạn người nước ngoài rất thích học tiếng Việt và tìm hiểu về văn hóa VN. Có một lần cậu ấy hỏi:

    - “Khi cãi nhau thì người VN thường thể hiện đặc điểm văn hóa như thế nào?”

    Tôi đã cố gắng khái quát giải thích cho cậu ấy nhận biết những đặc điểm dễ thấy nhất như sau:

    Đặc điểm thứ nhất:

    Khi cãi nhau người VN hay quan tâm đến sở thích của nhau nhất. Bằng chứng là họ hay hỏi người kia:

    - “Bây giờ mày thích gì? Mày muốn gì? Mày muốn sao?”

    Rất nhân văn! Đúng không?

    Anh bạn nước ngoài gật gù.

    Đặc điểm thứ hai:

    Khi cãi nhau, người VN hay nhắc nhở nhau nhớ về cha mẹ của mình. Bằng chứng là họ sẽ hỏi đối phương:

    - “Mày có biết Bố mày là ai không? Mẹ mày là ai không?

    Có ý nhắc nhở đối phương cần hiếu kính với cha mẹ.

    Anh bạn nước ngoài gật đầu rồi bổ sung: “Khi cãi nhau người Việt còn chủ động giới thiệu lý lịch tư pháp của họ cho đối phương biết. Bằng chứng là họ thường nói: “Mày có biết tao là ai không?”

    Tôi hơi ngạc nhiên về kiến thức hiểu biết của cậu bạn Tây rồi giảng giải tiếp:

    Đặc điểm thứ ba:

    Khi cãi nhau, người Việt hay giúp đỡ, giáo dục nhau, bằng chứng là họ hay nói:

    -“Bố mẹ mày không dạy được mày thì để tao dạy!”

    Anh bạn nước ngoài gật đầu tán thưởng.

    Đặc điểm thứ tư:

    Khi cãi nhau, người Việt lại thường hay “tác động” đến phụ huynh của nhau chứ không tác động trực tiếp đến đối tượng, bằng chứng là họ hay nói: “Tao đập chết cha mày bây giờ ! Tao đánh chết mẹ mày đấy!

    Đợi cho cậu bạn Tây vỗ tay xong, tôi kết luận:

    - Đấy! Sơ sơ vài đặc điểm như vậy để bạn dễ nhận ra văn hóa cãi nhau của người VN.
    Cậu bạn Tây gật gù ra vẻ hiểu và nói:

    - Em xin bổ sung 2 điểm nữa mà em mới phát hiện ra:

    Đặc điểm thứ 5 là: khi cãi nhau người Việt hay kiểm tra sức khỏe của đối phương và chỉ cho đối phương biết họ đang mắc bệnh gì. Bằng chứng là họ hay nói:

    - “Thằng này to gan lớn mật nhỉ, dám trêu ngươi à?”

    Thấy tôi gật gù tán thưởng, anh bạn Tây nói tiếp:

    Đặc điểm thứ 6 là, khi cãi nhau người Việt rất muốn mẹ đối phương có thêm em bé, bằng chứng là họ hay nói: “Đ… mẹ mày”.

    Tôi á khẩu luôn.

     




Chuyện Chẳng Ngờ
  • Tại một quán cà-phê khá thanh lịch nằm ngay bên cạnh Bưu Điện Sài Gòn người ta thấy hai người đàn bà đang ngồi nói chuyện với nhau. Người thứ nhất tên Nga – một cô gái khoảng hai mươi ba tuổi, mặt mũi xinh xắn có dáng tự tin yêu đời của một người con gái có chồng, được chồng cưng chiều, hạnh phúc. Người thứ hai tên Nguyệt – một người đàn bà khoảng ba mươi lăm tuổi, kinh nghiệm, lịch lãm. Bà ta thuộc mẫu người biết hưởng thụ những gì đang có nhưng cũng sẵn sàng ứng phó với mọi bất trắc của cuộc đời. Nói tóm lại bà ta thuộc típ người bản lãnh. Họ vừa là đồng nghiệp vừa là đôi bạn tri kỷ cho nên câu chuyện thật thân tình, cởi mở. Người đàn bà trẻ lơ đãng nhìn ra đường, lấy chiếc thìa gõ nhẹ vào ly nước cam vắt vừa nói:

    - Anh ấy yêu em hết mực, cái gì ảnh cũng chiều em cả.

    Khẽ nhướng lông mày, Nguyệt – người đàn bà lớn tuổi nói với giọng bâng quơ:

    - Thì mới lấy nhau mà. Ba năm còn mới lắm. Thời kỳ “rodage”, thời kỳ “hồng” mà em.

    Nga không chú ý lắm đến lời bình phẩm của Nguyệt, nàng mơ màng nói tiếp:

    - Ảnh nói em là người yêu lý tưởng, là người trong mộng của ảnh. Ảnh nói từ ngày lấy em tới giờ ảnh muốn đâm mù cả hai mắt để không còn nhìn thấy người đàn bà nào khác trên cõi đời này nữa.

    Lúc này thì Nguyệt cười, tiếng cười giòn tan, nàng nói:

    - Em tôi ngây thơ như cô “công chúa ngủ trong rừng” vậy đó.

    Nga phản ứng nhưng rất nhẹ nhàng:

    - Thật mà chị !

    Nghe trả lời thế Nguyệt cầm tay Nga, lắc nhẹ, nói:

     - Em ơi đàn ông nó là sản phẩm của ông Trời sinh ra để tán tỉnh đàn bà. Gặp người đàn bà nào nó cũng nói như vậy đó.

    Dường như Nga đã đưa chiếc xe của mình vào “xa lộ tình yêu” cho nên tình cảm vẫn không giảm tốc độ.

    - Anh ấy chung tình lắm chị ạ. Em dám cá bây giờ cho một cô gái thật đẹp sống chung trong nhà thì anh ấy vẫn chỉ biết có em thôi.

    - Thế em đã thử chưa ?

    - Cần gì phải thử chị !

    Lần này thì Nguyệt nghiêm trang nói:

    - Không thử sao biết người ta thật chung tình với mình ?

    Dường như hơi bị đuối lý nhưng Nga vẫn chống chế:

    - Thử thì cũng được nhưng ngộ nhỡ ?

    - Ngộ nhỡ tức là người ta đâu thực sự chung tình với mình, có phải vậy không ?

    - Nhưng làm thế nào để thử ?

    - Cái đó dễ lắm. Chị cũng đã  thử ông xã chị. Cách đó dịu dàng nhưng hữu hiệu lắm.  

    Nói xong Nguyệt lấy hai tay chụm lại, nói nhỏ vào tai Nga. Không hiểu Nguyệt nói gì mà chỉ thấy Nga khúc khích cười, nói:

    - Kế ấy hay thật! Chị đúng là bậc thầy. Em phục chị sát đất!

    Thấy Nga đã theo đúng kế hoạch, Nguyệt nói như thúc giục:

    - Thế bây giờ anh ấy đang làm gì ? Có thể thử ngay bây giờ được không?

    Khẽ chớp mắt Nga nói:

    - Giờ này ảnh đang ở nhà, ảnh nghỉ phép.

    - Trời ơi, đúng là dịp may bằng vàng! Vợ đi làm, chồng ở nhà nghỉ tà tà chính là lúc tâm hồn mấy chả lâng lâng tìm về quá khứ, ôn lại tình cảm xưa cũ. Đây chính là thời gian tốt nhất để thử thách đó em.

    - Được rồi em sẽ làm ngay.

    Nói xong Nga đi tới quầy điện thoại, bỏ tiền rồi quay số. Nàng rút ở trong ví ra một chiếc khăn mùi-soa, cẩn thận bọc quanh chiếc ống nói. Còn Nguyệt thì đứng bên cạnh đưa mắt nhìn như thể cô giáo theo dõi học sinh làm bài thi. Khi nghe tiếng chuông reo và biết chắc chồng mình đã nhắc máy điện thoại, Nga tằng hắng, sửa giọng để chồng không nhận ra giọng nói của mình, rồi run run nói:

    - Allô, có phải anh Tùng đó không ?

    - Vâng, tôi Tùng đây. Xin lỗi ai đầu dây vậy ?

    - Em đây. Em là Mộng Điệp. Anh không nhận ra em à ?

    - Không. Nhưng Mộng Điệp nào vậy ?

    - Trời ơi anh tệ bạc quá (giọng nghen ngào) ! Mộng Điệp là cô thư ký của anh lúc anh còn là phó trưởng ty ở Nha Trang đó. Anh không nhớ em sao ?

    - Trời ơi Mộng Điệp ! Nhưng làm thế nào em có số điện thoại của anh ?

    -  Sau khi được bổ về Gia Định làm trưởng ty anh hứa ra Nha Trang cưới em. Anh gặp mấy cô gái đẹp ở Sài Gòn anh quên em (khóc vì uất ức) ! Em tìm anh như thể tìm chim. Em đến Bộ để hỏi thăm tin tức về anh.

    - Em tha lỗi cho anh. Âu cũng tại duyên số. Lúc đó Sài Gòn giới nghiêm, đường xá xa xôi cách trở. Tuy lấy bà ấy nhưng anh....

    - Nhưng làm sao? (tí nữa thì Nga thét vào máy “ Đồ thằng cha cà chớn!” nhưng may mà ngưng lại được)

    - Vẫn nhớ em!

    - Trời ơi ! (Nga muốn quật chiếc máy điện thoại xuống đất nhưng Nguyệt đứng bên cạnh lấy tay chỉ vào miệng ý nói cứ bình tĩnh )

    -  Anh có biết bao năm nay em đau khổ vì anh không ?

    - Anh xin lỗi Mộng Điệp mà ....

    - Thế bây giờ em muốn gặp anh ít phút có được không ?

    - Cái đó thì ... (giọng ngập ngừng)

    - Em xin anh một ân huệ cuối cùng. Gặp nhau ít phút rồi em sẽ vĩnh viễn ra đi để trả lại hạnh phúc cho anh với.... người ta.... (khóc tấm tức)

    - Gặp thì cũng được (giọng e ngại) nhưng không biết bà ấy có ghen không ? (Nghe nói tới đây thì Nga muốn hét to vào máy “Ghen hả! Tôi cắt cổ ông chứ ghen hả? Thằng cha cà chớn! “)

    - Thôi được rồi. Anh cũng liều một chuyến. Thế gặp em ở đâu bây giờ ?

    - Em đang đúng ở Bưu Điện Sài Gòn để gọi điện thoại cho anh. Trước cửa bưu điện có một sạp báo. Anh tới sạp báo, giả bộ nhặt một tờ lên coi. Em trong này nhận ra anh là em chạy ra gặp anh ngay.

    - Thôi được rồi. Mười lăm phút nữa anh sẽ có mặt ở đó.

    -  Đừng bỏ em một mình nghe anh ! (giọng não nề)

    Nói xong Nga gác máy điện thoại, quay qua nhìn Nguyệt. Dù Nga không nói gì nhưng Nguyệt đã hiểu rõ nội dung câu chuyện. Hai người nấp sau cánh cửa kính, hồi hộp nhìn ra ngoài. Khoảng mười lăm phút sau một chiếc xe Lambretta chờ tới. Người lái xe không ai khác hơn là Tùng. Chàng ta xuống xe rồi dựng xe ở bờ lề.  Nhìn thấy chồng, Nga mở trừng trừng đôi mắt. Và khi Tùng  tiến tới xạp báo, đưa tay nhặt lên một tờ thì Nga té xỉu vào cánh tay của Nguyệt.

    Ba ngày sau Nga đi làm trở lại, phấn son lợt lạt, đôi mắt quầng thâm, mặt mày trầy sướt – dấu tích của những trận vật vã, chén bay đĩa bay với chồng trong mấy ngày qua. Gặp Nguyệt, Nga không thèm chào hỏi, mặt lầm lầm lì lì, nói:

    - Em xin nghỉ phép mười ngày, đưa sấp nhỏ về bên ngoại cho thằng chả ngủ một mình cho biết thân!

     

    Lời người kể chuyện: Thử thách theo cái kiểu này thì ông chồng nào không chết thì cũng bị thương.

     

     Đào Văn Bình

    (trích Tuyển Tập Mê Cung xb năm 2019, Amazon phát hành)

     

    --


Buổi chiều ở Dak Pek

  • Chiếc trực thăng khổng lồ Chinook chuẩn bị rời phi trường Kontum vào sáng ngày 29 Tết trong tiết lạnh cuối năm. Trời còn sương mù lãng đãng vây quanh nhà ga thưa thớt người. Những kiện hàng hóa được chuyển vội vã vào trong khoang máy bay. Gió thổi thốc nghe phần phật y như là đang trong mùa bão rớt. Lạnh tím môi. 1 đoàn chừng hơn 10 người bước chệnh choạng lên sàn máy bay đứng ở hai bên thành, tay nắm chặt dây thòng phía trên cho khỏi ngã. Chúng tôi đang lên đường đi tiền đồn Dak Pek trong chương trình ủy lạo “Cây mùa Xuân chiến sĩ.”
    Thông thường hằng năm gần giáp Tết âm lịch, phòng Tâm lý chiến tiểu khu đều lo chuẩn bị người và tặng vật để đi ủy lạo một vài tiền đồn xa xôi tại địa phương, đặc biệt năm nay có sự phối hợp với Tòa hành chánh tỉnh và nhất là có sự tham gia đông đảo của các ca sĩ trong Ban văn nghệ Yaly vừa mới được thành lập trực thuộc cơ sở dân vận chiêu hồi tỉnh. 
    Sau phiên họp phân công, tôi được cử làm trưởng đoàn đi Dak Pek là nơi xa nhất, sát biên giới Lào. Sở dĩ tôi được cử đi nơi nầy là vì hồi mới tái lập lại quận lỵ Dak Pek sau “Mùa Hè đỏ lửa”, Thiếu tá Vương Thế C. nguyên Trưởng phòng Nhân Dân Tự Vệ tỉnh được cử đi làm Quận trưởng có đề nghị với Trung tá Tỉnh trưởng xin cho tôi đi làm Phó quận với lý do là quận mới tái lập cần người năng nổ và am tường công việc nhưng không được vì về quân sự là Chi khu nhưng về phương diện hành chánh như 1 xã đông dân, do đó chỉ cần một Phái Viên hành chánh điều hành công việc với ngạch Thư ký là đủ. Nghĩ đến mối thâm tình năm xưa nên tôi cũng muốn nhân dịp nầy đi thăm Thiếu tá C. 1 chuyến.
    Suốt gần 2 tiếng đồng hồ di chuyển, chúng tôi ngồi dựa vào thành máy bay lạnh ngắt. Nhìn nhau không chuyện vãn được gì. Chỉ nghe tiếng gió hòa quyện với tiếng động cơ cánh quạt. Đến khi có tiếng loa của nhân viên phi hành báo máy bay đang hạ độ cao để chuẩn bị xuống bãi đáp chúng tôi mới đứng lên nắm chặt các dây thòng phía trên. Nhìn ra bên ngoài chỉ thấy máy bay đang lướt chui vào trong những cụm mây dầy đặc. Khoảng gần 15 phút sau mới dần dần thấy cảnh núi rừng xanh thẫm, bạt ngàn quyện lẫn với khói sương mù chập chờn ở bên dưới.
    Máy bay đáp xuống cạnh đầu đường băng lót bằng vỉ sắt dài non 1 cây số. Ở cuối đường băng là 1 chiếc phi cơ vận tải C-130 bị gãy đôi nằm nghiêng trơ trọi giữa đám cỏ dại cao tầm hơn đầu người. Chỉ còn thấy một ngôi sao màu trắng trên thành máy bay là rõ nhất. Chúng tôi nhanh chóng nhảy xuống sàn bãi đáp vàchạy băng về hướng cây cầu sắt nhỏ bắc ngang qua bên kia đường băng.Đồi cây cỏ xanh ngát thấp lững vây quanh, bóng người rải rác nhỏ xíu trên các công sự đắp bằng bao cát, chung quanh giăng hàng rào kẽm gai dầy đặc.
    Thiếu tá C. cùng sĩ quan tùy tùng xuống đồi đón chúng tôi rồi cùng nhau lên quá lưng chừng đồi nơi đặt Bộ chỉ huy Chi khu Dak Pek. Không có bảng hiệu, không có sân, chỉ có cột cờ cắm trên nóc công sự bao quanh bởi các nắp hầm kiên cố. Binh lính tụ tập khuân hàng hóa lên đồi, một số khác phụ giúp nhà thầu đem thực phẩm khô vào trong các dãy nhà lợp tôn dọc theo dưới chân đồi để bán ngay cho dân chúng. 
    – Kính chào Thiếu tá.
    – Ông Phó sao rồi?
    Vẫn như xưa, lúc nào ông cũng gọi tôi là ông Phó mặc dù lúc bấy giờ tôi đã là Trưởng ty. Không thân lắm nhưng quí trọng nhau trong chừng mực quan hệ công việc. Phòng Nhân Dân Tự Vệ nằm sát vách với Ty Nội An, nối phía sau tòa nhà chính ở tầng dưới gồm 3 ty Hành Chánh, Kinh Tế và Tài chánh. Thiếu tá C. là sĩ quan duy nhất có phòng làm việc ở đây vây quanh bởi các viên chức và nhân viên dân sự ở Tòa hành chánh tỉnh. Dáng người tầm thước, da ngăm đen sạm, gương mặt khắc khổ ít khi cười và ngồi saubàn giấy y như một pho tượng thật. Đã vậy mà lại nói giọng Huế nặng chịch nữa thì nhân viên thuộc quyền vào trình giấy tờ cũng còn rón rén nhẹ chân huống hồ chi là người ngoài.
    Phòng Nhân Dân Tự Vệ điều hành một lực lượng bán quân sự đông đảo và khó khăn nhất. Báo chí thường hay có mục chuyện dài “Nhân Dân Tự Vệ” đủ để nói lên sự phức tạp của đơn vị nầy. Kể từ khi về làm Trưởng Phòng, Thiếu tá C. xin ở luôn trong phòng trực bên Tiểu khu như người độc thân. Ít người biết về gia cảnh của ông. Cho đến khi ông đi nhậm chức Quận trưởng Dak Pek cũng khăn gói lên máy bay một mình đi ngay khi có công điện, chẳng có ai đưa tiễn hay tiệc tùng gì cả. Thói quen là vậy, không nhậu nhẹt cà phê hay quán xá. Chỉ ghé qua văn phòng tôi nói ít lời rồi chia tay. Thế thôi.
    Cùng ngược dốc lên đồi tới Bộ chỉ huy Chi khu nằm lọt trong hầm sáng lù mù bởi vài ngọn đèn vàng với tiếng kêu rè rè phát ra từ một máy phát điện nhỏ đã cũ. Lạnh lắm. Một dãy bàn dài sắp dọc theo đường hầm thông qua các phòng nhỏ không có ánh sáng. Chung quanh khu vực, binh lính đi lại rộn ràng chuẩn bị dọn thức ăn cùng với mấy chai bia và các can nhựa đựng đầy rượu trắng. Tốp ca sĩ áo dài đủ màu sắc đang lất phất sau các dãy bàn tiệc cuối năm.
    Bắt đầu buổi tiệc, Thiếu tá C. chỉ nói ít lời cảm ơn phái đoàn và đặc biệt mời tôi nâng ly chúc mừng năm mới. Không có nhạc đệm chỉ trừ 1 cây đàn guitar do 1 binh sĩ đang loay hoay vặncần đàn để điềuchỉnh âm thanh.Tốp ca sĩ đang chuẩn bị hát thì có tiếng ồn ào từ bên ngoài. Lính Thượng say rượu ở dưới chân đồi đang tập họp chen nhau vào trước cửa hầm.Thiếu tá C. nhanh chóng ra lệnh chuyển tất cả ra ngoài sân trước hầm chỉ huy để tránh mọi người khỏi chen lấn cố vào bên trong hầm. Buổi văn nghệ bắt đầu, không có sân khấu ngoài trời, ca sĩ đứng trình diễn chỉ tựa vào khoảnh đất cao trước mấy lỗ châu mai ở lưng chừng đồi. Lính tráng đứng ngồi đông nghẹt vây quanh ở phía dưới. Âm thanh nghe không rõ, gió núi thổi vi vút. Thế mà khi ca sĩ cúi đầu chào chấm dứt phần trình diễn thì tiếng vỗ tay hò hét vang trời. Chưa từng thấy. Gần đến giữa chừng, người lính điều khiển chương trình yêu cầu Trung úy T. cùng vợ ra giúp vui buổi văn nghệ. Mới đầu còn do dự nhưng sau đó mọi người kêu gào dữ quá nên từ trong đám đông Trung úy T. mang đàn guitar cùng với vợ bước lên trình diễn. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi thấy người bước lên gò đất cùng với Trung úy T. là cô giáo thuộc Sở học chánh Kontum đã tháp tùng cùng phái đoàn đi ủy lạo sáng nay. Hai người song ca một bản nhạc của Lê Uyên – Phương thật tình tứ.
    Trời bắt đầu âm u, gió thổi lùa qua lưng đồi. Lạnh buốt. Mọi người bắt đầu tản ra từng nhóm vậy quanh các ca sĩ cười đùa vui vẻ. Một số vào bên trong hầm. Tôi cũng vào bên trong cùng với Thiếu tá C. và các sĩ quan chi khu. Đặc biệt cố ý đi bên cạnh Trung úy T. để biết thêm về gia cảnh. 
    Sinh ra và lớn lên ở Kontum. Năm 1968 Tết Mậu Thân, cộng sản tràn về chiếm thành phố.Lúc bấy gi Trung úy T. còn là một học sinh theo gia đình chạy giặc về Nam tạm trú ở trại tạm cư Long Thành. Trên đường tản cư quen được cô H. cũng theo gia đình về cùng trại tạm cư. Quen biết nhau từ đó. Cám cảnh gia đình cô H. cha mẹ chỉ có mỗi 1 cô con gái. Nhà nghèo, sống chỉ bằng mấy luống rau ở Phương Nghĩa, hằng ngày hái rau đem ra chợ bán. Sau khi hồi cư trở về Kontum, họ yêu nhau và lập gia đình được 1 năm. Chàng theo lệnh tổng động viên lên đường nhập ngũ trường Bộ binhThủ Đức, nàng thi đậu vào trường Sư Phạm Qui Nhơn.Ra trường chàng chọn nhiệm sở về quê Tiểu khu Kontum và được bổ nhiệm về làm ở Phòng Nhân Dân Tự Vệ tỉnh mấy năm. Sau đó khi Thiếu Tá C. đi làm Quận trưởng Dak Pek đã xin cho Trung úy T. đi theo làm Trưởng ban 3 Chi khu. Nàng sau 2 năm ở Qui Nhơn, ra trường cũng xin về Kontum hiện đang là cô giáo Tiểu học, có 2 con nhỏ đang cư ngụ cùng với cha mẹ ở xã ven Phương Nghĩa. Cuộc sống của họ an lành bên nhau cho tới khi Trung úy T. nhận nhiệm vụ lên Chi khu Dak Pek. Xa cách lâu, đôi ba tháng mới có phép về Kontum thăm gia đình vợ con một lần cũng chừng 5, 3 bữa rồi lại đi. Cứ thế dòng đời trôi đi không biết ra sao. Nhưng chắc chắn một điều là họ rất hạnh phúc. Cô H. kể cứ mỗi lần về phép Trung úy T. rất vui quanh quẩn trong gia đình, sửa sang nhà cửa. Đặc biệt thích được làm phu “kéo nước giếng” cho vợ giặt đồ trận. Bên thành giếng họ kể cho nhau nghe những câu chuyện đời thường hay gặp. Hạnh phúc giản dị thế thôi.
    Từ lúc lên hát chung với chồng, cô giáo H. sau đó luôn quấn quýt bên Trung úy T. nói cười vui vẻ, thỉnh thoảng hơi e thẹn nhìn về phía các ca sĩ hơi nheo nháy mắt. Giữa núi đồi bao la xanh ngát đôi bạn bước khập khiễng bên nhau là hình ảnh dễ thương nhất trong những ngày cuối năm nơi địa đầu giới tuyến.
    Đến chiều, phái đoàn ủy lạo đang chuẩn bị chờ máy bay trực thăng lên rước về thị xã, bỗng nhiên Thiếu tá C. cho biết ngày mai còn có chuyến bay lên tiếp tế cho Tiểu đoàn Biệt Động Quân biên phòng hiện đóng ở bên kia triền núi đối diện với đường băng bãi đáp trực thăng. Thiếu tá C. khẩn khoản:
    – Hay là ông Phó ở lại chơi chiều mai về. 
    Vừa nói với tôi, Thiếu tá C. lại vừa liếc mắt nhìn về phía Trung úy T.
    Trong khoảng thời gian buổi chiều quanh quẩn vui chơi, chuyện trò với các sĩ quan chi khu tôi được biết sơ qua về tình hình an ninh tại đây. Sáng sớm chỉ nhìn xuống con sông nhỏ chảy dưới chân đồi là biết được cường độ xâm nhập của quân Bắc Việt như thế nào. Nước đục ngầu màu đỏ quánh là họ đang bắc cầu vượt qua sông ồ ạt. Nước càng sánh là họ di chuyển liên tục kể cả xe cơ giới, nước nhạt là họ nghỉ dưỡng quân. Trước đây thường bất kể ngày đêm, không lực Hoa Kỳ phối hợp với Việt Nam thực hiện đều đặn những phi vụ thả bom phá hủy cầu, đường hành lang xâm nhập của họ. Nhưng gần đây kể từ sau khi ký Hiệp Định Paris năm 1973 không còn các phi vụ hoạt động như thế nữa nên càng lúc họ càng chuyển quân liên tục,ồ ạt và sửa sang đường xá lớn hơn mà không có 1 sự ngăn chận nào. Phía VNCH chỉ co cụm hoạt động an ninh quanh vòng đai đơn vị không có hành quân ra xa, chủ yếu là thu lượm tin tức tình báo để báo cáo về Tiểu khu. Chưa có đánh lớn ở các nơi khác thì tình hình tương đối yên ổn. Nhưng khi quân CSBV mở chiến dịch tấn công qui mô như các năm 65, 68, 72 thì coi như chi khu hoàn toàn bị xóa sổ. Sau đó khi tình hình yên ổn, địch rút đi thì phía VNCH tái lập chi khu trở lại. Cứ như thế mà chờ.
    Tôi lưỡng lự chưa quyết định và im lặng. Dĩ nhiên mọi người trong phái đoàn sẽ trở về dù tôi có ở lại hay cùng về. Tôi một phần hiểu ý của Thiếu tá C. Trong khi chưa có quyết định gì cả thì có tin báo thời tiết xấu,trực thăng có thể không lên theo đúng như lịch trình đã hẹn từ trước. Mọi người trong đoàn ủy lạo nhốn nháo. Lo sợ kẹt không về kịp tết, nhưng sợ nhất là lỡ địch pháo kích hay tấn công chi khu trong đêm thì vô cùng nguy hiểm. Lo sợ hơn nữa khi các sĩ quan chi khu cho biết trễ hẹn là chuyện bình thường có khi kéo dài cả tuần lễ do thời tiết xấu liên tục mà cũng có khi do bên không đoàn bận nhiều phi vụ khác quan trọng hơn. Chỉ biết chờ thôi và không thể làm gì khác hơn được.
    Thiếu tá C. ra lệnh cho binh sĩ chuẩn bị thu xếp dọn chỗ cho phái đoàn nghỉ qua đêm. Thật phức tạp khi có đoàn nữ ca sĩ ở lại trong hầm, tuy không nhỏ lắm nhưng hơi bất tiện vì không có ngăn phòng và đa số sĩ quan binh lính ở đây đều ngủ trên ghế bố xếp dã chiến hoặc túi ngủ xếp chạy dài quanh co, luồn qua các hầm công sự. 
    Trong khi mọi người đang bận rộn và lo lắng cho việc ở lại qua đêm thì bất ngờ hiệu thính viên trực máy báo cho Thiếu tá C. biết là 30 phút nữa sẽ có chuyến trực thăng đến để bốc phái đoàn ủy lạo sáng nay trở về tỉnh. Lúc bấy giờ mọi người lại nhao nhao lên và không còn đủ thì giờ để chia tay. Tôi hỏi Thiếu tá C. có thể cho phép một mình cô H. ở lại chờ chuyến bay kế tiếp trong một vài ngày không, ông gật đầu đồng ý. Sau đó tôi báo cho cô H. biết là cô có thể ở lại nếu muốn.
    Trời nhá nhem chưa tối hẳn, chúng tôi xuống địa điểm bên nầy cây cầu sắt gần bên kia bãi đáp để chờ máy bay trực thăng đến. Từ xa nghe rõ tiếng gió rít rất dễ nhận. Đang đứng chờ lơ đễnh tôi bỗng quay lại thấy vợ chồng Trung úy T. đang vội vã chạy xuống đồi để kịp đến nhập bọn với chúng tôi. Thấy vậy tôi nhìn cô H. đang còn khóc sướt mướt. Trung úy T. quay sang nói nhỏ với vợ:
    – Em phải về, ba má và hai con đang chờ...
    2 tháng sau, chi khu Dak Pek thất thủ, địch tràn ngập Bộ chỉ huy. Tất cả sĩ quan, binh lính đều được ghi nhận là mất tích.
    Không ngờ buổi chiều hôm ấy lại là chiều tiễn biệt. 
    Giã từ Dak Pek mù sương, núi rừng thâm u và giã từ luôn người chiến sĩ đã ở lại trên đồi chi khu văng vẳng bên tai tiếng rùng mình vi vu gió núi.
    – Em phải về, phải về...

    Trần Bạch Thu



Cả sân bóng hỗn loạn, cầu thủ và trọng tài nằm la liệt trên sân
  • Một trận đấu bóng đá tại Tanzania đã bị gián đoạn khi một đàn ong bất ngờ xuất hiện,

    khiến cầu thủ, trọng tài, và thậm chí cả người quay phim phải tìm chỗ ẩn nấp.

    Sự việc xảy ra trong trận đấu trước mùa giải giữa City FC Abuja và JKU FC tại Sân vận động Kwaraa, Babati, Tanzania. Khi trận đấu đang hòa 1-1 ở phút 78, một đàn ong bất ngờ bay vào sân, buộc các cầu thủ hai đội phải nằm sấp xuống đất để tránh bị tấn công. Trợ lý trọng tài, người điều khiển máy quay truyền hình, và các cầu thủ dự bị cũng nhanh chóng tìm chỗ trú ẩn, với nhiều người trốn dưới băng ghế dự bị.

    Cả sân bóng hỗn loạn, cầu thủ và trọng tài nằm la liệt trên sân- Ảnh 1.

     

    Các cầu thủ bóng đá đã nằm xuống để tránh

     

    đàn ong. (Nguồn: X/ESPNFC)

     

    Điều thú vị là khán giả trên khán đài vẫn bình tĩnh ngồi tại chỗ, không rõ vì họ không nhận ra tình hình hay chỉ đơn giản là giữ vững tinh thần dũng cảm.

    Cả sân bóng hỗn loạn, cầu thủ và trọng tài nằm la liệt trên sân- Ảnh 2.

     

    Cậu bé nhặt bóng cũng nằm xuống đất để tránh

     

    đàn ong. (Nguồn: X/ESPNFC)

     

    Hiện vẫn chưa rõ lý do chính xác khiến đàn ong xuất hiện. Một số ý kiến cho rằng thời tiết bất thường trong tuần trước trận đấu có thể là nguyên nhân. Những người khác lại suy đoán rằng rung động từ trận đấu đã thu hút đàn ong. Dù nguyên nhân là gì, cảnh tượng này đã tạo ra những hình ảnh khó quên, khiến người xem không khỏi ngạc nhiên.

    May mắn thay, không có trường hợp nào bị ong đốt được ghi nhận. Trận đấu sau đó tiếp tục, và City FC Abuja đã giành chiến thắng kịch tính vào phút chót, mang về niềm vui cho người hâm mộ.

    Cả sân bóng hỗn loạn, cầu thủ và trọng tài nằm la liệt trên sân- Ảnh 3.

     

    Cậu bé nhặt bóng cũng nằm xuống đất để tránh

     

    đàn ong. (Nguồn: X/ESPNFC)

     

    Cộng đồng mạng xã hội đã sôi nổi bàn tán về sự cố hi hữu này. Một người dùng viết: "Thật buồn cười một cách không cần thiết!". Một bình luận khác nhận xét: "Thiên nhiên không quan tâm đến lịch thi đấu bóng đá của bạn. Nằm xuống là một hành động thông minh, hy vọng không ai bị thương". Trong khi đó, một người hâm mộ chỉ đơn giản thốt lên: "Thật tuyệt vời!".

    Đây không phải lần đầu tiên một sự kiện thể thao bị gián đoạn vì côn trùng. Năm 2019, cựu ngôi sao Barcelona và Brazil, Dani Alves, từng bị ong bắp cày tấn công khi đang thi đấu cho Sao Paulo. Tương tự, trong môn quần vợt, trận đấu giữa Carlos Alcaraz và Alexander Zverev tại Indian Wells năm ngoái cũng bị hoãn khi tay vợt người Tây Ban Nha bị ong đốt.

    Sự cố tại Tanzania thêm một lần nữa cho thấy thiên nhiên luôn có thể mang đến những bất ngờ khó lường, ngay cả trong những khoảnh khắc căng thẳng nhất của thể thao.




Nguyễn Văn Đông

Nguyễn Văn Đông
Chân dung Nguyễn Văn Đông năm 1964
Chức vụ

Chánh Văn phòng Tổng Tham mưu phó
Nhiệm kỳ11/1972 – 4/1975
Cấp bậcĐại tá (11/1972)
Tổng tham mưu trưởng
Tổng tham mưu phó
Đại tướng Cao Văn Viên

• Trung tướng Nguyễn Văn Là
• Trung tướng Nguyễn Văn Mạnh
Vị tríBiệt khu Thủ đô

Trưởng phòng nhân viên Khối Lãnh thổ
Bộ Tổng tham mưu
Nhiệm kỳ6/1968 – 11/1972
Cấp bậcTrung tá (6/1968)
Vị tríBiệt khu Thủ đô

Phó phòng Nhân viên Khối Lãnh thổ
Bộ Tổng tham mưu
Nhiệm kỳ11/1963 – 6/1968
Cấp bậcThiếu tá (11/1963)
Vị tríBiệt khu Thủ đô

Phục vụ Khối Lãnh thổ
Bộ Tổng Tham mưu
Nhiệm kỳ11//1961 – 11/1963
Cấp bậcĐại úy (10/1959)
Tổng Tham mưu trưởngĐại tướng Lê Văn Tỵ
Vị tríQuân khu Thủ đô

Trưởng ban ca nhạc Tiếng Thời Gian
Đài Phát thanh Sài Gòn
Nhiệm kỳ6/1958 – 11/1961
Cấp bậcTrung úy
Vị tríThủ đô Sài Gòn
Trưởng phòng 3 Tác chiến
Phân khu Đồng Tháp Mười
Nhiệm kỳ11/1955 – 12/1957
Cấp bậcTrung úy (8/1954)
Phân khu trưởngĐại tá Nguyễn Văn Là
Vị tríĐệ ngũ Quân khu
Trưởng phòng Hành quân
Phân khu Đồng Tháp Mười
Nhiệm kỳ8/1954 – 11/1955
Cấp bậcThiếu úy (10/1952)
Phân khu trưởngĐại tá Nguyễn Văn Là
Vị tríĐệ ngũ Quân khu
(Tây Nam Phần)

Chỉ huy Tiểu đoàn Trọng pháo 553
Quân đội quốc gia Việt Nam
Nhiệm kỳ4/1954 – 8//1954
Cấp bậcThiếu úy (10/1952)
Vị tríĐệ tam Quân khu Bắc Việt
Thông tin cá nhân
Sinh15 tháng 3 năm 1932
Khu Sài Gòn - Chợ LớnĐông Dương thuộc Pháp
Mất26 tháng 2 năm 2018 (85 tuổi)[1]
Thành phố Hồ Chí Minh
Nghề nghiệpQuân nhân
Nhạc sĩ
Dân tộcKinh
VợTrần Thị Nguyệt Thu
Con cáiKhông
Học vấnTú tài bán phần
Alma mater
  • Trường Huỳnh Khương Ninh ở Đa Kao, Sài Gòn
  • Trường Thiếu sinh quân Đông Dương ở Vũng Tàu
  • Trường Võ bị Địa phương Vũng Tàu
  • Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt
  • Trung tâm Chiến thuật Hà Nội
  • Trường Chỉ huy Tham mưu Sơ cấp Hawaii, Hoa Kỳ
Quê quánLợi ThuậnBến CầuTây Ninh, Việt Nam
Binh nghiệp
Thuộc Quân đội Quốc gia Việt Nam
 Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Phục vụ Quốc gia Việt Nam
 Việt Nam Cộng hòa
Năm tại ngũ1951 – 1975
Cấp bậc Đại tá
Đơn vịBộ binh
Bộ Tổng Tham mưu
Chỉ huy Quân đội Quốc gia
 Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Tham chiến
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Giải thưởngGiải Âm nhạc Quốc gia của Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam
Sự nghiệp âm nhạc
Tên gọi khácAnh Nguyên
Đông Phương Tử
Hoàng Long Nguyên
Phương Hà
Phượng Linh
Thùy Linh
Vì Dân
Thể loạiTình khúc 1954-1975
Nhạc vàng
Hãng đĩaContinental
Sơn Ca

Nguyễn Văn Đông (15 tháng 3 năm 1932 – 26 tháng 2 năm 2018) nguyên là một sĩ quan bộ binh cao cấp trong Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang cấp bậc Đại tá, khởi binh nghiệp từ thời Quốc gia Việt Nam. Đồng thời, ông được nhiều người biết đến với tư cách là nhạc sĩ nổi tiếng qua rất nhiều nhạc phẩm tiêu biểu như "Chiều mưa biên giới", "Hải ngoại thương ca", "Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp", "Mấy dặm sơn khê", "Phiên gác đêm xuân", "Sắc hoa màu nhớ",... Các nghệ danh của ông là Vì DânPhượng LinhPhương HàĐông Phương TửHoàng Long Nguyên (trước 1975) và Anh Nguyên (sau 1975).

Thiếu thời

Nguyễn Văn Đông sinh ngày 15 tháng 3 năm 1932 tại Quận 1Sài Gòn, nguyên quán ở làng Lợi Thuận, tổng Mỹ Ninh, quận Trảng Bàng,[2] tỉnh Tây NinhNam Kỳ; nay thuộc huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, Việt Nam. Ông sinh trưởng trong một gia đình nguyên là một điền chủ lớn có nhiều ruộng đất ở tỉnh này. Thuở nhỏ, nhờ gia đình khá giả nên ông học tại tư gia dưới sự hướng dẫn của thầy học. Sau đó ông theo học bậc Trung học tại trường Huỳnh Khương Ninh ở khu Đa Kao, Quận 1.[3] Khoảng 1945-1946, trường này bị đóng cửa. Gia sản bị tịch biên để sung vào quỹ kháng chiến chống Pháp; cha mẹ bị bắt tù vì là điền chủ.[4] Thời đó có viên Đại úy Pháp là Vieux từng coi ông như nghĩa đệ đã nhận ông làm dưỡng tử và gửi vào học ở Trường Thiếu sinh quân Đông Dương (tiếng PhápÉcole d'enfants de troupe) ở Vũng Tàu khi ông 14 tuổi.[5][6] Năm 19 tuổi, ông tốt nghiệp trường Thiếu sinh quân và nhận chứng chỉ tốt nghiệp tương đương với văn bằng Tú tài bán phần (Tú tài I).

Binh nghiệp

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Cuối năm 1951, ông nhập ngũ Quân đội Quốc gia Việt Nam, mang số quân 52/120.117, sau đó được cử theo học Khóa 4 Trường Võ bị Địa phương ở Vũng Tàu (École militaire Cap Saint-Jacques). Tháng 10 năm 1952, ông mãn khóa tốt nghiệp Thủ khoa với cấp bậc Thiếu úy phục vụ đơn vị Bộ binh. Đầu năm 1953, ông được cử đi học khóa huấn luyện "Đại đội trưởng" tại Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt (École militaire interarmes de Dalat). Đầu năm 1954, ông được gửi ra Hà Nội theo học khóa "Tiểu đoàn trưởng" tại Trung tâm Chiến thuật Hà Nội (Centre de formation tactique des officiers vietnamiens d'Hanoï). Ra trường, ông được cử giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Trọng pháo 553 và là Tiểu đoàn trưởng trẻ nhất của Quân đội Quốc gia khi mới 22 tuổi.[6] Trong những tháng cuối cùng của chiến tranh Đông Dương, ông chỉ huy trọng pháo ở Móng Cái và Lạng Sơn.[5] Không lâu sau Hiệp định Genève, đầu tháng 8 năm 1954 ông di chuyển vào miền Nam Việt Nam và được thăng cấp Trung úy, phục vụ tại phân khu Đồng Tháp Mười với chức vụ Trưởng phòng Hành quân.[3]

Quân lực Việt Nam Cộng hòa

Đầu tháng 11 năm 1955, ông được chuyển biên chế sang Quân lực Việt Nam Cộng hòa, kiêm nhiệm chức vụ Trưởng phòng 3 (Tác chiến) của phân khu Đồng Tháp Mười, dưới quyền Đại tá Nguyễn Văn Là. Trước đó ông đóng quân ở khu vực mà nay là các huyện Đức HòaĐức Huệ tỉnh Long An.[3] Năm 1956 ông tham gia chiến dịch Thoại Ngọc Hầu do tướng Dương Văn Minh làm Tư lệnh để đánh dẹp lực lượng quân sự Phật giáo Hòa Hảo, và tướng Minh từng đến bắt tay ông tỏ lòng ngưỡng mộ.[chú thích 1]

Cuối năm 1957, ông được cử đi du học khóa Chỉ huy Tham mưu sơ cấp tại quần đảo HawaiiHoa Kỳ. Ngày Quốc khánh Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1959, ông được thăng cấp Đại úy tại nhiệm. Ông kiêm nhiệm nhiều chức vụ như Bí thư Tổng giám đốc Cảnh sát, Công an Quốc gia và Chánh văn phòng Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô.[7]

Tháng 11 năm 1961, ông chuyển về Bộ Tổng tham mưu, phục vụ trong khối Lãnh thổ, dưới quyền Tổng Tham mưu trưởng là Đại tướng Lê Văn Tỵ.

Sau Đảo chính 1963, ông được thăng cấp Thiếu tá giữ chức vụ phó phòng Nhân viên ở khối Lãnh thổ. Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1968, ông được thăng cấp Trung tá lên làm Trưởng phòng Nhân viên trong khối Lãnh thổ. Ngày Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1972, ông được thăng cấp Đại tá, chuyển sang làm Chánh Văn phòng cho Tổng Tham mưu phó, trải qua hai đời Tổng Tham mưu phó là Trung tướng Nguyễn Văn Là (1968-1974) và Trung tướng Nguyễn Văn Mạnh (1974-1975), cùng Tổng Tham mưu trưởng là Đại tướng Cao Văn Viên. Ông giữ chức vụ này cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Ông được tặng thưởng Đệ Tứ đẳng Bảo quốc Huân chương và một số huy chương quân sự, dân sự khác.

Sự nghiệp âm nhạc trước 1975

Tân nhạc

Thời gian học tại Trường Thiếu sinh quân Đông Dương, ông được học nhạc với các giảng viên âm nhạc Học viện Âm nhạc Paris sang giảng dạy. Năm 15 tuổi, ông trở thành thành viên của ban quân nhạc thiếu sinh quân, học cách sử dụng nhiều loại nhạc cụ khác nhau. Năm 16 tuổi, ông đã có những sáng tác đầu tay như "Thiếu sinh quân hành khúc", "Tạm biệt mùa hè",...[3] Nhạc sĩ chơi kèn trumpet, kèn clairon, trống, chập chả, mandolineHạ Uy cầm,...[3]

Nguyễn Văn Đông lấy binh nghiệp làm chính, xem âm nhạc là nghề tay trái.[3] Dù vậy, ngay từ cuối thập niên 1950 ông đã nổi tiếng khi là Trưởng Đoàn văn nghệ Vì Dân với thành phần ca nhạc sĩ tên tuổi như Mạnh PhátMinh KỳHoài LinhThu Hồ, Quách Đàm, Minh Diệu, Khánh Ngọc và các nghệ sĩ danh tiếng như Kim CươngVân HùngBa Vân, Bảy Xê, Trần Văn Trạch, diễn viên điện ảnh Trang Thiên Kim,...[3] Ông đã tổ chức và điều khiển các chương trình đại nhạc hội tại Sài Gòn và khắp các tỉnh của Việt Nam Cộng hòa. Từ năm 1958, ông là Trưởng ban ca nhạc Tiếng Thời Gian của Đài Phát thanh Sài Gòn, gồm những danh ca, nhạc sĩ danh tiếng như Lệ Thanh, Hà Thanh, Minh Diệu, Khánh Ngọc, Mạnh Phát, Thu Hồ, Quách Đàm, Anh Ngọc,... Năm sau, ông là Trưởng ban tổ chức Đại hội thi đua Văn nghệ toàn quốc ở cấp Quốc gia, đã quy tụ trên 40 đoàn văn nghệ đại diện Việt Nam Cộng hòa cùng tranh giải suốt 15 ngày đêm tại Sài Gòn. Ông cũng từng nhận giải Âm nhạc Quốc gia do Đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân trao tặng.[3]

Rất nhiều sáng tác của ông viết về chủ đề người lính miền Nam thời đó, thường ký "Vì Dân" hoặc "Nguyễn Văn Đông". Nhạc phẩm habanera "Phiên gác đêm xuân" được ông phát hành năm 1959 trong niềm hồi tưởng đêm 30 Tết Nguyên Đán năm 1956 khi đang gác phiên ở Khu 9 Đồng Tháp Mười. Bản slow-tango "Chiều mưa biên giới" cũng xuất bản năm 1960[5] trong nỗi hoài niệm khoảng thời gian đóng quân miền biên giới Việt Nam-Campuchia kể trên. Bài này nổi tiếng qua giọng Trần Văn Trạch, người đã ca bằng cả tiếng Việt và tiếng Pháp trong hợp đồng thu thanh với một hãng dĩa của Pháp,[8] thu âm thu hình cho hai đài Europe No.1 và Ðài Truyền hình Pháp. Trong vòng ba tháng, Nhà xuất bản Tinh Hoa Miền Nam phá kỷ lục xuất bản với doanh số hơn mười sáu vạn tờ nhạc[chú thích 2].[7] Nhạc khúc điệu slow "Mấy dặm sơn khê" cũng vang danh qua giọng ca Trần Văn Trạch và ca sĩ Lệ Thanh; đến năm 1961, trong đại nhạc hội Trăm Hoa Miền Nam kéo dài 10 đêm ở rạp Hưng Đạo (Sài Gòn), tác giả song ca với ca sĩ Thái Thanh ca khúc này cùng ban đại hòa tấu của nhạc trưởng Nghiêm Phú Phi và sự tham gia của nhạc sĩ Lê Thương.[9] Bản tango habanera "Sắc hoa màu nhớ" ghi lại tình cảm nhẹ nhàng thuở học trò trong lòng người quân nhân một chiều hành quân qua lối cũ. Điệu slow "Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp" thì nổi tiếng qua tiếng hát của Hà Thanh. Khoảng năm 1968, ông viết bài "Anh trước tôi sau" để tưởng nhớ người đồng môn ở Trường Thiếu sinh quân là Thiếu tướng Trương Quang Ân, nội dung hàm ý người lính chấp nhận chuyện sống chết, chỉ là ai trước ai sau.[7]

Tuy nhiên, vào khoảng từ tháng 11 năm 1961, đã có đồng thời hoặc lần lượt bốn bài hát của ông bị Bộ Thông tin Đệ nhất Cộng hòa cấm phổ biến với lý do gây bất lợi cho chiến cuộc, gồm "Chiều mưa biên giới", "Phiên gác đêm xuân", "Mấy dặm sơn khê" và "Nhớ một chiều xuân".[3][5] Cùng thời gian này hai bản "Cuốn theo chiều gió" và "Bến đò biên giới" cũng từng bị nhạc sĩ thông báo là không xuất bản nữa.[5] Bài "Mấy dặm sơn khê" phải chỉnh sửa hàng loạt câu từ thì về sau mới lưu hành trở lại.[10] Vì sự vụ này mà ông bị quân đội phạt 15 ngày trọng cấm và cấm hiện diện trong tất cả sinh hoạt ca nhạc tại địa điểm công cộng,[7] đồng thời đình chỉ thăng hàm trong vòng hai năm kế tiếp.[11]

Ông còn có nhiều nghệ danh khác như Phượng Linh, Phương Hà, trên nhiều nhạc phẩm tình cảm như "Cay đắng tình đời", "Chiếc bóng công viên", "Dạ sầu", "Khi đã yêu", "Niềm đau dĩ vãng", "Thầm kín", "Thương muộn", "Thương về mùa đông biên giới", "Xin đừng trách anh", "Nhớ Huế", "Màu xanh Noel",... Ông còn có một nghệ danh rất hiếm là Hoàng Long Nguyên[12] với bài "Truông mây".

Tân cổ giao duyên

Với bút danh Đông Phương Tử và Phượng Linh, ông đã viết nhạc nền và đạo diễn cho trên 50 vở tuồng cải lương nổi tiếng ở miền Nam trước năm 1975 như Đoạn tuyệtMắt em là bể oan cừuMưa rừngNửa đời hương phấnSân khấu về khuyaTiếng hạc trong trăng,...[3] và vô số bản tân cổ giao duyên. Ông chủ động học hỏi soạn giả Hoàng Khâm, các danh cầm Văn VĩNăm Cơ, Hai Thơm,...để có đủ kiến thức cộng tác cùng các soạn giả cải lương nhằm phát triển song song hai bộ môn tân nhạc và cổ nhạc như chủ trương hoạt động của hãng Continental.[13] Xuất phát từ sáng kiến nghiên cứu cách cải cách sáu câu vọng cổ của kỹ sư Ngô Văn Đức (hãng dĩa Asia), Nguyễn Văn Đông trở thành người có công hàng đầu trong sự phát triển của phong trào tân cổ giao duyên.[chú thích 3] Ông và soạn giả Viễn Châu đã nghiên cứu lắp ráp tân nhạc-cổ nhạc sao cho ăn khớp nhau. Ông cho ra đời phương pháp ký âm bài nhạc hòa hợp giữa tân nhạc và cổ nhạc bằng một cách thức dễ hiểu, hợp mọi trình độ nhạc lý, hầu giúp nghệ sĩ cổ nhạc mang lên sân khấu hát dễ dàng như bản tân nhạc, nhan đề là Hướng dẫn ca và kỹ thuật sáng tác bài tân cổ giao duyên. Tân cổ giao duyên đã cứu vãn tình thế ế ẩm của các băng dĩa cổ nhạc thuần túy đương thời.[13]

Giám đốc âm nhạc

Từ khi chuyển qua Bộ Tổng Tham mưu, dù Bộ Quốc phòng không ưa chuyện ông làm âm nhạc, nhưng ông tự tả mình là "người chia làm hai" vì làm quân sự trong tuần còn làm nhạc và băng dĩa vào tối thứ Bảy và Chủ Nhật.[5] Ông là Giám đốc nghệ thuật của hai hãng ghi âm là Continental (thành lập năm 1960) và Sơn Ca (thành lập năm 1967), cũng như nhãn hiệu băng nhạc Premier, cộng tác với các tài danh hòa âm phối khí tên tuổi như Lê Văn Thiện, Nghiêm Phú Phi, Văn PhụngY Vân,... Các cơ sở của ông cho ra đời nhiều chương trình tân nhạc cũng như cổ nhạc gồm các vở tuồng cải lương. Nguyễn Văn Đông là người đã tiên phong thực hiện album phòng thu riêng cho từng ca sĩ,[3] mở ra một hướng đi mới mẻ cho nhiều băng khác về sau,[6] trong bối cảnh các băng nhạc đương thời phần lớn là băng tổng hợp nhiều ca sĩ. Sự khai phá ấy chính là loạt băng nhạc Sơn Ca nổi tiếng, có thể kể đến Khánh Ly với băng nhạc Trịnh Công Sơn - Sơn Ca 7Thái Thanh và Ban Thăng Long – Sơn Ca 10Lệ Thu – Sơn Ca 9Phương Dung – Sơn Ca 5 và Sơn Ca 11Giao Linh – Sơn Ca 6Sơn Ca – Sơn Ca 8,... Ông cũng chủ trương bốn nhà xuất bản tờ nhạc là: Trăm Hoa Miền Nam (lập năm 1966, Phượng Linh chủ trương), Nhạc Quê Hương (1967, Đông Phương Tử chủ trương), Hoa Bốn Phương (1971)[5] và Việt Nhạc.

Hai nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông và Y Vân cùng nhau thực hiện công trình nghệ thuật Dân ca ba miền về sưu tầm và quảng bá các làn điệu dân ca Việt Nam, trong đó Nguyễn Văn Đông phác thảo, còn Y Vân sưu tầm, sàng lọc, tuyển lựa dày công trong hai năm. Năm 1974, hãng dĩa Continental thu âm và phát hành thành băng Continental 6: Dân ca 3 miền - Nam, Trung, Bắc, nhan đề tiếng Anh là Vietnamese Traditional Songs,[14] gửi tặng đại sứ quán các nước đóng tại đô thành và các cơ quan phụ trách văn hóa Việt Nam ở nước ngoài. Công trình này từng được Tổng Giám đốc UNESCO khích lệ lập hồ sơ đề nghị xét duyệt di sản cho dân ca Việt Nam, và dù hồ sơ đã trình cơ quan chính phủ nhưng vĩnh viễn không kịp gửi đi vì hoàn cảnh lịch sử vào năm sau.[15][16]

Cơ duyên với các ca sĩ

Ông đã đào tạo hai học trò thành ca sĩ nổi tiếng, được đông đảo người yêu thích nhạc vàng biết đến, đó là Thanh Tuyền và Giao Linh. Ông phát hiện Thanh Tuyền từ khi bà còn là nữ sinh trung học ở Đà Lạt, gầy dựng nền tảng cho sự nghiệp lừng lẫy của bà sau này. Những năm sau đó, ông lại thu nhận thêm gương mặt mới Giao Linh, rèn giũa và lăng xê bà với bản hợp đồng độc quyền qua hãng Continental.[17] Sau này, cả hai giọng ca đều là tượng đài của dòng nhạc vàng.

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông dùng lời lẽ sau để nói về giọng hát của Hà Thanh khi biểu diễn nhạc của ông: "Hà Thanh đã tạo thêm những nốt luyến láy rất truyền cảm, rất mỹ thuật làm cho bài hát của tôi thêm thăng hoa, trong giai điệu cũng như trong lời ca. Tôi cho rằng khi hát cô Hà Thanh đã sống và cùng đồng điệu sẻ chia với tác giả khi trình bày một bản nhạc có tầm vóc nghệ thuật."[18] Hà Thanh cũng phát biểu với báo chí đương thời rằng "air" nhạc của ông hợp với chất giọng của bà.[4]

Sau năm 1975

Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, vì là một sĩ quan cao cấp của chính thể cũ nên ông bị bắt đi học tập cải tạo, bắt đầu từ trại Suối Máu (tức trại Tam Hiệp, ở Biên HòaĐồng Nai), tới năm 1978[5] thì bị đưa về giam ở khám Chí Hòa. Đầu năm 1985, ông được trả về với lý do "đương sự bị bệnh sắp chết", cho "đem về nhà chôn cất".[6] Khi đó ông thuộc danh sách ưu tiên đi định cư Hoa Kỳ diện H.O. nhưng vì sức khỏe đã tàn tạ, nghĩ rằng không thể sống thêm nên ông rút hồ sơ hòng qua đời tại quê hương. Tuy nhiên, may mắn nhờ các loại tân dược hữu hiệu nên sức khỏe được phần hồi phục, đến năm 1995 ông đã có thể đứng được mà không cần chống nạng.[8][19] Ông sống thầm lặng tại quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh cùng vợ là bà Trần Thị Nguyệt Thu, cựu nhân viên hãng dĩa Continental.[3]

Một thời gian dài, toàn bộ sáng tác của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông bị nhà đương cục cấm lưu hành, phổ biến. Dần dà khi Việt Nam trở nên cởi mở hơn, năm 2003, Cục Nghệ thuật biểu diễn nước này cấp phép lưu hành khoảng 24 ca khúc.[chú thích 4][19] Năm 2017, ca khúc đắc ý "Chiều mưa biên giới" mới được cấp phép.[20] Một điều ít biết là bài "Chiều mưa biên giới" đã theo các dĩa hát phát tán đi nhiều nơi ở nước Việt Nam thống nhất kể từ sau năm 1975; có chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam đã nghe ca khúc này và thêm lòng tin chiến đấu ngay trong giai đoạn Chiến tranh biên giới Việt–Trung năm 1979.[21]

Suốt hàng chục năm ông không hoạt động nghệ thuật. Giai đoạn ở trại Suối Máu, ông cảm tác bài "Sài Gòn trong trái tim tôi".[22] Bài "Sài Gòn trong trái tim tôi" và "Chào đất nước tự do và hy vọng" được ông tập cho Hà Thanh hát năm 1999 khi gia đình bà về Việt Nam lo việc riêng. Về Hoa Kỳ, Hà Thanh đã chép lại và được tác giả đề nghị đề nghệ danh là Anh Nguyên.[23] Sáng tác cuối cùng của ông là bài "Việt Nam quê hương lộng lẫy". Cuối thập niên 1990, ông hướng dẫn hát và sáng tác cho ca sĩ Trần Tuấn Kiệt quê Sa ĐécĐồng Tháp và đây được coi là học trò thứ ba của ông.[24][25]

Vào hồi 19 giờ 30 phút ngày 26 tháng 2 năm 2018, Nguyễn Văn Đông qua đời tại bệnh viện Chợ Rẫy, Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 86 tuổi.[1] Tro cốt của ông được rải xuống biển Vũng Tàu thể theo di nguyện.[24]









--
====================================================================
Trên Facebook :
http://www.facebook.com/DaiHocKhoaHocSaiGon
====================================================================
 
Bạn đã nhận được bài viết này vì bạn đã đăng ký vào Nhóm "KhoaHocSG" của Google Groups.
* Để đăng bài lên nhóm này, hãy gửi email đến "khoa...@googlegroups.com"
* Để RÚT TÊN ra khỏi nhóm này, gửi email đến "khoahocSG+...@googlegroups.com"
* Để có thêm tuỳ chọn (preference set up), hãy truy cập vào nhóm này tại: http://groups.google.com/group/khoahocSG?hl=vi
---
Bạn nhận được thư này vì bạn đã đăng ký vào nhóm Google Groups "KhoaHocSG".
Để hủy đăng ký khỏi nhóm này và ngừng nhận email từ nhóm, hãy gửi email đến khoahocsg+...@googlegroups.com.
Để xem cuộc thảo luận này, hãy truy cập vào https://groups.google.com/d/msgid/khoahocsg/MN2PR02MB6592531B142120CCF7DE3473FC0CA%40MN2PR02MB6592.namprd02.prod.outlook.com.
Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages