Fwd: ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 21-07-2025 (SỐ 203-2025)

5 views
Skip to first unread message

Giu Tran

unread,
Jul 21, 2025, 4:01:50 PMJul 21
to


---------- Forwarded message ---------
From: soan....@hotmail.com <soan....@hotmail.com>
Date: Mon, Jul 21, 2025 at 4:13 AM
Subject: ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 21-07-2025 (SỐ 203-2025)
To:




GOOD MORNING VIET NAM - CANADA - USA

ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 21-07-2025  (SỐ 203-2025)

Image insérée
Image insérée


MỤC LỤC

  1. Đức Phật Là Ai ? (Who is Buddha?)
  2. Quasimodo
  3. Tết này anh trở về
  4. Đan điền
  5. 50 Năm – Còn Đó Nỗi Buồn
  6. Vài Điều Thú Vị Về Mật Ong
  7. Uống nước từ loại cây quen thuộc này khiến tế bào ung thư tự tiêu hủy?
  8. Cơn gió bụi
  9. CHUYỆN HAI CÁI BỊ
  10. Tôi Ghét Tôi
  11. XÁC CHẾT TRÊN BÃI BIỂN






Đức Phật Là Ai ? (Who is Buddha?)
  • Lời Bạch:

    Hiện nay số lượng sách nói về cuộc đời Đức Phật nhiều như một đám rừng. Cuốn sách nhỏ bé này (booklet) chỉ có mục đích khiêm tốn là giới thiệu một cách vắn tắt cuộc đời Đức Phật cho các bạn trẻ qua hình thức Hỏi-Đáp. Nó không thể thay thế các cuốn sách nói một cách đầy đủ về cuộc đời của Đức Phật. Qua hình thức Hỏi-Đáp có thể các bạn trẻ dễ nhớ. Trong các buổi sinh hoạt như của Gia Đình Phật Tử hay Câu Lạc Bộ Thanh-Thiếu-Niên Phật Tử, chúng ta có thể gợi ý các em qua các câu hỏi và qua sách, chúng ta đã có sẵn câu trả lời…không cần phải suy nghĩ.

    Sách này được hình thành qua sự sưu tầm, cộng thêm với sự đóng góp riêng, rồi biên soạn theo thứ tự. Rất mong được sự chỉ giáo, góp ý của các bậc thức giả.

    * * *

    A.Thân Thế:

    1. Hỏi: Đức Phật là ai?

    Đáp: Đức Phật tên là Tất Đạt Đa (Siddharta), họ là Cồ Đàm (Gautama), con của Vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và Hoàng Hậu Ma-Da (Maya) nước Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatsu) ở về miền trung Ấn Độ, Nepal bây giờ. Ngài sinh ra cách đây 2563 năm (tính đến năm 2019).

     

    Hoàng Hậu Ma Da nằm mộng thấy con voi sáu ngà đâm vào hông và sau đó mang thai.

    2. Hỏi: Đức Đức Phật sinh ra ở đâu?

    Đáp: Đức Phật sinh ra ở Vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) khi hoàng hậu trên đường trở về quê mẹ để chuẩn bị sinh nở. Khi Hoàng Hậu Ma Da níu lấy cành hoa Vô Ưu thì hạ sinh thái tử.

     

    Hoàng Hậu Ma Da hạ sinh thái tử tại Vườn Lâm Tỳ Ni

    3. Hỏi: Có huyền thoại nào nói về lúc hạ sinh thái tử không?

    Đáp: Có khá nhiều huyền thoại như bảy đóa sen từ dưới đất mọc lên để đỡ chân cho thái tử và Long Vương (Vua Rồng) phun nước để tắm cho thái tử.

     

    4. Hỏi: Trong sự mừng vui của Vua Tịnh Phạn vì có con nối dõi, nhà tiên tri A Tư Đà (Asita) từ Hy Mã Lạp Sơn tới nói gì về tương lai của thái tử?

    Đáp: Đạo sĩ A Tư Đà nói rằng nếu thái tử không xuất gia mà ở lại trị vì, thì ngài sẽ trở thành một đại đế. Còn nếu xuất gia đi tu thì ngài sẽ trở thành một vị Phật. Rồi đạo sĩ A Tư Đà bật khóc, nói rằng, rất tiếc khi đó ông đã chết cho nên không được nghe những lời giáo huấn của vị Phật này. Nghe nói vậy Vua Tịnh Phạn vừa mừng vừa lo. Bảy ngày sau, Hoàng Hậu Ma Gia qua đời và thái tử được nuôi dưỡng bởi người em của hoàng hậu là bà Ma Ha Ba-xà-ba-đề (Mahaprajapati).

     

    Đạo sĩ A Tư Đà tiên đoán tương lai của thái tử

     

    5.  Hỏi: Thái Tử Sĩ Đạt Đa được giáo dục như thế nào?

    Đáp: Khi thái tử được bảy tuổi. Rất nhiều danh sư thời bấy giờ được Vua Tịnh Phạn mời tới để dạy học cho thái tử. Thế nhưng chỉ sau một thời gian những vị này đều cáo lỗi vì không còn gì để dạy thái tử nữa. Thái tử còn được dạy về võ thuật, bắn cung, cưỡi ngựa.

     

     

    Thái tử luyện tập bắn cung

    6. Hỏi: Đời sống tâm linh của thái tử trong cung điện ra sao?

    Đáp: Thái tử là một cậu bé khác thường, ít vui chơi hay ham thích những thú vui của hoàng cung mà thường trầm tư, mặc tưởng.

     

    7. Hỏi: Có gì chứng tỏ thái tử yêu mến thú vật?

    Đáp: Khi Hoàng Tử Bồ Đề Đạt Đa giương cung bắn rơi một con chim. Con chim rớt vào sân của thái tử. Thái tử đã ôm nó vào lòng và chữa trị vết thương cho nó.

     

    Thái tử đang ôm con chim bị thương vào lòng

    8. Hỏi: Thái tử nghĩ gì khi lần đầu tiên được vua cha cho tham dự Lễ Khởi Đầu Mùa Cày Cấy (Hạ Điền)  vào mùa xuân ở ngoài hoàng thành?

    Đáp: Thái tử không vui như mọi người khi thấy người nông dân cày đất lên, con chim nhào xuống ăn những con giun, con dế. Rồi người thợ săn rình bắn con chim. Trong khi đó con hổ lại rình để vồ người thợ săn. Rồi thì con trâu phải kéo cày, người nông dân phải cực khổ, chân lấm tay bùn. Thái tử  tự hỏi tại sao cuộc sống này lại như thế?

     

    9. Hỏi: Lần du ngoạn lần thứ hai ngoài hoàng cung, qua bốn cửa thành,  thái tử gặp những gì?

    Đáp: Thái tử gặp những hình ảnh lạ lùng mà từ trước đến giờ chưa bao giờ nhìn thấy. Một người già chống gậy bước đi run rẩy. Một người bệnh đang rên xiết vì đau đớn. Một nhóm người đang khóc than, khiêng một xác chết và một vị sa môn đang ung dung dạo bước.

     

    Hình ảnh thái tử nhìn thấy qua bốn cửa thành

    10. Hỏi: Khi về hoàng cung thái tử đã thưa gì với phụ vương?

    Đáp: Thái tử ngỏ ý xin xuất gia.

     

    11. Hỏi: Vua Tịnh Phạn có bằng lòng không?

    Đáp: Đức vua không bằng lòng.

     

    12. Hỏi: Khi đó thái tử nói gì?

    Đáp: Thái tử thưa rằng, nếu vua cha làm sao cho con: Không bệnh tật, trẻ mãi không già, không chết và làm sao cho mọi người hết khổ thì con sẽ không xuất gia. Vua Tịnh Phạn nói rằng ta có thể cho con ngai vàng này và của cải của thế gian nhưng những điều đó ta không thể làm được.

     

    13. Hỏi: Để ngăn chặn ý chí xuất gia của thái tử, đức vua đã làm gì?

    Đáp: Ngài đã cho xây ba cung điện Mùa Xuân, Mùa Hạ và Mùa Đông để phục vụ thái tử. Trong các cung điện này hoa không được héo, cung nữ già phải đuổi về quê và đêm ngày đều yến tiệc và đàn ca, xướng hát.

     

    14. Hỏi: Thái tử có vui trong các cung vàng điện ngọc, đầy lạc thú này không?

    Đáp: Không!

     

    15. Hỏi: Khi đó Vua Tịnh Phạn làm sao?

    Đáp: Có một vị đại thần hiến kế, trên đời này ái tình là sợi dây trói buộc con người ghế gớm nhất. Nếu cưới vợ cho thái tử thì chắc chắn thái tử sẽ vui vầy suốt đời bên người đẹp và quên mất ý tưởng xuất gia.

     

    Đám cưới của thái tử và Công Chúa Da Du Đà La (Yasodhara)

    16. Hỏi: Làm thế nào để thái tử cưới được Công Chúa Gia Du Đà La con của Vua Thiện Giác?

    Đáp: Thái tử đã phải trải qua cuộc tranh tài về đấu kiếm, cưỡi ngựa và bắn cung với các hoàng tử khác để có thể lấy được Công Chúa Gia Du Đà La.

     

    17. Hỏi: Cuộc sống bên cạnh người vợ đẹp tuyệt trần này có làm thái tử vui không?

    Đáp: Có. Công chúa đã sinh cho thái tử một con trai tên La Hầu La (Rahula). Nhưng ý nghĩ xuất gia vẫn không nguôi ngoai trong lòng thái tử.

     

    18. Hỏi: Hình ảnh cuối cùng nào đã khiến thái tử quyết chí xuất gia?

    Đáp: Vào một đêm nọ, thái tử bỗng thức giấc và đi dạo trong cung điện. Thái tử thấy nằm ngủ la liệt dưới sàn là các cung nữ phấn son mờ nhạt, mặt mày hốc hác, tóc rối bời, xiêm y lệch lạc…khác hẳn với những gì mà thái tử thấy ban ngày. Phải chăng đằng sau các dạ tiệc tưng bừng là đây? Phải chăng đằng sau cuộc sống vương giả là đây? Thái tử thở dài buồn bã.

     

    19. Hỏi: Thái tử đã lìa bỏ gia đình như thế nào?

    Đáp: Vào một đêm trăng, thừa dịp binh sĩ và cung nữ ngủ say. Thái tử thức dậy, nhìn vợ con rồi đi quanh giường ba vòng để từ giã, rồi ra lệnh cho Xa Nặc (Sana) thắng con ngựa Kiền Trắc (Kantaka), rồi hai thầy trò phóng ra khỏi thành.

     

    Thái tử nhìn vợ con lần cuối

    20. Hỏi: Sau khi vượt qua Sông Anoma, thái tử làm gì?

    Đáp: Thái tử đã cắt mớ tóc xinh đẹp của mình, trao cho Xa Nặc về trình với vua cha là thái tử đã quyết tâm lên đượng tìm đạo và đừng cho người tìm kiếm. Sau đó thái tử đã đổi bộ áo của mình để lấy bộ áo của một người dân bình thường. Lúc đó thái tử 26 tuổi.

     

    Thái tử cắt mái tóc gửi về cho vua cha

    B. Bước Đường Tu Chứng và Thành Đạo Sau Chín Năm

    21. Hỏi: Hành trình tìm đạo ban đầu của thái tử ra sao?

    Đáp: Thái tử tìm đến rất nhiều vị đạo sư uyên bác lúc bấy giờ. Thế nhưng thái tử không thỏa mãn với những lời giải thích và lối tu của họ, cuối cùng phải bỏ đi. Lúc này người ta gọi thái tử là đạo sĩ Cồ Đàm.

     

    22. Hỏi: Sau khi bỏ đi, thái tử gặp ai?

    Đáp: Thái tử gặp năm anh em ông Kiều Trần Như (Kondanna) và cùng họ tu theo lối tu khổ hạnh. 

     

     

    Thái tử tu khổ hạnh với năm anh em ông Kiều Trần Như

    23. Hỏi: Lối tu khổ hạnh đem tới kết quả gì?

    Đáp: Đưa tới thân thể hao mòn, suy yếu, chỉ còn da bọc xương và thái tử đã gục ngã.

     

    24. Hỏi: Ai đã cứu sống thái tử?

    Đáp: Có một cô thôn nữ tên Tu-Xà-Đa đem cháo sữa vào rừng để cúng dường cho các đạo sĩ. Thấy một một người chỉ còn da bọc xương, cô nâng dậy và dâng bát cháo ấy. Ăn xong , thái tử thấy khỏe khoắn lạ thường…và thái tử bừng nở một ý nghĩ mới lạ.

     

     

    Cô thôn nữ dâng sữa cho thái tử

    25. Hỏi: Thái tử nghĩ gì sau khi ăn bát cháo cứu mạng?

    Đáp: Thái tử thấy rằng không thể theo con đường cực đoan hành xác mà cũng không thể theo con đường thỏa mãn xác thân. Con đường đúng đắn phải theo là Trung Đạo. Từ đó thái tử từ bỏ con đường khổ hạnh và tới giờ ăn, ôm bình bát đi khất thực. Tượng của cô thôn nữ được người dân dựng tại chính nơi mà cô đã dâng sữa cho thái tử và vẫn còn tồn tại tới ngày nay.

     

    26. Hỏi: Sau khi theo con đường Trung Đạo, thái tử làm gì?

    Đáp: Ngài di chuyển tới ngoại ô của Thành Vương Xá (Rājagaha) kinh đô của xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) , nơi có sông suối, cây cối mát mẻ, ngồi dưới cội bồ đề để tu hành một mình. 

     

     

    Thái tử ngồi dưới gốc cây bồ đề và đã thành Phật

    27. Hỏi: Ngồi dưới gốc cây bồ đề, thái tử đã phát nguyện (thề) như thế nào?

    Đáp: Thái tử nói rằng nếu ta không thành đạo thì sẽ không rời khỏi chỗ ngồi này cho dù thịt nát xương tan. Quả nhiên sau 49 ngày, thái tử đã đắc quả Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni. Lúc đó ngài 35 tuổi. Huyền thoại cũng nói rằng trước giờ thành đạo, Ma Vương và Ma Nữ kéo tới quấy phá nhưng cuối cùng Đức Phật đã chiến thắng tất cả.

     

    Ma vương tới quấy phá thái tử trước khi tu thành Phật

    28. Hỏi: Thái tử đã giác ngộ và chứng đắc cái gì?

    Đáp: Thái tử đã nhìn thấu suốt bản thể của vũ trụ, sự sống sự chết, khổ đau của con người cùng phương pháp diệt khổ, đưa con người tới đời sống an vui tuyệt đối gọi là Niết Bàn (Nirvana).  

     

    C. Hành Đạo

    29. Hỏi: Ai là người đầu tiên được Phật thuyết giảng cho nghe?

    Đáp: Sau khi thành đạo, Đức Phật tìm đến Lộc Uyển (Sarnath) để thuyết giảng cho năm anh em Kiều Trần Như và họ trở thành những đệ tử đầu tiên của Đức Phật.

     

     

    Phật thuyết pháp cho năm anh em Kiều Trần Như

    30. Hỏi: Đức Phật còn giáo hóa những đạo sĩ nào?

    Đáp: Đức Phật đã chuyển hóa những nhân vật nổi tiếng thời bấy giờ như: Đạo sĩ Uruvela Kassapa thờ Thần Lửa và đạo sĩ Upaka tu lõa thể.

    31. Hỏi: Hành trình truyền bá giáo pháp của ngài sau đó ra sao?

    Đáp: Trong suốt 45 năm hành đạo, du hành qua nhiều đô thị lớn của Ấn Độ, Đức Phật đã thu nhận được 1250 vị đệ tử lúc nào cũng đi theo Phật. Ngoài ra Đức Phật còn hóa độ cho rất nhiều quốc vương, đại thần, thương gia, tiện dân nghèo khổ và những tín đồ Bà La Môn.

     

    32. Hỏi: Có giai thoại nào đáng ghi nhớ trên bước đường truyền đạo của Đức Phật không?

    Đáp: Có rất nhiều giai thoại cảm động, lạ lùng trong cuộc đời giáo hóa của Đức Phật. Thế nhưng có bốn giai thoại đặc thù được ghi nhớ nhiều nhất. Đó là việc tỷ phú Cấp Cô Độc (hay Tu Đạt) trải vàng để mua vườn ngự uyển của Thái Tử Kỳ Đà làm nơi cho Phật thuyết pháp. Rồi chuyện Phật hóa độ cho Vua A Xà Thế- người đã giết cha mình để đoạt ngôi vua. Rồi Phật hóa độ cho ông Angulimala đã giết chết 99 người và chỉ chờ giết thêm một người nữa là Đức Phật để có phép thần thông. Rồi Đức Phật hóa độ và thu nhận ông Ni Đề - người làm nghề gánh phân là nghề thấp hèn nhất Ấn Độ thời bấy giờ-làm đệ tử  vì Phật nói rằng pháp Phật không hề có thấp-cao, giàu-nghèo, sang-hèn.

     

    Tên cướp Angulimala toan tính giết Phật

    33. Hỏi: Dù đã thành Phật, ngài có còn nhớ tới gia đình không?

    Đáp: Có. Sau bao năm xa cách, Đức Phật trở lại Thành Ca Tỳ La Vệ gặp lại vua cha, Công Chúa Gia Du  Đà La. Ngài ở lại bảy ngày, cảm hóa mọi người trong hoàng tộc và công chúa đã cho con trai là La Hầu La xuất gia theo Phật. Người em họ là ngài A Nan cũng xuất gia theo Phật.

     

    Công Chúa Gia Du Đà La quỳ dưới chân Phật

    34. Hỏi: Đức Phật có nhận phụ nữ vào tăng đoàn không?

    Đáp: Có. Sau khi Vua Tịnh Phạn qua đời, bà Ma Ha Ba Xà Ba Để- kế mẫu của Phật - đã xuất gia và trở thành tỳ kheo ni đầu tiên trong ni đoàn của Đức Phật.

     

    35. Hỏi: Trong suốt 45 năm hành đạo, cuộc sống thường nhật của Phật như thế nào?

    Đáp: Ngoài việc tắm giặt, làm vệ sinh, khất thực, ăn uống, Đức Phật ngủ rất ít mà dành thời giờ để ngồi Thiền, thuyết pháp, giảng dạy đồ chúng, tiếp khách và du hành thuyết pháp.

     

    36. Hỏi: Đức Phật có của cải riêng không?

    Đáp: Ngoài ba bộ áo và chiếc bình bát đựng đồ ăn, Đức Phật không cất giữ tiền bạc, không của cải riêng, không vật tùy thân nào khác, thậm chí không có giày dép, mà đi chân đất.

     

    D. Nhập Diệt 

    37. Hỏi: Ở tuổi 80, Đức Phật đã nói gì, làm gì trước khi nhập diệt?

    Đáp: Trước đó ba tháng, Đức Phật loan báo cho mọi người biết ngày ngài nhập Niết Bàn. Lúc đó sức khỏe của Phật suy yếu lại ăn phải bát cháo nấm độc do ông Thuần Đà (Cunda) dâng cúng. Thế nhưng ngài vẫn thuyết pháp, giảng dạy và giải thích cho tăng chúng những gì còn thắc mắc hay chưa hiểu rõ.

     

    38. Hỏi: Đức Phật nhập diệt ở đâu?

    Đáp: Tại Câu Thi Na (Kusinara), giữa rừng cây Ta La, trên một tấm ván làm thành chiếc giường, Đức

    Phật nằm theo thế kiết tường, đầu gối lên bàn tay, nhập định và từ từ trút hơi thở cuối cùng. Lúc đó là

    nửa đêm ngày 15 Tháng Hai, Âm Lịch (554 năm trước Tây Lịch). Huyền thoại nói rằng lúc đó Trái Đất

    rung chuyển. Đại chúng có mặt đều than khóc. Cả Chư Thiên cũng than khóc vì từ đây không còn

    một vị đạo sư mà họ thường tới nghe thuyết pháp và vấn hỏi.

     

    Hình ảnh Phật trước khi nhập Niết Bàn

    39. Hỏi: Lời di giáo cuối cùng của Phật là gì?

    Đáp: Đó là: “Hãy tự là ngọn đuốc soi sáng cho mình. Hãy nương tựa nơi chính mình. Đừng tìm cầu ánh sáng hay chỗ nương tựa nào khác.”

     

    40. Hỏi: Đức Phật nói là đã thoát vòng sinh tử, luân hồi tại sao cũng chết?

    Đáp: Nếu nói rằng Đức Phật đã chết cũng đúng. Nhưng Đức Phật đã “chết” một cách khác thường, không giống như mọi người. Đức Phật vào thiền định để từ từ lìa bỏ xác thân này. Ngài đã vào cõi Hữu Dư Niết Bàn trước khi chết và sau khi bỏ xác thân ngài vào Vô Dư Niết Bàn, tức chấm dứt hoàn toàn mọi khổ đau. Chính vì thế mà chúng ta gọi Phật tịch diệt hay nhập Niết Bàn là như vậy.

     

    41. Hỏi: Sau khi Đức Phật tịch diệt, xác của ngài được hỏa thiêu hay chôn cất?

    Đáp: Xác của ngài được hỏa thiêu theo lễ Trà Tỳ. Những gì còn lại sau khi thiêu gọi là Xá Lợi, được chia đều cho các vương quốc để thờ phụng. Ngày nay, Vườn Lâm Tỳ Ni (nơi Đức Phật đản sinh), Bồ Đề Đạo Tràng (nơi Đức Phật thành đạo), Vườn Lộc Uyển (nơi Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên) và Thành Câu Thi Na (nơi hỏa thiêu thân xác Đức Phật) là những thánh tích thu hút cả triệu người hành hương mỗi năm.

     

    Hình ảnh chia xá lợi Phật giữa các vương quốc

    E. Sự Lan Tỏa Của Đạo Phật

         42. Hỏi: Sau khi Đức Phật qua đời, tình hình tăng đoàn và Phật Giáo ra sao?

              Đáp: Sau khi Đức Phật qua đời, các đệ tử của Phật nhóm họp lại để đúc kết kinh điển, học thuộc  

             lòng và khoảng 200 năm sau mới có chữ viết Pali ở Nam Ấn Độ và Sanskrit ở bắc Ấn Độ để ghi chép  

             thành kinh sách. Nhóm đi về phía bắc hình thành tông phái Đại Thừa (Mahayana) và nhóm đi về phía nam  

             hình thành tông phái Tiểu Thừa (Theravada).

     

    Hình ảnh kết tập kinh điển

    43. Hỏi: Có sự khác biệt giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa không?

    Đáp: Có. Nhưng không nhiều. Nếu có khác biệt chỉ là phương thức hành đạo, nghi thức tụng niệm. Tất cả đều tu theo kinh giáo của Phật. Tất cả đều thành Phật. Do đó ngày nay người ta có khuynh hướng bỏ hai chữ Đại Thừa và Tiểu Thừa và thay bằng Nam Tông và Bắc Tông hoặc Nam Truyền và Bắc Truyền.

     

    44. Hỏi: Sau 2563 năm (tính đến năm 2019) Đạo Phật đã truyền tới những quốc gia nào?

    Đáp: Các vị sư đi về phía bắc đã đưa Phật Giáo tới Nepal, Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Ở Trung Á có Pakistan, Afghanistan. Thế nhưng khi Đại Thừa vào Tây Tạng lại hình thành hệ phái Kim Cương Thừa và Kim Cương Thừa đã tạo ảnh hưởng rất lớn tại vùng Nam Á nằm ở phía nam nước Nga. Còn các vị sư đi về phía Nam đã đưa đạo Phật tới Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, thậm chí tới Nam Dương (suy tàn khi Hồi Giáo tới đây vào Thế Kỷ XIII).

     

    Một tu viện cổ của Phật Giáo tại Pakistan (Hồi Quốc)

     

    45. Hỏi: Tại sao Đạo Phật suy tàn ở Ấn Độ?

    Đáp: Có ba nguyên do. Đạo Phật làm trở ngại cho chủ trương phân chia giai cấp của Bà La Môn mà hầu hết vua quan cai trị toàn cõi Ấn Độ bấy giờ đều là tín đồ Bà La Môn. Đạo Phật chưa phát triển thành Giáo Hội nhập thế mà chỉ thành lập các tu viện hoặc vào hang động để ẩn tu, do đó không có sức mạnh chính trị. Sự xâm lăng của Hồi Giáo vào Thế Kỷ thứ VII đã quét sạch Phật Giáo và thậm chí làm lung lay cả Ấn Độ Giáo. Thế nhưng ngày nay Phật Giáo đang lần lần hồi sinh xuyên qua hàng trí thức và giai cấp Thủ Đà La (Dalit/ tiện dân) quy y hàng loạt theo Phật Giáo.

     

    Phế tích của Đại Học Nalanda, Ấn Độ

    46. Hỏi: Còn Đạo Phật trên thế giới bây giờ ra sao?

    Đáp: Theo Wikipedia thì hiện nay trên thế giới có 520 triệu tín đồ Phật Giáo. Thực ra con số này có thể lên tới cả tỷ người nếu Trung Quốc chấp nhận con số thống kê không vì mục tiêu chính trị. Tuy nhiên tư tưởng và tín ngưỡng Phật Giáo đang thấm dần vào xã hội Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Úc Châu và Âu Châu và con số tín đồ theo Phật tăng nhanh mỗi năm, đặc biệt trong giới thổ dân Da Đỏ Mỹ Châu. Đức Đạt Lai Lạt Ma là vị sư có ảnh hưởng mạnh nhất tại Hoa Kỳ. Mới đây tại Thành Phố Richmond, bắc California một phần của một con đường đã được đặt tên là Dalai Lama.

     

     

    Chùa Tam Chúc, Hà Nam khánh thành năm 2019 được coi là lớn nhất thế giới

    G. Di Sản của Đức Phật

         47. Hỏi: Nét đặc thù nổi bật nhất của Đạo Phật là gì?

               Đáp: Đạo Phật có 7 nét đặc thù như sau:

    -Là đạo nhân bản, lấy con người làm gốc.

    -Là đạo của Trí Tuệ. Từ trí tuệ mà đi lên giáo pháp chứ không dựa vào Thần Linh để thành lập tôn giáo.

    -Là đạo của Hòa Bình. Đạo Phật chủ trương bất bạo động. Người theo Phật phải loại bỏ mọi ý nghĩ bất thiện ngay trong đầu óc mình.

    -Là đạo thực tiễn. Người tu theo Phật có thể hưởng hạnh phúc ngay bây giờ và nơi đây (here now) chứ

                 không phải đợi chết đi mới có.

    -Là đạo của Từ Bi. Người tu hành theo Phật phải xót thương đồng loại và cả loài thú vật.

    -Là đạo bảo vệ môi trường, sống hòa hợp với thiên nhiên.

          48. Hỏi: Về phương diện xã hội, chủ trương của Đức Phật như thế nào?

    Đáp: Trong Đạo Phật:

    -Không kỳ thị chủng tộc, mọi chủng tộc đều bình đẳng.

    -Không kỳ thị phái tính. Nam nữ đều bình đẳng.

    -Phá bỏ giai cấp trong xã hội.

    -Không bạo động, không chiến tranh cho nên Đạo Phật là đạo của Hòa Bình.

    -Mọi tổ chức, mọi đoàn thể, mọi quốc gia nên giải quyết mọi mâu thuẫn qua đối thoại trong tinh thần Lục Hòa.

    -Khuyến khích ăn chay để bảo vệ trái đất.

    -Bảo vệ các loài muông thú trong tinh thần Từ Bi vì thú vật cũng có cuộc sống và tình cảm như chúng       ta.

    49. Hỏi: Ngoài cương vị giáo chủ của một tôn giáo, Đức Phật còn có những đặc thù gì nữa không?

    Đáp: Có. Đức Phật còn là một triết gia, một nhà tâm lý, một nhà giáo dục vĩ đại, một người cha lành và là sứ giả của hòa bình. Ngoài ra, Đức Phật còn là người kể chuyện (story teller) rất tài tình.

    50. Hỏi: Một số người ngoại đạo hoặc không hiểu về đạo Phật nói rằng đạo Phật yếm thế. Điều đó có đúng

                không?

    Đáp: Không. Đạo Phật chủ trương giúp con người vơi bớt khổ để tiến tới an vui. Đạo Phật còn cổ vũ hòa bình cho nhân loại, như thế làm sao có thể nói đạo Phật yếm thế?

     

    51. Hỏi: Nhân-Quả trong đạo Phật là gì?

    Đáp: Là mình sẽ gánh chịu tất cả những gì mình làm. Làm thiện đưa tới kết quả tốt. Làm xấu đưa tới kết quả xấu.

     

    52. Hỏi: Đức Phật có thể cứu rỗi linh hồn tôi không?

    Đáp: Đức Phật dạy rằng không một ai có thể cứu rỗi linh hồn cho người khác. Đức Phật chỉ nói ra    

    những phương pháp để chúng ta tự làm cho tâm hồn/đầu óc chúng ta trở nên thánh thiện. Linh hồn chỉ được cứu rỗi/thanh thản khi chúng ta sám hối và làm điều lành. Thần Linh muốn thánh thiện cũng phải làm điều lành.

     

    53.  Hỏi: Sau khi chết, con người đi về đâu?

    Đáp: Nếu là Phật, Bồ Tát và A La Hán thì sẽ không còn tái sinh. Còn ngoài ra, sau khi chết, chúng ta  sẽ đi vào một thế giới đúng với những gì mà chúng ta làm trong kiếp này.

     

    54. Hỏi: Trong một số bộ kinh, Đức Phật có nói tới Trời, Quỷ Thần, A Tu La. Vậy thì Quỷ Thần có ảnh  

          hưởng tới cuộc sống của chúng ta không?

          Đáp: Không. Quỷ Thần vẫn còn xoay vòng trong sinh tử, luân hồi và không có ảnh hưởng gì tới cuộc

          sống của chúng ta. Thờ cúng, van vái Quỷ Thần là mê tín và hy vọng hão huyền. Con người đã vái lậy

         Thần Linh cả mấy ngàn năm nay nhưng khổ đau, bệnh tật, chiến tranh vẫn còn nguyên đó.

     55. Hỏi: Trong đời sống hằng ngày, muốn có hạnh phúc và an lành, người Phật tử phải làm gì?

    Đáp: -Dùng Trí Tuệ để quán xét mọi sự việc xảy ra chung quanh mình.

             -Dùng Từ Bi để đối xử với mọi người.

          56. Hỏi: Làm thế nào để trở thành một Phật tử đúng nghĩa?

    Đáp: Người Phật tử mọi lứa tuổi, phải tuân thủ năm giới cấm sau đây:

    -Không sát sinh

    -Không tà dâm

    -Không nói dối

    -Không trộm cắp

    -Không uống rượu, sử dụng xì -ke ma túy

    -Và thường xuyên hành Thiền hoặc niệm Phật, đi lễ chùa để tâm hồn thanh thản, bớt lo âu, kiềm hãm bớt những tư tưởng bạo động trong đầu óc mình.

          57. Hỏi: Thanh thiếu niên muốn tu theo Phật cần tìm đến nơi nào?

    Đáp: Nên tìm đến các Gia Đình Phật Tử có tại các chùa để vừa vui chơi, vừa học hỏi thêm về Phật pháp. Nếu không có Gia Đình Phật Tử thì tìm tới các Câu Lạc Bộ Thanh Thiếu Niên Phật Tử  là môi trường vô cùng hữu ích cho tuổi trẻ.  Theo đạo Phật chúng ta không mất gì mà lại được nhiều lợi lạc như:

    -Chúng ta yêu đời.

    -Trí tuệ chúng ta mở mang

    -Đầu óc chúng ta thanh thản để có thể ứng phó với cuộc sống đang mỗi lúc mỗi căng thẳng và khó khăn.

    -Ta thân thiện với mọi người.

    -Mọi người có thể là bạn ta.

    -Ta vui vẻ đóng góp thiện nguyện với xã hội.

    -Gia đình chúng ta an vui.

    -Ta là người biết bảo vệ môi trường và cuộc sống tốt đẹp cho thế hệ con cháu mai sau.

     

    Sinh hoạt Gia Đình Phật Tử Việt Nam

            58 HỏiĐể đạt được những mục đích nói trên, người Phật tử trẻ nên sống như thế nào? 

       Đáp: Phật tử trẻ nên:

    -Tránh xa cần sa, ma túy, rượu, thuốc lá và những chất say.

    -Tránh xa súng đạn.

    -Tránh xa băng đảng, bạn xấu và gần gũi những bạn tốt. Bạn tốt là bạn giúp ta trong việc học, nghề nghiệp và nói cho ta biết những gì đúng-sai.

    -Tụ tập ăn nhậu, tác dóc, đi lang thang, lái xe đua lượn trên đường phố… không đem lại lợi ích gì mà chỉ là những nguy cơ.

    -Vào phòng trà, ca vũ, hát Karaoke, nghe nhạc Bolero ủy mị… không phải là thú  giải trí lành mạnh.

    -Đừng nghĩ rằng cha mẹ là cản trở cho bước đường tiến thân của mình. Trong cuộc đời này tất cả mọi người - kể cả vợ hay chồng- đều có thể lừa dối và phản bội mình. Riêng cha mẹ thì không bao giờ phản bội con cái. Cho nên chữ Hiếu phải là công hạnh hàng đầu của người Phật tử.

    -Không nên vào Facebook hay Twitter để tranh luận hoặc xem cho biết vì Facebook và Twitter không phải là nơi trau giồi kiến thức mà chỉ là những sự kiện và tin tức làm chúng ta nhức đầu thêm. Cả ngày vào Facebook để theo dõi, bình luận là sống với một thế giới giả tạo (ảo) không dính líu gì tới cuộc sống thực của mình.

    -Tránh hoặc bớt chơi games vì trò giải trí này làm chúng ta mất thời giờ và không tăng trưởng kiến thức.

    -Không nên coi các phim ảnh bạo lực hay mang tính sầu thảm, chán đời.

    -Học chăm nhưng không quá độ để bảo vệ sức khỏe.

    -Nếu có dịp nên du lịch những nơi như đền đài, khu di tích lịch sử, biển, hồ, rừng, đại học danh tiếng v.v… để mở mang kiến thức và cho tâm hồn thanh thản.

    -Nên tập thể dục, thể thao, chạy bộ, bơi lội, lướt sóng…

    -Âm nhạc và hội họa, viết văn, làm thơ cũng giúp chúng ta giữ được thăng bằng đầu óc.

    -Nếu có chuyện gì khó giải quyết nên tìm một nơi yên tĩnh hay đến chùa…ngồi kiết già hay bán già hít vào thật sâu rồi thở ra (quán sổ tức) một lúc…sẽ thấy tâm địa bình ổn và sẽ có giải đáp hợp lý.

    -Nếu chưa tìm ra giải pháp hợp lý thì nên thưa hỏi thầy hoặc sư cô giúp cho ý kiến.

    -Nhớ đừng quyết định một cái gì quá vội vã.

    -Nên nhớ đời này ai cũng gặp lúc khó khăn, không phải riêng mình.

    -Phải nhớ đời này vốn Vô Thường. Hạnh phúc cũng sẽ qua đi. Khồ đau cũng sẽ qua đi. Cho nên không quá vui với hạnh phúc và không tuyệt vọng khi gặp khổ đau.

    -Không bao giờ để thời gian qua đi một cách uổng phí.

    -Đừng bao giờ đánh mất nghị lực. Cơn mưa làm đám cỏ, luống rau gục xuống. Nhưng khi mưa tạnh, nắng lên, cỏ và rau lại đứng dậy và vươn thẳng.

    -Do đó phải luôn luôn hy vọng và yêu đời.

     

    Nét yêu đời của đoàn sinh Gia Đình Phật Tử

           59. Hỏi: Người Phật tử trẻ có nên ăn chay không?

    Đáp: Đạo Phật không buộc tín đồ phải ăn chay, ngoại trừ tăng/ni. Thế nhưng người Phật tử nên ăn chay   mỗi tháng hai lần vào ngày Rằm và Mùng Một và nhất là ngày Phật Đản.

     

           60. Hỏi: Phật tử trẻ có nên thường xuyên đến chùa?

    Đáp: Đạo Phật không buộc Phật tử phải thường xuyên đến chùa. Nếu bận việc học hoặc công ăn việc làm mà không đến chùa thường xuyên  - thì ít ra cũng phải đến chùa trong các ngày Phật Đản hay Lễ Vu Lan. Còn là đoàn viên GĐPT thì dĩ nhiên sẽ tới chùa mỗi tuần.

     

     

    Câu Lạc Bộ Thanh Thiếu Niên Phật Tử Chùa Phật Quang, Tỉnh Hòa Bình

            Sau cùng:

    Chúng ta tri ân Thái Tử Tất Đạt Đa đã dũng mãnh xuất gia, thành Phật rồi để lại một kho tàng vô giá về triết học, tư tưởng, xây dựng một tôn giáo vô cùng tốt lành cho nhân loại mà giáo lý ấy trải qua hơn 2500 vẫn phù hợp với thời đại và sẽ còn tồn tại tới muôn ngàn thế hệ mai sau.

     

                                            Nam Mô Bổn Sư Thích Ca  Mâu Ni Phật 

    Thiện Quả Đào Văn Bình & Tâm Thường Định Bạch Xuân Phẻ dịch ra Anh Ngữ 

    (Hình ảnh lấy ra từ Internet)

     

    --
Quasimodo
  • 3 chuyến xe heo từ khám đường Chí Hòa đổ xuống trại Đồng Phú hơn 1 trăm tù. Buổi chiều hôm nay trời không nắng mà mưa phùn lăn tăn. Bầu trời xám màu chì, sân trại rộng sáng lên ánh sáng thoi thóp của buổi chiều sắp tắt.

    Những thân xác xanh xao, ốm đói và rách rưới ngồi tụ với nhau nhìn quản giáo và những trật tự, cũng là tù cũ bằng đôi mắt sợ sệt. Quần áo chúng không phải không có mà rách rưới quá chừng. Có thằng thì khoác lên người cái mùng rách, thằng mảnh áo mưa ni lông che thân. Đồ đạc mang theo không có gì giá trị. Hầu hết chúng là tù hình sự, đủ các thứ tội.

    Bọn chúng hầu hết là những phần tử lưu manh, trộm cắp chuyên nghiệp, nên “làm mặt khổ” rất tài tình. Nhưng che đậy với ai kìa, chứ che đậy với quản giáo, những đại bàng làm nhiệm vụ trật tự ở đây thì khó đó, những đại bàng cũng xuất thân từ lò chúng ra mà thôi, bây giờ cần lấy điểm, không vì ân sâu nghĩa nặng thì đừng hòng chúng che chở cho. Những hình, những chữ xâm trên mình chúng, dù dữ dằn kinh khiếp đến đâu cũng chẳng lừa gạt nổi ai.

    Bọn đại bàng cầm cây gậy đi rảo quanh, thấy bộ mặt nào đáng ghét sẵn sàng phang cho vài cây. A “con đĩ chó” kia đừng hòng qua mặt bố mày. Rõ ràng mày là thằng đực mà sao lại sơn móng chân móng tay, uốn tóc “mô đen”. Bố mày thì rút mẹ nó cả móng chân móng tay mày cho mà biết thân... Mà thôi mày cũng giống con ghẹ lắm, mày “pê đê” phải không, cứ thành thật khai báo. Được rồi có lần tụi tao xài đến mày... Thằng điếm đực kia, mày có bí quyết gì với mấy con ghẹ nạ dòng? Không khai hả, tao biết cả rồi, mày có lận bi chứ gì, vào y tế tụi tao kiểm tra... Con quái vật dơ bẩn kia, quần áo mày đâu, tên gì, ở đâu, khai ra, sao mày tởm quá vậy? Bộ mấy chục năm rồi mày không tắm rửa sao, ở đây tao quăng mày xuống suối cho cá rỉa xác mày.....

    Tôi nhìn thằng người ghê tởm đó, đúng là một thằng người dơ bẩn hết ý. Cái quần đùi hắn mặc rách teng beng, hở hang không chịu nổi. Hắn chỉ còn chút xíu để người ta phân biệt được nó là con người. Cái đầu y tóc tai nham nhở, dồ đằng trước, dồ đằng sau, khuôn mặt bẹt gẫy, răng chìa ra như bồ cào, đôi mắt như hai cái lỗ đáo, mũi chẳng ra mũi, môi tụt đi đâu mất, chỉ còn một mẩu thịt thưỡi ra. Cái ót phía sau đầu sao lại bằng như cái mặt đĩa. Chân tay thì khòng khoèo như rễ cây, cái lưng một phần xương sống nhô lên khá cao rồi vẹo sang một bên thành cái bướu. Thân xác xấu xí như vậy mà là một con người đấy. Nếu gọi y là ngợm thì chính xác nhất. Thực tình tôi nghe danh từ “người-ngợm” đã lâu, nhưng con người thì thấy, con ngợm tôi chưa thấy bao giờ, có lẽ thằng đó là con ngợm. Khắp người hắn xông lên mùi xú uế nồng nặc khiến chẳng ai dám đến gần, hắn ngồi thu lu như một đống củi khô, mấy người tù giải đi cùng chuyến xe với hắn cũng phải cố tình ngồi tránh xa. Cây gậy trong tay gã trật tự ở xa chọc vào người hắn:

    - Ê mày tên gì?

    Hắn ngơ ngác rồi lắc đầu. Một gã lẻo mép khác trả lời thay:

    - Nó không có tên, cán bộ đặt tên cho nó là Nguyễn văn Tèo. Bị bắt ở quận 1 nên địa chỉ của nó ở quận một thành phố Hồ Chí Minh.

    - Tội gì, ăn trộm hay trấn lột?

    - Chiến dịch!

    Tôi hiểu tội chiến dịch là gì, nghĩa là chẳng có tội gì hết, nếu coi là tội thì là tội lang thang, không nhà không cửa. Người ta mở chiến dịch thu gom tất cả những kẻ vô gia cư vô nghề nghiệp. Một cách làm sạch đẹp thành phố thôi, như nhân viên vệ sinh thu gom rác rưởi. Mớ rác rưởi này không thu gom để đốt đi, chúng được tống lên các trại học tập cải tạo, gọi là trường công nông nghiệp cải tạo, để làm ra của cải vật chất, xây dựng đất nước, thực chất của nó là những trại tù khổ sai. Khi nào học tập tốt thì về…

    Tôi cũng là một tên tù tập trung cải tạo lao động, tội vượt biên. Dĩ nhiên tôi phải lấy một tên giả, một lý lịch giả và cả địa chỉ giả như nhiều người vượt biên khác. Điều này thì chủ tàu dạy cho tôi. Tôi cùng 200 người đồng bọn từ Chí Hòa lên đây, dù bị bạc đãi nhưng không bị bạc đãi bằng các tù hình sự. Dù sao chúng tôi cũng có cái mẽ bề ngoài. Ra vẻ có tiền có bạc, được thăm nuôi. Bỏ ra 3,4 bốn cây vàng để thoát thân, bỏ quê hương mà đi, chứ chẳng lừa đảo ai cả, cũng không phải phường trộm cắp. Dù sao cũng nhiều tính tốt hơn tính xấu. Tôi không có xu mẹ nào mà cũng vượt biên, đó là do chỗ thương tình của chủ tàu với tôi, có lòng giúp đỡ tôi thôi. Nhưng vào nơi tù tội này tôi được thơm lây tội danh tù vượt biên. Lên trại học tập này mới đầu tôi làm thầy giáo để dạy học cho tù hình sự mù chữ. Sau này leo lên chức đội trưởng đội 10, mang danh là đội tự quản không bị canh chừng, đội 10 là trái tim của toàn trường, đội trưởng đại diện cho tất cả các đội trưởng khác. Tôi trở thành kẻ có đức cao vọng trọng. Sĩ quan cao cấp, các đội trưởng ở các đội khác cũng được coi là sĩ quan nhưng dĩ nhiên không cao cấp bằng tôi, cho đến bây giờ tôi cũng không biết tại sao người ta lại gọi lũ chúng tôi là sĩ quan nữa, tôi thì như con gà chết, chẳng có uy chút nào. Các đại bàng các quỉ sứ cũng được coi là sĩ quan. Còn tất cả bọn tù là lính là lâu la.
    Cuộc sống của tôi trở nên nhàn nhã, một buổi dạy học, rồi dắt đội 10 tên ”bể càng gẫy gọng” đi trồng điều quanh trại rồi về. Lên căng tin do tù nữ bán uống cà phê, không tiền sẵn sàng có người trả. Buổi tối ở trong lán trại chán nghe quay phim thì xách đèn ra ngoài trại, đến nhà út Chung, nguyên là trại trưởng mất chức, uống rượu giải sầu. Ông ta còn được ân huệ coi như về hưu non, làm nhà bên suối sống chung với một người đẹp, nguyên là gái làng chơi, trước ở trong trường công nông nghiệp cải tạo này. Ông út Chung, giám hiệu bị tiếng sét ái tình đánh trúng, vì tình yêu, ông đành rút khỏi chức vụ mà ông đã phải bỏ ra 30 năm vun trồng rồi về nhà bên suối vẽ lông mày cho người đẹp, tình yêu lãng mạn như tình sử Trác Văn Quân với Tư mã Tương Như. Mặc tiếng đời dị nghị, mặc luôn cả sự nghiệp ông đã vun trồng, kể cả chức đảng viên của ông.
    Bà út Chung đã là người hoàn lương, chán nơi giang hồ gió tanh mưa máu về ở bên người chồng luống tuổi, nửa đời người theo cách mạng, từng tập kết ra miền Bắc rồi lại chẻ dọc Trường Sơn trở về giải phóng miền Nam đến lúc thành công. Hai ông bà bây giờ có một tiệm tạp hóa, bán đồ cho tù có tiền và dân quanh vùng. Ông út vác cần câu đi kiếm thêm lương thực, kiếm vài ba con cá làm đậm đà thêm bữa nhậu, đặc sệt mùi Nam bộ, đêm xách súng vào rừng cũng có khi săn được con nai con nhím, xẻ thịt bán cho tù có tiền. Có những đêm trời tối, ông ngồi khề khà với xị rượu, nói chuyện đời chơi cho đỡ buồn. Ông mến tôi bởi tại tôi thường nói chuyện Hà Nội với ông, một vùng đất ông đã sống một thời gian dài thuở ông đi tập kết. Tôi ra khỏi trại, xách cái đèn bão đến nhà ông Út, cái đèn cũng của ông cho mượn. Ông Út nói:

    - Mày tắt đèn đi tiết kiệm dầu, khi nào về hãy châm lên. Coi nào, còn dầu không, khi nào hết tao đổ thêm cho. Về khuya tắt đèn vào trại thì khốn đó, không phải thằng nào cũng như tao đâu, mày gặp thằng Tư AK là bỏ mẹ. Nào ngồi xuống đây làm một chung, rượu ngâm với rễ cây huyết rồng ra màu đẹp đáo để, tao lại ngâm thêm cái bao tử nhím, cả chục con tắc kè còn nguyên đuôi.

    Toàn là những chuyện tào lao giải sầu:

    - Ngày hôm nay tao vào trại, nhà các cán bộ ở, tao nghe thằng Nội đang tập hát bài: Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu..Đôi tay ngọc ngà dương gian tình ái bay theo mây trời..Hà Nội ơi biết ngày nào gặp nhau, biết tìm về nơi đâu..ân ái trao nàng mấy câu…Thăng Long ơi..năm tháng đã xa thật rồi..Không biết một thằng tù vượt biên nào đó dạy cho nó. Nhưng nó hát dở quá. Tiên sư cái thằng đó nó cứ tưởng nó là “giai” Hà Nội,thật ra nó là người dân tộc mạn ngược tao còn lạ gì. Có phải bài hát đó làm từ năm năm tư, bọn Bắc kỳ chúng mày di cư vào miền Nam không?

    - Đúng vậy anh Út à!

    Út Chung vỗ đùi đến đét một cái:

    - Tao biết ngay mà, khung cảnh Hà Nội trong bài hát đó, tao thấy không giống như Hà Nội thời tao tập kết ra ngoài đó. Nhưng hay và tình tứ quá đi. Chừng nào mày ra Hà Nội nhớ đi ăn bánh tôm Hồ Tây nhé. Hôm nay nhậu mà có mấy viên lạc rang húng lìu thì tuyệt cú mèo. Hồi đó tụi tao nhớ miền Nam nhậu rượu quốc lủi với mấy viên lạc rang húng lìu mà thấy ngon quá xá quà xa.

    - Lạc rang húng lìu của lã? Tàu bán bên bờ hồ Gươm mới thật là ngon.

    - Lão chết rồi, tao ra Hà Nội mấy năm thì lão chết. Sau này cũng có lạc rang húng lìu, nhưng không bùi thơm ngon như của lão Tàu, nghề rang lạc của lão bị thất truyền, người Tàu thâm lắm.

    - Tôi nghiện ăn lạc rang của lão Tàu từ bé, buổi tối trời lạnh có một gói lạc rang của lão gói giấy quấn bồ đà không có gì thú vị bằng.

    Câu chuyện chỉ tào lao như vậy đến lúc tôi ra về. Út Chung tỏ ra quan tâm đến tôi:

    - Mày để tao đưa mày về, cứ thắp đèn lên cho bọn lính canh coi cho rõ.

    - Tôi còn phải đi lên nhà phát điện, máy móc không biết chạy ra sao mà cứ lập lòa lập loè.

    - Ừ phải, tao cũng phải xin một ngọn điện của trại cho nhà tao, hôm rồi tao có xin, nó biểu tao phải làm đơn, thiệt là mệt, nhưng được thôi, khi nào tao làm thì mày kêu lính kéo dây cho tao nhé.

    - Xong ngay mà anh Út.

    Đi bên cạnh út Chung , anh ta nói chuyện oang oang. Lính canh trên vọng gác nhận ra ngay.

    o O o

    Bọn tù mới bị lùa ra trước trạm xá để khám sức khoẻ. Tôi nghe tiếng la hét trong trạm xá vọng ra. Cô y tá cũng là tù vượt biên mặt đỏ bừng chạy ra, gặp tôi, cô ta nói:

    - Kỳ quá thầy ơi, tôi không khám đâu.

    - Cái gì vậy Hồng Các?

    Cô ta không trả lời mà chạy thẳng về đội mình. Sao thế hở, tôi chạy thẳng vào trong trạm xá. Có hai thằng tù bị lột trần truồng còng dang hai tay lên tường. Thằng pê đê giả gái có khuôn ngực no tròn như ngực con gái dậy thì, đây là cái trò bơm sê li côn của mấy anh lang băm thẩm mỹ viện rẻ tiền. Nhưng phần hạ bộ của nó lại là đàn ông trưởng thành bình thường, thật chẳng ra làm sao. Thằng điếm đực thì bị kẹp vào đầu dương vật đến 5 cái kéo kẹp bông y tế thường dùng để rửa vết thương, những cái kéo này lại kẹp thẳng vào thịt, bấu thịt ra. Thằng đó đang la hét vì đau đớn, 5 cái kéo bỏ lòng thòng xuống háng coi mà khiếp. Một thằng quỉ sứ bóp vú thằng pê đê, nhồi như nhồi bột, hắn nham nhở ra mặt. Tôi la lên:

    - Thằng kia, mày làm gì người ta thế?

    - Em trừng phạt nó cho chừa thói lưu manh, nó chuyên lừa gạt những tay chơi lương thiện.

    - Mày tội gì?

    - Em cũng là lưu manh, nhưng em đã học tập tốt nên chừa rồi, em dạy lại tính lương thiện cho thằng này thôi mà.

    Trời ơi là trời, một bọn quỉ sứ trên địa ngục trần gian. Tôi thầm kêu lên như vậy. Tôi quay sang thằng bị kẹp dương vật:

    - Còn thằng này nữa, sao tụi bây làm vậy, thả nó ra.

    Một thằng quỉ lên tiếng:

    - Dạ không dám đâu, cán bộ Tư AK làm đó, cán bộ muốn xem nó lận bi cách nào, cán bộ đi lên căng tin rồi, anh muốn xin cho nó thì đi gặp cán bộ.

    Tôi gặp cán bộ trên căng tin, nói với ông ta điều đó. Anh cán bộ Tư AK cười hề hề:

    - Được thôi, tôi sẽ lận mấy hòn bi của nó ra xem rồi thả, tôi nghe nó khai học được phương pháp lưu manh này của mấy thằng tù lưu manh người Thái Lan, làm tăng khoái cảm cho phụ nữ. Trừng trị lưu manh mà, anh đừng xía vô lại mang tội dung dưỡng lưu manh đó.

    Tôi thua như nhiều lần thua khác trong đời... Buổi tối về phòng, cảnh tượng còn man rợ hơn với thủ tục “chào phòng” áp dụng cho bọn tù mới. Do bọn quỉ sứ đầu trâu mặt ngựa thi hành, cũng như lần đầu chúng tôi bị đưa lên trại này. Ngày đó cơ khổ với bọn quỉ hèn hạ này, chúng bóc lột từ cái đồng hồ, cái kính đeo mắt đến khâu vàng, tí tiền còm lận túi. Roi vọt đấm đá trên thân thể chúng tôi. Mà phải chịu đấy, dù nhà tù làm bằng tre rất mỏng manh, xem ra đồng tâm mà trốn đi cũng chẳng mấy khó khăn. Ban giám thị trại cố tình duy trì tình trạng đó, làm thành truyền thống để tù trị tù, chính nó là bức tường vững chắc nhất, ở đây chỉ có bạo lực, không có một chút lòng nhân ái hay tình người. Những tên tù không thể thoát ra được, đành cam tâm làm số phận nô lệ rồi tìm cách vượt lên. Những giỏ thăm nuôi hậu hĩnh, những đồng tiền gia đình gửi cho biến đổi dần số phận những tên tù vượt biên. Tôi tuy không có gì nhưng có một chút ít chữ nghĩa, rất hiếm hoi trong trại tù khổng lồ này, gọi là trường giáo dục công nông nghiệp cải tạo. Tôi đi dy học, và dy luôn cả con cái cán bộ, nơi chưa có một trường tiểu học cho ra hồn. Trong khi nhà nước có chủ trương giáo dục người lầm lỡ. Tôi lại có tài đánh máy chữ nhanh như gió, làm được đủ thứ đơn từ nên được hậu đãi thôi. Tôi chán đời ra mặt chẳng nghĩ đến ngày được tha, nên ban giám hiệu không sợ tôi trốn trại, tôi muốn đi đâu thì đi, chẳng ai phải canh chừng.

    Bọn tù mới được xếp nằm trên sạp tre, không nhúc nhích, xếp như xếp cá hộp. Để dễ kiểm soát chúng phải tự đếm số từ số đầu tiên đến số cuối cùng. Thằng ngợm nằm cuối cùng, cách xa hẳn tập thể vì nó đáng ghê tởm và hôi thối quá. Đánh đập nó bẩn cả tay, bẩn luôn cả gậy gộc roi vọt. Người ta còn miễn luôn cho nó đếm số, vì nó nằm sát với cầu tiêu hôi thối không thua gì nó. Người ta đặt tên cho nó là thằng Ngợm Quái Vật. Một lát trong tiếng đếm số đều đều, tôi nghe tiếng la của thằng đại bàng trật tự:

    - Ê thằng số 15 kia, mày ngồi dậy chi vậy, trốn trại hả?

    Thằng số 15 giải thích:

    - Không có đâu, em đau bụng muốn đi cầu.

    - Đi cầu cũng phải giơ tay báo cáo xin phép, các sĩ quan cho phép được đi mới đi, còn sĩ quan nói “cai” thì rán mà chịu, ở đây chúng tao bắt mạch đúng bệnh còn hơn bác sĩ kìa. Cho phép mày xuống đây, móc hai giò lên sạp nằm, thằng Tí Cò đâu đá vô mang nó cho tao, nếu nó vọt cứt ra thì bắt nó dùng tay hốt vô cầu tiêu, thi hành bản án.

    Khỏi có xin xỏ khóc lóc chi hết, quân lệnh như thái sơn, tôi cũng phải làm ngơ, không nên giẫm chân lên nhau ở nơi ”thượng tôn pháp luật” này, dù luật pháp đó là thứ luật gì, những cái đá hự hự và tiếng la hét, tiếng van lạy của kẻ bị đòn. Tiếng thằng quỉ sứ dữ dằn, cay nghiệt:

    - Móc giò lên, tao đá lại, chừng nào vọt cứt ra thì tha. Chết bỏ mày biết không, chỉ cần một tờ báo cáo.

    Đêm trôi trong những hình phạt rùng rợn của con người với con người, cũng là cuộc giải trí thú vị với các loài quỉ dữ. Thằng Ngợm Quái Vật nằm thu lu một đống cuối lán trại, hình như nó ngủ say, không cần biết chuyện gì đang xảy ra. Tôi thì thắc mắc về nó, không nhớ ra tôi đã gặp thằng này ở đâu. Tôi lục tìm dĩ vãng, bới tung lên mà vẫn không thấy. Đến sáng tôi cũng không thể nào nhớ ra.

    o O o

    Thằng Ngợm Quái Vật mỗi ngày thêm dơ bẩn, dù rằng bây giờ nó đã được phát bộ quần áo tù để đi lao động. Nhưng mùi xú uế ở con người nó tỏa ra đến là khiếp, khiến chẳng ai dám đến gần. Mùi ở người nó toát ra như mùi chồn hôi. Bọn tù nói rằng đến đi cầu nó cũng không lau chùi như con người. Chỉ có con vật mới không làm chuyện đó. Sự ăn uống của nó cũng như cách ăn của con vật, bốc bải nhai nuốt, vũng nước nào nó cũng vục miệng xuống uống được. Hình như các loại vi trùng đều miễn nhiễm với nó. Người ta thây kệ nó, nó như con vật bị bỏ quên trong tập thể. Rồi một đêm thì nó biến mất. Buổi sáng bọn trực phòng la lên:

    - Thằng Ngợm Quái Vật trốn trại rồi.

    - Nó trốn ngoài bãi hay ngay trong lán trại?

    - Ngay trong lán trại mới thần tình chứ.

    Thằng Tí Cò trả lời. Cửa khóa bên ngoài, sau khi đội 10 về đủ, sự canh gác cẩn mật như vậy thì nó trốn đi bằng đường nào. Nhưng rồi người ta cũng điều tra ra. Chỉ có cái lỗ cầu tiêu, bên dưới là cái thùng phân đổ nghiêng, phân đổ tung toé. Một cây thang ngang trên cầu tiêu bị long đinh. Một con người có thể chui lọt, nhưng dơ bẩn quá, từ lỗ đó thoát ra ngoài lán trại, ra hàng rào tre có thể vẹt một lỗ chui ra, thoát khỏi trại. Bọn quỉ sứ coi lán trại đêm hôm đó phải chịu trách nhiệm vì đã đánh mất một con người. Ban giám hiệu nhà trường căn cứ vào danh sách thì thằng Ngợm Quái Vật là một con người lao động quí giá. Đánh mất một con người thì phải đền. Vị cán bộ phụ trách ban văn thư nói:

    - Mặc kệ các anh, tên Nguyễn văn Tèo là người, cách mạng tôn trọng con người, các anh đánh mất nó, các anh phải đền, phải bị chồng án lao động thay cho nó, chỉ có thế thôi.

    Bọn quỉ sứ đầu trâu mặt ngựa này có cái đít khô mà đền à, cuối cùng giải quyết bằng cách ban giám hiệu phải cho một toán đi lùng tìm, có cán bộ võ trang đi theo kềm cặp. Đến buổi trưa thì ban săn tìm bắt lại được thằng Ngợm Quái Vật. Nó bị lùa đi trước, bọn đầu trâu mặt ngựa đi sau phang đập thằng Ngợm Quái Vật chí tử. Cán bộ võ trang đi sau rốt kèm súng coi chừng. Cán bộ giám hiệu đứng trên thềm nhà ”khung” quát tháo hỏi:

    - Mày tên gì?

    Ông ta bịt mũi, xua tay, hình như cũng chẳng buồn nghe câu trả lời, nhưng thằng tù trốn trại vẫn phải sợ sệt trả lời:

    - Tôi tên Ca… si… mo… đô…

    Một thằng la lên:

    - Láo, mày tên Tây à, vào đây còn nói láo.

    Ông cán bộ giám hiệu xua tay:

    - Tao đã nói, mang nó ra suối dìm nước tắm rửa cho nó, rồi cùm lại, có sạch sẽ mới ngồi trước cán bộ hỏi cung được chứ.

    Thằng Ngợm quái vật không nói láo, nó nói thật tên của nó, hèn chi bấy lâu nay tôi thấy nó quen quen mà không nhớ ra. Nó là thằng Quasimodo, ở sân cỏ trường đại học Văn Khoa thuở nào, Khám Lớn Sài Gòn xưa thời ông tổng thống Diệm được đập phá đi, để mị dân, rằng chế độ của ngài không có nhà tù, đất đó để xây Thư Viện Quốc Gia, trường đại học Văn Khoa, hội Họa Sĩ Trẻ, tất cả đều dính dáng đến văn hóa, ngay giữa lòng thành phố. Thư Viện Quốc Gia ngày ấy chưa xây dựng, còn để một khoảng đất trống, cỏ mọc nhìn ra đường Gia Long. Thằng bé vừa gù vừa xấu xí xuất hiện tại bãi cỏ này, nó nguyên không có tên, sinh viên Văn Khoa thấy hình thể nó dị hợm nên đặt tên cho nó là Quasimodo, nhân vật thằng gù trong tiểu thuyết Notre dame de Paris của văn hào Pháp Victor Hugo. Trên bãi cỏ rộng ấy, sinh viên mở quán cà phê, cũng là nơi trình diễn văn nghệ. Tôi là một nhà báo trẻ thường đến đó chơi mỗi chiều, cùng mấy người bạn nghệ sĩ chưa thành danh. Nhạc sĩ họ Trịnh, ca sĩ Ly Ly từ Đà Lạt xuống. Thằng Quasimodo coi cổ quái như vậy mà hiền khô, trung thành với mọi người chủ trên bãi cỏ, ai sai gì làm nấy, ai cho gì ăn nấy. Sai đi mua gói thuốc lá, tiền thối lại người ta cho nó, nó ra mua cái bắp nướng phết hành mỡ ngồi gặm ngon lành. Ngày đó nó không đến đỗi bẩn ghê tởm như bây giờ. Quần áo cũ người ta cho nó mặc tuốt, đêm ngủ ở bậc thềm trường đại học Văn Khoa, hay hàng hiên hội Hoạ Sĩ Trẻ.

    Sau năm 1975, sẩy đàn tan nghé, tôi không còn gặp thằng Quasimodo nữa, tôi nghĩ nó đã chết rồi, cái thân tôi còn lo không xong nữa mà nghĩ đến ai. Hôm nay nghe nó nói tên Quasimodo, tôi lại nhớ ra, một cái tên huyền thoại ai tin cho được. Nhưng cái tên đó lại bật sáng trong đầu tôi. Tôi nhớ lại tất cả, thì ra nó cũng là một con người. Một con người khao khát tự do, làm nên một cuộc trốn trại vô tiền khoáng hậu. Cuộc trốn trại không rùng rợn mà rùng mình vì ghê tởm dù không làm đổ máu ai cả. Chưa một con người nào dám làm điều đó, nơi nó về hưởng tự do của nó ở đâu, ai biết, và nó về với ai, cũng chẳng ai biết được.

    Thằng Quasimodo bị giam ở căn nhà vách đất kia, ngay cạnh lán trại tôi đang ở. Căn nhà đó nguyên là nơi khâm liệm những tên tù chẳng may mạng vong. Thường thì bỏ hoang… Tôi bới giỏ đồ thăm nuôi lấy ra một gói mì, một tán đường và một bọc ni lông cà phê. Tôi cầm những thứ đó xuống nhà giam thằng Quasimodo. Cửa không đóng, mở toang hoang. Thằng Quasimodo bị cùm bằng ống tre chẻ dọc, khoét hai lỗ bỏ vừa hai cổ chân rồi đóng chốt ở hai đầu cây tre. Quasimodo bị trói ngồi dựa tường, nhưng hai bàn tay hắn được tự do, nhưng vẫn không thể với tới dây trói. Người y cũng đỡ hôi thối sau cú tắm suối, quần áo hắn thì ướt mèm đang khô. Tôi đưa hắn gói mì, tán đường và bọc cà phê:

    - Ắn uống đi Quasimodo.

    Đôi mắt như hai cái lỗ thao láo nhìn tôi, hắn chưa ăn mà nhìn, tôi thấy hai tròng mắt của hắn đảo lên đảo xuống trong hố. Tôi hỏi:

    - Mày có phải là Quasimodo không?

    Gã gật đầu:

    - Phải, tên trước kia.

    - Chắc mày nhớ bãi cỏ trường đại học Văn Khoa?

    - Nhớ, cũng lâu rồi...

    Trong đầu hắn chắc chắn còn ý niệm dĩ vãng. Tôi nói:

    - Thôi ăn đi.

    Dù tôi nói thế, nó vẫn chưa ăn, nó nhìn tôi chăm chú. Tự nó nói ra:

    - Tôi trốn đi, tôi muốn về nơi đó.

    Quasimodo nói nơi đó là nơi nào, không xác định. Trong đầu óc sâu thẳm của nó đang nghĩ gì, chỉ mình hắn biết. Tôi chẳng hỏi thêm. Khi tôi quay trở ra, hắn nói với theo:

    - Thầy có nhờ tôi mua thuốc lá không?

    Tôi không trả lời, nhưng tôi biết nó đã nhớ lại tất cả. Sân trường đại học Văn Khoa, bãi cỏ và có thể cả tôi nữa. Giấc mơ tự do của nó không hoang tưởng. Hiện giờ thì hắn đang thụ án, trả nợ cho giấc mơ tự do của gã.

    o O o

    Đã 15 năm qua rồi, tôi không gặp lại Quasimodo lần nào. Không biết y còn tồn tại trên thế gian này không? Giấc mơ tự do của hắn không hoang tưởng thì đi đến đâu rồi?! Sân trường đại học Văn Khoa, bãi cỏ Thư viện Quốc Gia nay không phải nơi dễ ra vào.
    Nguyễn Thụy Long

Tết này anh trở về
  • Cô Hai Nguyện săm soi mớ dưa giá trắng phau phau trong chiếc thau nhôm. Cọng giá mập mạp thấy thương hết sức! Ðiểm vào đó là những cọng hẹ xanh biếc. Tui có biệt tài nấu bất cứ món rau cải nào cũng giữ được màu xanh. Rau lang luộc, rau cải trời luộc, rau giền, mồng tơi, bồ ngót, cao kỷ nấu canh xanh tươi ngăn ngắt. Còn tui mà xào cải bẹ với thịt gà thì màu cải khi chưa vô chảo chỉ xanh có bảy, đến khi ra dĩa nó xanh tới mười, vừa xanh vừa trong, đẹp dễ sợ!
    Năm nay cô Hai Nguyện tính ăn Tết tươm tất hơn năm ngoái. Cô đã lựa con cá lóc vừa bự vừa mập để kho chung với thịt bắp đùi, nước kho phải bằng nước dừa xiêm tươi thì cô mới bằng bụng. Có nồi thịt cá kho chung đệm trứng luộc để dành ăn với bánh tét hoặc bánh chưng của cô Ký người Bắc thì phải điệu quá rồi, ăn lai rai, ăn hoài hoài tới hạ nêu cũng không ngán. Bánh tét ăn với món kho phải đệm thêm dưa giá, dưa cải hoặc củ kiệu, củ hành ngâm giấm thì mới nổi vị mà không ngán. Bởi vậy cô Hai Nguyện cùng hai đứa con gái lớn, Trang và Hiền, làm đủ thứ dưa. Trang trổ tài làm khéo, mua củ cải trắng, cà rốt, đu đủ xanh để tỉa bông huê, chim bướm trước khi ngâm giấm, coi vừa đẹp lại vừa ngon!
    Sáng 30 tháng chạp ta, cô Hai Nguyện thở một cái phào, khoan khoái hết sức. Nồi cá thịt cùng trứng luộc kho chung đã xong. Cô còn làm thêm nồi giò heo hầm với măng, nồi khổ qua dồn thịt bằm với bún tàu, nấm mèo nước trong leo lẻo, niêu tôm kho tàu nước gạch đỏ ối…Chiều nay cô mới mổ gà nấu cháo kèm gỏi gà trộn bắp chuối, rau răm để cúng rước ông bà.
    Cô Hai Nguyện đã lau chùi, quét tước nhà cửa, bàn thờ ông bà. Lư hương, chân đèn, mâm cổ đồng đã đánh sáng loáng. Trên vách, cô treo bộ tranh tứ quí màu sắc tươi rói. Trên các cột hàng ba, cô dán liễn bằng giấy hồng đơn, chữ thảo mực tàu đen lánh. Năm nay cô chỉ mua một cặp cúc vạn thọ màu hoàng yến, một cặp mồng gà lưỡi búa đỏ để bày trong sân. Bánh phồng, bánh tráng, bánh tét thì đã có má cô là bà Hương kiểm Thiện ở chợ Trường an cho ê hề. Còn mứt thì cô mua ở chợ Vĩnh Long. Hai hộp mứt hình trái tim gói giấy trang kim lấp lánh cài cái nơ sa-teng hường coi mê quá! Trong hộp, mứt củ cải và mứt bí như dồi phấn, mứt khổ qua tươi nước cốt cỏ rồng chầu xanh như cẩm thạch, mứt cà-rốt màu gạch mới, mứt cà-chua đỏ như son tàu, mứt nào cũng khéo ơi là khéo, bỏ tiền ra mua giá phải chăng, tội gì mà làm cho mệt để lãnh cái thua sút, thô kém!
    Dữ ác! Năm nay không hiểu ông ứng bà hành gì mà cô Hai Nguyện phấn khởi đón xuân như vậy? 5 năm qua, thằng bảy Huỳnh Kim Báu, thằng chồng trời đánh thánh đâm của cô đã bỏ nhà theo vợ bé, trôi nổi ở chơn trời góc biển nào rồi. Hễ cở 10 năm mà nó không về, hoặc cô không tìm được tung tích nó, thì cô đành lấy cái ngày nó ra đi để làm đám giỗ. Thây kệ, ai quấy ai sai có trời cao đất dày, có nước mây cây cỏ chứng giám. Thằng Bảy kia dù gì cũng là tía của lũ con cô. Bên chồng cô kể từ khi biết nó ăn ở tệ bạc với cô, họ đâm ra thương mến cô. Bởi đó tuy giận nó, cô vẫn không nỡ để lũ con cô quên nguồn cội, tổ tông.
    5 năm qua, một thân đàn bà yếu đuối, cô Hai Nguyện vẫn phải đảm đương mọi việc mưu sinh. Cô mua lúa đem tới nhà máy chà gạo rồi đem gạo ra bán ngoài chợ.Con Trang vừa học xong đệ lục phải bỏ học ngồi trước rạp hát bóng Lạc Thanh bán quà vặt như cốc, ổi, xoài dầm chua, me ngào đường... Con Hiền thì ở nhà coi việc bếp núc, dọn dẹp. Chỉ có thằng Ðức được đi học. Nhờ trời thương Phật độ,má con cô lần hồi đủ ăn.Tối tối Trang đi xuống cầu Cái Cá học nghề luôn áo vắt sổ nơi cô Tám Kim Chi, em kế ba nó. Tới năm ngoái, bà nội nó mua cho nó cái máy vắt sổ để nó trả góp. Nhờ luôn áo khéo, vắt sổ tính giá phải chăng nên nó có khá nhiều khách hàng.
    Năm nay con Trang 18, sáng đẹp như trăng rằm. Con nầy lanh lợi, biết phải quấy, ăn nói mực thước, lớp lang nên được lối xóm mến yêu, bạn bè trang lứa nể nang. Còn con Hiền 15 tuổi mà khờ khạo lắm! Nước da nó trắng hơn con Trang, vóc vạc thanh cảnh, thân hình đã bắt đầu dậy mẩy. Chiều chiều nó ưa mượn cáo quần xăng-đầm của cô Hai Nguyện mặc vào rồi kéo quần lên tới ngực buộc chặt, nhảy xuống cái đìa bên hông nhà tắm lội đùng đùng như cù dậy. Một hôm ngủ đêm sáng dậy, nó thấy máu từ quần loang ra ướt mền, ướt chiếu, nó hoảng hồn gọi cô Hai Nguyện, mếu máo kể lể: ”Má ơi, con hay tắm đìa nên chắc đĩa chui vô người con làm ổ, máu me nhểu tùm lum đây nè!” Cô Hai an ủi: “Hễ làm đờn bà con gái, tới tuổi dậy thì là mỗi tháng máu tuôn ra rỉ rả như vậy đó, không sao đâu con”.
    Nhìn hai đứa con gái, cô Hai Nguyện tự hào, nhủ thầm: “Tui không được đẹp nên không giữ nổi thằng chồng mắc dịch, bị nó phụ bạc bỏ lăn bỏ lóc. Bù lại, tui được bầy con hiếu hạnh, ngoan ngoãn. Con Trang sắc sảo, con Hiền đoan trang, thằng Ðức siêng năng, tuy giống ông già nó như đúc nhưng thằng tía nó mặt mày dúc dắc, lẳng lơ bao nhiêu thì thằng con nghiêm trang, đằm thắm bấy nhiêu. Từ ngoài đầu ngõ, Trang và Hiền la chói lói:
    - Má ơi, ba dìa! Ba dìa má ơi!
    Cô Hai Nguyện đang ngồi xắt su hào, vụt đứng dậy, mặt xanh dờn như đờn bà xảo thai. Nhưng cô không nhúc nhích, chơn cẳng như chôn chặt trong đất. Thằng Ðức tưởng má nó chưa nghe kịp, nhắc:
    - Ba dìa má à. Ba dìa thiệt mà!
    Cô Hai Nguyện vụt tỉnh cơn bàng hoàng, ngây ngất. Thằng chồng ôn dịch của tui về? Nó còn dám vác cái bản mặt chai mày đá về đây làm gì? Tưởng nó chết bờ chết bụi, không bỏ xương trong miệng cọp thì cũng gởi thịt trong bụng sấu rồi chớ! Ai dè nó còn xách đít về đây để tui tức thiếu điều trào máu hòe ra khỏi họng. Cô rít lên:
    - Thây kệ mồ nó!
    Cô ngoe nguẩy ra ngoài vườn, ngồi trên cây sung gie ra mặt ao. Hừ, thằng khốn nạn Bảy Báu, thằng chồng oan gia của cô, 5 năm nay đi theo con Tư Mỹ Huệ, chẳng hiểu nó có phỉ chí trong thú yêu đương, hay bị con dâm nương kia hành thân hoại thể? Hồi nó gây gổ, bỏ cô đi theo con Tư, cô hăm he:
    - Mầy đành đoạn bỏ tao mà đi theo bợ đít mấy con thúi thây lầy cốt, mai sau mầy vác mặt về đây là chổi nhúng đường mương, chổi dọn chuồng heo tao sẽ quét mầy ra khỏi nhà, biết chưa?
    Tên Huỳnh Kim Báu đã mặt trơ trán bóng, bảo:
    Con cá buôi quạt đuôi ra biển Bắc,
    Bơi dọc lộc ngang, không chắc trở về.
    Ôi 5 năm qua, ngày ngày cô làm lụng đầu tắt mặt tối để kiếm miếng ăn. Ðêm đêm, càng nghĩ tới thằng chồng lòng lang dạ thú kia mà tay chân cô lạnh ngắt, ngực cô nặng trĩu, châu lụy cô tuôn rơi đồm độp:
    Cu kêu từng cặp trên cây
    Tào khương nghĩa nặng, sao mầy bỏ tao?
    Ngồi trên cành sung, cô Hai Nguyện lắng tai nghe tiếng lao xao từ trên nhà vọng tới. Có lẽ chòm xóm tới chào hỏi thằng chồng đi hoang của cô đó mà. Xời ơi, họ chỉ biết nó là thằng hàng xóm dễ thương chớ đâu thèm biết tới cái tánh bạc bẽo, ưa thay đào đổi mận của nó! Còn lũ con cô đó, bởi sợi dây huyết thống thiêng liêng, thấy tía nó về là mừng rối rít. Lá rụng về cội mà! Tụi nó quên tuốt luốt cái thói vô trách nhiệm của tía tụi nó, quên lúc tên Bảy Báu bỏ nhà ra đi, 4 mẹ con đổ mồ hôi hột ra vật lộn kiếm miếng ăn, chơn chạy không bén đất. Ðã bao phen đi bán gạo về, thay vì nghỉ ngơi, cô hăng hái ra sở rẩy sau nhà để săn sóc 10 luống dưa gang. Tháng bảy âm lịch vừa rồi, cô trúng mùa dưa. Cô bán mớ dưa chín mềm, còn kỳ dư loại dưa cứng cạy, cô bán cho các vựa mắm để họ gài mắm. Vốn là dân làng Tân Ngãi nên cô rất mát tay trồng dưa:
    Dưa Tân Ngãi, bự trái dầy cơm,
    Dẫu mình không nợ, không duơn,
    Tháng bảy, tháng tám mau chơn trở về...
    Té ra, Tết nầy chồng cô trở về! Cơn giận làm trái tim cô nhảy ạch đụi trong lồng ngực. Thiệt tình cô Hai Nguyện không oán cô Tư Mỹ Huệ. Cô có bao giờ gặp mặt con tình địch nầy đâu! Nhiều lần cô suy nghĩ, biết Bảy Báu là thứ tham thanh chuộng lạ, hết đèo con nọ tới xọ con kia. Cô đã từng nhiều phen trách ai tham giấy bỏ bìa; khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa...Chồng của cô nếu không dính con Tư Mỹ Huệ vốn là gái điếm chợ Lách thì cũng rượn theo con Bảy Kim Hoàng ở Cái Nhum,cũng lẹo tẹo với con Mít con Xoài,cũng mê say con Ổi con Lựu nào đó..Trước con Tư Mỹ Huệ, Bảy Báu cũng đã từng cặp xách hết con ngựa bà nầy lại du dương mùi mẫn với con đĩ chó khác. Cô Hai Nguyện đã từng ốm o so bại, mình mẩy mỏng lét, da dẻ xanh chành vì ghen. Ngày tối cô đâu có làm ăn gì cho an ổn được! Cô cứ rình rập để bắt gian phu. Cô hết ghịt tóc lột quần tình địch lại đè đầu đè cổ chồng ngắt véo, đánh vả. Cô phung phí hơi sức chửi bới la rầy chồng tới mỏi miệng rát cổ, ran ngực thốn tim. Chồng cô lúc nào cũng nhịn cô, mặt mày lấm la lấm lét, mắt mũi dớn dác, lơ láo... Vậy mà đời nào nó chừa thói ngoại tình, bỏ tật phong nguyệt cho cô nhờ! Mà cắc cớ thay, ông trời ổng sanh chi cho cô cái tánh lạc lòng. Chồng cô mỗi khi chán mèo hoặc bị mèo đá đít là quay về với cô, dùng giọng kèn tiếng quyển lung lạc khiếng cô xiêu lòng ăn ở với nó, để nó bơm cho cô một cái bầu bự chình ình. Hễ cô vừa đẻ xong là nó đánh lừa đánh đảo cô để đi ve vãn,tò tí mấy con khác rồi quất ngựa chuối bôn đào.

    ° ° °

    Bảy Báu xách chiếc valise bự tổ chảng, tay kia bồng một thằng nhỏ cỡ hơn một tuổi đứng tần ngần trước ngõ. Trang vồn vã:
    - Ba vô nhà đi ba, kẻo nắng. Không sao đâu!
    Bảy Báu gượng làm tỉnh:
    - Ừ, có sao đâu! Nhưng ba nhờ tụi bây năn nỉ má tụi bây dùm ba một tiếng.
    Hiền rụt rè hỏi:
    - Con của ai đây ba?
    Bảy Báu tỉnh tuồng:
     - Em của bây đó đa. Ba đặt tên nó là thằng Phước. Má nó chết rồi. Ba vừa làm tuần bách nhật cho cổ hôm qua.
    Ðứa nhỏ thiệt dễ thương, mập mạp trắng trẻo. Nó giương cặp mắt đen huyền như hai hột nhãn, nhìn hai cô gái rồi cười hịch hạc, thấy thương đứt ruột. Trang sốt sắng:
    - Ba đưa em cho con bồng. Vô nhà mau đi ba.
    Khi 4 cha con vô nhà thì Hiền đòi bồng em lấy hên rồi hun thằng nhỏ chùn chụt. Trang giằng lấy thằng nhỏ, hun ngay cái nọng của nó, đả đớt:
    - Mèn ơi, cưng của chị “Chang” thơm “xữa” quá “chời” quá đất!
    Hiền xía vô nựng đứa nhỏ, miệng tía lia:
    - “Chắng” gì mà “chắng” như dừa nạo, như bông bưởi vậy nè “chời”!
    Thằng Phước nhột quá cười sằng sặc. Chu choa ơi, hoàn cảnh côi cút của đứa nhỏ cùng sợi dây huyết thống đã làm hai cô gái yêu thương đứa em khác mẹ của mình tức thời. Hai cô gái giống mẹ ở chỗ ưa con nít. 3 mẹ con hễ rảnh rang là dạo xóm, thấy con ai cũng bồng, cũng hun hít, cũng nựng nịu. Cô Hai Nguyện ưa làm bánh chuối, kẹo chuối để kêu tụi con nít lối xóm lại ăn.
    Thằng Ðức lỏn lẻn nhìn cha rồi nhìn thằng Phước. Vì nhút nhát, nó không dám tới gần để rờ rẫm hun hít, nhưng nó nhìn em nó bằng cặp mắt sáng quắc vì thèm thuồng coi thiệt tức cười. Bảy Báu buông valise ở góc nhà một cái xạch rồi dựa ngửa người trên ghế, hỏi:
    - Má tụi bây đâu rồi?
    Ðức xớt trả lời:
    - Nghe tin ba dìa, má bỏ ra vườn sau rồi. Má cứ bụm mặt khóc ào ào...
    Bảy Báu nhìn đứa con trai, ứa nước mắt:
    - Ðức lại đây!
    Ðức ngoan ngoãn bước lại gần cha. Bảy Báu vuốt ve con trai, ngậm ngùi:
    - Thiệt thằng con tui mau lớn quá! Năm nay con ngồi lớp mấy?
    Ðức thỏ thẻ:
    - Dạ con học lớp đệ thất rồi ba. Con thi nhảy lớp hồi năm ngoái, nghĩa là từ lớp nhứt con thi thẳng một lèo vô đệ thất chớ không cần ngồi lớp tiếp liên.
    Bảy Báu đỏ mặt vì ăn năn, hổ thẹn, nước mắt chảy ròng ròng. Sau cùng, anh ta nói vắn tắt:
    - Con học giỏi là ba mừng.
    Vừa thấy Bảy Báu cà rà trước ngõ, bà Năm Thẹo ở gần bên, cách hàng rào xương rồng, đã lập lờ lập lượn sau cánh cổng để nghe ngóng. Rồi kế đó bà chạy qua nhà thím Năm Én, nhà cô Bảy Ơn rủ họ nhập bọn qua nhà cô Hai Nguyện. Liền sau đó, bà Chín Ích ở đối diện nhà bà Năm Thẹo cũng lạch bạch bước qua, miệng ong óng:
    - Bây chờ tao đi với chớ!
    Bà Năm Thẹo tuôn vô nhà cô Hai Nguyện trước hết, cười ỏn ẻn:
    - Nghe thằng Bảy mầy dìa nên tao rủ chị Chín với mấy con lủng, con lành qua thăm.
    Bà Chín Ích nhìn thằng Phước trầm trồ:
    - Chèn ơi, thằng nhỏ giống cháu Bảy quá chừng chừng!
    Cô Bảy Ơn nói:
    - Thiệt tình, chị Bảy khi khổng khi không có thằng con dễ thương quá!
    Thím Năm suýt soa:
    - Tui nghĩ rằng ông trời thương chị Bảy nên Tết nầy ông lì xì cho chỉ đứa con trai nầy. Con Trang, con Hiền, thằng Ðức đều thua nó màu da trắng.
    Phút chốc chòm xóm bu tới, ồn ào bàn tán. Cô Hai Nguyện từ ngoài vườn bước vào, mặt trắng bệch như sáp, mắt chau quảu ngút lửa. Cô hét:
    - Ai vào đây làm giặc, nổi loạn đó vậy?
    Bảy Báu làm tỉnh, đứng dậy:
    - Qua đây, em Hai. Bảy Báu, chồng của em dìa ăn Tết với vợ con đây!
    Cô Hai Nguyện xáng cho chồng một cái nhìn sấm sét:
    - Báu nào? Báo đời, báo hại chớ quí báu gì nà! Mà thôi, nhà tui là nhà mần ăn, không chứa cái phường mèo mả gà đồng, cái quân mèo đàng chó điếm, thầy nghe chưa? Thầy làm ơn xách gói đi chỗ khác, chỗ nào có mấy con dâm phụ chuyên môn cướp giựt chồng người. Thầy còn nấn ná chần chờ thì tui sẽ lấy chổi quét cứt gà, chổi tẩm cứt heo quét thầy xuống đường mương cho thầy coi.
    Bảy Báu nhăn nhó:
    - Tội nghiệp qua lắm mình ôi. Mình hãy cho qua phân giải đôi lời.
    Cô Hai Nguyện nhảy đong đỏng:
    - Thầy đã phân giải nhiều lần rồi. Tui cũng đã lạt lòng nhiều quá rồi. Không mình không đầu gì nữa hết! Thầy hãy cuốn gói cho lẹ để mẹ con tui ăn Tết.
    Nói được những tiếng thô nhám như đá ong, cứng nặng như đá xanh đó, cơn giận cô hạ xuống, rút biệt một cái rột như nước lọt qua miệng cống. Bà Năm Thẹo tằng hắng can:
    - Thôi cho tao can đi! Mầy cũng để cho thằng chồng mầy phân bua phải quấy đôi lời chớ! Hễ nó vừa mở miệng là mầy nạt nhào thì còn non nước gì!
     Thím Năm Én khuyên:
    - Hai, em phải nghe lời bác Năm, bác Chín. Chị cũng can em. Bổn phận làm vợ là phải nể nang, ngọt dịu với chồng. Nó dẫu ăn ở quấy với em thì có trời cao chứng giám, có bà con láng giềng chê cười nó. Nhưng nếu em mà gay gắt với nó quá thì té ra em cũng quấy theo nó hay sao? Gắt quá thì nó nổ đa em! Hễ mọi sự nổ tanh banh tét bét thì mụ nội ai mà hàn gắn lành lặn như xưa?
    Cô Hai Nguyện quét mắt qua khắp bà con hàng xóm láng giềng. Coi bộ ai cũng có ý binh vực thằng chồng dâm bôn bạc bẽo của cô. Cô nhìn con Hiền bồng đứa nhỏ. Mèn đéc ơi, thằng nhỏ coi giống hịt thằng Bảy Huỳnh Kim Báu quá trời quá đất! Nó ngó cô, hả miệng chim dòng dọc ra cười hịch hạc, bày cái nướu màu hồng tươi vừa nhú mấy cái răng sữa lùn tịt. Chèn ơi, nụ cười nó giống nụ cười tía nó quá chừng chừng! Bởi nụ cười đó mà hồi 18 năm về trước, cô lén ăn cắp tiền bạc vòng vàng của tía má cô để đi theo tiếng gọi của trái tim. Trái tim cô lúc nào mà chẳng dại dột! Nụ cười đó đã từng hóa giải tủi hờn căm tức nơi cô mỗi khi thằng Bảy Báu bị mèo đá xất bất xang bang bò về. Cô Hai Nguyện hét:
     - Con cái ai đây?
    Bảy Báu ấp úng:
    - Thì... nó là con của... qua. Qua bồng nó về đây cho em nuôi làm phước.
    - Ê, đừng có giỡn nghe cha nội! Cây không trồng, lòng không tiếc; con không đẻ, mẹ ghẻ không thương.
    Cô Bảy Ơn khuyên lơn:
    - Chị Bảy, em khuyên chị bớt nóng. Thiệt tình chị nóng cũng phải, chẳng ai dám trách chị chút nào. Anh Bảy bậy quá, sái quấy lung lắm. Em mà ở vô hoàn cảnh chị, em cũng giống như chị vậy, cũng tức bể ngực rồi hộc máu cả chậu cả vịm chớ không vừa. Nhưng mà xin chị suy cho cùng, nghĩ cho cạn. Nếu chị nóng quá mất khôn, làm cho gia cang xào xáo thì tụi nhỏ khốn đốn, gẫm có ích lợi gì đâu! Xin chị cho ảnh ăn năn chuộc tội.
    Cô Hai Nguyện rống lên khóc:
    - Ðây đâu có phải lần đầu nó vác mặt mo mặt thớt về đâu? Tui nuôi nó lúc nó thất cơ lỡ vận để rồi khi sung sức mập thây, nó xách đít đi đép bậy cho ốm o so bại, thân tàn ma dại rồi mới trở về. Một lần, hai lần thì còn bỏ qua được, chớ lần nầy thì nhứt quá cửu, quá thập rồi chớ đâu phải quá tam! Nó đội vàng cả thúng, hột xoàn cả tráp về đây tui không ham nữa là!
    Bà Chín Ích xía vô ỉ ôi:
    - Con vợ thằng Bảy nè. Con phải nghe lời má Chín lần nầy. Chồng con trở về đây tốt tươi phi mỹ chớ không te tua bèo nhèo, không rách rưới đói khát. Nó ăn bận như thầy thông thầy ký ở đất thầy-gòn đó con. Nó về đây chắc có duyên cớ gì đó chớ không phải mong nhờ hột cơm của con đâu! Vợ chồng bây có thể hiểu nhau, chớ người ngoài làm sao tỏ tường trong đục! Vậy con gắng nuốt giận, nghe nó cạn phân bày giải. Má Chín khuyên con đừng tỏ ra lấn lướt với kẻ lép vế, thất thế hơn mình. Không nên đâu con!
    Thấy chưa? Chỉ vừa thấy thằng nhỏ mà coi bộ bà con lối xóm đều ngã rạp về phía tên Bảy Báu hết trọi. Họ thấy đứa nhỏ mồ côi mồ cút chớ họ làm sao thấy lúc cô canh khuya trằn trọc, tủi phận bị chồng chán, chồng chê, não nề lo gánh mưu sinh cho bầy con dại? Té ra tên Bảy ó đâm nầy sanh ra để được thương yêu dung thứ. Còn cô sanh ra để làm nạn nhơn của nó cho tới tim bảy lỗ héo khô, gan bảy lá héo hắt mà người ngoại cuộc đương thèm biết tới.
    Bỗng đứa nhỏ bị con Hiền ôm chặt khóc ré lên. Thằng Ðức vụt chạy lại ôm tía nó, khóc rống:
    - Ba ơi, ba đừng đi đâu hết! Má ơi, má đừng để ba bồng em cho bà phước xóm đạo nghe má! Em con dễ thương quá má à!
    Mấy bà lối xóm cùng khóc ngon khóc ngọt theo thằng Ðức.

    ° ° °

    Khi lối xóm về hết, cô Hai Nguyện xuống bếp bắt con cá lóc rọng trong vịm ra cạo vẩy. 
    Cô hỏi Trang:
    - Tía mầy đâu rồi?
    - Ông Năm Thẹo mời tía qua cụng ly bên bển rồi.
    - Còn con Hiền đâu?
    - Nó bồng thằng Phước qua nhà thím Năm Én mượn cái bình sữa và núm vú cao su.
    Cô Hai Nguyện trề môi:
    - Tía mầy là thứ đờn ông hư thúi. Vừa về tới nhà là liệng va-ly cái xạch nên bình sữa mới bể hai bể ba như vầy….
    Bảy Báu chỉ dám nhậu sương sương với ông Năm Thẹo rồi lật đật trở về nhà kẻo vợ quở, vợ rầy. Cô Hai Nguyện và Trang lo nấu, dọn cơm trưa. Cô dặn cô trưởng nữ của mình:
    - Con lên nhà trên mời tía con rửa mặt, thay đồ mát đi. Cơm nước xong, con nhớ gói bánh tét, bánh dừa để tối nay má luộc. Chút nữa má ra chợ Vãng mua bình sữa, xà bông, khăn lau, thau chậu cho thằng Phước.
    Hiền mượn được bình sữa, bồng em về nhà. Cơm canh chưa xong nhưng cô Hai Nguyện đã dọn chén, bày bàn sẵn. Cô rửa tay sạch sẽ, bồng đứa nhỏ. Thằng nầy dễ thương thiệt mà. Cô vừa bồng nó là nó rúc đầu vô ngực cô làm cô bồi hồi xúc động. Nó lại cười tít toát, thấy ghét hết sức! Nhưng cô Hai Nguyện chưa hun nó liền đâu. Cô tự hỏi mình có thể yêu thương nó thiệt tình không? Cô chưa biết mặt má nó lần nào. Cô chỉ có thể hình dung má nó qua khuôn mặt của những tình địch khác: mắt con nầy, mũi con kia, tóc tai con nọ, hình vóc con khác nữa... Mà lạ dữ! Thiệt tình cô chẳng ghét con nào hết. Bao nhiêu việc oan trái cũng do cái tánh chuộng trăng hoa, ưa đào đĩ của tên Bảy Báu mà ra. Nếu nó không có tâm địa uốn éo ruột rồng, lòng vòng ruột rắn, lắn quắn ruột dê thì chẳng có con nào có thể nhảy vào cuộc sống lứa đôi của cô để ăn mót hoặc cướp giựt hạnh phúc của cô được hết. Bởi chồng cô già không bỏ, nhỏ không tha, tươi như hoa nó liền mê lú, xấu như ục cú nó cũng say sưa... như vậy thì con đờn bà nào cũng có thể để nó dê, nó nịch ái ráo trọi. Nhưng mà trời ơi, dù cô đã khóc cả thùng, cả thau, cả xô nước mắt vì sự bạc bẽo của chồng, nhưng lòng cô vẫn sẵn sàng dọn một chỗ tha thứ đợi ngày nó trở về.
     Trang làm bình sữa xong, đem lại mẹ. Cô Hai Nguyện cho thằng Phước bú. Và khi bình sữa chưa cạn thì nó đã ngủ khò, miệng thỉnh thoảng mỉm cười. Cô Hai Nguyện đặt nó lên vạt tre trải chiếu đậu, rồi đắp mền mỏng lên tận ngực nó. Thằng Ðức cứ cà rà bên em ngắm nghía, lâu lâu hun lên đôi má măng sữa của nó. Bảy Báu rửa mặt chải đầu, thay đồ mát xong. Biết là vợ bớt cơn thịnh nộ, anh ta giả bộ ra sàn nước rủa chơn rồi mang guốc lóc cóc tới bên vợ nói nhỏ:
    - Mình! Bảy Huỳnh Kim Báu, chồng mình dìa với mình đây nè, mình.
    Cô Hai Nguyện quắc mắt khi thấy Bảy Báu chờn vờn muốn ôm mình:
    - Anh chớ rớ tới tui. Anh mà xáp lại gần là tui tri hô anh muốn ám sát tui, nói cho anh biết.
    Bảy Báu tha thiết:
    - Mình ôi, anh dìa đây là quyết lòng trụ luôn bên mình cho tới mãn đời suốt kiếp. Anh đã chán ngán việc mèo đàng chó điếm rồi. Khi má thằng Phước lâm chung có dặn anh quay về với mình và bắt anh thề dứt bỏ chuyện én anh, ong bướm để tạo dựng nghiệp nhà.
    Cô Hai Nguyện trề môi:
    - Nói dóc! Con Tư Mỹ Huệ đó mà kể số gì tới tui. Ðừng có xạo nghe cha nội! Con này ăn cơm bảy phủ, dạo đủ khắp nơi, nó đâu có khờ như anh tưởng!
    Bảy Báu giọt dài giọt vắn:
    - Má thằng Phước không phải là cô Tư Mỹ Huệ đâu!
     Cô Hai Nguyện chưng hững:
    - Ủa! Vậy chớ con nào?
    Bảy Báu kể vắn tắt:
     - Khi qua đưa cô Tư Mỹ Huệ lên Tân Châu lập nghiệp thì cổ tình cờ gặp lại thằng chồng cũ. Ông bà mình thường nói: “Vợ chồng cũ không rũ cũng tới” nên cổ đành đoạn bỏ qua để về với thằng cha đó. Cả hai dắt nhau qua Hồng Ngự mần ăn. Riêng qua thì dẫu gặp cảnh xất bất xang bang thì cũng không còn mặt mũi nào về với mình. Qua nhờ nghề chích dạo kiếm ăn rồi gặp má thằng Phước tức cô Hai Lành con gái thầy Hương quản Nên... Cổ làm cô mụ vườn mát tay lắm, tiền kiếm bộn bàng nhưng duyên số hẩm hiu nên mãi 30 ngoài mà cổ còn ở vá. Cùi mít trôi lên gặp cùi thơm trôi xuống, cả hai gá nghĩa bậy với nhau mà ăn nên làm ra. Bởi qua xử tệ với mình nên trời không cho qua hưởng trọn cảnh êm ấm với cô Hai Lành cho tới mãn kiếp. Ðẻ thằng Phước xong một tháng là cô Hai đau dây dưa gần một năm rồi nhắm mắt qua đời…
    Món canh chua cá lóc với bạc hà do Trang nấu ngon dễ sợ. Trong bữa cơm trưa hôm đó, Bảy Báu hỏi han vợ con đủ thứ.
    Hiền mặc cái áo lụa màu hoàng yến, đeo sợi dây chuyền bướm lóng lánh, dịu dàng bảo mẹ:
    - Má cứ ở nhà hủ hỉ với ba, con đón xe ngựa ra chợ Vãng mua sắm vật dụng cho thằng Phước. Con có nấu nước bồ kết và hái chanh cho má gội đầu.
    Cô Hai Nguyện ôn tồn:
    - Con nhớ mua phấn trị sảy, xà bông thơm, rượu chổi cho em con. Về sữa, con nhớ mua sữa hiệu Con chim chớ đừng mua hiệu khác. Nhớ mau về nghe con. Má cần đủ thứ bộ vận để tắm rửa cho nó.
    Khi thằng Phước thức dậy, thằng Ðức giành bồng em đi dạo xóm. Cô Hai dặn dò:
    - Nhớ đừng bồng em ra chỗ nắng nôi, gíó máy mà nó ấm đầu sổ mũi nghe hôn con!
    Rồi cô dặn Trang:
    - Con Trang nhớ làm gà nấu cháo và trộn gỏi bắp chuối để ba con rước ông bà về ăn Tết với con cháu. Tối nay con nhớ ủi quần áo cho cả nhà. Cúng tất, hạ nêu xong, má sẽ đi chuộc bùa trừ tà tróc quái cho em con ăn chơi, mau lớn.
    Tết nầy cô Hai Nguyện mua xấp lụa cẩm vân màu cánh sen, xấp lụa hồng đào để may áo dài cho Trang. Cô mua xấp cẩm nhung màu hoàng yến và xấp nhiễu tím may áo dài cho Hiền. Còn thằng Ðức, cô sắm cho nó chiếc quần tây bằng nỉ xám, áo sơ-mi trắng bằng tít-so và đôi giày xăng-đan.
    Sực thấy chồng cứ theo tò tò bên mình, cô hỏi:
    - Còn ông tía non nầy, ông uống trà hay uống cà-phê thì nói một tiếng cho tui biết để tui làm?
    Bảy Báu cười mơn:
    - Mình cho gì thì uống nấy.
    Cô Hai Nguyện nguýt chồng rồi lủi xuống bếp, lầu bầu lẩm bẩm:
    - Cái thứ trời đánh thánh đâm như anh, uống nước cống, nước đường mương mới đáng, ở đó mà uống cà phê, uống trà…
    Nói vậy, nhưng cô vẫn pha một tách cà phê cho chồng và không quên pha thêm một bình trà Xiểu Chủng.
    Xế xế, cô Hai Nguyện gội đầu bằng nước bồ kết và nước cốt chanh tươi. Hôm nay là ngày 30 tháng chạp, cô Hai Nguyện theo thường lệ, tắm rửa và gội đầu để xả xui.
    Bữa cơm chiều, vì để mừng ngày phu thê tái hiệp, cô Hai Nguyện làm thêm vài món nhậu tươm tất cho chồng như nem cá cơm ăn với thịt phay, bún, rau sống; như gỏi sứa tôm thịt...
    Tối hôm đó, Trang và Hiền tình nguyện thức canh nồi bánh tét, bánh dừa cùng nồi luộc đầu heo, lòng heo.
    Vợ chồng lâu ngày tái hiệp, ân ái thiệt mặn nồng. Thằng Ðức nằm ngủ ở vạt tre kê giáp tấm vách ngăn buồng cô Hai, nửa đêm thức giấc, nghe tiếng lào xào của cha mẹ.
    Tối hôm nay, cô Hai Nguyện mặc chiếc áo bà ba lụa tím, quần lãnh trơn cặp lưng bằng nhiễu màu hường cánh sen, chơn đi guốc sơn đen. Khi cô ra ngoài trung đường thắp nhang, cúng nước trở vào thì thấy Bảy Báu mở valise lôi ra một cái gói vuông bọc mo cau. Anh ta mở gói, bày những phiến vàng lá, bảo vợ:
    - 40 lượng vàng đó. Xứ Tân Châu dễ làm ăn hơn ở đây nhiều. Qua tặng mình hết để làm vốn, đặng cho hai đứa con gái mình rảnh rang kiếm cách học thêm.
    Cô Hai Nguyện nhìn sững chồng rồi gói vàng lại, cẩn thận cất vô tủ. Cô nhỏ nhẹ:
    - Mình cứ ngủ đi. Em sửa soạn cúng giao thừa đây.
    Giao thừa tới. Pháo chuột, pháo tre hàng xóm nổ vang. Thằng Phước giật mình khóc ré. Cô Hai Nguyện cúng kiếng xong, lại bồng nó, dỗ nó ngủ lại. 
    Bảy Báu ăn mặc chỉnh tề, bước ra phòng khách, bảo vợ:
    - Mình kêu sắp nhỏ ăn mặc đàng hoàng để mừng tuổi vợ chồng mình.
    Bảy Báu lì xì cho Trang chiếc kiềng chạm, cho Hiền chiếc kiềng trơn kèm chiếc nhẫn nhận hột cẩm thạch hình hột dưa. Thằng Ðức thì được chiếc đồng hồ đeo tay.
    Trước khi xuống bếp vớt bánh tét dừa đặt vào rổ cho ráo nước, Trang hỏi mẹ:
    - Năm nay con gì ra đời vậy má?
    Cô Hai Nguyện trầm ngâm:
    - Má chẳng nghe con gì ra đời hết! À, lúc giao thừa, em con giựt mình khóc om sòm. Vậy là con trống ra đời đó. Con trống nầy tên Phước, tức nhiên nó đem phước tới cho nhà mình.
    Khi trở về buồng, Bảy Báu ôm chặt vợ vào lòng. Anh ta thấy giờ đây vợ mình mặn mòi quá cỡ, môi má đỏ au chớ không xanh xao như chầu xưa. Anh ta ứa nước mắt:
    - Kiếp trước chắc anh tu kỹ nên kiếp nầyđược trời ban thưởng cho một người vợ hiền như mình.
    Cô Hai Nguyện nguýt:
    - Xạo vừa vừa chớ! Em đã bao phen bầm dập bởi lời ỏn thót của mình rồi. Mình về đây được…
    Cô toan nói rằng mình về đây được ngày nào là em mừng ngày đó, nhưng cô ngưng ngang vì đó là câu nói gở, gây điềm xui xẻo. Cô nằm bên chồng, cất giọng ngọt lìm lịm:
    - Ra giêng, mình nhớ đem hình má thằng Phước họa lớn để thờ. Em muốn vong linh má nó theo phù hộ cho nó mạnh khỏe, ăn chơi….

    Hồ Trường An

Đan điền
  • bạn quan sát đứa trẻ ngủ trong giường cũi, một điều bạn phải được chú ý tới, nhưng bình thường không đập vào mắt chúng ta, là ở chỗ bụng đứa trẻ phồng lên và xẹp xuống khi nó thở chứ ngực của nó thì không chuyển động, tuyệt đối thảnh thơi. Trong trường hợp của chúng ta, chúng ta thở qua ngực. Lão Tử nói – và bây giờ ngay cả khoa học cũng đồng ý với ông ấy – rằng khi ý thức con vật và ý thức tâm trí của người bắt đầu tách ra, chỗ của hơi thở bị thay đổi từ rốn lên ngực. Khoảng cách càng lớn giữa tâm trí và thân thể, chỗ của hơi thở càng đi lên cao hơn. Khi đứa trẻ bắt đầu thở từ ngực, chúng ta biết rằng ý thức con vật của nó và ý thức tâm trí của nó đã bị vỡ ra.
    Khi người lớn ngủ, người đó nữa cũng thở qua bụng và ngực của người đó được thảnh thơi vì trong giấc ngủ khoảng cách này giữa tâm trí và thân thể không thể được duy trì. Trong trạng thái vô ý thức, khoảng cách này bị phá vỡ và quá trình tự nhiên bắt đầu. Có một từ Nhật Bản (không ngôn ngữ nào khác có từ tương đương nó) dành cho cội nguồn khởi đầu của hơi thở. Từ đó là “tanden” (đan điền). Việc thở đúng được kết nối với đan điền, cái ở cách rốn quãng sáu cm. Người càng xa khỏi sự tồn tại, hơi thở của người đó càng dịch chuyển xa khỏi đan điền.
    Trung tâm của việc thở của bạn càng ở cao, bạn càng căng thẳng; điểm hơi thở của bạn càng thấp, bạn càng được thảnh thơi. Nếu việc thở của bạn là từ đan điền, sẽ không có căng thẳng trong cuộc sống của bạn. Điều này là chính lí do tại sao trẻ con không căng thẳng. Quan sát hơi thở của bạn trong khoảnh khắc thảnh thơi mà xem. Bạn sẽ thấy nó tới từ đan điền. Khi bạn bị chất đầy căng thẳng và lo âu, quan sát hơi thở của bạn đi. Nó sẽ trở nên ngắn, và nó sẽ tới từ ngực. Hơi thở ngắn là chỉ dẫn rằng bạn bị đẩy ra xa khỏi bản tính nguyên gốc của bạn.
    Có lí do tại sao chúng ta thở từ ngực. Một quan niệm rất sai đã lan tràn trên thế giới. Theo quan niệm này, ngực phải được phát triển mạnh và to, và bụng phải phẳng, gần như sát lưng. Xu hướng điên này đã tạo ra rối loạn kinh khủng bên trong thân người. Để làm phồng ngực, hơi thở phải rót đầy ngực và không được cho phép đi xuống sâu hơn. Điều này mang tới trạng thái nguy hiểm về chia tách ở mức con vật và mức tâm trí. Bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy các tranh vẽ về Phật hay Lão Tử trong nghệ thuật Nhật Bản hay Trung Quốc. Họ được vẽ với bụng lớn không giống như các mô tả của chúng ta về họ nơi mà ngực của họ to đầy và bụng thì nhỏ.
    Đạo thừa nhận ba trung tâm: một là đan điền (trung tâm rốn), hai là trung tâm tim và ba là trung tâm đầu (trung tâm của thông minh). Đan điền là trung tâm cao nhất và sâu lắng nhất của sự tồn tại. Tiếp đó là trung tâm tim và cuối cùng và ít sâu sắc nhất là trung tâm đầu. Do đó các nhà trí thức là xa nhất khỏi sự tồn tại. Người xúc cảm ở gần sự tồn tại hơn người hợp lí. Người sùng kính gần sự tồn tại hơn nhiều so với cái gọi là người trí thức. Người coi trí tuệ là mọi thứ chỉ sống trên bề mặt của sự tồn tại. Tính toán của người đó là đúng, logic của người đó là rõ ràng, nhưng người đó không bao giờ đi sâu xuống dưới vì có nguy hiểm; ở đó mọi logic bị mất và mọi tính toán mờ nhoà đi.
    Người hợp lí hoá sống trên bề mặt, nơi mọi thứ là rõ ràng và gọn gàng. Ngay khi chúng ta đi xuống tới tim, thế giới rõ ràng của logic và suy luận bị mất. Do đó, người trí thức sợ nói tới tim; vì với tim, phi logic và phi trật tự tới. Nhưng chính ở đây mà ham muốn và yêu có thể nảy sinh, và cả sùng kính nữa. Bất kì cái gì đều có thể xảy ra ở đây, vì với nó không lời giải thích nào có thể được nêu ra.
    Một người càng hợp lí hoá, trung tâm thở của người đó càng ở cao. Bằng việc quan sát điểm thở của một người, chúng ta có thể tìm ra kiểu của người đó. Một người càng có cảm xúc, hơi thở của người đó sẽ càng đi sâu hơn. “Nhưng,” Lão Tử nói, “tim không phải là chiều sâu tối thượng. Nó là cần để đi xuống xa hơn – tới đan điền.”
    Hơi thở nên nảy sinh từ đan điền. Thế thì người ta được thống nhất với sự tồn tại, hệt như đứa trẻ mới sinh vậy. Khi người ta, qua việc tập trung, mang hơi thở của mình tới chiều sâu tối thượng, người đó trở thành mềm mại như đứa trẻ. Điều này chỉ xảy ra khi người đó đạt tới sự đơn giản và hồn nhiên phi căng thẳng. Đôi khi quan sát bản thân bạn khi bản thân bạn ngồi yên trên ghế. Để cho bản thân bạn chùng lỏng, – phải không có căng thẳng nào – và bạn sẽ cảm thấy hơi thở đang dâng lên từ rốn của bạn. Nhưng chúng ta không để cho bản thân chúng ta thảnh thơi ngay cả khi chúng ta nghỉ ngơi. Liệu ý tưởng về việc có ngực nở có ăn sâu trong chúng ta, hay có lí do khác nào đó?
    Có nhiều lí do nằm sâu. Điều quan trọng nhất trong những lí do này sẽ tới với tâm trí bạn nếu bạn cho nó một suy nghĩ. Khi nào đứa trẻ trở nên ý thức tới thân thể của nó? Theo Freud (người đã làm nghiên cứu sâu và hữu dụng) đứa trẻ trở nên ý thức tới thân thể của nó khi nó chạm vào bộ phận sinh dục của nó lần đầu tiên. Khi nó chạm vào mũi hay tai, mẹ nó vui sướng trong hành động của nó; nhưng ngay khi nó chạm vào bộ phận sinh dục của nó, nó bị làm cho dừng lại, – bị cấm không được làm như vậy. Chính thế thì đứa trẻ nhận ra rằng có một phần của thân thể nó mà không được chạm tới, cái là nguy hiểm, cái là tội lỗi. Đứa trẻ đi tới cảm thấy điều này từ cái nhìn trong mắt mẹ nó; và cô ấy đến lượt mình phải đi tới biết từ bố mẹ cô ấy. Cảm giác tội lỗi do vậy có tính truyền thống. Nhưng tội này không tồn tại.
    Nhưng bây giờ một phân biệt bắt đầu có bên trong đứa trẻ. Qua các điệu bộ của bố mẹ nó, nó bắt đầu cảm thấy rằng có phần trong thân thể nó mà không thuộc về nó. Đây là lí do tại sao, mãi cho tới ngày chết, chúng ta không coi phần này của thân thể là của riêng chúng ta. Điều đó không thể vậy; khoảng cách vẫn còn lại. Thế thì, với sự tách rời của bộ phận sinh dục khỏi phần còn lại của thân thể, phần thấp của thân thể trở nên bị cấm đoán. Thân bên trên bộ phận sinh dục được chấp nhận và thân bên dưới bộ phận sinh dục không được chấp nhận.
    Ngay khi phân biệt này xảy ra, chỗ của hơi thở dâng từ rốn lên tới ngực. Có lí do cho điều này. Nếu hơi thở đạt tới đan điền, nó ảnh hưởng tới bộ phận sinh dục. Cho nên, ngay khi chúng ta cảm thấy rằng bộ phận sinh dục không phải là một phần của chúng ta, đan điền bị kìm nén. Thế thì chúng ta bao giờ cũng sợ, e ngại hơi thở đạt tới đan điền.
    Bạn có biết rằng việc cương cứng xảy ra quãng mười hai tới mười tám lần trong mọi đàn ông khi anh ta ngủ ban đêm không? Đây là việc xảy ra đều đặn. Freud đã bị ấn tượng rằng việc này xảy ra vì các ham muốn không được thoả mãn, cái được lẩy cò ra trong mơ. Mơ về giao hợp và việc thoả mãn sự thôi thúc dục làm cho cơ quan này trở nên cứng, Freud tin vậy. Nhưng nghiên cứu sâu hơn đã chứng tỏ Lão Tử là đúng. Lão Tử nói rằng điều này xảy ra vì trong giấc ngủ, hơi thở đi ngược lại đan điền và bộ phận sinh dục bị ảnh hưởng. Nó không nhất thiết vì mơ dục. Chúng ta thở đầy đủ trong giấc ngủ và hơi thở đầy đủ này gõ vào đan điền.
    Trung tâm năng lượng dục và đan điền nằm bên cạnh nhau, và chính tác động của hơi thở làm kích hoạt trung tâm dục. Do đó, bạn không thể thở từ ngực trong hành động dục. Bạn phải thở từ bụng. Việc thở nhanh làm cho hơi thở gõ vào trung tâm dục và giữ cho nó bị kích hoạt. Nếu hơi thở bị kiểm soát ở giai đoạn này, việc xuất tinh có thể bị ngăn cản. Tantra có các phương pháp kiểm soát để cho việc giao hợp có thể xảy ra mà không có xuất tinh. Hành động này do vậy có thể được kéo dài hàng giờ nhưng thế thì phải chăm nom rằng hơi thở không đạt tới đan điền.
    Đứa trẻ lớn lên cùng với ý tưởng rằng cơ quan dục là cấm kị, rằng chúng là đáng khinh và tội lỗi; và với cảm giác này, hơi thở dịch chuyển từ đan điền lên ngực. Điều này là vì tác động của chúng ta lên đan điền tạo ra cảm giác trên cơ quan dục, và cảm giác này là rất làm hài lòng. Cảm giác cho vui thích này hấp dẫn đứa trẻ và làm cho chúng ham muốn và trăn trở. Nhưng thái độ của bố mẹ nó và thái độ của xã hội không thuận lợi hướng về điều này. Cho nên một khoảng cách được tạo ra và chung cuộc mọi kinh nghiệm vui vẻ mang theo một kiểu mặc cảm bên trong chúng ta.
    Bất kì khi nào chúng ta hạnh phúc, bạn phải đã để ý chúng ta cảm thấy hơi chút cảm giác mặc cảm bên trong. Một số người lấy vui thú lớn trong việc là bất hạnh, vì thế thì cảm giác mặc cảm không có đó. Cảm giác mặc cảm này nảy sinh từ chính cảm giác mặc cảm đầu tiên mà đứa trẻ đã trải nghiệm trong hành động vui thích đầu tiên của nó. Thế rồi chúng ta sống, bị phân chia bên trong bản thân chúng ta.
    Bất lực có thể nảy sinh nếu hơi thở không đạt tới đan điền. Nhiều nhân viên nghiên cứu đi theo lí thuyết của Lão Tử tin rằng bất lực là kết quả của hơi thở không đạt tới đan điền. Do đó, một điều rất thú vị xảy ra: Các lực sĩ và vận động viên thể hình trở nên bất lực. Lí do là hiển nhiên. Họ thở toàn bộ thế từ ngực, để làm nở nó ra, và họ co bụng của họ là nhiều tới mức mọi khả năng của hơi thở đạt tới đan điền bị phá huỷ. Do vậy, mặc dù một lực sĩ có vẻ rất cường dương, anh ta không phải vậy. Kết nối giữa hơi thở và tính đàn ông của anh ta bị cắt lìa.
    Hơi thở có thể nảy sinh từ đan điền chỉ nếu bạn chấp nhận ham muốn dục của bạn. Thực ra, bất nhị không thể được sinh ra bên trong bạn chừng nào bạn chưa chấp nhận ham muốn của bạn trong tính toàn bộ của chúng, cũng hệt như đứa trẻ nhỏ. Và để tôi nói cho bạn, ngay khi một người chấp nhận mọi ham muốn của mình một cách đầy đủ, người đó được tự do khỏi chúng. Ham muốn làm phát triển mạnh các mâu thuẫn. Nó dằn vặt trong việc không được đáp ứng, nó dày vò bạn, nhưng nó không bao giờ được thoả mãn. Ham muốn trở thành địa ngục đau đớn nhưng người này không bao giờ được tự do khỏi nó. Chúng ta thấy bản thân mình đi ngày càng xa hơn khỏi điều chúng ta ham muốn. Chúng ta càng kìm nén bản thân mình, khoảnh cách giữa chúng ta và mục đích ham muốn càng lớn hơn.
    Lão Tử nói: “Hiệp bản thân ông lại. Chấp nhận giác quan con vật của ông trong tính toàn bộ của chúng.” Bạn trở thành người chủ các giác quan của bạn vào khoảnh khắc bạn chấp nhận chúng. Nhị nguyên bị phá huỷ và điều bản chất được nhận ra. Trí tuệ mà chấp nhận ham muốn của nó một cách đầy đủ đi ra ngoài chúng, siêu việt trên chúng. Siêu việt này là có thể chỉ trong trạng thái phi tranh đấu, bất nhị.
    Mang hơi thở sống tới mức thích nghi nhất của nó là thực nghiệm đầu tiên. Những người ao ước tu luyện theo Đạo, ở chính lúc bắt đầu, phải dừng thở từ ngực và bắt đầu thở từ rốn. Điều này ngụ ý rằng khi hơi thở đi vào, bụng phải phồng lên, và khi hơi thở đi ra, bụng phải xẹp xuống và ngực phải vẫn còn phẳng lặng.
    Có lẽ đàn ông có thể được thuyết phục để làm việc thở bụng vì mọi đàn ông không mất trí để là lực sĩ hay trang tu mi nam tử: nhưng rất khó làm đàn bà đồng ý thở qua bụng của họ. Đàn bà bị ám ảnh với mất trí khác; mất trí về làm cho vú lớn, rắn chắc và quyến rũ. Sự mất trí này mạnh tới mức không đàn bà nào sẽ đồng ý đi theo lí thuyết của Lão Tử. Sự kiện là vú như vậy là không phù hợp về sinh học để thực hiện chức năng tự nhiên của họ về nuôi con mới đẻ vì nỗi sợ có đó rằng đứa con có thể bị ngạt. Các nhà tâm lí nói rằng nhiều đàn ông mất tự tin bởi vú tròn, lớn. Lí do cơ bản là việc nhớ lại việc ngạt thở mà đứa trẻ cảm thấy, điều để lại dấu ấn sâu trong tâm trí non nớt.
    Các nhà tâm lí có thể cho hàng trăm lí do khác tại sao đàn bà háo hức có vú lớn, rắn chắc, nhưng hiệu quả sâu lắng và phổ biến đã là ở chỗ không đàn bà nào được chuẩn bị để thở từ rốn. Nếu chúng ta không thể thở từ rốn, chúng ta không bao giờ có thể là hồn nhiên và tỉnh táo như trẻ con. Chính là chỉ thở từ rốn mà có thể mang tới sự linh hoạt và linh động tựa trẻ con.
    Cho nên, trước hết và đầu tiên nhất, thấy rằng hơi thở của bạn nảy sinh từ rốn. Khi bạn ngồi hay đứng hay bước đi, trong mọi hoạt động của bạn, để mắt vào hơi thở và thấy rằng nó bắt đầu từ rốn. Hệ thống tu luyện Đạo bao gồm ba phần, trong đó đây là phần thứ nhất: hơi thở phải nảy sinh từ rốn. Thực hành trong ba tuần và bạn sẽ ngạc nhiên thấy rằng giận của bạn đã lắng xuống, ghen của bạn bị mất đi, căng thẳng của bạn mất đi và bạn có thể ngủ như đứa trẻ. Nhân cách của bạn trở nên được cân bằng. Hơi thở không phải là điều bình thường. Mọi thu xếp của sự sống đều được kết nối với nó; cho nên khi bạn thở, các thu xếp bên trong bạn thay đổi.
    Việc thở của bạn không thể theo nhịp điệu khi bạn giận, và bạn không thể giận nếu hơi thở của bạn có nhịp điệu. Điều cần thiết là hơi thở trở nên thất thường trong khoảnh khắc giận, vì chỉ thế thì tâm trí mới bị kích động và chỉ thế thì các tuyến chất độc mới tiết ra trong hệ thống.
    Cho nên chính lời kinh thứ nhất là: Đem hơi thởi chầm chậm tới rốn và dùng ngực mỗi lúc một ít hơn trong việc thở, và chung cuộc, dừng thở từ ngực.

50 Năm – Còn Đó Nỗi Buồn
Phạm Tín An Ninh
5509 1 50Nam ConDoNoiBuonPTAN

       Ngày 24.2.2025 tại Đại Hội Đồng LHQ, Hoa Kỳ đã quay lưng trước đồng minh NATO cùng hầu hết các quốc gia thuộc thế giới tự do, chính thức đứng về phía Nga, Iran, Bắc Hàn, và những nước thân CS, bỏ phiếu chống lại nghị quyêt lên án Nga gây chiến tranh xâm lược Ukraine, nhân dịp thế giới kỷ niệm 3 năm ngày Vladimir Putin xua quân vào lãnh thổ Ukraine.  đó, cả thế giới lại bàng hoàng, khi vị Tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ đã tỏ ra thân thiện với kẻ thù Nga, ca ngợi, bênh vực tên đồ tể Putin trong khi hết lời mạt sát, nhục mạ TT Zelensky, người đồng cấp, từng là đồng minh thân tín của Hoa Kỳ. Đã vậy, Tổng thống Mỹ còn đòi phải được khai thác khoảng sản, đất quý, tài sản quốc gia của Ukraine để trừ vào số tiền viện trợ trước đây. Có lẽ đây là nguyên nhân tiềm ẩn đưa đến cuộc tranh luận gay gắt, trở thành trận cải vã nặng nề ngay tại Tòa Bạch Ốc, giữa TT Zelensky của Ukraine và TT D.Trump cùng PTT J.D Vance của Hoa Kỳ vào ngày 28.2.2025, trước sự chứng kiến của các cơ quan truyền thông hiện diện cùng cả thế giới qua màn ảnh truyền hình. Sau khi “mời” TT Zelensky cùng phái đoàn tùy tùng ra khỏi Phòng Bầu Dục, TT Trump cũng đã quyết định ngưng tức khắc mọi viện trợ quân sự cũng như cung cấp tin tức tình báo, nhằm áp lực Ukraine phải nhanh chóng ngồi vào bàn hội nghị theo sự sắp xếp của Hoa Kỳ. Đến hôm nay, kết quả hội đàm tuy chưa chính thức ngã ngũ, nhưng ai cũng đã nhìn thấy trước số phận của Ukraine!

***

       Sự kiện này xảy ra đúng vào thời điểm người Việt chuẩn bị tưởng niệm 50 năm, ngày kết thúc cuộc chiến Việt Nam. Chính xác hơn là ngày Miền Nam Việt Nam hay nước VNCH bị CS Bắc Việt cưỡng chiếm, cũng với sự phản bội tương tự của đồng minh Hoa Kỳ, khi Mỹ và Bắc Việt đã cùng bắt tay thỏa thuận ký kết hiệp định mạo danh Hòa Bình vào ngày 27.1.1973 tại Paris, quyết định số phận của VNCH, quốc gia chính trong cuộc chiến nhưng bị áp lực để (gần như) phải đứng bên lề. Trong các cuộc hội đàm, phái đoàn VNCH bị xếp ngồi ngang hàng với (cái gọi là) Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, trong khi ai cũng biết đó chỉ là đám tay sai, con rối do CSBV nặn ra.
       Vẫn biết rằng, quyết định của nước lớn đối với đồng minh luôn tùy thuộc vào quyền lợi của chính đất nước họ, tuy nhiên điều đau lòng là cung cách hành xử khi quay lưng, phản bội lại những người từng một thời nhận là bạn, cùng sống chết bên nhau. Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, ngày 29.4.1975, tại Đài Loan, ngay sau đêm đầu tiên bị áp lực phải rời khỏi nước, khi trả lời cho một đại diện của chính phủ Mỹ, cũng đã lên tiếng trong ngậm ngùi, cay đắng “Làm kẻ thù của Mỹ thì rất dễ, nhưng làm bạn rất khó”
       Ukraine và VNCH bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi khi cuộc chiến đấu của hai quốc gia này có cùng một đích: tự vệ, chống lại quân xâm lược. Chỉ khác là trong cùng tình huống này, Ukraine có nhiều may mắn hơn VNCH. Bởi cuộc chiến Việt Nam kéo dài quá lâu, có hơn 58.000 quân nhân Mỹ tử trận, một số khác bị bắt làm tù binh, đẩy phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ ngày một dâng cao, đỉnh điểm vào tháng 5/ 1970, đã có đến 4 triệu sinh viên thanh niên liên tục xuống đường, gây bạo động, một số đã bị cảnh sát bắn chết. Thời điểm này đại đa số dân chúng Mỹ, qua lưỡng viện quốc Hội, không còn ủng hộ cuộc chiến Việt Nam. Cũng phải thẳng thắn để thừa nhận, trên thực tế quân dân VNCH đã không chiến đấu hết lòng và dũng cảm bằng Ukraine, và các cấp lãnh đạo, đặc biệt vị tổng thống của họ rất xứng đáng. Ngoài ra, Ukraine vẫn còn được đa số dân chúng Mỹ ủng hộ, quan trọng hơn, được Tổ Chức Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và gần như toàn bộ Âu Châu luôn hết lòng, sát cánh. Trong khi ở vào thời điểm (trước và sau) Hiệp định Paris ký kết, VNCH gần như cô thân độc mã. Cùng lúc bị Mỹ bỏ rơi, các đồng minh khác như Úc, Nam Hàn, Thái Lan, kể cả Phi Luật Tân cũng đều theo Mỹ, quay lưng!

***

        Vào thời gian này, đơn vị chúng tôi đang hành quân tảo thanh tại khu vực Kontum – Tây Nguyên, sau khi vừa liên tục tạo các chiến thắng lẫy lừng, đánh tan các lực lượng hùng hậu thuộc Mặt Trận B-3 của tướng CS Hoàng Minh Thảo. Với khẩu hiệu “sinh Bắc tử Nam”, CSBV chuyên áp dụng chiến thuật biển người, đẩy đám bộ đội, đa phần là thanh niên, sinh viên miền Bắc bị cưỡng bách nhập ngũ, như những con thiêu thân lao theo sau các trận địa pháo, để bằng mọi giá phải chiếm được căn cứ Charlie của Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, mở cánh cửa ngõ xua chiến xa T-54 với hỏa tiễn tầm nhiệt của Liên Xô, tràn ngập BTL Tiền Phương SĐ22BB tại Tân Cảnh, chiếm cứ một vùng Bắc Kontum. Sau đó, một lực lượng Cộng quân hùng hậu hơn, gồm Sư Đoàn 320, Sư Đoàn 2 (sau này tăng cường thêm Sư Đoàn 968 từ Lào sang), cùng 4 trung đoàn biệt lập 66, 95, 20, 24, Trung đoàn Đặc công 400, 2 trung đoàn Pháo, 6 tiểu đoàn Phòng không và 1 tiểu đoàn Tăng T-54… tràn xuống phía Nam nhằm thôn tính thành phố Kontum, trong ý đồ tiến chiếm Pleiku, nơi có bản doanh của BTL/QĐII/VNCH hầu dùng làm bàn đạp tràn xuống đồng bằng, duyên hải, nhưng chúng đã bị thảm bại trước một lực lượng VNCH, với chỉ duy nhất mỗi Sư Đoàn 23 BB cùng 3 tiểu đoàn Pháo Binh và 1 chi đoàn chiến xa M-41 cơ hữu, đặc biệt được Không quân (giai đoạn đầu có B-52 của Hoa Kỳ) yễm trợ. Điều này đủ để chúng tỏ khả năng chiến đấu của Quân Lực VNCH.
       Ngay trong trận chiến đầu tiên tại tuyến Tây Bắc Kontum, vào sáng ngày 14.5.1972. cả hai Trung đoàn 28 và 64 của Sư Đoàn (Thép) 320 CS cùng 1 tiểu đoàn xe tăng bị tiêu diệt, làm cho cả sư đoàn có tiếng, kỳ cựu này bị kiệt quệ, không còn khả năng chiến đấu. Sau đó chỉ đúng 10 ngày, sáng sớm ngày 24.5.72. trong trận tấn công cùng lúc vào Tòa Giám Mục, Bệnh Viện 2 Dã Chiến và vòng đai phi trường Kontum, cả Trung đoàn 52 thuộc Sư Đoàn 2 (Quảng Đà) mới tăng cường từ vùng Quảng Nam vào, bị đánh tan, đã phải giải thể. Một số lớn cán binh của Trung đoàn 141 thuộc sư đoàn này bị bắt và ra hồi chánh. (Những thất bại này CSBV đã phải công nhận qua chính các hồi ký, quân sử của họ)
       Chiến thắng Kontum vào Mùa Hè 1972 của đơn vị chúng tôi ở Quân Đoàn II, cùng lúc với Bình Long ở Quân Đoàn III và QuảngTrị ở Quân Đoàn I đã bẻ gãy ý đồ thôn tính VNCH của CSBV, khi lợi dụng việc Hoa Kỳ vừa rút hết quân về nước, đồng thời cắt giảm tối đa quân viện cho VNCH, sau chiêu bài “Việt Nam Hóa Chiến Tranh”.
       Nhưng rồi Hiệp Định Paris ngày 27.1.1973 như một trận gió chướng tàn độc, cuốn trôi hầu hết những chiến công mà chúng tôi đã phải trả bằng biết bao máu xướng để đạt được, cùng lúc làm tiêu hao hào khí mà quân sĩ đơn vị chúng tôi vừa dâng cao trong men say chiến thắng. Hiệp định Paris mà Hoa Kỳ và Bắc Việt đã thỏa hiệp, ký kết trên nỗi đau thương, phẫn uất cùng thân xác của những người lính khốn khổ chúng tôi, chính là huyệt mộ do chính Hoa Kỳ đào lên nhằm chôn sống quân lực và cả quốc gia đồng minh VNCH sau đó.
       Ủy Ban Nobel Hòa Bình NaUy năm 1973 đã phải vô cùng xấu hổ và ân hận khi có một quyết định vội vã, sai lầm, trao giải cho Henry Kissinger và Lê Đức Thọ. Bị cả thế giới và nhiều dân biểu NaUy phản đối, một số thành viên bất mãn rút tên ra khỏi Ủy Ban. Sau đó chính Lê Đức Thọ đã phải từ chối nhận giải, vì hơn ai hết, chính cá nhân ông ta và cả Bộ chính trị Đảng CS đều biết trước là sẽ không hề có hòa bình, bởi họ đã mưu đồ từ trước, không hề tôn trọng hiệp định mà chỉ lợi dụng những kẻ hở có toan tính, để đẩy mạnh cuộc chiến nhằm sớm cưỡng chiếm Nam Việt Nam.
       Hiệp định mang tên Hòa Bình, nhưng kỳ thực chỉ là hình thức ngưng bắn kiểu “da beo”, để các lực lượng CSBV không phải rút về Bắc mà được tiếp tục hiện diện hợp pháp tại các phần đất mà chúng vừa lấn chiếm, cùng lúc Hoa Kỷ cắt hết viện trợ quân sự cho VNCH để đổi lấy tù binh, trong khi CSBV vẫn được Trung Cộng, Liên Xô cùng khối CS gia tăng tối đa viện trợ. Lợi dụng tình hình này, CSBV đã ào ạt chuyển đại quân, chiến xa, vũ khí, đạn dược, nhiên liệu vào chiến trường miền Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh, và một số từ Lào sang để gia tăng cường độ các cuộc tấn công, trong khi chúng tôi phải chiến đấu trong những điều kiện vô cùng khó khăn, thiếu thốn, từ quân số, vũ khí, đạn dược, nhiên liệu, đến mọi phương tiện khác.
       Hồi tưởng thời gian này, tôi bỗng thấy đồng cảm và thấm thía với tâm trạng của người lính trẻ Paul Bäumer, nhân vật chính trong “All Quiet On The Western Front” (Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh), tác phẩm viết về chiến tranh nổi tiếng của nhà văn Đức, Erich Maria Remarque, mặc dù tình huống tương tự đã xảy ra từ thời Đê Nhất Thế Chiến, hơn 55 năm trước:
      “Ngày tháng trôi qua. Mùa hè 1918 này là mùa hè đẫm máu và kinh hoàng nhất. Thời gian giống như những thiên thần đang bay lượn trên vùng hủy diệt một cách không thể hiểu nổi. Dường như ai cũng biết rằng chúng tôi sẽ phải thua trong cuộc chiến này. Nhưng rất ít ai nói ra điều ấy. Chúng tôi đang bị đẩy lui. Chúng tôi không còn đủ quân số, không đủ tiếp liệu, đạn dược để có khả năng phản kích sau cuộc tổng công kích này. Duy chỉ có các chiến dịch hành quân là còn đang tiếp diễn – và những cái chết sẽ vẫn còn tiếp tục…”
       Là những người trực tiếp chiến đấu, cận kề quân sĩ, chúng tôi đã phải xót xa, đau đớn đến dường nào khi chứng kiến đồng đội của mình ngã xuống mỗi ngày trong tình trạng tức tưởi, oan khiên như thế!

5509 2 50NamPTAN
(Trên đường ra trận – ảnh từ Internet)

        Hơn mười năm phục vụ trong một đơn vị Bộ Binh bình thường, nhưng chúng tôi chưa hề một lần chiến bại, ngay cả những trận chiến gay go, đẫm máu nhất, với lực lượng địch đông gấp nhiều lần và vũ khí tối tân hơn, điễn hình như trận chiến Kontum. Vậy mà bỗng dưng chúng tôi trở thành những người bại trận. Bi thảm và tủi nhục hơn là dù có “gãy súng”, “buông súng” hay không, chúng tôi cũng bị thuộc về bên phía “đầu hàng” theo lệnh của ông tướng mới lên làm tổng thống ba ngày, nhân danh Tổng Tư Lệnh. Sau này, có người bảo ông làm đến đại tướng mà ngây thơ, nghe theo lời dụ dỗ, móc nối của ai đó và một người em ở phía bên kia, tin Cộng sản sẽ thành lập “chính phủ ba thành phần” Có người lại bảo ông giành chức tổng thống chỉ để làm một điều duy nhất – đầu hàng. Cũng có người bênh vực, bảo nhờ ông đầu hàng nên tránh được một cuộc tắm máu, và có đủ thời gian cho một số người kịp chạy đến Subic Bay hay đảo Guam, sang Mỹ sớm. Là những thằng lính khốn khổ nhất, năm tháng chỉ ở trong núi rừng, dưới các giao thông hào, ngộp thở với tiếng bom đạn cùng bao nhiêu thứ lệnh lạc chiến trường, chúng tôi đâu có biết gì về chính trị bẩn thỉu, nhất là các biến cố dồn dập, hỗn độn trong những ngày tháng cuối cùng tại thủ đô Sài gòn.

***

       Trong chiến tranh, thắng bại dù sao cũng là lẽ thường tình. Cuộc nội chiến Mỹ 1861-1865, Nam quân đã đầu hàng Bắc quân, và trong Đệ Nhị Thế Chiến, nước Nhật hùng mạnh đã phải đầu hàng quân đội đồng minh, sau khi hai quả bom nguyên tử do Mỹ thả xuống thành phố Hiroshima và Nagasaki. Kẻ chiến thắng đã hành xử văn minh, nhân bản như thế nào, cho dù các cuộc chiến ấy cũng vô cùng tàn khốc, cướp đi rất nhiều sinh mệnh của hai bên – cả dân lẫn lính. Nhưng cuộc bại trận của chúng tôi sao mà phẫn uất và đau đớn quá.
       Bị đồng minh phản bội, bỏ rơi trong đành đoạn, tức tưởi. Thua một kẻ địch không đáng để thua. Một chế độ tự do nhân bản, văn minh, phồn thịnh lại phải đầu hàng một chế độ man rợ, nghèo nàn, lạc hậu. Có lẽ trong lịch sử chiến tranh Đông-Tây, chưa từng có những người lính nào ở phe thắng trận lại ngồi khóc ở vệ đường trên phần đất vừa mới chiếm được – như trường hợp nhà văn bộ đội CS Dương Thu Hương và nhiều người khác nữa– bởi nhận ra mình bị lừa dối, uổng phí cả một thời trai trẻ để đi “giải phóng” một miền đất tự do, văn minh, nhân bản, giàu có, hạnh phúc gấp vạn lần “miền Bắc xã hội chủ nghĩa” của mình.
        Đến hôm nay, cuộc chiến oan nghiệt ấy đã kết thúc vừa đúng nửa thế kỷ. Hầu hết những dấu tích chiến tranh trên quê hương đã bị “bên thắng cuộc” chôn xóa, hủy diệt, ngoại trừ một số rất ít được chọn lọc, tô son thiếp vàng, trưng bày trong các viện bảo tàng, nhằm để tô vẽ, tuyên truyền. Trong số chứng tích còn sót lại là những nấm mồ xác xơ của hàng vạn tử sĩ miền Nam, nằm trong các nghĩa trang tiêu điều hoang phế, bị kẻ chiến thắng đập phá, hủy hoại, nhục mạ. Thực ra, họ rất muốn phá hủy hoàn toàn cho sạch hết chứng tích cuộc chiến mà chính họ đã làm hoen ố lịch sử dân tộc một thời, như đã từng san bằng, giải tỏa một số các nghĩa trang quân đội ở các tỉnh miền Trung, nhưng sở dĩ một số ít nghĩa trang lớn còn sót lai, dù trong tình trạng bị phá hủy, thay tên gọi (như NTQĐ Biên Hòa trở thành một nghĩa trang dân sự địa phương lạ lẫm nào đó), chỉ nhằm để kiếm lợi trong các cuộc tuyên truyền, thương lượng, đổi chác với Hoa Kỳ cùng Thế Giới Tự Do, và cũng để gạt gẫm, lừa mị đồng bào miền Nam hầu ngụy tạo một chút gì cái “tình dân tộc” trong chiêu bài “hòa hợp hòa giải”.

5509 3 50NamPTAN

       Mới đây, có người phát hiện Nghĩa trang Sư Đoàn 22BB hoang phế nằm lẫn khuất trong một vùng núi rừng Bình Định. Cây cỏ và cả rác rến gần như che lấp hàng ngàn mộ phần tử sĩ rêu phong. Một số đồng đội, nhà hảo tâm trong và ngoài nước cùng hô hào đóng góp, nhờ một số các anh chị em còn nặng tấm lòng với miền Nam trong nước tiếp tay, phát quang, sơn sửa, kẻ lại tên tử sĩ và dựng lại các tấm bia gãy đổ. Vậy mà, sau đó họ đã bị chính quyền CS đe dọa, ngăn chặn, gây bao phiền muộn. Kế hoạch trùng tu “kín” một số nghĩa trang hoang phế khác trong vùng cũng vì đó mà đành phải hủy bỏ.

5509 4 50NamPTAN

        Hàng vạn trại tù vội vàng được dựng lên sau tháng 4/1975, trên khắp mọi miền đất nước, nhằm đày ải, hành hạ, giết dần mòn gần một triệu quân cán chính, trí thức, văn nghệ sĩ, kể cả nhà sư và linh mục miền Nam. Giờ hầu hết những trại nằm trong rừng sâu, núi thẳm đã biến mất, một số trại tù lớn ở các thành phố thì đã được nâng cấp, sửa sang để trở thành những trại giam lớn của tỉnh hay cấp nhà nước. Tuy nhiên cứ thi thoảng người dân lại phát hiện một số nấm mồ “tù cải tạo” nằm sâu trong núi rừng Lào Cai, Yên Bái hoang vu, giờ chỉ còn mỗi tấm bia xám xịt rêu phong, lẫn khuất dưới cỏ cây từ gần 50 năm trước.

5509 5 50NamPTAN
(Mộ tù cải tạo trong rừng núi Yên Bái – ảnh từ youtube)

        Một chứng tích đau lòng khác, những thương binh VNCH bị đối xử tệ hại, đang phải sống từng ngày khốn cùng trong nước, Phần đông, theo thời gian đã chết do nghèo đói, bệnh tật. Số còn lại cũng đã già nua, sống lây lất trên các vỉa hè góc phố. Vậy mà họ vẫn không yên với một chế độ thiếu vắng tính nhân bản, tình tự dân tộc, luôn nặng hận thù. Với nghĩa tình cùng lòng tri ân của những đồng đội, đồng bào từ hải ngoại và cả trong nước, vận động gom góp gởi về, qua các vị Linh mục nhân từ thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Sài gòn, để các vị tổ chức mỗi năm một, hai lần buổi họp mặt “Bên nhau đi nốt cuộc đời”, như là một chút ủy lạo trong tinh thần huynh đệ chi binh và biết ơn những người đã hy sinh một phần thân thể, vậy mà chính quyền CS cũng đã tìm mọi cách gây khó khăn, đe dọa, ngăn chặn cấm đoán, để cuối cùng phải hủy bỏ.

5509 6 50NamPTAN
Thương phế binh VNCH – ảnh Dân Làm Báo)

       Chứng tích quan trọng và sinh động hơn, là sự hiện diện của hơn 5 triệu người Việt đã phải bỏ nước ra đi, đang sống lưu vong trên khắp mặt địa cầu. Sau tháng 4.1975, cả một miền Nam “thua cuộc” đã nhanh chóng trở thành một vùng đất chết, khốn cùng, bi thảm. Người dân có cảm giác như bị lưu đày ngay trên chính quê hương mình. Tương lai chỉ còn là những cơn ác mộng. Thời ấy, mọi người chỉ còn biết nhìn ra biển khơi mênh mông để ước mơ một sự đổi thay nào đó ở phía bên kia chân trời mịt mờ vô định. Và còn gì đau đớn hơn khi con người nghĩ tới chuyện phải bỏ quê hương ra đi lại là một niềm khát vọng! Trong suốt lịch sử thăng trầm của dân tộc, chưa có thời kỳ nào mà người dân phải bỏ cả quê hương, nhà cửa, mồ mả ông bà cha mẹ để vượt thoát ra đi trong cái chết. Chính quyền CS từng tuyên truyền, bôi xấu họ là bọn phản quốc chạy theo chân đế quốc nhằm tìm chút bơ thừa sữa cặn, để rồi không lâu sau đó lại âu yếm, chiêu dụ, gọi họ là những “khúc ruột ngàn dặm”, những “sứ giả”của quê hương, dân tộc. Thực chất, các cộng đồng người Việt tỵ nạn trên hầu hết các quốc gia tự do – mà chính quyền CS vẫn luôn xem là “các thế lực thù địch”- đa phần đã thành công vượt bậc tại các quốc gia định cư, thế hệ con cháu thành đạt trên đủ mọi lãnh vực, từ giáo dục, khoa học kỹ thuật, chính trị, quân sự, văn học, âm nhạc. Đó là những đóng góp rất tích cực cho các quốc gia đón nhân họ, nhưng cũng là những chất xám quý báu mà chính quyền CS trong nước hằng mơ ước.
       Trong suốt 50 năm, kẻ chiến thắng đã cố tình biến miền Nam, vùng đất tự do văn minh hạnh phúc xinh đẹp một thời, trở nên nghèo nàn, khốn khổ hơn so với cái nôi “cách mạng” miền Bắc, nhưng rồi dù có bị đàn áp, bần cùng hóa. phân biệt đối xử đến đâu, người miền Nam vẫn luôn giữ được văn minh, nhân bản, và đất miền Nam vẫn luôn đáng yêu, đáng sống. Đã có hằng triệu triệu người dân miền Bắc bỏ quê cha đất tổ tìm vào đất phương Nam, mong được đổi đời. Mật độ dân số miền Nam, đặc biệt tại Sài gòn ngày một đông đúc, có khi gấp gần 5 lần so với tháng 4.1975, nhà cửa, cao ốc thi nhau dựng lên bừa bãi, đến nỗi nhiệt độ trở nên nóng bức trong cả mùa đông, và nhiều con đường phố đã trở thành sông, chỉ sau một cơn mưa, dù không lớn lắm. Ngay cả các tỉnh Cao Nguyên, miền Trung, giờ cũng đầy những người miền Bắc bỏ xứ vào đây lập nghiệp, giành nương chiếm rẫy của những người Thượng, vốn từng bao nhiêu đời khai sơn phá thạch, sống chết ở đây.
       50 năm, nền giáo dục “xã hội chủ nghĩa” lạc hậu, xuống cấp đã làm cho bao thế hệ học trò trở nên thua kém rất xa so với thế giới chung quanh. Đến nỗi một cô giảng viên trường Đại học sư phạm (Thái Bình) đã công khai trong một chương trình trên truyền hình Hà Nội, rằng “Tự Lực Văn Đoàn là một gánh cải lương, và ông Nhất Linh là ca sĩ cổ nhạc”. Tệ hại và tủi nhục hơn là tình trạng tha hóa trong ngành giáo dục, kể cả thầy giáo và hoc trò, Chuyện thầy giáo gạ tình, hiếp dâm nữ sinh cũng như chuyện học trò, kể cả nữ sinh, đánh nhau và đánh luôn cả thầy cô giáo, gần như là chuyện thường tình.
       Đặc biệt, ngôn ngữ Việt (cả tiếng nói lẫn chữ viết) bị biến cải một cách tùy tiện, ngốc nghếch, kể cả muốn Tàu hóa như trường hợp ông giáo sư tiến sĩ Bùi Hiền nào đó. Lịch sử (và môn Sử học) được dựng lên từ bao điều dối trá. “Anh hùng Lê Văn Tám” được xây tượng đài, đặt tên cho các con đường lớn, công viên, trường học, bắt học trò cả nước phải học tập, noi gương như một vị anh hùng. Thực chất, lại là một người không hề có thật, mà chỉ là nhân vật tưởng tượng trong một phim truyện của đạo diễn Phan Vũ, nhằm để tuyên truyền. Thực chất, lại là một người không hề có thật, mà chỉ là nhân vật tưởng tượng trong một phim truyện nhằm để tuyên truyền. Chính ông GS Trần Huy Liệu, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử VN đã thú nhận với GS Phan Huy Lê, nhân vật Lê Văn Tám là do mình “dựng” nên và nhờ GS Phan Huy Lê sau này khi đất nước yên ổn, nói lại giùm, lỡ khi đó ông Trần Huy Liệu không còn nữa. (GS Phan Huy Lê: Trả lại sự thật hình tượng Lê Văn Tám, Khoa Đông phương học). Và ông Phan Huy Lê đã công bố sự thật này vào tháng 2 năm 2005, nên người dân trong nước đều biết câu chuyện gian dối lừa mị này, vậy mà đảng và nhà nước vẫn không hề một lời lên tiếng.
       50 năm, nền văn học “xã hội chủ nghĩa” còn lại những gì, ngoài mấy trăm bài thơ nịnh Bác của đám văn nô, tiêu biểu cỡ Tố Hữu “Ta bên người, người tỏa sáng trong ta/ Ta bỗng lớn bên Người một chút…” hay “ Xta-lin ơi!/Hỡi ôi Ông mất, đất trời có không?/Thương cha, thương mẹ, thương chồng/Thương mình thương một, thương Ông thương mười), cùng các bản nhạc “đỏ”: Bác đang cùng chúng cháu hành quân, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây,Tiếng Chày Trên Sóc Bam Bo, Năm Anh Em Trên Một Chiếc Xe Tăng, Cô Gái Vót Chông… mà đám văn công hát đi hát lại trong mấy ngày lễ lớn, và tất nhiên chẳng ai còn muốn nghe, với họ có khi đó chỉ là một cách “tra tấn” thính giác của con người!
       Nhưng 50 năm với những bản tình ca miền Nam, một thời bị cho là nhạc vàng, cấm đoán, đến nỗi có người hát (như Toán Xồm, Lộc Vàng) đã từng bị đàn áp, tù đày để người phải bỏ mình, người thì gần cả một đời khốn đốn, giờ lại làm mê mẫn say đắm mọi người lớn nhỏ, kể cả những “đồng chí lãnh đạo”, công an, bộ đội, từ Nam ra Bắc, từ thành phố cho đến các hang cùng ngõ hẻm, vùng sâu vùng xa, Mà oái ăm thay, đa phần những bản nhạc tình ca này lại viết rất đẹp về lính VNCH, người lính “bên thua cuộc”.
      Trong một bài tiểu luận viết vào ngày 1.1.2022, dưới nhan đề “Níu một thời, giữ một đời”, nhà văn Ban Mai, một trí thức trẻ của chế độ (giảng viên tại Trường Đại Học Quy Nhơn) đã viết:
“Việt Nam, sau năm 1975 kết thúc chiến tranh giữa hai miền Nam – Bắc. Hòa bình đã đến sau mấy thập niên tang tóc vì bom rơi, đạn nổ.
     Thế nhưng, người Miền Nam đã không thể tưởng tượng nổi, tiếp sau đó là một thảm cảnh kinh hoàng… Trầm trọng hơn nữa: Sự xơ xác tinh thần của trí thức Miền Nam không còn được tự do trình bày suy nghĩ, không còn được tự do hấp thụ tri thức nhân loại. Thay vào đó là những đợt học tập chính trị triền miên, theo một định hướng duy nhất: Chủ nghĩa Marx.Tất cả sách báo, văn học nghệ thuật bị tịch thu tiêu hủy, nền văn chương Miền Nam hoàn toàn bị bôi xóa. Giống như thời man rợ của Tần Thủy Hoàng năm 210 trước công nguyên…
       Bắt đầu sau năm 1975, những thế hệ sinh ra và lớn lên ở Việt Nam không hề biết đã từng có một nền văn học nghệ thuật Miền Nam vô cùng gía trị với nhiều thể loại “trăm hoa đua nở”, đề cao tự do, dân chủ, với ý thức khai phóng, nhân bản, theo kịp trào lưu thế giới…
      Bên trong nước, mấy năm gần đây có một bạn trẻ Nguyễn Trường Trung Huy ở Sài Gòn cũng dày công sưu tầm Văn học Miền Nam và bộ sưu tập của bạn ngày một đồ sộ đáng cho ta kinh ngạc, đó là một kỳ công. Tôi tin rằng, trên đất nước Việt Nam này có nhiều người thầm lặng âm thầm tìm kiếm, lưu giữ một nền văn chương nhân bản mà ta tưởng rằng đã chết sau năm 1975. Ngày nay, giới nghiên cứu văn học trong nước đang ngày càng tìm kiếm để nghiên cứu, mới đây trong một đề thi luận văn bậc trung học phổ thông, có một giáo viên đã đem bài thơ “Ta về” của Tô Thùy Yên cho học sinh bình giảng, với những câu thơ đầy tính nhân văn:

“Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này”.

(Tô Thùy Yên là một sĩ quan VNCH, từng bị tù đầy qua nhiều trại giam trong gần 13 năm, sau tháng 4.1975)
Tuy đây chỉ mới là một hành động đơn lẻ nhưng đó là một tín hiệu vui.
       Tôi tin rằng, sẽ không còn bao lâu nữa dòng Văn chương Miền Nam (1954-1975) sẽ được đưa vào giảng dạy chính thức trong nhà trường, nó xứng đáng được trả về với đúng vị trí của nó trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam hiện đại, không ai và không một thể chế nào có thể bôi xóa một thời đại lịch sử của nước nhà. Giữ gìn, bảo tồn và chia xẻ Văn học Miền Nam cho đời sau là trách nhiệm của chúng ta, của tôi và các bạn những người yêu tiếng Việt, những người yêu văn chương Việt Nam”
       Một vị giáo sư khác trong nước, chuyên nghiên cứu về Văn Học Việt Nam đã khẳng định “Trong hai thập niên 1955-1975, nếu không có Văn Học Miền Nam, thì nền Văn Học Việt Nam xem như không hề có, hoặc chẳng có gì cả!”
       Nhà thơ, nhà giáo cũng là nhà báo nổi tiếng miền Bắc, Hoàng Hưng, trong bài viết “Về ảnh hưởng của Văn hóa miền Nam (VNCH) sau 1975”, sau khi hết lời ca ngợi lối sống, văn hóa, văn học miền Nam, đã kết luận:
“…nhìn một cách tổng thể, toàn bộ đời sống miền Nam, trong đó có đời sống văn hoá, văn học, trong 45 năm qua đã dần dần “giải phóng” người dân miền Bắc khỏi cái nhà tù lớn trong đó con người bị buộc phải giả tạo, “gồng mình” hoặc bị mê hoặc mà mù quáng tuân phục trong thời chiến và theo “định hướng XHCN….
       Đến nay nó vẫn tiếp tục đóng góp vào tiến trình “giải Cộng” gian lao của đất nước! Chắc chắn sẽ đến một ngày, đất nước chứng kiến một cuộc phục hưng văn hoá, văn học, đi tiếp con đường mà văn hoá, văn học miền Nam đã đi. Con đường Tự Do, Nhân Bản, Hội Nhập Quốc Tế.”

***

       Sau 50 năm, tất nhiên đất nước cũng đã có những đổi thay nhất định. Cơ sở hạ tầng, đặc biệt tại các đô thị có nhiều phát triễn, đời sống người dân ở đây có khá hơn so với nông thôn. Tuy nhiên trên thực tế, Việt nam vẫn còn tụt hậu khá xa so với nhiều nước chung quanh. Chính ông TBT Tô Lâm mới đây đã công khai tuyên bố: “Cách đây 50 năm vào những năm 1960-1970, Singapore chỉ mong được sang Bệnh viện Chợ Rẫy (Sài gòn) để chữa bệnh, giờ thì ta lại ước mơ được vào khám bệnh ở Singapore.”
       Theo thống kê của IMF (International Monetary Fund/Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế), lợi tức tính theo đầu người ở Việt Nam cho năm 2025 là 4,986 Mỹ kim (Mk), trong khi ở Singapore là 93,956 Mk, và so với hầu hết các quốc gia Đông Nam Á khác, mức sống của người dân Việt nam đều rất thấp:

-Hàn Quốc(Nam Hàn): 37,675 Mk
-Nhật Bản : 35,611 Mk
-Đài Loan : 34,944 Mk
-Malaysia : 14,423 Mk
-Thái Lan : 7,754 Mk

       Tệ hơn, Việt nam còn thấp hơn nhiều so với cả Mộng Cổ (Mongolia), một nước chỉ có đồng cỏ và sa mạc, với lợi tức trung bình của người dân năm 2025 ở đây là: 7,576 Mk.
Điều đặc biệt đáng chú ý hơn là trong hầu hết các quốc gia Đông Âu, mới giã từ chế độ CS khoảng 30 năm nay, người dân đều có lợi tức cao hơn nhiều so với Việt Nam (4,896 Mk).

-Tiệp Khắc (Czech Republic) = 33,038 Mk
-Hung Gia Lợi (Hungary) = 25,703 Mk
-Ba Lan (Poland) = 25,040 Mk
-Lỗ Ma Ní (Romani) = 21,570 Mk
-Bảo Gia Lợi (Bulgari) = 18,456 Mk

      Tuy vậy, chủ trương làm “kinh tế thị trường (với cái đuôi) theo định hướng XHCN” thực tế cũng đã làm giàu nhanh chóng cho hầu hết tầng lớp đảng viên, gia đình và phe nhóm, đưa họ sớm trở thành những nhà tư bản “đỏ”, đào thêm cái hố ngày càng sâu giữa giai cấp giàu (đảng) và nghèo (dân). Điều này hoàn toàn trái ngược mục tiêu “đấu tranh giai cấp” mà đảng CS từng hô hào; đấu tố, giết hại dã man hàng mấy vạn người vô tôi trong “Cải Cách Ruộng Đất”, lộ rõ chiêu trò lừa gạt “giải phóng miền Nam”, và hiện nguyên hình một đám thảo khấu khi chủ trương “tiêu diệt tư sản mại bản” rất tàn độc ngay sau khi cướp được miền Nam.

       Sự làm giàu bộc phát (và bất chính) của tầng lớp tư bản đỏ này đã kéo theo hiện tượng xuống cấp từ Giáo Dục, Văn Hóa, Y Tế, tha hóa về Đạo Đức, Xã Hội và cả Tôn Giáo. Đặc biệt nhất là vấn nạn thối nát, tham nhũng – tất nhiên ngay trong hàng ngũ đảng CS, kể cả những lãnh đạo cao cấp nhất, từ hàng tướng lãnh, thứ bộ trưởng, thủ tướng đến cả chủ tịch nước – như là một thứ quốc nạn không còn thuốc chữa. Chức quyền được chuyền tay theo kiểu “cha truyền con nối”, “gia đình trị” của thời phong kiến. Đảng đứng trên pháp luật, thu tóm mọi quyền lực, tài sản quốc gia. Đảng viên sống phè phởn giàu sang trên đầu những người dân cùng khốn. Đám con cháu, những “hạt giống đỏ”, được đưa sang du học tại các trường tư nổi tiếng ở các nước tư bản, tất nhiên bằng tiền của nhà nước hoặc từ tham nhũng, chuẩn bị cho các vai trò kế vị.

       Một ông thủ tướng (sau đó là chủ tịch nước) từng mở miệng khoe khoang “Việt nam bây giờ đang là một đất nước đáng sống nhất, cái cột đèn ở hải ngọai mà có chân thì cũng đã chạy hết về VN” (sic!). Trong khi ấy, hàng vạn cô con gái phải bỏ cha mẹ, người tình sang làm vợ cho những ông già bệnh hoạn, tàn tật ở tận Đài Loan, Nam Hàn, như một thứ nô lệ, kể cả nô lệ tình dục. Nhiều cô không liên lạc được với gia đình, Một số bị giết chết hoặc bị bán vào các động mãi dâm. Tại một số nước Á châu, báo chí công khai quảng cáo dịch vụ “mua vợ Việt Nam” với giá bằng một món đồ chơi rẻ mạt. Trong lịch sử dân tộc, dù có những giai đoạn lệ thuộc khó khăn, nhưng không có thời kỳ nào mà thân phận những người con gái, đàn bà Việt Nam lại rẻ rúng và thê lương như thế. Chính quyền đã “xuất khẩu” hàng vạn, hàng trăm ngàn người lao động đi khắp thế giới, ngay cả những nước nghèo ở tận châu Phi, nhằm kiếm sống và kiếm thêm ngoại tệ cho nhà nước. Đã vậy vẫn cứ tiếp tục những dòng người tìm mọi cách trốn khỏi Việt nam, để một số phải chết ngạt trong những chiếc xe đông lạnh, kín mít, một số phải sống trong núi rừng, trồng á phiện và bị bắt, vì không có quốc gia nào chấp nhận để dung thân. Một sự kiện đáng xấu hổ, khi nhóm chín người tháp tùng chuyên cơ của bà Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân trong chuyến viếng thăm “hữu nghị” Hàn Quốc, vào đầu tháng 12.2018, đã bỏ trốn khi vừa mới bước chân lên đất khách. Đó là chưa kể một số ra nước ngoài chỉ để ăn cắp, làm gái điếm, đến nỗi cái “hộ chiếu” Việt nam đã từng trở thành nỗi ô nhục.

***

       Sau đúng 50 năm, tại Sài gòn, trước cả mấy tháng, nhà nước CSVN đang chuẩn bị rầm rộ mừng ngày “Thống Nhất”, thao dượt một cuộc diễn binh rất qui mô mà tốn phí dự trù hằng chục triệu Mỹ kim, vẫn với lời ca “thề phanh thây uống máu quân thù” vẫn với các khẩu hiệu “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, hừng hực không khí kiêu ngạo, hận thù. Trong khi ấy, đã có những anh bộ đội có mặt trong đoàn quân giải phóng ngày nào, theo chân nhà văn Dương Thu Hương (ngồi khóc ở vệ đường, khi nhận ra mình bị lừa gạt để chém giết đồng bào, hủy hoại cả một miền Nam nhân bản, văn mình, giàu đẹp) giờ cũng đã tột cùng ăn năn hối hận, như trường hợp cựu cán binh Bình Ngọc với bài thơ “Xin Lỗi Tháng Tư!”:

Thời trai trẻ, gác bút nghiên, gác mọi ước mơ …lên đường ” đánh Mỹ!”
Cây súng trên vai, máu đỏ trong tim!
Mụ lí trí! Hùng hục vượt Trường Sơn.
Đêm nghỉ, ngày đi, giày vẹt gót , áo sờn vai thấm lạnh!
Mẹ còng lưng vắt kiệt sức, mỏi mòn, thao thức đợi con về!
“Ba mươi tháng Tư” Bên Thắng cuộc, hả hê
Con trở thành kẻ “kiêu binh!” trong đoàn “quân Giải phóng!”
Nhưng! Ba mươi tám năm sau con vô cùng thất vọng!
Không hiểu mình đi Giải phóng cho ai?
Chễm chệ trên cao, toàn những kẻ bất tài!
Đáy xã hội, nhiều “dân oan!” mất đất.
Những nghịch lý, tai ương…chồng chất!
Khoảng cách “sang, hèn” cứ rộng mãi ra.
Người ở “quê” không còn tha thiết với “ao nhà”.
Tràn vào Miền Nam “ngoạ, chiếm, xâm canh…từ núi, rừng, chợ búa, thị thành, lầu cao, gác tía ….!”

Đi đâu, ở đâu cũng gặp toàn người “ngoài ấy”.

Nhà cửa, ruộng vườn ngoài ấy họ bỏ hoang???
Quê Hương tôi, tên thật đẹp (làng Vàng).
Cũng có đình, chùa, bờ xôi, ruộng mật!
Không hiểu vì sao nhiều người “bỏ tất” để vào Nam chen lấn, đua đòi?
Riêng tôi!

Đã mấy năm nay, tôi đã làm kẻ “chạy trốn!”
Trốn khỏi “sai lầm” những năm, tháng …đã đi qua!

Mỗi tháng Tư về tôi lại nhớ vào Nam!
Xin lỗi ! “tháng Tư!”
Xin lỗi ! Miền Nam, những việc tôi đã làm!
Xin lỗi tất cả!
Cả những người “bên thua cuộc!”
Biết sao được !
Mọi người chúng ta sinh ra, đâu có thể chọn được thời cuộc
Nhưng! Lẽ đời, Đen, trắng phải phân minh!
Xin lỗi! “tháng Tư!”
Hãy tha thứ cho mình! Rất chân thành, chứ không phải lời giả dối.

Hay trường hợp của Trần Đức Thạch, cựu phân đội trưởng trinh sát, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 266, Sư đoàn 341, Quân đoàn 4, qua các bài thơ

Tạ Lỗi Miền Nam
Tôi sinh ra ở miền bắc
Không hình dung ra giặc thế nào
Người ta hô hào
Phải căm thù giặc…?
Người ta dạy tôi là người miền bắc
Phải biết thương yêu đồng bào miền nam
Bà con ruột thịt đang lầm than
Dưới gót giày của Mỹ Diệm…
Những người con nông dân thật thà như đếm
Mặc áo lính vai khoác súng lên đường
Hồn nhiên tin là đi bảo vệ tổ quốc quê hương
Đánh đuổi quân xâm lược…
Thống nhất đất nước
Mới ngớ ra “Quân ta đánh dân mình
Miền nam giàu và dân sống văn minh
Không đói khát vật vờ như dân miền bắc…”
Hận ngút trời đứa nào lừa tuổi xuân tôi coi dân mình là giặc!

Sám Hối

Thế hệ chúng tôi tội lỗi ngập đầu
Nhìn con cháu lòng muôn hổ thẹn…
Thế hệ chúng tôi một thời chinh chiến
Thắng lợi mang về là xua đuổi văn minh
Thắng lợi mang về là làm khổ dân mình
Để đểu cáng lên ngôi gây tội ác
Thế hệ chúng tôi hoàn toàn lầm lạc
Quên dân tộc mình theo chủ nghĩa Mác Lê Nin
Bệnh hoạn tư duy méo mó cách nhìn
Gieo thù hận trong lòng con cháu
Thế hệ chúng tôi đổ bao xương máu
Chẳng ý nghĩa gì khi dân tộc điêu linh
Chẳng ý nghĩa gì khi đất nước tanh bành
Lãnh thổ giang sơn bị ngoại bang gậm nhắm
Thế hệ chúng tôi cuộc đời cay đắng lắm
Mất chính mình mang tội ác với tương lai

       Riêng những người lính miền Nam, sau nhiều năm bị tù ngục, đọa đầy, nhiều gia đình ly tán, lưu lạc khắp bốn phương trời, nếu còn sống sót giờ cũng đã trên dưới 80, nhưng vết thương từ cuộc chiến bất hạnh ấy vẫn mãi luôn âm ỉ trong lòng. Một quãng đời trai trẻ, những vinh nhục, những đớn đau tức tưởi trong giờ khắc phải buông súng, cùng những món nợ máu xương chưa trả được cho đồng đội anh em, rồi cùng sẽ xót xa theo họ về cõi vô cùng.
Xin được đồng cảm với tâm sự của một đồng đội đàn anh, nhiều năm chiến đấu bên nhau, từng là một cấp chỉ huy trẻ tuổi, thao lược:
       “Tuổi đời chồng chất, sức khỏe và những hăng say của tuổi thanh xuân ngày tháng nguội dần. Tôi thấy cuộc sống mình hụt hẫng hoang mang. Mỗi năm lại vắng thêm đồng đội và rồi một ngày nào đó, cũng sẽ tới lượt mình. Điều tự nhiên này, thực chất chẳng phải là nỗi ưu tư bởi vì đó là quy luật. Nhưng điều làm tôi suy ngẫm là ý nghĩa về cuộc đời của chính mình, thế hệ chúng ta, qua những việc đã làm, những đau thương đã trải…thực sự là gì, hoặc chẳng là gì hết?”
Phạm Tín An Ninh
Cuối tháng 4-2025

 

Vài Điều Thú Vị Về Mật Ong
Bạn có biết rằng:
Một con ong sống chưa đến 40 ngày, chỉ sản xuất ít hơn một thìa mật ong trong suốt cuộc đời của nó nhưng đã phải bay và ghé thăm ít nhất 1.000 bông hoa.
Đối với chúng ta, đó chỉ là một thìa mật ong, nhưng đối với con ong, đó là câu chuyện của cả một cuộc đời.
- 🐝 Ong có hai dạ dày: một để nuôi sống bản thân và một để lưu trữ mật hoa, chúng biến mật hoa thành mật ong.
- 🐝 một thìa mật ong đủ để duy trì sự sống của một người trong 24 giờ
- 🐝mật ong chứa một chất giúp não hoạt động.
- 🐝mật ong là một trong số ít thực phẩm trên trái đất có thể duy trì sự sống của con người.
- 🐝 Ong đã cứu người dân khỏi nạn đói ở Châu Phi.
- 🐝Keo ong do ong sản xuất là một trong những loại kháng sinh mạnh nhất của tự nhiên.
- 🐝Mật ong không có ngày hết hạn.
- 🐝 thi thể của những vị hoàng đế vĩ đại nhất thế giới được chôn trong quan tài bằng vàng và sau đó phủ mật ong để ngăn chúng thối rữa.
-🐝 thuật ngữ "tuần trăng mật" xuất phát từ thực tế là cặp đôi trẻ đã tiêu thụ mật ong để sinh sản sau khi kết hôn.
- 🐝 mật ong chứa các enzyme sống. Thìa kim loại giết chết các enzyme này. Cách tốt nhất để tiêu thụ mật ong là sử dụng thìa gỗ, nếu không, bạn có thể sử dụng thìa nhựa.
- 🐝một trong những đồng tiền đầu tiên trên thế giới có hình con ong
Cảm ơn, những chú ong thân yêu! 🐝🐝 🐝
Sưu tầm/nguoiphuongnam
Uống nước từ loại cây quen thuộc này khiến tế bào ung thư tự tiêu hủy?

Vào năm 2014, các nhà nghiên cứu Israel đã phát hiện ra một phương pháp khiến các tế bào ung thư tự hủy diệt. Câu chuyện bắt đầu khi một nông dân tên Benny Zabidov, sống tại trang trại Kfar Yedidya thuộc vùng Sharon, nhận thấy ngày càng có nhiều bệnh nhân ung thư tìm đến trang trại của mình để xin cây sả tươi.

Những bệnh nhân này cho biết họ được chính bác sĩ khuyên nên uống 8 cốc trà sả mỗi ngày, pha từ sả tươi ngâm nước sôi, đặc biệt trong những ngày họ đang trải qua quá trình xạ trị và hóa trị.

 
Vào năm 2013, các nhà khoa học tại Israel đã phát hiện rằng tinh dầu trong cây sả có khả năng kích thích các tế bào ung thư tự tiêu hủy trong ống nghiệm

Vào năm 2013, các nhà khoa học tại Israel đã phát hiện rằng tinh dầu trong cây sả có khả năng kích thích các tế bào ung thư tự tiêu hủy trong ống nghiệm

Việc điều trị ung thư bằng sả bắt nguồn từ các nghiên cứu của trường Đại học Ben Gurion (BGU) ở Negev, Israel. Vào năm 2013, các nhà khoa học tại đây đã phát hiện rằng tinh dầu trong cây sả có khả năng kích thích các tế bào ung thư tự tiêu hủy trong ống nghiệm, trong khi các tế bào khỏe mạnh không bị ảnh hưởng.

Dẫn đầu nghiên cứu là bác sĩ Rivka Okir và giáo sư Yakov Weistein, thuộc phân khoa vi sinh học và miễn dịch học của BGU. Theo bác sĩ Okir, họ đã tìm ra một hợp chất trong dầu sả có khả năng kích hoạt quá trình "chết tế bào theo chương trình" ở các tế bào ung thư. Khi sử dụng lượng tinh chất từ 1g sả, quá trình này được thúc đẩy mạnh mẽ, khiến tế bào ung thư tự hủy diệt.

 
Tinh chất sả tiêu diệt tế bào ung thư, tế bào lành vẫn duy trì trạng thái bình thường

           Tinh chất sả tiêu diệt tế bào ung thư, tế bào lành vẫn duy trì trạng thái bình thường

Để kiểm chứng, nhóm nghiên cứu đã thêm các tế bào lành vào thử nghiệm với tỷ lệ tương đương tế bào ung thư. Kết quả cho thấy, trong khi tinh chất sả tiêu diệt tế bào ung thư, tế bào lành vẫn duy trì trạng thái bình thường.

Trong các tế bào bình thường, khi phát hiện hệ thống kiểm soát hoạt động không đúng cách, tế bào sẽ tự kích hoạt quá trình hủy diệt, hay còn gọi là chết tế bào theo chương trình. Giáo sư Yakov Weinstein giải thích rằng đây là cơ chế tự nhiên giúp bảo vệ cơ thể khỏi những tổn thương. Nghiên cứu của họ đã chỉ ra tiềm năng y học của cây sả trong việc hỗ trợ tiêu diệt tế bào ung thư.

Nghiên cứu đã chỉ ra tiềm năng y học của cây sả trong việc hỗ trợ tiêu diệt tế bào ung thư

       Nghiên cứu đã chỉ ra tiềm năng y học của cây sả trong việc hỗ trợ tiêu diệt tế bào ung thư

Thành công này dẫn đến kết luận rằng tinh dầu từ cây sả có khả năng tiêu diệt tế bào ung thư, như đã được chứng minh tại Đại học Ben Gurion (BGU). Các kết quả nghiên cứu đã được công bố rộng rãi trên truyền thông, khiến nhiều bác sĩ ở Israel bắt đầu tin tưởng vào tiềm năng mở rộng của những phát hiện này. Tuy nhiên, các chuyên gia vẫn khuyến cáo bệnh nhân kết hợp nhiều phương pháp điều trị khác nhau, bao gồm cả việc sử dụng trà sả như một phương pháp bổ trợ trong cuộc chiến chống ung thư.

Nghiên cứu này đã được công bố trên tạp chí khoa học Planta Medica và nhanh chóng thu hút sự chú ý từ các phương tiện truyền thông.

 
Các chuyên gia vẫn khuyến cáo bệnh nhân kết hợp nhiều phương pháp điều trị khác nhau, bao gồm cả việc sử dụng trà sả như một phương pháp bổ trợ trong cuộc chiến chống ung thư

      Các chuyên gia vẫn khuyến cáo bệnh nhân kết hợp nhiều phương pháp điều trị khác nhau,

  bao gồm cả việc sử dụng trà sả như một phương pháp bổ trợ trong cuộc chiến chống ung thư

Điều này cũng giải thích vì sao trang trại của Benny Zabidov, nơi duy nhất từng trồng sả tại Israel, đã trở thành điểm đến của nhiều bệnh nhân ung thư. May mắn thay, họ đã tìm được sự hỗ trợ quý báu. Benny luôn niềm nở tiếp đón những người đến trang trại với ấm trà sả và đĩa bánh ngọt.

"Cha tôi mất vì ung thư, chị dâu tôi cũng qua đời sớm vì căn bệnh này. Vì vậy, tôi hiểu nỗi đau họ phải chịu đựng. Tôi không phải bác sĩ, nhưng tôi biết lắng nghe. Bệnh nhân thường kể với tôi về những liệu pháp điều trị tốn kém mà họ phải trải qua. Tôi không bao giờ khuyên họ dừng điều trị, nhưng tôi nghĩ rằng uống trà sả cũng là một sự hỗ trợ tốt cho họ." Benny chia sẻ.

Khả Vy   



Cơn gió bụi
Yahoo/Boîte récept.
  • 'CATHY' via HUONGXUAN2016 
    Se désabonner
    À :CAT BUI,Hương Xuân
    ven. 18 juill. à 21 h 13

    Image en ligne
    Nguyễn Duy Liễu, Hoàng Hải Thủy, Phụng, Thái Thanh…

    Saigon, Ngày 1 Tháng 5 Năm 1975.
    Một không khí nặng nề với sự hốt hoảng quanh vùng Saigon Chợ lớn và Gia định. Trên gương mặt của mọi người, từ già đến trẻ, ai cũng đều ngơ ngác, sợ hãi và gần như là đang chờ đợi một hung tin, một đoàn quân hung bạo sắp đến. Vài chiếc xe thiết giáp nằm trên vài con đường, với những xác của chiến sĩ VNCH vẫn còn nằm tại đây. Các anh đã chết để bảo vệ quê hương với những viên đạn cuối cùng. Can đảm thay người chiến sĩ Cộng Hòa! Những người chiến sĩ còn lại đa số cởi bỏ quân phục, bỏ súng và đang ngồi chờ đợi những gì sẽ đến với số phận mình. Tôi đang ngồi trong nhà. Đóng cửa, khóc cho số phận tôi và số phận của đất nước Việt Nam. Tôi thầm nghĩ, thôi cuộc đời đã chấm dứt rồi!
    Sau hơn một tuần lễ. Chính quyền mới ra lệnh các nhân viên công sở và công nhân hãng xưởng, trở lại làm việc. Chúng tôi đến trình diện tại nhiệm sở. Chúng tôi không dám mặc đồng phục của Hàng Không Việt Nam. Ai cũng tìm lấy chiếc quần đen và chiếc áo chemise trắng mặc vào.
    Vô đến nhiệm sở với những người bạn, những gương mặt sợ sệt, nói chuyện để hỏi nhau, ai còn ở lại, ai đã ra đi. Chúng tôi bị đi học tập tại chỗ. Tôi rất sợ, vi gia đình tôi, có một anh trai là thiếu tá, và một anh rể là thiếu tá không quân. Cả hai anh đều là phi công và đã ra đi. Bài giảng đầu tiên, người ủy viên Cộng Sản đã nói. Mở đầu anh ta chỉ trích “ngụy quân, ngụy quyền” mà đặc biệt nói mạnh về tội của “mấy tên giặc lái” (phi công). Ngày hôm sau chạy về bên nhà mẹ tôi. Căn nhà đã bỏ trống, tôi thu dọn tất cả quần áo sĩ quan, quần áo kaki của anh tôi. Tôi phải chờ đêm đến, đem tất cả đồ đạc của anh tôi ra gốc cây, rồi bỏ nơi đó. Anh Lê Trọng Nguyễn, làm chức vụ cao trong Hãng Xưởng Lọc Dầu Mekong của Nguyễn Ngọc Linh, anh bị coi như là một tư chức cao cấp, phải đi cải tạo chung với “ngụy quyền”. Anh LTN còn phải nhận thêm một tội nữa là tội của một nhạc sĩ đã làm ra nhiều bài nhạc ủy mị, sau nầy gọi là “nhạc vàng”. Anh LTN cũng đi học cải tạo thêm một tuần chung với anh chị em văn nghệ sĩ thời đó. Nhưng được học tại Saigòn. Sáng đi học cả ngày, tối đi về nhà.
    Những chuyến bay Air VN đã ngưng hoạt động trên 3 tháng. Nhân viên ngồi chờ lệnh, chờ người thủ trưởng của chính quyền mới đến để tiếp thu. Vào khoảng tháng 7 năm 1975, đường bay được mở lại với Hồng Thập Tự Quốc Tế, (International Red Cross). Một phản lực cơ 707 rất lớn. Lá cờ của Thụy sĩ ngang nhiên được tô đậm trên thân chiếc phi cơ.
    Đối với người dân VN nói chung, và chúng tôi nói riêng, đoàn đại diện Red Cross là hiện thân của “Tình Người”. Họ là hình bóng của Thiên Thần trong khoảng thời gian nầy. Họ đến để rước các người có quốc tịch Pháp về nước và Ấn Kiều đưa trả về Ấn Độ. Nhìn họ rước nhiều người ra đi. Chúng tôi cùng khóc, khóc cho thân phận mình còn ở lại.
    Đời công chức, sống bằng lương hàng tháng, từ vài tháng nay chúng tôi đã sống bằng “tự mình lo” có nghĩa là kiếm được gì thì sống như vậy. Bộ đội và người miền Bắc đã vào và bắt đầu đi tìm kiếm để mua đồ đạc, cái gì cũng mua. Việc đầu tiên chúng tôi phải lo bán là bán chiếc xe hơi vì không có xăng để chạy. Bán xong chiếc xe hơi Simca, đủ tiền để chúng tôi đi mua 2 chiếc xe đạp. Ôi! Thời sung sướng nay con đâu! Suốt ngày những bài hát Việt cộng oang oang ngoài cửa nhà:

    “Mùa xuân nầy về trên quê ta
    Khắp đất trời đẹp tươi như hoa …”

    Thật là mỉa mai. Tôi bịt lỗ tai và bước ra hiên để đóng cửa lại. Giọt mưa còn đọng trên mái nhà rớt xuống mặt tôi hay giọt nước mắt của tôi! Đồng hồ, radio của gia đình ngày xưa không xài, đã bỏ vào garage. Bây giờ đem ra bán với giá rất cao. Nhờ vậy mà sống được qua những ngày đầu của cuộc đổi đời nầy. Đặc biệt các phụ nữ miền Bắc đi tìm kiếm mua quần áo của các phụ nữ miền nam, và miền nam thì cái gì cũng đem ra bán để đổi lấy gạo cơm cho gia đình.
    Cũng là may, ngày xưa cứ mỗi tháng lãnh lương đi may áo mới, nên bây giờ có được một số áo dài, từ từ đem ra bán. Tôi đem áo dài hoa đủ màu, đem ra “chợ trời” bán để kiếm tiền mua sữa (sữa ngoại quốc rất mắc) cho 2 đứa con 3 tuổi và 2 tuổi.
    Từ 5 tháng trước, các sĩ quan đã được lệnh đi trình diện cải tạo với lời tuyên truyền là phải đem theo lương thực trong 10 ngày. Nhưng đã 10 tháng rồi chưa được về. Các người vợ, người mẹ mới rõ hơn về sự nói láo của cả một chế độ CS, từ trên xuống dưới. Vài tháng kế đó, nhiều gia đình bị “đánh tư sản” và bị đuổi đi ra ngoài làm ruộng gọi là đi “kinh tế mới”. Lần đầu tiên đổi tiền. Mọi người chỉ đổi được 200 tiền VC, còn bao nhiêu thì đưa nhờ người khác đổi, hoặc là hủy bỏ!
    Sự thật đau lòng. Hình ảnh của một đoàn người đi “tiếp thu” măc quần áo xốc xếch giống như những người ở rừng sâu về! Vào đến văn phòng, ngồi co hai chân lên, chúng ta gọi là ngồi “chồm hổm”. Nói chuyện bằng những danh từ rất tự cao tự đại, nói khoác, như là biết tất cả sự việc. Nhưng thật ra là đầu óc trống rỗng. Than ôi! tôi nghĩ trong bụng: đây là những lớp người tiêu biểu cho chế độ mới, đây là những người cầm vận mệnh của lớp tuổi thanh niên Việt Nam! Tương lai của thế hệ trẻ sẽ đi về đâu?
    Tôi được Hàng Không VN chỉ thị huấn luyện cho một vài người đến làm việc.Trong lúc làm, 1 chị cán bộ kêu tôi đến xem chị đang làm list Tài Chánh, chị ta nói chị đang làm danh sách “chè, que”. Tôi ngẩn người, sau một lúc tôi mới biết là làm list cho các chèques (checks) của chế độ cũ để lại. Nhưng rồi sau 6 tháng lưu nhiệm tôi đã được “cám ơn”, về nhà nghỉ việc. Tôi đã hoàn toàn thất nghiệp. Tôi tự hỏi những cơn giông bão miền Trung, rồi đến những con mưa ngập đường Sàigòn, có não lòng bằng cơn mưa trong lòng tôi chăng? Tôi phải tự sống còn nên chuyển qua việc buôn bán, qua đường dây chuyển ngân, và mua thuốc tây bằng cách gửi quà về VN, đem về bán sỉ tại chợ Tân Định. Thời gian nầy, tôi nhờ chị Hồng, tức là bà bác sĩ Kim Thanh Xuân, một người bạn làm chung Air VN, đã đến sinh sống tại Pháp 2 năm nay. Chị Hồng gửi thuốc tây cho tôi bán để kiếm lời và sống qua ngày. Tôi tạm sống qua ngày. Mỗi tuần tôi dành thì giờ đến tâm tình với nhóm bạn tôi: An Phạm và Bùi T Lang, Minh Thăng, để tâm sự và rồi tìm cách kiếm sống cho gia đình và cho chính mình.
    Khi tôi ra ngoài chợ, hay xem Tivi, thấy được những tiếng Việt Nam mới rất kỳ quái, xuất hiện trên “thị trường văn chương mới”. Tại các nơi buôn bán, tôi thấy có khách người miền Bắc tìm kiếm mua radio cũ, anh ta nói muốn mua một “cái đài”. Các người trong chợ lúc đầu không hiểu là anh muốn mua một cái radio nhưng sau nầy họ đều hiểu và buôn bán qua lại vui vẻ. Ban ngày thì lo kiếm sống. Tối về, niềm vui duy nhất là nghe đài BBC và VOA để biết tin tức ngoại quốc. Đôi khi đang xem tivi bị trục trặc, phải ngưng, chúng tôi được báo tin là “sự cố kỹ thuật”. Vào làm việc với người thủ trưởng, ông ta muốn nói làm nhanh lên thì lại nói là “khẩn trương”. Một bữa tiệc đãi các người khách với các món ăn ngon, trong những nhà hàng sang trọng, các thủ trưởng nói là bữa tiệc thật “hoành tráng”. Một số cán bộ, bộ đội đã bắt đầu thích uống cà phê trong tiệm. Vào trong quán gọi ngay một ly cà phê “cái nồi ngồi trên cái cốc” (café fin). Cá nhân tôi đã không còn tiền để có thể ăn sáng mỗi ngày như xưa, nên vào cửa hàng quốc doanh. Tôi thấy ở đây bán phở với 2, 3 giá khác nhau. Giá rẻ nhất, đó là “phở không người lái” tức là phở với nước súp không có thịt. Danh từ thô thiển đã được phát xuất từ tầng lớp “cách mạng” từ lâu rồi. Có thể từ trong thôn quê miền Bắc những danh từ quá khác biệt và không thể tưởng tượng được. Xã hội, nền văn minh của Bắc và Nam khác nhau xa quá. Những người “cách mạng” nầy không dùng ngôn ngữ trong sách vở văn chương Việt Nam. Đặc biệt hơn nữa, là những cử chỉ khi nói chuyện thì quá ư là không lễ phép chút nào. Một chế độ mà từng lớp người nòng cốt phải là “chuyên chính vô sản” và có thể là không được đi học nên đã sanh ra những danh từ mới nầy. Một ông thủ trưởng chức vụ là bác sĩ đã đến tiếp thu một bịnh viện, nhưng mỗi tuần ông bác sĩ phải đi học “bổ túc văn Hóa” vì ông ta chưa học hết lớp 6. Là những chứng nhân của cuộc “đổi đời”, chúng tôi chứng kiến những câu chuyện nầy, chúng tôi rùng mình. Nguy hiểm thay, những người nầy sẽ là những người sẽ “giáo dục” đàn con của chúng ta. Nghe thật là đau đớn. Thật là cười ra nước mắt, khi nghĩ đến các con mình phải tiếp nhận sự dạy dỗ của những người đại diện cho “đỉnh cao trí tuệ” nầy.
    Năm 1976, tôi lại sanh được một con gái, đặt tên là Minh Thư. Chồng tôi đưa tôi đến sanh tại dưỡng đường Saint Paul như mấy lần trước. Nhưng hôm nay đến, dưỡng đường Saint Paul chỉ còn là bốn bức tường và những chiếc giường. Những máy móc tối tân đã bị tháo gỡ đem về miền Bắc. Nằm trên giường sanh, tôi lo sợ thiếu thuốc, phải nhờ người nhà từ ngoại quốc gửi về. Sau cuộc đổi tiền, vật giá vẫn leo thang đã làm người dân càng nghèo hơn trước nhiều. Chợ trời là nơi buôn bán để kiếm ăn qua ngày.Trộm cắp và lường gạt nhiều hơn trước. Ông chồng tôi ngày nào cũng dạy 3 đứa học trò đến học nhạc, xong là xách xe đạp đi tìm các bạn: Mai Thảo, Phạm Đình Chương, nhà văn Hoàng Hải Thủy ở các quán nhậu đã hẹn hò. Sau nầy tôi mới biết, không phải chỉ nhậu không thôi mà các nhóm nầy họp để tìm đường đi, không phải ra đi “tìm đường cứu nước” như ông HCM, mà ý muốn là tìm đường vượt biên.
    Những năm 79- 80 chồng tôi và tôi vẫn có dịp gặp gỡ các bạn nghệ sĩ. Thỉnh thoảng gặp nhau nơi một villa sang trọng trên đường Yên Đỗ. Đó là tư gia của cha mẹ người bạn tên NXN. Anh NXN, một sinh viên tốt nghiệp từ Pháp về. Chúng tôi thỉnh thoảng họp mặt với các văn nghệ sĩ Thái Thanh, Phạm Đình Chương, Mai Thảo và hai anh bạn nữa. Có một đêm đang vui, chị Thái Thanh hát nhạc xưa. Các ông đang say mê đàn hát, tôi sợ quá phải chạy ra đóng chặt cửa lại, nếu không thì sẽ bị đem về bót. Anh LTN không bao giờ nghĩ đến chuyện ra đi một mình vì anh nặng tình vợ con. Cuối cùng nhà văn Mai Thảo đã đi được sang Mỹ, kế đến là nhạc sĩ Phạm Đình Chương cũng ra đi êm xuôi.
    Bạn bè còn lại là anh Hoàng Hải Thủy và Nguyễn Duy Liễu, chủ bút Saigon Post. Chúng tôi có dịp đến chơi nhà anh chị HHT, một nơi rất ấm cúng của đôi uyên ương tuyệt vời. Và sau đó ít lâu, anh HHT đã bị bắt và đi tù lâu dài. Việc này làm anh Lê Trọng Nguyễn rất lo sợ. Thường là vậy, bạn bè cũng sẽ bị lây. Anh HHT bị tù và đem đi nhốt cách biệt ở một nơi xa. Anh LTN trở thành kẻ cô đơn thêm nữa nên tính tình càng xuống dốc. Đã có một lần tôi có ý định bỏ lại tất cả, ôm 3 đứa con ra đi, để anh lại với Mẹ già và một người cháu. Anh LTN kinh hoàng, bớt đi ra ngoài đường để uống rượu. Nhiều người bị bắt quá, anh sống trong lo sợ phập phòng. Anh bắt đầu làm đàn guitar mandoline để bán.
    Tôi sống trong nỗi khổ nhưng cố gắng tìm nguồn an ủi là đến chơi gần gũi với các bạn. Tôi tìm được niềm vui nơi các bạn Hàng Không Việt Nam: An Phạm, có chồng là anh Hiệp đi cải tạo lâu dài. BTlang, Minh Thăng và vài bạn nữa. Gặp gỡ nhau cùng với anh Nguyễn Duy Liễu. Nhân dịp nầy anh Liễu đã làm bài thơ “Let’s Come Closer”, và anh LTN đã phổ nhạc thật hay. Anh Liễu là thầy dạy Anh Văn cho các con của An Phạm. Cuộc đời đau khổ bên nhau, niềm vui chưa được lâu dài thì một người bạn thân yêu của chúng tôi, Minh Thăng cùng hai con đã chết, và hai con của An Phạm đã mất trên đường đi vượt biên tìm tự do. Ôi! Cái giá của tự do, người Việt Nam đã phải trả quá đắt!
    Năm 1981 tôi nhận được tin gia đình từ USA với giấy bảo lãnh của ODP (Orderly Departure Program) dưới sự bảo lãnh của mẹ tôi. Tôi đã có giấy nhập cảnh và đang chờ xuất cảnh. Chạy giấy xuất cảnh là một chuyện rất gian nan. Một nhân vật cao cấp tôi được quen, vì tôi làm bên Hàng Không và ông làm bên Bộ Nội Vụ, ông là người rất tên tuổi, ông Năm Thạch. Kế đến là ông Đại tá Mai (đại tá vc làm trong phi trường). Mấy ông nầy đã gặp tôi và bằng lòng giúp tôi. Tôi nhận được giấy xuất cảnh, vào tháng 10 năm 1982. (Khi chúng tôi đi phỏng vấn, anh LTN cố gắng đưa vào 2 tờ giấy chứng nhận anh đã làm cho MACV- 1965-68). Chúng tôi được xuất cảnh, và được lên danh sách chuyến bay, sẽ ra đi trong 3 tuần tới. Nhưng thật là trở ngại, tôi đang mang bầu và sắp sanh, phải tự chạy đến văn phòng HKVN, bây giờ toàn người mới, tôi xin đình hoãn chuyến bay nầy.
    Đầu tháng 12, 1982, tôi sanh được một cháu trai, đặt tên Lê Trọng Phúc. Ngày đầy tháng của cháu Phúc, bạn bè nhiều người đã trốn thoát, chỉ còn anh Hoàng Hải Thủy đến cho một hộp sữa ngoại quốc, món quà nầy, lúc đó thật đầy tình thương và rất quý giá.
    Tôi đã dời được chuyến bay, ra đi vào 3 tháng sau, ngày 11 tháng 3, 1983. Một sáng thật đẹp trời, chúng tôi đã đến phi trường Tân Sơn Nhất làm đủ thủ tục xuất ngoại. Họ khám xét tỉ mỉ quá làm anh LTN cũng khiếp vía, xanh mặt tưởng bị bắt ở lại. Tiếng khóc của trẻ thơ cũng làm chúng tôi thêm bối rối. Sau cùng chúng tôi đã ra khỏi vòng đai kiểm soát của Công An. Cả gia đình đã bước lên phi cơ. Các người tiếp viên đến giúp buộc dây an toàn cho các con nhỏ. Tiếng nổ của phản lực. Kế đến là tiếng báo tin của tiếp viên là phi cơ sắp sửa cất cánh. Không khí hơi khó thở. Một giờ sau, tiếp viên hàng không nói là phi cơ sắp đáp xuống phi trường. Tiếng bánh phi cơ chạm vào đất, ngay lúc đó chúng tôi biết là đã hoàn toàn đến Bangkok. Anh Lê Trọng Nguyễn bình tĩnh hơn, uống một ngụm nước, cười và nói: “Yên rồi, đã ra khỏi Việt Nam rồi”. Niềm vui pha lẫn niềm cay đắng của một gia đình phải bỏ xứ ra đi, chỉ mong được hai chữ tự do cho hiện tại, và xây đắp tương lai cho những đứa con của mình.

    Image en ligne

    Nhã Ca, Kiều Chinh và Nga Nguyễn
    Lê Nguyễn Nga


CHUYỆN HAI CÁI BỊ


Câu chuyện kể về một đôi vợ chồng trẻ vừa dọn đến ở trong một khu phố mới.

Sáng hôm sau, vào lúc hai vợ chồng ăn điểm tâm, người vợ thấy bà hàng xóm giăng tấm vải trên giàn phơi.

“Tấm vải bẩn thật” – Cô vợ thốt lên. “Bà ấy không biết giặt, có lẽ bà ấy cần một loại xà phòng mới thì giặt sẽ sạch hơn”.

Khi ấy, người chồng nhìn thấy nhưng vẫn lặng im. Thế rồi, vẫn những lời bình phẩm ấy cứ thốt ra từ miệng cô vợ mỗi ngày, sau khi nhìn thấy bà hàng xóm phơi đồ trong sân. 

Một tháng sau, vào một buổi sáng, người vợ ngạc nhiên vì thấy tấm vải của bà hàng xóm rất sạch, nên cô nói với chồng: “Anh nhìn kìa! Bây giờ bà ấy đã biết cách giặt tấm vải rồi. Ai đã dạy bà ấy thế nhỉ?”.

Lúc này, người chồng đáp: “Không. Sáng nay anh dậy sớm và đã lau kính cửa sổ nhà mình đấy!”. 

Thực ra mỗi người trong chúng ta, ai cũng đều giống như cô vợ trong câu truyện kia. Chúng ta đang nhìn đời, nhìn người qua lăng kính loang lổ những vệt màu của cảm xúc, bám dày lớp bụi bặm của thành kiến và những kinh nghiệm thương đau. Chúng ta trở nên phán xét, bực dọc và bất an trước những gì mà tự mình cho là “lỗi lầm của người khác".

Thực ra, không phải là thế giới có vấn đề, hay người khác quá sai, mà vấn đề nằm chính ngay ở tâm ta. Khi nhìn đời bằng cái tâm có vấn đề, mang đầy những cảm xúc và thành kiến tiêu cực, thì chúng ta thấy ai cũng thành sai quấy, đụng chuyện gì cũng hóa tổn thương. 

Ở đời, con người luôn có hai xu hướng: Nhìn những thứ mình thích, những người mình thương với cặp mắt kính màu hồng. Ngược lại, nhìn những việc mình không muốn, những người mình không ưa bằng chiếc kính tiêu cực màu đen.

Tìm lỗi của người khác, là tự mang rác rưởi của họ về cất trong nhà. Mỗi phút chúng ta để tâm đến chuyện không tốt, thì mất đi một phút vui vẻ không thể lấy lại. Cuộc đời ngắn ngủi lắm, sẽ chẳng ai có khả năng và trách nhiệm níu giữ cho ta những thời khắc sinh mệnh đang vùn vụt trôi qua. Vậy chúng ta có còn muốn phí hoài cuộc sống để đi phán xét những sai lầm của người khác?

Cách mà chúng ta nhìn người khác, thực ra là đang phản ánh nội tâm của chính mình. Một người đang túng thiếu sẽ thấy khó chịu với những ai dư dả. Một người sân hận sẽ luôn thấy người khác công kích và chọc tức mình. Một người không thành thật sẽ thấy mọi người đầy gian trá.

Hầu hết những cảm xúc và suy nghĩ tiêu cực đó, đều khởi sinh từ một tâm thức thiếu bình an. Nên điều mà chúng ta cần làm, là quay trở vào bên trong để nuôi dưỡng mảnh đất tâm mình vốn đang ngập đầy giông bão. Bao nhiêu người trong số chúng ta vẫn đang hằng ao ước có được “một chiếc vé đi về tuổi thơ”? Đã bao lâu rồi chúng ta không thể nở một nụ cười trọn vẹn?

Con người do cố chấp mà đeo lên những cặp kính đầy phiền não, những cặp kính sai lầm ngăn cách chúng ta với hạnh phúc hiện tại. Chỉ cần một lúc nào đó đủ dũng cảm tháo bỏ cặp kính ấy đi, thì cuộc đời sẽ hiện ra tươi mới, thế giới sẽ là chỗ để chúng ta trải nghiệm những phúc lạc đủ đầy. []

CHỚ VỘI TIN TƯỞNG - CHỚ VỘI PHÊ PHÁN (CÓ MỘT ĐỆ TỬ HỎI ĐỨC PHẬT - 4 ĐIỀU BẤT KHẢ)

      https://phtq-canada.blogspot.com/2019/08/cho-voi-tin-tuong-cho-voi-phan-xet.html

https://phtq-canada.blogspot.com/2019/06/phan-xet-nguoi-khac.html

http://phtq-canada.blogspot.com/2014/03/luong-tam-va-phat-tam.html

http://phtq-canada.blogspot.com/2011/06/phuoc-bau-phat-hoc-tinh-quang-so-15.html

 

Inline image

 

Tôi Ghét Tôi
  • Một người bạn Mỹ cuả tôi vưà có đại tang. Ông cụ thân sinh bạn tôi đã ngoài 80 tuổi, sống một mình ở Charleston, tính tình rất độc lập như những nhân vật miền Nam trong các tiểu thuyết cuả William Faulkner, John Steinbeck ...

     

    Người bạn Mỹ là một chuyên viên tài chính cho một công ty thương mại lớn ở Hoa Thịnh Đốn. Công việc làm anh ta bù đầu, mỗi tuần chỉ ở Hoa Thịnh Đốn có hai ngày. Những ngày còn lại, anh ta ở Nữu Ước, nơi có actions, như bạn tôi vẫn nói. Đại lộ số 5, đại lộ Madison thị trường chứng khoán.....Những thứ đó làm bạn tôi không lúc nào ngơi tay, rảnh trí để nhớ đến ông bố sống một mình ở Charleston.

     

    Bạn tôi thực ra, vẫn hay nói đến ông cụ, trên bàn giấy làm việc có cả một bức hình cuả ông cụ, điều rất hiếm thấy nơi những người Mỹ, hình ảnh thường chỉ là vợ, con hay bạn gái....Cụ đội mũ Panama, hút xì gà, sơ mi sọc, quần mở gà, nơ đỏ, hai sợi dây đeo rất đỏm dáng. Trong hình, cụ cười hể hả như Theodore Roosevelt vưà hạ được một con sư tử ở Phi Châu. Cụ bà qua đời hơn hai chục năm trước. Cụ ông sống một mình vì bạn tôi đã lớn và công việc đưa anh càng ngày càng xa Charleston.

     

    Thình lình, cụ bị đột qụy, lúc đang làm vườn và ra đi nhanh chóng. Bạn tôi cuống cuồng bay từ Nữu Ước xuống Charleston, nhưng không kịp. Tang lễ xong, bạn tôi trở về Hoa Thịnh Đốn, rủ tôi đi ăn. Buổi tối hôm ấy bạn tôi buồn bã kinh khủng.

     

    Ở Mỹ, những chuyện ra đi như vậy không làm người ta xúc động quá nhiều. Ông Baker trong lúc đang ở Trung Đông trong chuyến đi vận động hoà bình thì cụ bà mất. Ông bỏ ngang chuyến đi để trở về Mỹ, Ngoại Trưởng Mỹ lại bình thường xuất hiện ở cuộc họp báo. Nhiều người xúc động, đau đớn khi con chó, con mèo trong nhà chết còn hơn là khi những người thân như ông bố, bà mẹ qua đời. Nhiều ngươi tiêu rất nhiều tiền cho tang lễ (?) cuả những con chó, con mèo và căn dặn khi chết, xin đem cải táng những con vật nầy và đem chôn bên cạnh cho cuộc đời sắp tới đỡ cô đơn.

     

    Lúc ăn xong, ngồi uống cà phê, bạn tôi mới cho biết tại sao cái chết cuả ông cụ lại làm anh đau đớn quá đáng như vậy. Anh đưa cho xem một trang sách, có lẽ được xé từ một cuốn thơ nào đó, với một bài thơ như thế nầy:

     

    Nếu người có bao giờ yêu ta

    Hãy yêu ta vào lúc nầy, lúc ta còn biết được những tình cảm dịu dàng, đầm thấm chảy tuôn từ trái tim tình cảm đích thực

    Hãy yêu ta vào lúc này . Khi ta còn đang sống

    Đừng đợi đến lúc ta đã ra đi rồi mới khắc những lời âu yếm đó lên bia đá, những lời nói ngọt ngào trên bia đá lạnh băng

    Nếu người định nói những điều trìu mến

    Hãy nói cho ta nghe ngay bây giờ

    Nếu đợi đến khi ta yên ngủ

    Không bao giờ thức dậy

    Thì lúc đó giưã chúng ta đã có cái chết len vào giưã và

    Ta sẽ không còn nghe được tiếng cuả người.

    Vì thế nên, nếu người có yêu ta, cho dù là một chút thôi

    Hãy cho ta biết trong lúc ta còn sống

    Để ta có thể trân quý những tình cảm ấy

     

    THE TIME IS NOW

    If you are going to love me

    Love me now, while i can know

    The sweet and tender feelings

    Which from true affection flow

    Love me now

    While i am living

    Do not wait until I' m gone

    And then have it chiseled in marble

    Sweet words on ice -cold stone

    If you have tender thoughts of me

    Please tell me now,

    If you wait until i am sleeping,

    Never to awaken,

    There will be death between us

    And I won' t hear you then,

    So if you love me even a little bit

    Let me know it while I am living

    So I can treasure it

    Author Unknown

     

     

    Tờ giấy có in bài thơ ấy, bạn tôi nói được tìm thấy trong một cuốn thánh kinh ở đầu giường cuả ông cụ và kẹp cùng với trang sách đó, là bức hình cuả bạn tôi khi anh tốt nghiệp đại học.

    Không phải là bạn tôi, tôi có thể tưởng tượng ra được những điều chạy qua đầu ông cụ. Người đàn ông đầy tự ái, độc lập đó vẫn không giấu được những tình cảm cuả ông. Ông vẫn thèm có được tình cảm cuả đưá con trai duy nhất. Nhưng ông lại rất là một người đàn ông. Ông cụ có thể chỉ cần nhấc cái điện thoại lên, bấm vài con số là nghe được tiếng con trai đâu đó ở Hoa Thịnh Đốn. Nhưng ông cụ đã không làm thế. Ông ngồi chờ...

    Và bạn tôi, lúc đó có thể anh đang còn ở bàn ăn tối với một khách hàng, có thể anh đang đưa cô bạn gái về nhà, có thể anh đang loay hoay trong bếp với bưã tối...

     

    Và chuyến về Charleston thăm ông cụ đã bị trì hoãn đi, hoãn lại mấy lần. Chuyến về Charleston đã quá muộn ! Bạn tôi nói anh sẵn sàng đổi bất cứ gì anh có trên đời chỉ để được câu nói anh đã quá bận, quá vô tình, quá lười biếng nên đã không nói kịp.

     

    Tôi mà là anh bạn Mỹ nầy, tôi cũng sẽ ghét tôi y hệt như vậy.

     

    Bùi Bảo Trúc.

     

XÁC CHẾT TRÊN BÃI BIỂN
Mai Thái Vân Thanh
Posted by GLN
Đây là câu chuyện thật 100% về một sự kiện xảy ra mà tôi đã là một trong những nhân chứng sống.

Nhớ lại vào một đêm xa lắc năm 1970, tôi đang phụ coi quán bi da của gia đình với người chị họ tên Phương thì một chiếc xe Jeep đổ xịch trước cổng nhà tôi. Trên xe có 2 người ngồi 2 ghế trước và ghế sau có 2 người mặc đồ rằn ri có đeo súng. Y sĩ Hà thúc Nhơn ngồi ghế trước cạnh tài xế ngoắc tôi ra hỏi:
- Có ba ở nhà không con? Nói ba ra ngoài gặp chú một tí.

Tôi vào nhà nói cho ba tôi biết và ba mặc quần áo ra ngoài gặp chú. Thường thì chú Nhơn tới nhà tôi chơi ban ngày chứ ít khi tới vào ban đêm ngoại trừ cách đây 1 tháng chú tới để ăn bữa tiệc hòa giải ba má tôi tổ chức cho chú và thiếu tá Hiển.

Chú Nhơn làm ở Quân y viện Nguyễn Huệ Nha Trang, khoa Răng-Hàm-Mặt, nổi tiếng phẫu thuật giỏi và tay nghề cao. Chú là người đã cắt Amidan cho 3 chị em tôi. Chú gốc người Phan Rang quen với ba tôi từ nhỏ nên là đồng hương của ba tôi. Chú xem ba tôi như người anh, thường tới nhà ăn uống và đánh cờ tướng với ba tôi lắm. Chúng tôi rất thương chú vì... chú trông đẹp trai và cũng hay đùa với chúng tôi. Nhưng nghe ba má tôi nói chú rất nóng tính, đánh cờ với chú cũng phải nhường một nước chứ bị thua là chú nổi cộc.

Chú Nhơn và thiếu tá Hiển làm chung trong bệnh viện, có xích mích với nhau và chú Nhơn thường cho đệ tử mời thiếu tá Hiển đến phòng mình tẩn cho một trận. Nghe nói là vì chú ganh tị võ nghệ với ông Hiển. Lần đầu tiên chú đá ông Hiển nhưng ông Hiển né đòn đá lại trúng chú té lăn quay làm chú quê mặt với đàn em. Ông Hiển là cao thủ võ Thiếu Lâm, còn chú Nhơn chỉ là võ giang hồ không bài bản gì cả. Chú Nhơn còn độc thân, có máu liều và tự xưng là anh hùng hảo hán, du đãng giang hồ theo chú dữ lắm. Ông Hiển thì có vợ và đàn con nheo nhóc 6, 7 đứa nên dù giỏi võ hơn nhưng ông phải nhịn mà ăn đòn thù không dám đánh trả.

Ông bà Hiển biết chú Nhơn thường tới nhà tôi chơi và coi ba tôi như anh nên mỗi lần chú Nhơn kêu ông Hiển tới phòng riêng là bà vợ ông ấy lại nhờ ba tôi tới can gián mà cứu chồng bà ấy. Nhiều khi đang ăn cơm trưa bà Hiển hớt hãi tới nhờ giúp đỡ là ba tôi bỏ dở bữa ăn tới bệnh viện ngay để khuyên chú Nhơn và đưa ông Hiển về. Nghe ba tôi kể lại là chú Nhơn rất nhẫn tâm thường bắt ông Hiển chui lổ chó trước mặt các đàn em của chú để sỉ nhục. Ba tôi can được mấy lần thì nghĩ ra cách làm tiệc hòa giải hai bên tại nhà tôi và chú Nhơn đã đồng ý bắt tay hòa với ông Hiển.

Đêm định mệnh đó, ba tôi ra ngoài gặp chú Nhơn trước cổng và chú chở ba tôi đi. Khoảng 2 tiếng đồng hồ sau chú chở ba tôi trả về nhà rồi chạy xe đi, trên xe lúc ấy cũng có 4 người kể cả chú. Ba vào nhà mặt trông rất nghiêm trọng, bảo xin lỗi những khách đang chơi bida và đóng cửa quán ngay.

Ba má bàn bạc gì đó rất căng thẳng, bảo tôi và chị Phương kêu xích lô đến nhà thiếu tá Hiển gặp bà ấy và báo là chồng của bà đã bị bác sĩ Nhơn bắn gục ngoài biển trước nhà thờ dòng Chúa cứu thế để bà ra đấy tìm xem may ra có kịp cứu được chồng không. Rồi ba tôi leo cửa sau qua nhà nghỉ dành cho sĩ quan mà ba tôi thường đậu xe Jeep của mình, lái xe qua tiểu đoàn 18 công vụ bên đèo Rù Rì mà ba tôi là Tiểu đoàn trưởng vào giai đoạn ấy.

Chị Phương và tôi đi cyclo tới cư xá Sĩ quan Lê văn Duyệt. Lúc ấy trời tối hù sợ lắm nhưng có hai chị em đi với nhau cũng đỡ sợ. Tìm một hồi mới ra nhà và bà vợ thiếu tá Hiển ra mở cửa đón hai chị em tôi vào với gương mặt rất lo lắng. Tôi vẫn còn nhớ gương mặt ấy, rất đẹp, và trắng xanh có lẽ vì lo sợ cho chồng. Khi nghe chúng tôi báo tin dữ, bà không khóc lấy một tiếng nhưng gương mặt trông rất thất thần. Chúng tôi vội xin phép ra về thuật lại cho má tôi biết. Má bảo chú Nhơn có quay lại tìm ba tôi nhưng khi biết ba đã rời khỏi nhà, chú cùng mấy người trên xe có vẻ tức giận và phóng đi mất.

Vài tiếng đồng hồ sau, bà Hiển tới nhà tìm ba má tôi và bảo là vẫn chưa tìm ra chồng. Bà muốn hỏi kỹ câu chuyện diễn tiến thế nào. Má bảo là ba tôi đã lái xe trốn rồi vì sợ chú Nhơn đổi ý quay lại thủ tiêu luôn cả ông. Rồi má thuật lại cho bà Hiển nghe sự tình mà ba tôi đã kể lại.

Khi chú Nhơn chở ba tôi tới nhà ông Hiển, chú bảo ba tôi vào kêu ông Hiển ra cho chú gặp có chuyện. Ba tôi vào nhà nhắn lời cho ông Hiển thì bà Hiển có linh tính hay sao đó cản không cho chồng ra ngoài. Vì ba tôi đã ra mặt hoà giải cho hai bên và cả tháng nay chú Nhơn đâu còn kêu ông Hiển tới đánh nữa nên ba tôi ỷ y nói:
- “Không sao đâu! Tôi bảo đảm cho mà”!

Khi ông Hiển theo ba tôi ra ngoài gặp chú Nhơn thì chú ra lệnh:
- Leo lên xe đi.

Thế là ông Hiển và ba tôi leo lên xe ngồi ghế sau, có hai tên lính ngồi hai bên. Khi xe dừng lại trước bãi biển, mọi người leo xuống xe và đi xuống bãi biển trừ người tài xế. Ba tôi cứ ngỡ là chú Nhơn đưa xuống biển để nói chuyện ai ngờ vừa đi gần tới mép nước, chú Nhơn rút súng lục trong bọc ra bắn ông Hiển một phát. Viên đạn hình như đi trật nên chú Nhơn bắn thêm phát thứ hai và ông Hiển ngã xuống.

Ba tôi vô cùng bất ngờ và hoảng loạn! Mọi chuyện xảy ra quá nhanh! Tại sao chú Nhơn lại nhẫn tâm giết ông Hiển? Đã hoà rồi mà? Ba tôi càng kinh hoàng hơn nữa khi chú Nhơn quay mũi súng hướng về ba và nói:
- Còn mày nữa!

Nhưng suy nghĩ sao chú không bắn ba tôi mà lại cất súng vào bọc và kéo ba tôi chạy trở lại xe. Ngồi trên xe mà hồn vía ba rụng rời, không ngờ mình suýt bị giết và đồng thời cũng rất lo lắng sợ chú Nhơn đổi ý chở ba đi chỗ khác thủ tiêu. Ba tôi bảo nếu thấy xe chạy không phải đường về nhà thì ba sẽ liều mạng nhảy xuống xe chạy trốn chứ không để bị bắn chết. Rất may là chú Nhơn lái xe chở ba tôi trả về nhà và bảo:
- Mày câm miệng không được báo ai biết. Nếu không tao giết mày luôn.

Chắc sau đó chú nghe mấy tên đệ tử xúi giục nên giết luôn ba tôi để bịt đầu mối nên chú quay xe lại tìm chăng? Cũng may ba tôi đoán biết ý chú nên đã trốn đi trước.

Bà Hiển nghe má tôi kể và khóc dữ lắm. Bà báo cảnh sát và cùng họ ra biển tìm kỹ. Mặt trời bắt đầu mọc có chút ánh sáng nên họ tìm ra xác ông Hiển nằm sát mép nước, mấy ngón tay và chân đang bị còng rỉa. Thật thương tâm! Tính ra lúc đó ông bà Hiển chắc mới cỡ 35 tuổi. Ông ra đi quá sớm để lại vợ và một bầy con nhỏ. Không biết sau đó họ sống ra sao?

Ba tôi bị quân cảnh bắt ngay sáng hôm đó. Chú Nhơn nghe tin tới đồn quân cảnh làm loạn đòi giao ba tôi nhưng quân cảnh giấu ba tôi một chỗ khác sợ chú Nhơn diệt nhân chứng. Sau đó chú bị quân cảnh truy bắt bèn nổi loạn tử thủ trong Quân y viện Nguyễn Huệ và bị bắn chết.

Nghe tin chú Nhơn bị thương nặng, má tôi đã chạy tới gặp chú năn nỉ hãy nói ra sự thật là ba tôi đã không a tòng với chú mà giết ông Hiển nhưng chú giữ im lặng. Má tôi buồn giận chú lắm vì lâu nay đã coi chú Nhơn như người nhà và đối xử rất thân tình với chú. Vậy mà! Nhưng có lẽ vì chú không nghĩ mình sẽ chết nên không muốn nhận tội giết người chăng?

Ba tôi bị xử tù giam 8 tháng vì tội không đi báo cảnh sát ngay. Dù gì ba cũng còn mạng để trở về với vợ con chứ như gia đình ông Hiển thì quá tội.

Ba má tôi phân tích cho là chú Nhơn giết ông Hiển có lẽ vì tinh thần của chú có vấn đề. Chú bị bịnh mất ngủ đôi khi mấy ngày liền ngủ không được, sinh ra căng thẳng và nóng nảy. Ba má tôi có nhờ người hốt thuốc Nam cho chú uống nhưng chú bảo chỉ giúp được ít ngày rồi mèo vẫn hoàn mèo. Chú kể thường xuyên thức trắng và nếu chợp mắt được chút xíu là mơ đến chuyện đánh đấm!

Chú Nhơn thường có một đám thương phế binh đi theo nịnh hót, tâng bốc và gièm pha này nọ nên chú cứ tác oai tác quái quậy tưng chẳng xem ai ra gì. Tôi có biết mặt biết tên 2 người lính ngồi ghế sau lúc chú tới đón ba tôi đêm đó và đã khai cho người điều tra về họ. Không biết mấy người này có bị bắt và ngày nay còn sống không? Có khi nào họ thấy hối hận đã hại đến mấy gia đình và gián tiếp tước đi mạng sống của người vô tội không?

Chú Nhơn mất đi, các báo tha hồ thổi phồng đưa chú lên chín tầng mây làm người hùng Hà Thúc Nhơn có công chống tham nhũng nên bị giết. Chú chống tham nhũng có thật hoặc có công đến đâu thì chuyện chú thường xuyên kêu các bác sĩ quân y trong đó có thiếu tá Hiển đến phòng làm việc của chú để hạch sách và đánh đập họ cũng thật không kém. Tất cả đều nhịn chú vì chú là dân liều mạng mà họ thì có vợ có con. Và chuyện chú đành đoạn bắn chết thiếu tá Hiển là chuyện không thể chấp nhận được. Tôi cứ nghĩ mà thương gia đình con đông nheo nhóc của bà ấy không biết sống ra sao sau này.

Người ta có lập trang thờ Hà Thúc Nhơn trước Ty Thông tin Nha Trang một thời gian. Mỗi lần đi qua tôi đều nhìn vào tấm hình của chú mà tiếc thương chú quá. Trong hình chú rất lãng tử đẹp trai! (Đã bảo tôi háo sắc từ nhỏ mà).

Câu chuyện này chắc tôi đã quên luôn nếu không có vụ viết lách Facebook và nhớ về thời thơ ấu. Tự nhiên nhớ lại và kể ra cho vui nhưng không ngờ một cô bạn trên Facebook đã tìm ra một cái link hồi ký của bác sĩ B. viết về vụ Hà Thúc Nhơn rất chi tiết. Nhờ hồi ký của bác sĩ B mà tôi hiểu thêm rất nhiều vấn đề mà tôi đang thắc mắc. Tôi có gọi phone hỏi bác Lâm là y tá trong quân y viện Nguyễn Huệ thời đó để xác thực và bác Lâm cũng nói về chú Nhơn tương tự như bác sĩ B, hơn nữa bác Lâm còn khinh thường không tôn trọng chú Nhơn tí nào.

Theo như bác sĩ B miêu tả về tính tình của Hà Thúc Nhơn tôi thấy rất giống với nhận xét của ba má tôi về chú là nóng tính, thù dai. Chú Nhơn cũng hay kể giống hồi ký bs B về vụ bợp tai ông thầy không cho chú trình luận án bác sĩ, vụ ra oai bắt nhốt đám an ninh xã, tung đít xe bà lớn và hồi đó cả nhà tôi đã ngưỡng mộ khâm phục chú vô cùng.

Bác sĩ B còn nói đúng là HTN không hối lộ tham tiền nhưng chú làm hồ sơ giả giúp hoãn dịch người ta là có. Chính ba tôi là trung gian đã nhờ chú Nhơn giúp ông Xí vô địch cờ tướng Nha Trang thời bấy giờ làm hồ sơ để khỏi bị tổng động viên với điều kiện đánh cờ với chú. Chú hạ được vua cờ đã rất vui và hãnh diện, đâu biết là vua cờ thật sự có thể hạ chú như con nhái!

Bác sĩ B còn nói nguyên nhân xảy ra vụ nổi loạn ở bệnh viện, HTN chống cự không để quân cảnh bắt sau khi giết thiếu tá Hiển khớp (trùng hợp) với bài viết của tôi về đêm định mệnh đó. Chỉ có 1 chuyện bs B không biết để viết là HTN đã đón ba tôi theo xe để cùng đưa ông Hiển ra biển và bắn ông ta. Rất nhiều bài báo thời bấy giờ đã nói sai bét và đều thổi phồng người hùng HTN có công chống tham nhũng chứ không nói ông ta là sát nhân giết ông Hiển. Nhiều người Việt Nam ở ngay Nha Trang hoặc đang sống ở những nơi khác đã đọc và tin theo báo chí như thế! Họ đâu ngờ Hà Thúc Nhơn thật sự là một người có tài nhưng vô đạo đức, cao ngạo, thâm hiểm và vô kỷ luật!

Tại sao quân đội VNCH lại làm lơ cho một thành phần vô kỷ cương như thế? Chẳng lẽ họ kiêng nể những cái bình phong như chính trị gia có thế lực Hà Thúc Ký mà HTN bảo là cháu của ông ta; tướng kết nghĩa Nguyễn văn Vỹ để HTN làm trời làm đất chẳng xem ai ra gì? Nếu họ áp dụng quân kỷ và bắt HTN trừng trị cho bớt tội cao ngạo ba gai thì chắc đêm định mệnh đó không xảy ra để ông Hiển mất mạng.

Cũng nhờ bài viết của Bs B bây giờ tôi mới hiểu nguyên cớ thật sự vì đâu HTN căm thù Thiếu tá Hiển và Đặng Mai. Thì ra ông Hiển là trưởng ban tâm lý chiến của quân y viện và là bạn thân của thiếu tá quản lý bệnh viện Đặng Mai, vì bênh vực bạn mà gây thù với HTN! Còn ông Mai bị thù vì không cho HTN thăng chức! Ba tôi cũng vì giúp ông Hiển cũng suýt mất mạng! Quả là ba tôi cao số.

Bây giờ đã 52 năm sau sự kiện đó, mọi chuyện đều đã mờ nhạt, nhiều người đã không còn trên đời này nữa. Ba tôi cũng vừa ra đi mãi mãi! Tôi mới được bạn học xưa Thu Hiền cho biết sau khi chồng chết, bà Hiển đã dẫn con về Sài Gòn là quê của bà sinh sống. Sau 75, gia đình của Bà may mắn qua Mỹ định cư trừ người con gái là Trần Thuỳ Hương kẹt lại vì có gia đình nhưng sau đó thì cô đã bỏ mạng trên biển cả.

Tôi không muốn nói xấu chú Nhơn vì chú đã mất. Nhưng sự thật chú chính là người đã bắn chết ông Hiển thì phải nói ra và tin hay không về những chuyện tốt xấu của chú thì tuỳ mọi người nhận xét, đánh giá!

Thanh Mai

* Dưới đây là bài viết của bác sĩ B về vụ Hà Thúc Nhơn nổi loạn.
(Link đã bị xoá nhưng cũng may tôi đã copy lại nội dung).


Cuộc nổi loạn ở Quân Y Viện Nguyễn Huệ, Nha Trang năm 1970
* Hồi ký của Bác sĩ B *

Tôi thăng cấp y sĩ đại úy trong tháng đầu của khóa tu nghiệp nhãn khoa tại tổng y viện Cộng Hòa. Con gái út, H sinh ngày 13 tháng 4 năm 1969, 3 tháng trước khi tôi mãn khóa. Tôi được được thuyên chuyển ra quân y viện Nguyễn Huệ Nha Trang trong mùa hè năm này. Y sĩ trung tá Phùng Quốc Anh, Y sĩ trưởng quân y viện, bổ nhiệm tôi làm y sĩ trưởng phòng nhãn khoa, chung văn phòng và chung bệnh xá với khu tai-mũi-họng (viết tắt là TMH) do một y sĩ trung úy làm trưởng phòng. Trước đây mấy tháng, 2 khu này nhập chung thành khu Tai-Mắt-Mũi- Họng do một mình y sĩ đại úy Hà Thúc Nhơn làm trưởng phòng kiêm y sĩ điều trị. Trên nguyên tắc thì tôi tới để nhận chức trưởng phòng nhãn khoa nhưng trên thực tế thì là trình diện với y sĩ đại úy Hà Thúc Nhơn. Đây là một phức tạp vượt quá tầm chịu đựng của tôi, vượt quá khả năng giải quyết của y sĩ trung tá y sĩ trưởng và cũng là một kỳ dị chưa từng xẩy ra trong bất cứ quân y viện nào của thế giới tự do. Tôi xin dành nhiều trang cho mục này, trước tiên là sơ lược tiểu sử của Y sĩ Nhơn.

Y Sĩ Đại Úy Hà Thúc Nhơn:
Anh Nhơn kém tôi chừng 3 tuổi, nhập trường quân y cùng với tôi năm 1957 và ra trường năm 1964, trước tôi 2 năm. Anh có vẻ đẹp của một trượng phu thời đại. Cao chừng 1.72m. Nặng độ 125 lbs. Nước da đậm. Mặt dài. Mắt sáng. Miệng cười có duyên. Bắp thịt nở nang, rắn chắc. Đi đứng nghiêm trang, luôn luôn nhìn thẳng về phía trước nhưng không bỏ sót những gì diễn ra hai bên đường. Tài năng: rất thông minh, nhớ dai, học rộng, hiểu nhiều. Anh là cựu sinh viên nội trú, thông thạo nhiều khoa chuyên môn như giải phẫu tổng quát, mắt, tai-mũi-họng, bệnh ngoài da và bệnh nội khoa. Anh chơi đàn guitar classic khá hay, đánh cờ tướng rất giỏi, võ nghệ cao cường gồm các môn judo, võ tầu, võ Bình Định. Tính tình: Rất đa nghi, khi đã nghi ngờ ai thì người đó rất khó biện bạch. Tự kiêu cực độ; anh tự coi mình giỏi hơn bất cứ ai về bất cứ phương diện gì. Hiếu thắng cực kỳ; nếu thua ai điều gì thì người ấy sẽ bị hạ nhục, sẽ bị đánh và có thể bị giết. Anh không trực tiếp nhận tiền hối lộ của ai nhưng lại coi những việc như làm hồ sơ giả mạo cho em ruột hoãn dịch, giúp đỡ bất hợp pháp cho đàn em để chúng hầu hạ mình là những việc quang minh chính đại. Anh nghĩ rằng anh được quyền làm những việc phi pháp ấy vì chúng không trực tiếp dính dáng đến tiền hối lộ. Cái tính tình kỳ quái ấy là mầm mống gây tai họa cho anh và cho những người làm việc chung với anh. Anh là một người có bệnh tâm trí (psychiatric patient) mà tới nay chưa ai định bệnh rõ ràng ngoài triệu chứng paranoid. Có hàng trăm chuyện ly kỳ về anh nhưng tôi chỉ kể một vài chuyện điển hình mà rất nhiều người trong giới y khoa đã biết. Tôi sẽ tả thực chất của những việc này tuy không nhớ rõ thời điểm đã xẩy ra.

1/ Thủ đoạn lòe thiên hạ: Kỹ thuật này của Nhơn rất cao. Anh khoe rằng anh là cháu của ông Hà Thúc Ký, một chính trị gia có nhiều uy tín và thế lực đương thời; không ai biết là thật hay giả. Có một lần, anh tình cờ chữa được bệnh thương hàn cho bà quản gia của trung tướng Nguyễn Văn Vỹ, đương kim bộ trưởng quốc phòng. Ông bà Vỹ mời anh về nhà dùng cơm gia đình rồi chụp chung một tấm hình kỷ niệm. Anh đem hình ấy ra khoe rằng anh là em kết nghĩa của tướng Vỹ.

2/ Thày bất nhân trò bất nghĩa: Patron de thèse của anh là giáo sư Nguyễn V. U., trưởng khu ngoài da Bình Dân bệnh viện. Ông thày này ưa nịnh và thích nhận quà vặt của sinh viên để sửa luận án cho họ. Nhơn không ưa điếu đóm nên bản thảo luận án của anh đã nộp cho thày từ cuối năm thứ 5 y khoa mà 2 năm sau khi anh ra trường vẫn chưa được sửa. Một hôm anh từ Nha Trang về Sài Gòn tới tận phòng mạch tư của thày chất vấn: ”Xin thày cho một cái hẹn nhất định. Một, hai hay 3 năm nữa cũng được, miễn là em khỏi phải đi lại mất công”. Thày U giận quá mắng rằng: “Anh ra lệnh cho tôi phải không?”. Nhơn dằn từng tiếng: “Thày bất nhân thì đừng trách học trò bất nghĩa!”. Rồi anh tặng thày một cái bợp tai nảy lửa. Thày U thưa lên khoa trưởng. Khoa trưởng chuyển lên Cục trưởng quân y. Sự việc rồi cũng chìm xuồng và Nhơn không bao giờ có luận án bác sĩ.

3/ Cái bợp tai dằn mặt: Có lần Nhơn được nhập viện trong khu nội khoa của tổng y viện Cộng hòa. Buổi tối anh mặc quân phục, đeo lon đại úy, mang dép Nhật, áo bỏ ngoài quần, đi rong chơi trong vườn. Anh thượng sĩ thường vụ của y sĩ đại tá chỉ huy trưởng tổng y viện đi tuần bắt gặp (nhưng không quen biết anh), nhìn anh từ đầu xuống chân rồi khiển trách: “Đại úy cao bồi quá! Yêu cầu đại úy về phòng nghỉ để tôi khỏi phải áp dụng quân kỷ”. Sáng hôm sau Nhơn mặc quân phục chỉnh tề, xách cổ viên thượng sĩ thường vụ tới trước mặt y sĩ đại tá, kể qua sự việc đêm qua rồi nói: “Anh không biết dạy thuộc cấp để nó hỗn với tôi. Tôi tát nó cú này để dằn mặt anh!”. Rồi anh tát thật mạnh khiến thượng sĩ ngã dúi vào lòng y sĩ đại tá.

4/ So chưởng lực: Một lần Nhơn cùng vài đàn em tới uống cà phê tại một quán cóc ở bãi trước của biển Nha Trang và thấy một võ sĩ Tàu gốc Chợ Lớn đang biểu diễn võ nghệ ở đó. Nhơn ngứa mắt, mỉm cười, tới bắt tay hắn nhưng kỳ thực là bóp mạnh bàn tay hắn cho bõ ghét. Ngờ đâu tên này võ nghệ quá cao cường, gồng mình bóp lại. Đôi bên đứng tấn chừng 5 phút thì Nhơn yếu thế, toát mồ hôi hột. Hắn cúi đầu chào theo kiểu võ sĩ đạo rồi tiếp tục ngồi uống bia, mặt tỉnh bơ. Nhơn đứng dậy về quân y viện mặc quân phục, đeo súng colt ra tìm thì hắn đã chuồn về Sài Gòn rồi. Làm Nhơn mất mặt kiểu ấy tức là đeo án tử hình trên người. May mà không có án mạng xẩy ra.

5/ Bắt gọn quân thù: Việc này xẩy ra 6 tháng trước khi tôi được thuyên chuyển ra Nha Trang. Anh tiểu đội trưởng dân vệ của xã Nha Trang Tây vốn có hiềm khích với y sĩ Nhơn, tìm cơ hội mó dái ngựa. Một hôm chị của Nhơn từ Phan Rang ra ngủ đêm tại nhà một người bạn trong xã mà không trình báo với ban an ninh xã. Anh này mượn cớ xét sổ gia đình, định bắt bà chị về trụ sở lúc nửa đêm để làm Nhơn mất mặt. Nhơn được đàn em mật báo liền tới phục kích. Khi tiểu đội dân vệ vừa bước qua rào vào sân sau thì Nhơn uy hiếp bằng một tràng súng M16 bắn chỉ thiên trên đầu rồi trói toàn bộ tiểu đội bỏ lên xe hồng thập tự mang về nhốt tại phòng ngủ của những y sĩ độc thân trong quân y viện. Sáng hôm sau đại tá tỉnh trưởng tới can thiệp thì bị Nhơn mắng rằng: ”Thượng bất chính thì hạ tắc loạn. Các ông không nghiêm chỉnh để cấp dưới nhũng nhiễu dân”. Tội nghiệp y sĩ trưởng phải dàn xếp mãi mới êm. Sau vụ này danh tiếng của Nhơn tại Nha Trang nổi lên như cồn.

6/ “Moi” húc đít: Những chuyện trước tôi chỉ nghe kể lại. Chuyện này, xẩy ra vào mùa hè năm 1970, thì có gia đình tôi chứng kiến. Nhơn thưòng tổ chức những buổi tắm biển ngoài đảo rất thú vị: dùng thuyền máy của dân chài xóm Bóng chở vài y sĩ, dược sĩ và đàn em ra bãi cát của những đảo ngoài khơi NhaTrang ngày thứ bảy từ sáng tới tối mới về. Trên thuyền có ba hoặc bốn người thuyền chài đánh cá và làm món ăn. Những người khác thì tắm trên bãi hoặc theo thuyền đi bắt cá. Dân chài xóm Bóng chịu ơn Nhơn rất nhiều (làm hồ sơ giả cho họ miễn dịch). Hôm đó gia đình tôi đi theo đoàn ra đảo Hòn Yến. Bốn giờ chiều, Nhơn lái xe jeep chở gia đình tôi từ xóm Bóng về nhà. Tới trước cửa Tháp Bà thì gặp một xe Simca màu trắng, mang số dân sự, đậu chổng đít ra giữa đường. Có thể lái vòng sang bên trái để tránh nhưng Nhơn không làm vậy. Anh bóp còi. Tài xế xe Simca (mặc thường phục) định de xe vào lề đường nhưng bà chủ xe, lúc đó đang mua bưởi ở lề đường, vẫy tay bảo hắn: “mặc kệ nó!”.

Nhơn nói với tôi: “mình gặp một bà lớn ở Sàigòn ra nghỉ mát đây. Để moi húc đít!”. Tôi chưa kịp phản ứng thì anh đã rồ máy xe jeep húc 
mạnh vào xe Simca làm móp đuôi xe.

Bà chủ xe chạy tới trước mặt anh và mắng rằng: “Mày có biết xe này của ai không?”. Nhơn nắm hai tay, mắt nảy lửa, đi từng bước tới gần bà. Tôi vội vã đứng chặn trước mặt anh, năn nỉ: “Xin anh bớt giận, đừng để gia đình tôi liên lụy”. Anh tài xế đẩy nhẹ bà chủ vào xe Simca rồi lái đi.

10 giờ sáng thứ hai, Nhơn được y sĩ trưởng mời lên văn phòng nói chuyện. Lúc trở về khu nhãn khoa, anh tươi cười nói với tôi rằng: “ Cái xe Simca chiều hôm thứ bảy là xe của Chuẩn tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Lực Lượng Đặc Biệt. Tướng Phú vừa gọi điện thoại tới xin lỗi, nói rằng vợ ông không biết moi và muốn xử huề. Ông còn mời moi chiều nay tới nhà ăn cơm”. Tôi khuyên anh nên thận trọng thì anh đáp: “ Quan Vân Trường đơn đao phó hội mà! Sợ gì!”. Tối hôm đó Nhơn ăn cơm tại nhà tướng Phú và trở về bình an.

Trên đây là sơ lược một vài chuyện để biết qua về con người của bs Hà Thúc Nhơn trước khi tôi nói về cuộc nổi loạn của thương bệnh binh quân y viện Nguyễn Huệ do anh khởi xướng và cầm đầu. Cuộc nổi loạn của thương bệnh binh nguyễn Huệ Nha Trang.

Tôi sẽ kể rất chân thật, ngoại trừ ngày tháng của biến cố thì tôi không nhớ rõ vì sự việc đã xẩy ra hơn 40 năm rồi. Những ai chưa tin thì nên tham khảo với hàng chục y sĩ, y tá làm việc trong quân y viện Nguyễn Huệ trong thời gian đó, nhiều người trong nhóm này hiện vẫn còn sống tại hải ngoại. Không nên tham khảo qua báo chí (quốc nội và ngoại quốc), họ chỉ nghe lóm từ bên ngoài QYV hoặc phỏng vấn trúng những thương bệnh binh hùa theo bs Nhơn làm loạn. Tôi không được biết một tờ báo (quốc nội hay ngoại quốc) nào lấy tin tức do phỏng vấn những y sĩ và y tá am hiểu sự việc trong QYV Nguyễn Huệ. Những luật sư bào chữa cho những nghi can và những thẩm phán quân sự là những người biết rõ nhất nhưng họ vì tôn trọng nghề nghiệp, không muốn tiết lộ hồ sơ tư pháp ra công chúng. Sau năm 1975, Việt cộng bảo quản hồ sơ của vụ này nhưng không biết họ còn giữ được bao nhiêu vì họ cũng đang lợi dụng vụ HTN để che lấp bớt cái nạn tham nhũng nhất thế giới của họ. Nguyên nhân:

Bác sĩ Nhơn dùng thiếu tá Đặng Mai, quản lý quân y viện Nguyễn Huệ, làm cái ngòi cho cuộc nổi loạn này. Mùa xuân năm 1970, cục Quân y thuyên chuyển bs Nhơn lên một đơn vị không quân trên Pleiku và cử một y sĩ trung úy làm trưởng phòng TMH và tôi làm trưởng phòng nhãn khoa như đã nói ở trên. Nhơn không biết chắc chắn ai chủ mưu trong việc thuyên chuyển anh lên Pleiku, chỉ nghi thiếu tá Mai đã báo cáo lén về Cục và bắt đầu ghét ông Mai từ đó. Anh xé sự vụ lệnh và ép y sĩ thiếu tá trưởng phòng nội khoa phải nhập viện anh vào trại này như một bệnh binh. Hồ sơ bệnh lý của anh do anh viết, định bệnh và điều trị do anh bịa ra, y sĩ điều trị cho anh chỉ được ký vào hồ sơ mỗi ngày. Y sĩ trưởng quân y viện và Cục quân y biết điều này nhưng không có cách giải quyết dứt khoát. Trên giấy tờ thì Nhơn là bệnh binh của trại nội khoa nhưng trên thực tế thì anh hành sự như một bác sĩ cố vấn cho phòng Tai-Mắt-Mũi-Họng. Anh lui tới trại này mỗi ngày, kiểm soát công việc của tôi và của y sĩ TMH, khi rảnh rỗi thì xách xe jeep của y sĩ thiếu tá chỉ huy phó đi dạo phố với mấy đàn em.

Thỉnh thoảng anh nhập viện một người quen, chữa trị hoặc mổ cho họ rồi cho họ xuất viện, nghỉ 29 ngày tái khám v.v.. Tôi và bs TMH phải ký vào tất cả những giấy tờ bất hợp pháp ấy. Em trai út của Nhơn là Hà Thúc Mùi (thường dân), hồi còn nhỏ bị gãy xương cánh tay nhưng đã hoàn toàn bình phục. Nhơn ép y sĩ giám định ngoại khoa và y sĩ thiếu tá Trần K D, chủ tịch hội đồng miễn dịch phải cho hắn miễn dịch vĩnh viễn nhưng hai người này không dám làm liều, chỉ cho nghỉ 29 ngày tái khám. Nhơn, một mặt đe doạ tính mạng của 2 bác sĩ này, một mặt chuẩn bị làm hồ sơ nhãn khoa gỉả mạo cho Mùi. Một người em ruột nữa của Nhơn (tôi không nhớ tên, hình như tên là Hà Thúc Phương) và trung úy Bảo An Đoàn, cũng được Nhơn nhập viện, mổ glaucoma giả tạo (bằng cách đục một lỗ nhỏ trên tròng đen) rồi làm hồ sơ đưa ra hội đồng y khoa để phân loại 3. Tôi bị ép buộc ký vào hồ sơ bất hợp pháp đó và đưa ra hội đồng y khoa vì tôi là giám định viên nhãn khoa chính thức. Chưa kịp đưa ra hội đồng thì cuộc phản loạn xảy ra.

Tôi báo cáo lên y sĩ trưởng tất cả những hồ sơ giả mạo (cho em ruột và cho những người quen của Nhơn) thì ông nói rằng: “Tạm thời như vậy. Chờ giải quyết sau”. Tình trạng “tạm thời” này kéo dài cả năm. Tôi hỏi Cục có biết việc này không thì được trả lời rằng: “Đã biết và đang tìm cách giải quyết ổn thỏa”. Chúng tôi tuyệt đối không biết tới lúc nào mới được giải quyết ổn thỏa. Vài y sĩ đã lãnh bợp tai. Riêng tôi, vì tính tình thẳng thắn bộc trực, vì gia đình đông con, vì chưa dám làm điều gì ngược với ý của Nhơn và vì đã chịu (bất khả kháng) hứa giúp Nhơn đưa người em ra hội đồng y khoa nên rất được Nhơn trọng nể. Ai được Nhơn trọng nể cũng phải nhớ kỹ rằng bất cứ lúc nào làm việc gì bất lợi cho anh cũng sẽ ăn đòn.

Đầu năm 1970, tất cả những đại úy có 6 năm thâm niên quân vụ trong quân y viện đều được vinh thăng thiếu tá trừ Nhơn. Anh về phòng I bộ Tổng Tham Mưu đìều tra (theo lời anh kể) thì biết rằng vì một lời phê không thỏa đáng của thiếu tá quản lý Đặng Mai mà anh không được thăng cấp. Thiếu tá Mai chinh thức bị coi là kẻ thù của anh từ thời điểm này.

Bác sĩ Nhơn bắt đầu phát động cuộc bài trừ tham nhũng trong quân y viện Nguyễn Huệ bằng cách loan tin thiếu tá Mai ăn bớt tiền ẩm thực của thương bệnh binh nhưng thực ra chỉ vì tư thù cá nhân. Việc ẩm thực của thương bệnh binh đã được giao cho một nhà thầu. Thiếu tá Mai (gia đình sống trong khuôn viên của quân y viện) chỉ lấy cơm thừa canh cặn của thương bệnh binh để nuôi chừng mười con heo lớn nhỏ tại căn nhà ở góc trái phía tây của bệnh viện. Đàn em của Nhơn bắt đầu đi rỉ tai trong các trại bệnh. Những thương bệnh binh nhẹ sắp được xuất viện về đơn vị tác chiến thì hưởng ứng nhiệt liệt. Một số khác theo đóm ăn tàn. Hàng trăm người còn lại thì ngồi chờ coi màn chót của vở tuồng.

Diễn tiến của cuộc nổi loạn: Tôi sẽ tả rất chính xác thực chất của cuộc nổi loạn. Ngày giờ của từng sự việc nhỏ thì tôi không nhớ rõ vì sự viêc đã xảy ra 40 năm rồi. Chừng 10 ngày trước ngày nổi loạn, Nhơn dẫn vài đàn em tới nhà của thiếu tá Mai bắn chết vài con heo rồi cho khiêng về trại nội thương làm thịt khao quân. Anh nói với tôi rằng: “Từ ngày mai, mỗi ngày moi chỉ bắn 1 con để terreur hắn”. Tối hôm đó thiếu tá Mai bí mật đến nhờ tôi đi theo bs Nhơn mỗi khi anh bắn heo để che chở cho vợ con ông khỏi bị lạc đạn. Tôi nhận lời ông và đi theo Nhơn 3 lần bắn heo kế tiếp. Sau này tôi mới biết báo chí Sàigòn đăng tin tôi như một quân sư đi theo Nhơn bắn heo của tham nhũng. Vài tờ báo khác đăng trái ngược rằng tôi là một tham nhũng trà trộn vào hàng ngũ cách mạng. Không một tờ báo nào thông tin khách quan cho độc giả.

Đêm thứ sáu trước ngày nổi loạn, Nhơn cho đòi thiếu tá Mai lên phòng y sĩ trực nói chuyện. Thiếu tá Mai nhắn tôi có mặt để che chở cho ông. Nhơn và tôi ngồi đối diện trước 1 cái bàn có 2 ly cà phê đen do Nhơn pha sẵn. ông Mai vừa vào thì Nhơn dằn khẩu súng colt xuống bàn và ra lệnh cho ông quỳ xuống. Ông răm rắp tuân theo. Trông ông già cả, đạo mạo, đeo lon thiếu tá mà quỳ trước 2 đại úy, tôi hết sức mủi lòng nhưng không dám bộc lộ sự xúc động của mình. Nhơn nhấc mũ của ông lên, bóc 3 lon thiếu tá trên mũ và trên cổ áo ra, ghè bẹp bằng báng súng lục và chửi ông rất thô tục. Khi Nhơn chửi mỏi mồm thì tôi xin cho ông về.

Vài ngày sau, Nhơn tới văn phòng thiếu tá Mai. Thiếu tá Hiển, trưởng ban tâm lý chiến của quân y viện và là bạn thân của ông Mai, tới ngăn cản. Hai người đấu võ Tàu với nhau. Võ nghệ của Hiển thua Nhơn một bực nhưng vì đêm trước Nhơn uống thuốc ngủ quá dose (Nhơn tự kê toa thuốc tâm trí cho mình, Thorazine và valium, liều thuốc không cố định, nặng nhẹ bất thường tùy theo độ mất ngủ) nên bị Hiển đá ngã. Cú đá này là bản án tử hình mà Hiển không ngờ.

Còn một vở tuồng nữa, tuy không liên quan tới việc nổi loạn nhưng màn chót xẩy ra dăm ngày trước lúc nổi loạn và phản ánh chân tướng của Nhơn nên tôi thấy rất cần trình bày ở đây. Nhơn yêu cô dược sĩ hôn thê ở Sàigòn bằng một mối tình vửa lãng mạn vừa tha thiết. Cô này rất lười uống thuốc. Mỗi lần cô bịnh thì anh kê 2 toa thuốc giống hệt nhau: cứ em một viên thì anh một viên! Làm sao cô từ chối nổi! Hồi xưa, anh đã từng bị bệnh giang mai (syphilis) và đã chữa khỏi nhưng anh vẫn sợ rằng con của anh sinh ra sau này có thể bị bệnh tim bẩm sinh. Anh không ngại cho đứa con xấu số bằng ngại cho người yêu phải sinh con xấu số. Anh phải thí nghiệm! Trước đây 10 tháng, anh dụ một cô gái 19 tuổi vào ngủ tại phòng y sĩ trực một tuần, căn đúng tuần rụng trứng của cô. Anh sẽ dùng đứa con hoang này để trắc nghiệm: nếu nó bình thường thì anh mới yên trí để cô hôn thê lý tưởng của anh sinh con sau này. Bố cô gái (đã mang bầu) ép anh cưới nhưng anh một mực từ chối. Ông bèn đưa con gái vào Sàigòn sanh ở một nơi bí mật và tiếp tục dùng đứa hài nhi làm áp lực buộc anh phải cưới con gái mình. Anh sai đàn em về Sàigòn bắt đứa hài nhi về cho anh thí nghiệm nhưng vô hiệu quả. Anh càng điên thêm!

Đêm xảy ra án mạng: Tôi là y sĩ trực trong đêm này. Tôi không biết có phải Nhơn chọn đêm này để dùng tôi như một nhân chứng hay không. Cũng không biết Nhơn dùng xe jeep chở 2 đàn em tới nhà thiếu tá Hiển, giả vờ giảng hòa và mời Hiển đi ăn tối. Vợ của Hiển nghi ngại nhưng chồng quyết tâm đi theo: được giảng hòa với bs Nhơn thì còn gì quý cho bằng!
Lúc 12 giờ đêm, Nhơn đánh thức tôi dậy. 2 ly cà phê đen nóng hổi để trên bàn. Nhơn nói dõng dạc và đanh thép với tôi: “Moi vừa bắn chết thằng Hiển trên bãi biển! Tội nó đáng chết!”. Tôi lạnh cả người, không nói được câu nào. Sau đó anh bắt đầu ra huấn thị cho tôi:

“Sáng mai quân cảnh tư pháp sẽ tới lấy khẩu cung. Nhờ anh khai rằng anh tuyệt đối không thấy tôi rời khỏi bệnh viện trong đêm này”. Chữ nhờ của Nhơn có nghĩa là: Nếu không vâng lời toi thì sẽ xơi kẹo đồng! Chỉ trong vòng 10 giây mà tôi sáng tác được một câu trả lời vừa làm Nhơn hài lòng vừa cho tôi thêm thì giờ nghĩ kế thoát thân: “Tôi sẽ cố gắng”. Đêm ấy tôi thức trắng đêm và nghĩ được một câu vừa thoát được tội khai gian vừa khỏi phải xơi kẹo đồng của Nhơn. Câu đó là: “Đêm qua tôi rất bận, phải xuống các trại bệnh nhiều lần. Mỗi lần tôi trở về phòng y sĩ trực thì lại thấy bác sĩ Nhơn”. Sáng hôm sau, tử khí bao trùm quân y viện. Chừng 9 giờ sáng thì quân cảnh tư pháp tới hỏi cung.Tôi đem câu tủ ra xài!

Tôi khai khá lớn để một đàn em của Nhơn rình ở ngoài phòng có thể nghe được. Quả nhiên, khi xong việc, Nhơn không cần hỏi lại tôi đã khai những gì, chỉ gật đầu nói: ”Tạm được!”. Sau này tôi mới nhận ra rằng câu tủ đó chưa perfect. Đáng lẽ phải khai y hệt lời Nhơn dạy để bảo vệ tính mạng mình trước đã rồi sau phản cung mấy hồi. Lời khai trước họng súng có giá trị gì đâu! Trong lúc tôi khai với quân cảnh tư pháp thì vợ tôi tới tìm tôi về, nói dối rằng con ốm. Nhơn không cho gặp tôi và bảo nàng về đem con tới cho anh chữa. Tối hôm đó Nhơn không cho tôi về và còn dọa rằng: “Moi đã dặn chị đóng cửa cẩn thận phòng ngừa kẻ gian ném lựu đạn vào nhà!”

Sáng hôm sau (ngày thứ nhì sau khi Hiển chết), không có y sĩ nào hiện diện ngoài Nhơn và tôi. Bác sĩ Nguyễn T T trực đêm trước đã về nhà. Chỉ y tá trực đêm trước mới có mặt trong ngày này. Cửa kho súng đã bị phá. Súng được phát hết cho thương bệnh binh. Có súng carbin, M16, trung liên, đại liên, súng cối 60 ly. Cổng chính đã đóng lại, có dăm bệnh binh canh gác. Tại 4 bức tường có bệnh binh bắc ghế đứng canh. Bên ngoài có xe tăng đậu và lính đội mũ sắt bao vây tứ phía.

Tới xế trưa thì tôi gặp một trường hợp điển hình của bệnh ruột dư. Tôi mừng quýnh, xin Nhơn cho tôi dùng xe hồng thập tự chuyển bệnh sang bệnh viện dân sự Nha Trang. Xe vừa qua khỏi quân y viện một block thì bị bao vây bởi một xe thiết giáp chặn đường và nhiều lính chỉa súng vào tôi. Họ khám người tôi rồi mời tôi lên xe jeep, lái về phòng hành quân của tiểu khu Khánh Hòa.

Trong phòng có 5 người ngồi chờ sẵn. Chuẩn tướng Võ Văn Cảnh, tư lệnh sư đoàn 23, thiếu tướng Đoàn Văn Quảng, tổng trấn quân trấn Nha Trang, đại tá Lý Bá Phẩm, tỉnh trưởng Khánh Hòa, một thiếu tá và một đại úy (tôi không nhớ tên).Tôi được mời ngồi ghế, uống nước trà và hút thuốc lá. Tướng Quảng hỏi tôi về tình hình trong quân y viện.Tôi báo cáo mọi chi tiết về an ninh và bệnh trạng của thương bệnh binh.

Tướng Quảng nói với tôi bằng một giọng ôn tồn, nghiêm trang và thành thật: “Giờ này không có bác sĩ nào dám vào bệnh viện. Chúng tôi nhờ bác sĩ trở lại đó để lo sức khỏe cho thương bệnh binh. Nếu có một bệnh nhân nào thiệt mạng vì thiếu điều trị thì hậu quả sẽ không thể lường trước được”. Chữ nhờ của tướng Quảng giống chữ nhờ của Nhơn ở chỗ chúng đều là lệnh nhưng khác ở chỗ lệnh của tướng Quảng là lệnh quân kỷ, nếu trái lệnh thì phải phạt quân kỷ, còn lệnh của Nhơn là lệnh giang hồ, nếu trái lệnh thì lãnh kẹo đồng. Tôi hoan hỷ vâng lời.

Sự can đảm, lòng tự ái và lương tâm nghề nghiệp của tôi cao hơn tính mạng của tôi trong lúc này. Tướng Cảnh mời tôi thêm một điếu thuốc nữa. Đại tá Phẩm đưa chân tôi ra tận xe jeep. Xe ngừng cách quân y viện 1 block, chỗ khuất dạng bệnh viện. Khi tôi tới cổng thì một bệnh binh reo lên: “ Bác sĩ B đã về!”. Nhơn hỏi tôi chuyện gì xảy ra. Tôi trả lời thành thực mọi chi tiết. Giờ này thì một lỗi lầm nhỏ cũng có thể thiệt mạng. Nếu tiền hậu bất nhất thì sẽ bị nghi ngờ nên tôi chỉ nói toàn sự thật. Nhơn gật đầu bảo tôi: “Anh coi phần chuyên môn. Việc phòng thủ đã có tôi. Họ dụ tôi đầu hàng nhưng tôi chỉ tin cậy có tướng Vỹ. Tôi chỉ đầu hàng với tướng Vỹ.”

Đêm này tôi cũng không ngủ. Chiều hôm sau (ngày thứ 2 của cuộc nổi loạn), tôi lại gặp một bệnh có triệu chứng đau ruột dư nhưng không rõ ràng. Tôi kiếm cớ để thoát ra ngoài vì tình thế đã quá nguy hiểm. Có thể chết vì đạn bên ngoài, cũng có thể bị Nhơn nghi ngờ thanh toán. Rất may, Nhơn lại cho tôi ra. Có lẽ anh tưởng tôi lại trở vào như lần trước. Một xe jeep đón tôi về tiểu khu để xe hồng thập tự đi thẳng tới bệnh viện dân sự. Vẫn 5 người cũ nhưng lần này không ai hỏi tôi điều gì. Tướng Quảng cảm ơn tôi rồi nói với đại tá tỉnh trưởng: “Anh Phẩm đưa bác sĩ B về nghỉ. Đêm nay chưa an toàn để ổng về với gia đình”. Đại tá Phẩm đưa tôi về tư thất của ông ngay trong tòa tỉnh. Ông bảo tôi cứ yên tâm, ông sẽ cho người báo cho vợ tôi biết hết sự việc. Vợ ông sai người sửa soạn cho tôi tắm. Tắm xong tôi được ăn một bữa cơm ngon nhất trong nhiều ngày. Có cá nướng, rượu vang và chim câu hầm bát bửu. Có lẽ là thức ăn mà bà đã nấu để đãi hai ông tướng và còn dư. Tôi ăn ngon lành rồi uống 10mg valium mà tôi đã lấy trong tủ thuốc trực. Suốt cả đời, tôi chỉ uống chừng 15 viên valium, viên này là viên thứ nhì. Tôi ngủ một giấc sâu như chết. Tỉnh dậy, ăn một bữa cơm thịnh soạn nữa rồi bà Phẩm gọi xe jeep đưa tôi vể nhà lúc trời đã nhá nhem tối, buổi tối của ngày hôm sau.

Tôi ngủ một giấc ngon lành nữa tại nhà, không biết việc gì đã tiếp tục xảy ra trong QYV Nguyễn Huệ. Buổi sáng tôi tới QYV thì quan tài của Nhơn đang quàn ở văn phòng y sĩ trưởng, có 2 người em trai và chị của anh túc trực ở đó. Có 8 y sĩ di quan cho anh kể cả tôi.

Tôi gần như không làm việc chuyên môn trong những ngày sau biến cố này. Toàn là cung khai, cung khai và cung khai. Tôi đã khai tổng cộng 1000 trang đánh máy cho gần một chục cơ quan: Quân cảnh tư pháp, tòa án quân sự Nha Trang, nha Quân Pháp, Cục Quân y, Bộ Tổng Tham Mưu, Bộ Quốc Phòng, Giám Sát Viện. Chi tiết tôi khai trong tất cả các cơ quan ấy đều giống nhau trừ lời khai đầu tiên của tôi với quân cảnh tư pháp trong QYV Nguyễn Huệ vì tôi đã phản cung ngay sau khi Nhơn chết. Lời phản cung của tôi được pháp luật che chở vì đã khai trước họng súng. Hồ sơ gian mà tôi đã ký cho người em ruột của Nhơn ra hội đồng miễn dịch là điều tôi lo ngại nhất thì lại bị hỏi rất sơ sài. Có lẽ chính quyền khớp vì báo chí vẫn còn xuyên tạc rằng bs Nhơn chết vì chống tham nhũng.

Điều mà tôi coi thường nhất là vụ em trai của hôn thê của Nhơn thì lại bị khai gần 50 trang. Nhơn ép Y sĩ thiếu tá Trần K D, chủ tịch hội đồng hoãn dịch, cho em này được hoãn dịch 29 ngày tái khám, cốt trì hoãn quân dịch để em có thì giờ lên máy bay đi Pháp du học nhưng em bị chặn tại phi trường Tân Sơn Nhất vì nghe đồn có việc chia chác không đều tại Sàigòn. Hồ sơ y khoa của em tại Nha Trang thuộc ban nội khoa. Tôi chỉ bị Nhơn ép buộc viết trong hồ sơ vài chi tiết về đáy mắt (fond d’oeil) mà không được thấy bệnh nhân.

Chỉ một câu hỏi: “Bác sĩ nhận được bao nhiêu tiền để coi đáy mắt cho người sinh viên này?” mà tôi đã tốn cả mấy tuần lễ mới thoát khỏi nanh vuốt của pháp luật. Nghe nói vụ này là một trong những vụ mà anh D đã quẫn trí tự tử (Cuối năm 1971, trước khi từ giã Nha Trang về Saigòn, tôi tới nhà anh D thắp 3 nén huơng tưởng niệm trước bàn thờ của anh. Tôi lạy anh 3 lạy. Chị D trả lễ tôi một lạy. Chị thùy mị, trầm tĩnh, nghiêm trang, rất xứng đôi với anh D). Về tội tòng phạm phản loạn và tòng phạm bắn gia súc tại nhà TT Mai thì tôi phủi tay dễ dàng nhờ lời khai trung thực của ông Mai, của tướng Quảng, tướng Cảnh và đại tá Lý Bá Phẩm. Tôi phải sống cô lập trong quân lao 10 tháng để khai gần 1000 trang đó, mỗi tháng chỉ được về thăm gia đình 1 ngày.
Người viết: Bác sĩ B****

PS: một chuyện tình cờ mới xảy ra là tôi vừa tìm lại được một người bạn xưa rất xưa. Cũng trong câu chuyện giữa người Nha Trang với nhau chúng tôi tình cờ nhắc về Hà thúc Nhơn. Cô ấy nói HTN là anh rể của cô. Tôi hỏi dò ra biết được đứa bé con của Hà Thúc Nhơn mà bs B nhắc đến vẫn khỏe mạnh không bị bệnh gì cả. Cũng may!
Inline image






--
====================================================================
Trên Facebook :
http://www.facebook.com/DaiHocKhoaHocSaiGon
====================================================================
 
Bạn đã nhận được bài viết này vì bạn đã đăng ký vào Nhóm "KhoaHocSG" của Google Groups.
* Để đăng bài lên nhóm này, hãy gửi email đến "khoa...@googlegroups.com"
* Để RÚT TÊN ra khỏi nhóm này, gửi email đến "khoahocSG+...@googlegroups.com"
* Để có thêm tuỳ chọn (preference set up), hãy truy cập vào nhóm này tại: http://groups.google.com/group/khoahocSG?hl=vi
---
Bạn nhận được thư này vì bạn đã đăng ký vào nhóm Google Groups "KhoaHocSG".
Để hủy đăng ký khỏi nhóm này và ngừng nhận email từ nhóm, hãy gửi email đến khoahocsg+...@googlegroups.com.
Để xem cuộc thảo luận này, hãy truy cập vào https://groups.google.com/d/msgid/khoahocsg/MN2PR02MB6592CE56D08F4FFCD466A38CFC5DA%40MN2PR02MB6592.namprd02.prod.outlook.com.
Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages