Fwd: ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 22-08-2025 (SỐ 227-2025)

4 views
Skip to first unread message

Giu Tran

unread,
Aug 22, 2025, 12:02:21 PMAug 22
to


---------- Forwarded message ---------
From: soan....@hotmail.com <soan....@hotmail.com>
Date: Fri, Aug 22, 2025 at 7:24 AM
Subject: ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 22-08-2025 (SỐ 227-2025)
To:



GOOD MORNING VIET NAM - CANADA - USA

ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 22-08-2025  (SỐ 227-2025)

Image insérée

Image insérée


MỤC LỤC

  1. MỘT THỜI ĐỂ YÊU
  2. Tù “ra ràng”
  3. NHỚ BẠN TÔI THIẾU ÚY HOÀNG ĐÌNH HUẾ
  4. Tình cuối đời
  5. Trăng suông
  6. Đành bỏ anh em
  7. NGÀY VỀ
  8. Tâm sự người vợ Lính
  9. Nếu như ngày ấy…
  10. Nhạc cuối tuần





MỘT THỜI ĐỂ YÊU
  • Lời giới thiệu: Sách của W. Nicole Dương (Dương Như Nguyện), cuốn “Mimi and Her Miror” và “Postcards From Nam”, nữ thẩm phán Hoa Kỳ đầu tiên gốc Việt, vừa đoạt luôn giải nhất và giải nhì của cuộc giải thưởng sách quốc tế, dạng tiểu thuyết đa văn hóa (category: multicultural fiction), được tổ chức bởi JPX Media Group của Los Angeles, tiểu bang California, Hoa Kỳ.
    Chào đời tại Hội An, Quảng Nam và đến Hoa Kỳ năm 1975, Nicole tốt nghiệp Cử Nhân Báo Chí tại ĐH Southern Illinois, sau đó Tiến Sĩ Luật của ĐH Houston và LLM của Harvard. Tuổi 24, cô đã làm Tổng Giám Đốc Vụ Bồi Thường Rủi Ro cho Quận Học Chánh Houston, rồi tốt nghiệp luật sư năm 1984. Hành nghề luật được 18 năm thì cô trở thành giáo sư luật thực thụ ở đại học Denver.
    Cô viết văn từ khi còn ở Việt Nam và là người cuối cùng đoạt giải danh dự cuộc thi Văn Chương Phụ Nữ Toàn Quốc Lễ Hai Bà Trưng của Việt Nam Cộng Hòa. Cuốn “Con gái của sông Hương” xuất bản năm 2005 gây nhiều tiếng vang.
    Người con gái sông Hương
    Nicole Dương

    +

    Cuộc chiến Việt Nam đã để lại biết bao nhiêu cuộc tình éo le sầu thảm.
    Một thời để yêu và một thời để chết. Một thời bên nhau, đại bác xa xa vọng về và hỏa châu thắp sáng chân trời. Rồi tù đày chia cắt. Anh trở về dang dở đời em. Nhiều trường hợp sau hơn 10 năm ngục tù, anh trở về, em đã đem con qua Mỹ và đi xa hơn nữa, em đã sang ngang. Cũng như hàng trăm người khác, chuyện cô gái sông Hương mà tôi kể cho quý vị hôm nay cũng vậy mà thôi.
    Nhưng đây là câu chuyện trong gia đình anh chị em cùng khoá của chúng tôi, xin kể lại để quý vị nghĩ rằng đây là khổ đau hay hạnh phúc.
    Ðặc biệt đây là câu chuyện liên quan đến mặt trận Quảng Trị năm 1972.
    +
    Chàng là sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến, tốt nghiệp Ðà Lạt, cùng khoá với chúng tôi. Năm đó đã trên 30 tuổi, ly dị vợ, sống độc thân, đẹp trai và có thể nói là hào hoa phong nhã.
    Ðời Thủy Quân Lục Chiến, 12 tháng anh đi, nay đây mai đó. Còn nhớ bài ca của lính Mũ xanh. Tháng hai đem quân ra Huế... và ở đó Trung tá Nguyễn đã gặp cô Lan Hương, sinh viên văn khoa, người con gái sông Hương. Lúc đó vào đầu thập niên 70, em mới 20 tuổi. Cô gái Huế cũng có nhiều bạn trai theo đuổi và phần cô cũng rất đào hoa. Ðược coi là người đẹp văn khoa xứ Huế. Gặp chàng sĩ quan Bắc Kỳ, áo mầu lính biển với Mũ xanh, mang vóc dáng của người hùng thời chinh chiến, Lan Hương bỏ tất cả để theo chàng.
    Chị cả một gia đình lễ giáo bảo thủ, cha mẹ cô hoàn toàn chống đối cuộc hôn nhân hết sức phiêu lưu. Anh chàng Bắc kỳ hơi lớn tuổi, quá khứ chẳng biết ra sao, đi thứ lính không biết chết ngày nào, không ai lại muốn con gái sớm thành góa phụ.
    Nhưng cô gái sông Hương bướng bỉnh đã bỏ nhà theo Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến vào Sài Gòn mất tăm dạng. Nàng chỉ trở về với đứa con trong bụng để rồi gia đình cũng phải đành chấp nhận cho chàng rể bất đắc dĩ ra mắt nhạc gia và chờ đón đứa cháu ra đời.
    Lúc đó đúng vào giai đoạn Trung tá Nguyễn cùng với Lữ Đoàn đang chiến đấu tại mặt trận Quảng Trị. Lan Hương đau bụng vào nhà thương khi Bắc quân tấn công Thủy Quân Lục Chiến tại Ái Tử.
    Hương kể rằng đại bác chẳng biết từ đâu vọng về ngày đêm. Rồi bom nổ, tiếng máy bay xé ngang trời. Dân chúng bị thương, bị chết đem vào bệnh viện cho đến ngày 6 tháng 4 năm 1972 đứa con trai đầu lòng của cô gái sông Hương ra đời. Ðặt tên cháu là Vũ.
    Cũng ngày hôm đó, từ mặt trận Trung tá Nguyễn bay trực thăng về hậu cứ, rồi xe nhà binh cùng với binh sĩ ào vào thăm vợ con được ít phút rồi lại ra đi.
    Lính tráng đi với ông thầy, súng đạn đầy người, áo quần tơi tả, đến rồi đi tưởng như trong phim ảnh.
    Cô sinh viên nay trở thành bà mẹ trẻ ôm con khóc không biết rồi đây anh có trở về không? Ðó là những ngày đầu của người con gái nếm mùi đau thương chinh chiến. Mấy năm trước, dù Mậu Thân với bom đạn và xác người chôn ở vườn nhà, tuy có sợ hãi nhưng vẫn còn ở tuổi ngây thơ. Bây giờ chiến tranh mới thâm nhập vào da thịt.
    Suốt 6 tháng dài từ tháng 4 tới tháng 9 năm 1972 Lan Hương thực sự sống với chiến trường Quảng Trị. Theo tin chiến sự mỗi ngày. Quân ta quân địch đánh nhau ở đâu. Thủy Quân Lục Chiến rút lui ra sao, rồi đơn vị về Huế dưỡng quân để lên đường vượt Mỹ Chánh thế nào.
    Người con gái sông Hương cùng thở theo hơi thở của cả đoàn quân Mũ xanh. Khi đánh vào Cổ Thành, lính bên ta chết bao nhiêu, xác đem về đầy các xe nhà binh, máy bay chở về Sài Gòn không kịp còn nằm chờ ở phi trường.
    Cô sống trong những cơn ác mộng ngày đêm, không đêm nào là không có cơn mộng dữ. Ðứa con đầu lòng đã sống trong niềm lo bất tận của mẹ.

    Tiếp theo là 1 tin vui trong giai đoạn mới của binh nghiệp. Trung tá Nguyễn đổi về Sài Gòn làm Trung đoàn trưởng 1 Trung Đoàn bộ binh. Mặt trận miền Ðông cũng không kém phần ác liệt, tuy nhiên không khí thủ đô làm cho gia đình có được những giây phút tương đối an toàn.
    Mới đây, từ bên Arizona, đọc những bài viết về trận Quảng Trị và dự trù làm phim, cô Lan Hương đã viết cho gia đình tôi một đoạn email:
    “Ðọc những chuyện về trận Quảng trị 37 năm về trước, em hết sức xúc động. Ðó là một phần cuộc đời của em không bao giờ quên được. Cuộc đời làm vợ lính Thủy Quân Lục Chiến, làm mẹ lần đầu. Và do những tình cờ em lại quen biết với gia đình anh chị suốt bao năm nay.”
    Tháng Tư, ngày định mệnh
    Mặc dù là bạn cùng khoá, nhưng tôi không hề biết về gia cảnh của Trung tá Nguyễn. Hai tuần trước ngày 30 tháng 4/1975, tôi có dịp đi cùng người anh của Nguyễn lên chiến trường miền Ðông để thăm Trung Đoàn tại Bến Cát. Anh của Nguyễn là Trung tá Tâm, cùng làm việc với chúng tôi tại Tổng Tham Mưu.
    Xem tình hình tại chỗ, thấy hoàn cảnh của Nguyễn, với trách nhiệm chỉ huy tại chiến trường, rõ ràng là việc di tản hoàn toàn không có điều kiện.
    Sáng 30 tháng 4/1975, chúng tôi đi bằng tàu quân vận tại Khánh Hội, theo sau đoàn tàu Hải Quân. Gia đình anh Tâm chạy theo chúng tôi lại có cả cô em dâu và 1 đứa con 3 tuổi. Cô em dâu lại đang mang bầu, chính là Lan Hương của Trung tá Nguyễn. Người con gái sông Hương của Thủy Quân Lục Chiến và đứa con trai là thằng bé ra đời trong thời gian mùa hè 72 tại Quảng trị.
    Mang bầu đứa con thứ hai, với thằng bé 3 tuổi, chạy theo anh chị, xuống tàu ra khơi. Lúc đó, thực sự tất cả chúng tôi cũng mơ hồ không biết đi đâu. Có thể về miền Tây, ra Phú quốc, ra Côn sơn theo Hải Quân hay chờ tàu Mỹ vớt. Nhiều gia đình hy vọng thoát cơn hồng thủy, nhưng Lan Hương tan nát trong lòng. Biết thế này em ở lại Sài Gòn chờ anh Nguyễn.
    Sau cùng, trải qua chuyến hải hành đầy nước mắt, mẹ con theo anh chị đến đảo Guam thì cô quyết định xin ghi danh theo con tàu Việt Nam Thương Tín để trở về. Tuy nhiên vì sắp đến ngày sanh, lại thấy những người xin về có những hoạt động đấu tranh quá dữ dội nên sau cùng cô ở lại. Khóc thì vẫn khóc.
    Qua đến miền Đông nước Mỹ, Lan Hương sanh đứa con trai thứ nhì trong trại tỵ nạn Fort Chaffee đặt tên là thằng Việt.
    Họ Ðạo miền Trung Mỹ bảo trợ cho Lan Hương nuôi con. Hai đứa bé còn thật nhỏ. Những bà vú Hoa Kỳ tình nguyện thay phiên đến trong nhà trông con để mẹ đi học. Xứ Huế với dòng sông Hương, gia đình cha mẹ, các em vẫn xa tít mù khơi. Không có tin tức gì về anh Nguyễn. Nào biết còn sống hay chết. Ðã đi tù hay mất tích.
    Những buổi tối mùa đông của miền băng giá, cô vẫn lặn lội đi học. Xa cách những vùng có đông người Việt. Gia đình anh chị bên nhà Nguyễn cũng bận rộn về sinh kế. Những đứa con còn nhỏ dại. Cô sinh viên văn khoa của sông Hương lầm lũi trở thành bà mẹ trẻ học trò tỵ nạn trong kiếp sống cô đơn.
    Lỡ bước sang ngang
    Trong hoàn cảnh đó, trải qua gần 5 năm hấp thụ nền văn minh Mỹ quốc, Lan Hương gặp ông giáo sư dạy chương trình điện toán. Ông thầy Mỹ cũng đã ly dị vợ từ lâu đem lòng thương yêu cô gái Việt và xin cưới.
    Trung tá Tâm, anh của Nguyễn, điện thoại cho chúng tôi nói rằng 2 người đến nói chuyện để xin phép được lập gia đình. Tuy là vai anh chồng và là bác của những đứa con nhưng làm sao trả lời được.
    Ai mà có thể quyết định Yes hay No
    Nếu không đồng ý thì cũng không ngăn cản được. Vả lại, nếu cô Hương ở vậy làm sao nuôi con thành người . Những đứa nhỏ sắp sửa vào trường. Rồi trung học, đại học. Tin nhà không có. Biết Nguyễn sống chết ra sao và sẽ chờ đến bao giờ.
    Hơn nữa cũng chẳng phải thuần túy vì sinh kế. Cô gái sông Hương ngày xưa đã có một thời nhiệt tình để yêu. Ðã có can đảm bỏ nhà đi theo Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến.
    Ngày nay nàng đã tìm thấy hơi ấm tình yêu mới bên cạnh ông thầy đại học vào những lớp tối mùa đông. Cô ở vào tuổi 30 khi gặp anh chàng người Mỹ, cũng cao lớn đẹp trai vững vàng như Trung tá Thủy Quân Lục Chiến của mùa hè Quảng Trị ngày xưa.
    Ngày cưới đã ấn định. Tháng 7 năm 1980. Hai đứa con trai nhỏ vô tư vui vẻ làm quen với người cha Hoa Kỳ bao dung và tận tụy.
    Nhưng số mệnh vẫn còn nhiều cay đắng. Ba ngày trước khi làm đám cưới, Lan Hương nhận được thư nhà từ Huế gửi qua. Kèm theo là mẩu giấy nhỏ nhắn tin của Nguyễn, còn sống, vẫn ở tù, chẳng biết ở đâu. Không biết còn sống được bao lâu. Nhưng còn sống.
    Lan Hương nhớ lại, những ngày xa xưa của năm 80, gần 30 năm về trước là những giờ phút hết sức trăn trở. Vui mừng cho 2 đứa con vẫn còn bố. Nhưng bẽ bàng cho duyên phận. Sau cùng, đám cưới vẫn tiến hành qua những ngày đầy nước mắt.
    Rồi ngày tháng trôi qua, cuộc sống trên đất Mỹ với người chồng yêu thương, hết sức quân tử đã tạo thành 1 gia đình kiểu mẩu. Lan Hương có nhiều cơ hội giúp đỡ cha mẹ và các em. Gửi quà về tiếp tế cho Nguyễn trong trong trại tù từ Bắc vào Nam.

    Từ trong trại, anh Nguyễn mơ hồ biết là vợ con đã qua Mỹ nhưng không có nhiều tin tức. Sau hơn 13 năm “lao động cải tạo” người anh hùng TQLC một thời được trở lại Sài Gòn.
    Biết tin vợ con hạnh phúc trong gia đình mới. Anh tìm lại người vợ cũ, làm hồ sơ HO đưa tất cả qua Hoa Kỳ. Ðịnh cư tại miền Trung Mỹ. Tuy giấy tờ là 1 gia đình nhưng Nguyễn vẫn sống độc thân như thời kỳ trước 75. Gia đình mới của Lan Hương bây giờ đã dọn qua sống tại miền Tây.
    Anh trở về, dang dở đời em...
    Mùa xuân năm 1991, cô gái sông Hương giờ đây đã 40 tuổi, đem 2 con qua miền Ðông gặp bố lần đầu tiên. Trước khi đi, người chồng Mỹ cầm tay Hương mà nói rằng: “Em hãy đi và thử hỏi lòng mình 1 lần cho rõ ràng. Nếu đây là lần chúng ta chia tay, anh cũng đành chấp nhận. Chuyện của chúng ta sau 10 năm, đến đây là đoạn cuối. Nhưng nếu em trở lại, thì xin nói lời chia tay rõ ràng với Mr. Nguyễn. Ðối với anh, Nguyễn luôn luôn là 1 người anh hùng. Nếu cần thì anh cũng phải hy sinh. Cảm ơn em đã cho anh một gia đình trong 10 năm hạnh phúc.”
    Tiếp đến cuộc gặp gỡ đầy đau thương của vợ chồng và bố con ông HO. Trời mùa đông Hoa Kỳ hình như có cả cơn gió Lào thổi về Quảng trị. Nguyễn cũng có tâm trạng ước mong đoàn tụ nhưng rồi chợt biết là đã ngàn trùng xa cách. Nàng đã có gia đình mới. Mẹ con thấm nhuần văn hóa Mỹ. Anh không thể và cũng không có khả năng phá vỡ được bức tường ngăn cách đã xây dựng từ 15 năm qua.
    Ðành để cho định mệnh đóng vai trò quyết định. Dự trù ra đi 1 tuần nhưng 4 ngày sau Lan Hương đã đem con trở về với ông bố Mỹ. Và 1 lần nữa người cha Hoa Kỳ sung sướng đón mẹ con Việt Nam trong vòng tay mở rộng. Gia đình Lan Hương sống tại San Francisco nên có cơ hội gần gia đình chúng tôi như cô em gái. Chúng tôi biết hết gia cảnh, và cô cũng vui lòng kể hết chuyện đời.
    Cay đắng nở hoa...
    Tháng 5 năm 2002, chúng tôi nhận được thiếp mời đi dự đám cưới cháu Việt tại Arizona. Bác sĩ Việt 27 tuổi lấy cô vợ Mỹ, bạn học thời sinh viên tại nơi tiểu bang đồng khô cỏ cháy nhưng mang đầy truyền thống hết sức Hoa Kỳ.
    Gia đình nhà vợ giàu có và bề thế. Bạn bè anh chị em nhà cô dâu Mỹ rất khích động ồn ào khi đón được chú rể Bác sĩ Việt Nam đẹp trai độc đáo như tài tử Kong Fu Bruce Lee.
    Lễ cưới cử hành long trọng tại nhà thờ. Ông bố vợ đại diện gia đình nhà gái chào mừng nhà trai và quan khách. Nhà trai của Bác sĩ Việt gồm cả 2 quốc gia Hoa Kỳ–Việt Nam từ bốn phương kéo về.
    Ông bố chồng Hoa Kỳ đứng lên giới thiệu ông bố chồng Việt Nam là Trung tá Nguyễn của chúng ta. Vị giáo sư điện toán của đại học nói rằng đây là người anh hùng Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam, đã chiến đấu 20 năm cho miền Nam tự do từ Tết Offensive 68 cho đến Easter Offensive 72. Ðã trải qua hơn 13 năm làm tù binh trong trại tù cộng sản. Mr. Nguyễn là anh hùng của ngày xưa và là anh hùng của ngày hôm nay.
    Với tư cách là bạn bè và là khách của nhà trai, tôi có dịp lên tiếng nhắc lại những ngày Nguyễn chiến đấu tại Quảng Trị, những ngày anh ở lại Bến Cát cho đến khi Tư lệnh Sư Đoàn tự vẫn và ông bị bắt vào tù. Mrs. Nguyễn mang bầu đi cùng chúng tôi ra khơi, được tàu Mỹ vớt, sanh cháu Việt trong trại tỵ nạn. Ðặt tên Việt để nhớ mãi về quê hương. Và hôm nay... Không khí cảm động và hơi căng thẳng, nên chúng tôi tìm cách kết luận nhẹ nhàng,... và hôm nay, Dr.Việt bỏ người cha Marin Corp Việt Nam và cả người cha giáo sư đại học Hoa Kỳ để về ở rể với người cha vợ Arizona chỉ vì cậu bác sĩ của chúng tôi đi theo tiếng gọi của ái tình...
    Tiếp theo, MC là em gái của cô dâu giới thiệu bà mẹ Lan Hương đi lên chứng kiến lễ cưới của con trai. Ông chồng cũ Việt Nam đi 1 bên, ông chồng hiện tại Hoa Kỳ đi 1 bên. Cô gái sông Hương khoác tay cả 2 chàng đi lên bàn thờ. Quan khách vỗ tay tán thưởng còn nhiều hơn là dành cho cô dâu chú rể.
    Trong đời chúng tôi, chưa từng dự 1 đám cưới nào như vậy. Chú rể mới chụp hình kỷ niệm với 3 ông bố. Bức hình là một di tích lịch sử của gia đình.
    Họp khoá mùa Xuân
    Tháng 3 năm 2004, kỷ niệm 50 năm của 1 khoá quân trường. Anh em chúng tôi vào trường Ðà lạt tháng 3 năm 1954. 50 năm sau anh em gặp lại tại Orange County, điểm danh xem ai còn ai mất.
    Cô Lan Hương đến dự đi cùng gia đình chúng tôi. Anh Nguyễn độc thân từ miền Ðông về gặp anh em. Ði cùng gia đình Trung tá Tâm, chúng tôi đều là những ông già 70 tuổi.
    Riêng cô gái sông Hương vẫn còn trẻ như ngày xưa. Anh em họp mặt hết sức cảm động. Giới thiệu từng Trung Đội của năm 1954 xa xôi. Thời gian đó chúng tôi xa Hà Nội năm lên 18 chưa từng biết yêu. Ðến năm 1975 thì bao nhiêu mộng đẹp bay ra thành khói tan theo mây chiều.
    Từ Vũ thế Quang, Nguyễn hữu Luyện, và anh Nguyễn của Đại Đội 5, cho đến các bạn của Đại Đội 6 như Lại Thọ, Trần quốc Lịch, Lê xuân Ðịnh.
    Tiết mục sau cùng là người đẹp trao vòng hoa chiến thắng một đời cho các chiến sĩ cao niên. Chị Thiều, nữ sinh Sài Gòn trao vòng hoa cho Nhảy Dù Ngô quang Thiều như chuyện tình năm xưa của thời chiến dịch Hoàng Diệu. Lan Hương của xứ Huế trao hoa cho anh Nguyễn, Thủy Quân Lục Chiến.
    Bây giờ anh Thiều và một số bạn khác đã ra đi, nhưng Nguyễn và Lan Hương vẫn còn đây. Vẫn là cha mẹ của những đứa con, là ông bà của các cháu, nhưng chàng trai Hà Nội và cô gái xứ Huế chỉ còn biết nhau trong tình bạn.
    Vì đây là chuyện thật nên vào tháng 10 năm nay 2009, nếu các bạn tò mò muốn biết mặt những nhân vật từ trong tiểu thuyết bước ra cuộc đời, thì xin đến San Jose. Khoá chúng tôi họp mặt lần cuối, kỷ niệm 55 năm kể từ khi ra trường tháng 10 năm 1954.
    Sau này, có lẽ lực bất tòng tâm. Năm 2014 kỷ niệm 60 năm nhập ngũ, anh em chúng tôi sẽ tổ chức tại gia. Nhà ai nấy làm. Chỉ có thể mời cô Lan Hương đến dự. Vì cô gái sông Hương mãi mãi tuổi 20.

    Wendy Nicole Dương Như Nguyện
    nguồn: bất khuất đót nét

    Hình 1 – Tác giả Dương Như Nguyện

    1753295243811blob.jpg



    Hình 2 – Tr/Tá Nguyễn và Lan Hương
    1753295267527blob.jpg

    1753295310655blob.jpg



Tù “ra ràng”

  • Phùng Xuân đi đầu trong toán tù binh. Hai tay bị trói ra sau, bằng dây điện thoại, dính chùm với binh sĩ. Khi chàng bước lên đỉnh đồi, nhìn về phía Trảng Bom, đoàn T54 ào ào tuôn vô Biên Hòa. Chàng nghẹn ngào. Nước mắt lưng tròng.

    Bỏ lại sân trường Đại Học, đem cuộc đời thanh xuân để chiến đấu mong nhìn thấy non sông gấm vóc Việt Nam trở nên rạng rỡ, bây giờ tan thành mây khói. Mình có tài cán gì? Đánh đấm có ra gì? Khoảng thời gian lính tráng chỉ có từng ấy năm đã làm được những gì? Chỉ là mơ ước thôi. Việt Nam thân yêu giờ đây hông còn nữa. Rồi đây, đất nước sẽ ra sao? Chàng chỉ biết cái họa Cộng Sản trong sách vở, ở phim ảnh. Một tương lai mù mịt cho đất nước, cho gia đình.

    Xuân cúi gầm mặt đi, đi, đi trong đau đớn tủi nhục của người thua trận. Xuân cảm thấy mình hèn và nhát và bất tài hông xứng đáng là một cấp chỉ huy, hông đủ sức bảo vệ cho hơn 400 người binh sĩ dưới quyền (Mà có khi nào tiểu đoàn đầy đủ quân số 6,700 đâu? Lính ma, lính kiểng ở đâu đâu, chìm sâu trong cái xã hội thời ly loạn)!! Sao mình không rút đi từ chiều hôm qua, theo chơn Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh có hơn hông? Nấn ná làm chi với số binh sĩ bị thương sau đợt oanh kích của 2 phi tuần khu trục? Chút nữa, nếu có ngừng lại, quây quần bên đám lính của mình, mình có xứng đáng nhìn mặt họ hông? Sao mình không cầm súng bắn vào mình để tự sát đi cho rồi? Sao lại phải bị nhục nhã như thế nầy?

    Phùng Xuân ngồi riêng một mình trong đám rừng cây nhỏ. Chàng đoán đây là khu rừng sâu sau ấp Bàu Hàm. Chỗ ngồi đã được dọn dẹp sạch sẽ. Một người bộ đội mang ra một ly nước trà còn nóng và một phong lương khô bằng hai ngón tay. Sau đó có 2 người sĩ quan mang cấp bực Thiếu Tá (?) đến ngồi trước mặt Xuân. Chắc có lẽ là sĩ quan Quân Báo. Họ lấy 1 điếu thuốc Ruby đỏ mời Phùng Xuân. Xong họ trãi bản đồ tỷ lệ 1/250.000 và hỏi chàng bây giờ những đơn vị của Sư Đoàn 18 và những đơn vị khác ở đâu? (Chắc họ vội vã quá nên hông có bản đồ 1/100.000 hay 1/50.000? Bản đồ 1/250.000 đâu phải là bản đồ hành quân chiến thuật? Chỉ có cấp Quân Đoàn trở lên mới xài bản đồ tỷ lệ 1/250.000. Vậy đơn vị nào bắt được Xuân? Nếu Quân Đoàn còn ở đây thì Sư Đoàn và Trung Đoàn của họ chắc đã tiến khỏi Biên Hòa rồi)? Thật ra cho đến giờ phút nầy Xuân cũng hông biết đơn vị bạn mình ở đâu? Chạy mất tiêu hết rồi!!

    - Có mấy đường vào thành phố Hồ Chí Minh (?) Đường nào đi vào thành phố dễ dàng nhất?

    - Có ba. Ngã cầu Xa lộ Đại Hàn ở nhà máy nước Hóa An. Ngã Cầu Ghềnh xuyên qua thành phố Biên Hòa. Ngã xa lộ Cầu Đồng Nai. Tui không hiểu các anh hỏi dễ đi là như thế nào? Cho chiến xa hay cho bộ binh. Có lẽ Cầu xa lộ Đồng Nai là dễ đi nhứt cho chiến xa.

    Xuân biết họ hỏi để xác nhận điều chàng khai ra có đúng như thế hông. Chứ thiệt ra khi chàng bị bắt, phòng tuyến Trảng Bom bị tan vỡ thì chiến xa đã ào ào tuôn vô Biên Hòa. Giờ nầy có lẽ họ đã qua khỏi Biên Hòa.Và chiến xa đâu có ngu dại gì đâm đầu vô con đường chật hẹp vào thành phố Biên Hòa. Chắc chắn là họ thấy đường xa lộ rộng thênh thang thì họ tin chắc là đường đến Sài Gòn. Và nếu Xuân có chỉ thì với bản đồ 1/250.000 cũ xì, hông có những chi tiết mới, như đường Xa lộ Đại Hàn và Xa lộ Đồng Nai, họ cũng hông lần ra được. (Lúc sau nầy khi đi ở tù, Phùng Xuân gặp lại Thiếu Tá Đoàn Hữu Mỹ, Trưởng Toán Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn vào lúc cuối cùng và Thiếu Tá Nguyễn văn Nên, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Công Binh SĐ. Hai người nầy cho biết đã có lịnh giựt sập cầu Xa Lộ Đồng Nai để hông cho VC tiến vô Sài Gòn. Nhưng Thiếu Tá Mỹ nghĩ rằng làm sập cầu Xa lộ Đồng Nai thì các đơn vị bạn còn kẹt lại làm thế nào để rút về và còn dân chúng nữa chi. Hơn nữa sập cầu rồi có thể xây lại tốt như thế hôn??(sic). Nên chàng ta hông có truyền lịnh lại cho Thiếu Tá Nên).

    - May cho anh đó. Nếu để mấy Sư đánh Xuân Lộc bắt được anh thì họ bắn anh rồi.

    Với đơn vị hành quân cấp nhỏ Tiểu Đoàn như Phùng Xuân (và mất liên lạc với Trung Đoàn) nên hiện giờ Xuân cũng hông biết đơn vị VC nào đã bắt chàng và những Sư Đoàn nào của họ bị thiệt hại nặng nề ở Xuân Lộc vừa rồi.

    Buổi khuya, trăng sáng vằng vặc. Xuân nằm im trên miếng tôn, nhìn thẳng vào mặt trăng. Vầng trăng xám xịt. Không có hình chú Cuội ngồi trên cung trăng: “Bóng trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng Cuội già ôm một mối mơ” của Lê Thương hông còn nữa. Hơi sương lạnh thấm qua lớp vải ướt. Xuân rùng mình, đau nhức mình mẫy vì nằm trên miếng tôn bể nhăn nheo. Rừng cây lạnh lùng ngủ trong trăng màu xám đục. Màn đêm im lặng. Tất cả thú rừng đều chạy trốn mất. Kế bên là Đấu. Xuân đưa tay qua khều nhẹ nó, ra dấu chỉ vào rừng rậm. Tù binh bị giặc bắt, nếu có cơ hội là phải trốn thoát. Miếng tôn cũ sét kêu rắc rắc. Một tiếng hét vang lên. Và tiếng kéo cơ bẩm rôm rốp...
    Đoàn tù binh cứ đi và tuôn qua rừng và băng qua suối, dọc theo sông Đồng Nai. Đói, mệt, chán chường rã rời. Chỉ ăn được mấy củ khoai mì luộc... Miệng đầy ke đắng nghe đắng nghét. Chiều chiều nghe tiếng ve chuông rừng é è ẹ một hơi dài, buồn thúi ruột.
    Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, toán tù binh đặt chơn lên QL20 ở Kiệm Tân. Một binh sĩ đưa cho Xuân một nắm cơm nhỏ hông biết nó lấy từ đâu. Xuân cầm vắt cơm mà hông đưa vô miệng được. Hai bên hàm cứng ngắc và nước miếng tuôn như khai đập và trào ra hai bên mép. Phải một hồi lâu, Xuân mới mở miệng được để thưởng thức hương thơm ngọt ngào của cơm trắng.

    Cho đến trưa, tiếng ra lịnh đầu hàng của vị Tổng Thống Dương văn Minh vang vang lên từ những máy thâu thanh của dân chúng. Phùng Xuân gục mặt, ứa nước mắt. Có cái gì chận ngay cổ họng. Còn đâu nữa “Đời thanh bình cửa thường bỏ ngõ”? (Nguyễn Công Trứ ).

    *******

    Rốt cuộc rồi cũng lại trở về nơi chốn cũ: Long Giao, Long Khánh. Nó còn có tục danh là Hàng Gòn, cách Xuân Lộc khoảng 12 km. Nơi đây đầu tiên là căn cứ Black Horse của Trung Đoàn 11 Thiết Kỵ Hoa Kỳ (11th Armored Cavalry Regiment) từ năm 1966 đến năm 1969. Sau đó giao lại cho Lữ Đoàn 199 Bộ Binh Mỹ. Khi quân đội Mỹ rút đi vào năm 1971, giao lại cho Sư Đoàn 18 BB. Sau khi bỏ bớt sân bay, Trung Đoàn 48 BB và Trung Tâm Huấn Luyện của Sư Đoàn 18 đảm trách phòng thủ căn cứ nầy (tọa độ YS 450970).Bây giờ, năm 2012, là căn cứ của Sư Đoàn 302VC, thuộc Quân Khu 7). Rồi cuối cùng, khi Trung Tâm Huấn Luyện dời về Long Hải (Bà Rịa) thì căn cứ trở nên quá rộng. Những kho đạn do quân đội Mỹ để lại còn đầy dẫy trong những đám cỏ mọc hoang tàn...

    Những ngày đầu tiên 2 vệ binh dẫn đám tù vác cuốc xẻng đi trồng khoai lang. Những thằng tù, từ hồi nào tới giờ chuyên môn giơ tay năm ngón để chỉ huy thiên hạ, bây giờ bị 2 người bộ đội trẻ bân ăn mặc bộ đồ kaki lèng xèng màu cứt ngựa, đầu đội nón cối và hai chơn đi dép râu lẹp xà lẹp xẹp, kèm theo 2 cây AK ra lịnh, nên họ có vẻ quê độ, tỏ ra ngỡ ngàng. Nhưng là thân phận tù binh thì họ có làm gì hơn được? Buổi tối, tù binh được một anh tổ trưởng đưa cho tờ giấy để khai lý lịch trích ngang. Không anh nào biết khai như thế nào. Cán bộ kêu kê khai tới đời ông nội và tất cả bà con dòng họ nội ngoại. Từ hồi cha sanh mẹ đẻ tới giờ chưa có cái vụ nầy. Đâu có ai mà nhớ hết dữ vậy. Anh nào anh nấy mỗi anh kiếm một góc nhà dưới ánh đèn cầy mù mờ nặn óc viết ra. Chừng nào nộp? Chưa biết. Cứ ráng mà viết cho đầy đủ “Thành khẩn mà khai báo, cách mạng sẽ cứu xét cho về sớm”.

    Ở trong doanh trại rộng mênh mông, bộ đội kiểm soát cũng không có gì nghiêm nhặt lắm. Buổi trưa, sau những bữa ăn no với tép cá đầy đủ, tù binh còn ngồi tụm ba tụm bảy đấu láo với nhau. Xuân vẫn còn e dè, ngồi im lặng nghe. Toàn là những người bạn tù lạ, không quen biết. Làm sao mà dám nói rõ những ý nghĩ của mình. Một vài người cho chàng biết. Khi chưa sập tiệm, còn là hạ sĩ quan làm việc rất siêng năng. Sau khi bể dĩa, thì hỡi ôi, cái ông thượng úy VC ngồi chình ình một đống tiếp nhận mình chính là anh chàng hạ sĩ quan trong đơn vị mình lúc trước. Nó biết rõ mình nên nó hạch sách đủ điều.

    Tù binh vẫn còn tin tưởng là sau khi “thành khẩn khai báo” đầy đủ, nộp giấy trích ngang là họ được trở về sum họp gia đình. Ủy ban quân quản đã có giấy tờ là đi học tập chỉ có 1 tháng mà! Một vài người nói với Xuân như vậy. Chàng hông biết. Họ đưa cho chàng xem tờ kêu gọi đi “học tập cải tạo” của Ủy Ban Quân Quản. Té ra VC ma giáo chơi chữ, nên tù binh miền Nam ngây thơ bị chữ chơi! Người ta in rõ ràng trên giấy trắng mực đen là: “đem lương thực và thực phẩm (hiện vật hoặc tiền) đủ dùng trong 1 tháng”. Đủ dùng trong 1 tháng chớ nào phải đi học tập 1 tháng rồi về đâu! Nếu đi “học tập cải tạo đúng 1 tháng” thì VC phải viết rõ ràng ngày đi và ngày về chớ. Xuân nhớ lại đến những gì chàng đã đọc trong một vài cuốn sách của Hoàng văn Chí và phim: “Chúng tôi muốn sống”, “Ánh sáng miền Nam” được coi lúc còn nhỏ. VC bao giờ cũng lật lọng, mập mờ đánh bài ba lá.

    Tờ khai lý lịch trích ngang được trả đi trả về mấy lần. Lý do: các anh khai báo chưa thành khẩn. Thời gian một tháng sắp hết. Tù binh lại còm lưng viết lại. Bây giờ thấy ai ngồi viết cũng trầm ngâm nghĩ ngợi, phải làm sao viết cho đúng đây.

    Xuân không buồn viết chi cho nhiều. Tờ khai được trả đi trả về mấy lượt, chàng cứ như thế viết y chang như lần trước, ngắn và gọn. Dài dòng quá mình dễ quên. VC có biết gì về lý lịch của mình đâu mà viết chi cho nhiều. Tụi nó bắt thóp mình đó. Hồ sơ đâu còn nữa. Họ không có đủ nhân sự để lùng sục đọc từng hồ sơ của mình đâu! Hơn nữa, Phùng Xuân để ý mấy anh chàng cán bộ nầy làm trời làm đất chớ một chữ cắn làm hai không bể! Có nhiều anh chàng cán binh cầm giấy ngược thì làm sao đọc nổi, hở trời!

    Còn dư thời gian, Xuân lấy cuốc vun giồng trồng khoai lang và mấy cây cà tô mách lấy hột từ sau nhà bếp. Một vài người nhìn thấy, cho Xuân làm chi cho mệt. Đúng 1 tháng là mình về rồi mà! Chàng mỉm cười: 
    “Tôi với mấy anh sẽ có khoai và cà ăn đó”.

    Hết khai lý lịch trích ngang. Bây giờ tới khai phần bản thân. Mỗi người phải viết ra và đầy đủ “quá trình hoạt động” từ lúc nhỏ cho đến bây giờ. Lại cắm cúi ngồi nghĩ ngợi, miệng cắn viết suy nghĩ mông lung. Làm sao mà nhớ hết cho nỗi đây? Lại trả tới và trả lui. Lại viết đi và viết lại.

    Nhiều tay bịa ra viết lẹ đi cho rồi. Còn dư thời giờ, không biết làm gì, có một vài nhóm buồn tình, dưới trưa nắng chan chan, xách cuốc xẻng đào khoai mài (trong Đông Y tên là hoài sơn). Củ khoai mài đâu phải dễ đào. Nó thuộc loại củ khoai rừng, mọc ở vùng đất cao. Củ của nó thường đi thẳng sâu xuống đất. Đâu có phải như củ nừng đâu mà nằm khơi khơi trên mặt đất! Với một chút tinh ý, nhìn vào dây leo, chúng ta biết rõ củ lâu hay ít năm. Củ lâu năm thường to dài đâm thẳng xuống đất sâu chừng 3, 4 thước. Phần non ở cuối có nhiều bột, luộc ăn rất ngon. Phần già trên ăn chai và cứng. Trong thời gian nầy, tù binh chưa bị đói. Họ được cho ăn phủ phê để còn dốc bụng ra khai nữa chứ. Cho nên họ đi đào khoai để ăn chơi thôi.

    Gần đến hết hạn 1 tháng, nhiều người tù tỏ ra bồn chồn lo lắng. Nhưng rồi, hết thời gian ban ngày được thoải mái. Buổi sáng vừa ăn xong là phải lên họp tổ. Trưa nghỉ một chút rồi lại họp. Chiều cơm nước xong là đến họp. Họp cho đến tối. Tù binh có thằng buồn ngủ tỏ ra hết kiên nhẫn. Bất cần, đây là lúc con mồi sập bẫy, khai tầm bậy để cho yên thân.

    Bắt đầu cuộc hành trình gian nan cho những người tù binh miền Nam còn ngây thơ như cừu non. Trong lúc đó VC như những con sói. Những người cán bộ VC dạn dày kinh nghiệm trong việc khai thác tim óc con người. Chỉ có cái chén sỏ dây và đôi đũa buộc cứng, treo tòn teng bên quần kaki màu cứt ngựa và hai chơn mang dép râu và túi sắc quàng vai và đầu đội nón cối, đôi khi có tăm xỉa răng ngậm miệng, “cán bộ” đi đến đâu nghe lộc cà lộc cộc đến đó, nhưng trong đầu chứa nhiều mưu mẹo quỉ khốc thần sầu. Trải qua Cải Cách Ruộng Đất kinh hồn, họ biết thế nào là đấu tố và buộc tội kẻ thù. Toán tù binh lần lượt khai ra từ đời cố hỉ cho đến bây giờ. Nhưng rồi cũng bị kiểm điểm. Chưa thành khẩn. Tù ngớ ra. Thế nào mới là thành khẩn? Khai riết cho đến khi nào cách mạng buộc anh có tội là thành khẩn chớ gì?

    Khoai lang được đào lên và rồi nấu cho bạn tù ăn. Và cà chua chia nhau mỗi người ít trái. Đám tù bây giờ buồn xo. Mặt mày bí xị. Họ hết bàn tán 1 tháng là trở về nhà. Ai cũng có vẻ nôn nóng. Và vợ con ở nhà chờ mong, yên chí chồng chỉ đi “học tập cải tạo có 1 tháng”.

    Những cơn mưa dông xối xả đến. Không có đi ra ngoài trồng khoai, dọn cỏ. Sau mỗi lần kiểm điểm, mỗi thằng đứng nhìn mưa rơi, trầm ngâm. Mưa nổi bong bóng. Mưa dai dẳng và hoài hoài hông chịu dứt. Nước ngập láng sân. Bong bóng trôi chảy về cuối dãy nhà. Mưa đến gần khuya, còn rỉ rả kêu tách tách trên mái tôn. Trăng suông hiện ra. Ánh sáng mờ nhạt ôm dài trên luống khoai, lan ra bụi chuối như sương sa. Phùng Xuân ngáp dài. Mấy tháng nay, không có được một điếu thuốc Ruby Quân Tiếp Vụ...

    Trong lúc đó, tháng 8 năm 1975 (?), nhóm tù gồm toàn cấp úy “ác ôn, có nợ máu với nhân dân”, đã âm thầm rời khỏi căn cứ Long Giao lúc đêm đày đi Bắc. Nhóm tù còn lại hông hề hay biết (?).

    Bài kiểm điểm cứ nhai đi nhai lại. Đêm nào cũng như đêm nào, chỉ có những danh từ đó lập đi lập lại, như nước đổ lá môn. Có phải như thế hông? Như đờn khải tai trâu thì đúng hơn. Nước đổ lá môn không thấm, nhưng đờn gảy tai trâu thì trâu nghe riết rồi cũng lập lờ yên lặng, thấm vào lỗ tai, trâu đành đứng một chỗ. VC là học trò của Liên Xô nên họ rành thí nghiệm Palov. Nên cuối cùng bọn tù cũng đành noi theo.

    2 ngày liền, tù được nghỉ xả hơi. Ai nấy cũng mừng. Chắc xong rồi. Và hy vọng được về nhà. Đến đầu hôm ngày 10 tháng 11 năm 1975, trăng đầu tháng vừa lặn, tù binh được lịnh thu dọn đồ đạc. Đám tù mừng rỡ. Tất cả đều lên xe bít bùng, có vệ binh mang súng đi theo. Gương mặt họ hầm hầm.

    Đoàn xe di chuyển trong đêm không trăng, tối đen. Ngồi trong xe, không nhìn ra được bên ngoài, Xuân ước lượng đoàn xe đi như thế nào. Ra cổng, quẹo trái. Đi về Xuân Lộc. Đến ngã ba Tân Phong, đi thẳng. Quẹo cua Heo. Đi về hướng Tây. Đến ngã ba Dầu Giây. Lại đi thẳng. Về đâu? Về Sài Gòn? Đi đâu đây?

    Đến khuya, đám tù bồn chồn lo sợ. Nhưng đoàn xe dừng lại. Mọi người được lịnh xuống xe đứng yên tại chỗ. Có người nhận ra. Ôi thôi rồi! Trại Suối Máu, Tân Hiệp. Trại giam tù binh Cộng sản hồi trước. Sao mình lại có duyên vô đây? Trước năm 1975, Xuân đã bao lần đi qua đây. Và có bao giờ chàng nghĩ mình sẽ là tù binh bị nhốt vào đây. Đúng là một giấc mơ. Giấc mơ đi tù 1 tháng trở về của đám tù tan như bọt nước. Vào trại nầy biết bao giờ trở về? Trại có 5 K nhốt từ bò nhứt, bò nhị, bò tam cho đến bò lục...

    10 bài mà đám tù phải học là 10 bài viết của kẻ chiến thắng, tự mình vỗ ngực cho mình là tài giỏi. Nào là “Ba dòng thác Cách Mạng”, “Ngụy quân, ngụy quyền”, “Tội gì mà trời không dung, đất không tha''... Rồi sau đó mạt sát người thua thậm tệ, gọi họ là Mỹ - Ngụy. Có phải Miền Nam là Ngụy không?

    - Đâu có anh Lượng! Đồng Minh của miền Bắc là Nga, Tàu, Bắc Hàn, Cu Ba. Họ yêu cầu những nước “anh em xã hội chủ nghĩa” đến. Họ mới là Ngụy đó. Còn miền Nam có yêu cầu “đồng minh của mình” tới giúp đâu? Không.

    - Sao anh biết?

    - Chính phủ Ngô Đình Diệm hông có kêu gọi ai tới. Ổng nói để nước tôi tự chiến đấu. Ông Mỹ phù phép giết Tổng Thống của Đệ nhứt Cộng Hòa rồi a thần phù ngày 9 tháng 3 năm 1966 đổ bộ vô Cam Ranh kéo theo Úc, Tân Tây Lan, Nam Hàn, Thái Lan, Phi Luật Tân, Đài Loan, Tây Ban Nha và réo lên giúp miền Nam tự do chống miền Bắc Cộng Sản!

    - Ôi thôi! Miền Bắc rêu rao đánh thắng 3 đế quốc Nhựt, Pháp, Mỹ đó.

    - Nhưng họ có đánh thắng đế quốc Nhựt bao giờ đâu? Đó là công của chính phủ Trần Trọng Kim mà! Họ cướp của người ta nói là của mình. Vừa ăn cướp vừa la làng. Không lẽ lịch sử viết sai sự thực? Và người viết cuốn: “Đem tâm tình viết lịch sử” lại viết không đúng à? Và có phải Mỹ cút không anh Lượng?

    - Nhưng cái độ lượng của Chánh Phủ Trần Trọng Kim là thả hết tù chính trị. Trong số đó có nhiều “ông cố nội” VC lúc bây giờ, để đến nay họ quậy nát tùm xèng cái nước Việt nhỏ bé nầy!

    Thiếu Tá Nguyễn văn Lượng, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2/52 Sư Đoàn 18 mấy hôm rày ăn trúng cái giống gì mà bị tiêu chảy re. Hắn ta cứ ngồi chực chờ trước cầu tiêu. Người càng ngày càng ốm tong teo.

    - Chắc ông bị kiết quá.Có đem theo thuốc uống hôn?

    - Có con mẹ gì! Nói đi có 1 tháng rồi về mà. Ai đem thuốc men nhiều làm gì!

    - Ở trong nầy dễ gì mà kiếm được mấy viên thuốc than. Tìm ra Ganidan lại càng khó.Tui thấy xung quanh đây có nhiều cỏ mực và rau sam, để ngày nào tui cũng hái cho anh 1 mớ.Cỏ mực thì anh có thể nhai sống rồi nuốt, nhưng rau sam thì anh phải luộc chín. Tui lấy than ở dưới nhà bếp tán nhuyễn ra. Anh có dám uống không?

    Trong tù, lúc đầu thằng nào cũng tưởng về sớm, thường tỏ ra hào phóng cho thuốc men bạn tù. Từ khi hông biết được ngày về, tù thường thường để dành lại một chút ít thủ thân. Từ đó, châm cứu là phương pháp trị bịnh của tù. Nhức đầu cũng châm, cảm sốt cũng cứu...

    Thiệt ra, lên hội trường học xong bài nào, vừa phủi đít đứng lên là tù binh quên hết bài đó. Đó là những điều hổng đáng phải cho mình nhớ. Nhớ chi cho mệt. Chúng đày đọa, dầy vò tinh thần mình mà! Mà có gì đâu để phải nhớ những lời lập đi lập lại như con cưỡng, con sáo. Điều đáng nhớ là tới giờ chia cơm. Họ như đám ong bể ổ. Thằng nào tới phiên đi lãnh cơm cũng lo về mau, quăng cái xẹt cuốn tập rồi lẹ lẹ xách thau nhôm xuống nhà bếp lấy cơm và đồ ăn. Mấy thằng còn lại, bày tô chén để chia phần!
    Học xong một bài, tù binh được chia thành từng tổ để thảo luận. Có cán bộ ngồi nghe, đánh giá, phê bình. Có những người tù tinh ý. Mầy muốn vậy, tao nói theo ý mầy, cho mầy chết luôn! Làm sao mà cải tạo được họ. Đầu thằng nào thằng nấy đều có sạn. VC cũng biết vậy, nhưng họ tin vào Palov. Nói riết thế nào cũng có thằng nghe. Nhưng cũng có cha nói nghe sao được, khi mà cán bộ nói anh là công binh, anh cũng có tội với “cách mạng, với nhân dân”. “Sao vậy cán bộ?” “Anh xây nhà cho bọn ngụy nó ở cho ấm cúng, lắp đặt ống nước cho ngụy nó tắm cho mát”. Anh tù binh “Nam Kỳ” ngẩn tò te, chửi thề trong bụng: “Đụ mẹ, xạo ke tổ cha! Nói vậy mà cũng nói cho được”.

    Buổi trưa nắng cháy da. Thiếu Tá Võ Long Tôn, Thiết Đoàn Phó Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh/Sư Đoàn 18 BB, cứ mình trần trục, đi lên đi xuống mấy dãy nhà. Mới có mấy tháng mà ốm cà tong cà teo như cò ma, lòi xương sườn. Thân mình gần như bộ xương cách trí.

    Phùng Xuân biết Tôn. Người quê Bến Tre, em Dân Biểu Võ Long Triều. Tôn hở ra là toa toa moa moa với Xuân. Cho nên chàng nói chuyện với Tôn mà hổng cần giữ mồm giữ miệng. Hơn nữa, hai người cũng đã ở lâu nơi Sư Đoàn nên biết nhau.

    - Thì anh cũng biết mà. Anh cũng như tui đều biết bài thơ ngụ ngôn: “Con chó sói và con cừu” của La Fontaine. Lý kẻ mạnh bao giờ cũng phải. Họ là kẻ chiến thắng thì họ nói sao cũng được.

    Những ngày chủ nhựt, tù binh được nghỉ. Tù đói nên đi vòng vòng quanh, kiếm được thứ gì ăn thì ăn thứ đó. Con cắc ké chạy cũng không khỏi. Cọng rau sam cũng trụi lủi. Con chuột cũng bị thui cháy. Thậm chí có thằng nói trùng ăn được. Thằng Tuấn tây lai nói nấu cháo ăn ngon lắm! Xuân không biết. Xuân chỉ lo tom góp mấy cái nang mực. Phòng có ngày bị đày lên rừng, Xuân sẽ dùng nó để vò lá sâm.

    Buổi trưa ngày 7 tháng 4 năm 1976. Thứ Tư. Trại Suối Máu ngùn ngụt hơi người tù binh, bốc lên trong nắng. Người tù nào cũng ở trần. Sau buổi cơm trưa, ai nấy đều mệt mỏi. Họ lim dim mắt, ngái ngủ sau những giờ lên lớp bị nhồi nhét bởi những con két biết nói tiếng người. Bỗng nhiên, súng nổ. Tiếng la hét. Chạy rần rần. Tù được lịnh vào nhà, đứng ngay chỗ mình ngủ, điểm danh. Vậy là có người trốn rồi. Ai đây? Tại sao lại trốn vào lúc nầy? Bên ngoài dân chúng trở cờ đang ùn ùn tiếp đón họ. Khí thế kẻ chiến thắng đang lên. Không còn ai bên ngoài hổ trợ mình thì làm sao trốn cho thoát? Đành rằng tù binh được dịp là trốn. Nhưng lúc nầy không phải là lúc để trốn.

    Chừng 1 giờ sau, anh em biết được Thiếu Tá Trần văn Bé và Thiếu Tá Phạm văn Tư ở K3 đã vượt ngục. Hai người đều là Khóa 19 VBĐL. Nhưng súng đã nổ, chắc có người không thoát được rồi. Anh Bé là Trưởng Phòng 2 Tiểu Khu Định Tường. Chắc họ không tha đâu. Và sau đó, một người chết và một người bị bắt lại. Tin tức sốt dẽo ai cho biết? Làm gì trong tù không có anh Ba?

    Buổi sáng sớm ngày 10 tháng 4 năm 1976, anh Hòa, nhà trưởng nhà 08, cùng với các nhà trưởng khác ở K3, được lịnh đi ra ngoài họp. Lối khoảng gần trưa, có những tràng AK nổ dòn dã. Khi anh Hòa trở về, gom anh em lại, cho biết họ đã xử bắn anh Bé. Gương mặt mọi người thẩn thờ, buồn bã. Con cọp nhe răng đầy máu, dờn móng vuốt hù dọa trước khi ăn thịt con mồi. Tội nghiệp, 2 người tù bị điều về Quân Đoàn 5 quá tàn nhẫn và sớm sủa. Họ không còn có dịp học xong hết 10 bài, để kịp biết mình có tội như thế nào, hòng mong “cách mạng” khoan hồng được mau về sớm!? Mà nếu họ còn sống chắc cũng không về được. Tội gì mà “trời không dung, đất không tha” thì ở tù biết chừng nào ra, hở trời!

    Ở trong tù riết rồi cũng muốn điên cái đầu. Tối ngày cái “ô bạc lưa” (haut parleur) ré ré bài hát: “Bóng cây K’nia” với hai giọng hát miền Trung và miền Bắc. Tiếng hát “opera” cao ngất ngưỡng, nhanh và mất lời của cô ca sĩ “Cô gái vót chông” lần lần trở nên chát chúa. Dân miền Nam quen thưởng thức giọng hát rõ lời, luyến láy. Nên hở ra khi nghe “cấy cớ nía, ớ lá cấy cớ nía”, tù đều ré lên như tiếng gà lôi trống:“cà lốc cốc”. Cây K’Nia là cây gì mà xưng tụng dữ vậy? Phùng Xuân hổng biết cây gì. Té ra rồi Xuân cũng biết. Cây K’Nia là cây cầy. Trái giống như trái cốc, cũng chua nhưng xơ hông hè! Có rất nhiều ở khu rừng Thiên nhiên trong Thánh Thất Cao Đài và trong rừng Tây Ninh (Mãi về sau, hơn 30 năm, Phùng Xuân biết hai giọng ca đó là của ca sĩ Tường Vi và Măng thị Hội).

    Buổi sáng ngày 2 tháng 7 năm 1976, tù binh nhìn lên cột cờ hàng ngày ở K3. Ủa! Đâu mất lá cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam rồi. Mọi ngày nó vẫn vỗ phành phạch kia mà. Hôm nay nó mất tiêu rồi. Cờ đỏ sao vàng ngạo nghễ. Giờ nầy chắc lá cờ Mặt Trận Giải Phóng ở nóc dinh Độc Lập cũng bay mất rồi. Và cái tên Sài Gòn cũng không còn nữa. Thôi thôi, tiêu vong đứa con hoang rồi. Bây giờ, mầy đâu được ngồi cùng chiếu với bọn tao để giành phần. Tao bóp mũi cho mầy chết không kịp ngáp. Mấy người trí thức miền Nam ngu ngơ, khù khờ (?), háo danh và mấy chàng sinh viên, học sinh... trốn vô “bưng”, tưởng VC là VM (?), đánh cho “Mỹ cút, Ngụy nhào” để giành độc lập cho đất nước. Đâu biết rồi đây cái họa Cộng Sản, cái họa kẻ thù phương Bắc, Tàu cộng siết cổ dân mình!

    Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma” (Kiều). Kỳ nầy bọn họ đi đứt, hộc máu, tức cành hông ra mà chết. Mai mốt đây, chỉ ngồi chầu rìa thôi. Cho những người dân Tây, chữ nghĩa cùng mình, hết còn mơ thiên đàng Cộng Sản. André Gide cũng còn chào thua! Mà thiệt, VC còn xí gạt dân miền Tây nữa mà! Có người bạn tù nói với Phùng Xuân: Ngày “giải phóng” thành phố Cần Thơ, VC cho mở nhạc thời kháng chiến chống Pháp: “Mùa Thu rồi, ngày hăm ba, ta ra đi sơn hà nguy biến...” “Và, Tiểu Đoàn 307...” “Bên hàng dừa cao, dòng sông mờ soi bóng...” vang rân đầu đường xóm chợ. Người miền Tây sướng như điên. Việt Minh trở về rồi! Được mấy ngày, tiếng hát tắt tịt, đổi qua giọng khác. Họ tiu nghĩu, xìu yểu. Dân miền Nam xét đoán người khác theo cảm tính nên dễ bị lường gạt! (?).

    Phùng Xuân ngồi buồn thui thủi một mình. Có còn ai ở kề bên mà chuyện trò như thời còn ở đơn vị với Chúc. Vào đây mình biết nói với ai đây? Hổng hiểu lúc nầy thằng Chúc nó đang ở trại giam nào. Hay là nó dọt đi được rồi?

    Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn. Màu ngà ngà loang dại cùng quanh trại.Vướng hàng rào kẽm gai, màu trăng nhạt nhòe vàng nhợt hôi mùi nước đái khai ngấy. Chị Hằng khờ khệt, chập chùng chúi xuống trên con đường cát nhòe nhoẹt mùi cứt cầu tiêu của đám tù binh. Hơi tù bốc lên, làm màu trăng chập chờn trên mái tôn, phảng phất hồn trăng trong hơi lạnh của hai người tù vừa bị xử bắn.

    Những đêm tối đen. Bầu trời đầy sao. Sông Ngân nằm dài trên bầu trời. Đầu hôm là sao Hôm, rồi sao Cày dần dần lên cao, nằm ngất ngưỡng giữa dãy Ngân Hà, cùng với chòm sao Vua. Tháng tám Sao Bọ Cạp vươn hai càng khều khệu. Trời gần về sáng, chòm Vệ Nữ ngủ mơ màng trong hơi sương lạnh với hạt ngọc sao Mai long lánh. Ôi! Vũ trụ mến yêu. Vũ trụ vô hạn, vĩnh hằng. Vũ trụ là muôn năm trước, là muôn năm sau. Người là một tấm lòng bao la mở rộng. Ai mà cảm thấy nhiều lo lắng, đau buồn. Đêm đêm, ngó lên trời cao, vũ trụ sẽ gột rửa mọi ưu phiền.

    Phùng Xuân ngước nhìn bầu trời đầy sao. Lòng nhẹ nhàng lâng lâng. Sao đi rồi sao lại về. Cuộc đi về của bầu trời đầy sao đêm như là một giấc ngủ bình thản của cuộc đời. Và rồi mình lại trở về như lúc ban đầu thôi. Nhưng mà là khi nào? Hãy để lòng ngủ miên man trong vũ trụ bao la thì sẽ cảm nhận được điều đó sao? Hãy bình tâm, coi mọi việc như có như hông, chắc chắn mình sẽ vượt qua được giai đoạn khó khăn nầy.

    Thời gian trôi qua bao lâu rồi? Bị khép kín bốn hàng rào kẽm gai chung quanh, chàng hông biết được thời gian trôi đi như thế nào. Đầu hôm chỉ ngó sao Hôm là biết một đêm đến. Ngày chỉ ngắm mặt trời lặn là biết một ngày qua. Nhìn thấy được trăng rằm sáng vằng vặc là biết một tháng qua. Hôm nay, trăng non yếu ớt e thẹn như cô gái mới lớn thơm mùi lúa bồng bồng, nằm ngữa mình tắm trong sông sao. Mùng một lưỡi trai, mùng hai lá lúa, mùng ba lưỡi liềmmùng bốn câu liêm... cứ thế mà biết được ngày qua tháng lại. Văng vẳng âm thanh “Bài Thánh Ca Buồn” của Nguyên Vũ nương theo gió chướng đưa vô trại. Trời trở lạnh. Chắc là Noel rồi. Một năm sắp trôi qua!

               

    Lê Phùng Xuân

    (Trích trong Trăng Suông)




NHỚ BẠN TÔI THIẾU ÚY HOÀNG ĐÌNH HUẾ
  • Image en ligne

    Trong hình là chiếc cầu Thạch Thành thuộc xã Thạch Thành Tuy Hòa, Phú Yên. Dãy nhà thấy lờ mờ bên trái tấm hình bên kia cầu là Trại A30, nơi giam giữ viên chức và sĩ quan VHCH sau ngày 30/04/75 trong đó có tôi và thiếu úy Hoàng Đình Huế.
    Năm 1978 từ đội 2 làm ruộng tôi được đưa về tổ chăn nuôi. Tổ gồm có 8 người trong đó có tôi và thiếu úy Huế phụ trách tắm rửa và mát xa cho heo. Thiếu úy Huế có cái tật là khi phục vụ cho heo thường đem thơ ra đối phó. Điều đặc biệt là hắn ta chuyên môn dùng thơ của nhà thơ cách mạng Tố Hữu. Hắn đọc đi đọc lại hoài cho đến mãi hôm nay sau gần 50 năm mà tôi vẫn còn nhớ mang máng như sau:
    Hôm qua loa gọi ngoài đồng
    Tiếng loa xé ruột xé lòng biết bao
    Làng trên xóm dưới xôn xao
    Làm sao, ông đã làm sao, mất rồi!
    Ông Stalin ơi! Ông Stalin ơi!
    Hỡi ôi Ông mất! Đất trời có không?
    Thương cha thương mẹ thương chồng
    Thương mình thương một thương ông thương mười...
    (thơ Tố Hữu)
    Tôi hỏi hắn thơ văn tiền chiến của các nhà thơ mượt mà lãng mạn hơn nhiều sao không dùng mà toàn dùng thơ chứa đầy bợ đít mấy thằng Tàu và Nga không vậy thì hắn trả lời gọn lỏn: thơ văn của miền Nam nhân bản quá nên bị cấm dùng mà nếu có dùng heo nó cũng không hiểu”. Tưởng hắn nói khịa, ai dè hắn nói thật bởi vì 20 cô heo nái trong tổng số 150 con mà chúng tôi có nhiệm vụ phục dịch lại thích nghe thơ Tố Hữu. 
    Hình như mọi sinh vật trên đời này hễ là giống cái thì đều thích nghe lời nịnh bợ. 20 cô nàng này đều thuộc dạng khó tính. Mỗi khi đến giờ tắm rữa không có cô nàng nào chịu đứng yên một chỗ để cho hai thằng tôi phục vụ mà lại chạy tứ tung. Cả 20 cô, cô nào cũng nặng từ nửa tạ trở lên trong khi hai thằng tôi không đứa nào nặng tới 40 ký. Mấy bữa đầu tôi và thiếu uý Huế thỉnh thoảng bị mấy cô húc té ngửa như chơi. Sém mấy lần hai thằng tôi suýt bị heo lấy thịt đè người. Huế nói sách có câu té chỗ nào thì đứng dậy từ chỗ đó và không biết từ lúc nào hắn phát giác ra chiêu thức dùng thơ Tố Hữu để trị mấy con heo. 
    Hắn vừa đọc thơ vừa gãi nhè nhẹ vào bụng, mấy cô heo cô nào cô nấy mắt cũng đều lim dim. Khi các cô đang phê lòi mắt ra rồi, tôi chỉ có nhiệm vụ xối nước lên kỳ cọ mát xa chút đỉnh là xong. Công việc đâm ra nhẹ nhàng. Đúng là trong cái khó lại ló ra cái khôn. 
    Chuồng heo cách giếng khoảng 100 mét, tôi và Huế một đứa kéo gầu lên và một đứa gánh vào. Biết được mánh này nên hai thằng tôi cũng bớt cực khổ hì hục. Cám ơn nhà thơ Tố Hữu đã để lại cho đời những bài thơ rất hữu dụng cho heo. 
    Trong tổng số 150 con heo, hùng dũng oai phong nhất là anh heo nọc.Anh chàng này cao to thuộc loại Từ Hải. Khoảng đo từ dưới đất lên lưng anh chàng này ước chừng cao hơn cả mét. Chàng heo nọc độc quyền phục vụ cho 20 cô đang phơn phởn ở tuổi nạ dòng. Số heo còn lại đều là trai tơ gọi là heo thịt. Mấy trai tơ này ở tuổi dậy thì thích phá phách và quậy bất kể ngày đêm. 
    20 cô nái đang tuổi nở hoa sung,lúc nào cũng sẳn sàng phá chuồng welcome mấy chú để làm chuyện con heo. Mấy anh heo tơ cũng không vừa gì hễ tụi tôi lơ là một tí là nhào qua chuồng hàng xóm để thả dê mấy bà chị của mình. Người cán bộ quản giáo phụ trách thấy vậy bảo tụi tôi thiến hết đám đó để vừa trị chứng quậy vừa bảo vệ danh tiết cho những cô nàng. 
    Ngày thiến heo là ngày huy hoàng của tổ chăn nuôi vì sau khi thiến thế nào cũng được chia cho vài hòn để “cải thiện”. Đó là những viên thuốc đại bổ dành cho những cơ thể vốn chỉ còn là những bộ xương đói quanh năm của tụi tù chúng tôi.Nhưng thích nhất vẫn là những lúc cho chàng nọc làm nhiệm vụ gây giống. Chúng tôi dù đang mang thân tù tội vì sự oan khiên của lịch sử nhưng vẫn là những thanh niên còn máu nghịch ngợm trong người nên rất vô tư đứng xem chàng heo nọc đóng phim sex. Tiêu chuẩn cho chàng là hai trứng gà sau khi làm xong nhiệm vụ. Nhìn hai trứng gà bé xíu được chàng nọc cao to đưa mồm ra táp gọn tụi tôi đứa nào cũng phân bì với nó. Vừa sướng lại vừa có trứng gà tẩm bổ, chả bù tụi tôi năm khi mười họa mới được chia cho vài hòn của mấy chú heo non háu đá kia.
    Chàng heo nọc dù phong độ hiên ngang như Từ Hải nhưng phải phục vụ cho đến những 20 em mà không có ai thay thế cho nên cũng phải đến lúc lực bất tùng tâm. Thấy hầu như ngày nào cũng bắt chàng hì hục làm chuyện con heo tội nghiệp quá tôi có đem thắc mắc này hỏi Hoàng Đình Huế. Hắn nói mấy con heo nái khi nở hoa sung nó rượng đực dữ lắm nếu không thỏa mãn thì tụi nó phá nhà sẳn sàng nhào qua hãm hiếp mấy chú heo tơ dù đám này đã thành thái giám.Thêm nữa ở trên ban xuống là phải gây giống tăng trưởng số heo trong chuồng từ 150 phải tăng thành 200 cho kịp chỉ tiêu. Nhìn chàng heo nọc làm nhiệm vụ nhiều khi cần phải nhờ tụi tôi trợ giúp mà nghĩ thương vua chúa ngày xưa một mình chống chỏi với từng ấy cung nữ vương phi. 
    Có câu triết lý, hưởng đến tận cùng của sự hưởng thụ sẽ trở thành bi đát quả là không sai. Vào một buổi sáng đầu xuân khi đám tù chúng tôi thức dậy ra thăm chuồng thì phát giác người hùng âm thầm chết cô đơn vì kiệt sức. Hung tin liền lập tức báo về ban chỉ lãnh đạo trại. Tổ chăn nuôi “khẩn trương khiêng con heo chết vì yêu kia về tổ hậu cần tức là nhà bếp. Con heo nọc dù kiệt sức vì chơi bời nhưng dù sao vẫn còn mập hơn tụi tôi. Đoạn đường từ tổ chăn nuôi về tổ hậu cần dài khoảng hai cây số, 4 thằng trơ xương ì ạch thay phiên nhau khiêng. Hai bên đường là những rẫy bắp, rẫy mía. Đám bạn tù đang cuốc đất thấy chúng tôi khiêng con heo nọc mặt mày ai nấy đều tươi rói vì biết rằng trong buổi cơm chiều thế nào cũng được một miếng thịt. Nhiều tên thật ác thừa lúc cán bộ quản giáo và bộ đội vũ trang ngó chỗ khác liền ra dấu hiệu hoan hô chúng tôi như những người hùng lập chiến công mang chiến lợi phẩm đi giữa hàng quân. Tụi tôi vừa khiêng heo vừa nháy mắt ra dấu cho họ biết có mừng thì đừng mừng ra mặt vì đám cán bộ mà thấy được thì lấy đó làm cớ để kết tội phá hoại kinh tế chụp lên đầu tổ chăn nuôi. Tuy ra dấu như vậy nhưng 4 tên khiêng heo cũng lén cười kháy với nhau vì ít ra những người bạn cùng chung cảnh ngộ với mình sau bao nhiêu ngày tháng nhịn rồi cũng có ngày được ăn thịt dù đó là thịt một con heo nọc hôi mùi sạ không thơm tho gì mà lại dai như quai dép.
    Chiến sĩ Từ Hải tử nạn vì 20 nàng Kiều khiến cho tổ chăn nuôi phải thức hai đêm để họp hành kiểm điểm xem có sự cố tình phá hoại xen vô cái chết kia không. Ông trưởng trại thường bắt chúng tôi kiểm điểm là tại sao trại giao cho 150 con heo sau 6 tháng to bằng 150 con khỉ. Tiêu chuẩn nuôi heo là tụi tôi phải ra rừng cắt lá rướng còn gọi là lá nhám về xắt nhỏ trộn với cám được lấy từ tổ xay giả đem nấu cho ăn. Tên phụ trách nấu cháo heo cũng đói quá nên trong mấy thúng cám có dính mấy mày tấm trăng trắng bé xíu cũng lượm ra để ăn ké, nên cám hình như không có bà con giòng họ gì dính líu với tinh bột. Ai nói ăn tạp như heo chứ heo của Trại A30 giao cho chúng tôi nuôi nhiều khi đổ cháo vô máng nó ngửi xong muốn lắc đầu vì chỉ có món rau và cám lạt nhách mà ngày nào cũng như ngày nấy. Trại trưởng A 30 mà đám tù gọi là bang trưởng bắt tụi tôi làm kiểm điểm tại sao heo lại ốm. Điều này cũng khó kiểm điểm vì ngay cả chúng tôi đây không mập nổi huống gì heo. 
    Khi bước chân vô trại chúng tôi là những thanh niên phơi phới đẹp trai nhưng ở tù mới chưa đầy 3 năm mà đứa nào đứa nấy muốn trở thành mấy ông già lòi xương sườn. Đối với chính quyền cách mạng mọi người dân đều bình đẳng đều được ấm no như nhau nên chúng tôi không được quyền ốm đói. Nếu chúng tôi ốm lòi xương ra có nghĩa là chúng tôi đi ngược lại đường lối chủ trương của đảng và cách mạng. Hành vi đó là chống đối, là phản động. Khi bị tập trung vô các trại lao động khổ sai vì không có bản án nên ngày về không biết ngày nào tháng nào năm nào nên không đứa nào dại gì chống đối. Thế là 8 cái đầu bằng cấp đầy mình kia vận dụng trí tuệ ra để mà làm kiểm điểm miễn sao thoát được tội phá hoại sản xuất sau cái chết của một con heo. Đám thanh niên tụi tôi vừa làm kiểm điểm vừa lén nháy mắt nhau cười. 
    Thiếu úy Hoàng Đình Huế có bằng cử nhân xuât thân từ Học viện CSQG Thủ Đức. Hắn người gốc Huế nhà ở Nha Trang, có làn da trắng trẻo thư sinh. Cái giọng Huế trọ trẹ của hắn mỗi lúc đọc thơ Tố Hữu cho heo nghe sao mà trầm ấm và ngọt lạ lùng. Tôi đây nhiều khi còn muốn chịu không nổi đừng nói chi là heo. Khi chúng tôi gặp nhau trong tù thì cả hai đều ở lứa tuổi 25. Ngày đó tuy còn trẻ nhưng Huế dự đoán là sau 50 năm nữa cả thế giới này sẽ khốn đốn vì nạn da vàng. Huế nói Mỹ lo chuyện Trung đông nên chọn bắt tay với Trung Quốc bỏ rơi miền Nam VN sẽ là 1 sai lầm. Huế nói 50 năm nữa dân số Trung Quốc sẽ tăng gần 2 tỉ với mộng làm bá chủ,họ sẽ bành trướng khắp 5 châu và nạn nhân không lối thoát gần nhất chính là Việt Nam. Thiếu úy Huế nói để thoát cảnh đó sau khi ở tù ra hắn sẽ tìm cách vượt biển. Năm 1981 sau 6 năm tù hai đứa được thả. Trong khi tôi còn đang lấn cấn gia đình thì Hoàng Đình Huế vượt biên không thành bỏ xác trên biển Đông. Riêng tôi thì đi tị nạn chính trị tại Mỹ năm 1993. Huế chết trên đường tìm tự do cho mãi đến sau này khi qua đến Mỹ tôi mới hay tin. Giờ đây sau 50 năm nghĩa là kiến thức của tôi là kiến thức của một lão già gần 80 nhưng trong lòng tôi vô cùng kính phục kiến thức chàng thành niên 25 tuổi với những nhận định chính trị và tầm chiến lược nhìn rất xa kia. Đã hơn thất thập cổ lai hy, sau một quãng đường dài đã sống giờ tôi cũng sắp đến giờ gặp lại bạn mình. Thân phận của kiếp con người cuối cùng thì cũng chỉ là hạt bụi. 
    Chiều hôm trái gió trở trời
    Xốn con mắt giống có người ngồi trong
    Tưởng đâu hạt bụi vô tình
    Từ thiên thu lội mây ngàn ghé thăm
    Xa hơn là chỗ tôi nằm 
    Hai tay trên bụng hai chân khép đùi
    Mai kia dù có trở trời
    Hạt bụi hết chỗ còn nơi tìm về
    Tôi là hạt bụi xa quê
    Lênh đênh nắng gió bốn bề hư không.
    (thơ Quan Dương) 
    Tôi cũng vô cùng ngưỡng mộ chàng heo nọc năm nào của trại A30 Tuy Hòa vì đã 1 mình anh dũng chiến đấu với 20 em. Chàng đã hoàn thành nhiệm vụ cho đến khi chết chẳng thèm than van không như đám quan lại hiện nay trong nước.Tên nào tên nấy mập như con heo khi ăn hối lộ trên xương thịt của người dân thì mặt lúc nào cũng phách lối cửa quyền nhưngkhi bị khui ra tòa thanh trừng lẫn nhau thì khóc lóc thảm thiết lạy lục van xin.
    Quan Dương



Tình cuối đời
 - Nguyễn Thị Thanh Dương
    •  


      Con dâu xách giỏ bước ra khỏi nhà còn nhắc lại:— Má kho cá nhớ mang ra sân sau nha. Con cả ngày ở tiệm nail ngửi mùi hóa chất về nhà mùi cá kho nữa chịu sao thấu ! Nó đi khuất tôi lẩm bẩm: - Con dâu mà bày đặt chỉ huy làm như má tao. Mai mốt tao đi khỏi cho biết mặt. Con dâu là người cuối cùng ra khỏi nhà, con trai và hai cháu nội đã đi làm đi học từ sáng sớm. Chồng tôi qua đời 3 năm nay, hai vợ chồng ăn tiền già, ở nhà housing mỗi tháng chính phủ phụ trả tiền nhà, nay chỉ còn mình tôi trả chi phí tiền nhà hao tốn quá...
       
      Thằng con trai duy nhất kêu về ở với vợ chồng nó, mang tiếng ở nhờ nhà con nhưng mỗi tháng tôi tự động đóng góp nửa tiền già, phụ giúp cơm nước và hầu hạ hai đứa cháu vậy mà con dâu có lúc còn làm tôi bực mình khó chịu.

      Tôi sắp có một tình cuối đời.

      Chiều nay gặp mặt nhau tôi sẽ làm một quyết định lớn lao nếu đồng ý về chung sống với người ấy, ông có nhà cửa sẵn sàng đợi tôi. Con dâu sẽ trắng mắt ra về cái tội không biết nâng niu tôn trọng mẹ chồng. Tôi tìm bạn bốn phương trên báo quen ông Sung, hai tâm hồn cô đơn đồng điệu gặp nhau. Ông Sung bất mãn con cái, tôi chẳng ưa gì con dâu, hai chúng tôi trao đổi hình ảnh thấy hạp nhãn, gọi phone chuyện trò qua lại thân tình thắm thiết nên hẹn gặp mặt để tính tới chuyện cùng dìu nhau đi nốt quãng đường đời còn lại như lời ông đã âu yếm rao tìm bạn. Ông Sung sẽ từ tiểu bang Texas bay tới đây gặp tôi.

      Tôi đến nhà hàng Tri Kỷ gặp ông Sung, ông 75 tuổi không khác trong hình là bao vừa gặp mặt là tôi chấm liền. Sau phút giây hội ngộ bối rối tôi và ông Sung mau chóng thân thiện nhau hơn, vừa ăn vừa nói chuyện. Ông Sung cũng thích tôi, khen tôi trẻ hơn tuổi 70. Tôi mỉm cười nhún nhường:
      — Em trẻ là nhờ mái tóc mới nhuộm hôm qua đó.
      Nụ cười chưa kịp tắt bỗng chuyển sang nhăn nhó vì cơn đau lưng bỗng ập đến, đau từ lưng trên bên phải xuống đến lưng dưới, bác sĩ bảo tôi bị viêm dây thần kinh gì đó, cơn đau đến rồi đi trong 5-10 phút và tôi phải sống với bệnh suốt đời.
      Ông Sung lo lắng hỏi:
      — Em sao thế?
      — Chứng đau lưng mãn tính, thường thì đi đâu em cũng mang theo thuốc giảm đau mua over counter hôm nay em quên mất. Trời... ơi... đau quá! phải chi có một viên thuốc….

      Thấy tôi cúi gập người xuống cho bớt đau, ông Sung vội đứng dậy đến bên tôi đỡ vai tôi nhưng ông bỗng lạng quạng suýt ngã nếu không nhanh tay vịn vào một cạnh bàn. Đến phiên tôi lo lắng hỏi:
      — Anh sao thế?
      Ông Sung đành….khai:
      — Anh bị đau hai khớp gối đi phải chống gậy, nhưng chẳng lẽ đi gặp em mà anh chống gậy thì quê quá nên anh không mang theo. Trời ơi... ước gì bây giờ có cây gậy thì đỡ khổ biết mấy.

      Dù đang đau lưng tôi cũng ráng dìu ông Sung ngồi trở lại ghế cho an toàn. Trong đầu óc tôi làm ngay một bài toán nếu tôi về sống chung với ông sẽ phải thường xuyên hầu hạ như thế này, đường dài chưa biết tính nết ông ra sao, không lẽ tôi lại vác mặt trở về với con cháu? Ngay lúc này tôi biết mình phải quyết định thế nào rồi..
      Tuổi già thật vô duyên, hai người đang hẹn hò lãng mạn thì bệnh hoạn lù lù xuất hiện không ai giấu ai được. Ông Sung kể lể:

      — Anh đã cẩn thận mang theo đủ thứ thuốc, nào cao mỡ, cao máu, đau bao tử, trào thực quản, tiền tiểu đường nhưng quyết không mang theo cây gậy giờ mới ra nông nỗi.
      Tôi cũng trút nỗi niềm:
      — Em cũng cao mỡ cao máu này, loãng xương này, rối loạn tiền đình này, ngoài ra còn phải nhỏ mắt cườm ướt Glaucoma nữa cơ. Anh nhớ đi bác sĩ mắt hàng năm xem có bị Glaucoma hay Cataract không nhé..
      — Em nhớ theo dõi đo huyết áp hàng ngày nhé.
      — Anh cũng nhớ đi bộ mỗi ngày một tiếng cho khỏe nhé.

      Tôi và ông Sung bỗng trở thành hai bạn già tâm sự kể lể chuyện thời tiết trở trời, chuyện ốm đau và dặn dò nhau kinh nghiệm thuốc men cho đến khi không còn gì để than thở thêm tôi mới giật mình kêu lên:
      — Ôi trời... sắp đến giờ em phải về nấu cơm chiều cho con cháu rồi. Mấy con cá đang chờ em về kho tiêu.
      Tôi vẫn nhớ đến bổn phận, nghĩ đến con cháu, vậy mà có lúc sôi máu vì ghét con dâu tôi đã muốn dứt áo ra đi.
      Ông Sung nói:
      — Ủa… mình chưa đi đến quyết định cuối cùng mà.
      — Em vội quá quên mất, em đã quyết định rồi…

      Ông Sung chặn lời tôi:
      — Để anh nói trước. Anh là người định đoạt trước…
      — Chưa gì mà anh đã lộ mặt gia trưởng rồi, thêm một lý do để em không tiếc khi quyết định: Chúng ta dừng lại ở đây.
      Ông Sung thẳng thừng:
      — Anh cũng muốn thế. Vì anh vừa nhận ra em đau lưng kinh niên, nay đau mai đau, rước em về anh lại phải hầu hạ, chưa kể bệnh mắt Glaucoma của em mai mốt lỡ... có bề nào càng khổ thân anh.

      Tôi tự ái đùng đùng:
      — Anh trù ẻo tôi đấy hả? Chưa biết ai phải hầu hạ ai, chân anh đi không vững đó. Nãy dìu anh trở về ghế ngồi tôi mệt hụt hơi, chưa kể tiền tiểu đường của anh nay mai thành bệnh tiểu đường mấy hồi, rồi... biến chứng lọc thận ai mà hầu nổi.

      Ông Sung cười nhạt:
      — Anh chỉ lỡ lời lo xa thế thôi, em đanh đá ghê gớm nhỉ, hèn gì tối ngày chê trách con dâu.

      Thấy tình hình căng thẳng tôi vội hạ giọng cho xong để còn kịp về nhà nấu cơm:
      — Thật may cơn đau lưng của em xuất hiện và chân anh đau đúng lúc, là tín hiệu nhắc nhở chúng ta đừng vội vàng quyết định, chúng ta đang mỗi ngày mỗi già đi, sức khỏe mỗi ngày mỗi kém đi nếu lấy nhau biết vui hưởng hạnh phúc được bao lâu hay chỉ là gánh nặng cho nhau. Anh có căn nhà riêng thì cứ ở tới khi nào không tự chăm sóc bản thân mình được nữa thì sang tên nhà cho con cái, chúng sẽ lo cho anh, còn em tiếp tục về hầu hạ con cháu mai sau có ốm đau nằm một chỗ ít nhiều gì chúng cũng phải hầu hạ lo cho em. Em đã tìm ra tình cuối đời rồi, là tình với con với cháu chứ tìm đâu xa.
      Ông Sung cũng “hạ nhiệt”:
      — Ừ, em nói vậy còn nghe được.

      Lát nữa về nhà tôi sẽ nghe lời con dâu mang nồi cá ra sân sau kho thật ngon lành. Hơn lúc nào hết tôi thấy mái nhà của con cháu vẫn đẹp vẫn ấm cúng hơn bất cứ nhà ai, dù con dâu có những lúc cãi mẹ chồng, dù con trai có lúc gắt gỏng mẹ ruột, dù hai cháu nội có những lúc làm tôi bận rộn.

      Khi chia tay ông Sung ở cửa nhà hàng tôi dặn dò có chút mỉa mai:
      — Anh nhớ ra tiệm Family Dollar ở góc đường kia mua cây gậy để chống chân đi về cho vững vàng khỏi té và bay về Texas an toàn nha.
      Ông Sung cũng chẳng vừa:
      — Từ giờ trở đi em đừng nhí nhảnh lên báo lên mạng tìm tình yêu, tìm chồng bốn
      phương nữa nhé. Lo mà hầu con cháu đi..

      Nguyễn Thị Thanh Dương



Trăng suông
  • Image en ligne
    Tranh của họa sĩ Trần Thắng

    Hoàng hôn đậm một màu đỏ ối như máu phủ kín một góc rừng miền Tây. Dòng sông ngoằn ngoèo gấp khúc ôm lấy đại ngàn. Đến khúc eo này nó bị thắt lại như con trăn khổng lồ bị tròng dây vào cổ rồi thít chặt. Mặt sông bảng lảng hơi sương. Không gian hoang lạnh đến rợn người. Thảng hoặc, chỉ có tiếng chim vỗ cánh rộp roạp hay tiếng con mang, con hoẵng khát tình tru lên man dại. Tiếng nói chắc nịch vang lên:
    – Dừng lại đây nghỉ đã! 
    Chiếc nốc nhỏ tiến sát vào gần bờ rồi dừng lại. Trên nốc có 3 người. Một ông lão trạc 70. Một cô gái trẻ và một con bé chừng 3 tuổi.
    Ông lão cắm mạnh cây sào xuống nước rồi buộc nốc vào. Ông cởi trần. Bộ ngực và các cơ bắp cuồn cuộn ngày nào giờ đã nhão ra bèo nhèo, chảy sệ quện với thời gian. Làn da mồi nhăn nheo lấp lánh dưới ánh hoàng hôn đang chuyển sang màu tím tái. Ông ngồi cúi xuống, lấy chiếc khăn tay nhúng xuống sông rồi đưa lên lau người.Trong khoang, cô gái đang lúi húi dọn cơm ra mâm. Làn khói mỏng bay lên thơm nức mùi cá nướng. Con bé cầm chiếc bát ngồi cạnh mẹ mắt ướt nhòe nũng nịu: “Mẹ ơi, con đói lắm!” Cô gái vừa với tay thắp chiếc đèn bão đang treo ở mui nốc vừa nựng con: 
     Ngoan đi con! Con ra mũi ngồi với ông đi! Mẹ bưng cơm ra ngay đây!
    Tợp một hớp rượu, ông lão dướn mắt nhìn lên những lùm cây um tùm trên bờ rồi đặt chiếc ly xuống mặt ván gỗ nghe tiếng “kịch”. Ông chùng giọng: 
     Hay là ta quay về đi con. 
    Cô gái đang cầm thìa đút cơm cho con ăn vội ngước lên nhìn ông khẩn khoản:
     Con xin cha cho con thêm mấy bữa nữa!
     Ta đi tính đến bữa ni là một tháng 6 ngày rồi mà vẫn nỏ thấy hắn mô cả. Thôi, phải quay về nhà thôi con ạ, mùa lụt sắp đến rồi!
    Cô gái vừa nói với cha vừa sụt sịt khóc:
     Cha, con xin cha rốn cho con một vài bữa nữa, một vài bữa nữa thôi cha ạ! Biết mô, con Thảo lại tìm được cha hắn. Răng mà con khổ ri hở trời?
    Con bé mếu máo:
     Mẹ, răng mẹ lại khóc? Ông ngoại ơi, ông nói chi mà để mẹ cháu khóc rứa? Mẹ ơi nín đi, mẹ mà khóc là con nỏ ăn nữa mô!
     Ăn đi con, mẹ nỏ khóc nữa mô!
    Vừa đưa tay quẹt nước mắt vừa nựng con, cô gái lại giục: 
     Cha ăn cơm đi, đừng uống nữa! Ăn xong vô nằm ngủ cho khoẻ. Mai ta lại đi tiếp cha hầy?
    Màn đêm bao trùm đặc quánh cả vùng eo vực Bồng. Mặt sông gờn gợn sóng. Chiếc nốc nhỏ nhoi như lá tre khẽ dập dềnh, dập dềnh. Chốc chốc lại có con cá lăng, cá ngạnh húng hoắng búng nước nhộp nhoạp phá tan cái chốn thinh không lạnh lùng, hoang vắng này.
    Ông lão đã ngủ. Tiếng ngáy “khoọc... khoọc...!” đều đều phát ra kèm theo hơi rượu nồng nặc quẩn đặc khắp cái khoang nốc bé tin hin. Nằm ôm con co ro một góc, cô gái chẳng thể nào ngủ được. Thỉnh thoảng con bé lại giật bắn mình rồi khóc hu hu tội nghiệp. Cô vội vỗ vỗ vào đít nó rồi cất giọng ư ử ru như sợ cha mình tỉnh giấc. Lời bài hát ru “Thập ân phụ mẫu” phát ra nghe méo xệch, không rõ lời. Vậy mà chỉ một lúc sau, con bé lại ngủ ngon lành. Ngắm khuôn mặt bầu bĩnh của con bé đang ngủ một cách thơ ngây, hồn nhiên đến nao lòng, nước mắt người mẹ chảy ướt đầm cánh tay co lên làm gối. Cô khóc. Không biết đây là lần thứ bao nhiêu cô rơi nước mắt vì thương cha, thương con bé và thương cho cái thân mình.
    Cô ngước mắt lên nhìn ra ngoài mui nốc. Có chút ánh sáng le lói, yếu ớt xiên vào. Bữa ni là ngày mấy mà trăng chừ mới lò dò lên nhỉ? Cô tự hỏi. Đã lâu rồi ta cố quên đi ánh trăng oan nghiệt, răng hôm nay trăng lại đến đùa ta? Hình như có tiếng hát lẫn trong tiếng gió hú từ trên bờ eo vực Bồng. Người hay là ma? Cô rởn người. Cảm giác lạnh buốt chạy dọc sống lưng. Tiếng hò rờn rợn vẳng ra nghe dài dại: “Trăng lên đến đó em tề/ Hỏi chi thì hỏi anh về kẻo khuya...”
    Cô rùng mình bịt tai lại. Mắt nhắm nghiền. Đôi môi khẽ mấp máy khẩn cầu: “Đừng sáng nữa trăng ơi! Tôi khổ vì trăng lắm rồi! Tôi xin trăng hãy lặn mau đi! Trăng hãy lặn mau đi! Tôi xin trăng đấy! Lặn đi trăng!”
    Bên cạnh, con bé vẫn say giấc ngủ. Ngoài cửa khoang, ông lão vẫn đều đều với âm thanh “Khoọc... khoọc!” đứt quãng. Ánh trăng ma quái vẫn chập chờn.
    -------
    Đêm 16. Ánh trăng thừa thãi chảy tràn mặt sông. Nước dòng Lam trong vắt khoe những hòn sỏi trắng phớ đang lúng liếng đưa tình. Lũ cá mương, cá chày mải mê đùa giỡn dạo đầu cho cuộc truy hoan cuồng say rạo rực. Dòng sông lấp lóa ánh bạc níu bờ cát vàng hoang hoải chảy về tít tắp xa xăm. Ánh trăng huyền hoặc mơn man bông đùa trên từng chiếc lá dâu non. Cơn gió đỏng đảnh lay lay từng ngọn cỏ trên bãi bồi. Cả bãi dâu xanh mướt ngút ngàn khẽ rên khúc tự tình rầm rì hoan lạc.
    3 cô gái làng Vải đang ngồi cạnh mép sông. Họ vừa vốc từng vốc nước lên tưới tràn nhữngbắp chân trắng ngần như bột lọc vừa nhướng mắt về phía bờbên kia chờđợi.
    Tiếng Thơm cất lên vẻ sốt ruột:
    – Răng buổi ni họ vẫn chưa đến hè?
    Huệ quay sang nhìn Thơm và Hạ rồi lại nhìn ra mặt sông. Phía bên kia vẫn một màu xanh đậm của lũy tre đang rung rinh trong gió. Bờ đê chạy dài ôm lấy bờ lở con sông. Huệ tự thắc mắc một mình:
    – Chưa có bữa mô lâu như bữa ni. Hay là họ có chuyện chi rứa hè?
    Hạ trấn an mọi người:
    – Nỏ có chuyện chi mô! Chắc là bữa ni họ đi đánh cá ở xa nên về muộn! Ta cứ chờ tý nữa. Nếu bữa ni họ không sang thì bữa khác họ sang. Lo chi mà lo! 
    Giọng cô nghe vẻ bình thản nhưng thực ra lúc này trong lòng Hạ cũng như Huệ và Thơm, Hạ cũng rất mong mấy chàng trai vạn chài bên kia sông sang đây để được gặp nhau, để họ trả nợ mấy câu hỏi mà tuần trăng trước họ chưa đáp lại được.
    Hạ khẽ reo lên, đoạn cô kéo áo hai bạn rồi chỉ tay ra xa:
    – Họ sang rồi tề! Đây nói có sai mô!
    Chiếc nốc nhỏ như một chấm đen đang từ bờ bên kia dần dần tiến sang bên này. Chiếc nốc lớn dần, lớn dần. Nó lướt phăm phăm trên mặt nước như thể để bù lại cái khoảng thời gian dài các cô gái của phường hát làng Vải phải ngóng trông thắc thỏm. Trên nốc, 3 thanh niên làng Vạn trông dáng to khỏe đang hì hụi chống chèo. Khi cách bờ một đoạn bằng vài sải tay, họ dừng nốc lại. Một người cắm con sào xuống nước, buộc nốc lại. 3 chàng trai vẫy vẫy tay vào bờ chào các o. 
    Mt người bước lên trước vịn tay vào cây sào rồi đánh tiếng với vào bờ bằng một câu dạo vui tai: 
    – “Hò... ơ... ơ... Chốn này vui vẻ tưng bừng/ Hạc nghe tiếng phượng xa chừng tới nơi!”
    Thơm khúc khích cười:
    – Cuối cùng thì họ cũng đã đến! Chị Hạ, chị Huệ ơi, các chị hát đi!
    Hạ giật nhẹ vai áo Thơm:
    – Nhường em hát trước đấy!
    – Không, em nỏ hát trước mô, chị Hạ hát đi!
    Huệ vào hùa giục Hạ:
    – Đúng rồi, Hạ đáp lại đi!
    Hạ lội xuống. Làn nước mát lạnh quấn lấy bắp chân tròn lẳn. Cô nhìn 3 chàng trai đứng trên nốc vẻ đợi chờ. Hạ cất giọng đáp lại một câu trong vắt như nước sông:
    – “Hò...ơ...ơ... Dừng xa, khoan kéo, ơ phường/ Hình như có khách viễn phương tới nhà!”
    Lập tức phường nam tiếp lời: 
    – “Đi qua, nghe tiếng em reo/ Nghe xa em kéo, muốn đeo em về!”
    Các o phường nữ cũng chẳng kém, họ đồng thanh lên tiếng: 
    – “Đêm khuya, trời tạnh, sương im/ Tai nghe tiếng nhạc chàng Kim tới gần... Hò...ơ...ơ... Mừng rằng bạn đến chơi nhà/ Cam lòng thục nữ gọi là trao tay!”
    Phường nam được dịp bèn thổ lộ nỗi lòng mình: 
    – “Đi ngang thấy búp hoa đào/ Muốn vào mà bẻ, sợ bờ rào lắm gai... Hò...ơ...ơ... Đến đây vàng cũng như son/ Ai ai thời cũng như con một nhà...”
    Các o phường nữ dường như chẳng chịu nghe những lời bộc bạch tâm tình của phường nam, họ thử tài ứng đối của phường nam bằng những câu hát đố mượt mà như lụa. Rồi phường nam cũng đối lại không kém phần sắc sảo:
    – “Đến đây hỏi khách tương phùng/ Chim chi một cánh bay cùng nước non?”
    – “Tương phùng nhắn với tương tri/ Cánh buồm một cánh bay đi khắp trời!”
    – “Lá gì không nhánh, không ngành?/ Lá gì chỉ có tay mình trao tay?”
    – “Lá thư không nhánh, không ngành/ Lá thư chỉ có tay mình trao tay!”
    Cứ thế, tiếng hò câu ví loang loáng mặt sông. Âm thanh câu hát hòa vào dòng chảy của con nước nghe man mác, ngân nga. Hết hát dạo, hát mừng, hát chào, hát hỏi họ chuyển sang hát đố. Cả hai phường hát say sưa đối đáp quên cả thời gian. Hai bên chuyển sang hát mời và thả những câu xe kết đong đưa. Sương khuya ướt nhòa mái tóc họ mới sực tỉnh, vội vàng cất lên câu hát tiễn người. Ánh trăng chênh chếch trên cao soi rõ những ánh mắt khát khao nuối tiếc của những chàng trai, cô gái đang chập chững bước vào đường yêu.....
    Nhờ ánh trăng vằng vặc lấp lóa mặt sông, nhờ những đêm hát phường Vải giao duyên đậm đà men say tình ái mà Huệ và Thơm lần lượt lên nốc về bên kia sông cùng người tri kỷ. Chỉ còn Hạ vẫn còn miệt mài bên khung dệt lụa. Hạ mê mẩn với những chiếc lá dâu, với nong tằm, con kén. Những đêm trăng sáng, Hạ lại dạy các em gái trong làng hát ví, hát phường vải để thỏa sức giao duyên cùng các phường hát nam trong vùng.
    Cả cái vùng hạ lưu sông Lam này ai mà chẳng biết cái tên o Hạ. O Hạ vừa đẹp người, đẹp nết, hát hay lại giỏi giang, tháo vát. Chính o là niềm tự hào của làng Vải.
    Lụa làng Vải bao đời nay đã trở thành một thương hiệu nổi tiếng khắp nơi.Tương truyền rằng, những bộ y phục của vua, hoàng hậu và các quan đại thần trong triều đình xưa được may bằng những tấm lụa được dệt từ làng Vải. Để tỏ lòng tri ân với vị thánh mẫu đã ban cho làng Vải nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa nên hằng năm,ở đây lại tổ chức hội thi tài để tìm ra những tay dệt giỏi và động viên con cháu gìn giữ nghiệp tổ của làng. Năm nào Hạ cũng giành giải dệt lụa nhanh nhất, đẹp nhất. Người già hân hoan phấn khởi. Người trẻ ao ước, khát khao. Không ít nhà gần xa bóng gió muốn xin Hạ về làm dâu nhưng Hạ chỉ bẽn lẽn cười cười ra chừng như o chưa ưng ai. Trai trong vùng khối kẻ mơ ước được xe duyên kết tóc cùng Hạ nhưng Hạ vẫn hồn nhiên như cơn gió mải mê vui đùa bờ bãi ven sông. Và cũng chẳng hiểu sao những câu hát nặng tình của các chàng trai làng Vạn vẫn chưa thể lay động được trái tim o. Hạ đã làm biết bao gã trai phải khốn đốn, mất ăn mất ngủ thẫn thờ. Cha mẹ Hạ cũng rất phiền lòng vì con gái chẳng chịu nghe lời ông bà. Đã nhiều đêm bà nhỏ to thủ thỉ, tâm tình cùng con gái bằng tình mẫu tử sâu nặng và sự trải nghiệm của một người mẹ. Rằng đời con gái như giọt mưa sa, nó ngắn ngủi vô cùng. Cha mẹ xin con hãy đừng kén cá chọn canh kẻo đến lúc hoa tàn nhuỵ héo, duyên phận lỡ làng thì khổ cực trăm bề. Chỉ mong con hãy thương lấy cha mẹ, thương các em mà nhanh chóng tìm cho mình một tấm chồng để khi cha mẹ nhắm mắt xuôi tay cũng được yên lòng. Bà sụt sịt khóc, nước mắt mẹ ướt đầm vai áo Hạ. Nằm cạnh mẹ mà lòng Hạ như dao cứa. Nước mắt Hạ lưng tròng. Nào Hạ có muốn làm trái ý cha mẹ đâu. Hạ cũng là con người, cũng biết yêu thương, khao khát một mái ấm gia đình lắm chứ. Nhưng không hiểu sao trái tim Hạ vẫn chưa một lần thổn thức? Liệu trái tim Hạ có nghe được tiếng gọi của tình yêu hay không?Tại sao chuyện chồng con đối với Hạ lại vô cùng khó khăn đến vậy? Hạ có phải là một người bình thường như bao người con gái làng Vải này không? Càng nghĩ, Hạ càng thấy buồn. Hạ rúc đầu vào ngực mẹ rồi khẽ hứa với mẹ sẽ lấy chồng để cha mẹ yên lòng. Thực tình, Hạ chẳng muốn xa cái làng Vải, xa khung dệt lụa, xa bãi dâu xanh và khúc sông chất chứa biết bao kỷ niệm này. Hạ chỉ muốn được quẩn quanh nơi đây để ngày ngày miệt mài làm việc, đêm trăng sáng lại cất lên tiếng hát vang vọng sông quê bằng những câu hò, câu ví nao lòng. Những giọt nước mắt Hạ lăn xuống thấm ướt chiếc gối thêu đôi chim bồ câu đang rủ rỉ tâm tình.
    Ngoài kia, sương rơi ướt đẫm mảnh sân nhỏ. Thỉnh thoảng tiếng côn trùng khe khẽ thở than. Gió lạnh kéo ánh trăng khuya len lỏi ùa vào căn nhà nhỏ ven sông.....
    Hạ đã tìm được ý trung nhân. Một người hoàn toàn xa lạ. Hạ vẫn không tin đó lại là sự thật bởi tình yêu đến quá bất ngờ.
    Lại một đêm trăng sáng. Hạ dẫn các em trong phường hát nữ ra bờ sông để hát đối cùng trai làng Vạn.
    Trăng thanh. Gió mát. Nước chảy hững hờ. Những câu ví đầy ngẫu hứng bay bổng ngân nga vang lên say đắm lòng người. Hạ đứng nhìn các em say sưa đối đáp trao tình cùng cánh trai làng Vạn. Lòng Hạ rộn lên niềm vui nguyên lành như thể đang cùng Huệ và Thơm ngất ngây trong phường hát năm nào. Bây giờ Huệ và Thơm về bên kia sông không biết có vì cuộc sống tất bật mưu sinh mà nhớ tới cô bạn Hạ làng Vải này không? Huệ ơi, Thơm ơi! Các bạn có nghe mình gọi không?
    Hạ bỗng bừng tỉnh khỏi những âm thanh rạo rực. Cô quay mặt nhìn lên phía trước. 1 chiếc nốc lạ từ thượng nguồn đang lững thững trôi xuống. Trên nốc, một người đàn ông đang nhẹ nhàng vung mái chèo khua nước. Ai rứa hè? Răng lại đi có một mình? Có phải là phường hát không? Hạ dán mắt theo dõi. Đám gái trai hai làng vẫn đang mải mê hát và vục nước đùa nhau.
    Chiếc nốc lạ cắm sào nằm cạnh nốc của phường hát làng Vạn. Mọi người đưa mắt nhìn nhau. Người thanh niên có thân hình lực lưỡng, mái tóc húi cao, hàng cúc áo phanh ra để lộ bộ ngực săn chắc. Hạ nhìn kỹ khuôn mặt anh ta. Người lạ. Khá điển trai. Anh ta vừa gài li  cúc áo vừa hướng ánh mắt vào Hạ rồi cất vang giọng dạo đầu: “Hò..ơ...hò... Bấy lâu nghe hết tiếng nàng/ Bên anh nức tiếng đồn vang đã từng/ Nghe tin anh cũng vội mừng/ Vậy nên chẳng quản suối rừng anh sang”.
    Anh ta vừa dừng tiếng hát, cả đám gái trai phường hát sững sờ nhìn nhau. Hạ ngạc nhiên đến không ngờ. Ôi, giọng hát sao mà nghe mạnh mẽ, trong trẻo đến hút hồn rứa nhỉ? Hạ đã thuộc nhiều làn điệu dân ca, đã hát đối rất nhiều với các phường hát nam nhưng chưa có chàng trai nào có giọng hát vừa khoáng đạt vừa mang đậm hồn thơ tiếng nhạc đến vậy. Người ơi, chàng là ai? Chàng từ mô đến? Chàng chỉ đến đây để hát thôi ư? Mà răng chàng lại hát “Bấy lâu nghe hết tiếng nàng/ Bên anh nức tiếng đồn vang đã từng”? Chàng muốn nói ai trong số các cô gái làng Vải đêm nay? Phải chăng đây là thiên định cho cuộc nhân duyên của mình? Những câu hỏi cứ vẩn vơ trong đầu Hạ. Một cảm giác run run chạy qua sống lưng nàng. Lấy hết can đảm, Hạ lội xuống nước nhẹ nhàng đung đưa lời dạo qua môi: “Hò... ơ... hò... Bấy lâu thức nhắp mơ màng/ Bên rèm tiếng gió, đầu giường bóng trăng...” Rồi Hạ mơ màng: “Bóng trăng em tưởng bóng đèn/ Bóng cơn em tưởng bóng thuyền anh xuôi.”
    Người lạ mạnh dạn thổ lộ nỗi lòng bằng lời ca da diết con tim: “Nước chảy cho bè anh trôi/ Ai bắt bè anh lại kết nên đôi vợ chồng... Hò...ơ...hò... Chờ em nửa tháng ni rồi/ Ôm đờn bán nguyệt, dựa ngồi cung trăng...”
    Cả đám bạn hát hai làng lặng im ngơ ngác nghe Hạ và người lạ đối đáp cùng nhau. Tiếng hát của chàng trai đầy ma lực khiến Hạ như lạc vào mê cung tình ái rồi gặp được người tri âm để bày tỏ nỗi lòng. Giọng hát có khi êm đềm như dòng nước mùa xuân chan chứa tình đời. Khi thổn thức cõi lòng của người cô đơn. Rồi lại dồn dập như những con thuyền đang tất tả ngược xuôi qua lại. Cũng có khi nó khựng lại, chộn lên như con nước đang chảy mạnh bỗng dưng gặp phải tảng đá chắn ngang. Cả cái không gian mênh mang như chìm đắm trong men say chuếnh choáng tương phùng.
    Mặt trăng viên mãn rạng ngời....
    ------
    Tĩnh làm nghề buôn gỗ. Nhà mãi trên mạn ngược. Anh bảo, muốn lên nhà anh thì trước tiên phải đến phố huyện. Từ đường cái bắt đầu đi đò dọc mất 3 ngày 4 đêm mới đến được bản của anh. Nếu chèo đò ngược sông Lam lên có khi phải mất cả tháng trời mới đến nơi. Hạ không sợ điều đó. Tuổi thơ anh đã phải chịu nhiều mất mát, thiệt thòi. Cha mẹ bị nước lũ cuốn trôi khi đang vớt củi trên sông. Khi đó Tĩnh mới tròn một tuổi. Tĩnh được gia đình ông bác họ cưu mang nuôi nấng. Năm Tĩnh 15 tuổi thì bác qua đời. Gia đình bác chuyển đi nơi khác. Không họ hàng, anh em. Tĩnh sống nhờ vào sự đùm bọc thương yêu của bà con làng xóm nên mới khôn lớn đến bây giờ.
    Nghe những lời tâm sự xót xa của Tĩnh, nước mắt Hạ tuôn rơi. Hạ thương Tĩnh vô cùng. Hạ rất muốn được bù lại cho Tĩnh những mất mát buồn đau bằng chính cả cuộc đời mình. Đi bên nhau trên bãi cát dài cạnh mép sông, ánh trăng soi tỏ khuôn mặt hai con người đang ngất ngây hạnh phúc. Vòng tay ôm Hạ, Tĩnh thủ thỉ:
    – Hạ ạ, hoàn cảnh của anh thì em đã rõ rồi đấy! Anh thấy nghề buôn gỗ bây giờ cũng gặp thật nhiều khó khăn, bất trắc. Anh không muốn mình phải luôn đối mặt với sự nguy hiểm, anh chỉ muốn một cuộc sống yên bình, vợ chồng sớm tối có nhau...
    Hạ quay sang hỏi lại vẻ thắc mắc:
    – Nghĩa là răng hả anh?
    – Bây chừ, ở trên quê anh cũng không còn ai thân thích. Anh muốn xin phép cha mẹ em được ở lại đây, được cùng em làm nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa. Anh sẽ quyết tâm học được nghề của quê em. Anh đã tích cóp được một lưng vốn tàm tạm, vợ chồng mình sẽ mở rộng sản xuất, cuộc sống của chúng mình sẽ khấm khá phải không em?
    – Anh..!
    Hạ định nói nhưng cổ họng ngắc ngứ. Hạ cảm thấy lâng lâng vui sướng. Ánh mắt cô long lanh nhìn Tĩnh. Mãi một lúc sau Hạ mới nói nên lời:
    – Rứa thì còn chi vui hơn phải không anh? Em tin là cha mẹ sẽ đồng ý. Cha mẹ em rất vui khi có được một chàng rể tương lai như anh!
    Đột nhiên Tĩnh cúi xuống bế bổng Hạ lên chạy vào vườn dâu đang rung rinh trong gió. Hạ vẫy vùng rồi nũng nịu đấm vào ngực Tĩnh thùm thụp. Tĩnh và Hạ nằm dưới gốc dâu. Ánh trăng hau háu khát thèm. Trong vòng tay ghì chặt của Tĩnh, Hạ cảm giác như cả đất trời nghiêng ngả. Hạ thấy mình đang bồng bềnh trôi trên dòng sông quê. Những cơn gió cứ mơn man, mơn man cơ thể Hạ. Bên tai Hạ vẳng nghe đâu đây câu ví vỗ về. Bỗng dưng con thuyền chao đảo rồi lao xuống ghềnh thác. Con thuyền húc vào những tảng đá lởm chởm sắc nhọn. Hạ lịm đi. Cô cảm thấy hình như có một viên đá găm vào cơ thể mình đau nhói. Hạ hoảng hốt khẽ kêu lên rồi choàng tỉnh. Máu! Tĩnh lò cò ngồi dậy rồi dìu Hạ xuống bờ sông. Cả hai ngâm mình dưới làn nước mát lạnh. Hạ vừa cảm thấy xấu hổ, sợ sệt nhưng cũng vừa được trải qua những cảm giác ngọt ngào của tình yêu. Cô khoát nước vào mặt Tĩnh rồi giục Tĩnh nhanh chân quảy đôi thùng gánh nước kĩu kịt về nhà. Con đường cát nhỏ thân thuộc chạy từ bến sông vắt lên bờ đê để về làng hôm nay sao mà ngắn thật. Hạ ước giá như con đường này bây giờ thật dài, thật dài để hai đứa được đi bên nhau thật lâu, để Hạ được thỏa thuê ngắm nhìn, trò chuyện cùng người mình yêu thương. Trăng lên cao soi rõ bóng hai người liêu xiêu bên bờ cỏ. Hai chiếc bóng có lúc nhập vào nhau làm một, có lúc lại tản ra rồi lại nhập vào như trò ú tim. Phải chăng hạnh phúc đến từ những điều bất ngờ nhất chứ không phải là một sự sắp đặt hoàn hảo? Hạ thầm cảm ơn dòng sông, cảm ơn ánh trăng và câu hò đã cho Hạ tìm được hạnh phúc của riêng mình. Một hạnh phúc thật đơn giản nhưng vô cùng ý nghĩa mà không ai dễ gì có được.
    Sương khuya ngấm vào da thịt nghe lành lạnh. Tiếng gà gáy sang canh lục tục cất lên. Hai chiếc bóng cứ nhỏ dần, nhỏ dần rồi khuất hẳn vào bụi tre đầu làng Vải.
    ------
    Hạ cũng không thể nào lý giải được nguyên nhân vì sao Tĩnh bỏ làng Vải ra đi lâu như vậy. Trước hôm đi, nằm bên cạnh vợ, Tĩnh thủ thỉ muốn về trên quê ít ngày để làm giỗ cho cha mẹ, xong việc anh xuống ngay. Hạ xin đi nhưng Tĩnh can ngăn. Tĩnh bảo, sang năm hãy về, con còn nhỏ quá chưa thể về được. Hạ thương chồng vất vả lặn lội đường xa, cô bỏ vào túi chồng một ít tiền làm lộ phí để Tĩnh lên đường về quê.
    2 năm sống cùng nhau trong ngôi nhà của cha mẹ vợ, Tĩnh là một chàng rể siêng năng, cần cù và khéo tay. Hạ đã sinh được một bé gái xinh xắn đặt tên là Thảo. Thảo là thảo hiền, hiếu thảo với cha mẹ. Tĩnh bảo vậy. Cha mẹ vợ vui mừng ra mặt vì có một chàng rể tốt tính, khỏe mạnh, tháo vát, ăn ở biết điều. Hạ thì khỏi nói. Cô luôn tự hào vì có được một người chồng như Tĩnh. Đã mấy lần Hạ hỏi han, bàn với chồng đưa con về thăm quê nội, để được ra mộ thắp hương cho cha mẹ chồng bởi từ hồi lấy nhau tới giờ Hạ cũng chưa một lần được về trên đó. Tĩnh lảng đi và nói rằng cứ để con lớn lên chút nữa rồi anh sẽ đưa em và con về cũng được. Quê anh xa lắm, mãi trên mạn ngược. Ở đâu? Cứ qua Dừa, qua Lạng, đi đò ngược sông Lam 7 ngày nữa mới tới nơi, anh chưa muốn em và con phải khổ. Nghe anh đi! Đành vậy. Hạ chịu thua.
    Sau 2 năm chẳng quản nắng mưa, khó nhọc, Tĩnh đã nắm được những bí quyết cơ bản của nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa mà người vợ thương yêu truyền cho. Đó là những bí quyết giúpHạ luôn chiến thắng trong các cuộc thi tài của làng Vải trước đây. Những tấm lụa với những sợi tơ vàng óng ánh mê hoặc mọi người bây giờ cũng đã được Tĩnh dệt nên chẳng kém vợ bao nhiêu. Hạ vui mừng vì đã chọn được một học trò đặc biệt để truyền nghề. Người học trò đó sẽ theo Hạ suốt cả cuộc đời này và cùng nhau tạo dựng nên một cuộc sống no đủ bên những đứa con ngoan. Nghĩ vậy, Hạ vui lắm.
    ------
    Chiếc nốc nhỏ vẫn lầm lũi đi lên phía trước. Đi mãi. Không biết qua bao nhiêu eo, bao nhiêu vực xoáy trên dòng Lam hùng vĩ này. Cha chống, con chèo, miệt mài hết ngày này qua ngày khác. Ông lão sức đã tàn, hơi đã kiệt. Có lúc ông lại uể oải ngồi xuống giương đôi mắt đục mờ nhìn ra xa. Vẫn rừng xanh tiếp núi thẳm. Tìm người như ri thì biết khi mô mới tìm được? Chiếc nốc như một kẻ độc hành phiêu lưu trên sa mạc, không biết đâu là đích của mình.
    Trời vừa xế chiều. Ánh nắng quái vẫn còn soi xuống mặt sông rồi hắt lên mặt người từng bóng nước rung rinh. Chiếc nốc đang đi qua một eo nhỏ có tên là eo Bớp. Hai bên rừng núi âm u tĩnh mịch. Đã thấm mệt. Hạ vừa nhanh tay chèo vừa nhủ thầm phải đi qua cái eo rùng rợn này đã rồi mới nghỉ lấy sức được. Nghĩ vậy, cô đưa tay quệt những giọt mồ hôi chảy tràn trên mặt vừa cúi lưng khua mạnh mái chèo. Vừa qua khỏi eo Bớp, trời đất bỗng nhiên quang đãng lạ thường. Không còn cảnh núi rừng âm u mà thay vào đó là những bãi bồi chạy dài tít tắp. Những nóc nhà nhỏ nép mình dưới bụi vầu, bụi nứa đẹp như tranh vẽ. Bỗng nhiên Hạ hét to:
    – Cha ơi, nhìn tề!
    Ông lão vịn sào đứng dậy nhìn theo hướng tay Hạ chỉ. Phía xa xa, 1 vườn dâu xanh ngắt nằm bên mép sông. Càng đến gần, vườn dâu càng kéo dài lên phía trước tầm mắt của hai cha con. Ông lão ngạc nhiên thốt lên:
    – Răng lại giống cảnh quê mình hè?
    Hạ nói nhỏ:
    – Rứa là đúng rồi cha ạ!
    Ông lão quay lại:
    – Đúng cái chi?
    – Dạ...! Con biết rồi cha ạ!
    Hai cha con cho nốc vào sát gần bờ rồi cắm sào dừng lại. Trên bãi dâu có nhiều người đang lúi húi hái lá chất đầy vào chiếc sọt sau lưng. Nắng đã tắt hẳn. Cơn gió mát rượi thổi bay bay mái tóc Hạ.Cô vẫn chăm chú nhìn lên bờ. Đám người trong vườn dâu lục tục kéo nhau về. Hạ run rẩy kêu lên: “Cha ơi!” Tĩnh và một người đàn bà vừa bước ra khỏi vườn dâu,sau lưng họ là hai chiếc sọt đầy lá xanh rờn. Hai người vừa bước nhanh chân về làng vừa nói cười với nhau, vẻ mặt rờ rỡ rạng ngời. Một lúc sau, một thằng bé chừng 8 tuổi chui ra từ những lùm dâu. Nó vừa chạy vừa gọi toáng lên: “Cha mẹ ơi, chờ con với!”
    Hạ ngã khuỵu xuống nốc. Nước mắt chảy ướt đầm vai áo. Nước mắt thấm vào môi, vào miệng nghe đắng đót vô cùng. Cô muốn hét thật to nhưng lúc này bỗng dưng có cái gì ứ nghẹn, uất ức không thể bật lên thành tiếng. Hạ cảm thấy mình như vừa bị một cơn gió độc xô ngã mà không thể nào dậy được. Thấy vậy, ông lão vội chui qua mui rồi nhanh tay đỡ lấy con gái. Ông nghẹn ngào vuốt mái tóc Hạ rồi vỗ vai nhỏ nhẹ:
    – Thôi, đừng khóc nữa con! Bây chừ cha con ta quay về đi, nước lụt sắp về rồi con ạ! Về đi kẻo không kịp!
    Hạ nấc lên, đôi vai run bần bật, 2 tay bíu chặt mạn nốc:
    – Cha ơi!
    Ông lão chui sang, nhổ sào, chống nốc ra giữa dòng rồi từ từ trôi xuôi.
    Trăng bắt đầu nhú lên. Cả cái khối vàng vọt kia ngọ nguậy bước ra khỏi đám mây bợt bạt. Dòng sông man mác thẫn thờ.
    Hạ ngồi nhìn trân trân vào bãi dâu cho đến khi chiếc nốc bắt đầu chui vào eo Bớp tối thui.
    Trong khoang, con bé Thảo vẫn ngủ ngon lành...
    Lê Mnh Thường



Đành bỏ anh em

  • Mỗi khi nói đến Trần Kim Quan, bạn bè thường gọi anh bằng cái biệt danh không lấy gì làm êm tai cho lắm "Quan Mập". Nói đến Quan mập thì cả Không Đoàn không ai là không biết đến. Thế rồi theo thời gian, mọi người hầu như không còn ai nhớ tới họ và tên lót của anh nữa ngoại trừ người hạ sĩ quan văn thư phi đoàn. Đặc biệt hơn nữa là trong phi đoàn có 2 Quan, người thứ nhất là Quan Mập, người thứ hai hơi cao, hơi gầy, họ Huỳnh thì lại được gọi một cách rất đàng hoàng là "Quan Huỳnh" để phân biệt với Quan Mập.
    Trong suốt thời gian ở chung đơn vị, tôi chỉ được vài lần thấy anh mặc đồ bay đúng kiểu KQ, còn ngoài ra hầu như lúc nào anh cũng mặc quân phục của phi công trực thăng Bộ Binh Hoa Kỳ, tức là áo quần riêng biệt và không bao giờ bỏ áo vô trong quần. Đã thế, anh lại còn không bao giờ mang cấp bậc, trên đầu lúc nào cũng có cái mũ lưỡi trai đen bạc màu cố hữu. Thành ra nhìn anh cứ y hệt như 1 người lính lang thang vô kỷ luật nào đó (họa hoằn lắm mới thấy anh đeo khẩu P38 bên hông hoặc trong những phi vụ vô cùng nguy hiểm, anh mới mang theo mảnh áo giáp để che trước ngực). Tôi nghĩ khi anh ra đường lỡ gặp QuânCảnh thì họ sẽ "hốt" ngay về Quân Vụ Thị Trấn với tội danh lè phè là cái chắc.
    Thế nhưng mi người sẽ bị lầm lẫn ngay nếu đem tính tình và khả năng bay bổng của Quan ra để so sánh. Con người của anh không một chút gì giống với dáng vẻ bề ngoài: tính tình vui vẻ, luôn miệng nói cười, tôi chưa hề thấy anh nổi giận hoặc lớn tiếng với ai bao giờ, kể cả với những thuộc cấp không thi hành đúng lệnh của anh. Riêng về sự bình tĩnh, gan dạ, tình huynh đệ chi binh, lòng thành với các chiến hữu có thể nói khó mà tìm được một người thứ hai như anh.
    Hình như Quan không hề biết sợ lưỡi hái của tử thần. Tôi còn nhớ, một lần trong lúc hành quân vào mật khu địch ở bên kia biên giới Campuchia. Trước đó 2 ngày, một phi cơ trực thăng của phi đoàn do "Ngọc già" điều khiển đã bị bắn rơi bởi đạn phòng không, những phi cơ bạn bay trong vùng cùng hợp đoàn với Ngọc đã nhiều lần cố gắngđáp xuống để tìm cứu phi hành đoàn nhưng đều bị thất bại vì hỏa lực phòng không quá mạnh của địch. Cuối cùng, phi đoàn trưởng của chúng tôi đành phải quyết định cho hợp đoàn quay mũi trở về. Ông không muốn hy sinh thêm thuộc cấp của mình. Sau đó, không còn ai dám mạo hiểm bay vào hỏa lực phòng không dày như đan lưới dù rất nóng lòng muốn tìm cứu những đồng đội kém may mắn. Thế nhưng hôm ấy, sau khi hợp đoàn trở về Trảng Lớn ăn trưa (căn cứ Trảng Lớn, nơi đặt bộ chỉ huy tiền phương của SĐ25/BB), Quan đã cùng phi hành đoàn âm thầm đi tìm chiếc phi cơ của Ngọc bị rớt. Một số người thấy Quan cất cánh đều cho rằng anh đi lấy thêm xăng và gắn thêm rocket để chuẩn bị cho phi vụ buổi chiều. Không một ai biết rằng anh và phi hành đoàn đã làm gì mà chỉ biết khoảng độ chừng hơn nửa giờ sau đó anh bay trở lại với thi thể của Ngọc trên tàu.
    Một lần, tôi được dịp bay chung với Quan trong một phi vụ "cover" cho Chinook (trực thăng vận tải) tiếp tế cho căn cứ Tống Lê Chân của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân Biên Phòng đang bị địch bao vây. Vừa cùng hợp đoàn Chinook cất cánh từ Lai Khê, khi phi cơ lên tới cao độ chừng 500 bộ (khoảng 150 mét), đang lơ đãng nhìn những hàng cao cu trùng điệp lướt nhanh dưới chân, đầu óc nghĩ tới những giây phút sắp đến, bỗng dưng tôi cảm thấy mũi phi cơ chúi xuống và lệch hẳn hướng bay. Với phản ứng tự nhiên của một hoa tiêu, tôi chụp lấy cần lái điều chỉnh thăng bằng và lấy lại hướng bay. Nhìn sang ghế bên phải, tôi thấy tay chân Quan buông thõng, đầu rũ xuống, nghẹo sang một bên. Tôi bấm intercom thất thanh gọi lớn: 
    - Quan, Quan, anh làm sao vậy?
    Thì bỗng anh bật dậy cười ha hả: 
    - Tao thử xem mày phản ứng ra sao một khi lỡ tao bị bắn trên tàu. 
    Tôi cự nự: 
    - Giỡn cái gì mà ác vậy cha? Lỡ chẳng may thật thì vợ con để cho ai! 
    Quan đáp: 
    - Thì để cho thằng khác lo, sợ gì.
    Sau đó tất cả chúng tôi trở lại với tâm trạng lo âu nhưng có phần đỡ căng thẳng hơn lúc trước, vừa bay vừa trao đổi với nhau những câu chuyện vu vơ trên đường bay vào đơn vị bạn đang bị áp lực của địch đè nặng. Khi chúng tôi bắt đầu tới vùng trách nhiệm, 2 chiếc Chinook cho biết họ sắp sửa vào đáp xuống căn cứ thì mọi “thủ tục chào đón”của địch dành cho chúng tôi cũng bắt đầu, không thiếu một thứ gì, từ đốt pháo bông (súng phòng không) tới bắn đại bác chào mừng (pháo kích vào bãi đáp). Quan cùng chiếc số 2 cũng bắt đầu “đáp lễ” một cách vô cùng ngoạn mục, từng loạt rocket, từng tràng minigun của chúng tôi nhả xuống liên tục như mưa trên đầu đoàn quân “sanh Bắc tử Nam”. Những họng phòng không, những nòng đại bác câm tiếng, hợp đoàn hoàn thành nhiệm vụ một cách mỹ mãn trước sự bất lực và lòng căm tức của đám “bộ đội cụ Hồ”.
    Một lần khác, sau khi hoàn thành phi vụ từ An Lộc trở về, tôi bay chiếc gun số 2 (trực thăng võ trang) bay bám theo sát chiếc số 1 do Quan lái. Vừa bay ngang suối Tàu Ô, Quan bấm máy liên lạc gọi tôi:
    - Ê gun 2, cover cho tao leo xuống kiếm thằng Quan Huỳnh.
    Nghe Quan nói thế, tôi thầm lo trong lòng, vì nơi Quan Huỳnh bị rớt mất tích trước đó mấy tuần chỉ cách suối Tàu Ô có vài cây số, là nơi đã từng xảy ra những trận quần thảo kinh hồn giữa ta và địch, nay chắc địch vẫn còn đóng chốt đâu đây. Thế mà Quan bất chấp những gì đang chờ đợi mình dưới đất.Anh “rà” xuống thật thấp và bay chậm với hy vọng may ra sẽ tìm ra được dấu vết nào đó của Quan Huỳnh ở phía dưới. Tôi từ trên cao độ 2000, rồi 1500 bộ, nhìn thấy Quan bay là là chung quanh chiếc phi cơ của Quan Huỳnh bị rớt, tim tôi như muốn nhảy khỏi lồng ngực. Tôi bấm máy gọi Quan:
    - Lên đi, không thấy gì nữa đâu, nửa tháng nay rồi còn gì mà tìm.
    Quan đáp:
    - Ráng thêm chút nữa đi 2, may ra...
    Thấy Quan không chịu lên, tôi đành phải xuống thấp hơn nữa để cover cho gần hơn. Bỗng nhiên tôi nghe giọng Quan vang vang trong máy:
    - Mẹ, nó bắn, nó bắn lên!
    Tôi không kịp trả lời Quan. 2 khẩu minigun 6 nòng của tôi nhả từng tràng đạn liên hồi với nhịp bắn tối đa (4000 viên/phút). Từ phía dưới, Quan vụt phóng lên cao và cao giọng:
    - Tao thấy chúng nó rồi, cover cho tao trả đũa!
    Rồi không cần biết tàu mình lúc nãy có bị trúng đạn hay không, Quan quay mũi về hướng mục tiêu và cắm xuống, từng cặp rocket xé gió phóng xuống, nổ tung. Xong đợt thứ nhất, Quan quẹo ra và nói với tôi:
    - Hai, mày vô đi, làm ăn chung quanh chỗ tao vừa làm, tụi nó đông lắm.
    Tôi đã chuẩn bị sẵn, chỉ chờ có thế. Quan vừa ra là tôi bắt đầu cắm xuống. Và cứ như thế chúng tôi thay phiên nhau cho tới khi xả hết rocket mới chịu lấy hướng bay về. May mắn, hôm ấy không chiếc nào bị ăn đạn địch.
    Nói về Quan, về thành tích trong chiến đấu cũng như trong tình chiến hữu, có lẽ phải viết một quyển sách dày may ra mới trình bày đủ những gì anh đã thể hiện trong đời binh nghiệp của mình.Tiếc thay, tôi không có đủ khả năng để làm công việc đó. Tôi chỉ có thể tóm tắt như sau: Quan không bao giờ tìm cách từ chối bất cứ phi vụ nào dù nguy hiểm tới đâu; Quan không hề quay lưng khi bạn bè lâm nạn, chưa từng lùi bước khi đơn vị bạn dưới đất bị lâm nguy, không bao giờ chùn tay lái trước hỏa lực của quân thù.
    Thế rồi vào một ngày gần cuối năm 1974. Hôm ấy thời tiết xấu, sương mù giăng phủ khắp vùng rừng núi chiến khu D, đồn điền Minh Thạnh. Ngay từ sáng sớm chúng tôi đã có mặt bên sân đáp của Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù chờ đợi thi hành những phi vụ “đứng tim”, đổ các toán biệt kích vào lòng chiến khu địch!
    Sau cả 3 lần cất cánh, chiếc trực thăng chỉ huy chở theo những sĩ quan trách nhiệm của Liên Đoàn đều trở về trong chán nản. Thời tiết quá xấu, sương mù vẫn còn dày đặc khắp vùng hành quân. Mãi đến gần 3 giờ chiều, chiếc trực thăng cất cánh thêm một lần nữa và lần này các cấp chỉ huy đã quyết định sẽ thả quân vào theo đúng như kế hoạch dự trù.
    Sau khi hợp đoàn đang làm vòng chờ ở phía quân lỵ Chơn Thành, 2 chiếc võ trang của chúng tôi cùng chiếc Charlie (trực thăng chỉ huy) bay sâu vào vị trí để xác định bãi đáp một lần cuối cùng trước khi hợp đoàn vào hạ cánh. Quan sát xong, chúng tôi bay trở ra để hướng dẫn hợp đoàn vào, Thiếu Tá Tiên, vị sĩ quan chỉ huy hợp đoàn là người từng nổi tiếng với những phi vụ gay go, căng thẳng đã đem lại những chiến công rực rỡ cho đơn vị mình cũng như các đơn vị bạn. Với một giọng rõ ràng, bình tĩnh, ông hướng dẫn hợp đoàn đến địa điểm đổ quân. Quan bay bên trái, tôi bên phải. Trước khi tới bãi đáp, Quan dặn dò tôi:
    - Ráng coi chừng cho kỹ nghe gun hai. Có dấu hiệu tụi nó đông lắm đó!
    Tôi không trả lời, chỉ bấm máy hai lần ra hiệu nhận rõ. Rồi giờ phút nghiêm trọng bắt đầu khi tiếng của Charlie vang lên trong máy:
    - Số 1, số 2 lần lượt hạ cánh.
    Hai chiếc slick cắt ga cho phi cơ từ trên cao rơi nhanh xuống. Quan kè theo chiếc số 1, tôi cặp theo chiếc số 2. Cùng lúc đó, từng loạt đạn của nhiều loại vũ khí khác nhau bắn xối xả lên hợp đoàn chúng tôi, mục tiêu tốt nhất của địch. Lập tức, 4 khẩu minigun của những xạ thủ kinh nghiệm trả đũa, nhả đạn tới tấp. Bất chấp đạn địch bắn lên như đan lưới, hợp đoàn vẫn giữ hướng bay đi vào bãi đáp theo lệnh của Charlie. Bỗng nhiên phi cơ của Quan quay đầu trở ra. Chưa hết ngạc nhiên thì tôi đã nghe tiếng Th/tá Tiên gọi lớn:
    - Gun 1 đi đâu vậy? Quan đi đâu vậy? Sao không theo hợp đoàn?
    Không nghe trả lời, ông gọi tiếp:
    - Quan, Quan, mày đi đâu vậy?
    Vẫn không có tiếng trả lời, ông gọi cho tôi:
    - Gun 2 tiếp tục theo hợp đoàn.
    Tôi bấm máy:
    - Nghe rõ Charlie.
    Vừa bay, vừa nhả đạn, tôi không còn thời giờ để nghĩ tới Quan nữa vì hiện tại 2 chiếc "slick" chỉ còn 1 chiếc gun của tôi yểm trợ, tôi phải đặt hết tâm trí vào việc đối phó với quân thù.
    Cuối cùng hợp đoàn đã thi hành xong nhiệm vụ. Khi cả 3 chiếc lên đủ cao độ để bay về, tôi thở một hơi dài nhẹ nhõm. Bây giờ mọi người mới nhớ tới Quan, chiếc gun số 1. Ging Th/tá Tiên vang lên trong máy:
    - Gun 1, gun 1, đây Charlie!
    Vẫn yên lặng, ông hét lớn hơn:
    - Gun 1, Charlie, Gun 1, Charlie!
    Hoàn toàn không có tiếng nào đáp trả. Ông gọi cho tôi:
    - Gun 2 dùng tần số nội bộ gọi gun 1 xem sao.
    Tôi đáp:
    - Đã gọi rồi Charlie, không nghe gì cả.
    Sau một lúc im lặng, tôi đang suy nghĩ xem có cách gì để tìm được tàu của Quan hay không thì bỗng nghe tiếng Th/tá Tiên la lên trong máy:
    - Có một chiếc trực thăng đang đậu dưới Chơn Thành, để tao xuống xem sao!
    Cả hợp đoàn hạ cao độ thì thấy rõ ràng chiếc Gun 1 của Quan đang đậu dưới đó. Mọi người chưa hết ngạc nhiên và đang đặt một câu hỏi chuyện gì đã xảy ra cho Quan thì được Charlie từ phía dưới báo lên một tin như sét đánh ngang tai:
    - Quan mập đã đền nợ nước!
    Nghe tin này, tất cả chúng tôi như người đang nằm trong mộng, sững sờ không nói với nhau được một lời. Phải cả phút sau đó, chúng tôi mới hoàn hồn và bày tỏ ý định muốn đáp xuống nhìn xác Quan và chia sẻ mất mát với anh em phi hành đoàn gun 1, nhưng Th/tá Tiên không cho phép và ra lệnh cho chúng tôi bay về trước. Ông e rằng một khi chúng tôi đáp xuống, địch sẽ rót đại bác vào quận lỵ, gây thêm mất mát, tang tóc cho mình một cách vô lý.
    Vậy là sau bao lần thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc, cuối cùng Quan mập cũng đã vĩnh viễn ra đi. Sau đó chúng tôi được biết anh đã tử thương ngay từ những loạt đạn đầu tiên của địch. Một viên phòng không 12 ly 8 của quân thù đã xuyên qua đầu anh và đâm thẳng lên trần cockpit phá hỏng hệ thống truyền tin của phi cơ, vì thế mà Th/tá Tiên, tôi và tất cả anh em khác đều không ai liên lạc được với phi hành đoàn của gun 1 nữa. Sau khi Quan trúng đạn, Lâm Văn Có, hoa tiêu phụ của Quan hôm đó, vội vàng vừa điều khiển phi cơ, vừa cố liên lạc với các phi cơ khác nhưng vô hiệu. Không còn cách nào khác, Có đành quay mũi phi cơ bay thoát ra ngoài và đáp xuống Chơn Thành...
    Quan ra đi mà không một lời trối trăn từ biệt. Đành bỏ anh em bạn bè. Cánh chim nào lìa đàn mà không làm cả bầy xao xác, nhưng riêng với Cố Đại Úy Trần Kim Quan, một chiến hữu mà tôi từng mến phục, từng nhiều ln vào sanh ra tử, sự ra đi của anh đã để lại trong lòng tôi muôn vàn xót xa, thương tiếc.
    Hơn 19 năm đã trôi qua nhưng hình ảnh quan tài của Quan với lá cờ vàng ba sọc đỏ của Tổ Quốc phủ kín, với tấm Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu lấp lánh bên hàng nến lung linh vẫn chưa phai nhạt trong tôi. Và tôi cũng tin rằng ở một nơi chốn bình yên nào đó, chắc chắn hồn anh cũng mãi nhớ đến những cánh chim cùng bầy ngày nào, giờ đang tan tác khắp bốn phương trời cách biệt.
    Lôi Vân 71
    Mlebourne 
    Biên Hùng chuyển


NGÀY VỀ

  • Cầm tờ giấy ra trại mà tưởng mình đang mơ. Chúng tôi một toán 13 người ngồi quanh trong một cái láng (phòng) lợp tranh nhỏ cạnh bìa rừng. Tên Công An Quản Giáo đang lên lớp:
    - Nhân Dân xét thấy trong thời gian Cải Tạo, các anh có vài tiến bộ, học tập chính trị và lao động tốt, nên ngày hôm nay với chính sách khoan hồng của Cách Mạng, các anh được Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa cho các anh về. Các anh về phải trình diện Uỷ Ban Nhân Dân Thành Phố , nơi đây sẽ Quản Lý các anh.
    Hành lý chúng tôi mỗi người chỉ có một cái võng, vật dụng linh tinh tự chế như chén, lon, muổng, đũa..., một cái mền cũ và 5 kg khoai mì được nhà nước cấp cho để bồi dưỡng trên đường về. Vì không có áo quần tươm tất, 7 năm khốn khổ đã rách tả tơi, tôi đành phải mặc bộ áo quần Cải Tạo màu nâu, phía sau có hàng chữ đỏ CT.5.2 (Cải Tạo khu 5/Đội 2). Đành vậy thôi, mặc dù có vài Công An Quản Giáo hăm dọa “các anh coi chừng Nhân Dân biết các anh là Ngụy Quân Ngụy Quyền đầy nợ máu, người ta sẽ ném đá các anh”. Tôi nghĩ thầm, dù sao vẫn còn lối thoát, hơn là sống trong tù. Chúng tôi cũng nhiều phần không tin lời tên công an, nhận xét thấy rằng trong thời gian đi lao động, một đôi lần gặp dân, tuy bị cấm ngặt không được liên hệ, họ vẫn len lén vất cho vài củ khoai, vài trái chuối, tuy họ rất lam lũ và quá nghèo. Chúng tôi an tâm phần nào.
    Nhìn bao khoai mì (thực phẩm chỉ có vậy thôi), đường về xa thăm thẳm, làm sao nấu nướng, anh Nuôi trại tù, đề nghị mua phần khoai mì này cho heo ăn với giá 6 đồng một kg.Chúng tôi đành phải bán cho nhẹ hành trang. Với 30 đồng chúng tôi có thể ăn được một tô phở không người lái và mua thêm một ổ mì, anh nuôi nói vậy. Lấy gì ăn trên đoạn đường về nhà đây? Thôi thì tới đâu hay tới đó, miễn thoát khỏi chỗ này rồi tính, chúng tôi ai cũng nghĩ vậy. Lần đầu tiên nhìn thấy tiền miền Bắc, (theo luật lệ của trại thì cải tạo viên không được giữ tiền), chúng tôi buồn cười: “Sau hơn 6 năm lao động cho xã hội chủ nghĩa, mình được một số tiền 30 đồng cụ Hồ, biết chừng đâu mình sẽ trở thành Tư sản, rồi lại bị đấu tố thì sao?” Nghĩ tếu cho vui vậy thôi chứ lòng chúng tôi ai nấy cùng hồi hộp, nôn nóng, nghĩ đến chốc nữa đây sẽ được trở về bên mẹ cha, bên vợ con, bên gia đình và lòng lâng lâng một niềm vui khôn tả. Tôi đang mơ nhè nhẹ bước vào nhà, mọi người không ai biết... Tôi chợt thấy nước mắt mình ứa ra tự lúc nào, không dám tưởng tượng cái sự thật tôi đang có vì mới cách đây vài giờ tất cả đều ngoài tầm tay. Thực hay mơ, nghĩ cho cùng, có lẽ mình giống như chết đi sống lại. Chiều hôm nay, rừng núi miền Bắc đầy tiếng chim kêu, ánh nắng chiều chan hòa reo vui trong gió. Trong cái ngút ngàn vô cùng tận của đất trời, tôi mơ... mơ những nụ hôn, những vòng tay, những lời chan chứa ân tình của một ngày về:
    Trên đường về nhớ đầy;
    Chiều chậm đưa chân ngày
    Tiếng buồn vang trong mây
    Tiếng buồn vang trong mây
    Chim rừng quên cất cánh
    Gió say tình ngây ngây
    Có phải sầu vạn cổ
    Chất trong hồn chiều nay
    Chất trong hồn chiều nay
    Tôi là người lữ khách 
    Màu chiều khó làm khuây 
    Ngỡ lòng mình là rừng 
    Ngỡ hồn mình là mây....
    CHIỀU - HỒ DZẾNH
    Tôi hát khe khẽ cho tôi nghe bài thơ Chiều của Hồ Dzếnh ai đó đã phổ nhạc như chính lòng tôi đang phổ nhạc.
    Theo chương trình, chúng tôi được ăn bửa cơm cuối ngay chiều nay, sau đó xe Công An của trại sẽ đưa bọn tôi xuống núi và cấp vé tàu lửa cho chúng tôi về Nam. Mọi việc đã xong xuôi, khoảng 4 giờ chiều, chúng tôi tụ họp tại cổng trại, điểm danh một lần cuối, chờ xe của trại chở đi. Xin giã từ tất cả, chào tất cả bạn tù còn lại mặc dù không thấy mặt nhau trong giây phút này vì cổng trại xa quá tầm nhìn về các láng bạn tù đang ở. Tôi nhìn lên cổng trại, lá cờ đỏ sao vàng bay phất phơ, dưới hàng chữ CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHIÃ VIỆT NAM- CÔNG AN NHÂN DÂN Tỉnh HÀ NAM NINH và ảnh Hồ Chí Minh. Tôi dơ tay chào và thầm nói "Thôi mầy ở lại, ta đi".
    Xui cho tôi, tên công an gác cổng đàng xa, vẫy tay gọi tôi lại:
    - Anh kia, lại đây, anh nói gì với Bác đấy?
    Tôi lanh trí, trả lời:
    - Tôi chào bác tôi về, tôi rất hồ hởi phấn khởi, nhờ ơn bác và đảng khoan hồng cứu xét cho tôi được về sum họp với gia đình.
    - Anh lại đây, chờ làm việc.
    Tôi đến vọng gác đứng chờ. Khoảng 15 phút sau có 1 công an Quản Giáo ra, đưa tôi vào phòng làm việc. Vẫn câu hỏi “anh nói gì với Bác?” Tôi trước sau như một, cứ một lời ban đầu trả lời. Thế là tôi bị giữ lại, 12 bạn lên xe ra đi. Tôi bùi ngùi nhìn theo, chiếc xe vận tải rú lên và lao đầu về phía trước để lại một đám bụi mờ, mờ như số phận của tôi phải trả, do cái tính hay tếu của tôi cho đời nó vui. Vui đâu không thấy bây giờ lại lo, lo một chút thôi, bởi vì thật ra, cũng liều rồi. Sau đó tôi bị giam cách ly và hàng ngày hàng đêm tôi phải làm tờ tự khai với câu hỏi “Anh đã nói gì với Bác?” Tôi vẫn cứ thế trả lời hàng trăm lần như một lần “Tôi chào bác tôi về, tôi rất hồ hởi phấn khởi, nhờ ơn bác và đảng khoan hồng cứu xét cho tôi được về sum họp với gia đình”.
    Cuối cùng sau 2 tuần bị giữ lại, tôi được tha, với lời hăm dọa:
    - Tạm tha cho anh, chúng tôi không tin lời anh nói tốt như vậy.
    Lần này tôi nhắm mắt đi (không một lời giã biệt Bác). Tôi được trao lại đầy đủ hành lý, kể cả 30 đồng Cụ Hồ. 
    4 giờ sáng ngày 21/9/81 (tôi gọi là ngày N), tôi quá giang xe anh Nuôi đi chợ. Tài xế chở tôi đến một ga không có tên tuổi gì cả (sau này tôi biết được là Ga Vinh), toàn là người miền núi. Họ nói tiếng của họ, họ hiểu với nhau, tiếng Việt của người dân tộc. Người Quản giáo trao cho tôi tấm vé xe lửa "tàu chợ". Tôi chỉ được cấp vé về đến Qui Nhơn, từ Qui Nhơn về Saigon phải tự túc. Tôi nghe trên loa phóng thanh người ta thông báo xe chạy đến ga Diệu Trì sẽ ngừng để chạy ngược lại về miền Bắc. Suốt thời gian di chuyển, tôi không dám mua một món gì để ăn, dù một củ khoai. Chỉ có 30 đồng, nếu hết thì làm sao xoay xở, trên người không có một cái gì có thể đổi chác được. Tôi uống nước cầm hơi cho qua ngày. Nghĩ ngày về đến Saigon vui quá tôi quên đi cái đói phần nào. Nhưng đến ngày N+3, vừa bước ra khỏi toa xe lửa, tôi muốn xỉu, hoa mắt, nhức đầu, bụng cồn cào ra chất chua. Chợt thấy con chó hoang ghẻ lác đứng gặm khúc xương bên hè mà nước miếng mình chảy dài. Cầm lòng không được, tôi sà xuống gánh hàng rong bán bún, ăn một tô bún to với nước mắm chanh tỏi ớt đường. Những cọng bún trắng tinh, thêm vị chua ngọt mặn trôi dần xuống cổ. Tôi không dám ăn nhanh, chậm chậm thưởng thức cái mùi vị ngàn năm một thuở. Bụng đã no rồi nhưng bụng lại đau khi người bán hàng bảo:
    - Cho tớ xin 15 đồng.
    Thế là toi đi mất nữa gia tài. Chần chờ tại ga Diệu Trì đến trưa phòng bán vé mới mở cửa. Tôi hỏi vé đi thành phố Hồ chí Minh. Anh cán bộ bán vé trả lời: “Diệu Trì - TP HCM giá 58 đồng”. Tôi yêu cầu cho giá hạng bét, anh ta lạnh lùng trả lời “đây chỉ có một giá thôi, đồng hạng”. Tôi năn nỉ “xin anh giúp cho, tôi chỉ có vỏn vẹn 15 đồng, cải tạo được tha về mà anh”. Với giọng Bắc lạnh lùng hơn nữa, anh ta dứt khoát trả lời “Không là Không”. Tôi đành ở lại Ga Diệu Trì để tìm phương cách khác. Với số tiền còn lại, tôi cầm hơi khoai sắn được 2 ngày thì hết sạch. Ban ngày tôi tìm đủ mọi cách để kiếm tiền vé xe nhưng không có cách nào cả, tối lại treo võng tòn ten ngủ trong sân ga. Thấy tôi mặc bộ đồ tù nên chẳng ai hỏi đến. May thay đến ngày thứ ba, trong lúc không còn một xu để mua thức ăn, có một em bé mặt mũi khôi ngô khoảng 10 tuổi tự nhiên chạy đến hỏi:
    - Chú có muốn đi làm kiếm tiền không?
    Mừng quá tôi hỏi:
    - Làm chuyện gì em?
    - Nhà cháu cần người gánh nước, mỗi đôi 1 đồng.
    Tôi nhận lời ngay.Em bé dẫn tôi về nhà giới thiệu với bố mẹ.Người ta bằng lòng với điều kiện gánh nước không mặc quần áo cải tạo. Tôi nghĩ điều chi chớ điều này thì quá dễ, mặc quần xà lỏn gánh nước cũng tiện cho tôi. Từ giếng về nhà xa gần cây số, mỗi thùng cỡ 20 lít, cố gắng lắm tôi cũng chỉ gánh được 15 đôi. Ngày đi cải tạo 68 kg, ngày về còn 50 kg,gởi lại 18 kg thịt cho núi rừng Bắc Việt, tôi cảm thấy không đủ sức để gánh nhiều hơn. Tôi nhận 15 đồng để sống qua ngày. Ngày hôm sau người ta không thuê nữa, thế là thất nghiệp. 3 ngày vô vị trôi qua, lòng như lửa đốt, tôi đành chọn phương pháp NHAỶ TAÙ. Đây là phương pháp của những người bán hàng rong đi lậu vé, nếu bị xét vé thì bị phạt nặng. Đối với những người bán hàng rong thì dễ dàng vì người ta là dân, lại quen mặt với những người xét vé, còn tôi là tù vừa được thả, chưa có quyền công dân, lỡ bị xét không có vé có thể đi tù trở lại. Biết vậy nhưng con người đến đường cùng thì phải liều, tôi quyết định nhảy tàu.
    Ngày N+6 chuyến tàu Thống Nhất từ Hà Nội vào đúng 8 giờ sáng. Từ đấy về Saigon tàu sẽ ghé mỗi ga. Tôi theo những người bán hàng rong đứng chờ sẵn mỗi toa. Khi còi tàu hú và chuyển bánh chầm chậm, dân nhảy tàu lợi dụng thời gian này, bu theo thành tàu chạy một đoạn rồi nhảy lên, đến ga tới, tàu ngừng thì nhảy xuống. Tại mỗi Ga như vậy, tàu ngừng khoảng 30 phút để hành khách lên xuống, chuyển hàng hóa và soát vé.
    Tôi cứ nhảy ga như vậy cho đến ga Tuy Hòa. Trên đường nhảy ga tôi thường giúp đỡ những người bán hàng rong để chuyển dùm hàng hóa lên xuống, do đó tôi chiếm được cảm tình nhiều người và được tặng vài củ khoai, củ sắn, miếng cơm, cái bánh... no lòng trên suốt đoạn đường dài. Từ Tuy Hòa đến Ga Nha Trang, tàu đang chạy ngon trớn, bỗng nhiên ngừng lại. Sợ bị xét vé, tôi vội nhảy xuống, nhưng không phải soát vé mà là có một tai nạn xảy ra. Tàu đang cán phải một người. Hỏi ra mới biết nạn nhân cũng là một người tù mãn án, trên đường về không có tiền mua vé nên phải nhảy tàu, bị tên cán bộ xét vé đẩy té ngã vào đường rầy. Tên cán bộ này đang bị mọi người phẫn nộ đánh hội đồng. Sau đó tàu phải ngưng giữa đường một đêm, để giải quyết sự việc và từ đấy không còn xét vé. Khi tàu đến Ga Mường Mán, Phan Thiết, tôi ngồi lì không thèm nhảy nữa, bình an về đến Ga Bình Triệu đúng 11 giờ đêm ngày N+16.
    Gió mát từ sông Saigon thổi vào thành phố. Chợ Bến Thành rộn rịp như ngày tôi đi nhưng tôi vẫn ngỡ ngàng nhìn Thủ Đô ngày nào bây giờ là thành phố đổi tên. 16 ngày đêm trên đoạn đường dài, biết bao kỷ niệm từ Bắc về Nam. Tôi vất hết hành lý, hai tay thọc vào túi áo, thả bộ từ Ga về nhà, trên con đường Trương Minh Giảng quen thuộc, lòng phơi phới nghĩ đến vợ con, đến mái nhà tổ ấm của tôi. Trong niềm tin và hy vọng, tôi chuẩn bị tư tưởng cho một chuyến ĐI XA. Đi thật xa và không bao giờ quay trở lại.


    Tôn Thất Phú Sĩ




Tâm sự người vợ Lính
  • Nổi Trôi Cùng Vận Nước:
    Chiến tranh đã đi qua và chấm dứt từ lâu. Quê hương thì xa lắc, xa lơ nhưng không biết tại sao trong những giấc ngủ chập chờn, thỉnh thoảng đẩy đưa, đưa đẩy tôi trở về miền quá khứ...
    Có đôi lần về thăm lại quê hương sau nhiều năm xa xứ. Giờ thì cảnh cũ, người xưa đã quá nhiều thay đổi, nhưng trong lòng tôi vẫn nguyên vẹn hình ảnh một Mộc Hóa - Kiến Tường của ngày xa xưa ấy.
    Là một tỉnh lỵ nhỏ bé nằm cạnh quê hương xứ Chùa Tháp, lại là vùng đất thấp. Hằng năm cứ vào khoảng tháng 9,10,11 là mùa nước lụt. Nước từ biên giới bên kia Campuchia đổ theo con sông Vàm Cỏ Tây, mang theo vô số tôm cá đủ loại vào sinh sôi nẩy nở trong các sông rạch, ao đìa và phù sa bồi đắp cho đồng ruộng cùng những cánh rừng tràm xanh bát ngát tậnchân trời.
    Từ miền Bắc xa xôi đến đây, Cha Mẹ tôi chọn miền đất nầy làm nơi sinh sống bởi đất rộng, người thưa, ruộng lúa với nguồn cá tôm vô tận. Người dân địa phương thì hiền lành, chất phác, cần cù làm ăn, giúp đỡ nhau trong tình làng nghĩa xóm. Đời sống lúc bấy giờ thật an vui, hạnh phúc của một thuở Miền Nam thanh bình dưới chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
    Lần lượt mấy chị em tôi ra đời, lớn lên, học hành, hồn nhiên bên cạnh những lớp trẻ nơi đó. Vì vậy nên tánh tình, phong cách, giọng nói không khác gì người dân tại địa phương. Nhưng không lâu sau đó, tôi thường nghe những người lớn nói về cuộc chiến tranh Quốc - Cộng. Lúc bấy giờ tôi chưa hiểu biết nhiều về điều đó. Tôi chỉ biết và thấy người lính Quốc Gia như: Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn và vài đơn vị chiến đấu khác sống gần gũi bảo vệ người dân thôn xóm.
    Quê tôi vùng sông nước, phương tiện đi lại bằng đò, ghe, xuồng ba lá... Chỉ có một con đường lộ giao thông duy nhất nối liền từ Mộc Hóa ra Cai Lậy, về Sài Gòn hay các tỉnh lân cận. Đoạn đường chưa tới 50 Km, nhưng xe đò phải chạy cả ngày mới tới, vì ban đêm bọn khủng bố cộng phỉ nằm vùng thường xuyên về đắp mô, gài mìn, phá cầu, ăn cướp, sát hại dân lành v.v... Vì vậy, những chuyến xe đò phải chờ những Người Lính Quốc Gia VNCH mở đường, khai thông an ninh trục lộ vào mỗi buổi sáng. Đôi lúc những người lính nầy phải đánh đổi bằng xương máu cho dân lành được an bình đi lại.
    Đầu thập niên 1970, tiếng súng càng ngày càng về gần phố chợ. Những quả đạn pháo kích của bọn khủng bố việt cộng rót vào khu dân cư, gây nên cảnh chết chóc, kinh hoàng cho người dân vô tội khắp nơi. Nữ Thần Hòa Bình biến đi, nhường lại cho Thần Chiến Tranh về ngự trị. Lúc bấy giờ đời sống của người dân lành nơi đây không còn an bình như trước, mà họ phải, đang đứng trước thảm họa chiến tranh.
    Là chị lớn của gia đình bên cạnh các đứa em còn nhỏ, nên chuyện học hành của tôi dang dở. Ra đời sớm, làm nghề thợ may. Cuộc đời tôi bắt đầu bước sang ngã rẽ. Hằng ngày tôi nhận đồ may trong xóm và sửa đồ trận. Có những người lính mang quần áo đến sửa, nhưng không bao giờ trở lại nhận, vì sau những lần hành quân họ không còn cơ hội trở về. 
    Tôi thật sự thương cảm thân phận những người lính và gia đình của họ. Tâm hồn tôi bắt đầu biết suy nghĩ vu vơ, biết cảm thông về đời Lính. Hằng đêm, nhìn lên bầu trời tôi thấy được những đóm mắt của hỏa châu, nếu không có những tiếng súng đì đùng xa xa vọng lại, tôi cứ tưởng đó là những vầng trăng đêm rằm tháng tám. 
    Ban ngày thì tiếp xúc và nhìn thấy những màu sắc của những Người Lính VNCH từ những vùng xa xôi trở về, ẩn hiện trên gương mặt của họ là những nét buồn, những nụ cười méo mó, những việc làm ngông cuồng... Nếu hiểu và thông cảm cho những người lính đó, thì mình mới thấy được sự hy sinh to lớn của họ: ra đi trong cái CHẾT, mang về sự an bình cho cái SỐNG.
    Mộc Hóa - Kiến Tường, vùng đất bé nhỏ, dân ít Lính nhiều. Từ những người lính các Sư Đoàn 7, 9 Bộ Binh, các tiểu đoàn Biệt Động Quân cộng thêm những đơn vị Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, đã biến vùng đất hiền lành nầy thành nơi hội ngộ của những chàng trai thời ly loạn. Là con gái mới lớn nơi tỉnh nhỏ, làm nghề may vá, sửa đồ trận cho lính, ít nhiều gì tôi cũng tiếp xúc với họ, những người lính dễ thương và dễ ghét. 
    Nhà tôi lại có một vài bàn bi-da cho họ giải trí. Thôi thì những câu chuyện vui buồn đời lính và hình như cả những mùi khói súng quanh quẩn đâu đây, đã xáo trộn và phủ lên cuộc sống bình yên, những mơ mộng viễn vông trong một tâm hồn của cô gái vừa mới lớn.  
    Từng ngày tháng trôi qua, là thân con gái, tôi vẫn tưởng rằng mình đứng bên ngoài vòng cuộc chiến. Có những lúc nhìn thấy những người lính trận trở về, sao mà oai hùng, lẫm liệt! Thỉnh thoảng, nhìn thấy những người thương phế binh di chuyển trên đường phố một cách khó nhọc, lòng mình bỗng dưng quặn đau, ruột thắt. Chính họ đã hy sinh một phần thân thể của mình để người dân được sống an lành nơi hậu tuyến. Hoặc giả, nhìn thấy những người bạn gái trạc tuổi mình, đầu quấn khăn sô, tay bồng cháu bé đi về hướng bộ chỉ huy quân sự Tiểu Khu, bỗng dưng mắt mình thấy cay cay, hai dòng lệ chảy dài trên má. Đôi lúc mình tự nhủ thầm: Mắc mớ gì mình phải thương vay, khóc mướn. Cuộc đời chỉ có mấy chữ: hy sinh và chấp nhận mà thôi.
    Trai khôn tìm vợ chợ Đông
    Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân.
    Câu ca dao của người xưa để lại, hay tại vì mình sống bằng cái nghề may vá, mỗi ngày tiếp xúc với lính thành ra mình có cảm tình với họ. Dù vậy thời gian trôi đi, tim mình vẫn chưa một lần rung động trước những màu áo hoa rừng hay trây di phèn chua nửa ống. Không phải mình quá kén chọn. Thực sự mình cũng mong ước một ngày nào đó có một vị Hoàng Tử đến gõ cửa trái tim mình như trong chuyện cổ tích, thực tế hơn dù quan hay lính mình cũng sẳn sàng chấp nhận, miễn sao họ đến với mình bằng trái tim chân thành, đừng gian dối, ngụy biện: lính- mà- em.
    Lúc bấy giờ đã có những người tứ xứ về đây làm việc. Từ công chức hành chánh, giáo chức, lính tráng hội tụ nơi nầy. Cũng như anh, một người lính mới về nhận đơn vị tại Tiểu Khu Kiến Tường còn bở ngỡ với vùng đất lạ trong mùa nước nổi.Trong một sự gặp gỡ tình cờ, chúng tôi quen nhau, khi thì sửa bộ đồ, khi thì may vài phù hiệu. Đời lính rày đây mai đó. Thỉnh thoảng anh ghé lại thăm tôi. Tôi mến anh qua nét phong trần, sương gió của người lính. Tôi thương anh qua tính tình hiền lành, giỏi tài hùng biện, nhất là gương mặt còn vương nét thư sinh, chưa có kinh nghiệm sống vùng sông nước. Anh đã để ý và thương tôi bởi vì tôi là cô gái quê mùa chân chất. Như vậy đó, hai đứa thương nhau và tiến tới hôn nhân chưa đầy 5 tháng. Một đám cưới đơn sơ được tổ chức. Cha Mẹ và Cô Bác của anh từ Thủ Đức lên tham dự cùng gia đình hàng xóm của tôi trong buổi tiệc cưới nho nhỏ. Tôi mặc áo cô dâu chờ mãi không thấy anh về. Gia đình cũng phải làm lễ đãi khách. Khi tan tiệc, mọi người ra về với lời ái ngại: “Không biết nầy là đám cưới hay đám ma đây.” Vì anh vẫn còn nơi tiền đồn biên giới. Ruột gan tôi như lửa đốt, nước mắt chực muốn tuôn trào... Họ hàng bên nhà trai cáo từ vì đường xa, chỉ còn cha mẹ chú rể ở lại ngóng tin con. Bỗng nhiên, lúc đó trước cửa nhà có chiếc xe đò ngừng lại. Từ trên xe, một người nhảy xuống, quần áo giày vớ còn dính bùn phèn ướt tới đầu gối, trên người còn mang súng đạn, đầu đội nón sắt đi thẳng vào nhà. Từ bên trong, tôi chạy vụt ra lao tới ôm anh mà nước mắt chảy dài, khóc tức tưởi, nghẹn ngào trong sự vui mừng của người thân và gia đình.
    Chúng tôi chỉ sống trọn vẹn với nhau chỉ một thời gian ngắn, mặc dù anh có một tuần nghỉ phép cưới vợ. Vì nơi đóng quân xa, đường đi hiểm trở, nên ngày nào anh cũng liên lạc với Tiểu Khu để biết có chuyến tiếp tế mở đường cho anh đi theo để trở về đơn vị. 3 ngày sau khi cưới, trên đường tiễn anh, tôi nói với anh: hai đứa mình làm đám cưới không có 1 tấm hình kỷ niệm, thôi tiện trên đường đi ghé qua chợ, mình ghé tiệm chụp hình “Nam Phương” chụp 1 tấm làm kỷ niệm nha anh.
    Tôi chấp nhận làm vợ người lính đơn giản như thế, biết thế nào là sự chờ đợi của người Chinh Phụ. Chấp nhận tất cả, vì tôi thương anh, thương màu áo Lính.
    Sau khi tiễn anh trở về đơn vị, hằng đêm tôi sống trong sự mong nhớ, trở mình khi nghe tiếng súng xa xa vọng về, những đóa hỏa châu bây giờ không còn là những vầng trăng rằm tháng 8, mà nó là nỗi lo âu hồi hộp. Nơi nào có những hỏa châu soi sáng là vùng chiến trận, nhìn hỏa châu, lòng người vợ  vô cùng lo sợ an nguy cho người lính.
    Mỗi ngày, khi nghe tiếng xe Hồng Thập Tự hú còi là tim tôi đau nhói. Có lần tôi nghe người vợ lính cùng đơn vị với chồng tôi rủ đi thăm chồng. Tôi vội vã khăn gói, mang theo chút quà để đến đơn vị thăm anh. 
    Tiền đồn biên giới Long Khốt - Tuyên Bình thuộc tỉnh Kiến Tường, hằng ngày đều ăn pháo kích từ phía bên kia biên giới Miên. Nhiệm vụ gi đất và an ninh thủy lộ, tiếp tế duy nhất bằng đường thủy, không có đường bộ. Vì vậy khi tôi theo người vợ lính thăm chồng bằng chuyến đò tắc ráng, cũng là lúc tôi bắt đầu hiểu được sự an nguy của đời lính. 
    Dọc theo dòng sông, những người lính đóng quân dọc theo bờ vẫy tay chào, không biết họ báo về đồn như thế nào mà khi vừa tới nơi, tôi thấy anh đã đứng đợi sẵn. Ghe cặp vào bờ, bắt ván cho tôi lên thì vừa lúc đó nghe tiếng đề ba của đạn pháo, anh vội ôm tôi lao nhanh vào đồn xuống hầm trú ẩn. Nhiều tiếng nổ lớn chung quanh đồn, bùn sình nước văng tứ tung. Khi tiếng pháo tạm ngưng anh nói với  tôi: em phải về thôi, không được ở đây, nguy hiểm lắm. Chưa kịp hỏi han, tâm sự, thì anh vội vã đưa tôi đón đò tắc ráng trở về, bỏ lại phía sau anh và những người lính ngày đêm đối mặt với bao nhiêu hiểm nguy bất trắc.
    Biến cố 30/4/75, tôi không bao giờ quên được cảnh tang thương chia lìa của hàng triệu gia đình và anh cũng cùng chung số phận như những người lính khác.
    Từ bộ đồ trây di bê bết bùn phèn, đổi sang bộ đồ sọc. Từ thân phận của người vợ lính đổi sang thân phận vợ của người tù không bản án.
    Anh đi trình diện, cũng là lúc tôi mang bầu đứa con đầu lòng được 6 tháng. Tôi ở nhà chờ anh 10 ngày như lời họ nói. Rồi 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm... vẫn biệt vô âm tín.Không một lá thư, không một tin tức về chồng của mình hiện nay đang ở đâu, sống chết ra sao?!! 
    Sau khi sinh cháu gái đầu lòng, chịu đựng những lời ong bướm, những lời cay độc, những cạm bẩy rình rập  của những người bên thắng cuộc, mình tự nguyện một lòng chung thủy, chấp nhận hoàn cảnh đơn chiếc nuôi con, ở vậy chờ chồng, tự hứa trong lòng không bao giờ thay đổi, dù đời đã đổi thay...
    18 tháng sau... Nhận được giấy báo thăm nuôi từ trại tập trung cải tạo Kà Tum -Tây Ninh gởi về. Tôi mừng quá, vội vã một chút quà cho chồng, tay bồng con thơ, tay dắt Mẹ chồng lặn lội xuống từng địa ngục. Từ Mộc Hóa lên Sài Gòn đi Tây Ninh, qua núi Bà Đen đến Kà Tum vào trại tù khổ sai của cộng sản thăm anh. 15 phút ngắn ngủi cho buổi tao phùng, chồng vợ gặp nhau, cha con bùi ngùi nhìn nhau lần đầu tiên kể từ khi cháu mở mắt chào đời mới biết mặt cha. 
    Sau buổi trùng phùng đầy uất lệ, anh vẫn còn sống bên cạnh những chiến hữu của mình, tôi nguyện một lòng thay anh làm cha, nuôi nấng con thơ đợi chờ anh trở về dù 5 năm, 10 năm hay lâu hơn nữa. Kà Tum,Trãng Lớn, Tây Ninh, sóc Bom Bo Bùi gia Mập, Phước Long, căn cứ Rừng Lá Z30D Hàm Tân, nơi nào có anh là nơi đó có bước chân mẹ con tôi đến thăm.
    5 năm 6 tháng. Chuyến đi thăm anh nhưng không gặp. Họ bảo đã thả anh về, nhưng tôi không tin, đến khi gặp được người bạn tù của anh, trao món quà thăm nuôi nho nhỏ cho người bạn, tôi mới trở về.
    Anh trở về với thân xác hao gầy bởi lao tù đói khổ. Từ nhà tù nhỏ bước vào nhà tù lớn. Là người tù dưới chế độ cộng sản, anh không có quyền được ở gần cha mẹ nơi thành phố mà phải chấp nhận đi vùng kinh tế mới. Một lần nữa, anh trở về Mộc Hóa quê tôi. Suốt một năm bị quản chế tại địa phương, họ đã bắt anh khi thì đi gỡ mìn, khi đi làm thủy lợi. Mỗi tháng phải trình diện đồn công an một lần, hạn chế tối đa sự đi lại. Anh muốn tìm một công việc làm để ổn định cuộc sống, nhưng thật không dễ lúc bấy giờ với cái lý lịch cũ. Cuối cùng, Trời không phụ người hiền. Anh được nhận vào làm phụ hồ, mộc cho một nơi cần người làm công việc nặng nhọc mà ai cũng phải sợ.
    Ngày qua ngày. Nghề dạy nghề. Anh đã học hỏi được nhiều cộng thêm vào vốn kiến thức căn bản của ngành Công Thôn từ thời còn đi học dưới mái trường Nông Lâm Súc Bình Dương dấu yêu.  Anh đã đem ra áp dụng cho công việc, kiếm được chút đỉnh tiền phụ giúp tôi nuôi con. Anh đã vượt qua tất cả, vì người vợ hiền và những đứa con thơ.
    Năm 1995, gia đình tôi đến được miền đất TỰ DO qua chương trình H.O. Định cư tại thành phố Chattanooga thuộc Tiểu Bang Tennessee, cách thành phố Atlanta, Tiểu Bang Georgia 2 tiếng lái xe. Georgia là Tiểu Bang có số lượng cộng đồng Người Việt đông đảo và các hội đoàn sinh hoạt, tổ chức hằng năm những ngày lễ, ngày kỷ niệm của QLVNCH. Các chương trình gây quỹ dành cho các anh em Thương Phế Binh QLVNCH còn sống lây lất nơi quê nhà, có dịp là chúng tôi đến tham dự và ủng hộ; là dịp để chúng tôi nhìn lại màu cờ, sắc áo, nhớ lại quãng đường gian khổ của chồng tôi và những chiến hữu của mình đã đi qua, nhắc nhở và giải thích cho con cháu mình hiểu được vì sau mình phải bỏ Quê Hương sống tạm dung nơi đất khách quê người. Cũng tại nơi nầy, anh đã tìm liên lạc với một số bạn cùng khóa Bất Khuất 8B+C, và quí Thầy Cô, các bạn học cùng trường NLSBD ngày xưa. Hằng năm, chồng tôi đều dành thời gian đi họp mặt ở khóa Bất Khuất hay cuộc họp mặt của hội cựu học viên NLSBD tổ chức ở Nam Cali.
    Mùa Thanksgiving nữa lại về. Cám ơn Cha Mẹ đã sáng suốt, quyết định rời bỏ quê hương nơi chôn nhau cắt rốn vào miền Nam Tự Do, để mong sau con cái lớn lên được hưởng cảnh thanh bình, no ấm, được hưởng quyền căn bản Tự Do của con người. Cũng như tôi luôn luôn biết ơn Cha Mẹ gia đình hai bên đã ở bên cạnh chúng tôi trong những lúc khó khăn nhất. 
    Xin cám ơn quí Thầy Cô và các bạn học cùng chung dưới mái trường NLSBD đã hướng dẫn, đào tạo những con người sống có trách nhiệm với đất nước, với xã hội và gia đình. 
    Cũng không bao giờ quên những người Lính đã hy sinh hay thương tật hiện giờ đangsống lây lất đâuđó nơi quê nhà. Rất trân trọng đối với những người đã từng cầm súng chiến đấu bảo vệ miền Nam Việt Nam thân yêu, cho chúng tôi được sống an lành trong suốt 20 năm.
    Những lời nầy nói ra tuy có muộn màng, nhưng cũng xin nói lên một lần cho tất cả:
    “Nếu có một kiếp sau là người con gái, người chồng của tôi cũng vẫn là người Lính, Người Lính Việt Nam Cộng Hòa.”
    Minh Nguyễn



Nếu như ngày ấy…
  •  
    image.png

    Tấm hình trẻ trung và khắng khít của cặp Tân và Yến rơi ra khỏi quyển album khi tôi đang sắp lại ngăn tủ; ký ức chợt quay về 25 năm trước, ngày chúng tôi họp nhóm bạn học cũ lần đầu tiên tại Orange County, Mỹ, ở nhà của cặp Hà-Tuấn sau 15 năm chia cách kể từ ngày miền Nam thay áo đỏ, mỗi người chúng tôi bị phân tán, như bầy nai lạc.

    Tôi nhớ lúc đó chúng tôi đứa nào cũng mới lập gia đình được vài ba năm, bọn con gái ở lứa tuổi 27, 28, tứ tán khắp nơi trên thế giới, ngày đó ai cũng dắt chồng đi cùng trong những buổi họp lớp cũ.

    Từ ngoài cửa bước vào, Yến với dáng người mảnh khảnh, tầm thước, khuôn mặt sáng, cặp mắt to thông minh, tôi đã nghe tiếng cô ta nói với chồng khá to:

    -Anh cất cặp mắt kiếng này vào ví dùm em nghe, trời hết nắng rồi.

    Nhìn ra phía sau, Tân chồng Yến đang xách ví dùm vợ, lật đật đón cặp mắt kiếng của vợ đưa ra sau, ngoan ngoãn mở ví cất vào trong.

    Vừa đến cửa nhà Hà, Yến đã cười tươi rộn rã:

    -Hello! Các bạn đông vui quá, để mình xem có nhận ra tất cả các bạn không nghe, đã 15 năm rồi mình không gặp nhau!… Có phải Hạnh, Tâm, Thảo, Vi… Thật là cái duyên gặp gỡ hôm nay, phải nói là tìm nhau như thể tìm … chim.

    Rồi Yến tiếp theo cảm hứng vừa đặt vài câu thơ vừa ngâm:

    –Tìm nhau như thể tìm chim

    Em đi mãi vẫn là người lạ

    Cứ ngỡ gần, hóa ra muôn ngả

    Tìm nhau hoài-giọng hát cũng bay xa…

    Hà chạy đến, giang hai tay ôm Yến:

    -Nhỏ Yến này vẫn như xưa, lúc nào cũng vui vẻ hát hò hết, mi vẫn vậy không thay đổi sau 15 năm đó nhe, chỉ có khác mái tóc cắt ngắn thôi; tìm nhà có khó không? Sao không thấy mi giới thiệu chàng mà đứng đó ngâm nga gì đó!

    -Chàng của ta hả? mọi người sẽ biết thôi… Người nào ít nói nhất, ưa làm và yêu vợ nhất… là chàng đấy!

    Tân đứng sau lưng Yến, nhoẻn cười như câu chào mở đầu với mọi người, ngại ngần lùi lại phía sau, tìm cái ghế trong góc ngồi xuống, bọn con gái chúng tôi lại ùa vang:

    -Anh Tân ơi, chắc ở nhà con Yến nó nói hết rồi, không cho anh chút thì giờ nào nói nên cứ phải yên lặng phải không? …Nhỏ Yến này lanh quá đi thôi, tụi mi đã có baby chưa?

    -Dĩ nhiên là xong xuôi rồi, tụi này làm sớm nghỉ sớm mà!

    -Một đứa thôi hả? trai hay gái?

    -…Hai chứ! Đều là con gái hết. Tụi này fermer boutique (ngưng) rồi!

    -Hai con gái! Sao nhanh thế? Trông tụi mi như cặp vợ chồng son, tung tăng hạnh phúc bên nhau, vậy ai trông cháu cho hai anh chị đi chơi đây?

    -Thật ra mà nói tụi này làm liền tù tì hai đứa, tụi nó cách nhau một tuổi rưỡi thôi, làm luôn một lúc để nghỉ sớm; ông bà nội canh cháu thành ra tụi này chỉ lo kiếm tiền thôi… Ở nhà có ông bà nên đỡ lắm, chiều đi làm về là có cơm nước hết, các cháu cũng được tắm rửa thơm tho, mình chỉ chơi với cháu một lúc là cho tụi nó lên giường ngủ rồi…. Còn Hà và Tuấn thì sao?

    -Tụi này chỉ có một cậu con trai bốn tuổi, cháu đang ở với ông bà ngoại hôm nay vì biết tụi mình bận rộn với bạn bè nên anh Tuấn đã gởi cháu đến ông bà từ ban sáng rồi, chúng mình mặc sức đùa giỡn cả đêm… Một đứa thôi thấy cũng đủ lắm luôn vì nuôi con bên này bao nhiêu là trách nhiệm.

    Bọn con gái chúng tôi quấn lấy nhau nói chuyện, hỏi han tâm sự cho bõ công đi máy bay thật xa để gặp; lúc ngồi vào bàn ăn, Tân gắp đồ ăn vào bát cho vợ, Yến không muốn ăn, nên gắp trở lại bỏ vào bát của Tân, tôi thấy Tân ngồi cặm cụi bóc vỏ tôm cho Yến, cắt nhỏ miếng thịt gà, cẩn thận lấy canh cho Yến, còn cô nàng cứ tỉnh bơ nói cười, còn ai có phước hơn Yến trên đời này nữa; những mẩu chuyện nàng kể rất có duyên, chọc cho cả bọn cười ròn rã, no cả bụng!

    Các bạn trong buổi tiệc hôm ấy, ai cũng công nhận Tân-Yến là cặp vợ chồng hạnh phúc gương mẫu, các ông chồng phải noi theo, ít nói, làm nhiều, biết săn sóc và yêu thương vợ như thế; cứ vợ ở đâu là chồng theo đấy!

    Sáng hôm sau, đúng 8:30 chúng tôi đã lên xe đò Hoàng mà Hà -Tuấn đã đặt, đi chơi chung với nhau ba ngày ở Las Vegas, Hà-Tuấn đã đặt sẵn một căn nhà rộng gồm ba phòng nhỏ, có bếp, phòng khách và hai buồng tắm. Mười lăm năm, nhóm nhỏ Couvent Des Oiseaux, chỉ những nữ sinh mới họp lại nên đứa nào cũng muốn ở bên nhau lâu nhất có thể, chắc gì sau này có dịp gặp nhau nữa; nhắc lại bao chuyện xưa kia vẫn chưa hết, nhất là bây giờ đứa nào cũng có chồng con, chúng tôi trải bầy tâm sự suốt đêm vẫn chưa thấy đủ, sáng lên xe ai nấy cũng cầm trên tay một ly café đen mà miệng ngáp muốn trẹo quai hàm.

    Gần đến giờ xe chạy, ông tài xế đi kiểm một lượt, nói vọng lên:

    -Hình như mình thiếu một cặp phải không?… tôi đếm đi đếm lại sao thấy có 14 người vậy cô Hà?

    -Vậy hả, đâu để tôi điểm danh xem ai vắng mặt thì biết liền chứ gì!

    Khi gọi đến tên :

    -Yến-Tân!

    -…

    -Yến -Tân có mặt không?

    -…

    -Ủa sao giờ này gần 9:00 rồi mà cô nàng cũng chưa ra vậy ta! Chả lẽ còn ngủ sao chứ? Hôm qua Yến ngủ cùng giường với Thảo mà?

    Thảo giải thích :

    -Sáng khi Thảo dậy thì đã không thấy Yến rồi, tối qua tụi này nói chuyện mà không biết bao giờ ngủ luôn nữa vì miệng cứ nói mà mắt thì nhắm tịt!

    Cả xe cười ầm với lời giải thích của Thảo. Bỗng từ đàng xa thấy Tân tay xách nách mang túi, giỏ treo từ trên cổ đến hai vai, còn hai tay thì cầm nào là mấy khay nước mía và cả bịch những đĩa bột chiên chồng lên nhau, hớt hơ hớt hãi chạy vội đến :

    -Xin lỗi quý vị đã chờ nhen, tại…cô hàng nước mía chỉ mở cửa lúc 9:00 mà thôi đó!

    -Ủa còn Yến đâu?

    Nàng Yến lững thững hiện ra sau bụi cây hoa giấy màu tím đỏ, nàng đang tự selfie, nhoẻn cười chữa thẹn, như lời xin lỗi :

    -Quý vị biết không, mình phải hy sinh dậy sớm đi mua cho mỗi cặp một ly nước mía Viễn Tây để mình nhớ lại mùi vị nước mía hồi xưa mình uống ở trước cổng trường đó, còn bắt anh Tân chạy qua quán đối diện gần đó mua bánh bột chiên với trứng gà để cho những bạn từ bên Tây và Canada thưởng thức, thấy tụi này dễ thương chưa, vậy đừng trách tại sao trễ giờ nhe.

    Tiếng Vi vừa cười vừa trêu Yến :

    -Đã trễ rồi mà ai còn đứng làm điệu bên khóm hoa giấy đấy?

    -…Euh… hoa giấy đẹp thế này, bên Thụy Sĩ không tìm ra đâu nhé, mình phải thừa cơ hội làm vài « bô » chứ!

    Cả bọn con gái nhao nhao lên như cái chợ :

    -Từ ngày hôm qua đến giờ chúng mình chưa chụp hình người đẹp Yến với chàng hoàng tử Tân để cám ơn lòng tốt của hai vị, tụi mình sẽ không bao giờ quên buổi họp mặt vui và dễ thương của ngày hôm nay suốt đời này!… Hai bạn ra đứng đây cho tụi này chụp một cái đi!

    Rất tự nhiên, Yến và Tân đứng sát rạt, hai má kề vào, hai cánh tay choàng vào vai nhau, đứng giữa lòng xe ngay lối đi của chiếc xe đò, làm dáng cho chúng tôi chụp họ một cái.

    ***

    Hai mươi lăm năm vụt qua kể từ ngày họp bạn, chúng tôi không hề gặp lại, mỗi người một con đường, bận rộn công việc, cuộc sống, gia đình, nhưng trong mỗi đứa đều nghĩ rằng các bạn của mình đều vui vẻ, hạnh phúc, hanh thông như những tiếng cười ròn rã của ngày đáng nhớ ấy.

    Con cái đã lớn, ra riêng, chúng tôi xấp xỉ tuổi hưu 60, kẻ còn đi làm, người lấy hưu non để hưởng cuộc đời sau bao nhiêu năm cống hiến cho xã hội nơi mình cư ngụ.

    Hôm nay ngồi xếp lại sách vở, tấm hình Yến-Tân chợt rơi ra, vẫn nụ cười rạng rỡ ấy, hai mái đầu tựa vào nhau, tôi chợt nhoẻn cười với tấm hình, nghĩ đến kỷ niệm xa xưa, mong cho bạn mình vẫn mãi bình an, hạnh phúc như ngày nào.

    Tại sao tấm hình ấy lại rơi ra khỏi tập album mà không phải là tấm nào khác? Như một điềm báo trước; một người bạn học cũ, Như Hạnh bỗng tìm lại tôi trên facebook, sau những lời thăm hỏi, nhắc lại buổi họp mặt cách đây 25 năm tại nhà Hà-Tuấn, Như Hạnh nói với tôi:

    -Ngọc có tin của ai trong mấy đứa tụi nó kể từ ngày đó không?

    -Không Hạnh, mình đi làm rồi lo cho gia đình, cuộc sống bộn bề nên không có thì giờ nói chuyện với ai cả, nhưng theo mình thì chắc mọi người đều khỏe mạnh và bận việc như tụi mình thôi.

    -Bây giờ về hưu rồi nên mình mới có chút thì giờ nói chuyện với Hà tuần vừa qua, Hà sắp về hưu rồi, nàng kể về cặp Yến-Tân, mình nghe mà không ngờ đó là sự thật luôn đó!

    Tôi tò mò :

    -Ủa chuyện gì mà có vẻ bí mật vậy?…

    -Sau chuyến đi chơi họp mặt hồi đó, Yến có bầu một đứa bé trai, ba mẹ chồng mừng vui lắm, nhưng cậu bé này rất khó nuôi, bệnh hoạn hoài, mẹ chồng mới khuyên Yến nghỉ làm, ở nhà trông con, để mình Tân và ba chồng đi làm nuôi cả nhà cũng được.

    -Vậy rồi có đủ tài chánh cho cả nhà 7 người không? Bác trai đã lớn tuổi, chỉ làm lương minimum thôi, cái gì cũng dựa vào mình Tân, sao gánh hết nổi?

    -Cho nên từ đó bắt đầu sinh ra cãi nhau, thiếu thốn làm con người ta mất nụ cười, mặt mày ủ sầu, quạu cọ, bữa cơm gia đình không còn vui nữa; Tân buồn chán, ra ngoài uống rượu, gặp bạn xấu, từ đó gia đình bất hòa. Tân trong một lần say, đã tâm sự với cô chủ quán rượu, cô này trẻ hơn Yến, xinh đẹp và rất có bản lãnh, hai người đồng cảm rồi tiến đến yêu nhau.

    Sáu tháng sau, Tân về nói chuyện ly dị với Yến, nàng khóc hết nước mắt, đau đớn như những vết dao cứa vào tim, Yến không ngờ người chồng mình hết mực yêu thương, tin tưởng lại có thể bỏ nàng khi các con còn nhỏ, cần sự chở che của người cha; Tân còn phũ phàng nói Yến vừa già, xấu, không biết sửa soạn như ai đó để làm cho người đàn ông hãnh diện khi ra ngoài…

    Yến cố nài nỉ chồng ở lại chờ các con lớn một chút rồi cô sẽ ra đi, nhưng Tân không chịu, ba mẹ Tân cũng buồn lắm, khuyên Tân rất nhiều, nhưng cũng không lay chuyển được ý Tân, Yến đau khổ, chán ngán ôm ba đứa con ra khỏi nhà ba mẹ chồng!

    Tôi bực tức dùm hoàn cảnh bạn, cắt ngang lời của Như Hạnh:

    -Gì kỳ vậy! Rồi bây giờ Yến sống một mình tần ấy năm với ba đứa con hả? Thật thương cho số phận của Yến quá, nhìn cô ta mình không thể nào nghĩ hậu vận của cô sẽ khổ như vậy, một người con gái lúc nào cũng tươi vui, cặp mắt sáng, thông minh, đem đến cho mọi người xung quanh sự ngọt ngào ấm áp, làm sao có thể khổ được, mình không thể nào tin được đó!… Nếu là người phụ nữ không nhan sắc, không biết cư xử, ăn nói vô duyên… thì còn có thể nói là hậu vận xám ngoét, đàng này Yến rất biết cách cư xử, chìu bạn bè, chắc chắn phải là người vợ tốt, người mẹ tuyệt vời, chỉ trách Tân có mới nới cũ, phụ tình người con gái mà hắn đã từng theo đuổi cả mấy năm trời khi còn học ở phổ thông; vả lại cuộc đời còn dài, chắc gì Tân mãi hạnh phúc bên cô chủ tiệm rượu!

    -Đừng vội tội nghiệp cho Yến nhé, ông Trời nhìn thấy tất cả nên đã run rủi cho cuộc đời của Yến rất sáng sủa, nghe tiếp nè:

    -Yến đau khổ sau khi đem ba con nhỏ ra ngoài sống, ba mẹ chồng cũng tìm cách giúp đỡ Yến và các cháu buổi ban đầu nên cũng không đến nỗi cơ cực lắm. Dĩ nhiên là rất bận rộn vì chỉ có một mình Yến đi làm, nuôi con, dắt thằng cu bé đi nhà trẻ, đứa lớn đi học, bếp núc… Cuộc sống trôi qua tối mắt tối mũi như thế làm nàng mạnh mẽ trưởng thành hơn, không còn thì giờ nhớ chuyện xưa mà buồn nữa, Tân cũng đến thăm con mỗi hai tuần, chàng tỏ vẻ hối hận muốn trở lại với vợ con vài năm sau đó, nhưng Yến nhất định không mở lòng.

    Cho đến khi hai cô bé lớn 16,17 tuổi, tức là 10 năm sau, trong lúc Yến ngồi chờ hai con gái bên ngoài nhà của người bạn làm tiệc sinh nhật, để đón về thì tình cờ nàng thấy một người đàn ông khoảng 70 tuổi, đang ngồi ở ghế đối diện trong một công viên gần đó bỗng nhiên lăn đùng xỉu ngay trước mặt, sợ hãi và lo lắng, nàng hốt hoảng chạy tới gọi và lay mãi, không thấy ông cử động, nàng đã bấm gọi ambulance đến cấp cứu… Ông bị bệnh tiểu đường, bữa hôm đó vì chỉ số đường xuống quá thấp nên ông đã ngất xỉu, may là nhờ Yến gọi cấp cứu kịp thời, chứ không thì cái mạng ông không còn nữa.

    Theo lời Hà kể thì vợ ông Dzũng mất đã khá lâu, ông vẫn ở vậy vì trong lòng hình bóng người vợ vẫn ngự trị. Khi gặp Yến, ông rất mến Yến qua cách cư xử chân tình, từ từ tình cảm của ông đối với nàng càng thêm sâu đậm; mỗi lần đến nhà Yến ăn cơm chung gia đình với các cháu nhỏ, ông cảm thấy rất vui như sống lại tình gia đình nồng ấm hồi xưa khi vợ ông còn sinh tiền, rồi ông đã bất ngờ ngỏ lời cầu hôn Yến!

    Việc này xảy ra quá nhanh làm Yến ngỡ ngàng, nhưng suy đi nghĩ lại cảnh một mình nuôi con thật cực nhọc, nàng thực sự cần một bờ vai, người chia sẻ những ngọt bùi của cuộc sống, nàng nói chuyện với các con, và đã chấp thuận lời cầu hôn của ông Dzũng.

    -Vậy tốt quá rồi, đúng là happy ending; chắc Yến có cuộc sống hạnh phúc đủ đầy hả Như Hạnh, xin chia vui cùng hạnh phúc của nàng!

    -Tuy có lớn tuổi hơn Yến đến một con giáp nhưng bề ngoài ông không già lắm, ông là một thương gia nên khá chải chuốt, lại là chủ của một dẫy nhà hàng ở Florida, người ta nói ông là nhà triệu phú… Nàng Yến nhà mình đã hết cơ cực, từ con bé lọ lem, một nách ba con, bước lên thành bà chủ của dẫy nhà hàng nổi tiếng!

    -Wow, chuyện như chỉ có trong tiểu thuyết ấy, chúng mình gặp lại nhau cách đây 25 năm, đứa nào cũng vui vẻ, hạnh phúc, không ngờ bẵng đi một thời gian, tất cả thay đổi một cách chóng mặt, kẻ lên voi, đứa xuống chó… Cũng mừng cho Yến có cuộc sống yên phận bên người chồng đại gia!

    -Chưa hết đâu…

    -Ủa còn chuyện gì nữa? Mình tưởng Yến sống an phận bên chồng giàu có là xong rồi chứ!

    -Còn Tân bây giờ mới thấy rõ bộ mặt thật nè!

    -Vậy sao, đã ly dị rồi đâu còn mắc mớ gì nữa đến nàng Yến?

    -Nói như mi thì trên đời này đâu có cần luật sư hay tòa án làm gì. Mi biết không, Tân sau khi lấy cô chủ tiệm rượu, mới thấy mình không hợp chút nào, vì Tân là người ít nói, mà ra tiệm làm giúp người yêu thì phải « nói » chứ mang khuôn mặt lầm lì thì làm sao có khách! Bị khách chê mấy lần với cô chủ tiệm, cô này thấy tiệm không khá vào những ngày Tân đứng quầy, tình cảm không còn đậm đà nữa vì chẳng lợi dụng gì được nơi Tân, hai người mau chán nhau, tan rã; Yến không chấp nhận sự hối lỗi quay về của Tân, thất vọng, chàng bỏ xứ, đi làm ăn xa ở Mexico, nghe nói cùng với người ta trồng …cỏ gì đó cho mau giàu, rồi bị cảnh sát bắt cả đường dây, bây giờ ngồi bóc lịch!

    -Trời ơi, đang có một gia đình thật đẹp mà ai cũng ngưỡng mộ, bỗng nhiên lại thành kẻ tù tội, trắng tay! Chắc chàng ta hối hận lắm há!… Có ai học được chữ ngờ há, ông Trời làm khó con người quá!

    -Ông Trời cho mình trăm năm để sống, Ông muốn xem mình cư xử ra sao, làm những gì, có ích, hay có hại cho xã hội và những người chung quanh, Ông thấy hết đó, Ông sẽ trừng phạt mình nếu thấy mình làm những điều xấu, ban đầu cho mình vài bài học tiêu cực, nếu mình không biết quay lại con đường chính nghĩa thì Ông sẽ thẳng tay ra đòn, chứ chả cần chờ đến kiếp sau cho lâu nữa!

    -Hahaha mi nói cứ như là… cố vấn của ông Trời sai xuống vậy đó!

    -Ta nói thật, mi xem cuộc đời của Yến-Tân đấy thôi, nếu có gì trắc trở khó khăn trong cuộc sống thì phải cùng nhau vượt qua chứ, tại sao thấy khó là bỏ nhau, là đạp đổ để một mình đi trên thảm đỏ, hưởng sung sướng mà bỏ bạn? Nếu Tân đối xử tốt với Yến, vẫn cùng nhau vượt qua cái vận mệnh gập ghềnh lúc ấy thì bây giờ cả hai có thể có một gia đình đẹp với ba con đã lớn, vào đại học làm rạng danh cha mẹ rồi.

    -Cuộc đời bao giờ cũng có chữ Nếu là vậy mà… Hôm nay hai đứa mình sao tám chuyện thiên hạ ghê nơi. Hổng biết nhỏ Yến có hắt xì không há!… Còn mi thì sao nè, không thấy nói?

    -Ôi, ta … ngày nào cũng như ngày nấy, mỗi ngày tìm một niềm vui …

    Sáng ra thở nhẹ một hơi,
    Biết ta còn sống giữa đời là may.
    Không mong thắng, chẳng cần hay,
    Lặng nghe từng khúc mây bay giữa trời.

    Chuyện gì đến, cứ để trôi,
    Giữ tâm như nước, chẳng vơi chẳng đầy.
    Tùy duyên – hạt nắng trên tay,
    Cũng là đủ ấm tháng ngày thong dong.


    (Montreal, June’25)
     Sỏi Ngọc 

    --
Nhạc cuối tuần




--
====================================================================
Trên Facebook :
http://www.facebook.com/DaiHocKhoaHocSaiGon
====================================================================
 
Bạn đã nhận được bài viết này vì bạn đã đăng ký vào Nhóm "KhoaHocSG" của Google Groups.
* Để đăng bài lên nhóm này, hãy gửi email đến "khoa...@googlegroups.com"
* Để RÚT TÊN ra khỏi nhóm này, gửi email đến "khoahocSG+...@googlegroups.com"
* Để có thêm tuỳ chọn (preference set up), hãy truy cập vào nhóm này tại: http://groups.google.com/group/khoahocSG?hl=vi
---
Bạn nhận được thư này vì bạn đã đăng ký vào nhóm Google Groups "KhoaHocSG".
Để hủy đăng ký khỏi nhóm này và ngừng nhận email từ nhóm, hãy gửi email đến khoahocsg+...@googlegroups.com.
Để xem cuộc thảo luận này, hãy truy cập vào https://groups.google.com/d/msgid/khoahocsg/MN2PR02MB65925CCCC183668B055931F9FC3DA%40MN2PR02MB6592.namprd02.prod.outlook.com.
Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages