Fwd: ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 29-08-2025 (SỐ 232-2025)

7 views
Skip to first unread message

Giu Tran

unread,
Aug 29, 2025, 12:33:37 PM (12 days ago) Aug 29
to


---------- Forwarded message ---------
From: soan....@hotmail.com <soan....@hotmail.com>
Date: Fri, Aug 29, 2025 at 3:39 AM
Subject: ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 29-08-2025 (SỐ 232-2025)
To:



GOOD MORNING VIET NAM - CANADA - USA

ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 29-08-2025  (SỐ 232-2025)

Image insérée
 Image insérée


MỤC LỤC


  1. Lá cờ thiêng
  2. Chuyện người tóc bạc sớm
  3. Công ty của Elon Musk cấy chip não thành công cho bệnh nhân thứ hai bị liệt toàn thân trở lại cuộc sống
  4. CHỮ “TÍN”
  5. GẶP LẠI KẺ THÙ XƯA 
  6. Huyển Mộng Bước Đời
  7. NGÀN KIẾP SÓNG BẠC
  8. ÁO LỤA HÀ ĐÔNG 
  9. Uống nước quan trọng
  10. Chiều Trên Sông Nile
  11. Tân Định và Đa Kao: Hẻm 60 Yên Đổ - Xóm Cù Lao 




Lá cờ thiêng
Ca Nhạc sĩ Hoàng Tường

Chuyện Người Tóc Bạc Sớm

image005.jpg

-Tiên Sha - Lê Luyến

(Tặng bạn tôi, Biệt kích Nguyễn Thanh Châu) Tiên Sha - Lê Luyến

“Phong trần xuôi một bước lưu lạc

Đầu xanh theo một chuyến Xuân tàn”

(Tản Đà)

I

Sống ở xứ người buồn nên cuối tuần anh em thường tụ họp uống trà tán gẫu; Ôi thôi đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, toàn thiên hạ sự. Nhưng lần nào cũng vậy, chu du khắp năm châu bốn bể rồi sau rốt họ cũng trở về với câu chuyện của mảnh đất quê hương hình chữ S xa xôi ngàn dặm.

Lớp trẻ ngạc nhiên khi nghe người lớn luôn nhắc đến đề tài chiến tranh và ngục tù cũ rích mà không bao giờ biết chán. Họ nói với chút ngậm ngùi cay đắng; Có kẻ ủ ê thở dài nhưng cũng có người bộc phát lòng căm ghét và khinh miệt. Làm sao giải thích cho lớp trẻ hiểu rằng đó là hoài niệm, là sự tìm kiếm quá khứ, là vốn liếng cuộc đời của cả một cuộc bể dâu tang thương mà thời đó những người trong cuộc bị cuốn hút, có khi không còn nhận ra được ngay cả chính bản thân mình.

Làm sao cho lớp người trẻ biết rằng sau những năm tháng tăm tối của định mệnh, sau thời gian đăng đẳng đầy rẫy tai ương gai góc, những con người ngày xưa may mắn còn sống sót, quây quần cố nhóm lên đóm lửa tưởng chừng đã bị vùi lấp, chìm khuất trong bão giông quên lãng. Hiện tại họ đã già, vết thương bom đạn đục khoét làm bạc nhược thân xác. Cái đầu thì cằn cỗi lão hóa thiếu chất xám, họ chấp nhận làm bất cứ công việc gì để giải quyết cấp thời chuyện cơm áo qua ngày. Quá khứ đối với họ như món đồ cổ trân quý dẫu rằng có bị sứt mẻ, méo mó vì thời gian tàn nhẫn nhưng vẫn luôn được săm soi, nhìn ngắm bằng tấc dạ bồi hồi lẫn xót xa. Họ nâng niu trau chuốt như tìm kiếm đời mình ở trong đó, như để gạn lọc chuyện đúng sai, phải trái cuộc đời.

Chúng ta hãy lắng nghe lời tâm sự của một người lính già còn sống sót sau cuộc chiến...

 

 

VŨ NỮ CẨM NHUNG

image006.jpg

Người Sài Gòn trước đây không mấy ai mà không nghe qua cái tên vũ nữ Cẩm Nhung (1940-2013)

và vụ đánh ghen tạt acxit rùng rợn lần đầu tiên xảy ra tại Việt Nam. Cẩm Nhung là nạn nhân của vụ đánh ghen tàn khốc này khiến dung nhan của cô trở nên dị dạng, trở thành phế nhân tàn tật, suốt cuộc đời còn lại phải lê lết trên đường phố ăn mày ăn xin, cũng chỉ vì Cẩm Nhung là một "hồng nhan họa thủy". ĐXGK mạn phép đăng lại bài viết sau đây của tác giả Trúc Giang MN tường thuật lại vụ đánh ghen kinh hoàng chấn động Sài Gòn đầu thập niên 60.

"khoảng 8 giờ tối ngày 17-7-1963, một phụ nữ vừa bước ra khỏi nhà, tiến về chiếc taxi chờ sẵn, thì bổng nhiên một người đàn ông xuất hiện,

tay bưng một ca acid tạt vào mặt người phụ nữ.

Thiếu nữ thét lên trong đau đớn: “Chết tôi rồi! Cứu tôi với”,

rồi ôm mặt ngã quỵ.

Một người đàn ông chạy đến,

bế cô lên chiếc taxi chạy vào bịnh viện Sài Gòn cấp cứu.

Sau đó được chuyển đến Bịnh viện Đồn Đất (Grall) vào lúc hai giờ sáng ngày 18-7-1963.

Cái tin vũ nữ Cẩm Nhung bị tạt acid gây xôn xao trong giới thượng lưu thường lui tới các vũ trường.

Báo chí đăng tấm hình rất xinh đẹp của Cẩm Nhung đã gây xúc động và thương tiếc của người Sài Gòn và cả Miền Nam VN.

Đó là vũ nữ tài sắc vẹn toàn nổi danh là “Nữ hoàng vũ trường”, Cẩm Nhung bị đánh ghen bằng tạt acid.

Hai người thân là mẹ và bà vú lần lượt ra đi. Tài sản cạn kiệt.

Không nơi nương tựa nên phải đi ăn mày.

Đặc biệt là người ăn xin nầy mang trước ngực tấm hình cô chụp chung với người yêu là Trung tá công binh Trần Ngọc Thức.

Cẩm Nhung sinh năm 1940 tại Hà Nội.

Năm 15 tuổi theo gia đình di cư vào Nam, và trở thành vũ nữ chuyên nghiệp năm 19 tuổi.

Con gái 17 tuổi mà trổ mã đều đặn, nói chung là rất đẹp và hấp dẫn.

Cẩm Nhung bỏ học.

Lén đi học khiêu vũ ở một lớp dạy tư, do hai nhạc sĩ và là vũ sư Nguyễn Tình và Nguyễn Thống phụ trách.

Hai nhạc sĩ nổi tiếng với ngón đàn hạ uy cầm (Hawaiian guitar), đã đào tạo hàng chục vũ nữ cho các vũ trường Sài Gòn thời đó.

Nhờ có năng khiếu, mới học được nửa khóa đã tỏ ra nghệ thuật nhảy múa rất xuất sắc.

Vũ sư Nguyễn Tình nói với người tài pán Marie Sang:

“Đôi chân của nó, thân hình gợi cảm của nó rồi đây sẽ có khối đàn ông ngã rạp dưới chân nó mà chết cho coi”.

Tài pán là người quản lý vũ nữ ở vũ trường, còn gọi là “cai gà”. Khách đi solo muốn nhảy với vũ nữ đều phải do người cai gà đó sắp xếp.

Phải mua ticket thời đó là 20$. Mỗi ticket chỉ nhảy được một vài bản mà thôi. Muốn bao thầu cả đêm thì phải mua trọn gói chừng 15 ticket.

Đối với “Nữ hoàng vũ trường” Cẩm Nhung, thì khách phải lo lót chị tài pán.

Người nào cho tiền nhiều thì được cuộc. Muốn nhảy với kiều nữ suốt đêm, tới một hai giờ sáng thì khách phải mua trọn gói 15 ticket.

Khách sành điệu cùng vũ nữ rời vũ trường nầy, đến một vũ trường khác vừa khiêu vũ thoải mái, vừa giữ được tiếng tăm về đức hạnh của vũ nữ.

Nhảy được vài ba bản rồi rủ nhau đi ăn khuya như ăn cháo cá ở Chợ Cũ, cơm thố, cơm siu siu, hoặc mì La Cai…

Đó là xong phần một.

Phần còn lại do sự thỏa thuận của hai bên.

Khách nhảy phải típ cho vũ nữ, thời giá lúc đó là 500$.

Đêm vui trọn vẹn đạt

“mục đích yêu cầu”

thì tốn phí khoảng 1,000$,

tương đương với mấy cây vàng. Cẩm Nhung đã qua nhiều vũ trường, và Kim Sơn là điểm chót. Nghe nói Trung tá công binh mua cho Cẩm Nhung một căn nhà trong hẻm bên cạnh vũ trường Au Chalet.

Từ đó, Cẩm Nhung đã bước vào con đường của định mạng,

người tài hoa bạc mệnh.

“Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.

Vụ đánh ghen bằng acid diễn ra ngày 17-7-1963 tại Sài Gòn.

Đó được xem như vụ đánh ghen tàn bạo và rùng rợn nhất chưa từng có ở Việt Nam trước kia.

Sự việc gây chấn động cả Sài Gòn và Miền Nam trong một thời gian.

Báo chí nhận định vụ đánh ghen bằng acid là lần đầu tiên xảy ra trong giới thượng lưu Sài Gòn. Nạn nhân bị đánh ghen bằng tạt acid là vũ nữ vô cùng xinh đẹp tên Cẩm Nhung của vũ trường Kim Sơn.

Báo chí thời đó hết lời ca ngợi nhan sắc và đôi chân dài điệu nghệ của cô vũ nữ gốc Hà Thành. Mệnh danh là

“Nữ hoàng vũ trường”.

Tại vũ trường Kim Sơn,

đường Tự Do, Cẩm Nhung phải lòng một khách nhảy hào hoa, dân chơi có tiếng tại các vũ trường là Trung tá công binh Trần Ngọc Thức.

Việc ông Thức cặp kè với Cẩm Nhung đến tai bà vợ là Lâm Thị Nguyệt, biệt danh là Bà Năm Rado, vì bà chuyên bán đồng hồ Thụy Sĩ hiệu Rado.

Máu Hoạn Thư nổi lên.

Người đàn bà dữ tợn nhất,

độc ác nhất là lúc lên cơn ghen.

Thuở đó, ở Sài Gòn và cả Miền Nam chưa có vụ đánh ghen nào bằng tạt acid cả.

Thông thường thì đón đường chửi bới về việc giựt chồng,

làm nhục nơi công cộng.

Bạo động hơn là “xởn tóc”,

cao hơn nữa là “lột quần”.

Bà Lâm Thị Nguyệt thuê người tạt acid vào mặt Cẩm Nhung với giá hai lượng vàng.

Vụ đánh ghen bằng tạt acid diễn ra trong khi bà Ngô Đình Nhu, Trần Lệ Xuân, đang ở nước ngoài.

Nghe được tin, bà vô cùng tức giận. Ngay sau khi về nước,

bà Ngô Đình Nhu đến Bịnh viện Grall thăm Cẩm Nhung.

Với tư cách là người lãnh đạo Phong Trào Liên Đới Phụ Nữ Việt Nam, binh vực quyền lợi và sự bình đẳng của phụ nữ, bà thúc đẩy điều tra và lập hồ sơ đưa ra tòa.

Vào tháng 10 năm 1963,

tòa kết án Lâm Thị Nguyệt,

vợ của Trung tá Trần Ngọc Thức và người đàn ông tạt acid mỗi người 20 năm tù.

Một người đàn ông liên hệ 15 năm.

Trung tá Trần Ngọc Thức bị cho giải ngũ.

Sau năm 1975, Đại tá Trần Ngọc Thức đi tù cải tạo ở Trại Z.30C, Hàm Tân.

Cẩm Nhung còn giữ được cái mạng nhưng dung nhan kiều diễm bị hủy hoại hoàn toàn. Tháng 9 năm 1963,

Cẩm Nhung được đưa qua Nhật chữa trị, hy vọng phục hồi gương mặt như trước kia.

Bác sĩ Nhật bó tay.

Khi Cẩm Nhung về nước thì nền Đệ nhất Cộng Hòa đã sụp đổ.

Bà Ngô Đình Nhu sống lưu vong ở nước ngoài.

Người vũ nữ nổi tiếng một thời đã biến mất trong các sinh hoạt ở Sài Gòn.

Những biến cố chính trị dồn dập khiến cho việc đánh ghen dã man, tàn bạo rơi vào quên lãng và chìm trong quá khứ.

Từ địa vị của một nữ hoàng sống trên đỉnh cao danh vọng, rực rỡ dưới ánh đèn màu và điệu nhạc, phong lưu công tử bay bướm đa tình và các thương gia giàu sụ săn đón, bổng nhiên trở thành thân tàn ma dại, ngậm đắng nuốt cay cho số phận hẩm hiu,

Cẩm Nhung lao vào con đường đập phá, rượu chè, nghiện ngập, sa đọa…

Năm 1964 người mẹ qua đời. Cẩm Nhung sống với bà vú tên Sọ.

Tiền bạc, nữ trang lần lượt từng bước ra đi.

Bán căn nhà 200 lượng vàng và cùng với bà vú ra ở thuê nhà trọ. Bà vú Sọ qua đời.

Cẩm Nhung tật nguyền.

Không nghề nghiệp, không nơi nương tựa nên chỉ có con đường là đi ăn xin.

Trước Tết năm 1969, người ăn mày xuất hiện ở chợ Bến Thành. Mặt mày dị dạng, đeo trên ngực tấm hình chụp chung với người tình là Trung tá Trần Ngọc Thức. Cô lê bước trên các con đường Sài Gòn, trên hành lang của Thương Xá Tax.

Rồi đến những Chợ Bà Chiểu, Chợ Bình Tây…và sau cùng về Miền Tây ở bến bắc (Phà) Mỹ Thuận, Vĩnh Long.

Hành khách qua lại trên bến phà Mỹ Thuận cho biết Cẩm Nhung không còn mang tấm hình chụp chung với người tình nữa, mà chỉ mang tấm hình của bản thân người ăn mày.

Chuyện kể rằng, một hôm có mấy người lạ mặt đến trao cho người ăn xin một số tiền và giật lấy tấm hình chụp chung hai người.

Ở Sài Gòn xuất hiện bản nhạc “Bài Ca Cho Người Kỹ Nữ”

của hai nhạc sĩ Nhật Ngân và Duy Trung.

Các tác giả viết bài hát này vì xót thương số phận của cô vũ nữ Cẩm Nhung.

Bài hát có đoạn:

Ta tiếc cho em trong cuộc đời làm người

Ta xót xa thay em là một cánh hoa rơi

Loài người vô tình giẫm nát thân em

Loài người vô tình giày xéo thân em

Loài người vô tình giết chết đời em…

Trong hồi ký “Đời 1998”,

(nhà thơ) Nguyên Sa thuật lại nhiều lần ông và nhà văn Mai Thảo đến nhà chở Cẩm Nhung đi vũ trường Arc en Ciel, ăn kem và hóng mát ở Bến Bạch Đằng.

Lần sau cùng ông gặp Cẩm Nhung như sau:

“Lần chót tôi gặp lại người phụ nữ ấy, Mai Thảo dừng xe có phần gấp gáp, không có nét bay bướm nào. Anh đang phóng nhanh bỗng thắng két, táp xe vào lề, đậu xe bên phía tay mặt đường Pasteur.

Mai Thảo ra khỏi xe không một lời giải thích.

Tôi không hỏi, xuống theo ngay, linh cảm có chuyện gì khác lạ. Chúng tôi băng qua con lộ xe chạy một chiều vun vút.

Mai Thảo dừng lại trước một người hành khất, một người phụ nữ, móc trong túi ra một nắm giấy bạc, anh chuyển nắm giấy bạc sang tay kia, tìm kiếm thêm, tôi không nhận ra người hành khất là ai, chỉ thấy mặt loang lổ những vết cháy nổi lên những mảng thịt nửa đỏ nửa tím sậm,

dị dạng, hai mắt vết cháy càng rõ, lòng trắng và lòng đen bị hủy hoại lổn nhổn.

Bạn tôi bỏ nắm tiền vào chậu bằng nhôm, những tờ giấy chạm vào tay người đàn bà hành khất, dường như nàng biết ngay người cho tiền là ai, sự va chạm của bàn tay vào những tờ giấy bạc cho nàng biết ngay là ai, ai có thể cho nàng nhiều tờ giấy bạc như thế, nàng ngẩng mặt lên gọi “anh”.

Mai Thảo vỗ nhẹ vào bàn tay nàng có tiếng nói an ủi bằng xúc giác, không có âm thanh nào được phát lên.

Tôi muốn nói lên tên người đàn bà hành khất.

Tôi chưa kịp nói thì Mai Thảo kéo tôi băng qua đường.

Tôi ngồi vào trong xe, nói lên ngay tên nàng.

Mai Thảo gật đầu.

Cẩm Nhung.

Tên người vũ nữ thay quần áo sau tấm bình phong mỗi lần Mai Thảo và tôi đến đón nàng đi làm hay đi ăn, đi ra Pointe des Blagueurs (Bến Bạch Đằng) hóng mát.

Cẩm Nhung bị tạt át xít trong một trận đòn ghen có sức mạnh của tiền hô hậu ủng, có sự tàn bạo mới của thế kỷ khoa học.

Tôi nhìn bạn tôi ngậm ngùi:

-Cẩm Nhung!

Mai Thảo nhìn về phía trước mặt, như nói một mình, rất khẽ:

-Nhung đấy!”

Một ngày đầu năm 2013,

tại một xóm trọ nghèo ở thị xã Hà Tiên (tỉnh Kiên Giang),

nơi những người ăn xin,

bán vé số, bốc vác và dân tứ xứ đến thuê ở trọ, có một đám ma nghèo.

Một bà lão bán vé số đã qua đời vì già yếu, bệnh tật. Không một người thân, bà lão được những người đồng cảnh ngộ lo cho một quan tài loại rẻ tiền, rồi đưa ra nghĩa địa…

Sẽ không có chuyện gì đáng nói về đám ma nghèo của bà lão vô gia cư, nếu như người quá cố nói trên không phải là vũ nữ Cẩm Nhung, đã lừng danh ở nửa thế kỷ trước."

Nguồn fb Thầy Lê Văn Thông




Công ty của Elon Musk cấy chip não thành công cho bệnh nhân thứ hai bị liệt toàn thân trở lại cuộc sống

    • Ông Elon Musk, chủ công ty Neuralink, cho biết
      công ty này đã cấy ghép thành công chip não cho
      bệnh nhân thứ 2. Thiết bị này giúp bệnh nhân bị
      liệt có khả năng sử dụng các thiết bị kỹ thuật số
      bằng suy nghĩ.

      Trong podcast kéo dài hơn 8 giờ được đăng tải
      hôm 2/8, ông Musk chỉ đưa ra rất ít thông tin chi
      tiết về bệnh nhân thử nghiệm cây ghép chip não
      thứ hai, ngoài việc tiết lộ người này bị chấn thương
      tủy sống tương tự như bệnh nhân đầu tiên - người
      bị liệt trong một tai nạn lặn.
       
      Chú thích ảnh
       
       
      Thông tin trên mới được đích thân Elon Musk tiết
      lộ trong một bài trả lời phỏng vấn với nhà khoa
      học máy tính Lex Fridman.

      "Tôi không muốn nói trước, nhưng ca cấy ghép
      thứ hai đã diễn ra vô cùng tốt đẹp",
      Elon Musk tiết lộ. "Có rất nhiều tín hiệu, rất nhiều
      điện cực. Nó đang hoạt động rất tốt".
       
      Musk chia sẻ rằng bệnh nhân thứ 2 được cấy ghép
      chip não của Neuralink cũng bị tổn thương tủy
      sống tương tự như bệnh nhân đầu tiên.
       
      Chấn thương này khiến bệnh nhân bị liệt toàn thân.
       
       
       
      Chip não Neuralink của tỉ phú Elon Musk tiếp tục đạt
      bước ngoặt lớn ẢNH: CHỤP MÀN HÌNH
       
      Con chip do Neuralink cấy ghép vào não của bệnh
      nhân thứ 2 có 400 điện cực, tức chỉ bằng 1/3 so
      với 1.204 điện cực trên con chip đã cấy ghép vào
      não của bệnh nhân đầu tiên.
       
      Người đàn ông bị liệt toàn thân làm video đăng YouTube chỉ bằng ý nghĩ - Ảnh 1.
       
      Thiết bị Brain-Computer Interface (BCI) do Công ty
      Neuralink của tỉ phú Elon Musk phát triển -
      Ảnh: YouTube Bradford Smith
       
       
      Bệnh nhân đầu tiên được cấy chip não của Elon Musk
      là Ông Noland Arbaugh 29 tuổi bị liệt từ vai trở
      xuống sau tai nạn bơi. Sau khi được cấy ghép chip
      não vào 2023, 18 tháng sau Ông trở lại và cho biết
      cả cuộc đời anh đã thay đổi hoàn toàn.
       
      z
      Arbaugh – bị liệt từ vai trở xuống sau tai nạn bơi.
      Bệnh nhân đầu tiên được cấy chip não của Elon Musk
       
      Qua ca phẫu thuật kéo dài gần 2 giờ, một chip thử
      nghiệm được cấy vào não anh, kết nối hơn 1000 điện
      cực với các nơ-ron, giúp anh điều khiển máy tính,
      chơi game, bật tắt TV hay máy lọc không khí bằng
      ý nghĩ, dù không cử động tay.
       
      Ngay ngày đầu sử dụng, anh đã phá kỷ lục thế giới
      về điều khiển con trỏ giao diện não –máy tính (BCI).
       
      Trở thành “Người tham gia số 1”, Arbaugh mở ra một
      kỷ nguyên mới cho giao diện não – máy tính (BCI).
      Thiết bị của Neuralink sử dụng điện cực đặt trực tiếp
      vào vỏ não vận động, cho độ kết nối cao hơn hầu
      hết các thiết bị khác, đồng thời không dây, có thể
      sạc qua mũ.
       
      cong ty cua elon musk cay chip vao nao giup choi co bang suy nghi hinh anh 1
       
      Bệnh nhân đầu tiên Arbaugh được cấy chip vào não
      và chơi cờ (Ảnh cắt từ clip)
       
       
      Arbaugh chia sẻ rằng thiết bị đã hoàn toàn thay đổi
      cuộc sống: anh học trở lại đại học, tham gia lớp
      học về thần kinh học, chơi game, thậm chí khởi
      nghiệp và tham gia các buổi nói chuyện chuyên
      nghiệp.
       
      Anh cảm nhận một cuộc sống đầy mục đích và tiềm
      năng trở lại sau nhiều năm tê liệt.
       
      Hiện Neuralink tiếp tục thử nghiệm trên nhiều bệnh
      nhân bị liệt hoặc Xơ cứng teo cơ một bên (ALS) tại
      Mỹ, Canada, Anh và UAE, đồng thời phát triển các
      cánh tay robot và công nghệ giúp người khiếm thị
      nhìn thấy. Arbaugh vẫn giữ tinh thần lạc quan:
       
      anh tự coi mình là “người bình thường được nâng
      cấp bằng máy móc”, đồng thời nhận thấy công
      nghệ BCI là tương lai của y học và phục hồi chức
      năng.
       
      ( DAILY MAIL)
    •  


CHỮ “TÍN”

  • Tôi chỉ có một bà chị dâu duy nhất. Chị kết hôn với người anh thứ ba của chúng tôi nên tôi gọi là Chị Ba. Tên của chị là Trần Sâu Lầy. Nghe qua cái tên thì biết ngay Chị là người Việt gốc Hoa. Chị sinh quán ở xã Cây Dừa, Quận Cai Lậy, Mỹ Tho, xuất thân Sư Phạm Sài Gòn, làm cô giáo ngay tại nơi sinh trưởng của mình.

    Anh của tôi là Trương văn Nhì (Khóa 15 Võ Bị Đà Lạt (VBĐL) phục vụ tại Trung Đoàn 12/ SĐ 7 Bộ Binh...

    Theo lời kể, gia đình ông sở ông sơ của chị, thuộc dòng dõi Minh Hương bên Tàu, chạy tỵ nạn nhà Thanh sang lập nghiệp ở Cà Mau cùng thời với Mạc Thiên Tứ, Mạc Cữu....Cho đến đời Ông Cố, ông Nội vẫn còn ôm giấc mộng "Phản Thanh Phục Minh"...và đến đời thân phụ thì di chuyển về Cây Dừa, tỉnh Cai Lậy và chị được sinh ra nơi đây...

    Năm 1975, Anh của tôi đi tù cải tạo CS. Chị bị cho ngh việc vì vợ sĩ quan “Ngụy”... Chị chuyển sang nghề may vá, tần tảo nuôi 3 đứa con còn nhỏ dại.
    Khi tôi trốn ra khỏi trại tù CS ở Long Giao (1976), thỉnh thong lén lút ghé thăm Chị. Chị lúc ấy gầy rọp thân thể, lưng còm xuống, già lão trông giống như người đàn bà năm sáu mươi tuổi, mặc dù lúc ấy chị mới khoảng 26, 27 tuổi.
    Ấy, vậy mà cứ 6 tháng một lần Chị phải gánh hai bao bố thức ăn khô, thuốc men, từ Sài Gòn ra đến trại Vĩnh Phú (miền Bắc) thăm nuôi Anh tôi trong tù.
    Năm 1987, 12 năm sau, anh được thả ra. Chị đã chuẩn bị sẵn cho Anh để vượt biên bằng đường biển, qua sự trung gian của gia đình người Hoa mà chị thân thích. Không may, Anh lại bị bắt và bị giam ở Mõ Cày (Bến Tre) chịu đựng 3 năm khổ sai...

    Sau đó, được tạm tha, trở về gia đình, sống trong bàn tay buôn tần bán tảo của Chị. Vợ chồng đạm bạc bên nhau, cho đến ngày cả gia đình được sang Mỹ với diện HO-5...

    Ngày nay, gia đình anh chị tôi, đã ổn định. Con cái đã thành thân và thành nhân với một đàn cháu nội ngoi đề huề... Có lần tôi hỏi Chị:

    - Bí quyết nào giúp cho Chị vượt qua tất cả gian nan để có ngày nay?

    Chị cười và nói:

    - Có gì đâu! Chị có 9 đồng, chị cố kiếm thêm 1 đồng để đủ 10 đồng, rồi Chị giấu đi để phòng khi hữu sự. Còn tụi Em có 9 đồng, đi vay thêm một đồng để chén thù chén tạc với bạn bè. Tiền vất qua cửa sổ, chẳng bao giờ chạy ngược trở vào....

    Đó là triết lý sống của người chị dâu gốc Hoa của tôi..

    Năm 1979... Ngược dòng thi gian:

    Tôi ghé thăm Chị, khi anh tôi còn đang ở trại tù ngoài Yên Bái. Tôi sống lang thang không nhà không cửa, ngoài vòng pháp luật, vì đã trốn ra khỏi tù. Nhờ chị giới thiệu tôi với một gia đình người Hoa trong Chợ Lớn và tôi có việc làm "chui "...

    Mỗi sáng lúc 5 giờ, đạp xe đạp đến chỗ hẹn, nhận 3 cây vải sa-ten đen, chở lên Cầu Tre (Phú Lâm) giao cho người nhận là một xưởng nhuộm lậu. Sa-ten là một loi lụa, dùng để may quần cho đàn bà.

    Buổi chiều lúc 3 giờ, trở lại nhận 3 cây sa-ten trắng đem về giao lại cho Chủ. Cứ mỗi chuyến "giao hàng" như vậy, Chủ trả cho 25 đồng tiền mới (tiền cụ Hồ, mỗi 500 đồng của VNCH đổi ra 1 đồng tiền Hồ). Thôi, cũng độ nhật qua ngày...

    Ông Chủ trạc 60 tuổi, Tôi gọi là chú Quảnh, người Em của ông, là chú Xồi... Tôi không biết gia đình này có bao nhiêu người, nhưng hai anh em họ sống chung với nhau trong căn phố ba tầng ở đường Triệu Đà, Chợ Lớn. Căn phố cũ kỹ, đơn sơ, không một chút gì sang trọng như những căn phố gần đó.

    Một hôm sau khi giao hàng, như thường lệ Chú Xồi trả công cho tôi 25 đồng. Tôi cám ơn, vội vã đạp xe đạp, dông tuốt rồi ghé quán cà phê. Tôi móc tiền đếm lại thì tới 50 đồng, chứ không phải 25 đồng...

    Trong hoàn cảnh khốn cùng này được đồng nào hay đồng nấy. Hớp vài ngụm cà phê, Tôi chợt giật mình vì chợt nhớ lại lời chị dâu tôi dặn:

    Em phải nhớ làm ăn với người Tàu, một cắc là một cắc, một đồng là một đồng, ăn gian nói dối thì không bao giờ làm ăn với Họ được...Họ làm ăn với nhau chỉ đơn giản với một chữ "TÍN"...

    Tôi bừng tỉnh, cong lưng đạp xe nước rút trở lại gặp Chú Xồi và trả lại 25 đồng mà Chú đã đưa dư... Chú cười và nhận lại tiền dư.

    Tôi không biết chị dâu của tôi có nói gì với Họ về tôi hay không, nhưng một hôm, khi Tôi giao hàng, Chú Quảnh bảo Tôi:

    Nị dào chong dữa mặt , zồi za ăn cơm dới Ngộ há..

    Trong bữa cơm gồm cả hai gia đình...Họ xí xô xí xào. Tôi không hiểu họ nói với nhau điều gì. Khi từ giã ra về, Chú Quảnh đưa tôi ra cửa và Chú hỏi nhỏ:

    - Nị có phải là sĩ quan “ngụy” chốn học tập không hả ???.. Đừng sợ... Ngộ biết hết dồi lớ... từ từ mình sẽ tính...

    Tôi bàng hoàng rời nhà chú Quảnh với nỗi cực kỳ lo sợ. Ngày mai có nên trở lại nơi này không??? Không!!! chắc chắn là không...

    Tôi chuyển hướng, thay vì đi thẳng đến bến xe An Đông tìm chỗ ngủ đêm như thông lệ, Tôi đạp xe qua bến Phạm Thế Hiển gặp chị tôi:

    Chị Ba! Chị có nói gì mà Họ biết Em là sĩ quan ngụy trốn trại cải tạo?

    Với nụ cười hiền hậu Chị trả lời:

    - Không có sao đâu, họ đang giúp Em đó...

    Hai tuần sau, tôi có cái giấy Khai sinh giả mang tên Trần Chỉnh, sanh năm 1942... người Việt gốc Hoa...

    Tôi (chỉ một mình tôi) cùng gia đình họ, hơn 60 người gồm đàn ông, đàn bà và trẻ con, rời bến ở kinh Miệt Thứ, Rạch Giá ra khơi trên chiếc ghe đánh cá, 3 block đầu bạc, đi tìm tự do.
    ***

    Tàu ra khơi, nhưng không may, xế trưa ngày hôm sau bị gảy bánh lái cách đảo Phú Quốc chừng 10 cây số về hướng Đông. Tàu bỏ neo để thay bánh lái phụ. Một chiếc tàu đánh cá quốc doanh Phú Quốc xáp lại gần. Tất cả chúng tôi vội vàng chui xuống dưới khoang ghe, phía trên chỉ năm ba người giả bộ như đang đi đánh cá.

    Tàu đánh cá VC không xáp lại gần, mà chỉ chạy chậm lại. Ngang ghe chúng tôi vài chục mét, chúng vẩy vẩy tay chào rồi tiếp tục hành trình về hướng Phú Quốc.

    Tôi và Chú Quảnh bò lên phiá sau lái hỏi anh Lợi, người tài công có 10 năm kinh nghiệm đánh cá. Anh nói với chút lo âu:

    Mình phải đi ngay, càng nhanh càng tốt, tôi đoán thế nào bọn chó đẻ đó cũng gọi Công an Biên Phòng...

    15 phút sau ghe nhổ neo, vội vã lái về hướng Nam. Nhưng quá trễ. 2 chiếc PCF duyên tốc đỉnh phất phới ngọn cờ máu phiá sau chúng tôi với hằng tràng đại liên chỉ thiên đe dọa. Thế là chúng tôi bị bắt. Ghe được kéo về đồn Công An Biên Phòng ở Cây Gáo, sau đó bị tống vào trại giam của Ty CA Hình Sự Cà Mau, nằm phía bên kia cầu sắt. Bên này là chợ Cà Mau. Thời gian này là lúc phong trào vượt biên bán chính thức đang nở rộ công khai. Người Hoa từ thành phố xuống Cà Mau được ưu đãi như khách du lịch có passport (thông hành) chờ xuất ngọai. Ghe của gia đình Chú Quảnh là ghe vượt biên lậu, nhưng nhờ "thời điểm" này, mà cả gia đình trên ghe của Chú Quảnh được đối xử không đến nổi tệ. Bọn CA chỉ lo vơ vét vàng... 5 cây, 10 cây... tùy số lượng để giải quyết vấn đề.

    Tôi không biết gia đình Chú Quảnh hay Chú Xồi "làm việc" với bọn chúng bằng cách nào, vì mỗi lần Chú Quảnh được gọi lên văn phòng của chúng, khi trở về phòng giam, anh em họ chỉ nói chuyện với nhau bằng tiếng Tàu.

    Hai ngày sau đàn bà con nít được CA đưa ra bến xe đò cho xe chở về SàiGòn... Đàn ông bị giữ lại chờ xét xử sau ..

    Trong thời gian chờ đợi, Chú Quảnh dặn Tôi:

    - Nị nhớ khai đúng tên tuổi trong khai sinh mà Ngộ đã đưa cho Nị... Nị là Em dợ của Ngộ, là Em duột của dợ Ngộ... Nhớ nói giọng lơ lớ... đừng nói nhiều hớ...."

    Sau một tuần thẩm vấn từng cá nhân một, 18 anh em "người Hoa chúng tôi" được ra ngoài lao động: vác lúa mang vào nhà máy xay, sau đó khiêng gạo xuống mấy ghe bầu đậu sẵn dưới sông bên cạnh Cầu Sắt.

    Bao nhiêu nỗi lo âu sợ hãi ban đầu dần dần vơi đi, Tôi bỏ hẳn ý định trốn thoát, vì rằng trong trạng huống này Tôi nghĩ sớm hay muộn, không bao lâu, chúng nó cũng thả chúng tôi ra. Thêm vào đó tình cảm với anh em Chú Quảnh càng ngày càng khắng khít qua những liên hệ của những người tù cùng chung một trại giam "ngọt cùng chia, bùi cùng xẻ”. Họ đối với Tôi như chính anh em của họ.

    Sau hơn 3 tháng lao động chúng tôi được cấp giấy "tạm tha trở về nguyên quán"... Điều này đối với tôi, tôi nghĩ như đang nằm mơ, vì mang tội vượt biên thì ít nhất 3 năm lao động ở các trại tù cải tạo của miền Tây. Tôi tò mò hỏi Chú Xồi, Chú chỉ trả lời, bằng giọng người Tàu nói tiếng Việt:
    - Mấy Bả dề trước, mấy Bả lo cho tụi mình...

    Về đến xa cảng miền Tây, chúng tôi chia tay, Chú Quảnh lại dặn dò:

    - Nị nghỉ ngơi vài ngày rồi trở lại gặp chúng tôi..

    Chú nhét vào túi quần tôi 50 đồng. Tôi quay lưng, niềm suy nghĩ bay cao..

    Trở về nguyên quán? Nguyên quán của tôi ở đâu? Mấy năm nay, nhà của tôi là đầu đường xó chợ, là ga xe lửa, bến xe đò! Nhớ vợ con lắm thì nhắn chị Ánh (vợ Hùng Móm), chị Hồng Tố Yến (vợ TTC), chị Thu (vợ NTN) rồi kiếm cách lén lút gặp vợ con vài ba tiếng đồng hồ, khi những người thân yêu này giả vờ đi chơi lang thang trong Sở Thú...

    Một tuần sau, tôi mon men trở ra Chợ Lớn tìm Chú Quảnh. Đứa con gái Chú Xồi chỉ ra quán cà phê góc đường Triệu Đà - Hùng Vương. Nơi đây tôi gặp lại họ.

    Chú Quảnh vừa thấy tôi, Chú mừng lắm. Chú chạy ra, nắm tay tôi kéo đi một khoảng khá xa và nói:

    - Nị đi ngay đi... đừng vào trong đó... Ngày mai lúc 6 giờ chiều gặp ngộ ở nhà hàng Soái Kinh Lâm.. Nị biết chớ?

    Tôi im lặng gật đầu, trở lại lấy xe đạp, cứ đạp miết. Vô ngã hẻm này, ra ngã hẻm khác, len lỏi vào dòng xe đạp trên các lộ chính, rồi bất ngờ quẹo vào một con hẻm nào đó, mục đích “cắt đuôi” nếu bị theo dõi.

    Tôi tin tưởng nơi gia đình chú Quảnh. Tôi chỉ còn một nơi bám víu chỉ với chút hy vọng mong manh là chỉ có gia đình Chú mới có thể giúp tôi thoát khỏi nơi này để đến bến bờ Tự Do. Nhưng nay, qua sự gặp gỡ vừa rồi, Tôi hiểu gia đình của Chú cũng đang bị theo dõi gắt gao.

    * * *

    Sau 4 năm “giải phóng”, nhà hàng Soái Kinh Lâm vẫn sang trọng huy hoàng rực rỡ như ngày nào. Tôi bước vào, lòng mang bao nhiêu nỗi ngậm ngùi, nhớ lại những tháng ngày của một thời oanh liệt. Tôi ngồi vào chiếc ghế bên cạnh Chú Xồi, đảo mắt qua một vòng. Tôi yên tâm vì không có người lạ. Hầu hết là những người cùng Tôi vác lúa khổ cực ở Cà Mau khi bị giam về tội vượt biên...

    Chú Xồi hỏi Tôi:

    - Nị còn nhớ Chú Xường ngồi bên kia bàn hay không?

    - Dạ nhớ.

    Ai ngồi kế bên?.

    Dạ, chú Chảnh...
    - Nị ráng nhớ cho kỹ, một chút nữa qua đó ngồi nói chuyện với tụi nó và tụi nó nói cái gì thì nị cứ làm theo cái đó. Mấy thằng chó chết VC đang đánh tư sản mại bản. Tụi nó đóng cửa 3 cái hãng nhuộm vải ở Cầu Tre, tịch biên tất cả vải vóc chúng tôi đang có, và có thể sẽ tịch biên nhà cửa và đưa chúng tôi lên vùng kinh tế mới, không biết ở đâu... Cho nên chúng tôi không còn giúp cho Nị được gì nữa... Đây là hp trà sâm... anh Chảnh biếu cho nị, có vậy thôi... Nhớ giữ hộp trà này bên mình.. Bây giờ qua nói chuyện với Xường và Chảnh.

    Chú Quảnh từ một bàn khác liếc nhìn tôi mỉm cười. Buổi tiệc hôm nay là ngày sinh nhật thứ 16 con gái Út của Chú Quảnh. Tôi nắm lấy bàn tay chú Xồi siết thật chặt và thật lâu, trước khi chỉ biết nói hai chữ cám ơn rồi bước sang bàn chú Xường....

    Xường và Chảnh chỉ lớn hơn tôi 5 hoặc 7 tuổi, nhưng tôi vẫn gọi bằng Chú. Thời gian ở tù Cà Mau, trong cái láng dơ bẩn, 3 chúng tôi cùng nằm một chiếc chiếu rách tả tơi.. Khi ngã lưng xuống chiếu Tôi thường hay kể chuyện Thủy Hử cho họ nghe trước khi thiếp ngủ mỏi mệt sau một ngày vác lúa, vác gạo nhừ người.

    Một cái ghế đã sắp sẵn cho tôi giữa Xường và Chảnh... Xường đi ngay vào đề:

    Anh có biết nhà hàng Thanh Thế ở chợ Bến Thành không? 

    - Dạ biết..

    Nhớ kỹ lời tôi dặn đây. Hôm nay là ngày Thứ Bảy. Sáng ngày Thứ Hai tới, anh gặp Tôi và Chảnh ở Thanh ThếCứ đến đó vào lúc khong 10 giờ nhởn nha uống cà phê, nhớ ăn mặc xuề xòa, râu tóc để nguyên đừng cạo đừng hớt... Đêm nay nhớ mở Hp trà Sâm, mà anh Quảnh biếu cho anh nhâm nhi cho đỡ buồn.
    Tôi đứng dậy, nhìn một lượt chung quanh nhẹ cúi đầu như một sự từ giã không lời, lặng lẽ ra về với bao nỗi bâng khuâng trong lòng. Vui buồn lẫn lộn... cùng với nhiêu thắc mắc. Họ là Ai? Tài phiệt Chợ Lớn cỡ như Mã Tuyên hay Mã Sái chăng, hay thành viên của Triều Châu Phúc Kiến, hay thuộc xã hội Đen của Tàu Cộng, Đài Loan, Hồng Kông? Mặc kệ! Nghĩ chi cho mệt óc miễn sao mình còn thong dong đạp xe đạp tự do ngày nào hay ngày đó, dưới đường phố mưa sa mà không cần nhìn đến cờ đỏ sao vàng..
    Đêm đó tôi mở Hp trà Sâm...10 lượng vàng Kim Thành thứ thiệt nằm trong đó, tôi chợt nhớ lời Chú Xường dặn "Thứ hai gặp Tôi ở nhà hàng Thanh Thế..."

    Tôi ngủ một giấc ngủ chập chờn trên một căn gác cho thuê đầy chuột và dán ở bến xe An Đông.

    ***

    Lúc còn tại ngũ, khi đơn vị dưỡng quân ở hậu cứ Tôi thường cùng bạn bè la cà... sáng thì đi uống cà phê có pha chút bơ Bretel ở nhà hàng Thanh Thế cách phía Tây chợ Bến Thành độ trăm thước, buổi trưa đi ăn Chateaubriand ở tiệm Thanh Bạch, rồi Brodard. Ban đêm, đi vũ trường Văn Cảnh hoặc Thanh Thanh ở xa lộ.Trong nhóm thường có Mỹ Hôi, Hùng Móm, Hùng Mập, Dũng Tây Lai, Cao-P-Minh, Xuân Đờn Cò, Ninh mắt Trừu... một hoặc hai thằng chia nhau một chầu. Chỉ một ngày rong chơi cũng vơi đi gần nửa tháng lương, để khi trở về nhà ngồi vào bàn ăn với vợ con, chỉ có một đĩa rau muống luộc và hộp thịt ba-lác!

    Theo lời dặn của chú Xường, Tôi đến nhà hàng Thanh Thế khong 10 giờ. Giờ này, chỉ lác đác năm ba khách đến uống cà phê...Tôi tìm cái bàn trong góc có thể nhìn xuyên qua cửa kính để quan sát cả trong lẫn ngoài. Nhâm nhi ly cà phê với mùi vị bơ Bretel, hút hết điếu Samit thứ hai thì Xường và Chảnh cũng vừa đến. Họ vẫn tíu ta tíu tít xí xô xí xào như mọi khi. Tôi đứng dậy chào, Xường vội vàng ấn vai tôi:

    - Ngồi xuống! Ngồi xuống...

    Câu chuyện thật ra rất dài, Tôi tóm gọn những gì đã xảy ra trong phạm vi bài viết này...

    Chú Xường mở lời:

    - Đêm qua Anh uống trà Sâm có ngon không? 

    Tôi gật đầu:

    - Anh có mang hộp trà theo không?

    - Dạ có...

    - Anh đưa cho Tôi...

    Tôi chỉ lẳng lặng làm theo và chỉ im lặng ngồi nghe .

    Tôi lần mở cái túi vải ăn mày móc 10 cây được gói cẩn thận đêm qua trong cái quần xì-líp dơ bẩn vàng úa, giao cho chú Chảnh. Chú Xường đưa cho Tôi một túi giấy trong đó có 4 cái bánh tiêu còn nóng hổi...

    - Thời giá hiện nay, 1 cây là 2,850 đồng (tiền già Hồ)... Chúng tôi lấy lại 10 cây này, trả lại Anh 4 cái bánh tiêu Anh có puồn không?

    Nghe Chú Xường phát âm cái tiếng "puồng" không. Tôi không “Puồng” chút nào, nhưng cố nén nỗi kinh ngạc để không hiện lên ánh mắt của mình:

    - Dạ không...

    Chú cười và nói tiếp:

    - Ở dưới 4 cái bánh tiêu, là cái đai vải (nguời Bắc gọi là cái ruột tượng) có 30.000 ngàn tiền mặt trong đó. Anh nhớ... lúc nào cũng cột thật chặt vào bên hông của Anh, chờ chút nữa sẽ có một người nữa đến gặp Anh. Anh ấy là anh em chú bác với tụi tui. Anh Xế Phò sẽ cho Anh biết anh sẽ phải làm gì... Còn phần tôi (Chú Xường) Anh phải nhớ kỹ những điều dặn dò của tôi sau đây: anh Quảnh bảo chúng tôi gặp Anh để cho anh biết những gì anh Quảnh đã sắp đặt cho Anh. Anh có biết tại sao không?

    - Dạ không!

    Vì Anh đã trả lại 25 đồng cho anh Xồi, anh Xồi thử Anh đó, và đó cũng là lý do Anh Quảnh quyết định mang Anh theo trong chuyến vượt biên kỳ vừa rồi.

    Anh Quảnh chỉ lo... nếu Anh bị lộ tông tích thì chỉ có chết... Anh có biết Thương xá Tam Đa cũ hay không?

    - Dạ biết.

    - Bây giờ là cửa Hàng IMEX, bán những mặt hàng ngoại quốc mà chúng nó tịch thu của người Tàu chúng tôi ở Chợ Lớn... Thôi, uống cà phê đi...

    Vừa lúc Chú Xế Phò bước vào. Chú Xế Phò, người dong dỏng cao, dáng dấp không có vẽ Tàu chút nào. Chú nói tiếng Quan Thoại, tiếng Pháp, tiếng Việt rất sành sõi rõ ràng.

    Khi Chú Xường và Chảnh ra về, Xế Phò bắt đầu chất vấn:

    -Anh tên Trần Chỉnh hả?

    - Dạ vâng.

    Chú mỉm cười... cái mỉm cười gọi là cái mỉm cười biết hết chi tiết:

    - Anh có nói và đọc viết tiếng Anh được không?

    - Dạ chút chút...

    - Được tốt lắm... Tôi đang là Trưởng phòng Quản Trị Công Ty Imex thương xá Tam Đa cũ, theo lời yêu cầu của anh Quảnh, Thứ Hai tuần sau Anh bắt đầu làm việc dưới quyền của Tôi làm chức Thủ kho. Chỉ có nhiệm v mở và khóa cửa kho khi có lệnh xuất nhập hàng của Tôi. Anh phải ghi lại mặt hàng nào được xuất trong ngày. Khong 10 giờ, giả bộ ra bên ngoài uống cà phê và giao danh sách đó cho Chú Chảnh. Ban đêm Anh ngủ lại cơ quan cùng với 3 nhân viên khác, họ là những công nhân viên từ ngoài Bắc vào. Cứ như vậy đi, dần dần quen và biết hết mọi việc Anh sẽ có nhiều việc quan trọng hơn... .

    Trước khi chia tay, Chú Phò đưa cho Tôi một Giấy Chứng Nhận: "Trần Chỉnh" nhân viên Cửa Hàng Imex, phía dưới đóng dấu ký tên Trưởng Phòng Thương Nghiệp Quận Nhất TP HCM, cùng một giấy nhỏ có ghi "Lý Kim Anh- Trưởng phòng Công An Chợ Bến Thành".

    ***

    Tôi đạp xe đạp loanh quanh với một tâm trạng lộn xộn xà ngầu... Hung hay Kiết?... Ngạc nhiên, lo âu lẫn lộn....nhưng không có nỗi lo sợ như khi Chú Quảnh hỏi “Có phải Anh là sĩ quan ngụy trốn học tập hay không”.

    Tôi như người đang chới với giữa dòng sông, vớ được gì cứ vớ, không cần biết cái đó lành hay dữ. Đã leo lên lưng cọp, đã phóng lao thì phải theo lao, không còn sự chọn lựa nào khác.

    Giám đốc Imex là một tên "Cán Ngố". Cả ban Quản Trị của hắn ngơ ngơ ngáo ngáo, cộng trừ nhân chia sổ sách cứ lộn tùng phèo, lại thêm lòng tham lam ăn được cái gì là ăn cái đó. Tôi làm việc với họ chỉ có nhiệm vụ khóa và mở khóa kho chứa hàng hóa theo lệnh Chú Phò, sau đó ra ngoài gặp Chú Chảnh. Lúc này Tôi chỉ có một niềm vui sướng vô ngần là có một việc làm và một chỗ ở an toàn, không lo sợ bị phát hiện và bị bắt bất cứ lúc nào. Cũng trong lúc này Tôi đã áp dụng "Nghệ thuật Lãnh Đạo Chỉ Huy" của trường Võ Bị để chinh phục những nhân viên từ ngoài Bắc vào, một cách dễ dàng. Chú Phò hài lòng và mừng lắm.

    Một hôm Chú r tôi đi ăn tối. Trên chiếc Volwagen màu vàng cũ kỹ Chú chở tôi một vòng chợ Bến Thành và trực chỉ bến Bạch Đằng. Một buổi cơm tối vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị trong đời tôi.

    Trong nhà hàng nỗi Mỹ Cảnh... 3 người đã ngồi sẵn. Tên Giám Đốc Imex Nguyễn Tạo, với cái mặt chành bạnh nhưng không che giấu được vẽ ngu si đần độn tham lam trên gương mặt của hắn. Tên Trung Úy Lý Kim Anh Trưởng Phòng Công An Chợ Bến Thành, Đặng Tư, Trưởng Phòng Tài Chánh Imex.

    Trên bàn, chai Remy Martell vơi hơn phân nữa.Tôi khúm núm bước theo sau Chú Phò, chấp tay cúi đầu chào họ. Ngồi vào bàn Tôi cố giữ thái độ bình tỉnh, chỉ lắng nghe họ bàn luận việc của họ cùng với những suy nghĩ mông lung. Quả thật chú Quảnh và gia đình của Chú đã giúp Tôi quá nhiều, ơn sâu nghĩa nặng này bao nhiêu kiếp người tôi có thể báo đáp được.

    Sau buổi cơm gọi là thân mật đó, tôi có thêm vài việc phải làm theo chỉ thị của Chú Phò.

    Một buổi sáng khi Tôi giao danh sách hàng xuất kho cho chú Chảnh, hôm nay lại có mặt Chú Xường, Chú Xường bảo Tôi giao lại số tiền mặt tôi đang giữ. Chú Xường giao lại cho tôi 1 danh sách giá cả mua vô bán ra trong ngày ở thị trường Chợ Lớn. Tôi chỉ biết làm theo. Có thắc mắc thì cũng chẳng ích lợi gì, vì tin rằng họ đang giúp mình qua cơn hoạn nạn.

    Thời gian năm 1979, 1980, 1981... Thân nhân nước ngoài gửi tiền về giúp gia đình không gửi được trực tiếp như bây giờ mà dưới hình thức là "Phiếu Imex”.

    Hàng Imex là hàng thứ thiệt, được tịch thu sau chiến dịch đánh Tư Sản Mại Bản... Nào là thuốc tây, radio, cassette, căm, sên, phụ tùng xe đạp...

    Cả trăm mặt hàng khác, đều là hàng ngoại. Giới tiêu thụ hầu hết là con buôn từ Hà Nội, giá nào họ cũng mua, họ mua theo cái NGU của họ. Còn những người buôn bán phiếu Imex cò con thì đều qua tay mã thầu dậu là Chú Xường... Làm giá thì Chú Quảnh trong Chợ Lớn. Khi Chú Quảnh cho biết giá cả sáng trưa chiều tối, thì Chú Phò cho lệnh xuất kho, bên cạnh có Tôi và Chú Chảnh đang chờ bên ngoài. Có gì trục trặc thì có Giám Đốc và tên Trung Úy Công An Lý Kim Anh.

    Dù rằng tình hình an ninh có vẻ khả quan, nhưng nỗi lo âu vẫn canh cánh trong tôi. Không biết bị phát hiện giờ nào và nếu bị chúng bắt thì sẽ ra sao. Cứ vài hôm chú Xường gặp tôi nhét vào túi Tôi một hai ngàn (tương đương 1 cây vàng). Chú nói đó là tiền lời từ 30.000 đồng "hùn vốn" của Tôi. Tôi nhờ Niên Trưởng Huỳnh Bá Long Khóa 21 Võ Bị Đà Lạt, gửi về giúp vợ con và Cha Mẹ Chị Em Tôi. Thôi cứ thế rồi thời gian cũng qua, dù chưa được trở lại đời sống bình thường như mọi người dân khác và không gần gũi được vợ con.

    ***

    Một ngày đẹp trời tháng 3 năm 1982.Tôi đang ngồi uống cà phê dọc vĩa hè trước cửa hàng Imex, 1 chiếc Honda 2 người trờ tới. 1 người xuống xe, vội vả nắm lấy tay và bảo Tôi:

    - Niên Trưởng theo Tôi qua Chợ Cũ làm vài chai Hennekein.

    Tôi có một cảm giác lạnh băng chạy từ đốt xương sống cuối cùng lên đến đỉnh đầu, nhưng định thần thì ra Nguyễn văn Định, (Khóa 24 Đà Lạt - TĐ 11 Nhảy Dù), đang chờ ngoài xe là Trần văn Hợp (Khóa 23 Võ Bị Đà Lạt)...

    Chiếc Honda chở 3 người qua Chợ Cũ, làm đĩa cơm sườn, vài chai bia Con Cọp. Hợp móc trong túi xách một tờ giấy, điền tên Trần Chỉnh, rồi chở tôi ra bến Thủ Thiêm "TỐNG" xuống một chiếc ghe chở gạch cát của Công Ty Dầu Khí Vũng Tàu...

    Đêm đó Tôi lại ra khơi. Lần này là lần thứ 7, không kịp một lời từ giã nào với Chú Phò, Chú Xường, Chú Chảnh, Chú Xồi, Chú Quảnh và vợ con gia đình.

    Một tháng sau, đang chờ đợi để rời khỏi Đảo Pulau Bidong, Mã Lai, sang trại chuyển tiếp Galang II ở Nam Dương, Tôi nhận được thư của vợ tôi:

    Anh yêu thương, Chị Ba (chị Dâu của Tôi) có đến thăm Em. Cùng đi với Chị có 1 người đàn ông, người này đã trao cho Em 10 lượng vàng và nói đây là tiền của anh Út gửi cho”.

    Đó là Chú Xồi. 
    Quá kh và hin ti:

    Trong 3 tháng tội vượt biên, chúng tôi khom lưng đi vác lúa gạo ở Cà Mau, tình cảm của Tôi với gia đình chú Quảnh càng ngày càng gắn bó, qua những bữa cơm sau một ngày vất vả lao động xã hội chủ nghĩa, những bữa cơm “lòng heo, phá lấu heo quay, vịt quay”.... Có nhiều lúc Tôi bỗng chợt cười khan...Họ hỏi tôi sao lại cười, tôi nói:

    Ở tù kiểu này sướng hơn trở về nhà.

    Chú Quảnh tiết lộ rằng, gia đình đã “chung” 150 cây cho thằng Trưởng Ty CA Hình Sự rồi, nay mai mình sẽ được về.

    Thời gian này tôi gần gũi với Chú Xưòng - Chảnh nhiều hơn. Xường và Chảnh nhỏ con ốm yếu lại cùng một toán lao động với Tôi... Có lần vác bao gạo bước qua tấm ván gỗ, bắt từ bờ sông xuống ghe bầu, Xường trợt chân té nhào xuống sông, tôi liệng bao gạo xuống mũi ghe, nhảy ùm xuống sông vớt chú ấy lên, ông chủ ghe bầu thông cảm không làm khó dễ mà chỉ nói:

    Không sao, không sao, xem như Tôi biếu bao gạo đó cho các Anh...Tội nghiệp! Tù Tội! Tội Tù!

    Từ đó Tôi, Xường, Chảnh như hình với bóng. Tôi thường kể họ nghe chuyện Đông Châu Liệt Quốc,Tam Quốc Chí, Thủy Hử.Họ khoái nghe nhất là bộ truyện Kim Dung kèm theo lời bàn phân tích của Lão Ngoan Đồng (biệt danh của tôi) về những nhân vật Ma Giáo và Chính Giáo. Cũng nhờ vậy mà 3 tháng tù trôi qua như một giấc ngủ đêm với thịt quay phá lấu.
    Viết theo li k ca Xường và Chnh:
    Ông Cố Nội chúng tôi, lập nghiệp ở Chợ Lớn (vào khong năm 1860) với một cái gánh mua bán ve chai lông vịt, thường ngày thì mua được lông vịt nhiều hơn lông gà, vì người Tàu ăn vịt quay nhiều hơn. Khi Ông Nội chúng tôi ra đời thì cái gánh ve chai lông vịt đã trở thành cái "vựa" ve chai lông vịt, sau đó trở thành cái "xưởng" chuyên làm chổi lông gà, quạt tay và áo che mưa bằng lông vịt, còn ve chai thì cân ký bán sĩ cho một lò rèn làm chai lọ thủy tinh và cuối cùng là xưởng dệt tơ vải.

    Trong khi đó, người Em thứ Ba của Ông Cố chúng tôi - ông Cố Ba - làm nghề mổ heo, Bà Cố Ba giữ lại lòng heo nấu phá lấu theo kiểu Dương Châu, rồi cho hai người con trai đội mâm đan bằng mây đi bán dạo..Sau đó trở thành quán hủ tiếu duy nhất có bán thịt heo quay, thịt vịt quay, lòng heo phá lấu....Đó là tiền thân của "Công Ty Nhà Hàng Bát Đạt" sau này.

    Khi đến đời Ông Nội chúng tôi (vào khoảng vài thập niên cuối thế kỷ 19...1880-1900) thành phố Sài Gòn được hình thành với những dinh thự, công sở, khách sạn nguy nga đồ sộ của mấy ông Tây Bà Đầm, trong khi khu Chợ Lớn vẫn còn bùn lầy nước đọng, đường xá được chính quyền Tây mở rộng ra đến vùng ngoại ô...Thủ Đức, Gò Vấp, Nhà Bè, Phú Lâm.... Huyết mạch giao thông buôn bán chính là ghe thuyền từ các tỉnh miền Tây lên Sài Gòn và ngược lại... do đó mới có Kinh Chợ Gạo (Mỹ Tho).

    Cơ sở của Ông Nội chúng tôi phát triển rất nhanh, Bà Nội trông coi cửa hàng buôn bán tơ lụa, có thể nói gia đình chúng tôi lúc đó như là nhà thầu duy nhất cung cấp gấm, sa-ten, vải lụa... cho các con buôn thực Dân Pháp... trong khi gia đình Ông Cố Ba đang phát triển các tiệm ăn rập khuôn theo kiểu Tàu. Quán ăn và quán trọ Bát Đạt. Gia đình giàu có nhất trong vùng là giòng họ Mã, hậu duệ sau này là Mã Sái, Mã Tuyên.

    Đến đời thân phụ mẫu chúng tôi thì gia đình cũng đã khá giả. 6 anh chị em chúng tôi khi lên 3, 4 tuổi đã được dạy xử dụng bàn tính (bàn toán) của người Tàu một cách rành rọt. Chúng tôi học trường Tinh Võ, ở nhà nói tiếng Quan Thoại, khi giao tiếp với con buôn thì bằng tiếng Việt hoặc tiếng Tây... Khi anh Quảnh lấy vợ người Triều Châu, thì cha Tôi giao hết chuyện quản trị làm ăn cho Anh, và Ba Tôi trở thành "Ông Trùm" của "Bang Hẹ"... Anh Xồi được giao trách nhiệm sổ sách kế toán, còn Tôi (Xường),Chảnh và cô em út A Cảo làm chủ 3 hãng nhuộm vải ở Cầu Tre, Phú Lâm.
    Li Kết:
    Qua những câu chuyện kể trên, Tôi không biết có phải vì trả lại 25 đồng mà Chú Xồi đã cố tình đưa dư, mà cơ duyên định số đưa đẩy Tôi gặp gia đình họ, làm ăn sinh sống với họ khoảng 4 năm trong hoàn cảnh lo sợ hồi hộp từng ngày cho đến một ngày đột ngột rời bỏ quê hương không định trước .
    "H"... Trong ngôn ngữ lịch sự của người VN chúng ta thì Họ là người Hoa Kiều Chợ Lớn, bình dân thì thường gọi mấy Ông cắt chú, được phiên âm trệch ra từ danh từ "Khách Trú”... từ đó mới có danh từ Chú... Chú Ba Tàu... Chú Chệt...

    Dù gọi là gì chăng nữa, Họ vẫn là Họ. Họ vẫn giữ phong tục tập quán từ hằng nghìn năm qua cho đến ngày nay....dù đã trải qua Tứ Đại Triều Đình (Tống, Nguyên, Minh, Thanh)... cho đến Bát Quốc Liên Quân... rồi Ma Cao Hồng Kông, Đài Loan và lục địa dưới bàn tay sắt của Cộng Sản..Họ lấy gia đình làm đơn vị căn bản, để từ đó vươn lên, trở thành "Bang".. nhỏ lớn tùy thời tùy thế. Cha Mẹ, Anh Em, Vợ Chồng Con Cái đùm bọc che chở cho nhau, để từ một gánh ve chai lông vịt hay một cái mâm đan bằng Mây, bán dạo lòng heo phá lấu một ngày trở thành những Đại Gia trong sinh hoạt các "Bang" của Họ...Chẳng qua chỉ có một chữ "TÍN".

    Họ khởi nghiệp từ Buôn Bán. Nhỏ lớn, sang hèn, nghèo giàu gì Họ cũng có thể làm, cần cù nhẫn nại, chắt chiu dành dụm, không khoe khoang, không xa hoa phung phí... cho đến một ngày "Puôn Pán Dạo...Puôn Pán Lẽ..." trở thành những Công Ty Xí Nghiệp kếch xù trong những lãnh vực rất đơn giản.

    Gần như suốt thế kỷ 20, người Hoa Kiều Chợ Lớn Sài Gòn Gia Định không có một dịch vụ nào liên quan đến công nghiệp nặng, chỉ chú trọng về việc trao đổi buôn bán hàng tiêu dùng gia đình. Họ tích lũy tài sản theo truyền thống cha truyền con nối, cho đến khi sự tích lũy tiệm tiến này trở thành một gia sản khả dĩ có thể trở thành một hội viên trong hệ thống thương mại vĩ đại của các " Bang " ...

    Dĩ nhiên trong sự buôn bán làm gì không có sự cạnh tranh dành giựt lẫn nhau, rất hiếm nhưng không phải là không có. Nếu có xảy ra thường thì Họ giải quyết nội bộ. Họ không thích tranh tụng kiện cáo, có những trường hợp liên quan đến pháp luật chính quyền thì Bang của Họ thương lượng để mọi việc trôi qua. Sau đó Họ giải quyết nội bộ bằng những biện pháp chế tài, cô lập vì "Bất Tín", nặng nề lắm mới có vụ thanh toán. Gia đình hay cá nhân nào phạm vào chữ Tín thì chỉ có nước đi ăn mày.

    Trung Hoa lục địa (Trung Cộng, Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao....) Họ đều có chính quyền riêng của Họ. Người dân sinh ra, lớn lên học hành thành đạt, từng bước từng bước Họ tham gia chính quyền từ hạ đến thượng tầng cơ sở. Nhưng đối với người Hoa Kiều ở hải ngoại (theo sự hiểu biết của Tôi) như VN, Châu Mỹ, Châu Âu, Châu Úc...Họ không muốn tham gia vào chính quyền dù Họ có mãi lực đồng tiền, có thể mua tiên cũng được. Thí dụ như ở Indonesia , người Hoa Kiều chỉ có khoảng 3% dân số mà nắm giữ 70% tài sản của đất nước này. Nhưng có điều tài tình chúng ta cần phải khâm phục.... dùng mãi lực đồng tiền. Họ móc nối với chính quyền nơi Họ cư ngụ một cách kín đáo trơn tru... bên cạnh là những "Cái Bang", giống như xã hội đen, mafia còn khủng khiếp hơn God Father của Italy rất nhiều. Nhiều người cho rằng "Ba Tàu" hay bắt chước làm đồ giả, điều đó hẳn nhiên, giải thích chuyện này Tôi chỉ mượn câu "Cứu Cánh Biện Minh Cho Phương Tiện "... 
    Còn người Vit Nam mình?

    Trải qua trăm năm dưới sự đô hộ thực dân Tây, 30 năm hiện diện của Mỹ (1954-1974), nay dưới sự cai trị tàn độc của CS, còn gần 4 triệu người Việt đang sống rải rác năm châu hải ngoại, chúng ta hãy xét nghiệm và làm một bài toán....

    Câu hi: Đã có bao nhiêu người vì Danh, vì Vị, Vì Lợi đã dùng những bước chân "Bất Nhân, Bất Lễ, Bất Nghĩa, Bất Trí, Bất Tín” để leo lên lên những bậc thang danh vọng hảo huyền ảo tưởng, khiến cho cả nước (quốc nội) lâm vào tình trạng nghèo đói trong danh sách những Quốc Gia nghèo đói nhất thế giới, khiến cho Cộng Đồng Người Việt Nam nói chung và các Hội Đoàn Tập Thể nói riêng ở hải ngoại lâm vào tình trạng ngày càng nghi kỵ, chia rẽ, phân hóa như ngày nay không bao giờ hàn gắn được, và cũng chẳng bao giờ có một vĩ nhân nào có thể xuất thế tế độ chúng sanh....ít ra cũng vài thế hệ sắp tới..

    Họ là Ai?

    Họ là những người họ Đỗ tên Thừa.
    Họ đ thừa cho Chế Độ Miền Nam VN sinh ra tham quan ô lại.

    Họ đỗ thừa cho Chế Độ CS vơ vét mồ hôi nước mắt của dân lành cho tư lợi cá nhân

    Họ đỗ thừa cho xã hội Tây Phương làm cho Tam Cương Ngũ Thường đảo lộn.

    Nhưng Họ không bao giờ dám Đỗ Thừa cho chính Họ ..."Ta là kẻ đã VONG BẢN, VONG QUỐC, VONG THÂN".

    May quá, Lão Ngoan Đồng học được những bài học từ gia đình chú Quảnh nên không bị vướng vào Ba cái VONG trên, mà Lão Ngoan Đồng chỉ mang cái bệnh ....VONG MẠNG!


    Mũ Đỏ Trương văn Út, danh hiệu truyền tin Út Bạch Lan.

    LTS: Cựu Đại Úy Trương văn Út, cựu SVSQ Khoá 22/TVBQGVN. Ông là ĐĐT Đại đội 5, Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù/ Lực Lượng Đặc Biệt.

    Sau ÐÐ5 Biệt Cách Nhẩy Dù cải tuyển thành Đại Đội 2 Trinh Sát Nhảy Dù/SĐND, được các cựu SVSQ/Khoá 22/TVB Quốc Gia VN gọi là “Lão Ngoan Đồng”. Ông vượt thoát khỏi trại tù CS (Long Giao). Mấy năm trời sống lanh quanh thành phố Saigon, trước khi vượt biên (1982) đến trại tị nạn Mã Lai. Ông hiện định cư tại Houston, Texas.




GẶP LẠI KẺ THÙ XƯA
  • Mới đây, trong chuyến về Hải Phòng thăm quê cha đất tổ, tình cờ, nơi quán nước bên đường, tôi gặp lại một “người quen cũ”, nhận ra anh nhờ khuôn mặt rỗ và vết sẹo khá sâu hình lưỡi liềm trên cổ. Anh không nhận ra tôi, đon đả chào mời:
    - Bác vào ngồi nghỉ, xơi chén nước.
    Tôi mở hộp nhón thanh kẹo lạc, nhắp ngụm chè Thái Nguyên mơ màng sống lại một kỷ niệm đau buồn.... 
    Năm 1975 tôi, người lính VNCH thua trận bị đẩy vào trại tập trung, một số bộ đội phía bên kia trở thành cai tù nghếch mặt vì hào quang chiến thắng!
    Đám tù chúng tôi rất nhiều những tấm gương dũng cảm, một số khác khá đông giữ gìn tư cách nín thở qua sông và dĩ nhiên có cả không ít những anh hèn. Một “cựu” Trung Úy truyền tin muốn lấy lòng mấy ông chủ mới, thấy chỗ đông người là lê tới chỉ để khoe vài câu: 
    - Các anh ơi! Chủ Nghĩa Cộng Sản đã có sẵn trong người tôi từ lâu, này nhé! đũa, vợt, dao, liềm, bàn chải đánh răng tôi đều cầm tay trái, trên sân bóng, tôi cũng thuận chân trái, ngủ, tôi cũng nằm nghiêng, quay người về bên trái, (1) chế độ này chắc rất hợp với tôi! 
    Mọi người nhìn hắn cười khinh bỉ. Tôi (còn rất trẻ) bực bội bỏ vào nhà vệ sinh nói với bạn tù đứng đái bên cạnh mình:
    - Tao, cái con mẹ gì cũng thuận bên phải chỉ có cái thằng khốn nạn này lúc nào cũng ngoẹo đầu về bêntrái!
    Hai đứa phá lên cười nhưng vừa quay ra cửa thì hỡi ôi! Ông cựu” Trung Úy truyền tin đã đứng đấy. 
    Trưa hôm ấy, tôi bị gọi lên văn phòng, vừa thấy tôi, Trung Úy C. trưởng (2) mặt hầm hầm, Đại Úy D. trưởng (3) đập bàn đứng dậy: 
    - Thằng này náo! Dám dí buồi vào Chủ Nghĩa Cộng Sản của ông. Ông sẽ cho mày nát xương, mọt gông.
    Lần ấy tôi bị trận đòn lê lết thêm mấy tuần chân cùm nằm conex (và có lẽ) một vết đen ngòm trong hồ sơ cá nhân của đời tù cải tạo.
    Tôi gợi chuyện hỏi thăm biết mình đã không lầm “kẻ thù” của tôi năm xưa nay đã già nhưng vẫn còn lanh lợi, ngồi cách tôi chỉ một tầm tay với. Tôi ngồi lặng im xem sinh hoạt của quán hàng, một số khách đến uống chè, ăn kẹo hoặc mua hộp diêm, cút rượu, cũng có người đến nhờ khiếu nại, làm đơn “chồng cháu vô cớ bị công an bắt lên phường”, có cả người đến vì sắp bị chiếm vườn, lấy đất. Anh nhìn tôi phân bua: 
    - Xã hội giờ thối nát quá, ngành nào, địa phương nào cũng hối lộ mua chức bán quyền, thân phận người dân đen thật khốn khổ mọi bề.
    Khi anh rót cho tôi thêm chén chè (chén thứ mấy tôi cũng không nhớ) không khí đã rất cởi mở thân tình, xích đến gần anh, tôi kể lại chuyện năm đầu tiên cải tạo, những cực hình gánh chịu vì một câu nói tào lao.
    Anh trầm tư một lúc lâu, rít hơi thuốc lào rồi chậm rãi nói, mặt ẩn hiện sau làn khói:
    - Đã gần 38 năm, sự việc của anh tôi cũng chỉ nhớ loáng thoa, loáng thoáng, anh đã phát biểu cực kỳ phản động, ở cương vị D trưởng của tôi, lập trường kiên định lý tưởng sáng ngời, lối suy nghĩ ấy tôi được lệnh diệt từ trong trứng nước, anh còn sống sót trở về cũng là đại phúc.
    Anh ngừng một lát:
    - Nhưng thế sự lúc này đã khác. 
    Rồi bằng một giọng chua chát đắng cay: 
    - Tôi trả thẻ đảng được mấy tháng nay để khỏi phải  cùng hội cùng thuyền với đám tham quan bán nước”. Tôi nắm tay anh thật chặt, mối thù tưởng sẽ chẳng thể nào quên bỗng tự nhiên tan biến.
    Và thật bất ngờ, anh nhìn thẳng vào mắt tôi với nụ cười nửa miệng: 
    - Có điều này thật trái khoáy, thời gian gần đây, tôi để ý khi đứng đái, cái thằng khốn nạn đã ngoẹo hẳn đầu về bên trái.

    Chú Thích:
    (1) Ý nói “thiên tả” – nghiêng về phía trái, theo cộng sản
    (2) Đại Đội Trưởng
    (3) Tiểu Đoàn Trưởng

    Phạm Đức Nhì



 Huyển Mộng Bước Đời
  • Khi Phước Tuy in vết xích sắt T54, dân, lính, từ Bà Rịa lếch thếch bồng trống chạy ra Vũng Tàu. Từ Trại Lam Sơn, tôi cũng lên đường trên chiếc xe dodge, tới Vũng Tàu tôi dẫn mấy đứa em ra Bến Đình đón tàu hàng băng biển về Vàm Láng, tàu cặp bờ vào buổi chiều ngày 26 tháng 4, có khoảng gần trăm lính bị nhốt ngoài mõm đất theo leo bên bờ sông, vì là quê nhà nên tôi dễ nhận ra người quen đang đứng trên bờ nhìn xuống...
    Khoảng 6 giờ chiều, thiếu tá Sự (Khóa 16 VB) quận trưởng quận Hòa Tân, đi xe jeep với 2 chú lính cận vệ ngừng xe trước bến cảng, anh đứng nhìn 1 lượt nhóm người đang bị cô lập, anh nhận ra tôi dù không biết chính xác tôi là ai nhưng anh biết tôi là con trong gia đình họ Nguyễn cũng ở gần nhà anh, anh vẫy tay cho tôi lên bờ, hỏi thăm mọi việc, anh có ý cho tôi quá giang xe về Gò Công nhưng tôi từ chối vì còn mấy đứa em đi theo,tụi nó theo tôi từ KonTum, qua biết bao nhiêu khúc đường sinh tử, về tới đây nỡ nào tôi bỏ tụi nó bơ vơ...
    Xe Quân cảnh do Thượng sĩ Hương, cũng là cựu học sinh Trung Học Gò Công, sau tôi một lớp, hướng dẫn đoàn xe GMC chở đám lính rã ngũ về phi trường L19, phi trường nằm cạnh trung tâm yễm trợ tiếp vận tỉnh, tôi bước vào trung tâm, tôi gặp rất nhiều người quen chào hỏi, kìa là Đại Úy Để (Khóa 17/TĐ) là Trung Úy Dư (khóa 2 CTCT/ĐL)... vì lệnh giới nghiêm 24/24 tôi không dám về nhà vì ngại tầm súng của đám Nhân dân Tự vệ, mịt trời khói lửa không sao, về đây té lổ chân trâu cũng phiền, thôi thì phơi sương ngoài phi trường cùng với mấy chú em thêm một đêm nữa.
    Sáng ngày 29 tháng Tư, Trung sĩ Nhất Khâm dùng xe Honda chở tôi lên Sài Gòn trình diện, hai thầy trò với một cây cold lận lưng nhắm hướng Cầu Nổi trực chỉ, lên tới Cầu Ông Thìn khoảng 10 giờ sáng thì có lệnh giới nghiêm 24/24, thiết giáp đang đụng nặng với chính quy Bắc Việt từ hướng Long An qua, suốt đoạn đường từ cầu Ông Thìn đến Cầu Nổi đông đúc đủ các loại xe đò miền Tây vì mấy ngày sau cùng, tuyến đường Long An bị gián đoạn, Sư Đoàn 22 và Sư Đoàn 7 đang đụng nặng với quân Bắc Việt. Xe đò từ miền Tây đều dùng ngả Mỹ Tho qua Gò Công lên SàiGòn, vì nghẻn đường, dân chúng căn lều hai bên lộ, bày hàng mua bán, dù lệnh giới nghiêm 24/24 đã ban hành, thoạt mới nhìn thấy vui vui, nhưng có đi có đứng trên đoạn đường nầy mới thấy sau cảnh nhộn nhịp là những tấm lòng đang đau xé.Tôi về tới Cầu Nổi, bến phà đóng cửa. 2 thầy trò sửa soạn tìm chỗ nghỉ trong nhà chờ đò, may mắn có 1 chiếc xe dân sự, trên xe có 2 người đàn ông, 1 người bước xuống xe vào trạm mượn máy liên lạc về tỉnh, chỉ vài phút sau 1 chiếc phà đặc biệt rời bến trên đó có tôi và thêm 1 chiếc xe chở hàng nhỏ của nghệ sĩ Tùng Lâm, cùng với chiếc xe nhà của 2 vị nầy. (Lúc vô tù, ở trại Hà Tây, tôi chung buồng với Anh Tống, trưởng ty cảnh sát Long An, tôi mới biết người lái xe chiều hôm đó là anh Tống và thiếu Tá Xuân ngồi bên cạnh).
    Sáng ngày 30, đám lính trong nhà tôi (khoảng 20 tên) sang khu nhà thờ uống cà phê sáng, sang bàn billard cạnh bên làm vài cơ chờ mở đường...Tôi nhớ khoảng gần 11 giờ có một chú nhân dân tự vệ vào mời tất cả về nhà nghe radio. Mọi người đều ngạc nhiên không biết chuyện gì xãy ra, sao lại mời nghe radio...!!! 
    Thiếu Tá Sự, Chi khu trưởng quận Hòa Tân, lảnh thổ quận Hòa Tân, tỉnh Gò Công có hai ngõ chánh vào Tỉnh là cửa biển Vàm Láng và bắc Cầu Nổi; bên kia bờ Cầu Nổi thuộc quận Cần Đước, tỉnh Long An, bên kia biển Vàm Láng là Vũng Tàu, hàng ngày có tàu làm ăn qua lại giữa hai cửa biển nầy. Đài phát thanh Sài Gòn, Đài BBC, đài VOA... suốt ngày phát tin di tản... di tản... Tình hình nghiêm trọng lắm rồi, không biết đất nước sẽ đi về đâu, quân nhân thì nghe lệnh cấp trên mà di tản, còn dân chúng thì di tản theo quân nhân cho trọn tình quân dân cá nước... và Vũng Tàu đã tràn đầy... cá nước. Làn sóng người từ vùng 1 qua vùng 2 tới trung tâm vùng 3, rất nhiều người muốn tìm đường xuống vùng 4, tin vào sự an toàn của vùng nầy. Họ ra Bến Đình băng biển về Vàm Láng Gò Công. Đơn vị nào còn cấp chỉ huy thì còn kỷ luật, đơn vị nào rã hàng thì lính tráng không còn muốn nghe lệnh ai nữa.
    Đời lính dạn dày gió sương, đã nguyện đem thân trai hiến dâng cho tổ quốc, họ đã biết bao lần vào sinh ra tử; họ là những người lính thiện chiến mà bây giờ bị bỏ rơi khi súng đạn vẫn còn mang bên người... Họ ấm ức, họ bất mãn; xin ai đừng làm điều gì trái ý họ lúc nầy... giờ nầy có ai biết đơn vị họ đang ở đâu? Giờ nầy có ai biết gia đình, cha mẹ, vợ con họ đang ở đâu? Thiếu Tá Sự trên xe jeep hết có mặt tại Cầu Nổi lại xuống Vàm Láng, Cầu Nổi đông nghẹt xe chờ 2 bên bến bắc nhưng không hỗn loạn bằng Vàm Láng vì ít lính nhiều dân.
    Phía Vàm Láng thì đã có nhiều thuyền lớn nhỏ và ghe cá từ Vũng Tàu chạy qua, cặp bến cá đổ lên bờ không biết bao nhiêu là dân thường và quân nhân của nhiều binh chủng khác nhau, còn mang đầy đủ vũ khí, chuyện chết chóc xãy ra dễ dàng, cấp bậc cao nhất người ta nhìn thấy có Đại tá Lân, hình như là tỉnh trưởng Phước Tuy, nguyên trước kia là Tham mưu Trưởng sư đoàn Dù. Ông cúi đầu lặng lẽ đi theo đoàn người di tản tìm phương tiện về Gò Công. Xa bờ một khoảng có hai tàu sắt chở lữ đoàn 1 Dù gồm 3 tiểu đoàn 1, 8, 9 không vào bến bải cạn được nên phải thả neo ngoài xa.
    Trung Úy Thăng, Phân Chi Khu trưởng Vàm Láng sợ có hỗn loạn, gọi máy xin chi khu tăng cường quân cảnh giữ trật tự. Nhưng chi khu làm gì có quân cảnh. Anh Sự báo lên tiểu khu thì được Đại Tá Lê, tiểu khu trưởng ra lệnh phải tước tất cả vũ khí và chở lính rã ngũ về tiểu khu. Đây là một lệnh rất khó cho những ai muốn thi hành lệnh nầy.
    Chi khu Trưởng lên xe với mấy người cận vệ, theo sau xe jeep là chiếc GMC trực chỉ Vàm Láng; hương lộ nhỏ hẹp đi vào bến cá dày đặc những lính và dân. Anh Sự xuống xe đi bộ và tìm gặp được vài sĩ quan võ bị khóa đàn em, anh không ra lệnh mà chỉ cố thuyết phục các sĩ quan trẻ nầy kêu gọi thuộc cấp buông súng rồi lên xe để được chở về tiểu khu. Anh Sự trở lại xe thì được hiệu thính viên báo có Trung Tá Đỉnh, lữ đoàn trưởng nhảy dù muốn gặp anh trong máy. Ông Đỉnh đang ở tại văn phòng xã. Từ ngày ra trường tới bây giờ anh Sự mới gặp lại Trung Tá Đỉnh khóa 15, ông Đỉnh giới thiệu Trung Tá Hồng, Lữ đoàn phó và 2 Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng. Ông Đỉnh nhờ anh Sự đưa đi gặp Đại Tá Lê (Tỉnh trưởng Gò Công). Trung Tá Hồng ở lại Vàm Láng với đơn vị. Lính Dù trên tàu cũng vào bờ thoải mái, ăn uống, chờ lệnh trong tinh thần kỷ luật rất cao..Đại Tá Lê tiếp Trung Tá Đỉnh trong phòng làm việc và gọi máy báo tin cho tướng tư lệnh vùng 4 Nguyễn Khoa Nam,Tướng Nam ra lệnh tử thủ thẳng cho ông Đỉnh và đặt lữ đoàn dưới quyền chỉ huy của Đại tá Lê.Anh Sự chở ông Đỉnh về lại chi khu Hòa Tân, cả 2 đều im lặng, tiếng máy C25 sau xe báo cáo có cờ giải phóng xuất hiện xa xa ở mé rừng. Vừa tới cổng quận thì thấy một bầy chó rất đẹp, loại chó nhà giàu không biết của ai? Thấy anh Sự xuống xe, thầy Bùi Giáng tĩnh bơ như đất nước không có chuyện gì xãy ra, kéo bầy chó lại gần anh Sự:
    – Bữa nay thầy đem mấy con chó nầy giao thiếu tá nuôi nó, tụi nó khôn lắm, con nầy là sứ giả của Thích ca nè, con nầy là sứ giả của Jesus, con nầy là sứ giả của... Anh Sự vội vàng từ chối:
    – Thầy ơi, tôi không thể nào tiếp Thầy trong ngày hôm nay. 
    Rồi anh Sự móc tiền nhét vào túi nhà thơ bảo: 
    – Thầy tìm xe về Sài Gòn ngay lập tức vì ở đây nguy hiểm lắm, tình hình nặng nề lắm rồi... bữa khác hãy xuống chơi.
    Bữa khác trong lời hẹn cũng là mốc thời gian vô định. Cũng từ hôm đó, anh Sự vĩnh viễn không còn gặp lại ông thầy Bùi Giáng kính mến lần nào nữa, anh vừa quay lưng đi vào văn phòng thì 2 chiếc xe của 2 ông quận Cần Đước và Cần Giuộc ngừng lại hỏi:
    – Ê, bộ toa tính ở lại chờ bàn giao hả?
    Nói xong 2 xe tiếp tục chạy thẳng hướng Vàm Láng.
    Gần 3 giờ trưa, một đoàn xe, trong đó có thấy đại tá Lê mặc áo giáp cùng vợ và cô con gái ngồi trên xe chạy ngang quận về hướng biển. Không còn biết phải làm gì nữa, Anh Sự vội vã tiễn vợ con ra xe về bên ngoi ở làng Tăng Hòa rồi cùng Ông Đỉnh ra Vàm Láng, nơi đơn vị Dù vẫn còn đang chờ thượng cấp.
    Xã Vàm Láng là một xã sống bằng nghề đánh cá, họ có nhiều ghe tàu đủ khả năng đi đánh cá xa bờ, nên đã trở thành nơi hẹn cho những chuyến đi... dù không biết nơi đến là đâu??? Một mũ đỏ mang cái radio đang nghe lại cho Trung Tá Đỉnh. Bản tin đầu hàng của tướng Minh thường xuyên phát lại, vậy mà tới giờ nầy 2 anh mới được nghe... mà vẫn không muốn tin... Ông Đỉnh đứng dựa vào đầu xe jeep, nước mắt ông chảy dài trên đôi má dạn dày phong sương, mắt anh Sự cũng đỏ hoe, không phải chỉ có 2 người khóc, mà còn nhiều, nhiều lắm, bao nhiêu là nước mắt nghẹn ngào, tức tửi. Họ khóc cho ai? Cho tổ quốc? Cho Chánh Phủ?... Hay cho đời mình? Họ khóc cho tất cả...!
    Nén tiếng thở dài, ông Đỉnh đứng thẳng người ngỏ lời với đồng đội thuộc cấp:
    – Chúng ta đã chiến đấu bao nhiêu năm dài để bo vệ miền Nam, bây giờ có lệnh đầu hàng... chúng ta không thể cãi lệnh được. Anh em từ giờ phút nầy tự do quyết định cuộc đời mình, ai muốn về nhà, muốn đi đâu thì đi, riêng tôi chắc sẽ đi Úc, anh em nào muốn đi theo thì đi.
    Nói xong ông cho tay vào túi móc ra một nắm tiền ném tung theo gió, tiền Việt Nam bay lả tả cuốn theo gió bụi bước đời mà chẳng thấy ai buồn nhặt lấy. Một hình ảnh rất bi hùng cuối trang chiến sử... đầy máu và nước mắt!
    Thành phần sĩ quan tiểu khu Gò Công tự tìm tàu thuyền mà đi, chỉ có gia đình Đại Tá Lê mới đến gần với tàu của đơn vị Dù. Lúc bấy giờ không biết có ai phóng tin bà Đỉnh từ Sài Gòn đã xuống tới Gò Công tìm chồng. Anh Đỉnh nói với Trung Tá Hồng và anh Sự:
    – Moi phải lên Gò Công đón bà xã xuống rồi sẽ đi.
    Nhìn cảnh hỗn loạn tại bến cá, Thiếu tá Tây, Đại úy Để... và nhiều, nhiều nữa... trở lại Gò Công mặc cho cuộc đời đưa đẩy... Mọi người tự an ủi... thôi thì dù sao cũng hòa bình rồi, bên thắng cũng là người Việt với nhau... chắc không đến nỗi nào...
    Trên chiếc tàu hàng loại cận duyên chở bộ chỉ huy lữ đoàn Dù bây giờ có thêm gia đình Đại Tá Lê, Thiếu Tá Sự với thằng em cận vệ, cùng vài sĩ quan chi khu kể cả nhân viên hành chánh như Phó Quận Thúy... Chiều xuống dần rồi tối hẵn. Chờ mà không thấy Trung Tá Đỉnh trở lại, Trung Tá Hồng quyết định cho nhổ neo, theo lời chỉ dẫn của Đại Tá Lê cứ cho tàu chạy thẳng ra hướng đông sẽ gặp tàu Mỹ?!
    Tàu chạy trong đêm tối, biển lặng yên, bầu trời đầy sao lấp lánh... nhưng giông bão hình như đang xé nát lòng người. Anh Sự ngồi bên cạnh người tài công cũng là chủ tàu, phụ quan sát theo vệt đèn pha để tàu tránh đụng vào các miệng đáy. Nhìn hướng SàiGòn thấy khói lửa ngút cao, còn trước mặt vẫn là biển cả với một màu đen! Cũng phải vài tiếng sau mới nhìn thấy ánh đèn le lói từ xa và tàu cứ nhắm hướng đèn mà chạy tới, chạy cho tới khi sao mai lấp lánh mờ dần và mặt trời ló dạng.
    Một chiếc tàu Mỹ khá lớn đang neo ở đây từ lúc nào rồi. Trên boong tàu có nhiều người bước lui tới, họ đứng tựa lan can tàu nhìn xuống, những xà lan chật kín người đang cặp hai bên hông tàu, người trên tàu nhìn xuống xà lan như tìm như kiếm người quen. Tàu Dù tiến dần tới tàu Mỹ thì gặp phản ứng, loa phóng thanh từ trên tàu kêu gọi người dưới tàu phải vứt bỏ vũ khí, trước khi cặp vào xà lan. Tàu Dù chạy quanh một vòng thì người trên tàu đã nhận ra quân bạn. Có tiếng bạn mũ đỏ từ trên tàu vọng xuống:
    – Đại bàng ơi! Còn mấy đứa con của đại bàng đâu rồi? Mỹ không cho mang súng lên tàu nó đâu.
    Anh Sự đề nghị với anh Hồng kiếm tấm vải trắng viết 3 chữ SOS kéo lên và quăng súng xuống biển để cho nó biết mình muốn gì. Tàu mình nhỏ chắc không thể chạy xa được nữa, anh Hồng cay đắng thở dài...
    Thế là những thiên thần mũ đỏ của lữ đoàn 1 Dù một thời ngang dọc trên mọi chiến trường, hôm nay trên biển cả mênh mông đành phải giã từ vũ khí ở giờ thứ 25 của vận nước.
    Ông Lê lên xà lan ngồi trên trụ sắt buộc tàu, khi mọi người lên hết xà lan, tàu không người điều khiển tự trôi lui theo giòng nước, dây buộc tàu vòng qua chân ông Lê siết mạnh, tiếng xương gãy phát ra một âm thanh rợn người. Ông Lê thét lớn rồi ngất lịm. Biết có tai nạn, Tàu Mỹ ưu tiên nhận người bị thương, Phó Thúy cùng mấy người ngồi cạnh khiêng ông Lê cùng dẫn gia đình ông lên tàu. Chiếc tàu Mỹ nhổ neo. Ông Tỉnh Lê và ông Quận Sự chia tay nhau từ đấy. Những xà lan đầy người được các tàu Mỹ khác lần lượt kéo người lên... và dòng xà lan từ Sài Gòn vẫn liên tục được kéo tới, cùng với biết bao nhiêu ghe thuyền mong manh khác cứ đổ ra biển tìm con đường sống dù con đường ra đi đầy hiễm nguy, chưa nói đến giặc Cộng tàn nhẫn bắn xối xã vào những tàu nào chúng thấy được.
    ------
    Con sông Bến Hải, đứng bên nầy bờ nhìn thấy bờ bên kia rõ ràng, vậy mà sau năm 54 đất nước đôi miền chia cách, Bắc Nam từ đấy biệt tin nhau. Bây giờ không phải là con sông mà là biển cả, sóng nước chập chùng xa cách nhau nửa vòng trái đất, ra đi bỏ quê hương đến xứ người xa lạ, biết làm sao sinh sống, người cùng giòng giống mà còn không yêu thương nhau, thì người dị chủng biết có chịu cưu mang mình không, rồi còn cha mẹ, anh chị, vợ con còn kẹt lại ở quê nhà, mình là cột trụ gia đình mà bỏ ra đi, con còn nhỏ, vợ chưa từng nếm gió trải sương làm sao nuôi con? Với lại kẻ chiến thắng cũng cùng chung huyết thống, gốc con cháu Lạc Long, nghe tin tức từ radio, chánh phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam vẫn ra rả thông tin... Đánh người đi chứ ai đánh người trở lại..! Qua cơn lốc xoáy kinh hoàng, không phải tất cả đều bằng lòng với chuyến đi của mình. Có người... khá nhiều người đủ mọi thành phần trong xã hội, trong quân đội lẫn chánh quyền khi mà họ nhìn thấy, biết được chung quanh họ trên tàu, trên đảo... hầu hết người ta đi có mặt đông đủ vợ con gia đình, có cả người giúp việc, chị vú đi theo... Những người ở lại, có nhiều người đã gửi vợ con thân nhân đi trước để họ an tâm ở lại với chức vụ cho tới giờ chót. Họ nhìn lại mình với nỗi đau của tận cùng thân phận, xa vợ vắng con làm sao họ an tâm sống? Có ai muốn làm người chồng lỗi đạo với người vợ trẻ, có ai muốn chạy trốn bổn phận làm cha? Đây là những lý do đã khiến cho con tàu Việt Nam Thương Tín đem về cả 1500 người đã thoát ra đi mà không đi tiếp tục...
    Khi nhìn thấy người trở về từ tàu Việt Nam Thương Tín, các anh em tù chung trại thường hay cười nhạo, đã ra đi mà còn nhớ cái còng nên trở lại, trở lại bằng con tàu Việt Nam Thương Tâm, thường thì những anh em trở về nầy đều nhẫn nhịn nuốt đắng cay, không nói dù một lời biện minh cho bước trở về. Ai có ở trong cảnh mới hiểu được người trong cảnh.
    Tàu Việt Nam Thương Tín vào tới hải phận Vũng Tàu, sau khi gửi tín hiệu xin cặp bến, tàu nhận hiệu dừng lại. Có 2 chiếc tàu nhỏ võ trang mang cờ mặt trận giải phóng của Việt Cộng chạy ra đón rước, súng đạn lên nòng trong tư thế chiến đấu, tất cả đoàn người lên hết trên boong tàu đứng đầy xung quanh lan can, nhìn xuống tàu VC với nét mặt đầy vẻ lo âu. Mấy cán bộ cao cấp, mang súng nhỏ lên tàu, tiếp xúc với thuyền trưởng hải quân TrungTá Trần đình Trụ và đại diện đoàn người hồi hương là Trung Tá Trần Ngọc Thạch, chánh võ phòng của Tổng thống Trần Văn Hương, sau khi quan sát khắp mọi nơi, tên cán bộ VC đứng giữa boong tàu, an ủi bà con nên yên tâm, vì cách mạng chỉ đánh người chạy đi chứ không bao giờ đánh người trở lại. Khi 2 tên cán bộ xuống tàu nhỏ thì tàu Việt Nam Thương Tín được lệnh trực chỉ Nha Trang, với sự hộ tống của 2 tàu võ trang VC.Tàu cập bến Nha Trang, tất cả thuyền nhân lên bờ, và bị giam giữ rải rác nhiều nơi trong tnh Nha Trang. Đây là thời gian từng người được gọi đi làm việc. (Chữ của VC) và họ bị làm việc liên tục suốt mấy tháng trời, khai thế nào chúng vẫn bảo là chưa thành khẩn khai báo...
    Anh em thuộc tỉnh Gò Công trở về trên tàu khá đông, ngoài binh sĩ, cán bộ xây dựng nông thôn, cảnh sát... trong hàng ngũ sĩ quan có các anh Thiếu Tá Sự, Đại Úy Phạm văn Mến, Đại Úy Bá, Trung Úy La Ngàn, Trung Úy Ngô Bứa,Trung Úy Minh Hiếu, trung úy Vàng, Trung Úy Bé, Phó quận Thúy... Sau đợt lấy cung, một số đàn bà trẻ con, dân sự được tha về sớm. Các anh được coi là trong ban đại diện bị đưa về Chí Hòa, còn lại tất cả giải giao ra Xuân Phước... ra đây để mà học tập cải tạo hầu sớm tiến bộ trở thành người công dân... Cộng Sản.
    Trại Xuân Phước trước đây là doanh trại của Lực Lượng Đặc Biệt, đã bị bỏ hoang từ ngày Lực Lượng Đặc Biệt giải thể sau khi Mỹ rút. Trại nằm sâu trong rừng núi tỉnh Phú Yên. Đoàn tù VNTT coi như là nhóm tiên phong xây dựng lại trại Xuân Phước từ hoang tàn trở nên vững chắc đủ tiêu chuẩn nhốt tù.
    Anh Sự nằm cạnh anh Trần Hồng Đăng, trung sĩ nhất nhảy dù, Đăng hiền lành chân thật, anh được lòng bà con từ ngày còn trên đảo, anh hớt tóc không công cho bà con, đền trả công anh nhận lại từ bà con đủ thứ vật dụng, thức ăn thuốc hút... những thứ mà trại cấp phát cho người trên đảo. Những điếu thuốc Mỹ anh Đăng mang về bây giờ được ngắt ra từng khúc nhỏ thay thế bi thuốc lào... hút nhã khói cho qua cơn ghiền!
    Sau một thời gian tạm coi là ổn định, trại cho phép tù viết thơ về thăm nhà. Lá thư gửi đi kéo theo chuổi thời gian trông ngóng tin nhà, biết bao nhiêu điều mà người tù rất muốn biết kể từ khi rời đất lênh đênh trên bin cho tới bây giờ.
    Một buổi sáng Đăng được cán bộ trại gọi ra lên gặp giám thị trưởng. Tới trưa Đăng trở về buồng, dáng dấp trông như người mất hồn, nằm dài nhìn lên mái nhà bằng đôi mắt xa xôi...Thấy tình cảnh của Đăng như vậy, Anh Sự hỏi thăm chuyện gì đã xãy ra. Đăng ngồi dậy, tay với lấy ống điếu cày, thong thả nhồi vào nỏ một bi thuốc, mối đóm lửa kéo ro ro một hơi dài, ngước mặt thả khói lên trời, Đăng móc túi lấy ra một lá thư, mới nhận được từ tay cán bộ trưởng trại trao cho anh Sự.
    Lá thư có dấu bưu điện Hà Nội, lá thư được viết khá dài nhưng chỉ có một câu ngắn đủ nói lên cơn huyển mộng của một trong nhiều bi kịch của cuộc chiến tương tàn trên quê hương Việt Nam... “Đăng con! Hòa bình lập lại đã lâu rồi, sao con không xin phép thủ trưởng về thăm mẹ?? Vợ con vẫn chờ con, nay vợ con đã thăng quân hàm thiếu úy Công An...”..Thì ra...
    Cây cầu Hiền Lương trên sông Bến Hải từng ghi vết nhơ chia cắt đôi miền. Nay Cộng quân cưỡng chiếm miền Nam, cây cầu không còn gây khó dễ cho dân hai miền Nam Bắc lại qua, thì trước sau gì người mẹ của Đăng cũng thấu rõ định mệnh nào đã đeo đẳng người con trai từ ngày đem tuổi trẻ xẽ dọc Trường Sơn. Thì ra Đăng là 1 bộ đội trẻ xâm nhập vào Nam ở lứa tuổi 20. Trong một trận tấn công vào 1 đơn vị Mỹ ở miền Trung, Đăng bị trọng thương bất tỉnh tại chiến trường. Khi tỉnh lại,trong ánh đèn sáng rực mà Đăng chưa lần nào được trông thấy, nhìn băng bông trên người Đăng biết mình được đối phương cứu sống nhưng chưa biết mình đang nằm ở đâu? Rồi sẽ bị đối xử như thế nào đây???
    Sau thời gian được tận tình cứu chữa, Đăng bình phục, bệnh viện Mỹ chuyển giao Đăng qua chính quyền địa phương. Không chấp thuận cuộc sống tù binh Đăng chọn con đường cải danh hồi chánh. Lúc còn trên giường bệnh, Đăng cũng có ý muốn tìm về đơn vị cũ, nhưng bây giờ thì chịu ra hồi chánh, Đăng coi như tứ cố vô thân, còn trong tuổi động viên, Đăng tình nguyện nhập ngũ trong màu áo hoa rừng Nhảy Dù. Đăng có khả năng, sau nhiều lần bị thương, cũng như lập được nhiều chiến công, với một khoảng thời gian khá dài Đăng trở thành một hạ sĩ quan xuất sắc của đơn vị.
    Tết Mậu Thân, Đăng có mặt trong trung đội tái chiếm đài phát thanh Sài Gòn, đơn vị xuất phát từ cầu Phan Thanh Giản, lần theo phố vào Nguyễn Bỉnh Khiêm, xuyên lần qua các dãy phố đến Phan Đình Phùng, trong lúc băng qua đường xung phong vào sân đài phát thanh Đăng bị trọng thương, nằm tổng y viện Cộng Hòa xuất viện lọai 2, Đăng không xin giải ngũ mà tiếp tục đời lính làm việc nhẹ tại hậu cứ, anh làm lính hớt tóc, sau thành tài xế. Khi hiệp định Ba Lê ra đời, Đăng được chỉ định làm tài xế cho phái đoàn quân sự liên họp bên kia, trong trại Davis nằm trong Tân Sơn Nhứt. Đăng tiếp tục kể, có lần tướng trưởng đoàn Bắc Việt thấy Đăng kéo thuốc lào, có hỏi xin một bi hút thử, kể tới đây Đăng cười kéo áo lên khoe những vết thẹo trên người.
    – Đây là thẹo của đạn M16, đây là thẹo của AK47.
    Vừa nhìn những vết thẹo anh Sự cười cười:
    – Vậy chú em mầy khỏe rồi, mai mốt thả về đoàn tụ với mẹ, có vợ là thiếu úy Công an, ấm đời trai. 
    Nghe anh Sự nói, Đăng lắc đầu cười như... mếu:
    – Thấy vậy mà không phải vậy đâu, em đã có vợ 2 con trong Nam rồi,trước đây vợ con em ở trong trại gia binh Hoàng Hoa Thám, bây giờ không biết trôi dạt về đâu. Anh thấy đó, mình đã tới đảo rồi mà đành phải trở về, cũng vì thương vợ nhớ con, vì thương tụi nó quá nên em mới chấp nhận đau thương mà về, nếu không bây giờ đang đi trên miền nắng ấm! Bây giờ thật khổ, không biết nói sao với mẹ với vợ đang mong chờ ngoài Bắc.
    Một số sĩ quan từ cấp trung úy tới trung tá được chuyển ra Bắc trên mấy chiếc xe hàng bít bùng, chiếc còng đôi đã xác định họ là ai! Đoàn xe chạy ngang qua hai con sông lịch sử, hai dòng sông phân ly mà người hai miền không ít người mong có ngày đi thăm nhìn cho tận mặt.
    Anh Sự gở 13 cuốn lịch, về lại Gò Công. Đời người tù cải tạo vẫn tưởng tàn dần trong chế độ mới... Đâu có ai ngờ sau cơn mưa trời thực sự sáng, chương trình HO ra đời cứu vớt biết bao gia đình quân công đang ngụp lặn trong bể khổ về được miền đất hứa. Gia đình anh Sự cũng nằm trong thành phần may mắn đó, trước khi rời bỏ quê hương ra đi, cũng giống như nhiều người khác, tìm về nơi chốn làm việc năm xưa nhìn lại cảnh cũ, anh Sự nhẹ nhàng trên chiếc xe đạp (Thời đó được gọi là Cúp điếc) anh xuống thăm gia đình người cận vệ, chú Tiếp đang sống tại Hòa Tân, Tiếp là hạ sĩ quan nên được về sớm, nói là sớm chứ cũng trên 3 năm, Tiếp cũng đang học Anh văn chờ đi Mỹ.Thầy trò gặp lại nhau hàn huyên tâm sự, kể cho nhau nghe những thay đổi trong bước đời... “Thằng Đăng có lần tưởng chết vì ăn trúng cóc độc, sau nầy nhiều bạn tù thấy nó áo quần bảnh bao, thong dong trên chiếc Dream đời mới trên đường phố Sài Gòn...”
    Vậy là Đăng đã đoàn tụ với vợ con ở Rạch Giá và chắc đã nhiều lần xin phép “Thủ Trưởng ra Bắc thăm mẹ già. Cũng lại một bước đời huyển mộng.
    Chia tay thuộc cấp cũ, anh Sự trên đường về làm một vòng ngang qua doanh trại quận Hòa Tân cũ, anh nhìn thấy mấy con gà đang bươi đất kiếm trùng dưới mấy bụi bắp chưa trổ cờ... Lòng anh như chùng xuống, bức tranh đời thay đổi quá nhanh, cảm khái vừa đạp xe vừa khe khẻ...
    “Tạo hóa gây chi cuộc hý trường
    Đến nay thắm thoát mấy tin sương
    Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
    Đền cũ lâu đài bóng tịch dương...
    Anh Sự ra đi mà lòng chưa được ổn lắm, vợ anh phải ở lại uống thuốc đi sau, vợ anh lặng lẽ tiễn cha con anh lên đường. Anh đốt nén nhang trước bàn thờ gia tiên từ giã Ông Bà Cha Mẹ ra đi. Trước khi lên xe anh tình cờ gặp lại Thầy Nguyễn Văn Ba nguyên giáo sư Trung Học Gò Công, coi như Thầy Ba là người duy nhất tiễn cha con anh Sự lên đường. Một trang đời của một gia đình được lật qua...
    Tôi ở trại Hà Tây có gặp Đại Tá Lân, sau mấy năm tù ông bị bệnh mù mắt, ông có hỗn danh là Lân mù, ông ở buồng 15 cạnh buồng 16 dành riêng cho sĩ quan cấp Đại Tá, trong 2 buồng nầy cũng có 2 vị Trung Tá cũng đều trong ngành Chiến Tranh Chính Trị là ông Diên Nghị (Quân Đoàn 4) và Mười Hai (Cục Chính Huấn). Ông Lân rất vui vẽ yêu đời, ông được nhiều cảm tình của đám tù sĩ quan trẻ... Ông Lân không biết bây giờ ở đâu, ông Đỉnh cũng đã tới miền đất tự do và hình như đang lâm bệnh, Trung Tá Hồng bỏ miền đất hứa về chiến khu với Hoàng Cơ Minh, để rồi xuôi tay nhắm mắt khi ước vọng chưa thành, thương cho một người chiến sĩ, luôn quyết đem thân đền ơn tổ quốc.
    Thì ra cuộc đời như một cơn trường mộng, thấy đó rồi mất đó, điều mình làm thấy phải, người khác lại cho là sai...
    Hằng năm sau tết ở đất tạm dung nầy, lòng tôi luôn thấy bùi ngùi... Những ngày thiêng liêng đối với người Việt thì mình lại sống xa quê, đâu biết Tết nhứt là gì, mùng 1 lên xe đi làm, làm sao lòng không khỏi rứt ray!!! Cũng mùa Xuân, tôi hưởng Xuân cuối cùng trong đời lính tại KonTum, 8 cái Tết trong lao tù Cộng Sản, hơn 15 cái Tết xa quê….
    Một khoảng đời khá dài... Thương cho Việt Nam mình, cứ mãi chịu cảnh phân ly, cha con chồng vợ nhiều khi gặp rất nhiều hoàn cảnh éo le, phũ phàng. Với tôi, chẳng qua là Huyển Mộng Bước Đời.

    Thủy Lan Vy


NGÀN KIẾP SÓNG BẠC
image.png

Nhạc: Võ Tá Hân
Thơ: Lưu Nguyễn Đạt
Ca sĩ: Duyên Quỳnh
Phối Khí: Quang Đạt
DAHA PRODUCTIONS 2025

LUUDAT LOGO 4.jpg
Trân Trọng





ÁO LỤA HÀ ĐÔNG 
-tho Nguyên Sa -Ngô Thụy Miên -Duy Trác
  • CA SI DUY TRAC : Nhung Ca Khuc Hay Nhat [HD Videos, ABC Listed]





    Duy Trác (sinh năm 1932) tên thật Khuất Duy Trác, là một ca sĩ nổi tiếng, thành danh ở Sài Gòn từ những năm trước 1975. Duy Trác được xem là một trong những giọng ca nam lớn nhất của tân nhạc Việt Nam.

    Sự nghiệp

    Duy Trác quê ở Sơn Tây, xuất thân trong một gia đình Nho giáo truyền thống. Nghề nghiệp chính của ông là luật sư, theo một vài tài liệu thì ông còn là thẩm phán. Ngoài ra ông còn tham gia viết báo và cũng là một dịch giả. Duy Trác bắt đầu đi hát từ những năm còn là sinh viên, khoảnh cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960 nhờ sự giới thiệu của ca sĩ Quách Đàm với nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Tuy giọng ca của ông được rất nhiều người mến mộ, nhưng trước 1975 ở Sài Gòn, Duy Trác gần như không bao giờ trình diễn ở phòng trà hay các chương trình nhạc hội. Ông chỉ hát trên đài phát thanh và thu âm cho các hãng băng đĩa, vì vậy nhà văn Duyên Anh đã đặt cho ông biệt danh "chàng ca sĩ cấm cung". Duy Trác cũng có sáng tác một vài bài hát như Tiếng hát đêm NoelSài Gòn chỉ vui khi các anh về...

    Sau 1975, Duy Trác bị bắt đi học tập cải tạo nhiều năm tới 1981 vì là một sĩ quan trong chế độ Việt Nam Cộng hòa, ngoài ra ông còn bị dính líu đến tổ chức Biệt kích Văn hóa và bị giam lại từ năm 1984 đến năm 1988. Năm 1992 ông rời Việt Nam định cư tại Houston, Hoa Kỳ theo diện HO. Tại đây ông có tham gia trình diễn ở một vài chường trình ca nhạc và phát hành hai CD riêng Còn tiếng hát gửi người và Giã từ. Trong CD Giã từ ông đã nói lời từ biệt với âm nhạc. Từ đó Duy Trác không còn hát và hiện nay ông hợp tác với đài phát thanh VOVN - Tiếng nói Việt Nam tại Houston phụ trách một vài chương trình. [1] [2]






Uống nước quan trọng


uongnuoclanh.jpg


Đây là bài số bảy trăm bảy mươi sáu (776) của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ ORTB

Mùa hè vẫn còn đó. Nhiệt độ bên ngoài ở Portland trong mấy ngày qua có ngày lên đến 100 độ F. 


Mặc dầu trời nóng tôi vẫn gọi cô bạn hàng xóm Maria tốt bụng dễ thương ở đối diện nhà tôi sang vườn nhà nhà tôi hái trái  "Asian pear" đang chín rộ trên cây đem về nhà ăn cho mát miệng mát ruột. Chúng tôi đùa vui nhau ngoài vườn quên cả trời nóng. Maria hái được một bao lê Á Châu.

 

Cô có vẻ thích lắm vì hai chúng tôi là hàng xóm thân tình với nhau. Maria thường hay bưng qua nhà tôi những thức ăn buổi tối do cô nấu cho gia đình cô. Hôm nay kể như tôi "lại quả" cho Maria với cây nhà lá vườn nhà tôi. "Có qua có lại mới toại lòng nhau mà lị". Smile!

 

Mời xem


Youtube Maria picked Asian Pear at Suong's Home Smile 8-17-25

https://www.youtube.com/watch?v=GYacnP5XWL4

 

Thú thật, khi trời nóng  như thiêu đốt như thế, uống nước lạnh hay ăn những thức ăn có nước như soup, cháo, canh còn dễ ăn và ngon lành hơn là ăn món “bò né nướng”  nóng hừng hực trên bếp gas nhỏ, vừa ăn  vừa né miếng bơ nướng văng ra ngoài.

 

 Người viết bây giờ tuổi không còn trẻ nữa nên cũng không dám ăn nhiều “thịt đỏ” vì  những ông đốc tờ vẫn thường khuyên ăn rau cải, trái cây nhiều vẫn tốt cho sức khỏe hơn. Có kiêng có lành, dầu rằng chúng ta đa số vẫn khoái ăn món thịt bò bít tết (beefsteak) hơn.

 

 Nói về ích lợi của việc uống nước lạnh, không những Nước là thức uống rất được nhiều người ưa chuộng hiện tại trong mùa hè nóng bức mà thôi, mà còn là thức uống được “phái đẹp”  và mấy cụ cao niên chọn nhiều nhất trong các buổi tiệc thay cho nước ngọt vì ai nấy cũng sợ bệnh tiểu đường.  Họ vẫn nghĩ và hiểu một cách đơn giản nước ngọt như Coca, Pepsi, Sprite .. có chứa nhiều chất đường là nguyên nhân của bệnh tiểu đường nên họ sợ không dám uống  nhiều nước ngọt. Thế thôi!

 

  Thật ra  bệnh tiểu đường là do nhiều nguyên nhân khác nữa.  Người viết không phải là bác sĩ nên xin dành câu trả lời này cho quý vị đốc tờ giải thích rõ ràng hơn nhé.

 

 Người viết chỉ là kẻ đi sưu tầm những tài liệu mà tôi nghĩ rằng có ích lợi cho sức khỏe  cho bạn, cho tôi nên đem về đây chia sẻ với bạn bè mà thôi.  Còn việc có thích hợp với ai, tốt như thế nào thì cũng xin  tùy duyên của bạn, của tôi nhé.

Xin  mời quý bạn cùng đọc với người viết bài viết dưới đây nói về tầm quan trọng của việc uống nước:

 

 Uống nước quan trọng



 

rotnuoclanh.jpg

1 ly nước uống sẽ lấy mất đi cảm giác đói suốt đêm cho hầu hết những ai phải ăn kiêng theo Đại học Washington

 

Thiếu nước là nguyên nhân số 1 gây ra sự mệt mỏi trong ngày

 

Nhiều nghiên cứu cho biết từ 8-10 ly nước trong ngày có thể làm giảm những cơn đau lưng và đau khớp cho gần 80% những ai bị các bệnh này

Chỉ cần giảm 2% nước trong cơ thể con người sẽ gây sự mất liên kết về trí nhớ trong thời gian ngắn, những vấn đề về toán học và khó khăn khi phải tập trung trước màn hình vi tính hay trước một trang giấy in.

 

Uống 5 ly nước mỗi ngày giảm 45 % nguy cơ  ung thư ruột và có thể giảm nguy cơ ung thư vú từ 79% và 50% ung thư bàng quang.

 

Bạn đã uống đủ nước cần thiết mỗi ngày chưa?

 

Bạn có biết?

 

Thời kỳ uống nước thích hợp.... rất quan trọng

 

Uống nước vào những lúc chính xác sẽ tăng tối đa hiệu quả trong cơ thể con người:

 

- 2 ly nước ngay khi thức dậy, giúp các cơ quan nội tạng khởi động

- 1 ly nước 30 phút trước bữa ăn giúp tiêu hóa tốt

- 1 ly nước trước khi đi tắm giúp hạ huyết áp

- 1 ly nước trước khi đi ngủ tránh cho bạn các cơn nhồi máu cơ tim.

 

  (Nguồn: Sưu Tầm trên internet)

 

Trong thực tế, khi đi vượt biên, chắc  nhiều người trong quý bạn đã trải qua kinh nghiệm một ly nước ngọt có giá trị hơn một lạng vàng, một mạng người  trên  những chiếc ghe vượt biên  khi chỉ còn một ly nước cuối cùng trong ngày nóng bức giữa biển cả mênh mông như thế nào rồi nhỉ?

 

 Người viết lại  “Ôi ta  buồn ta đi lang thang“ trên intternet  tìm thêm tài liệu viết bài.   May mắn thay, tôi lại gặp được bài viết “Uống nước ngọt nhiều sẽ bị tai biến mạch máu não“.

 

 Mèn ơi! Mừng quá! Thật là “kỳ phùng địch thủ“ giữa  “Nước Lạnh“ và “Nước Ngọt“ giống như Lý Tiểu Long (Bruce Lee) và John Saxon trong phim kiếm hiệp Long Tranh Hổ Đấu ( Enter The Dragon) trong năm 1973 trước khi Lý Tiểu Long bị chết bất ngờ

(Long tranh ho dau)




Xin mời quý bạn đọc bài viết dưới đây nhé:

 

Uống nước ngọt nhiều sẽ bị tai biến mạch máu não

 

Các kết quả nghiên cứu lần đầu thử nghiệm ảnh hưởng của nước

ngọt cho thấy có nguy cơ tai biến mạch máu não, và nhiều tin tức

dữ tợn hơn cho người..mê uống nước ngọt.

 

Nhiều nhà nghiên cứu từ viện Wellness institute của bệnh viện

Cleveland và viện đại học Harvard, uống 1 lon nước ngọt mỗi

ngày sẽ tăng nguy cơ tai biến mạch máu não.  Nhưng sau đó

có tin vui là người nghiền cà phê cũng giúp cho bệnh đột quỵ

phần nào.

 

Các nghiên cứu trước đây đã nối kết với việc uống nước ngọt

với hàng loại chứng bệnh như béo phì, tiểu đường, cao huyết 

áp, cao cholesterol, ung thư, bệnh vành động mạch và Gout.

 

Tin tức này đã đến quá trễ với một công nhân ở Tân Tây Lan,

Natasha Harris, đã chết hai năm trước với bệnh trụy tim vì đã

uống nhiều nước ngọt của hiệu Coca Cola.

 


lycoke 2.jpg


Trong cuộc điều tra chính thức về cái chết của bà, bác sĩ Dan

Monin, tin tưởng rằng bà chết vì potassium quá thấp, gây ra

bởi bà uống nhiều chất ngọt của Coca cola, bà Harris, 30 tuổi,

uống 8 lít nước ngọt coca cola mỗi ngày.

 

Nghiên cứu được đăng trong tạp chí Journal American of Clinical

Nutrition, thử nghiệm uống nước ngọt của 43.371 đàn ông, và

84085 đàn bà khám phá ra rằng những người tham dự nghiên

cứu đã uống 1 lon nước ngọt mỗi ngày có một tỉ lệ cao hơn của

áp huyết và cholesterol trong máu với tỷ lệ thấp của hoạt động

hàng ngày.

 

(Nguồn: Sưu tầm trên internet)

 

Đáng sợ quá nhỉ?

 

Trời nóng quá nên các bãi cỏ trước sân nhà bạn cũng như nhà tôi đều vàng cháy. Muốn cho thảm cỏ được xanh tươi, bạn phải chịu khó tưới cỏ  hằng ngày.  Tiền nước trong những tháng hè thường tăng gấp bội cho  nên chúng ta không dám phí phạm nước. Một câu chuyện Thiền dưới đây có liên quan đến những giọt nước.  Xin mời bạn đọc cho vui và nhớ đừng phí phạm nước ở nhà hay ở chùa kẻo bị  rầy bây giờ.

 

MỘT GIỌT NƯỚC


lynuoclanh.jpg


Thiền sư Gisan [Nghi Sơn Thiện Lai: Gisan Zenrai (J); 1802-1878, Lâm Tế tông Nhật - LND] bảo một thiền sinh trẻ tuổi xách đến cho ngài một thùng nước để hòa lạnh bồn tắm.

Thiền sinh mang đến một thùng nước, và sau khi làm lạnh bớt bồn tắm y đổ phần còn lại ra đất.

"Đồ ngu!" sư phụ mắng đệ tử. "Sao con không tưới nó vào các cây? Con có quyền gì mà phí phạm ngay cả một giọt nước trong chùa này?"

Thiền sư trẻ đốn ngộ ngay lúc ấy. Y đổi pháp danh thành Tekisui, nghĩa là một giọt nước.


 (Nguồn: Trích trong 101 Chuyện Thiền doTrần Trúc Lâm chuyển dịch)

 

 Một bài học khác của người xưa có liên quan đến nước. Bạn hãy đọc và hãy suy ngẩm lời dạy của thánh nhân trong câu chuyện này nhé.

 

Đầy thì đổ

 

Khổng Tử vào xem miếu Hoàn Công nước Lỗ, có một cái lọ đứng nghiêng, bèn hỏi người coi miếu. Người ấy nói rằng:
-Đó là một vật quý của nhà vua thường để bên chỗ ngồi chơi để làm gương.
Khổng Tử nói:
-Ta nghe nhà vua có vật quý để làm gương, vật đó bỏ không thì đứng nghiêng, đổ nước vừa vặn thì đứng ngay, mà đầy quá thì lại đổ, có lẽ là vật này chăng.


Ngài bèn sai học trò đổ nước vào, quả nhiên nước đổ vừa, thì lọ đứng ngay; nước đổ đầy thì lọ đổ; bỏ không thì lọ lại đứng nghiêng. Ngài chép miệng than rằng:


-Hỡi ơi ! Ở đời chẳng cái gì đầy mà không đổ?.
Thầy Tăng Tử nói:
-Dám hỏi có cách gìn giữ cho đầy mà không đổ không ?


Khổng Tử nói:
-Thông minh thánh trí nên giữ bằng cách ngu độn, công lao to hơn thiên hạ nên giữ bằng cách khiêm cung, sức khỏe hơn đời nên giữ bằng cách nhút nhát, giàu có bốn bể nên giữ bằng thói nhún nhường. Đó là cách đổ bớt đi để giữ cho khỏi quá đầy mà đổ

 

(Nguồn:Trích trong Cổ Học Tinh Hoa)

 

  Và ai trong chúng ta đã không một lần phải rơi lệ khi ngâm nga hát bài Nước Non Nghìn Dặm Ra Đi để tội nghiệp cho Huyền Trân Công Chúa phải hy sinh thân mình, rời xa quê mẹ, từ biệt người yêu đến làm vợ ông vua Chiêm Thành ở một nơi xa xôi để đổi hai châu Ô, châu Lý về cho nước Việt. Đáng khen thay và cũng đáng thương thay khi nghĩ đến thân phận mình, bạn nhỉ?

 

Xin chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé.

 

Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn

 Sương Lam



Chiều Trên Sông Nile

5529 1a SongNileDMLinh

(Để nhớ Tuấn)

Điệp Mỹ Linh

       Nhìn cây phượng sum sê, lá xanh biếc và cuối mỗi cành là một chùm hoa đỏ rực, tôi không liên tưởng đến những mùa Hè đáng yêu của tuổi học trò mà tôi lại ngậm ngùi nhớ đến em tôi – Nguyễn Anh Tuấn.

Tôi không nhớ Tuấn học từ ai và từ bao giờ mà Tuấn lại có ngón đàn Tây Ban Cầm rất tuyệt vời – không thua gì tiếng Tây Ban Cầm của John Mayer – và nét vẽ rất lạ.

       Giữa lúc tôi đang nghĩ về Tuấn với nhiều thương nhớ thì Sammy – hướng dẫn viên của công ty du lịch Globus – đến cạnh, yêu cầu tôi trở lại với nhóm du khách để Sammy thông báo những điều cần thiết và trao chìa khóa phòng.

       Khi nhận chìa khóa phòng và điền mấy mẫu giấy thỏa thuận về những chuyến đi “excursions”, tôi hỏi:

- Sammy! Cho tôi một đặc ân, được không?

Sammy gật đầu. Vừa chỉ về hướng cây phượng tôi vừa tiếp:

- Sammy cho tôi căn phòng chỗ có cây hoa đỏ đó, được không?

- Vậy mà tôi cứ ngại bà sẽ bảo tôi đưa bà đi xem kho tàng của  Tutankhamon ngay bây giờ!

Cả nhóm du khách cùng cười ồ lên.

        Sau khi vào phòng, nhìn qua cửa kính, tôi mới nhận biết được nỗi buồn chợt đến trong lòng tôi là do cây phượng này gợi lại trong tôi hình ảnh cây phượng già trước ngôi nhà xưa của Ba Má tôi.

         Dưới gốc phượng già của Ba Má tôi, không nhớ vào dịp nào, Ba Má và mấy chị em tôi chụp chung một tấm hình, phóng lớn, treo ngay phòng khách. Trong ảnh, mấy chị em tôi đứng sắp hàng từ lớn xuống nhỏ; Ba           Má tôi đứng sau hai em gái nhỏ nhất – Mai Trâm và Trúc Uyên. Mấy mươi năm qua tôi gần như quên bẵng tấm ảnh đó; nhưng cách nay không lâu, Tuấn gửi sang tặng tôi. Thấy tấm ảnh tôi không dám nhìn lâu; vì nhiều người trong tấm ảnh ấy không còn nữa! Phía sau tấm ảnh Tuấn viết: “Trả lại chị những ngày vui xưa”.

       Những ngày vui xưa của chị em tôi là những buổi trưa trốn ngủ trưa, lén leo lên cây phượng, hái trái, giả Les Trois Musquetaires, chơi trò đánh kiếm.

        Từ khi trở thành nữ sinh đệ tam B4, tôi cứ hãnh diện ngầm; vì cho rằng tôi không còn là con nít nữa. Nhưng kể từ khi vào đời, và ngay cả giờ phút trong căn phòng sang trọng của khách sạn Oberoi Mena House Garden cổ kính này, tôi cũng chỉ tha thiết ước mong được trở thành con nít một lần nữa thôi!

        Lòng tôi ôm niềm ước mơ không tưởng để đợi giấc ngủ đến; nhưng tiếng hòa nhạc nơi hồ bơi làm tôi không ngủ được. Một lúc sau, hòa lẫn với âm thanh của trống và các nhạc cụ quen thuộc khác, tôi nhận ra âm thanh của đàn rababas – loại nhạc cụ có hình dáng và âm thanh tương tự như đàn cò của mình. Giọng hát nao nao buồn, bằng thứ ngôn ngữ rất lạ, không thể nào tôi hiểu được. Sau vài bài ca rất đặc thù của xứ Ngàn Lẻ Một Ðêm, bất ngờ tiếng trống lớn hơn và dồn dập hơn, rồi ban nhạc chuyển sang Rock trong những tràng pháo tay reo hò.

       Tôi thật sự ngạc nhiên, không ngờ họ Rock cũng “đến nơi đến chốn”, không thua gì ca sĩ Việt Nam hát nhạc Mỹ. Tôi tò mò, ngồi dậy, vén màn cửa sổ vừa nhìn vừa nghe. Bỗng dưng sự nhộn nhịp bên hồ bơi hơi lắng xuống khi một thanh niên ôm Guitar đến gần micro. Anh ấy dạo phân đoạn đầu. Tôi nhận ra tiết điệu của tình khúc Please Don’t Go. Rồi anh hát:

“I love you. Yeah, Babe.

I love you so.

I want you to know that

I’m going to miss your love...”.

      Chính lúc này tôi mới hiểu, âm thanh của dòng nhạc có mãnh lực đưa hồn tôi trở về ngày tháng xa xưa để sống với những gì đã qua và đã mất.

       Vì hồn tôi mãi lang thang tìm về những gì đã qua và đã mất cho nên nhạc khúc Please Don’t Go dứt hồi nào tôi không hay. Chàng ca sĩ tài tử bên hồ bơi chuyển sang: “Yesterday, all my troubles seemed so far away...” Tôi vui mừng reo lên nho nhỏ “Ô, Yesterday” rồi tôi ngồi lên thành cửa sổ, lắng nghe.

       Theo tiếng đàn và giọng hát của anh ấy, tôi tưởng như tôi thấy lại Tuấn trong sân trường đại học Khoa Học vào thời gian Saigon sôi sục, đầu thập niên 70. Trong khi sinh viên có khả năng văn nghệ khác thường đàn và hát nhạc Trịnh Công Sơn để bộc lộ tư tưởng của họ thì Tuấn chỉ Come Back To Sorrento, Yesterday, Only You, v.v.

        Ðể xua đuổi kỷ niệm buồn, tôi mở cửa, ra lan can, ngồi vào chiếc ghế mây. Tiếng nhạc và quan khách bên hồ bơi đã “biến” đi tự lúc nào! Cái nóng hừng hực của buổi chiều Hè không còn nữa. Nhìn quanh, tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy – dưới ánh trăng – ba kim tự tháp Cheops, Khafre và Khufu hiện rõ trong tầm mắt tôi. Thấy một trong những kỳ quan của thế giới, tôi chợt nhớ đến phim Cleopatra do Liz Taylor và Richard Burton thủ vai chính. Trong phim này kim tự tháp trông tráng lệ và nguy nga cho đến nỗi tôi say mê, tôi mơ ước.

       Hôm sau, sau khi viếng Sphinx và rạp hát giữa trời, Sammy đưa chúng tôi đến kim tự tháp Cheops.

        Qua đoạn đường ngắn khá vất vả vì phải “lum khum” “chui” vào lòng kim tự tháp Cheops, tôi chỉ thấy đá và đá. Ðá chồng lên nhau. Ðá tựa vào nhau. Ðá gắn bó nhau từ mấy ngàn năm qua. Cuối cùng là một khoảng không gian hơi rộng, tôi thấy một hố nhỏ trống hổng – cũng được đục trong đá – giống như hình thể quan tài! Sự nôn nao, rộn ràng trong tôi không còn nữa. Nhưng tôi lại hy vọng hai kim tự tháp Khafre và Khufu sẽ thỏa mãn sự tò mò của tôi. Tôi hỏi Sammy:

– Hai kim tự tháp kia có gì khác hơn tháp Cheops này không, Sammy?

– Không. Một hãng phim ở Hollywood đang chế tạo một người máy rất nhỏ, để đưa người máy đó vào bên trong kim tự tháp quay phim. Những gì các bạn thấy lúc nãy chưa hẳn là bên trong.

       Ngoài ba kim tự tháp lớn, tôi còn thấy vài kim tự tháp nhỏ. Sammy giải thích đó là tháp của các hoàng tử và công chúa. Mọi người đều lộ vẻ thất vọng, không ai muốn “chui” vào bất cứ kim tự tháp nào nữa cả.

        Niềm thất vọng này càng sâu đậm hơn khi chiếc buýt đưa chúng tôi chạy dọc theo con đường dơ bẩn của không biết bao nhiêu đồ án được xây cất dở dang. Tôi tò mò hỏi, Sammy cầm micro giải thích cho cả nhóm cùng nghe:

– Luật của nước tôi, nếu ngôi nhà chưa hoàn tất thì chủ ngôi nhà đó chưa phải đóng thuế cho chính phủ; vì vậy, hầu hết nhà ở đây, có khi đã qua mấy thế hệ sinh sống trong đó và họ có tiền xây thêm một, hai, ba tầng lầu nữa nhưng họ vẫn cứ để vật dụng phế thải trơ ra đó, chứng tỏ là nhà xây chưa xong, để khỏi bị đóng thuế.

       Một du khách khác hỏi Sammy về tình trạng du lịch ở Ai Cập ngay sau biến cố 9/11 tại Hoa Kỳ. Sammy buồn bã lắc đầu:

– Tê liệt! Tê liệt hoàn toàn! Hai ngôi đền mà chúng ta sắp viếng thăm trong khoảng 30 phút tới đây chịu ảnh hưởng nặng nhất. Mọi cổng và lối đi dẫn vào đền đều khóa chặt. Tường và sân đầy rong rêu. Ngôi đền mà hơn năm mươi du khách bị sát hại cách nay mấy năm cũng cùng chung số phận. Không khí ảm đạm/chết chóc bao quanh những ngôi đền cho đến khi chính phủ vận dụng mọi nỗ lực trong việc kiểm soát an ninh để chinh phục sự tin tưởng của du khách.

       Câu cuối của Sammy khiến tôi nhận ra vai trò của một thanh niên mang súng lục, ăn mặc lịch sự, ngồi ghế bên phải của Sammy.

Trên đường đến những nơi dệt thảm tôi thấy cây chà là (date–palms) oằn trái. Trái gần chín, màu vàng. Trái chín màu đỏ thẫm. Nhiều nơi cây chà là được trồng dưới hố sâu, trong lòng đá.

       Xe chạy ngang một khu vực mà lối kiến trúc trông rất kỳ dị. Sammy giải thích qua micro:

– Ðây là thành phố của người chết (The city of the deaths). Ðó là mộ của những người giàu. Gia đình họ thuê người từ dưới quê lên giữ mộ, giá rẻ hơn thuê người thành phố. Một cách kín đáo, người giữ mộ lén đem từng người trong gia đình từ dưới quê lên sống trong nhà mồ. Lâu dần họ tìm cách hợp thức hóa bằng hóa đơn điện/nước, rồi họ được sống tại đó.

       Tôi chợt nhớ đến gia đình tôi. Sau khi Ba và các em trai của tôi bị cộng sản Việt Nam (csVN) nhốt tù và tài sản “được” nhà nước quản lý, Má tôi và các em gái của tôi phải “tình nguyện” đi kinh tế mới. Ðời sống tại kinh tế mới cơ cực quá, chịu không nổi, Má tôi phải lén đưa các em gái tôi chui rúc nhiều nơi, kể cả nghĩa trang, để mong tìm đường trở về thành phố; nhưng lần nào cũng bị công an khu vực bắt, “lùa” về lại kinh tế mới! Mai Trâm và Trúc Uyên không chịu được sự tủi nhục/sự đói khát/sự cơ cực, đành xin thuốc giết chuột của người láng giềng, cùng kết liễu cuộc sống!

Khi nào chợt nhớ đến sự sa sút thảm hại của gia đình, tôi cũng không còn cảm thấy thích thú gì trong cuộc đời này nữa! Vì thế, suốt thời gian viếng thăm các ngôi đền và bảo tàng viện, tôi ngồi lại trong xe.

        Người tài xế mở radio, đài nào tôi không biết, nhưng xướng ngôn bằng tiếng Anh và rồi một giọng nữ đơn ca. Tôi không nhớ tên ca sĩ mà tôi lại nhớ đó là ca khúc Unbreak My Heart. Tôi hỏi ông tài xế:

– Ở đây nhiều người nghe nhạc Mỹ không?

– Nhiều lắm. Ða số là người trẻ. Không những họ nghe mà họ còn đàn và hát nhạc Mỹ nữa kìa.

– Thảo nào tối hôm qua tôi nghe ban nhạc chơi nhạc Mỹ tại pool party, nơi hồ bơi.

– Ðó không phải là pool party mà là đám cưới nhà giàu.

       Nhìn quanh, tôi ngạc nhiên, kể từ sau khi rời phi trường quốc tế Cairo, tôi chưa hề thấy một hành khất nào cả. Nhưng, sau khi rời khách sạn Elephantine Island Resort tại Aswan để du ngoạn bằng felucca đến đảo Kitchener Island, tôi thấy vài em bé trai, mỗi cậu một chiếc thuyền nhỏ – thuyền được ghép lại bằng ba tấm kim loại, sơn màu lòe loẹt – vừa chèo theo felucca của du khách, vừa hát bài Clementine để xin tiền. Loại thuyền nhỏ này tôi cũng thấy dân cư dọc theo bờ sông xử dụng để đi câu, đi gỡ lưới hoặc làm phương tiện di chuyển dọc bờ sông Nile.

       Dọc hai bờ sông Nile, tôi thấy những mái nhà lụp xụp ẩn mình dưới bóng cây chà là. Phía sau những vùng dân cư không đông đúc đó là một vùng đá thấp và cát, hoàn toàn không có cây cỏ. Vùng đá thấp và cát này kéo rộng ra một đoạn khá xa thì “đụng” phải hai bờ đá cao. Trên hai bờ đá cao đó là triệu triệu đường nứt nẻ chứ không thấy được dấu vết của sự sống.

       Trong giải sa mạc rực nắng và thiếu mưa, chúng tôi leo hết bậc cấp này đến phiến đá nọ để tìm xem đền đài và những ngôi mộ cổ. Ðến bất cứ đâu tôi cũng thấy những hình tượng được tạc bằng đá và những nét vẽ rất lạ được khắc vào đá. Tôi không thể vào sâu trong mộ vì diện tích bên trong rất hẹp, ít dưỡng khí trong khi bên ngoài trời nóng như thiêu/như đốt.

       Khi chiếc du thuyền nhỏ đến Edfu, tôi thấy người dân địa phương dùng loại xe được đóng bằng gỗ, không mui, do ngựa hoặc lừa kéo. Xe lừa được phụ nữ dùng để chở rau cải, hàng hóa. Tôi cũng thấy tận mắt những con lạc đà da khô như vỏ cây nhưng mắt thì hắt hiu buồn. Tôi chưa hề thấy sinh vật nào có ánh mắt buồn da diết và dáng vẻ khắc khổ/chịu đựng như lạc đà!

       Không hiểu tại sao dáng vẻ khắc khổ và chịu đựng của lạc đà lại khiến tôi nhớ đến Tuấn. Trong lần tôi trở về quê sau hơn hai mươi năm xa cách, tôi không nhận ra Tuấn. Tuấn chỉ hơn 40, nhưng thân người khô đét và khuôn mặt cằn cỗi trông Tuấn như ông già 70! Bao nhiêu bất hạnh và tủi nhục được Tuấn dấu kín trong đôi mắt hắt hiu. Tôi im lặng, cố nén vào lòng niềm thương cảm! Khi Tuấn búng tàn thuốc ra cửa xe, thấy ngón tay trỏ của Tuấn bị mất một đốt, tôi hỏi. Tuấn im lặng, nhìn ra xa...

       Không bao giờ tôi ngờ được rằng tôi đã hỏi Tuấn một câu hệt như câu mà Má tôi đã hỏi Tuấn vào năm 1976, khi Tuấn thì thầm cho Má tôi biết rằng Tuấn sẽ vượt biên bằng đường bộ. Má tôi thoáng giật mình, nhưng vội trấn tĩnh ngay. Má tôi lần trong thắt lưng lấy tất cả vốn liếng của mấy mẹ con – khoảng hơn 50 đồng – dúi vào tay Tuấn. Tuấn nắm tay Má tôi, để trọn số tiền đó vào lại trong tay Má tôi. Sự va chạm này khiến Má tôi nhận ra sự biến dạng nơi ngón tay trỏ của Tuấn. Má tôi kinh ngạc, hỏi. Giọng Tuấn buồn buồn:

– Những người vượt biên đường bộ, nhỡ bị bắt họ thường bị ghép vào tội theo thế lực thù nghịch để chống lại nhà nước. Vì vậy, con chặt bỏ lóng tay trỏ để, nhỡ bị bắt, họ biết con không có khả năng sử dụng súng, họ sẽ không ghép con vào tội chống phá “cách mạng”, thì tội của con sẽ nhẹ và con sẽ không ở tù lâu.

       Ước tính của Tuấn là như vậy. Nhưng khi bị bắt tại Nât Luông, csVN nhốt Tuấn vào nhà tù ở núi Sam, bốn năm!

       Suốt bốn năm tù, không biết bao nhiêu lần Tuấn hối tiếc vì nhớ lại buổi chiều cuối cùng, tháng Tư, 1975, tôi gặp Tuấn tại nhà Thọ – người bạn thân của Tuấn, cùng học tại đại học Khoa Học. Tôi bảo Tuấn về nhà tôi, nhỡ có gì thì đi trốn pháo kích với gia đình tôi. Tuấn có vẻ suy nghĩ. Thọ khuyên tôi đừng đi đâu cả. Tôi thuyết phục Tuấn. Tuấn hơi xiêu lòng thì Thọ lại lên tiếng:

– Chị về trước đi. Em chở nó theo chị ngay.

     Tôi nhìn Tuấn, chờ đợi. Tuấn lập lại ý của Thọ. Tôi tin lời Tuấn. Nhưng khuya đó, lúc gia đình tôi rời nhà, vẫn không thấy Tuấn về, tôi khóc!

       Ngày đó tôi khóc vì thương Tuấn. Ở trong tù, mỗi khi ban quản giáo bắt Tuấn đàn, tập cho cả trại cùng hát, Tuấn khóc thầm; vì sự bất khiển dụng của ngón tay trỏ nơi bàn tay phải khiến Tuấn vụng về khi búng giây đàn; và cũng vì Tuấn nhớ lại cảm giác rờn rợn khi thằng bạn dùng cái rựa, bảo Tuấn kê ngón tay trỏ lên thanh gỗ, nhắm mắt lại để nó chặt. Một tiếng “phụm” khô khan, đốt ngón tay lăn trên đất, máu tươi tuôn ròng ròng...

Vừa nhớ đến đây, tiếng Sammy cắt đứt dòng ý tưởng của tôi:

– Ai cần mua nước chai thì mua bây giờ; vì về đến tàu là tàu nhổ neo đi Luxor ngay.

        Ðến Luxor, cũng dưới ánh nắng và sức nóng như trong lò hầm than, Sammy thu xếp cho du khách đi thăm thành phố bằng xe ngựa. Ba du khách ngồi chung một xe.

        Tiếng “lóc cóc” do móng ngựa chạm vào mặt đường như khơi giậy trong lòng tôi dòng âm thanh xưa, trên những chuyến xe ngựa từ Nha Trang đi Thành/đi Cầu Ðá/ đi Tháp Bà/đi Hòn Chồng. Ôi, những chuyến xe ngựa của tuổi thơ!

        Mọi người vui cười rời xe ngựa, đi vào xem chợ Trời, tôi vẫn ngồi yên, không rời xe; vì tôi hoang tưởng, nghĩ rằng/mơ ước rằng chuyến xe ngựa này là chuyến “xe ngựa tuổi thơ” của tôi!

Lúc mọi người trở lại, Sammy bảo tất cả du khách chuyển sang xe buýt.

Chiếc buýt chạy khá xa nhưng tôi vẫn quay lui để nhìn lại một lần cuối chiếc “xe ngựa tuổi thơ” của tôi.

       ý nghĩ của tôi, những chuyến “xe ngựa tuổi thơ” trên những con Trong đường xưa có sự sống – trong hồn tôi – còn quanh khu vực dành cho du khách thăm viếng, tôi chỉ thấy, ngoài nhóm công an mặc sắc phục, còn tất cả là đá. Núi đá, phiến đá, ghềnh đá, tượng đá, hốc đá, viên đá và đá vụn chứ tôi không thấy được bất cứ một sinh vật hay thực vật nào khác.

       Khi ngồi trốn nắng nơi hốc đá ở Queen Hatshepsut’s monumental rock temple, tôi chợt nghĩ, các em tôi chết trẻ, tôi không biết mồ mả như thế nào; thế mà suốt mấy ngày qua tôi lại lặn lội đi tìm xem mộ của những người đã chết từ bao nhiêu ngàn năm trước! Ý nghĩ này làm lòng tôi buồn đến héo hon!

       Trở lại tàu, tôi lên thẳng sân thượng, tìm nơi khuất lấp, ngồi một mình. Nhìn những áng mây đỏ rực cuối trời xa, tôi lại nhớ Tuấn. Tôi nhớ đến lần Tuấn báo cho tôi biết, khi nhận vẽ bảng hiệu cho công ty xuất cảng cá tôm sang Hoa Kỳ, bất ngờ Tuấn gặp lại Thọ – giám đốc công ty này. Thọ cần một người có khả năng Anh ngữ để giao dịch, mua và kiểm soát thực phẩm cho cá tôm ăn. Thế là Tuấn không phải lang thang vẽ bảng hiệu để kiếm sống nữa. Tôi mừng cho Tuấn và cũng mừng cho tình bạn giữa Tuấn và Thọ.

       Cách nay mấy tuần – trong khi nhờ Phổ chở về nhà bằng Honda – Tuấn điện thoại cho tôi. Sau vài câu thăm hỏi, Tuấn dặn:

- Chị Hai! Chị nhớ đừng mua cá tôm nhập cảng từ Việt Nam, nha!

- Tại sao?

- Họ lấy gà vịt bị bệnh dịch đem về chế biến ra thực phẩm cho cá tôm ăn.

- Ủa, báo chí Việt Nam đăng tải là chính quyền Việt Nam đã ra lệnh thiêu hủy tất cả gia cầm nghi ngờ có mầm bệnh rồi mà.

- Tụi nó đốt lấy lệ, để báo chí chụp hình cho bà con tin thôi, rồi tụi nó lấp hờ tại đó. Ðến tối, cũng chính tụi nó trở lại, đào lên, đem về, lựa con nào kha khá bán cho nhà hàng; con nào tệ, bán cho mấy công ty xuất cảng tôm càng, cá tra để được chế biến thành thức ăn nuôi tôm cá để xuất cảng.

– Thôi, đừng nói nữa! Nguy hiểm!

– Nếu chị không phải là chị ruột của em thì em nói làm gì!

– Cảm ơn. Tuấn cẩn thận!

– Chị đừng lo cho em. Chị biết “sếp” công an khu vực này là ai không?

– Ai vậy?

– Thằng Lực, con của bà Ba Giàu chứ ai! Chị nhớ bà Ba Giàu không?

       Bà Ba Giàu, trước năm 1975, giúp việc nhà cho Má tôi. Ông Ba Giàu làm nghề đạp xích lô. Hằng tháng, đến ngày Má tôi phát lương cho bà Ba Giàu, ông Ba Giàu chở thằng Lực trên xích lô, đến nhà tôi nhận tiền. Tối đó thế nào ông Ba Giàu cũng “nhậu” mấy “xị” đế, rồi “xỉn”, thằng Lực phải chạy bộ qua nhà Ba Má tôi, gọi bà Ba Giàu về cạo gió cho Ba nó. Tôi thầm phục Lực là người có tình, vẫn còn nghĩ đến các em tôi như người thân. Tôi không hiểu làm thế nào Lực “ngon lành” như vậy, nhưng tôi hơi yên lòng; vì các em tôi ở kinh tế mới, được quen biết một người có “chút thế lực(!)” cũng đỡ.

       Tôi chỉ yên lòng được vài hôm thì Lộc – vợ của Tuấn – gọi sang, báo cho biết Tuấn bị công an khu vực gọi đến trụ sở “làm việc” rồi bị tống giam mà không viện dẫn lý do. Tôi chợt nhớ đến Lực, vội bảo Lộc liên lạc với Lực. Lộc nức nở:

– Dạ rồi. Anh Lực nói do “trên” chỉ thị thì ảnh thi hành chứ ảnh không biết tội danh. Nhưng anh Lực hứa là ảnh sẽ cố giúp nếu em có điều kiện...

Tôi hiểu và gửi ngay về cho Lộc một số tiền kha khá để lo cho Tuấn.

       Tuấn hiền lành, lại điển trai hơn Thọ, và có tí văn nghệ nên được nhiều người quý mến. Thọ không mặc cảm về những điều đó; nhưng Thọ lại khó chịu và cảm thấy bất an khi sếp lớn của Thọ nhiều lần ngỏ lời khen ngợi Tuấn. Thọ ngại Thọ sẽ mất chức về tay Tuấn. Thọ tìm nhiều cơ hội đề nghị sếp lớn cho Tuấn nghỉ việc, nhưng sếp lớn bảo ông ta cần những người như Tuấn. Sau khi Phổ lập lại cho Thọ nghe cuộc điện đàm giữa Tuấn và tôi thì Thọ có lý do và cơ hội “loại” Tuấn ra khỏi công ty. Thọ kín đáo báo cáo công an và ghi tên Phổ là nhân chứng. Tuấn vào tù mà Tuấn không hề nghi ngờ Thọ.

       Lực gặp riêng Thọ để “thương lượng”. Sau khi Lực cho Thọ biết chính “chị Hai thằng Tuấn” nhờ Lực can thiệp, Thọ cười, thỏa thuận nhận số tiền do Lực trao rồi hai người chở nhau đi ăn uống no say.

Lúc bắt tay từ giã Lực, giọng Thọ nhừa nhựa vì rượu:

– Cứ thả thằng Tuấn đi, tao có cách khác ngoạn mục hơn nhiều.

Sau khi Tuấn được thả, Thọ đến tận nhà thăm và rủ Tuấn đi ăn mừng. Tuấn vui vẻ nhận lời, không nghi ngờ gì cả...

        Những chi tiết kể trên về sau Lộc mới cho tôi hay. Trong khi tôi đang kiểm soát lại lần cuối những thứ lặt vặt để sáng hôm sau ra phi trường, khởi hành chuyến du lịch này thì tôi nhận được điện thoại từ Việt Nam. Lộc cho biết Tuấn được thả buổi trưa thì chiều Thọ ghé thăm rồi chở Tuấn đi ăn mừng. Tối Thọ đưa Tuấn về. Tuấn say khướt, đại tiện, tiểu tiện ngay trên chiếu. Cơ thể của Tuấn tím dần và Tuấn không nói được! Đem Tuấn đến bệnh xá, y tá bắt mạch, bảo Tuấn bị trúng độc nặng lắm, không cứu được!

        Nghe Lộc vừa khóc vừa kể về Tuấn, tôi lạnh toát người, đứng trơ, không khóc được – và cũng không thể đình hoãn chuyến du lịch này để ở nhà khóc em!

       Hôm đó tôi không khóc được. Nhưng, buổi chiều Hè trên sân thượng của chiếc du thuyền nhỏ neo bên bờ sông Nile, tôi âm thầm lấy khăn giấy thấm nhanh những giọt nước mắt muộn màng!

        Nhìn về hướng mặt trời lặn, tôi không biết chính xác mặt trời có lặn về phía quê tôi hay không; nhưng tôi biết, trên giải đất đầy oan khiên và khổ nạn đó, Tuấn không phải là người đầu tiên và Tuấn cũng chẳng phải là người cuối cùng phải chết vì tính dễ tin, lòng thành thật và sự thẳng thắn của mình!

       Nhìn ra xa, trong ánh hoàng hôn của một chiều Hè êm ái, dòng nước trong mát của sông Nile vẫn lặng lờ xuôi ra biển, nhưng hồn tôi lại vượt không gian tìm về chốn xưa; nơi đó, cũng như trong lòng tôi, tiếng hát của Tuấn lúc nào cũng chơi vơi, lạc lõng, buồn buồn!

       Tôi thương nhớ Tuấn như thương nhớ gốc phượng già trước ngôi nhà xưa của Ba Má tôi; như thương nhớ một phần đời thơ ấu của tôi; như thương nhớ tiếng đàn Accordéon của tôi; như thương nhớ những buổi tối hai chị em cùng hát nghêu ngao trên sân thượng nhà tôi:

“Yesterday, all my troubles seemed so far away.

Now it looks as though they’re here to stay....”. (1)

       Troubles are here to stay mà Tuấn thì đã far away, đã vút cao – cao hơn tất cả những nghịch lý/những hèn mọn/những đau thương/những uất hờn/những thù hận trong cuộc sống này! “...Oh, yesterday came suddenly...”. (2)

ĐIỆP MỸ LINH



Tân Định và Đa Kao: Hẻm 60 Yên Đổ - Xóm Cù Lao 

                    

      Dù chỉ là một con hẻm nhỏ, chiều dài không quá hai trăm thước. Nhưng nhiều kỷ niệm thời thơ ấu vẫn còn in đậm trong ký ức không thể nào nhạt nhoà trong tôi. Xin được ghi ra đây để quý bạn có thể hình dung ra con hẻm thân yêu ngày xưa 

này. Đó là Hẻm 60 Yên Đổ, Xóm Cù Lao, Tân Định, Q3 

 

     Hẻm nằm trên đường Yên Đổ. Đối diện bên kia đường là đường Huỳnh Tịnh Của. Nếu quẹo trái đi ra đường Hai Bà Trưng, quẹo phải thì ra đường Công Lý.

 

     Từ đầu hẻm đi vào phía bên phải là tiệm tạp hoá Quảng Đức Long của một phụ nữ gốc Hoa goá chồng làm chủ. Tiệm mang tên người chồng quá cố của bà. Con gái bà tên Xây Dùng rất duyên dáng và vui vẻ. Gần ba mươi mà cô vẫn còn ca bài “Lẽ Bóng”, chẳng thấy A Tững hay A Thoòng đến ve vãn. Hai người con trai là A Xí và A Ngầu khi đến tuổi nhập ngũ, bà không muốn cho con làm lính kiểng, lính ma, lính tại gia, nên tìm cách cho hai đứa trốn qua Campuchia bằng đường bộ, rồi từ đó làm giấy tờ giả để đi sang Hương Cảng. Tiệm QĐL bán đủ các mặt hàng thiết yếu hàng ngày cho bà con lao động trong vùng. Từ cây kim, sợi chỉ, lọ chao, hũ mắm, cân muối, ký đường, than, củi, gạo và nhiều mặt hàng linh tinh khác. Trường hợp gia đình nào gặp hoàn cảnh khó khăn bà đều sẵn sàng bán thiếu. Tới cuối tháng, họ tự động mang tiền đến trả mà bà không cần phải cho người làm cầm sổ nợ đi đòi.

 

     Trước cửa tiệm để chiếc xe ba bánh chở hàng. Hễ bà chủ và người làm công không để ý là bọn chúng tôi: xóm Cù Lao, xóm Giếng, xóm nhà Đèn nghịch ngợm phá phách như quỷ, thường lén lấy xe ba bánh chạy lòng vòng, rồi đem giấu đi chỗ khác. Mười mấy đứa hò nhau hì hục vừa đạp, vừa đẩy, vừa nhào lên xe. Sau đó đem bỏ xe tận cuối xóm. Bà phải cho người làm công đi tìm lấy lại, sau đó máng vốn với cha mẹ chúng tôi.Thế là cả đám cùng hè nhau mà bị đòn.Tuy nhiên, chứng nào vẫn tật đó, có cơ hội là chúng tôi tiếp tục “Con Đường Xưa Em Đi.”

 

     Kế bên tiệm là hai căn phố lầu ba tầng của Ông Bà Luật Sư ĐXQ. Ông tốt nghiệp Đại Học Luật Khoa vào năm 1930 và là một trong những Thẩm Phán đầu tiên về ngành tư pháp của Việt Nam. Ông cũng đã từng là Chủ Tịch Quốc Hội Lập Hiến của nền Đệ Nhị VNCH. Con cái ông bà đều học hành thành đạt và có sự nghiệp vững vàng trong xã hội. Tuy nhiên, không ai chọn theo ngành Luật của ông. Một con gái ông hiện là Bác Sĩ ở Nam Cali, chồng cô cũng là Bác Sĩ. Cả hai cũng nổi tiếng trong cộng đồng về những đóng góp của họ. Phía trước nhà ông có cây me to, trẻ con thường trèo hái, dù trái già hay trái non, bẻ riết ngày này qua tháng nọ khiến trái me mọc ra không kịp.

 

     Tiếp đến là một con hẻm rất ngắn, đi xuyên qua được hẻm 58 xóm Giếng, có nhà ông HĐM. Ông chỉ là thư ký của trường Đại Học Luật Khoa. Tuy nhiên, năm nào cũng vậy, khi đến các kỳ thi Luật, nhiều sinh viên tấp nập đến nhà ông để tặng quà và biếu xén.

 

      Gần đó có hai căn nhà của người gốc Hoa là nhà thím Lầm và Chú Hoà bán hủ tiếu mì, hoành thánh. Đối diện là nhà của ban Kích Động Nhạc gia đình “Saigon Star”, sau đổi tên thành “The Squids” chuyên trình diễn cho các câu lạc bộ Hoa Kỳ, nơi có quân nhân Mỹ trú đóng và các Đại Nhạc Hội. Gần đó có tiệm tạp hoá nhỏ của ông bà Ba Đồng Hồ.

 

     Nhà ông bà có cái đồng hồ to nhất xóm! Con trai bà tên Đ… thường chiếu phim Charlot 16 ly câm cho con nít xem, với yêu cầu là phải giữ thật trật tự và không được mang dép, guốc vào trong nhà. Nếu ồn ào chương trình sẽ chấm dứt ngay lập tức. Sau này, anh Đ… lập gia đình với chị D…là con gái ông NVL, Trường Ty Tiểu học Sài Gòn. Học sinh nào đã từng học trường Trung Học Công Lập Võ Trường Toản các lớp Đệ Thất, Đệ Lục, chắc chắn không bao giờ quên dung nhan cô giáo D.. dễ thương.

 

     Bây giờ đến quán cà phê pha bằng vợt vải của ông Tư Ó. Có lẽ gương mặt ông giống như con Ó hay là ông có tướng Ó đâm, nên bà con đặt cho ông biệt danh này. Quán mở từ sáng sớm đến chiều tối. Bà con đến ủng hộ đông vì giá rất rẻ và có dịp trút các bầu tâm sự về chuyện gia đình,vợ con. Có thể nghe được tuy dô đoán chiêm bao, hay bàn các hiện tượng xảy ra bất thường để đánh số đề được xổ vào buổi chiều. Lâu lâu tình cờ trùng hợp cũng trúng, rồi sau đó thì thua liên miên chí tử. Nợ nần tứ tung, phải bỏ xóm nghèo trốn đi nơi khác. Đúng là “Cờ bạc là Bác thằng bần.” Làm ăn đàng hoàng còn không khá, huống hồ lo chăn nuôi bốn mươi con thú thì làm sao mà khá được!

 

     Cách quán cà phê một căn là tiệm may của anh Tài Lùn. Chuyên may quần tây và áo sơ mi, tính giá rất nhẹ. Mỗi dịp tựu trường và Tết đến cả gia đình anh phải tăng năng suất tối đa mới kịp thoả mãn cho khách hàng. Một con hẻm nhỏ, phía trong chỉ bốn căn nhà, có bà bán bún ở chợ Tân Định. Bà luôn luôn quấn khăn đen trên đầu, che cả hai bên tai. Bà có một con gái tên Tí Gh... Sau này đến tuổi dậy thì đẹp hẳn ra và một con trai mà người ta quen gọi tên là Cu Bún. Có lẽ anh là con bà bán bún?

 

     Kế bên là tiệm BiDa của nhà anh Minh, lúc nào cũng ồn ào vì cá độ. Vừa đánh, vừa chọc quê. Đôi khi các cơ thủ lấy cây cơ làm vũ khí ẩu đả. Một vài trường hợp phải đưa đi bệnh viện để vá các vết thương. Đặc biệt, có một ông thợ hớt tóc lớn tuổi goá vợ, chỉ có một cô con gái duy nhất. Cha Mẹ cho đi Tây học, hy vọng ông sẽ trở thành Bác Sĩ hay Kỹ Sư để ấm tấm thân, sau này có có vợ đẹp, con khôn, nhưng ông đã làm cho song thân thất vọng vì chỉ tốt nghiệp một khoá hớt tóc ở Paris. 

 

     Ông ghiền BiDa, chơi ngày này qua tháng nọ, thêm phần cá độ thua, đến nỗi phải bán căn nhà nhỏ, sang luôn chỗ hớt tóc kiếm cơm hàng ngày để trả nợ.

 

     Sát bên tiệm BiDa anh Minh là nhà bà Lý Nh .. số 60/40. Trước nhà có xe bánh mì của chị C..bán với giá rất bình dân hợp túi tiền dân lao động, nên bà con lối xóm ủng hộ rất đông. Ngoài thời gian bán bánh mì ra, chị lo chuyện vác ngà voi, giúp đỡ cho bà con trong phường, xóm, nhất là những người neo đơn, già yếu không có con cháu nương tựa, hoặc có đám ma hay đám chay mà tang chủ gặp khó khăn..

 

     Tiếp tục đi thêm khoảng hai chục thước là một con hẻm đi ra được đường Hai Bà Trưng, cầu Kiệu và chợ Phú Nhuận. Hẻm có tên là Vựa Gạo. Hẻm này có hai anh em Bé Tư và Bé Năm thích tập tạ, nên thân hình lực sĩ rất đẹp như Lực Sĩ Nguyễn Công Án và Nguyễn Thành nhơn, được nhiều em trong xóm để ý. 

 

     Thêm anh Q… chơi cờ tướng thuộc loại kỳ thủ, chuyên phá mọi thế cờ mà dân cờ tướng chuyên câu độ, trải bàn cờ tướng dụ khị khách qua đường rất nể sợ. Anh có biệt danh là Đế Thiên-Đế Thích. Ngoài ra, anh còn có tài chuyên nghe hột bầu cua, đánh đâu trúng đó và được nhiều người bên ngoài đánh theo anh, khiến những tay lắc bầu cua vào dịp Tết tặng anh vài gói thuốc 555 năn nỉ xin tha, tôn anh là Sư Phụ để họ còn kiếm ăn lai rai trong dịp năm mới. 

 

     Tiếp đến là tiệm bán dụng cụ học sinh của người Hoa có con trai tên A Biếu. Gia đình có thêm một tiệm lớn hơn ở gần nhà may Tụ Bảo, sồ 16 đường Trần Văn Thạch, đối diện đường Lý Trần Quán -Tân Định.Tiệm lấy tên là Thế Giới, số 22 TVT được giao cho cô con gái lớn đứng bán.

 

     Sau đó là đến nhà của ông Hai H..và Bảy T…. Thời Bình Xuyên cực thịnh, dân trong xóm đều ngán oai của hai ông. Nhất là đám con nít đang chơi giữa đường thấy hai ông chạy xe bình bịch hiệu Harley vừa bóp còi, vừa la thì phải lo né từ xa. Nếu chậm chân có thể bị hai ông ủi. Một lần nọ, có anh bán bánh chưng, bánh giò, bánh cúc chở bằng xe đạp.Vừa đạp, vừa rao. Khi xuống dốc, thắng bằng gót chân không kịp, nên cán chết hai chú gà nòi con trong bầy gà quý của ông Hai H... Mặt anh tái mét như tàu lá úa. Anh vừa đứng, vừa run lập cập, vì biết là đã rơi đúng vào ổ kiến lửa. Phen này chắc tiêu tán đường quá! Bỗng dưng, hôm đó ông Hai H.. hiền như bụt, sai người nhà ra lượm xác hai cục cưng bỏ thùng rác và vẫy tay biều anh đừng lo, cứ tiếp tục đi bán, không một chút giận dữ, hay lớn tiếng như mọi khi. Hú hồn! hú vía!cho anh. Chắc là kiếp trước anh tu kỹ, hay ông ta có mắc nợ anh?

 

 

     Đi đến cuối hẻm, quẹo phải có hơn hai mươi căn nhà. Bên trái là nhà sàn nằm sát bên sông cầu Kiệu. Nơi đây có gia đình ông Hai Đ…là một gia đình theo đạo Thiên Chúa gốc. Cả nhà thường đọc kinh mỗi đêm trước khi đi ngủ. Đi nhà thờ thường xuyên vào buổi sáng, và phụ giúp các công việc cho nhà thờ Tân Định. 

 

     Có thầy Ba Chẩn tu tại gia, chuyên môn cạo gió, giác hơi, cắt lễ bằng cây kim vàng. Ai bệnh nặng không đi được. Thầy vui vẻ đến tận nhà. Thầy chữa bệnh rất mát tay, giúp nhiều người khỏi bệnh. Bà con muốn trả bao nhiêu cũng được. Thường thì thầy chỉ lấy tượng trưng. Mục đích là chữa bệnh làm phước, mua ít nhang đèn và mua thêm thuốc thang. Thầy được mọi người kính trọng. Phải kể thêm một gia đình người miền Bắc di cư năm 1954 có con trai học Y Khoa, về sau tốt nghiệp Bác Sĩ .

 

      Ngoài ra, có gia đình ông bà T... Ông bà có một cô con gái là nữ sinh Gia Long, tóc dài chấm vai, có nét như ca sĩ Thanh Thúy. Hình cô được trưng bày trong tủ kính trước cửa tiệm chụp hình Mỹ Quang, đối diện với rạp hát Kinh Thành -Tân Định, để làm kiểu cho thiên hạ ngắm. Cô được nhiều chàng theo đuổi. Nào là Thủ Đức, Không Quân, Hải Quân, Võ Bị Đà Lạt... Bị bám riết quá, đến nỗi cô học không nổi, nên thi rớt Tú Tài I mấy keo liên tiếp. 

 

      Cuối cùng, cô chấm điểm được một chàng Sĩ Quan tốt nghiệp Trường Bộ Binh Thủ Đức là con trai của một chủ tiệm may khá nổi tiếng trên đường Hai Bà Trưng. Chàng dự tính đưa gia đình đến xin cưới cô. Nhưng ông bà T..không chịu, vì chàng đang ở đơn vị tác chiến và thân phụ thì có tới hai vợ. Lấy lý do này, nên ông bà quyết liệt từ chối. 

 

     Buồn đời, thất vọng, cô đi lấy chồng do ba má cô chọn. khi tuổi mới vừa ngoài hai mươi. Bỏ dở cuộc chơi nửa chừng. Chồng cô tuổi lớn hơn cô cũng xấp xỉ một con giáp, tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm, đang dạy học ở một trường Trung Học Công Lập không xa Sài Gòn, nên được tạm hoãn dịch. Ông bà T..an tâm, coi như con gái ván đã đóng xuồng, và không sợ con gái rượu của mình sớm trở thành “Goá Phụ Ngây Thơ” ở tuổi đôi mươi

 

     Trở lại đầu hẻm phía tay trái. Trước khi đi vào chi tiết của đoạn này cũng cần nhắc đến vài căn nhà ở phía ngoài mặt tiền đường Yên Đổ. Đó nhà anh Thịnh cho thuê Xích Lô Máy. Bỏ đi một căn là giang san của ban kích động nhạc Les Vampires nổi tiếng vào những năm thập niên 60, 70 với Tòng thổi Saxo, Hồng Hải chơi trống. 

 

     Tiếp theo căn nhà số 74 YĐ là tiệm phở khá nổi tiếng của chị Sáu N…. Nơi thường lui tới của những đấng mày râu quyền thế và lắm tiền; thích ăn phở hơn xơi cơm nguội nhạt lách ở nhà. Chị lúc nào nói năng rất ngọt ngào, luôn luôn đeo cặp kiếng trắng ra vẻ trí thức. Hình như tiệm phở của chị có dù che , nên chính quyền địa phương không dám đụng tới.

 

     Kế đến là nhà nữ tài tử Mai Tr.., một trong những vai nữ chính của phim “Chúng Tôi Muốn Sống.” Cô có hai công chúa tên Mai D… và Mai V.. cũng xinh đẹp, duyên dáng như mẹ, được nhiều thanh niên trong vùng ngắm nghé. Nhưng cuối cùng chẳng anh nào lọt được vào mắt xanh hai nàng.

 

     Phải kể thêm nhà ông thầu khoán có cậu con trai thuộc loại dân chơi tài tử tên Kh.., 

 

     Trường dạy lái xe hơi Yên Đổ, nhà in NMH. Ông chủ nhà in có hai con gái. Một tên Ngô Kim Th. là một thì sĩ học trò, chuyên làm thơ ca tụng màu Alpha đỏ Võ Bị Đà Lạt. Cô kia tên Ngô Phi N.., nữ sinh Trưng Vương, có dáng xinh xắn như búp bê. Anh chàng nào láng cháng trêu chọc sỗ sàng thì biết tay nàng ngay, và cuối cùng phòng mạch bác sĩ Trần Đình Ngân. Ông tốt nghiệp ở ngoại quốc về. Một con người đầy lòng nhân từ bác ái, thương người nghèo và tận tụy với mọi bệnh nhân. Rất tiếc, số phần ông quá ngắn ngủi.

 

      Sau khi ông mất, Bác Sĩ VB thay ông tiếp tục cho đến 1975.

Tiếp đến tiệm thuốc Tây Nguyễn Huy do Dược Sĩ Nguyễn Huy làm chủ. Ông cao lớn, vạm vỡ với hai con mắt thồ lộ. Sau năm 1975 Nhà Thuốc Nguyễn Huy vẫn còn hoạt động thêm một thời gian. Sau đó ông bà vượt biên, nhưng hoàn toàn không có tin tức. 

 

     Bên hông nhà thuốc là một khoảng đất trống nhỏ. Chỗ này có thể coi như một cái chợ nhỏ của xóm Cù Lao. Nhiều bà con bán hàng ăn uống dã chiến suốt ngày. Hoạt động từ tờ mờ sáng cho đến khuya lắc, khuya lơ. Ban ngày bán đủ các loại rau, hoa, trái, thịt, cá. Về ăn uống có bánh mì thịt, bánh cuốn, bánh bèo, bánh ít trần, xôi bắp, cháo huyết, cháo sườn, bún riêu, cơm tấm, hủ tiếu mì, khoai mì chà bông, sữa đậu nành, nước mía, đậu xanh, đậu đỏ bánh lọt, sương sa hột lựu, nước trà Huế... 

 

     Ban đêm có xe bán sâm bổ lượng, hột vịt lộn, xe bò viên, cơm bình dân, khô mực với rượu đế, bắp nướng mỡ hành, bánh tráng mè nướng than. Đây cũng là nơi các bác đạp Xích Lô và các tài xế Honda ôm dùng làm bến nghỉ chân chờ đón khách và bàn chuyện thời sự, chó cán xe, xe cán chó, vật giá lên xuống mỗi ngày.

 

     Tiếp theo là đầu ngõ hẻm 62, đi ra được đường Công Lý, sang chợ Phú Nhuận, còn gọi là xóm Nhà Đèn vì đa số là bà con từ Quảng Bình kéo nhau vô Sài gòn lập nghiệp mà hầu hết làm nghề thợ điện. Trong hẻm này có nhà của vợ Nhạc Sĩ Mặc Thế Nhân, tên thật là Phan Công Thiệt với hai nhạc phẩm “Em Về Với Người và Cho Vửa Lòng Em”rất thịnh hành một thời. Có nhà ông thợ may tên Phôn nổi tiếng về may Veston và đồ Tây mà khách sành điệu và dân chơi thường tìm đến. Nhiều chủ tiệm may lớn trên đường Lê Thánh Tôn và Tự Do mời ông về cộng tác với lương hậu hĩnh, nhưng ông từ chối.

 

     Ngay đầu xóm là nhà ông Tư Soan hớt tóc, con cái đùm đề. Ông kiêm thêm nghề kéo đàn ò e đám ma. Khi nào có ai mời chơi nhạc cho đám tang thì ông tạm nghỉ hớt tóc vì kéo đàn thu nhập cao hơn còn được mời ăn uống đầy đủ, và mang về nhà cho vợ con.

 

     Xóm này có hai thần đồng ca nhạc Phương Mai và Phương Dung của ban Tạp Lục Tùng Lâm, về sau diễn kịch cho ban Tân Dân Nam. Có các hoa khôi như chị Ng.., chị Jacqueline, chị N., Chị Th.., chị B.. và một số người đẹp khác mà tôi không nhớ tên hết! Tuy nhiên cũng phải kể thêm hai chị em ruột Ph., và H….hợp tác cùng chị Hoa L.ở hẻm 58 để trở thành bộ tam sên khét tiếng trong giới nữ kê, mà các đấng hào kiệt, mày râu đều kiêng nể. 

 

     Trong xóm có một cầu tiêu sông công cộng. Những gia đình ở gần rất khổ sở, mỗi khi nước thủy triều xuống.

 

     Ngay đầu ngõ là cà phê bình dân của bà Thân mở ra đã lâu. Bà nói năng ngọt ngào, giá cả bình dân. Nên được cảm tình của dân ghiền cà phê. Con trai út của bà tốt nghiệp Kỹ Sư Điện Trường Đại học Phú Thọ, vang tiếng cả vùng, làm bà hãnh diện với xóm làng. Chẳng uổng công sức bà ngày đêm pha cà phê nuôi con ăn học nên người.

 

     Tiếp đến là trụ sở Hội Thuận Bài Tương Tế. Cách hai căn là nhà có cây mít rất sai trái. Chủ nhà là quản lý nhà hàng nổi tiếng Majestic, Quận Một, Sài gòn. Các con ông đều học giỏi, trong đó có Hà Cẩm Tuyền. Sát bên nhà ông là nhà của ca sĩ tài tử Trần Ngọc Ph… là sinh viên Khoá 1 trường Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt với bài hát Mexico ngân dài hơi bất hủ như danh ca Cao Thái. Anh Ph…có một ông anh tên Trần Ngọc G... Không hiểu sao cứ khoảng mười giờ tối là lấy kèn Trumpet ra thổi bản nhạc Cầu Sông Quay (The Bridge on the River Kwai.) Riết rồi bà con trong vùng không cần xem đồng hồ cũng biết. Bây giờ đã là mười giờ đêm“Xin bà con cô bác vui lòng vặn vừa đủ nghe để khỏi làm phiền hàng xóm đang cần yên tĩnh nghỉ ngơi.”

 

    Cạnh nhà anh Ph…là nhà ông bà Phạm Tá. Ông tốt nghiệp kỹ sư Hoá Học ở Pháp về. Tướng bệ vệ, đeo kính trắng dày cộm. Ông ra ứng cử trong một liên danh vào Thượng Viện, nhưng thất bại. Bà dạy nữ công gia chánh tại trường Nữ Tiểu Học Đồ Chiểu vào buổi chiều.

 

     Bỏ qua một hẻm nhỏ là tiệm giặt ủi không tên của hai ông bà di cư từ miền bắc vào năm 1954. Ngoài cô con gái. Hai ông bà có năm người con trai. Thật đúng là Ngũ Hổ Tướng, du đãng sừng sỏ cỡ nào cũng không dám đụng vào đám anh em nhà này. 

 

     Người con trai lớn tên Vũ Đình Kh…tức S.. Đảo vì anh ở tù ngoài Côn Đảo được thả về. Anh S.. Đảo có nước da trắng, cao ráo, đẹp trai, tướng oai hùng và giỏi võ. Anh được nhiều cô, nhiều bà mến mộ. Địa bàn hoạt động chính của anh là khu ngã ba Ông Tạ và ngã tư Bảy Hiền. Anh bị một kẻ lạ mặt bắn tử thương tại góc Nguyễn Du và Lê Văn Duyệt, lúc anh cúi xuống bóp bánh xe mô tô, mà trước đó kẻ nào cố tình xì lốp. Đám tang anh S.. Đảo rất lớn, được nhiều giới giang hồ, đàn em khắp nơi về đưa tiễn. 

 

     Người con trai kế tên Vũ Đình T.... là Sĩ Quan thuộc binh chủng Nhảy Dù, hy sinh khoảng cuối năm 1969 trong trận đánh ở đèo Lao Bảo. Tiếp đến là Vũ Đình C... là tay vợt bóng bàn có hạng của đội Quân Vận. Về sau anh C... bị vào Chí Hoà. Trong lúc tranh giành ảnh hưởng, anh đã bị một đàn em của Đại Ca Thay là Lâm chín ngón đâm chết. Sau đó giám thị Chí Hoà phải đổi ngay Lâm chín ngón đi nơi khác vì sợ đàn em của anh C...tìm cách trả thù. Kế anh C…là Vũ Đình H.., và Vũ Đình T…Ngũ hổ tướng cuối cùng là VĐH vừa mất vào ngày 29 tháng 07, năm 2014. Hai vợ chồng được được con gái bảo lãnh đi định cư ở Hoa Kỳ, nhưng anh chỉ ở được vài tháng thì anh quay lại VN và “Xin nhận nơi này là quê hương, dẫu cho khó thương.” Đám tang anh có rất nhiều tay chơi một thời trong chốn giang hồ đền tiễn đưa lần cuối.

 

     Theo dư luận, thì kẻ bắn anh S.. Đảo là Phạm Bá Y tức Y Thọt. Đương sự đã bị xử tử hình vào năm 1976 tại trường bắn Thủ Đức, vì tham gia trong nhiều vụ cướp có giết người.

 

     Đi thêm khoảng mười mét là võ đường Nhu Đạo của Võ Sư Nguyễn Hữu Khánh. Ông cũng là huấn luyện viên võ thuật của Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia. Nghe đâu ông mất tại Móng Cái năm 1977. Võ đường hoạt động một thời gian thì đóng cửa. Ông Phạm Tá mua lại võ đường này để thành lập xưởng nhuộm mang tên ông. Tuy nhiên, xưởng nhuộm chỉ tồn tại được một thời gian ngắn thì dẹp.

 

     Cạnh xưởng nhuộm là trường Tiểu Học Hùng Vương. Trường chỉ mở đến lớp ba. Thầy Vũ Hữu Tiềm là giáo viên nổi tiếng chuyên dạy luyện thi Đệ Thất vào các trường công lập đã mượn nơi đây để mở các lớp luyện thi. Nhiều phụ huynh trong vùng, kể cả các nơi khác cũng gửi con em đến học rất đông. Năm nào sỉ số học sinh của thầy thi vào lớp Đệ Thất trúng tuyển cũng nhiều hơn các nơi luyện thi khác.

 

     Tiếp đến, khoảng năm căn nhà nữa là số 60/59 là nhà của cô giáo Phan Thị Mai. Cô là giáo viên trường Tiểu Học Con Trai Tân Định. Cô rất nghiêm khắc, nhưng rất thương yêu và chăm sóc học trò tận tình. Cô Mai và Thầy Hiệu Trưởng Nguyễn Văn Xuân cùng soạn chung một quyển sách Toán lớp Nhất và luyện thi vào Đệ Thất. Học sinh nào gia cảnh khó khăn, không có điều kiện học thêm. Nếu chịu khó ôn luyện quyển sách này cũng sẽ hy vọng thi đậu vào Đệ Thất. Cô giáo Mai là một Phật Tử thuần thành. Cô quy y có pháp danh là Diệu Huỳnh. Ngoài ra, cô còn có thêm tên là Nhất Chi Mai.

 

     “Vì thiết tha với Hòa Bình, nên Phật tử Nhất Chi Mai phát nguyện đem thân làm đèn, đốt lên làm lễ khai mạc tuần lễ cầu nguyện Hòa Bình của Giáo Hội, vào lúc 7:30 sáng ngày mùng 8.4 Đinh Mùi (nhằm ngày 16.5.1967) tại chùa từ Nghiêm đường Bà Hạt Chợ lớn. Ánh lửa hào hùng của một Phật tử yêu nước, đã nói lên lòng đau xót quê hương với nguyện vọng thiết tha Hòa Bình.”

(Trích Ghi Ơn Tiền Bối 50 năm (1920-1970), Chấn Hưng Phật Giáo Việt Nam, do Sa Môn Thích Thiện Hoa soạn.)

 

     Trong hẻm nhà cô Mai có anh Chín Máy chuyên sửa xe hai bánh gắn máy. Anh rất hiền lành, không bao giờ làm họa sĩ vẽ vời khách hàng để lấy thêm tiền. Ngoài ra, có hoạ sĩ nổi tiếng tên Nhan Chí để tóc dài như nghệ sĩ Trần Văn Trạch. Ông có biệt tài về vẽ chân dung một cách xuất thần. Ông ghiền BiDa còn hơn ông thợ hớt tóc già. Mỗi lần ông chơi được nhiều người xem vì đường cơ ông đi rất đẹp. 

 

     Không nghe nhắc đến vợ ông, chỉ biết ông có hai con: một gái tên Hà và một trai tên Trung. Anh Trung bị tật gù lưng bẩm sinh từ nhỏ, nên có biệt danh là Trung Gù cũng theo đuổi nghiệp vẽ. Dù, không qua các trường Cao Đẳng Mỹ Thuật hay một lớp Hội Hoạ nào, nhưng Hoạ Sĩ Trung Gù vẽ chân dung và hình các tài tử, ca sĩ ngoại quốc giống như thật: Sylvie Vartan, Dalida, Mary Monroe, Audrey Hepburn, Charles Bronson, Clark Gable, Marlon Brando, Johnny Hallyday, Alain Delon, James Dean... được trưng bày trước các rạp xi nê ma lớn như Rex, Đại Nam.

 

     Kế bên nhà cô Mai là nhà cô Bảy và Cô Tám là hai chị em ruột. Hai cô bán rau muống, hành, chanh , ớt, tương chao và các loại dưa muối ở chợ Tân Định. Con của hai cô cũng thành công trên đường học vấn. Có con làm Giáo Sư, có con làm Dược Sĩ.

 

     Bây giờ,  đến nhà ông Sáu Voi. Tướng ông cao, to như con voi đúng như cái tên mọi người đặt. Ông Sáu Voi làm tài xế xe chở học sinh. Ngoài ra, ông chuyên làm việc xã hội, thâu tiền ma chay, thăm viếng người bệnh và hay tổ chức cho bà con Phật Tử trong vùng đi hành hương các chùa chiền vào những dịp lễ lộc.

 

     Cuối cùng, quẹo phía trái gặp nhà bà Thìn bán tiết canh, lòng heo, cháo huyết. Bà bán chung với tiệm cà phê Hải Nàm, nằm ở đầu đường Yên Đổ & Hai Bà Trưng vào buổi chiều. Sát bên là vựa củi của bà Năm Nghĩa số 60/101 YĐ. Củi được cung cấp bởi những ghe chở từ ngoài cầu Kiệu và đậu sau nhà sàn của bà, sau đó chuyển lên để trước sân nhà. Con rể bà là anh H. ở hẻm Xóm Giếng số 58 YĐ,

 

     Kế đó là nhà giáo sư Pháp Văn Nguyễn Ngân. Thầy mù hai mắt, nhưng dạy các học sinh về Văn Phạm tiếng Pháp rất hay. Nhất là phần phân tích Grammaticale và Logique. Thầy lấy học phí rất rẻ. Nếu học sinh là con nhà nghèo thì Thầy cho học miễn phí. Muốn đi vào nhà bà Năm Nghĩa và Thầy Ngân phải qua một cái cầu ván cũ lắt lẻo, gập gà, gập ghềnh. Khi nước thủy triều lên, việc đi lại rất khó khăn vì rất trơn trợt.

 

    Con hẻm Cù Lao với hầu hết là bà con lao động là thế đó! Bây giờ những người muôn năm cũ không còn bao nhiêu. Một số đã theo Trời theo Phật. Một số vì hoàn cảnh, thời cuộc phải dọn đi nơi khác, hoặc đang sống tha phương nơi xứ người. Nếu ai có dịp trở lại con hẻm Cù Lao này, chỉ biết ngậm ngùi cho cảnh vật đổi, sao dời. Dù sao, nó cũng là một phần trong ký ức tuổi thơ mà tôi cố ghi lại.

 

    Xin được một lần chào con hẻm 60 Yên Đổ - Xóm Cù Lao, Tân Định, trước khi con hẻm này không còn nữa! Nó sẽ biến mất, vì sự phát triển đô thị trong vài năm sắp tới.

 

       Trần Đình Phước

      (San José, California 2025)

 






--
====================================================================
Trên Facebook :
http://www.facebook.com/DaiHocKhoaHocSaiGon
====================================================================
 
Bạn đã nhận được bài viết này vì bạn đã đăng ký vào Nhóm "KhoaHocSG" của Google Groups.
* Để đăng bài lên nhóm này, hãy gửi email đến "khoa...@googlegroups.com"
* Để RÚT TÊN ra khỏi nhóm này, gửi email đến "khoahocSG+...@googlegroups.com"
* Để có thêm tuỳ chọn (preference set up), hãy truy cập vào nhóm này tại: http://groups.google.com/group/khoahocSG?hl=vi
---
Bạn nhận được thư này vì bạn đã đăng ký vào nhóm Google Groups "KhoaHocSG".
Để hủy đăng ký khỏi nhóm này và ngừng nhận email từ nhóm, hãy gửi email đến khoahocsg+...@googlegroups.com.
Để xem cuộc thảo luận này, hãy truy cập vào https://groups.google.com/d/msgid/khoahocsg/MN2PR02MB6592EE0E65BF26EE02F8A201FC3AA%40MN2PR02MB6592.namprd02.prod.outlook.com.
Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages