Fwd: ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 31-07-2025 (SỐ 211-2025)

8 views
Skip to first unread message

Giu Tran

unread,
Jul 31, 2025, 11:09:45 PMJul 31
to


---------- Forwarded message ---------
From: soan....@hotmail.com <soan....@hotmail.com>
Date: Thu, Jul 31, 2025 at 8:39 AM
Subject: ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 31-07-2025 (SỐ 211-2025)
To:






GOOD MORNING VIET NAM - CANADA - USA

ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 31-07-2025  (SỐ 211-2025)

Image insérée
Image insérée


MỤC LỤC

  1. Tháng chạp tàn 
  2. Chuyện Ông Tiên Chùa Bổ Đà
  3. Bạn Thật Bạn Ảo Bạn Thân Bạn Quen
  4. KHI BIẾT MÌNH SẮP CHẾT…
  5. Có tiếng chim ca
  6. Ngày người tù binh trở về!
  7. Thung lũng nước mắt
  8. Gom Góp Từ Ngữ Người Miền Nam Và Sài Gòn Xưa





Tháng chạp tàn 

  • Image en ligne
    Thắm Nguyễn

    Cuối năm, thỉnh thoảng lắm mới có vài giọt nắng rớt vội qua hiên nhà. Bầu trời tháng Chạp đùng đục, lờ nhờ. Chẳng thấy mây đâu mà chỉ thấy cả không gian trắng xám, nhàn nhạt y hệt như một ly sữa lớn pha loãng. Mặt trời lên muộn và luôn luôn tắt sớm. Chưa chạng vạng tối đã thấy sương rơi trên dãy núi sau lưng nhà mờ mịt. Con sông ven phố với những hàng khuynh diệp lắt lay gió, ẻo lả nghiêng mình bên bờ nước càng làm cái ảm đạm chung quanh tăng lên. Ðã hết những ngày mưa mùa Ðông, các đợt thủy triều không còn bùng lên hung hãn, dữ tợn và ngầu đục phù sa, nhưng mặt nước tối ám, dày đục. Nhìn xa chẳng khác gì một miếng thạch chưa đông. Tháng Chạp không có nắng, nên chiều nào đi học về, Thủy Tiên cũng than, đất trời thị xã ngó xao xác, và già nua quá đỗi.

    Tôi trêu Thủy Tiên, bảo trời nắng yểu chỉ làm bà già tôi cằn nhằn vì phơi hoài mấy mâm mứt không khô. Tiên đáp nói chuyện với mi chán dễ sợ. Tôi phì cười hỏi mi có ưa ông anh họ… hồn bướm mơ tiên của tau cho hợp tình hợp cảnh không. Thủy Tiên chặc lưỡi:

    – Ông mô? Cái ông “tháng Chạp về thương nhớ bé ơi” nớ hả?

    Tôi gật đầu. Ừ. Chính “hắn”! Con nhỏ bật cười, biểu ông anh mi chờ tới khi mô tau với Sử bỏ nhau đã nghe. Tôi cứng họng không biết trả lời sao. Thủy Tiên lao xao. “Ê mà nì, Nhàn ơi, ngó rứa chớ hôm qua hôm tê chi đó, tau mới viết thơ cho Sử, biểu anh không về kịp em lấy chồng ráng chịu”. Rồi con nhỏ than tiếp. “Bồ với Sử mệt quá mi ơi. Chờ với đợi. Lo với lắng. Không biết Tết năm ni Sử về có được hay không nữa đây”. Tôi trêu ai biểu ngu, đòi làm em gái hậu phương.

    Sử học trường chúng tôi, lớn hơn hai đứa vài ba lớp, đậu tú tài hạng Bình, nhưng trúng tuổi động viên, thật ra có thể xin hoãn dịch vì lý do gia cảnh tuy nhiên không hiểu sao Sử lại chọn nghiệp lính. Tôi thường trêu chắc tại Sử ham nghe Hùng Cường hát nhạc kích động. Hai cái Tết rồi, Sử được về chỉ đúng một chiều Ba Mươi, và sáng Mồng Một. Bao giờ Sử đi, Thủy Tiên cũng xuống nhà tôi nằm vùi. Không khóc, nhưng tháng Giêng vừa mới chạm ngõ đã thấy tàn trong mắt bạn tôi, mùa Xuân vừa kịp hoan ca đầu ngõ đã thấy mịt mờ trong lòng con nhỏ. So với cái tuổi cà rỡn của tôi và bạn bè cùng lớp, Thủy Tiên già dặn vượt hẳn lên rất nhiều. Cái lo của con nhỏ là cái lo nhuốm màu thời cuộc. Cái sợ là cái sợ bạc trắng mùi tang tóc.

    Nghe thầy giảng “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, giữa lúc vô số đứa trong lớp tôi còn ngơ ngác chưa hiểu hết được trọn ý, thì Thủy Tiên đã ứa nước mắt. Bàn tay xanh xao trên bàn, run rẩy co giật liên hồi. Chẳng bao giờ tôi dám đi với Tiên đến những nơi có nhiều trại gia binh hay đồn lính. Tết, trường tôi thường tổ chức văn nghệ ủng hộ chiến sĩ, thương bệnh binh tại các quân y viện, đứa nào cũng chộn rộn, nhưng chỉ đi với con nhỏ một lần, tôi thề sẽ không khi nào dại dột tái lại lần hai. Tôi vẫn tự hỏi nếu Sử có mệnh hệ gì, không biết con nhỏ bạn thân thiết này có đủ can đảm kéo dài cuộc sống nữa hay không.

    Ông anh họ tôi viết mấy câu thơ, đọc cho Thủy Tiên nghe, con nhỏ cứ đọc đi đọc lại hoài.

    “…Em vạn mùa sương mờ cuối nẻo.
    Ta đợi ngàn năm tháng Chạp tàn”.

    Chờ lâu quá không thấy thơ trả lời của Sử như thường lệ, Thủy Tiên đùa cợt, rên rỉ với tôi, tau lấy chồng cho mi coi, nhưng coi bộ con nhỏ rầu thúi ruột.

    Sử hành quân lên Kontum hồi đầu tháng Chạp. Con nhỏ bảo không thấy khu bưu chính trả ngược thư về, có nghĩa là Sử vẫn còn có mặt ở đâu đó, sau hậu cứ hay trên chiến trường. Giọng Thủy Tiên ráo hoảnh nhưng nỗi lo lắng, sợ sệt không giấu được, cứ vất vưởng ở giữa lưng chừng câu nói. Không cần đoán cũng biết ngay con nhỏ tự trấn an, cố kìm cơn xúc động xuống. Hằng ngày đọc báo, tin tức chiến sự không vui, không khả quan vẫn ào ạt trên trang nhất. Phần phân ưu vẫn nhiều người trẻ hơn người già, vẫn nhiều lính hơn dân sự. Quan tài bọc cờ vàng ba sọc đỏ trên những chuyến xe công voa vẫn về ngang qua thành phố giữa những ngày sắp hết năm.

    Tôi trêu cho Thủy Tiên yên tâm, “Thư của lính không mang màu trời như mơ ước đâu em”. Thủy Tiên cười. Nụ cười gượng và giả như kịch. Chúng tôi kéo nhau đi mua guốc gỗ, áo dài diện Tết, đứa nào cũng hí hố đọc một hai câu thơ khi chọn màu áo cho mình; trong lúc Ðông Ba ồn ào, “Ông Phạm Thiên Thư tếch ni co lo tụi bây ơi. Nhớ xưa em chửa theo chồng. Mùa Xuân may áo, áo hồng đào rơi. Mùa Thu em mặc áo da trời. Sang Ðông lại khoác lên người áo hoa.”, thì Thủy Tiên của tôi cứ đứng vuốt ve mãi xấp áo màu sim, màu vàng rồi màu xanh thiên thanh, nhưng không có ý mua xấp nào. Mãi cho đến lúc Tiểu Muội chọn cái áo trắng, ngâm nga câu thơ Nguyễn Tất Nhiên, “Áo em trắng cả sân trường trắng. Tan học chiều nay có ngẩn ngơ?”, tôi giật mình muốn đá chân Tiểu Muội một cái nhưng con nhỏ đứng cách xa tôi cả mấy bước. Sát bên cạnh tôi, Thủy Tiên rướn người lên ngó vạt lụa Tiểu Muội đưa ra, rồi ngó đi chỗ khác. Cuối cùng Tiên quyết định không may áo mới. Lúc ra về, con nhỏ nói với tôi nhưng như nói một mình:

    – Tự nhiên, thấy màu trắng, lạnh cả người rứa thê.

    Tôi chặc lưỡi:

    – Con khỉ Tiểu Muội một công hai chuyện dễ sợ. Hắn công giáo, không tin dị đoan, may áo trắng đã được mặc đi lễ Tết, mai mốt lại được mặc đi học.

    Thủy Tiên làm thinh. Tôi nghẹn ngào làm thinh theo. An ủi con nhỏ, trong trường hợp ấy, họa có điên. Thủy Tiên dặn tôi chiều Mùng Một nếu không đi đâu, thì ghé nhà nó đi chùa xin xăm, một chuyện con nhỏ chưa bao giờ làm…


    Mùa Xuân ấy, Tết ấy, Sử chẳng về. Lá xăm, lá số tử vi gì đó Thủy Tiên xin, nói đường đời con nhỏ hanh thông, tình duyên con nhỏ sáng láng. Thủy Tiên cười thảm não. Con nhỏ vẫn quắt quay chờ đợi Sử về, chờ đợi một lá thư. Hết Tết, ra Tết, cao nguyên mất, đồng bằng mất, phần đất còn lại phía bên này vĩ tuyến mất, Sử hoàn toàn biệt vô âm tín như cuộc đời đã không hề có người nào mang cái tên như thế, có mối quan hệ thắm thiết với bạn tôi như thế. Tôi lấy hết can đảm rủ con nhỏ đến nhà má Sử. Tiên cười buồn, kể ngay hôm đầu tiên, thấy cờ xí, biểu ngữ giăng khắp nơi trong thành phố, nghe loa phóng thanh kêu gọi lính đầu hàng, nộp vũ khí, con nhỏ đã chạy xuống nhà Sử. Nhà Sử vắng tanh. Hai bên hàng xóm cũng không còn mấy ai. Hỏi, mọi người còn lại, hầu hết đều dè chừng một câu trả lời, ngại ngùng một ánh mắt. Thủy Tiên bảo, nó đã đứng lặng lẽ, dưới hàng hiên nhà Sử, chết điếng nhìn ra ngoài bãi cát loáng nắng đến lúc hai mắt nhức nhối, buốt đau, mới ra về.

    Nghe, tôi ngẩn ngơ. Nhưng rồi tôi vẫn cứ rủ con nhỏ đi lại lần nữa. Hai đứa đèo nhau dưới cơn nắng không còn nhạt như hồi tháng Chạp mà khô hạn, gắt gay trải trên con đường đầy cát lún hai bên. Nhà Sử xa hun hút. Ðường đi vắng tanh. Những hơi thở dài của Thủy Tiên sau lưng tôi, thỉnh thoảng vang lên, buồn áo não. Tôi cố gắng hỏi dò chừng con nhỏ đôi câu. “Mi định đi học lại không Tiên?” Con nhỏ chặc lưỡi. “Ði chớ!” Tôi dõi mắt nhìn lên những bông phượng bắt đầu hoe đỏ. Lại một câu dò dẫm. “Biết sống có nổi không Tiên hè?”. Giọng Thủy Tiên vẫn ráo hoảnh như thường lệ. “Răng không!”. Tôi im. Con nhỏ coi bộ tỉnh quá. Không biết nó đang nghĩ ngợi gì, dự định gì. Tôi gò lưng nhấn pedale mạnh hơn. Thủy Tiên bảo đạp chậm chậm lại. Tôi hoang mang chẳng hiểu tại sao. Mãi đến lúc sắp tới nhà Sử, con nhỏ mới hạ thấp giọng:

    – Mi đạp xe chậm, đường dài, hy vọng tau còn dài. Ðạp nhanh, hy vọng tau tan nhanh.

    Tôi đớ lưỡi. Con nhỏ im một hồi rồi than con nhỏ Ðông Ba vô duyên. “Gặp tau mà hắn cứ hát ‘Nếu vắng anh ai dìu em đi chơi trong chiều lộng gió. Nếu vắng anh ai đợi chờ em khi sương mờ nẻo phố. Nếu vắng anh ai đón em khi tan trường về…’ Buồn thúi ruột nên tau không muốn chửi. Cái con, ăn nói chi dị kỳ…”. Tôi không biết nói sao, đành chép miệng thở ra. Lũ chúng tôi, cỡ tuổi Thủy Tiên, nhiều đứa còn hời hợt, non nớt như cây con mới ươm, chẳng biết tế nhị là gì. Tiểu Muội, Ðông Ba, nước mất, còn chưa biết mình sắp khổ, làm sao mà hiểu thấu nổi những thành sầu của Thủy Tiên.

    Tin tức về Sử, mỗi ngày mỗi biền biệt. Trở đi, trở lại hoài xóm biển, gặng đi gặng lại nhiều lần, hàng xóm mới cho biết má Sử đã rời khỏi thị xã vào những hôm cuối tháng như nhiều người quanh đó, nhưng không còn thấy trở lại. Căn nhà đóng cửa im lìm. Dưới hàng hiên chỉ có tàn hoa giấy màu đỏ úa, cằn cỗi. Ðằng trước mặt nhà không một bóng cây, không dáng người qua lại. Chơ vơ trên bãi cát, thỉnh thoảng ló lên dăm ba cọng cỏ khô, vài miếng giấy, miếng nylon xơ nát, bay phật phờ. Cái khung cảnh, người không buồn, cũng ảm đạm tê tái làm tôi không dám nhìn thẳng vào mặt Thủy Tiên.

    Mọi cánh cửa hy vọng tàn nhẫn đóng chặt. Mọi ngõ ngách khép kín, không chừa cho bạn tôi một mép phao để với tay, sống sót. Thủy Tiên nói Sử không có nhiều bà con ở thành phố này. Mà nếu có, chắc con nhỏ cũng không sao lùng ra được một cái địa chỉ, tìm được một hồi âm.

    Như vậy đó, nhưng thỉnh thoảng nổi cơn điên, hai đứa lại è cổ chở nhau trở lại xóm biển, ngơ ngác đi từ đầu bãi cho đến cuối bãi rồi đèo nhau về. Dần dà về sau, cũng có người quen mặt, chưa kịp lang thang, hai đứa đã biết chẳng có tin tức gì của Sử. Mãi cho đến lúc bảng niêm phong trước cửa nhà Sử bị tháo xuống và có người dọn đến ở, chúng tôi mới thôi. Tuy nhiên, lần đó là lần đầu tiên, tôi thấy Thủy Tiên bật khóc trước mặt mình. Lần đầu tiên nỗi bi thảm mới phơi bày trên gương mặt bạn tôi một cách rõ ràng.

    Tội nghiệp. Con nhỏ đã giật tay tôi, kêu lên ai oán, chao ơi, Nhàn ơi, người chi mà lạ hoắc lạ huơ. Những con người với kiểu cách ăn mặc, kiểu cách chưng bày, cờ mặt trận trước cửa, hình lãnh tụ giữa nhà, dăm ba luống lang, vài ba thân sắn mới trồng còn rũ rượi lá trên khoảnh đất nhỏ xíu hai bên hông nhà. Chúng tôi như hụt chân, chới với giữa biển bao la và trời xanh cao rộng. Giữa bơ vơ và giữa đơn lẻ lạnh lùng.

    Chúng tôi về. Thủy Tiên đầu hàng. Tuyệt vọng đầu hàng. Tôi xoay qua nài nỉ con nhỏ đi với tôi đến nhà những người thân của bạn bè Sử, nhưng con nhỏ lắc đầu. Một cách dại dột, tôi một thân một mình sục sạo tin tức Sử ở nhiều nơi trong thành phố. Cuối cùng, tôi tìm ra vài ba thân nhân của bạn bè đồng khóa với Sử. Nhưng rất ít trong số những người ấy may mắn biết con em mình ở đâu. Phần lớn đều hoàn toàn mù tịt. Và đồng thời cũng có nhiều người, bán tín bán nghi tôi, không hề mở miệng.

    Tôi ôm mớ tin dở khóc dở cười ấy về kể lể với Thủy Tiên. Con nhỏ thở dài. Tôi hùng hổ bảo biết đâu Sử đang ở một trại tập trung, một trại cải tạo nào đó, ngoài Trung, ngoài Bắc, Rừng Lá, Vĩnh Phú, Cà Mau, Năm Căn…

    Hè năm 76, Thủy Tiên rủ tôi đi Kontum. Cầy cục xin mãi trong nhiều ngày, ba má tôi mới đồng ý, nhưng cuối cùng, vào cái thời buổi cả nước đều được… tại ngoại hầu tra, không cách gì kiếm ra nổi cái giấy phép đi đường, tôi đành phải để con nhỏ đi một mình. Lúc nó về, tôi mới biết con nhỏ cũng chẳng được ai cho phép rời thị xã. Thủy Tiên kể cho tôi nghe nó đã chui nhủi giữa những bao tải, ngồi lê lết trên sàn xe, lội bộ giữa trưa đứng bóng khi xe vượt qua trạm kiểm soát, mất đến hơn hai ngày đường mới lên được Kontum… Con nhỏ đi liều, con nhỏ trở về, mang theo tin trắng. Chẳng hề có bất cứ tăm hơi nào của Sử. Cũng chẳng có cách gì tìm ra một người quen nào của Sử ở nơi ấy.

    Thủy Tiên vất vơ vất vưởng đi tìm Sử rồi về đi học lại với tôi. Bề ngoài trông con nhỏ vẫn không mấy thay đổi, nhưng nó bắt đầu thay câu nói ngày trước, tau lấy chồng cho mi coi, bằng tiếng thở dài, không tìm ra Sử, tau ở giá cho mi coi! Vào thuở nghe hai tiếng lấy chồng như nghe chuyện huyền thoại, chuyện cổ tích, vừa mơ hồ, vừa kỳ cục, tôi nửa cường điệu hóa mối tình của con nhỏ, nửa kia lại chểnh mảng để ngoài tai. Vả lại, trông con nhỏ bề ngoài cũng vẫn vậy, con trai vẫn đeo theo nó như cái đuôi. 

    Vẫn có đứa trồng cây si, có đứa nhờ tôi đưa thư, nhắn nhe đủ điều. Và con nhỏ vẫn phì cười mỗi bận đọc được một bức thư nhuốm mùi cải lương, hay mở một gói quà mang ý nghĩa trăm năm từ những anh chàng vẫn chờn vờn, sống hư ảo trên mây ấy. Hay lâu lâu, con nhỏ lại hỏi thăm ông anh họ “tháng Chạp” của tôi, và dọa sẽ tán tỉnh tới nơi tới chốn. Con nhỏ, nói chung, hết sức bình thường. Tôi kể cho nó nghe thời mới mất nước, tôi đã sợ nó sẽ phát điên hay sẽ tự tử. Thủy Tiên chép miệng:

    – Trần Khắc Chung hộ giá người yêu đi lấy chồng còn chưa phát điên huống chi tau. Chỉ có điều đi tìm Sử giữa thời buổi ni khó quá. Tau lại không có tiền.

    Không có tiền, con nhỏ tháo sợi dây chuyền nhờ tôi bán, rồi lại mon men đi Nha Trang khi nghe có người gặp Sử ở trại A 30. Về, xụi lơ, con nhỏ than, không đủ cánh để xoải bay tìm Sử cùng trời cuối đất. Tôi “sưu tập” một lô danh sách trại cải tạo, gặp bất cứ người thân, quen hay sơ giao nào ở tù ra, cũng đều thử nhắc đến cái tên người yêu của bạn tôi, tự nhận Sử là anh họ, là bà con, để xem may ra có ai biết hay chăng.

    o O o

    Ở vào cái khoảng đời mà mọi ngõ ngách hướng về tương lai đều bị đóng kín, giam hãm, tù đày, cuộc truy tìm của Thủy Tiên lẫn tôi, về người con trai có thời từng là người yêu của Tiên càng trở nên vô vọng. Mỗi ngày mỗi xa lạc, mỗi mất dấu. Bỗng một chiều cuối năm nào đó, sau mười mấy năm lơ ngơ láo ngáo giữa chợ đời, thực hiện cái câu “tau ở giá” một cách kỳ quặc, khó tin, Thủy Tiên chạy lại nhà tôi, bảo nó đã đầu hàng số phận rồi. Tôi cứ tưởng con nhỏ vừa có được người yêu mới, vội vã đem khoe như người ta khoe áo mới. Ðang định buông một câu đùa cà trớt, nhìn lại, thấy hai mắt con nhỏ đỏ hoe, tôi giật mình. Thủy Tiên cười như mếu:

    – Biết không Nhàn, Sử ra nước ngoài rồi! Ra nước ngoài rồi nghe mi!

    Tôi há hốc mồm ngó con nhỏ. Tiên gieo mình xuống ghế, nhắc lại câu nói Sử đã ra nước ngoài và kêu lên:

    – Chịu. Tau chịu. Nhàn ơi! Tau đầu hàng. Không phương cách chi cứu gỡ. Không biết đường lối mô mà đi tìm.

    Rồi con nhỏ kể cho tôi nghe nó vừa gặp bạn Sử ngoài phố. Bạn cùng đơn vị, bạn cùng trại học tập cải tạo. Và một câu chuyện y như truyện, y như tiểu thuyết được nhắc tới. Sử bị bắt làm tù binh trước tháng Tư năm 75. Bị nhốt ở một căn cứ nào đó gần chiến khu D cũ. Mất nước, bị đẩy về học tập ở trại cải tạo K3. Vì ở gần núi, núi Gia Rây, Sử tìm đường trốn trại. Thoát, Sử vượt biên, cuối cùng định cư. Ở đâu đó bên Mỹ.

    Chuyện thời tao loạn, nghe đi nghe lại, thấy gần như giống hệt nhau. Tôi tự hỏi lòng không biết có nên tin hay nên ngờ. Không biết có nên trách Sử tệ bạc, hay trách con nhỏ bạn thân mình dại dột, u mê. Tôi gặng hỏi lại Thủy Tiên có xin được địa chỉ của Sử không. Con nhỏ lắc đầu. Cái lắc đầu làm rụng hạt nước mắt của con nhỏ. Nghẹn ngào chảy dài xuống hai bên má, rồi rơi đọng lại trên lưng hai bàn tay đang níu chặt vào nhau trong lòng. Gương mặt con nhỏ, lần đầu tiên nhìn lại thật kỹ, thật gần, tôi bỗng giật mình bởi những nếp nhăn bên khóe mắt, những đường môi khô khan đã bắt đầu xuất hiện. Tôi hoảng hốt kêu lên những tiếng không rõ, rồi đứng dậy kéo tay con nhỏ chạy ra ngoài. Vừa chạy tôi vừa la:

    – Từ đây là không có Sử sách chi hết. Không có tìm kiếm, chờ đợi chi hết. Hắn đi rồi là coi như xong. Coi như hết. Coi như chết. Bắt đầu làm lại, làm lại từ đầu với tau.

    Và tôi lại la lên, tôi sẽ dẫn con nhỏ đi chợ Tết sắm áo sắm quần, sắm nữ trang. “Tau bao mi tháng lương Tết của tau. Mắc mớ chi mà rầu chớ. Hắn thoát được rồi mà không liên lạc, không đoái hoài chi tới mi hết thì coi như đồ bỏ. Bỏ hết. Làm lại. Làm lại từ đầu”. Tôi nói, tôi la lên như người điên. Níu con nhỏ bắt ngồi lên yên sau, tôi ào ào phóng xe ra phố. Tới nơi, đẩy nó xuống xe. Tìm chỗ cất giữ, và rồi lại nắm tay nó kéo lôi đi. Băng băng qua đường, băng băng qua hàng, qua quán. Tháng Chạp Sài Gòn vào những năm cuối thập niên 80, đường phố không nhiều xe cộ, người mua sắm bon chen cũng không đông đảo gì mấy, nhưng vẫn đầy bụi, ồn ào vẫn nguyên dạng như bao giờ. Vẫn lầy lụa những con đường quánh bùn, vẫn nắng cháy gắt đổ xuống khu chợ hoa Nguyễn Huệ, vẫn nồng sặc mùi mồ hôi vai áo người, và vẫn cướp giật, móc túi đó đây…

    Tôi đi, Thủy Tiên đi. Tôi dừng lại, Thủy Tiên dừng theo. Như cái bóng. Tôi mua tôi sắm, tôi trả giá, tôi kỳ kèo. Con nhỏ bạn thân của tôi càng như bóng, không hề rớt mắt trên bất cứ thứ gì. Cũng chẳng hề nói một câu, một chữ. Y hệt con nhỏ của mười mấy năm trước, ngây dại đứng nhìn bè bạn xôn xao, nhìn xấp áo trắng Tiểu Muội cầm trên tay. Tự dưng đột ngột trong tôi bỗng hình thành một cái ý nghĩ rất kỳ quặc, rất tàn nhẫn, rằng phải chi hồi ấy Sử chết trận, phải chi hồi ấy Sử hy sinh...

    Nhưng rồi tôi rùng mình. Tôi hoảng hốt giật khẽ tay con nhỏ:

    – Mua cái chi đi chớ, Thủy Tiên!

    Thủy Tiên làm thinh. Tôi nhắc lại. Con nhỏ bật cười. Tiếng cười vô hồn vỡ ra nghe lạ lẫm vô cùng:

    – Nì, cái ông anh họ của mi mới vô duyên dễ sợ nghe Nhàn. Tự nhiên rặn ra câu thơ, “ta đợi ngàn năm tháng Chạp tàn”, làm tháng Chạp khi không tàn mất rồi, thấy chưa…

    Hoàng Nga

Chuyện Ông Tiên Chùa Bổ Đà
  • Thời tiết đã vào giữa mùa xuân. Sau khi lễ lạc, hội xuân, thăm viếng chùa của thập phương đã vãn, sư trụ trì Chùa Chùa Bổ Đà và tăng chúng mới có những giờ phút thảnh thơi. Chùa Bổ Đà hay Bổ Đà Sơn Quán Âm Sơn Tự tọa lạc dưới chân núi Phượng Hoàng, là một trong những ngôi chùa cổ nhất tại Phủ Lạng Thương tức Bắc Giang ngày nay. Chùa xây dựng từ thời nhà Lý, được trùng tu dưới triều vua Lê Dụ Tông, tức hơn ngàn năm, còn tồn tại tới ngày nay.

     Trong lúc sư trụ trì đang ngồi thung dung bên tách trà, tra cứu kinh điển thì tri khách vào bẩm báo có một thí chủ già lắm muốn diện kiến trụ trì. Là một thiền sư tu theo thiền phái Lâm Tế nhưng sư rất bình dị, không bỏ lỡ cơ hội nào để tiếp khách, nhân đó tìm hiểu cuộc sống của Phật tử mà giảng pháp độ sanh cho nên ra hiệu cho mời khách vào.

    Khi khách bước vào, sư không khỏi ngạc nhiên khi thấy người đứng trước mặt là một vị dường như từ cõi khác hiện về. Nghi biểu và cách ăn mặc của khách giống như một vị tiên trăm năm với mái tóc bạc phơ, ba chòm râu uy nghi mà thanh thoát. Sư mau mắn mời khách ngồi rồi cẩn thận rót một chung trà. Khi khách đã an tọa, sư lên tiếng:

    -Ngài dường như không phải là cư dân của vùng này. Xin mạn phép hỏi quý danh và cơ duyên gì khiến ngài lại tới thăm ngôi chùa đơn sơ như thế này?

    Khách vuốt chòm râu bạc, nhấp một ngụm trà rồi nói:

    -Cơ duyên dẫn tôi tới đây là một chuyện thật ly kỳ. Tôi đến đây không phải để vãn cảnh chùa mà để xin thầy giúp cho về một khúc mắc mà tôi không sao giải quyết được. Liệu thầy có sẵn lòng từ bi để nghe một câu chuyện kéo dài cả ngàn năm không?

    Nghe khách nói thế, ngoài tâm lượng từ bi, sư vô cùng ngạc nhiên là tại sao lại có chuyện kéo dài cả ngàn năm? Phải chăng đây là chuyện thần bí, mộng mị, hoang đường? Óc tò mò nảy sinh, sư đáp:

    -A Di Đà Phật! Xin ngài cứ nói. Cửa chùa rộng mở không từ chối bất cứ ai cả.

    Nghe sư nói thế, khách khẽ thở dài, rồi nói với giọng vô cùng thanh thoát nhẹ như tiếng hạc trên không:

    -Tôi tên Đào Quân.  Cách đây gần nghìn năm, lúc đó tôi 27 tuổi, vốn là một nho sinh ở Kinh Thành. Năm đó đức vua Lý Thánh Tông cho mở khoa thi đầu tiên để tuyển nhân tài ra giúp nước và tôi may mắn chiếm ngay bảng tiến sĩ và được bổ nhiệm tri phủ Lạng Thương. Tính tình tôi vốn phóng khoáng, chỉ muốn làm bạn với khách văn chương, ngao du sơn thủy, không muốn chen chân vào chốn quan trường. Sở dĩ tôi nhận ra làm quan cũng là để trả nợ bút nghiên và đền đáp công ơn thầy và phụ mẫu. Năm đó, nhân mùa xuân khí trời ấm áp, sư cụ chùa đây cho phép mở hội ngay tại khuôn viên nhà chùa.  Đó cũng là dịp để Phật tử gần xa vãn cảnh và vui chơi.

     Với tư cách quan tri phủ, tôi cũng ghé qua để tìm hiểu dân tình và đàm đạo cùng sự cụ. Căn hậu liêu này và chiếc bàn ghế cũ kỹ mà thầy đang ngồi đây cũng là nơi mà sư cụ tiếp tôi  ngàn năm trước. Mải mê đàm đạo, hoàng hôn đến lúc nào không hay. Tôi vội vã từ biệt sư cụ, bước ra ngoài.

    Giờ này hội xuân đã tan, khuôn viên chùa vắng vẻ. Bước tới cội đào là nơi buộc ngựa. Tôi vô cùng ngạc nhiên là ngay dưới gốc đào, một cô gái đang ôm mặt khóc. Qua lối phục sức, cô gái mang dáng vẻ của con nhà khuê các, phong thái đẹp thanh thoát lạ thường. Tôi ngạc nhiên hỏi:

    -Tại sao cô lại khóc ở đây?

    Cô gái lau nước mắt nói:

    -Thưa người quân tử. Em vốn là con của một trang chủ ở cách đây một con sông. Thấy chùa mở hội xuân, em trốn nhà đi chơi. Mải vui chơi em làm rớt mất cái túi cho nên không còn tiền thuê người cáng và tiền qua đò. Xin quân tử rủ lòng thương giúp em qua đêm, em nguyện sẽ đền ơn.

    Nghe cô gái nói thế. Nhìn vóc dáng, trang phục và cách ăn nói, tôi không nghĩ cô thuộc loại gái làng chơi, ca kỹ tìm cách mồi chài, lường gạt. Đối với tôi, một vị quan tri phủ của vùng này thì kẻ nào dám lường gạt, cho nên tôi thương tình nói:

    -Giờ này cũng đã xế chiều. Nếu cô không ngại thì ngồi trên lưng ngựa, tôi sẽ đưa cô về nhà, ngày mai tính.

    Nghe nói thế, cô gái nhanh nhẹn leo lên mình ngựa, tự nhiên ôm lấy lưng tôi và hai người phóng đi. Khi về tới nhà, tôi để cô gái ngủ ở phòng bên cạnh công đường. Đêm hôm đó tôi không sao chợp mắt được. Tôi thật sự rung động trước sắc đẹp và phong thái của nàng. Phải chăng đây là duyên kỳ ngộ? Hơn thế nữa tuổi tôi cũng đã lớn, phụ mẫu cũng thúc giục phải yên bề gia thất. Tôi định bụng sáng dậy tôi sẽ hỏi thêm về gia thế của nàng và tìm tới cầu hôn. Trong cuộc đời này, lấy được một cô gái đẹp như tiên nga  như thế này thì hạnh phúc nào cho bằng. Nhưng sáng hôm sau, trong lúc ăn sáng, cô gái mỉm cười, vẻ tinh nghịch, nói:

    -Chắc người quân tử ngạc nhiên lắm hả? Thú thực, em đây không phải là người phàm mà là tiên của Cõi Bồng Lai. Em dàn dựng câu chuyện mất tiền như vậy để có cơ hội gần người quân tử. Được biết người quân tử văn chương lỗi lạc, tâm hồn thanh cao. thoát tục cho nên Tiên Ông sai em xuống trần để mời người quân tử, nếu thích thì ghé chơi cho biết.

    -Nghe nàng nói thế tôi gần như choáng váng, lòng tiếc nuối vô cùng. Dĩ nhiên tôi không thể tìm cách kéo nàng ở lại được. Tuy nhiên tôi chợt bừng tỉnh, giữa mất nàng và cõi tiên thì nên lựa chọn cái nào? Bạch thầy, lúc bấy giờ tôi nghĩ rằng Cõi Tiên là cõi mơ ước của con người, dễ mấy ai  diễm phúc được lên đó, cho nên tôi nhận lời. Thấy tôi đồng ý, cô gái nắm lấy tay tôi rồi như một thần lực, hai người bay bổng lên không trung và lao vút đi như hai cánh chim. Tôi sợ hãi nhắm nghiền đôi mắt cho đến khi mở mắt ra thì thấy mình đang đứng ở một nơi đúng là nước nhược non bồng, cảnh trí đẹp lạ thường. Khi vừa mới hoàn hồn, thì từ trong lầu vàng, một tiên ông bước ra, vái chào tôi rồi nói:

    -Chốn Bồng Lai hân hoan đón chào một tân khách.

    Tôi vội vàng đáp lễ và vẫn còn ngạc nhiên đứng chờ. Rất tự nhiên, tiên ông nắm lấy tay tôi và hai người tiến vào một căn lầu mà nơi đây đã có vài vị tiên ngồi ở đó cùng với một số tiên nữ đứng hầu. Tất cả các vị tiên đều đứng lên vái chào tôi và cùng nói, “Vạn hạnh! Vạn hạnh!”

    Sau khi chủ khách đã an tọa. Vị chủ tiên đứng dậy nói:

    -Quý nhân đây là một văn nhân, một vị quan lỗi lạc và tâm hồn thanh cao khác thường ở dưới trần gian. Tôi có cho cô Giáng Tiên mời quý nhân lên đây chơi cho biết.

    Rồi quay qua tôi, vị chủ tiên nói:

    -Nếu quý nhân thích thú với nơi này thì ở chơi ít ngày. Cõi Bồng Lai này thiết lập cách đây hơn mười ngàn năm. Tùy theo mức tu hành và giới hạnh, mỗi người sẽ có một tuổi thọ nhất định. Tất các các vị đây đều có tuổi thọ năm nghìn năm. Còn như quý nhân là vì mới nhập nếu ở lại tuổi thọ sẽ là một nghìn năm.

    Kể lể tới đây, Đào Quân nói như trút cả tấm lòng:

    -Thầy thấy đó, ở chốn trần gian này, sống được bảy mươi năm đã là hy hữu. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó nếu làm quan thì - được lòng dân thì mất lòng vua, được lòng vua thì mất lòng dân. Rồi thì trăm quan ở triều đình dòm ngó. Rồi khi lấy vợ lấy chồng bao trách nhiệm, bao phiền toái. Cuộc đời tưởng là được nhưng cuối cùng chẳng được gì cả. Tỉnh dậy như giấc mộng hoàng lương. Nếu ở lại đây tuổi thọ sẽ là ngàn năm, chẳng lo lắng gì cả thì so với trần thế đúng là chỗ mong cầu khao khát của con người. Nghĩ như thế cho nên tôi quyết định ở lại.

    Thưa thầy, cõi tiên là cõi khác với cõi người. Ở đây chẳng phải lo lắng tới cái ăn, cái mặc. Ngày ngày tiêu dao, dạo chơi núi non hùng vĩ, nghe đủ loài chim quý tấu lên những khúc nhạc, bầy tiên nữ ca múa điệu Nghê Thường trong đó có cả Giáng Tiên, tiếng đàn, tiếng sáo, tiếng vi vu của gió thổi qua những hàng tùng, hàng bách, hàng thông reo làm tâm hồn người lâng lâng. Rồi thì “Khi chén rượu, khi cuộc cờ. Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên”. Rồi cùng với những vị tiên khác bàn luận thế sự. Thế nhưng thầy ơi!

    Đào Quân dừng lại một chút để nén xúc động rồi kể tiếp:

    -Một ngàn năm tuổi thọ đối với loài người tưởng chừng như vô tận. Thế nhưng chìm đắm trong giấc mơ vô tận đó, thời gian nó lặng lẽ qua đi như một mũi tên. Một trăm năm, hai trăm năm, năm trăm năm và chín trăm năm chợt đến giống như một chớp mắt. Trong phút giây tỉnh mộng, tính số thời gian ở cõi tiên, tôi chợt giật mình khi biết rằng chỉ còn năm năm nữa là mạng số hết và tôi sẽ chết như phàm nhân ở thế gian này. Chính đó là nguyên do tôi tới đây gặp thầy và mong thầy giúp tôi giải tỏa được mối lo ấy. Liệu pháp Phật có giúp tôi được gì không?

    Nghe câu chuyện thật lạ lùng, khẽ nhắm đôi mắt, hít vào thật sâu rồi thở ra thật nhẹ nhàng, sư nói:

    -Xin mời ngài cùng tôi lên chánh điện.

    Khi tới chánh điện, sư bảo Đào Quân cứ ngồi yên và sư đem Tâm Kinh Bát Nhã ra tụng. Tụng xong sư nói:

    -Pháp Phật khác với pháp Tiên. Pháp Tiên coi con người hay cái ngã thật có và tìm cách tu luyện để trường thọ hầu an hưởng cuộc sống. Còn pháp Phật không coi con người hay cái ngã thật có. Con người của ngài và tôi đây do Ngũ Uẩn giả hợp mà thành. Sở dĩ chúng ta có ảo tưởng rằng “Cái tôi có thật” là vì có cảnh ở chung quanh. Nếu cảnh không có thì cái tôi không có. Khi cái tôi không có thì không có sinh nên không có diệt tức không có cái gọi là Sinh-Già-Bệnh-Chết. Đó là lời Phật dạy trong Bát Nhã Tâm Kinh mà ngài vừa nghe. Nó là thần chú kỳ diệu giúp chúng ta ra khỏi sinh tử luân hồi. Dù có lên tới cõi Tiên với tuổi thọ vài ngàn năm, dù ở cõi Trời với tuổi thọ vài triệu năm thì vẫn có lúc phải hoại diệt đó là Luật Vô Thường. Ngài muốn giải tỏa được khúc mắc đó thì phải liễu ngộ được được lý Vô Thường. Nhưng liễu ngộ rồi vẫn phải tu thiền định để tâm an trụ và không còn luyến mến tất cả những gì chung quanh. Và khi tạm gọi là “chết” thì chỉ là lìa bỏ xác thân giả tạm này chứ thần thức thì không hoại diệt. Nếu có duyên thì vãng sinh lên cõi Tịnh Độ. Nếu cao hơn sẽ đắc quả A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát và vĩnh viễn không còn rớt vào vòng sinh tử luân hồi nữa.

    Nghe sư nói thế, là người trí tuệ linh mẫn, Đào Quân ngộ ra ngay, quyết không trở về Bồng Lai Tiên Cảnh nữa và xin sư cho lưu trú tại chùa để xuất gia và tu tập thiền định. Và sư trụ trì đồng ý.

    Sau đó sư cấp cho Đào Quân một căn lều nhỏ ở phía sau. Ngày chỉ ăn một bữa, không tiếp xúc với ai và chuyên tu thiền định.

    Vì sư giữ kín chuyện này cho nên không ai biết rằng có một vị tiên năm nay tuổi đã gần ngàn năm, xuất gia và tu tập thiền định tại chùa. Họ chỉ tưởng đó là một bô lão bán thế xuất gia để an hưởng tuổi già mà thôi.

    Năm năm sau, Đào Quân viên tịch và nhục thân được hỏa táng, tro cốt được trụ trì để trong một tháp nhỏ trong khuôn viên. Đó là một giai thoại thật lạ lùng khi một tiên ông từ bỏ cõi tiên, vào chùa tu hành theo Phật để mong thoát khỏi sinh tử luân hồi.

    Người kể Đào Văn Bình

    (California Tháng Bảy, 2025)

     

     Bạn Thật Bạn Ảo Bạn Thân Bạn Quen


    • Atimeforfriends.jpg



      Đây là bài số bảy trăm bảy mươi hai (772) của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ ORTB

      Trong cuộc sống, chúng ta có rất nhiều người quen, nhưng bạn thì rất ít. Có sự khác nhau giữa bạn và người quen.

      Người quen là người mà ta biết tên, ta gặp gỡ hàng ngày, có vài điểm tương đồng với ta và ta cảm thấy thoải mái khi trò chuyện với họ.

      Nhưng họ là người mà ta không thể chia sẻ cuộc sống của mình, đôi khi ta không thể hiểu được cuộc sống của họ, bởi vì ta chưa hiểu về họ.

      Còn bạn thân là người mà ta yêu quý, luôn nghĩ về họ. Bạn thân là người mà ta cảm thấy an toàn khi ở bên cạnh họ, vì họ luôn biết quan tâm, chăm sóc ta. Khi ta có niềm vui hay nỗi buồn, thì bạn là người mà ta muốn chia sẻ.

      Bạn là người mà không bao giờ cười vào nỗi đau của ta. Nếu bạn làm ta đau khổ, họ sẽ cố gắng tìm mọi cách để làm lành vết thương đó.

      Bạn là người kéo ta ra khỏi những lỗi lầm và giúp ta trở thành người tốt. Là người luôn nắm chặt bàn tay ta, luôn theo dõi từng bước đi củ ta.

      Trong cuộc sống, chúng ta có rất nhiều người quen, nhưng bạn thì rất ít. Vì vậy, hãy cố gắng tìm ra những người bạn thực sự tốt với mình.

      (Nguồn: Sưu tầm trong website mực tím.com)

       

      Trong cuộc sống thường nhật, chúng ta thường nghe nói đến bạn đạo, bạn tri âm, bạn tri kỷ, bạn sơ giao, bạn cố tri, bạn vàng, bạn đời, bạn đường, bạn lòng, bạn trăm năm, bạn vàng, bạn nối khố, bạn chiến đấu, bạn lý tưởng, bạn văn nghệ, bạn thơ văn, bạn đọc  v..v..

       Khi bạn cần một người để sưởi ấm trái tim tình cảm của mình, bạn thích “tìm bạn bốn phương” qua sự trung gian của báo chí, của các dịch vụ phụ trách việc kết bạn cho bạn với một lệ phí nho nhỏ.

       Gần đây, nhờ sự phát triển của kỷ thuật điện toán, quý vị nào thích dạo trên mạng lưới toàn cầu để tìm bạn để đấu hót, để học hỏi, để chia sẻ tâm tình thì  bạn sẽ có thêm những người “bạn ảo”  trong cõi ảo  “internet” mịt mù nữa. Bây giờ có nhiều người tham gia vào mạng lưới xã hội Facebook, Tik Tok, Instagram …. để kết thêm bạn, đa số là những người trẻ.  Riêng người viết, thật là “nhà quê” vì không tham gia vào các mạng lưới này.  Tôi vẫn còn e ngại sẽ vướng bận thêm những điều phiền toái khác, mặc dầu đã được mời gọi tham gia nhiều lần.  Người xưa thường bảo “lắm đa mang, nhiều phiền não” là thế.  Chúng ta bớt được chuyện nào hay chuyện đó. 

       Theo Thánh Kinh, Thượng Đế khi thấy ông Adam sống cô độc một mình buồn quá nên Ngài bèn lấy cái xương sườn của ông Adam mà tạo ra bà Eva để ông Adam có bạn chuyện trò cho vui.

       Như vậy, có thể kết luận: Bạn là một thực thể rất cần thiết trong đời sống con người, phải không Bạn?

      Thật tình mà nói, với cái tánh "thích xã giao" của tôi, tôi có rất nhiều bạn thật và bạn ảo.  Đó có thể là bạn đồng môn, bạn văn nghệ, bạn làm việc xã hội, cộng đồng  v....v... Nhưng người bạn

      thân thật mà tôi tin tưởng để tâm tình đếm chưa đầy 5 ngón tay vì không phải ai cũng cảm thông tâm tình của tôi. và chắc bạn cũng thế. Tình bạn kiểu  Bá Nha Tử Kỳ  ngày xưa chắc cũng khó kiếm trong cuộc sống hiện tại.  Bạn đồng ý chứ!

       

      Cách đây mấy ngày, một người bạn ảo văn nghệ đã  chuyển chia sẻ tài liệu “"Khác nhau giữa ...Bạn và Bè". Tôi đọc xong thấy cũng hay hay, xin được chuyển tiếp đến quý bạn hữu nhé. 

       

      Mời bạn đọc cùng tôi. 

       

      Khác nhau giữa ...Bạn và Bè.


      1000036255.jpg


       

      Hai từ "Bạn bè" người đời hay dùng để gọi những người mà chúng ta quen biết. Nhưng tại sao người ta không dùng một chữ bạn thôi, mà lại phải dùng thêm chữ bè? Vì trong số những người chúng ta gọi là bạn, chắc chắn phải có một ít người chỉ là bè.

      Vậy bạn và bè khác nhau ở chỗ nào?

      Bạn là để cùng nhau chia sẻ vui buồn. Bè là để vui, để ăn, để nhậu.

      Bạn là để nâng đỡ và động viên nhau trong cuộc sống. Bè sẽ quay lưng bỏ đi khi ta gặp khó khăn.

      Bạn sẽ thường xuyên hỏi thăm và quan tâm. Bè chỉ gọi để rủ rê đi chơi, đi quậy phá.

      Bạn không bao giờ xúc phạm, nói xấu hay bán đứng ta. Bè thì khi vui sẽ không sao, nhưng khi buồn sẽ đâm thọc sau lưng ta.

      Bạn sẽ chửi vào mặt ta khi ta sai. Bè sẽ luôn khen ta đúng trong khi ta... sai bét.

      Bạn sẽ không xa mặt, cách lòng. Bè khi đi xa sẽ chẳng còn biết ta là ai nữa.

      Bạn sẽ luôn nhớ đến ta khi họ vinh quang. Bè sẽ cắt đứt liên lạc vì sợ ta nhờ vả.

      Bạn sẽ đứng cạnh ta khi tất cả mọi người quay lưng. Bè sẽ tránh xa khi ta xuống dốc.

      Bạn thì hạt muối chia đôi. Bè thì cục đường... lũm hết!

      Một người BẠN đích thực sẽ có giá trị gấp hơn 1.000 lần BÈ.

       Vì vậy, hãy trân quý BẠN mà buông bớt những BÈ, vì đó là cách duy nhất để bạn không lãng phí thời gian của mình và tránh những phiền não không cần thiết trong cuộc sống!

      ST

       

      ( Nguồn: Email bạn gửi. Cảm ơn mynga b)

       

       

      619553692cb1aa5054c7bea5bbf8815c.jpg

       

       Mèn ơi,  nói chuyện về Bạn thì đã có rất nhiều danh nhân trí giả đã để lại nhiều “lời hay ý đẹp”  liên quan đến hai chữ “Tình Bạn” này.

       

       Danh ngôn Đông Phương đã có những câu như sau:

      “Tứ hải giai huynh đệ”

       Khổng tử

      “Người chê ta mà chê phải là thầy ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, người nịnh hót ta là kẻ hại ta”

       Tuân Tử

      “Có ba hạng bạn hữu ích: Bạn ngay thẳng, bạn thật thà, bạn học vấn uyên thâm”

      Nho Giáo

      “Không phải tất cả những người cười với anh đều là bạn, cũng không phải tất cả những người làm anh bực mình đều là kẻ thù của anh”

      Ngạn ngữ Mông Cổ

      Danh ngôn Tây Phương đã có những câu như sau:

      “Hãy cho biết anh giao du với những ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là người thế nào”

       Cervantes

      “Tôi yêu những gì đã cũ: bạn cố tri, thời gian xa xưa, nếp sống cũ, sách cũ, rượu lâu năm”

      Goldsmith

      “Tình bạn làm niềm vui tăng gấp đôi và nỗi khổ giảm đi một nửa”

      Francis Bacon

      “Cách duy nhất để giữ bạn bè là không bao giờ mắc nợ họ một tì gì và cũng chẳng bao giờ để họ mắc nợ mình một tí gì”.

       Paul De Kock

       

      th.jpg


      Xin chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé.

       

      (Nguồn: tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên mạng lưới internet, qua điện thư bạn gửi-MCTN 772-ORTB 1202-7272025)


      Sương Lam


KHI BIẾT MÌNH SẮP CHẾT…
  •  
    Dr. Richard – 40 tuổi, bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ, triệu phú – đã chia sẻ về cuộc đời mình trước sinh viên năm nhất tại Trường Đại học Y vào ngày 19.01.2012.

    “Chào buổi sáng.
    Giọng tôi hơi yếu, mong mọi người thông cảm.
    Tôi là Richard – một bác sĩ.
    Hôm nay tôi chỉ muốn chia sẻ một chút về cuộc đời mình.
    Tôi rất biết ơn thầy cô đã mời tôi đến đây, vì ngoài các bài học về nha khoa mà các bạn đang học, tôi nghĩ có một số điều khác đáng để lắng nghe.

    Từ nhỏ tôi đã là một “sản phẩm hoàn hảo” của xã hội hiện đại – đúng chuẩn thành công.
    Sinh ra trong cảnh nghèo, nhưng tôi lớn lên trong môi trường truyền thông, nơi người ta định nghĩa hạnh phúc là sự thành công, mà thành công thì lại đồng nghĩa với tiền bạc.

    Tôi đã mang trong mình một khát vọng ganh đua rất lớn.

    Tôi không chỉ là học sinh xuất sắc, mà còn muốn là người giỏi nhất trong mọi lĩnh vực.
    Tôi phải đoạt giải, phải mặc đồng phục đẹp, phải có huy chương – càng nhiều, càng tốt.

    Tôi học Y, và tất nhiên, tôi theo ngành “đắt giá” – phẫu thuật thẩm mỹ.
    Tôi được cấp học bổng sang Singapore, nghiên cứu về điều trị mắt bằng laser.
    Rồi tôi thấy cơ hội thực sự là ở ngành làm đẹp – nên tôi bỏ dở chuyên khoa và mở phòng khám thẩm mỹ riêng.

    Và tôi thành công rực rỡ.

    Tôi kiếm hàng triệu USD trong một năm.
    Phòng khám phát đạt đến mức phải thuê thêm 4 bác sĩ.
    Tôi mở thêm chi nhánh ở Indonesia – phục vụ tầng lớp thượng lưu.

    Thời gian rảnh?
    Tôi tham gia CLB xe thể thao.
    Chạy xe đua xuyên biên giới sang Malaysia bằng chiếc SUV độ hàng trăm nghìn đô.
    Tôi mua Ferrari F430 màu bạc – bạn tôi là chủ ngân hàng thì đi bản màu đỏ.
    Tôi bắt đầu sưu tầm bất động sản.

    Tôi sống giữa tiền bạc, danh tiếng và sắc đẹp.
    Bạn gái tôi từng là hoa hậu hoàn vũ.
    Tôi ăn ở những nhà hàng có đầu bếp Michelin.

    Tôi nghĩ mình đang đứng trên đỉnh của thế giới.

    Cho đến một ngày…

    Khoảng tháng 3 năm ngoái, tôi bắt đầu đau lưng.
    Tôi nghĩ chắc tại ngồi nhiều. Tôi đến bệnh viện nơi bạn tôi làm việc để chụp MRI.
    Bạn tôi nói thẳng: “Có dấu hiệu ung thư di căn ở xương sống.”

    Tôi sững sờ. Tôi không thể tin nổi.
    Hôm trước còn chạy bộ được cơ mà!?

    Hôm sau tôi đi chụp PET scan – kết luận:
    Ung thư phổi giai đoạn cuối (Stage IV).
    Di căn lên não, gan, thận và cột sống.

    Tôi – người tưởng chừng như có tất cả –
    Lúc đó – mới biết mình chẳng còn gì.

    Tôi nhìn phim CT và thấy hàng ngàn nốt nhỏ li ti phủ đầy phổi – gọi là miliary tumor.
    Bác sĩ bảo – ngay cả dùng hóa trị thì tôi cũng chỉ còn 3–4 tháng.

    Tôi suy sụp.
    Tôi nghĩ mình có nhà, có xe, có danh tiếng, có mọi thứ…
    Nhưng không thứ gì cứu được tôi.

    Tôi từng nghĩ tiền sẽ mua được hạnh phúc.
    Giờ đây, tôi hiểu rằng những chiếc Ferrari, nhà lầu hay danh tiếng – không thể nào khiến tôi mỉm cười nổi nữa.

    10 tháng qua – những giây phút hạnh phúc thật sự của tôi – không phải là khi lái siêu xe, không phải khi ký hợp đồng triệu đô. Mà là khi tôi được bạn bè, người thân ôm tôi khóc, ngồi bên tôi cười, nghe tôi chia sẻ, và im lặng cùng tôi vượt qua đau đớn.

    Tôi từng nghĩ mình đang “khoe” thành quả.
    Nhưng bây giờ tôi biết – tôi chỉ đang phô bày bản ngã và lòng kiêu hãnh.

    Tôi từng làm việc ở khoa ung thư khi còn thực tập.
    Tôi gặp bệnh nhân đau đớn, thở oxy từng nhịp.
    Nhưng với tôi lúc ấy – đó chỉ là “công việc”.
    Tôi không thực sự cảm nhận được nỗi đau của họ.

    Giờ đây – khi chính tôi phải hóa trị, khi tôi phải đối mặt với cái chết – tôi mới thực sự hiểu thế nào là “bệnh nhân”.

    Nếu có ai hỏi tôi:
    “Nếu được sống lại, anh có thay đổi điều gì không?”

    Tôi sẽ nói: Có.

    Tôi sẽ quan tâm hơn, biết lắng nghe hơn.
    Tôi sẽ không đánh giá người khác bằng đồng tiền.
    Tôi sẽ làm bác sĩ – đúng nghĩa – để chữa bệnh và xoa dịu nỗi đau.

    Tôi có 2 điều muốn nhắn gửi:

    Thành công và giàu có không sai. Nhưng nếu để những điều đó định nghĩa con người bạn, bạn sẽ không thể chịu nổi khi đánh mất chúng.

    Đừng quên lý do bạn trở thành bác sĩ.
    Bệnh nhân không phải là “nguồn thu”.
    Đừng kê đơn vì lợi nhuận.
    Hãy đối xử với họ như con người – với trái tim biết đồng cảm.

    Tôi đang hóa trị lần thứ 5.
    Nó rất kinh khủng. Tôi không muốn bất kỳ ai phải trải qua những gì tôi đang phải trải qua.

    Tôi không ăn uống được.
    Nhưng tôi vẫn đến thăm các bệnh nhân ung thư khác, vì tôi hiểu được họ.
    Dù đã quá muộn – tôi vẫn muốn làm gì đó có ý nghĩa.

    Các bạn có cả một tương lai tươi sáng.
    Tôi chỉ muốn các bạn nhớ:
    Bệnh nhân là con người thật, đang thật sự đau đớn.
    Không phải chỉ người nghèo mới đau khổ – người giàu có khi còn khổ hơn.
    Một chút thấu cảm của bạn – có thể là ánh sáng trong địa ngục của họ.

    Tôi sắp chết – nhưng tôi cảm thấy… tôi vừa mới bắt đầu sống.
    Những người quan tâm đến tôi lúc này – mới chính là những người tôi trân quý.

    Nếu tôi có thể sống lại – tôi sẽ sống khác.

    Trong một cuốn sách có câu:

    “Tất cả chúng ta đều biết mình sẽ chết. Nhưng chẳng ai thực sự tin điều đó. Nếu tin, chúng ta đã sống khác đi rồi.

    Đừng sống như tôi đã từng.
    Hãy sống như tôi đang sống – dù chỉ còn vài tháng để sống.

    Xin cảm ơn vì đã lắng nghe.
    Nếu có ai muốn hỏi, tôi sẵn sàng chia sẻ thêm.

    -  Bác sĩ Richard qua đời ngày 18.10.2012 -
    Nguồn Myanmar
    st


    image0.jpeg
    --

Có tiếng chim ca
  • Sau khi Anh ấy mất đi, Chị lo dọn dẹp lại tất cả những vật dụng đồ dùng của chồng, xem thứ nào để lại thứ nào bỏ đi.
    Trước đây, không bao giờ chị dám sờ tay động chạm vào những thứ đồ vật ấy, Anh nói: "Đừng xáo trộn thứ tự của anh".
    Chị biết, chồng mình là một người sống nghiêm túc, cẩn thận, đôi lúc trầm mặc và lạnh lùng. Chị yêu quý Anh đến mức làm cho các bà bạn phải ghen tức vì lòng tuyệt đối ấy. Họ ghen tức vì thấy Chị có một người chồng tốt và gương mẫu đến vậy. Giờ đây, sau khi chết, thể xác hình hài của Anh trở thành tro bụi phế thải và vất bỏ, dù có linh hồn hay không có. Chị ngậm ngùi, tuy nhiên chỉ riêng một thứ không bao giờ phế thải vất bỏ, đó là lòng yêu kính ngưỡng mộ của Chị với Anh. Chị cho rằng chính Anh là nguồn sống làm cho đời Chị trở nên có giá trị hơn, tinh thần và vật chất. Khi động chạm vào những kỷ vật của chồng, Chị tưởng như anh đang sống lại. Chiếc iphone của Anh, chiếc máy vi tính cũng còn đó, dù chúng đã bị xóa hết tất cả dữ liệu bên trong. Có lúc Chị muốn nhờ con tái tạo những dòng điện thư giữa chồng và bạn hữu để cảm giác cha vẫn còn sống với mẹ.Nhưng đứa con gạt đi, chết là hết rồi. Chết là hết, như câu nói của người bạn trai cũ, thỉnh thoảng gọi thăm sức khỏe chị, sợ Chị cứ sống mãi với hình bóng xưa, mà quên đi thực tại. Chị không muốn nghĩ như vậy, nhớ Anh trong tâm tưởng, đó là lúc Chị cảm thấy mình không lẻ loi. Chị dọn dẹp một vài thứ, đọc lại vài trang sách, vài bức thư cũ mà anh từng đọc. Một bao thư cũ kỹ gấp nhiều tờ giấy bên trong. Chị ơ hờ mở ra, bức thư của một người đàn bà nào đó gửi cho chồng chị. Rất đỗi ngạc nhiên, bức thư với lời viết quá thân thiết, còn hơn thế nữa, bức thư kể lại đôi điều.
    "Em nhớ anh, em nhớ lần gặp nhau sau này. Em không bao giờ quên được hơi ấm nồng nàn khi anh ôm em. Anh ôm em với cả một thể xác đậm đà yêu thương,anh mời gọi em bằng những cái hôn ngọt ngào, mơn trớn trái tim em để em có thể hiến dâng toàn vẹn ân ái cho anh,cho riêng một mình anh thôi..
    Chị hoa mắt, ngộp thở, và đọc tiếp... Em biết anh không được hạnh phúc với chị ấy, thứ vui thú mà em cho rằng rất cần thiết cho anh, cho mỗi một người đàn ông, điều này anh từng nói với em khi gần gũi nhau. Chị xinh đẹp và sang trọng, nhưng đó chưa phải là điều cho anh thấy mình viên mãn. Đó chỉ là thứ vỏ bọc đắp lên cho xã hội nhìn ngắm. Một người đàn ông như anh có đầy đủ điều kiện để cho người khác quý nể tôn trọng, anh không cần sự bồi đắp của chị. Chị không hiểu được thứ anh đang cần, điều anh đang thiếu. Em là người đem lại thứ ấy cho anh, đó là lời anh đã từng nói thật lòng anh, em nhớ mãi câu nói đó, khi chúng ta trao nhau. Anh không có lỗi gì khi đến với em. Chị vợ anh mới có lỗi. Em chỉ là một người đàn bà giản dị sống thực với đời thực, biết và hiểu người đàn ông mình yêu, thích gì muốn gì. Anh gặp em và em đáp ứng được cái nhu cầu ẩn giấu trong anh chưa bao giờ bộc lộ bên ngoài. Khi gần em, anh là một người đàn ông hoàn toàn tự do không bị ràng buộc bất cứ điều gì, những giây phút ấy thật đáng quý biết bao....."
    Điều làm Chị đau đớn hơn cả, chính vì Anh không còn sống để Chị có thể tra vấn. Chết rồi mà vẫn còn năng lực chém Chị một nhát dao mạnh, cả người chị như ứa máu. Từng dòng máu tươi nồng đang tuôn ra từ trái tim một cơ thể đàn bà yếu đuối. Trái tim ấy đã từng nuôi dưỡng sinh lực yêu thương. Đã từng nghĩ rằng không ai có thể thay thế Anh, trước và sau. Tượng đài ấy nay bỗng dưng đổ ập xuống vỡ vụn từng mảnh nhỏ dưới chân Chị. Cơn ghen giận bùng lên, Chị muốn trả thù. Chị muốn đập tan tành và lôi xác Anh từ nấm mồ chôn, cho dù Anh chỉ còn là bộ xương thối rữa. Quên rằng Chị đã hỏa táng Anh trong lò thiêu xác với nhiệt độ trên 1000 °C. Phạm nhân ấy nay đã chết, trở thành vô tội, dù Chị có là công tố viên, cũng vô ích. Chết là xóa tan một bản án. Chị thẫn thờ nhớ lại mình, không phải người khác. Có lẽ chính Anh đã trở thành người đàn ông khác, rất xa lạ với mình mà mình không hề hay biết. Chị nhớ lại ngày Anh mất trong bệnh viện, Anh im lìm không nói năng chi, chỉ thở ra vài hơi mệt nhọc rồi nhắm mắt. Thế mà trong trí tưởng của Chị, Anh sẽ cầm lấy tay Chị nói như thế này: "Thôi em ở lại, sống với nhau lâu nay, nếu có chi không vừa lòng, em hãy bỏ qua tha thứ cho anh!" Nếu Chị được nghe anh nói như vậy, sẽ bỏ qua hết, dù cho Anh để lại thêm những lá tình thư người khác nữa, hoặc Anh có đứa con rơi con rớt nào đó chưa được khai báo. Anh chẳng nói được một lời giã từ hay đẹp dịu dàng cho em, người ở lại. Phải chăng những lời hay đẹp chỉ có thể nghe qua phim ảnh, hay đọc trong tiểu thuyết, đời thực không hề có. Chị thấy vị chua, vị đắng trào lên cổ họng.

    Vậy mà trong bức thư kia, Anh tỏ ra nồng ấm và dịu dàng biết bao với người không phải là vợ mình. Bỗng Chị nhận ra cái ngu ngơ của mình, vừa ngu lại vừa khoái lãng mạn. Nhớ lại, lúc mới quen nhau, lúc mới hẹn hò thương nhau, Anh từng nói: "Anh thích cái ‘vẻ ngu ngơ’ của em". Lúc đó Chị tưởng thật, đàn ông thường thích cái vẻ ngây thơ không biết chi, cái vẻ ngây thơ trong trắng còn rất toàn vẹn, chưa hề chia xẻ tình ái với ai. Nhưng bây giờ Chị biết rồi. Có người đàn bà khác hiểu chuyện đời hơn Chị, không ngu ngơ mà thu hút đàn ông, biết cách chiếm đoạt một người đàn ông sống nghiêm túc mẫu mực. Nhớ khi Anh còn sống, luôn tỏ ra là một người can trường, can đảm đương đầu với mọi khó khăn để giải quyết nhiều chuyện. Một con người có khả năng lấp biển vá trời nếu như trời có rách toang, một con người luôn tự tin ở chính mình. Tự tin nhưng lại cần sự hỗ trợ của người đàn bà khác trong vấn đề tình ái. Tình dục hay tình yêu? Sợi dây tơ đó đã quấn quýt lấy tâm hồn Anh từ lúc nào? "Từ khi nào anh lừa dối em"? Chị hỏi thầm, nhưng người chết không trả lời. Nếu còn sống, có thể Anh nói: "Không, Anh không lừa dối, nhưng đó là một nhu cầu của tình ái đàn ông, thích chinh phục và chiếm hữu." Phải chăng tình ái là chiếc kính vạn hoa chiếu vào trái tim, óng ánh muôn sắc màu cho lòng người đắm say.
    Rồi Chị lại lẩn thẩn suy xét, nếu Chị không bắt gặp bức thư đó, chẳng biết gì, Anh vẫn là người chồng thủy chung kiếp này cho tới kiếp sau. Nhưng bức thư hiện ra dưới mắt, sự việc bị phơi bày, Anh bỗng dưng biến thành một kẻ lừa dối xấu xa. Tốt hay không tốt, xấu hay không xấu tùy thuộc vào chuyện biết hay không biết điều bí ẩn đó. Thật là huyễn hoặc. Chị nghĩ xa xôi về một điều giản dị thường khi xảy ra, giữa đời sống gia đình chồng vợ vợ chồng. Tuyệt vọng thẫn thờ với một sự thật phũ phàng. Ngày nào Chị cũng ra khỏi nhà, đến công viên ngồi suốt buổi, suốt ngày. Nơi đây Chị thảnh thơi nhìn ngắm trời xanh mây trắng, hít thở không khí trong lành của vườn cây hoa lá. Đám cỏ non xanh mướt mềm mại, tàn lá bóng mát hiền hòa như ôm ấp và xoa dịu tâm hồn. Thiên nhiên luôn sẵn sàng giang đôi cánh tay rộng lớn bao bọc che chở, và hòa giải phiền muộn.
    Trong khu vườn nhỏ, Chị mua nhiều chậu cây đem về nhà chăm sóc từng mỗi sáng mai sớm, từng mỗi chiều xuống thấp. Thật thú vị biết bao, chúng đã trổ từng nhánh hoa với sắc màu tươi thắm cho mỗi bình minh, khi mặt trời vừa chiếu sáng loáng trên dòng sông xanh biếc phía trước. Tím hồng cam đỏ vàng chen lẫn trong đám chồi lá xanh non, rộn ràng như cùng nhau lễ hội. Chị nhận ra mỗi loài hoa có một linh hồn. Chúng có một ngôn ngữ riêng bày tỏ với tấm lòng yêu thương vô hạn thủy chung. Chúng chưa hề làm Chị thất vọng. Mỗi mùa mỗi loại, thay phiên nhau đem tới niềm vui sống từ đất và từ trời bao la. Ươm lên từ đất, lớn lên theo ánh sáng mặt trời, đón lấy tinh túy của vũ trụ mà trao tặng người đời. Và hơn thế nữa, chúng còn lan tỏa hương hoa của mình cho cuộc sống chung quanh, vốn đượm mùi cay đắng. Rồi chen lẫn trong đám lá xanh, rộn ràng vang lên tiếng chim ca hót trên vòm cây cao ngợi khen một ngày mới bắt đầu.
    Chị hân hoan đem về nhà một chú chim màu vàng. Ngày đầu Vàng Anh lo sợ chỗ ở mới, không biết tương lai ra sao, đứng một chỗ quan sát. Ngày hôm sau, khi ánh nắng ban mai chiếu qua cửa, là lúc Vàng Anh cất tiếng hót báo tin bắt đầu một ngày mới. Cả đám hoa ngoài kia đang ngái ngủ, cũng vội vàng thức tỉnh, mở mắt, lay động theo gió, như chào mừng ngày vui với thành viên xinh đẹp líu lo. Từ đó, Vàng Anh luôn ríu rít hót ca mỗi khi Chị tỉnh giấc, và ngủ yên khi Chị tắt đèn chìm vào giấc ngủ say. Đúng là một người bạn thân yêu đồng cảm với  niềm vui nỗi buồn, tuy Vàng Anh không nói được tiếng người, nhưng chừng như nó hiểu Chị. Bởi vì mỗi khi Chị nói chuyện với bạn hữu qua điện thoại, nó cũng ríu rít góp chuyện như một người thứ ba đang có mặt.Vàng Anh là một loài chim thích nghe tiếng người.
                                         
                           140 ideeën over Bird | vogels, witte duiven, vredesduif       
    Mỗi ngày Chị mở lồng chim cho Vàng Anh bay ra khắp phòng để thư giãn đôi cánh, lần đó, quên không đóng cửa sổ. Nó bay sang đậu trên cánh cửa đang mở rộng, Vàng Anh do dự ngập ngừng nhìn quanh quẩn, hình như nó nghĩ ngợi. Chị chăm chú hồi hộp theo dõi, chắc chắn nó sẽ bay ra ngoài bầu trời xanh tự do bên ngoài. Nhưng, nó bỗng dưng bay trở lại cái lồng chim xinh xắn của mình, trèo vào trong và cất tiếng hót. Có lẽ Vàng Anh suy nghĩ đây là nơi chốn an toàn nhất cho đời mình, không lo sợ mưa nắng bão tố hay sấm sét. Chị cảm động lấy ít hạt thức ăn đưa vào lồng, nó sà xuống mổ từng hạt nhỏ trong lòng bàn tay. Chị nhận lấy hơi ấm tỏa ra từ thấm thân nhỏ bé mềm mại, len vào mạch máu trái tim mình. Vàng Anh không bỏ Chị, toàn vẹn thủy chung. Chị muốn bật khóc vì cảm xúc. Cả hai cần có nhau.
    Chị đã tạo ra một thế giới riêng của mình, tự chủ tự tin và an toàn. Đời thực giữa người với người sao huyễn hoặc quá, từ nghi hoặc này tới mơ hồ khác.  Chuông điện thoại reo lên từng hồi, Vàng Anh nghe thấy trước tiên, nhanh chóng gọi Chị đang cho cây Dạ Quỳnh uống nước, "nhanh lên nhanh lên". Chị bắt máy, tiếng người bạn trai cũ, giọng ngọt ngào hỏi thăm sức khỏe, và rồi đề nghị đi du lịch cùng nhau một chuyến về vùng Địa Trung Hải nắng ấm. Chị ngần ngại ậm ừ qua điện thoại. Người ngồi bên kia bờ sông đang chăm chú nhìn chiếc phao chìm xuống là nhấc cần câu lên. Nếu cá đớp mồi, mắc vào lưỡi câu, nó sẽ mãi mãi vĩnh biệt dòng nước trong xanh mát rượi, nó không còn tự do tung tăng bơi lội nhởn nhơ, nó sẽ giẫy chết trong chiếc rọ sắt. Chị nghe Vàng Anh cất tiếng hót, tưởng chừng như có ý nhắn nhủ dặn dò "giải thoát, giải thoát". Chị quay nhìn nó và cúp máy. Chiếc phao vẫn nổi lềnh bềnh trên mặt nước xanh.
    Trần Thị Diệu Tâm
    Tháng Bảy /2022

Ngày người tù binh trở về!
  • Minh trở lại cùng Huế. Minh đứng ở bờ Hữu Ngạn, gọi Huế, gọi dòng sông, gọi những con sáo nội thành in cánh đen trên những nhành phượng vĩ. Dòng sông vẫn hiền lành, nước vẫn xanh lơ,chảy về Kim Long, qua cầu Bạch Hổ, chảy ngược về Vĩ Dạ, khuất dưới những bờ tre xanh. Huế ơi. Giọt nước mưa mùa đông, hay là giọt nước mắt. Minh về, nhìn bóng mình xao động trên mặt nước. Bên kia bờ là Đông Ba, là thành phố, là vỉa hè Trần Hưng Đạo,Phan Bội Châu,là dấu chân chập chùng một thời tuổi trẻ. Mới đó, bây giờ đã 14 năm. Bao nhiêu điều mà anh đã thêu dệt về một quê nhà, trước khi cầm tờ giấy phóng thích, giờ đây trở thành tan vỡ. Hình như Huế đã không còn là của anh nữa. Huế đã thay đổi quá nhanh. Huế hấp tấp, hối hả, tranh giành như đám xe xích lô hay xe đạp thồ đang đón khách đi. Huế ảm đạm, câm nín như cả bầu trời xám, và những người cúi đầu xuống lầm lũi. Huế với những ngôi nhà mới cất như những dinh thự tương phản cùng nỗi nghèo nàn cơcực.
    Anh đã ôm cái bị hành trang, bước đi. Đây là con đường Lê Lợi cũ, sẽ qua chiếc cầu ga, qua trường Bình Minh, qua đại học luật khoa, qua trường Quốc Học, Đồng Khánh...Không, đâu còn cái tên Đồng Khánh nữa. Mà là Trưng Trắc. Trời ơi, 14 năm. Nhắm mắt lại, nhớ gì, anh thử nhìn xem bên trong ngôi trường cũ. Cổng trường được quét vôi lại, những dãy lầu vẫn màu ngói đỏ, vươn lên trong bốn bờ tường sạm rêu. Tự nhiên anh nhớ đến giáo sư Thịnh. Thầy Thịnh. Thầy không biết là hơi thở của thầy có lần do tôi định đoạt. Thầy không hiểu thầy còn sống sót cho đến ngày hôm nay là từ một tích tắc khơi động của lương tâm, và của tình thầy trò. Để cuối cùng, thầy có cơ hội trở thành một kẻ chiến thắng cao ngạo như bây giờ. 
    14 năm. Thời gian quá lâu cho một cấp bậc đại úy. Tại sao anh lại không nằm trong huyệt đất nào lấp vùi như những người xấu số khác. Anh đã chấp nhận mà. Anh chẳng muốn làm anh hùng, cũng chẳng muốn làm một tên tuẫn đạo. Nhưng anh muốn đứng thẳng. Một khi con người đã chấp nhận một định phần oan nghiệt, hắn không còn gì để còn bận tâm lo lắng nữa. Sợ ư? Bất quá là đem hắn ra pháp trường. Anh không vượt ngục, không phạm nội qui. Anh chỉ có một tội là không-nhận-tội mà phe thắng trận đã gán cho anh. Thế thôi. Và cứ thế, từ đêm này qua đêm khác, dưới bóng cây đèn bão, cả “tổ” làm kiểm điểm, phê bình. Phải ăn năn hối cải để mau về đoàn tụ với gia đình. Ăn năn. Anh làm gì để mà ăn năn? Ngay cả một người như ông Thịnh, nổi tiếng trong biến cố năm Mậu Thân mà anh còn tha mạng, thì làm sao anh lại hối cải được. Anh em tù chịu thua. Cán bộ hằn hộc, dọa nạt, răng nghiến kèn kẹt. Anh vẫn còn ngoan cố. Tội của anh, trời không dung, đất không tha. Anh trả lời “cán bộ bắt tôi khai những điều tôi không làm, làm sao tôi lại khai được. Chúng tôi chưa bao giờ bắt một con gà, con heo, chưa bao giờ hãm hiếp, mổ mật, mổ tim cách mạng... Ra trận, nếu chúng tôi không bắn cách mạng thì cách mạng bắn chúng tôi...Đó là luật chiến tranh...” Anh đã nói như vậy, trong khi các anh em tù cùng “tổ” nhìn anh, như thể nói qua ánh mắt. Minh, mày dại mày biết không? Không những mày làm mày khổ mà cả anh em phải khổ vì mày. Mày dại. Ai cũng cùng chung một bản án treo sẵn, đâu phải riêng mày. Dù là lính văn phòng hay là lính đánh giặc... Dù là y sĩ tiền tuyến hay là y sĩ hậu cứ... Tất cả cặp mắt nhìn chăm chăm vào anh để chờ anh nhận tội. Nhưng lần nào cũng thế, những giờ kiểm điểm dài dằng dặc, với “quản giáo” ngồi chồm hổm phía trên, và đám tù viên ngồi đến độ muốn còng xương sống ở phía dưới, thì anh lại phủ nhận tội trạng đã gán cho anh. “Quản giáo” lại một phen lạnh lùng, tiếp tục nói: 
    – Anh Minh vẫn còn chưa thấm nhuần chính sách của cách mạng, chứng tỏ anh vẫn chưa học tập tốt. Anh cần được sự giúp đỡ của anh em. 
    Và hắn nhường lại lời cho tổ trưởng. Cả “tổ” lại tiếp tục chờ đợi anh “ăn năn hối cải”.
    Cuối cùng cai tù cũng phải nản, quản giáo cũng phải chịu thua. Cuối cùng, cửa trại cũng phải mở. Sau 14 năm. Cái giá quá đắt. À, cuối cùng, các ông tha tôi. Vâng, nếu các ông tha, thì tôi ra. Thì tôi trở lại nhà. Lòng anh bây giờ đã quá nguội lạnh. 14 năm đủ để dạy một con người học được bài học.
    Anh trình diện phường công an, xin được về quê ngoại tại ngoại ô Huế. Nhưng gã công an, dường như đã được báo cáo về con người của anh, nên dứt khoát:
    – Trong lý lịch, anh khai có vợ con. Anh phải về ở với vợ con, để làm tròn trách nhiệm làm chồng làm cha...
    – Nhưng vợ tôi đã bỏ tôi từ lâu.
    – Đó là chuyện của gia đình anh. Chúng tôi phải làm đúng theo quy định.
    Anh biết là anh sắp bước chân vào một nhà tù mới nữa. Họ sẽ bắt anh chứng kiến sự thật của một người thua cuộc. Họ sẽ làm anh phải cuồng trí. Nhà của anh. Nhưng bây giờ đã không còn là nhà của anh nữa. Vợ của anh nhưng cũng không còn là vợ của anh nữa. Con đĩ. Anh về để nhìn nó. Trời ơi! Làm sao anh có thể ngờ một ngày anh phải đối diện với một con đĩ, một con vợ lăng loàn, mà bất lực như thế này.
    Mưa xứ Huế. Mưa ơi, mưa nhòa cả mặt mũi, tóc tai của anh.Mưa giăng đầy sông. Mưa khóc hay lòng anh khóc.
    May mà anh còn có đứa con gái của anh. Nhờ nó mà anh có thể cắn răng nuốt khối căm hờn tủi nhục. Ngày anh vào tù, nó mới biết bò và ngày anh ra tù, nó 15 tuổi. Nó đã ôm anh mà khóc, thương cảm cha, oán thù mẹ. Nó rưng rưng nước mắt nhìn chỗ trú ngụ của cha nó ngoài hè.Nó đau đớn nhìn cha nó ngồi lầm lì,đốt từ điếu thuốc này sang điếu thuốc khác. Nó thầm thì cùng cha: “Mong ba can đảm mà sống.Thế nào ba con mình cũng thoát khỏi nơi này. Con nghe tin về chương trình HO”.
    Phải. Tin tức về chương trình HO đã làm xôn xao những người cựu tù không ít. Phường xã đã ra thông cáo. Càng ở tù lâu càng được Mỹ bốc đi sớm. Có thật vậy không? Anh vẫn còn nghi ngờ. Anh muốn tự mình quyết định đời mình. Đã bị lừa gạt một lần, anh không thể bị lừa gạt thêm một lần nữa....
    Một ngày con anh mang tin về một chuyến vượt biên. Một người bạn cũ vì cảm thương hoàn cảnh của anh nên cho cha con anh hai chỗ trên tàu. Hai cha con cùng nhau ra vườn. Con anh huyên thuyên như chim sáo. Lần đầu tiên, anh thấy nó vui. Mắt nó long lanh, và đôi má hồng vì phải đạp xe một khoảng đường xa. Nó hỏi anh về Mỹ, về tuyết, về những chiếc áo đỏ thắm có nơ dài xuống chân. Nó lại cầm tay anh: 
    – Kể từ hôm ni, ba con mình nhớ cầu nguyện Trời Phật cho mọi sự bình yên nghe ba. 
    – Vâng. Ba nghe lời con. Ba tin Trời Phật không bao giờ bỏ cha con mình đâu.
    Chuyến đi không ngờ lại êm xuôi ngoài điều dự tính. Người chủ tàu đã biết đút lót các trạm công an dọc tuyến ra cửa. Chiếc ghe dài 15 thước đâm mũi ra khơi, như một chiếc lá côi cút. Nhưng tiếng máy không thể át nổi tiếng đập của từng con tim. Cầu cho biển lặng sóng êm. Cầu cho chuyến đi không gặp những tàu tuần duyên CS. Cầu cho máy tàu, chân vịt, xăng dầu, mọi sự đều êm thắm. Đằng sau, phía quê nhà, mặt trời hừng đỏ. Càng lúc dấu hiệu của đất liền càng khuất dần. Trời vẫn còn bốc đầy sương. Minh ngồi bên con gái. Nó lạnh run. Bàn tay nó nắm chặt bàn tay anh. Anh cũng siết chặt tay con như truyền lại sức mạnh vào tấm thân yếu đuối. Tàu cứ chạy. Máy cứ nổ rì rầm. Lâu lắm. Hình như cả một ngày. Rồi một tiếng nói trên boong vọng xuống lòng khoang: “Đến hải phận quốc tế rồi bà con ơi”. Cả lòng khoang tự dưng bật òa lên những tiếng la gào cuồng nhiệt. “Tự do rồi bà con ơi. Tự do rồi!”
    Anh nắm lấy tay con, nói khẽ: “Mình cùng cảm tạ Trời Phật đi con. Mình thoát địa ngục rồi. Ra hải phận quốc tế, không ai có quyền bắt mình đâu.”
    Đến ngày thứ hai, những trận gió khác thường thổi đến. Chỉ trong thoáng chốc cả một bầu trời về chiều trở nên đen kịt. Rồi những tia chớp cứ tiếp tục loé sáng, kèm sau đó là những tràng sấm ì ầm nổi dậy. Ánh chớp như mở màn cho một trò chơi trên biển. Từ Đông sang Tây. Từ Nam qua Bắc. Rồi mưa ào xuống. Rồi gió vần vũ. Rồi cả một mặt biển xôn xao chuyển động. Sóng đẩy ghe lên cao. Thân ghe chạm sóng cựa mình đau răng rắc. Tiếng la thất thanh dưới khoang. Nước tràn vào ghe! Con gái anh bưng mặt, mếu máo: “Có sao không ba. Con sợ quá, ba ơi!”
    Anh bỏ con,nhập vào những người thanh niên tát nước. Trong khi đó, nước cứ ào vào, không biết từ đâu. Từ trên boong đổ vào hay từ những đường nứt do những cơn sóng bổ vào thành ghe quá mạnh. 1 cặp vợ chồng trẻ đã dành 2 thùng can ôm vào lòng. Cả gia đình chủ tàu quỳ trên boong cầu nguyện. Những bộ quần áo được đem ra thấm dầu đốt tiếp. Tấm vải trắng được viết bằng chữ sơn đỏ SOS được căng lên bị cuốn thốc bởi những cơn gió mạnh. Vài con tàu sắt khổng lồ thấy hiện từ xa nhưng càng lúc càng mất dần. Chiếc ghe lại chồm lên và hụt xuống giữa lòng biển tối như một con vật điên khùng say rượu. Chỉ nghe tiếng kinh cầu, và tiếng răng rắc mỗi lần trận sóng bổ mạnh vào thân ghe. Tiếng kinh lại bị át bởi tiếng sóng cuồng nộ. Trong sự tuyệt vọng ấy, chỉ có mỗi một mình anh là đứng thẳng. Như ngày nào anh đứng thẳng trên chiến trường. Cổ họng anh khan, anh gào, thét, thúc giục đám thanh niên. Và họ tát cuồng điên.
    Và cũng nhờ vậy, chiếc ghe mới bình yên sau nửa giờ vật lộn cùng cơn bão biển.
    Đến ngày thứ ba, tàu bị hải tặc tấn công. Những tên hải tặc trơ tấm lưng nhầy nhụa mồ hôi bóng lưỡng. Chúng nhảy rầm rập trên boong. Chúng vung những lưỡi dao, mã tấu. Chúng tru gào. Chúng lõa lồ man rợ. Chúng cầm những trái lựu đạn như sẵn sàng rút chốt. Và cả con thuyền nín thinh thất đảm nhìn chúng hả hê ăn thịt uống máu... Thanh niên bó tay. Người lớn cúi đầu nhẫn nhục... Và một tên đã nhào tới đứa con gái của Minh. Minh kéo con về phía sau. Và anh đứng chắn ngang cản đường lũ quỷ. Rõ ràng có một tiếng gọi bắt một người cha phải vùng dậy hành động để bảo vệ con mình. Anh thét như nổ tung cả phổi. Anh nhào tới, bất ngờ, dùng hai bàn tay chụp lấy cổ họng thằng cướp. Thằng cướp bị ngã nhào, nằm gục xuống, và mắt trợn trừng. Rồi anh chụp lấy cái chai xì dầu, đập bể đít, dí vào mặt nó. Nhưng một đứa khác đã đâm trúng anh, trúng ngay chỗ huyệt. Anh gục ngay xuống khoang tàu.
    Anh gục ngay trước mắt đứa con gái của anh. Anh gục ngay trước những người bất lực vì sợ hãi.
    Đại úy Minh đã chết ngay trên bờ đất của sự sống.
    Amen.
    Trần Hoài Thư 

Thung lũng nước mắt

  • Thung lũng nằm tít phía trong quốc lộ 1, dưới chân một ngọn núi khá cao được gọi là Núi Sạn, cách thành phố Nha Trang khoảng 7, 8 cây số về hướng Bắc. Trái với tên gọi, Núi Sạn cây cối um tùm, leo lên mới thấy vài phiến đá to, lởm chởm, tuyệt nhiên không có viên sỏi, viên sạn nào, hiểu theo nghĩa đen, và đường vào núi cũng không quanh co, hiểm trở gì để phải liên tưởng đến “sạn đạo” của đất Ba Thục ngày xưa. Hồi nhỏ, vào những ngày nắng chói chang, tôi và các bạn thường đạp xe ra thung lũng để đá bóng, trên những bãi cỏ mượt êm, hoặc leo núi, cắm cờ, chơi trò trốn bắt. Rồi rủ nhau ra biển, bơi lội, sẩm tối mới về nhà. Những cánh đồng chung quanh biếc xanh một màu với thân lúa cao vút, cúi rạp, uốn khúc la đà, triền miên như sóng mỗi lần có ngọn gió lùa qua.Thuở ấy, dân cư thưa thớt, rải rác vài xóm nhà tranh vách đất, đèn dầu leo lét. Nơi nào cũng gặp thiên nhiên tươi mát, chim chóc đua nhau hót vang, trái cây rừng phủ cành, như cam thảo, chùm bao, long nhãn, và sim tím, hái xuống ăn thỏa thuê. Và hàng thùy dương trên bãi Hòn Chồng, gần nhà tôi, nghiêng bóng lung linh trong ánh chiều tím ngát. Khung cảnh hoang dã, đầy thơ, tịch mịch, dễ gây hồn mộng mơ, lãng mạn, và cô liêu...

    image024

    Nhưng rồi chiến tranh ùa đến, mịt mờ khói lửa. Tôi khoác áo chiến binh, xa Nha Trang, biền biệt, lê gót phong sương trên các nẻo sa trường Cao Nguyên. Chợt trở về, từ trại Vĩnh Phú, cuối 1983, sau 8 năm tù khổ sai cải tạo tiếp theo ngày đại nạn của dân tộc, để ngậm ngùi thấy tất cả đã biến đổi, thương hải tang điền! Người từ miền Bắc, miền Trung đến lập nghiệp tại quê tôi, tấp nập, xô bồ, cất nhà chi chít, dọc ngang đủ kiểu, trên cả những nghĩa địa cũ, chiếm đất của người chết, lấn sâu vào tận chân Núi Sạn, dọc hai bên đường rầy xe lửa, ra đến bãi Dương, Hòn Chồng. Cây cối trên núi và hàng phi lao ven biển bị đốn gục. Ruộng vườn biến mất. Núi Sạn chỉ còn trơ sườn đá đen loang lổ, có vẻ thấp xuống – như phẩm giá con người trong chế độ xã hội chủ nghĩa – ngang bằng một ngọn đồi trọc. Thung lũng trở thành một nghĩa địa mới, nằm bên một trại cùi tân trang cùng mang tên Núi Sạn. Cỏ cây không mọc nổi nữa. Đạp xe đi tìm, không thấy đâu sân đá bóng và những trái rừng ngày trước. Đau biết mấy, như nỗi lòng của Bà Huyện Thanh Quan trước một Thăng Long Thành hoang phế: Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.....

    Trình diện phường khóm và đồn Công an khu vực xong, tôi được chỉ định về thung lũng Núi Sạn “công tác” tại một hợp tác xã dệt vải thô, thứ vải dùng để tẩm liệm, may áo tang, hoặc trải giường. Hợp tác xã là một căn nhà rộng, hai tầng, gần Tháp Bà, tịch thu của một thương gia chạy thoát năm 1975. Bên ngoài hợp tác xã là một cái chợ tên Chợ Bàu, sát quốc lộ, trước kia là một cái ao to ngập nước. Công việc của tôi khá đơn giản: buổi sáng quét sân xi măng, buổi chiều vào dọn phía trong, lau những khung dệt, sau khi 25 cô thợ xong việc, sửa soạn ra về. Và mỗi cuối tháng, tôi và một nam công nhân, tên Võ Minh Thiện, đạp xe ba gác qua phố Nha Trang chở vải nộp cho các cơ quan, đại lý. Thiện phụ trách sửa chữa những khung dệt, tay nghề rất vững. Anh lịch sự với tôi, ưa giúp đỡ người khác, kín đáo, ít nói, lại càng ít nói về mình, dù đôi lần tôi đến bắt chuyện, như một bạn đồng nghiệp. Nhìn Thiện, tôi nhớ chắc anh là cựu SVSQ khóa 4 trường ĐH/CTCT/ĐL, nơi tôi đã từng phục vụ trong tư cách sĩ quan Văn hóa vụ, nhưng khi được hỏi Thiện chỉ cười cười, không chối, cũng không nhận, và lảng sang chuyện khác. Biết thế, tôi chẳng hỏi han gì nữa. Sau này, Thiện lấy một cô rất hiền, dễ thương, lớn tuổi nhất trong đám thợ dệt “choai choai”, và đám cưới của hai đồng nghiệp tất cả nhân viên hợp tác xã dệt đều đi dự.

    Mỗi ngày, giữa hai công việc, để giết thời gian, tôi ra quán giải khát trước cổng, ngồi uống nước mía, hút thuốc, trầm ngâm ngắm nhìn người qua lại trong chợ. Điều này làm lão chủ nhiệm người Quảng Ngãi – trước 75 có thời làm công cho gia đình tôi – khó chịu, cằn nhằn hoài. Nhưng tôi bất cần, vì biết bọn công an bắt tôi đến hợp tác xã chỉ cốt nhờ người kiểm soát việc đi đứng của tôi thôi. Cũng như mỗi tuần một lần, bất thần sau nửa đêm bọn chúng nhảy tường, xông vào nhà, bắt mở cửa, lục lạo các phòng ngủ kể cả phòng của 2 em gái tôi, Bội Trân và Huyền Trân, xem tôi còn đó hay đã đi rồi. Chúng dư biết sớm muộn gì tôi cũng tìm đường vượt biên, nên ra sức canh, rất kỹ. Lão chủ nhiệm, một thứ anh hùng cách mạng 30 tháng 4, bảo hoàng hơn vua, không hiểu, nhất định bắt tôi “lao động tốt, chấp hành nghiêm chỉnh lệnh trên”.

    Còn các cô thợ, hầu hết lớn lên sau 1975 như Huyền Trân, khi nghe nói tôi là sĩ quan “ngụy” cải tạo về, mới để ý liếc dòm tôi từ đầu đến chân một cách chăm chú, nửa như thương cảm, nửa như tò mò muốn biết một ông “đại úy ngụy” chánh hiệu ra sao, có giống con giáp nào không. Sau đó, các cô tự động quét dọn sạch sẽ khu vực dệt, lau chùi những khung cửi trước khi về, bớt việc cho tôi. Khi thân nhau hơn, trong giờ giải lao, vài cô chọc tôi, hỏi “chú có vợ chưa, để em giới thiệu bà dì út của em cho”, hoặc “khi nào đại úy đi vượt biên cho em theo với”. Tôi cười dễ dãi, nhưng không nói gì. Một bữa, thấy tôi thơ thẩn trong sân, một cô đến gần, nói nhỏ vào tai: “Em là Thanh, bạn thân của Huyền Trân, đi nhiều lần bị bể hoài. Khi nào có mánh, anh cho em biết với nhé!” Tôi hoảng hốt, sợ bị gài bẫy, lắc đầu quầy quậy, lên lớp: “Không, tôi không đi đâu cả. Tôi sẽ ở lại với đất nước, đồng bào”.

    6 tháng sau, một buổi trưa tôi đang ngồi ở quán nước, lão chủ nhiệm sai người ra gọi vào. Lão yêu cầu tôi leo lên mái nhà, quét dọn rong rêu. Mái nhà cao chênh chếch, gần như thẳng đứng. Công việc khá nguy hiểm, rủi trợt chân té xuống, chết oan, dại gì! Dĩ nhiên, tôi kiếm cớ từ chối. Lão la lớn, sỉ vả tôi nào là “chây lười, chưa lao động cải tạo tốt”, nào là “phản động, cãi lệnh cấp trên”.Tôi cũng không vừa, to tiếng chửi lão là “đồ cách mạng dỏm”, “thứ ăn cháo đái bát”. Lão uất khí, gọi công an đến xin giải quyết. Tên công an phường họp tất cả lại, hỏi các nhân chứng. Đám đàn ông thanh niên không ai dám nói một lời bênh đỡ tôi. Võ Minh Thiện xanh mặt, nhìn tôi với vẻ ái ngại, lo lắng cho tôi. Còn các cô thì tranh nhau phát biểu, cho lão chủ nhiệm “phản ứng quá đáng”,“lạm dụng quyền hành”, “nhiệm vụ của người ta là quét sân mà bắt leo lên mái nhà, như vậy không đúng!” Nghe xong, tên công an không biết phân xử thế nào, chỉ bắt tôi làm tờ kiểm điểm, rồi bỏ đi. Tôi nhìn các cô, gật đầu, tỏ dấu biết ơn. Và nghiệm lại lời bàn của ông thầy tử vi trước kia: số tôi có sao Hồng Loan chiếu mệnh, nên thường gặp “nữ quới nhân phò hộ”.

    Sau vụ này, tôi bị thuyên chuyển về trại cùi Núi Sạn. Nhiệm vụ như cũ, nghĩa là quét dọn vệ sinh, đổ rác. Mẹ tôi lo lắm, dặn tôi bớt ngang bướng. Kệ chúng nó, mẹ bảo, đất nước này đâu phải của mình nữa đâu. Ráng nhịn đi con, chờ ngày thuận tiện trốn đi. Nhà mình toàn “ngụy quân” là mục tiêu cho chúng nhắm. Lúc ấy Nguyễn Kim Trọng, em kế tôi, cựu trung úy dạy Anh văn tại Võ Bị, đang bị truy lùng về “tội” vượt trại tù Đồng Trăn, về nhà được mẹ và anh em cưu mang, che chở, suốt ngày tự giam lỏng, đọc sách ăn ngủ tại chỗ trong căn gác hẹp, có một ô gỗ vuông ăn thông với mái nhà, khi biến động là gỡ ra, nhảy tót lên trần. Cũng may, trước đó không lâu, chúng đã trả lại nửa căn nhà bị tịch thu làm trụ sở phường. Mẹ sợ, nếu vì tôi mà công an “ghé thăm” thường xuyên thì rất nguy cho Trọng. Mẹ nói thế cũng oan cho tôi, vì hai cô con gái đẹp, độc thân, của mẹ cũng là nam châm cực mạnh hút đám thanh niên, và đặc biệt bọn công an phường và khu vực, không mời mà đến nườm nượp. Tuy nhiên, tôi hứa từ nay sẽ ngoan ngoãn, cho mẹ yên tâm. Để chuẩn bị công việc mới, tôi ra chợ trời mua một đôi găng tay, một khẩu trang, một bộ đồ lính cũ, và mấy chai cồn rửa tay.

    Trại cùi, được dời về Núi Sạn từ một địa điểm khác, trước 1975, đã do các tu sĩ dòng Phan-xi-cô địa phương sáng lập và điều hành, như vậy về lý là một trại tư, nhưng nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý luôn, chẳng phải thương yêu gì đám bệnh nhân khốn khổ kia, nhưng cốt bỏ túi món tiền viện trợ béo bở của các hội từ thiện thế giới. Trại tương đối rộng rãi, ngăn nắp, còn khang trang hơn những trại tù cải tạo – nơi tôi đã bị giam nhiều năm. 3 dãy nhà mái tôn khá lớn, nằm song song, loang loáng ánh mặt trời. Một bệnh xá kiểu dã chiến để bác sĩ, y tá làm việc và bệnh nhân đến uống thuốc. Việc nấu nướng do hai chị bếp ở ngoài mướn vào đảm trách. Một dãy hố tiêu sát hàng rào kẽm gai, được đổ vôi trắng khử trùng chung quanh, nặc mùi diêm sinh, và những con ruồi xanh to bay vo ve, thấy ớn. Dọn vệ sinh hố tiêu và nhà ở do các bệnh nhân tự lo, đỡ cho tôi lắm. Tôi chỉ giữ việc dọn dẹp bệnh xá, quét sân và đào lỗ để chôn rác, hoặc chôn người chết. Mỗi ngày đứng trước cái sân đất rộng thênh thang và những thùng phuy to ngập rác đặt ở bốn góc, thấy mà ngao ngán. Đồng nghiệp “thâm niên công vụ” của tôi là một ông già ốm tong teo, tên Mân, lụ khụ, răng chỉ còn vài chiếc, mà lần đầu mới gặp, tôi nghĩ chắc chả làm được tích sự gì, có khi tôi phải cáng đáng công việc giùm ông.Nhưng rất may, ông còn khoẻ, quét dọn nhanh thoăn thoắt, thỉnh thoảng còn giúp ngược tôi. Cũng không cần găng tay, khẩu trang. Ông nói: “Tui tứ cố vô thân, lại già rồi mà cậu! Trước sau rồi cũng chết. Ở cái xã hội chó đẻ này bây giờ,chết sớm càng khỏe mà cậu.Ủa, cậu phạm tội gì mà bị phạt vô đây? Bộ ngụy cải tạo về hả?Còn tui, nhậu say ở quán, chửi chế độ, bị giam 3 tháng, sau bị đày vô đây... Tổ sư chúng nó,bọn khốn kiếp,chỉ giỏi ăn hiếp người cô thế.”

    Đâycũng là lần đầu tôi giao tiếp gần gũi với bệnh nhân phong cùi. Cảm thấy ghê ghê trước những vết thương chảy máu mủ, những ngón tay ngón chân co quắp, bị cụt, những cặp mắt mờ đục, có khi mù hẳn, những thân người tiều tụy, những bước đi thất thểu, xiêu vẹo. Ôi, những con cháu Eva bị đọa đày trong Thung Lũng Nước Mắt – cũng như tôi và dân miền Nam, ở một bối cảnh khác, rộng lớn, có khi bi đát hơn – hằng van xin Nữ Vương, Mẹ Maria Nhân Ái, mở lòng cứu độ, như lời kinh cầu mà cả nhà tôi vẫn đọc đêm đêm, từ thời ấu thơ. Phải mất mt tháng, tôi mới quen dần.Trong số khoảng 300 bệnh nhân, có vài gia đình gồm cha mẹ và những đứa con nhỏ đủ lứa tuổi, đang được điều trị. Họ nhìn tôi một cách dửng dưng, như vô cảm. Còn tôi, lòng buồn bã, xót thương họ vô cùng, vì thấy đời mình đâu có gì khá hơn. 
    Tôi không biết trại trưởng là ai. Nhưng trại phó điều hành kiêm thông dịch viên giao tiếp với người ngoại quốc là một tu sĩ Phan-xi-cô, thầy Pierre, quen biết ba mẹ tôi ngày trước. Bác sĩ trưởng là Nguyễn Phúc Vĩnh Phương, vừa ra trường thì nước mất, chuyên về bệnh “da liễu” (dermatology), người hiền lành, dễ mến, gặp tôi chào hỏi tử tế. Một bác sĩ Pháp tuổi độ 30, Jean-Luc de Neuville, thuộc tổ chức Médecins Sans Frontières (Y Sĩ Không Biên Giới), và một nữ y tá người Úc trẻ đẹp, Ann Mary, tình nguyện đến giúp đỡ. Tất cả nhiệt tình, chăm sóc bệnh nhân chu đáo.      

    Dưới mắt mọi người, tôi chỉ là một cái bóng trên sân đất, một công nhân vệ sinh giữa những công nhân khác. Một hôm, như thường lệ, tôi quét dọn xong bệnh xá, trước giờ phát thuốc, có bác sĩ de Neuville ngồi làm việc. Lần đầu, anh ngước nhìn tôi, nói cám ơn. Và cũng lần đầu, tôi thấy rõ mặt anh. Trắng trẻo, đẹp trai, vẻ tự mãn như tất cả những anh Tây có “máu xanh” (sang bleu, quý tộc) và chức phận. Tôi gật đầu, toan bước ra, thì anh gọi giật lại, nói thật chậm, kéo dài từng chữ, vừa nói vừa ra dấu tay:

    – Tôi được Frère Pierre cho biết rằng trước kia anh là một quân nhân (Jean-Luc làm động tác bóp cò súng) của miền Nam. Một cựu sĩ quan mà phải quét nhà (anh ta làm động tác quét), tôi thấy không xứng đáng, vous...com...pre...nez... Anh hiểu chứ?

    Tôi bật cười, rồi nghiêm trang bảo anh ta:

    – Trước hết, bác sĩ có thể nói với tốc độ bình thường như khi nói với đồng hương của bác sĩ và khỏi cần ra dấu tay, tôi hiểu được. Thầy Pierre nói đúng: tôi là một cựu đại úy VNCH, và xin bác sĩ đừng ái ngại cho tôi, vì việc quét dọn tại trại cùi này không là gì cả so với những năm lao động khổ sai tôi đã phải trải qua sau khi chiến tranh chấm dứt. Một điều mà thầy Pierre, và dĩ nhiên bác sĩ nữa, không biết, và cực chẳng đã tôi phải nói ra, khi cần thiết thôi, là trước khi vào lính tôi đã học trường Pháp, có văn bằng Pháp, dạy trường Pháp Collège français ở đây, và được chính phủ Pháp cho đi tu nghiệp sư phạm tại Grenoble, quê hương của Stendhal, ba tháng hè năm 1965, chưa kịp đi thì bị gọi nhập ngũ...

    Nghe tôi nói một hơi, với giọng chua chát, không vui, Jean-Luc có vẻ rất ngạc nhiên, mặt đỏ dần, đứng lên, đến bên tôi, bắt tay, và nói:

    – Ồ, tôi thật không ngờ. Hân hạnh biết anh! Chỉ nghe anh nói một lần tôi tin anh ngay. Xin lỗi anh. Bây giờ chúng ta là bạn, nếu anh cho phép. Ở đây một mình, tôi cần một người bạn cùng nói một ngôn ngữ để tâm sự. Từ nay, chúng tôi sẽ không để anh quét dọn bệnh xá nữa. Chúng tôi sẽ nhờ le père Mân làm thay.
    – Tại sao? Dù sao, tôi cũng cám ơn Jean-Luc. 

    Từ hôm đó, Jean-Luc lúc rỗi rảnh thường đi tìm gặp tôi bên những thùng rác, trên các băng gỗ dành cho nhân viên tạp dịch ngồi nghỉ mệt. Một cách nhanh chóng, chúng tôi trở thành thân đến độ tutoyer, “toa moa” với nhau.

    Jean-Luc kể về mình và gia đình ở Lyon. Còn tôi, vì phản xạ tự nhiên sau những năm sống chung với Việt Cộng, chẳng dám hé môi nói điều gì về gia đình, hoặc chính trị, kể cả những khi Jean-Luc lên tiếng “tiếc thay cho một người có tài như anh mà không được chế độ mới trọng dụng”, hoặc “chất xám, tài nguyên của đất nước, đã bị phí phạm”. Tôi lắc đầu:

    – Bọn họ chưa giết là may rồi, Jean-Luc. Tôi không bao giờ nuôi ảo tưởng về hạnh phúc, về thương yêu, về hận thù, về cuộc đời, về ý thức hệ này nọ. Đúng hơn, ảo tưởng đã mất. Illusions perdues, anh còn nhớ tác phẩm của Balzac? Giờ chỉ còn là thực tế phũ phàng và đôi mắt mở to để nhìn cho rõ. Tôi mong được yên thân ngày nào hay ngày nấy.
    Và để đổi hướng câu chuyện, tôi hay bàn về văn chương, về Stendhal, Baudelaire – những tác giả tôi yêu mến. Jean-Luc thú thật không biết nhiều về văn học sử Pháp, chưa đọc hết Le Rouge et le Noir, tiểu thuyết nổi tiếng của Stendhal, và tuy Grenoble không xa Lyon bao nhiêu mà anh cũng chưa có dịp đến và chỉ biết Grenoble giáp giới với Thụy Sĩ, có rặng núi Grande-Chartreuse buổi sớm sương mờ vây phủ và con sông Isère, dài lắm, đi qua thành phố trước khi nhập vào sông Rhône, những điều anh đã học được trong lớp địa lý. Như tôi.

    Một buổi trưa, tôi đang nghỉ giải lao trên băng gỗ, dưới một bóng cây to, thì bác sĩ Vĩnh Phương đi ngang qua. Thấy tôi, anh dừng lại, mỉm cười chào, ngồi xuống, rồi nói:

    – Anh làm việc chắc mệt lắm hỉ? Tôi nghe thầy Pierre và bác sĩ de Neuville nói nhiều về anh, toàn là tốt. Thấy anh làm việc chăm chỉ, đường hoàng, tôi muốn kết bạn với anh, anh nghĩ sao?

    Bị hỏi bất ngờ, tôi lúng túng, đúng hơn, ngờ vực, chưa biết trả lời sao, thì Phương tiếp:

    – Anh đừng nghi ngại, tôi cũng thuộc thế hệ “ngụy”, rất nể phục và thương cảm những sĩ quan cải tạo trở về. Hơn nữa, tôi khoái thái độ bất cần đời và vẻ ngang tàng điếc không sợ súng của anh. Trước khi anh đến đây, tôi đã được báo cáo đầy đủ về vụ anh cự lão chủ nhiệm hợp tác xã dệt và nhận chỉ thị phải theo dõi anh sát nút, nhưng đời nào tôi làm cái chuyện khốn nạn đó, tôi là bác sĩ mà, đâu phải công an. Tôi thật sự... 

    Tôi gật đầu, bắt chặt tay anh. Phương vui lắm. Từ đó, anh thường mời tôi và Jean-Luc lên văn phòng anh uống cà-phê hoặc đạp xe ra các quán dọc theo quốc lộ ăn trưa, như tôi vẫn làm một mình hằng ngày.

    Rồi một chiều thứ bảy, Phương mời chúng tôi và cô y tá Ann Mary đến dùng cơm, tại nhà ở tận Cầu Đá. Chúng tôi nói tiếng Anh, vì có Ann Mary. Cô cười, khen nịnh, nhưng thực ra là chê: “Nghe mấy ông, you guys, nói tiếng Anh biết là dân Tây liền vì accent lạ lắm!” Phương giới thiệu vợ, hai con nhỏ, và đặc biệt, bà mẹ vợ và cô em út của vợ, tên Loan, từ Sài Gòn vừa ra Nha Trang thăm gia đình anh và tắm biển. Loan cùng tuổi hai mươi với Huyền Trân và các cô thợ ở hợp tác xã dệt. Tôi liếc nhanh, để kịp thấy một dáng mảnh mai, gương mặt đẹp, mái tóc dài bới gọn, tai đeo hai vòng khuyên lớn, vẻ thông minh, bặt thiệp. Nhưng tôi không để ý lắm, vì chê Loan còn con nít, và vì tâm hồn khi ấy nặng trĩu những ưu phiền và đầu óc chỉ nghĩ đến mỗi một chuyện: vượt biên. Còn Loan, trong bữa ăn, tò mò nhìn tôi, lịch sự coi tôi chỉ là một anh “ngụy” cải tạo về, không hơn không kém, và là người bạn mới của ông anh rể. Thế thôi....

    Bội Trân đạp xe ra trại cùi tìm tôi bất ngờ, một buổi trưa nắng, trong lúc tôi và ông Mân đang hì hục khiêng thùng phuy đầy rác đổ vào hố. Thấy cảnh này, em chớp mắt, như muốn khóc. Có lẽ nhớ lại những lần theo mẹ ra thăm tôi ở Vĩnh Phú và thăm Kha, hôn phu của em, tại Thanh Hóa. Tôi tháo khẩu trang, găng tay, choàng vai em, nói nhỏ:

    – Thì cũng giống như hồi anh còn ở trại Vĩnh Phú thôi. Tại đó, anh còn hốt phân nữa mà. Không sao đâu. Mà em ra đây có việc gì?
    – Mẹ bảo em mang ra cho anh dĩa xôi lạp xưởng mẹ mới nấu để anh ăn trưa.

    Ông Mân đứng bên nãy giờ, lên tiếng hỏi:

    – Ai vậy cậu Hai? Bà xã hả?

    Tôi quay lại:

    – Ấy chết, tôi quên giới thiệu, xin lỗi bác Mân. Đây là Bội Trân, em gái của tôi.

    Em gật đầu chào ông. Ông nhìn em, tấm tắc khen:

    – Trời ơi, cô đẹp quá, giống cô đào xi-la-ma gì đó, có chồng con gì chưa cô?
    Hai anh em nhìn nhau cười, không trả lời. Bội Trân ngỏ ý muốn đi xem trại. Tôi chia một nửa phần xôi cho ông Mân, và nhờ ông làm nốt công việc, rồi đến xin phép thầy Pierre. Chúng tôi vào các dãy nhà ở. Nơi nào Bội Trân cũng thăm hỏi bệnh nhân một cách ân cần, và mủi lòng, nước mắt lưng tròng, khi thấy những em bé ngồi thẫn thờ, buồn bã nhìn qua khung cửa sổ hẹp mảnh không gian xanh ngắt và bầy chim nhỏ đậu trên cành hót líu lo, như mời gọi. Rời nhà ở, chúng tôi tạt qua gian bếp trong giờ phát cơm. Thấy món ăn có cơm, khoai mì, cá khô,nước mắm và canh rau, tôi nói với Bội Trân: – Khá hơn nhiều so với các trại tù cải tạo của anh. 
    Rồi đến bệnh xá. Jean-Luc đang ngồi viết, thấy chúng tôi bước vào, bật đứng dậy. Tôi giới thiệu: 
    – Marie-Amélie, em gái tôi!
    Em giơ tay cho anh ta bắt, và nói liền bằng tiếng Pháp, một cách rất tự nhiên, khiến Jean-Luc sửng sốt, buột miệng hỏi một câu ngớ ngẩn:
    – Như vậy cả nhà anh đều nói tiếng Pháp à?
    – Không, mẹ tôi và những đứa em lớn lên trong chế độ này không biết nói tiếng Pháp.
    Sau hôm đó, Bội Trân xin thầy Pierre cho vào trại cùi, tình nguyện phụ bếp, hai lần một tuần. Những ngày khác, em qua chợ Đầm phụ bán nước mía cho Huyền Trân. Mẹ tôi đồng ý ngay. Mẹ bảo: Các con thương người thì Chúa sẽ thương các con. Em lãnh việc chia thức ăn, phát nước cho bệnh nhân. Sắc đẹp tự nhiên, cách ăn mặc đơn giản, cử chỉ dịu hiền, thái độ đoan trang của em đã chinh phục mọi người. Jean-Luc có vẻ cũng thích em lắm. Những ngày em đến, anh ta ghé nhà bếp, dù chỉ để nói bonjour, tu vas bien? và chuyện trời mưa trời nắng với em.

    Một buổi chiều tan việc, trên đường về nhà, ngang nghĩa địa, Bội Trân dừng lại, dưới một tàn cây, chỉ tay vào phía trong, bảo tôi:

    – Lệ Ngà đang nằm trong đó, chắc anh biết? Cũng tội. Hay là anh vào thăm mộ một chút.                
    Tôi lắc đầu:
    – Thôi em, hãy để thời gian làm quên những si mê, đớn đau, và hờn tủi. Tình yêu dù thiết tha đến đâu một ngày rồi cũng trôi qua như nước chảy dưới cầu. Sous le pont Mirabeau. Thơ Apollinaire đó em. Buổi tối xa xưa nào, em nhớ không, nửa năm trước ngày nước mất nhà tan, em và Kha lên Đà Lạt thăm anh và Lệ Ngà. Kha vừa từ phi vụ ở Phù Cát trở về, chưa kịp thay đồ bay. Em mặc jupe xanh, áo màu hồng nhạt, đeo bông tai vàng lóng lánh của ngày đính hôn. Tụi mình vào quán L’Eau Vive của các nữ tu người Pháp thuộc Domaine de Marie, gọi món bouillabaisse mà em thích, bifteck và rượu Bordeaux, vừa ăn vừa chuyện trò khe khẽ dưới ánh đèn mờ ảo, giữa tiếng đàn dương cầm dặt dìu, nhè nhẹ của một ma sơ. Thật là tuyệt diệu. Do Kha yêu cầu, Lệ Ngà xin phép lên đánh một bản. Bản Appassionata, sonate 23 của Beethoven đó, để tặng riêng anh, vì biết anh mê nó lắm. Anh mê nó, vì nghe nỗi khổ đau tột cùng, mà vẫn đằm thắm, của tình yêu nát tan đã chết theo mùa thu phai úa, trên đôi môi hững hờ, bởi những chia lìa, mất mát, và phản bội – dàn trải ngút ngàn qua suốt bản sonate, trên từng phím đàn thánh thót, đứt quãng, chìm xuống như từng giọt lệ ngân. Kha cắn môi, ngồi bất động, còn em thì nép vào ngực Kha, lắng nghe, nước mắt dàn dụa. Các thực khách ngừng ăn. Khi nốt nhạc cuối cùng dứt hẳn, tiếng vỗ tay vang lên, kéo dài, và Lệ Ngà trở lại bàn, đôi mắt long lanh ngấn lệ. Anh ôm siết Ngà vào lòng, hôn mái tóc đầy hương, như siết ôm hạnh phúc thật, mà mong manh, không cho bay đi. Anh nghĩ, một người nếu – như tụi mình – thực sự đã nghe sonate Appassionata một lần rồi sẽ không còn muốn oán thù ai nữa. Và anh đọc ở đâu đó, Lénine có nói rằng nếucứ tiếp tục nghe bản nhạc này ông ta sẽ không hoàn thành nổi cuộc cách mạng vô sản. Lúc ấy, tụi mình còn trẻ, đời còn đẹp, mộng còn đầy. Anh yêu buổi tối ấy quá, cũng như anh yêu em, yêu Lệ Ngà, Kha, và mọi người. Rồi ngờ đâu, Kha và Lệ Ngà đều ra đi, vĩnh biệt cõi đời. Chỉ còn hai anh em mình, ở lại với bóng mờ của hạnh phúc phù du, và riêng anh, dư âm xót xa của Appassionata ngày cũ. Thôi em, hãy để Ngà ngủ yên và thời gian làm quên...

    Thêm một đợt bệnh nhân bình phục được rời Thung Lũng Nước Mắt về với gia đình. Trên mặt và tay chân họ còn rất ít dấu vết của căn bệnh quái ác, dữ dằn. Mỗi người nhận một xắc tay màu xanh, quà của Liên Hiệp Quốc, một bộ quần áo mới, và các vật dụng khác. Từ nay, họ không còn sống cô lập, không lây cho ai nữa, vì các bác sĩ, sau khi thử máu, biết chắc vi trùng đã hoàn toàn bị tiêu diệt nhờ các loại thuốc viện trợ rất hữu hiệu. Nhưng, tôi thầm hỏi, còn những kẻ cùi hủi tâm hồn thì lấy thuốc gì chữa đây? Buổi tiễn đưa diễn ra đơn sơ, nhưng đậm tình người, trước sân bệnh xá, dưới sự chứng kiến của thầy Pierre, hai bác sĩ, các y tá. Có những vòng tay ôm cho người về, có những lời chúc lành cho bệnh nhân ở lại. Bội Trân và tôi nhìn theo và mừng cho họ. Từng người lần lượt ra cổng.Cuối cùng, còn lại một bé gái, khoảng 8 tuổi, vẫn đứng yên, thút thít khóc. Bội Trân tiến nhanh đến hỏi em và được biết em tên Trang, mồ côi cha mẹ, không thân nhân, lúc lên 3 đã bị ai đem bỏ trước cổng trại. Bé không biết về đâu. Một lúc sau, Bội Trân trở lại, nói với tôi:

    – Em muốn nhận nuôi bé Trang, xin phép anh trước. Em sẽ nói với mẹ sau.                     

    Rồi không chờ tôi trả lời, em đi thẳng đến chỗ thầy Pierre, bác sĩ de Neuville và Vĩnh Phương, nói gì đó với họ mà tôi thấy 3 người gật đầu lia lịa. Em lại đến bên bé Trang, vuốt tóc bé, xách giỏ đồ, nắm tay, dắt về phía tôi. Em hớn hở khoe:

    – Thủ tục nhận nuôi rất đơn giản, đặc biệt cho em, nhờ thầy Pierre. Tí nữa em sẽ ký vài giấy tờ là xong.

    Tôi nhìn kỹ bé Trang, mừng rỡ thấy bé mặt trắng hồng, tươi tắn, tay chân lành lặn, bình thường, không ai có thể ngờ bé đã phải ở trong Thung Lũng Nước Mắt đã 5 năm. Jean-Luc, sau này, bảo tôi rằng bé Trang không nhiễm bệnh, vì theo y khoa bé thuộc loại người có kháng tố bẩm sinh chống lại phong cùi dù chung đụng với bệnh nhân. Đáng lẽ bé phải rời trại lâu rồi, nhưng các nhân viên hành chánh quên bẵng sự hiện diện và hồ sơ của bé, cho đến hôm ấy.

    Bé Trang về ở với gia đình tôi, mẹ tôi vui lắm, hôn Bội Trân, và ôm bé Trang vào lòng.

    Rồi, một đêm trăng sáng, Bội Trân kéo tôi ra ngồi trên ghế đá trong vườn nhà, dưới vòm lá bưởi, bên những chậu hoa ngát hương. Em nói:

    – Em muốn tâm sự với anh về một chuyện riêng. Cách đây một tuần, Jean-Luc ngỏ lời yêu em và hứa nếu được lấy em, anh ta sẽ mang em ra khỏi vùng đất bất công này về một nơi có ánh sáng, có tình yêu muôn thuở, có tương lai rực rỡ hơn... Anh nghĩ thế nào?

    Tôi cười, hỏi ngược:

    – Chuyện tình cảm là tùy em quyết định, anh biết gì. Còn em thấy sao?

    Em trả lời liền, như đã suy nghĩ lâu lắm:

    – Jean-Luc có đầy đủ điều kiện để trở thành một người chồng lý tưởng cho các thiếu nữ, có cả em, mơ ước, một cơ hội bằng vàng cho những cô muốn thoát ra khỏi địa ngục này. Anh ta lại đẹp trai, tính tình phóng khoáng, dễ thương, có địa vị, con nhà danh giá. Anh ta chỉ thiếu một điều, đối với em, rất quan trọng: đó là kinh nghiệm khổ đau trong đời. Như anh, các anh Trọng, Hiệp, như Kha, như biết bao sĩ quan VNCH còn đang bị đọa đày trong các trại tù cải tạo mà em đã từng gặp trên đường đi thăm các anh. Như những bệnh nhân phong cùi mà mới đây em có dịp tiếp xúc. Một người, em nói chung thôi, sung sướng và thành công từ tấm bé, không biết đau khổ, sẽ khó thông cảm khổ đau của người khác, sẽ tự phụ, sẽ ích kỷ...

    Tôi ngắt lời em:

    – Nhưng Jean-Luc đã tình nguyện đến giúp trại...
    – Đúng thế. Nhưng có thể vì trách nhiệm nghề nghiệp của một bác sĩ. Trong mắt anh ấy, em chưa đọc thấy tấm lòng xót thương, em muốn nói, compassion, bao la, tuyệt đối, như của giám mục Seitz ở KonTum,của linh mục Damien ở Polynésie, hay các nữ tu trại cùi Qui Hòa, mà em chỉ nghe nói đến, hoặc ít ra của thầy Pierre mà em biết rõ...

    Ngập ngừng một lúc, em thở dài, tiếp:

    – Hơn nữa, anh ấy đánh giá em hơi thấp. Đâu phải lấy anh ấy để mong thoát khỏi nơi này? Có khác gì tên công an trưởng khu vực năm nào đã năn nỉ nếu em yêu và lấy nó, nó sẽ bảo lãnh các anh về hết.
    Tôi gật gật đầu, im lặng nghe, rồi cười, nói:
    – Tình yêu mà em đem mổ xẻ như thế thì còn gì là tình yêu?

    Em cũng cười, và tiếp:

    – Thì cũng chính vì vậy mới là không yêu, và hồn em mới mãi giá băng, từ khi em mất Kha. Kỷ niệm và hình bóng của Kha còn chất ngất trong em. Kha đã ở lại, vì em, và chết thảm trong tù. Em không thể yêu ai được nữa.

    Tôi hỏi: 

    – Em sẽ nói sao với Jean-Luc?
    – Một lần thôi, tế nhị, dứt khoát. Rồi em xin nghỉ, không đến trại nữa. Jean-Luc sẽ hiểu.
    ------- 
    Hơn 20 năm trôi qua, kể từ ngày đó. Trọng vượt biên trước tôi, đến Indonesia. Hiệp, một người em khác, cán bộ Trung Ương Tình Báo, lúc ấy còn trong tù Z30, và sau 14 năm, mới được thả và đến Mỹ theo diện HO. Đầu năm 1984, sau những chuyến đi hụt, bị lừa, bị bắt, cuối cùng tôi đến được Subic Bay, Philippines, từ Nha Trang, cùng với Bội Trân, trên một chiếc ghe đánh cá nhỏ, vượt bao giông tố hãi hùng. 3 tháng trước đó, em và tôi đã ra Thanh Hóa, tìm đến trại cải tạo, đem hài cốt của Kha về chôn tại nghĩa trang Núi Sạn bên các ngôi mộ của gia đình tôi.Em cũng đã bàn giao bé Trang cho Huyền Trân. Đến đảo Phi, Bội Trân xin tôi cho em đi Pháp sống với người chị kế, Thể Trân, định cư tại Nanterre từ 1978.Một năm sau, em xin vào tu trong dòng kín Carmel ở Lisieux, quê hương của thánh nữ Thérèse, giữa tuổi thanh xuân, giã biệt thế gian và tháng ngày khổ nạn, để “tìm bình an cho tâm hồn và béatitude, hạnh phúc của Chúa ban”, như em nói với Mẹ Bề Trên, và để, tự dưng tôi nghĩ đến Lệ Ngà, bắt chước các mỹ nhân tự thuở xưa mãi mãi “bất hứa nhân gian kiến bạch đầu”. Ngày em khấn dòng, anh em chúng tôi từ Mỹ đến dự lễ, ôm em, khóc cười, buồn vui lẫn lộn. Do tôi mời, bác sĩ de Neuville từ Lyon cũng đến, đặt những grosses bises (cái hôn tình bạn) trên đôi má em.

    Jean-Luc vẫn còn độc thân. Ann Mary về nước, lấy một Việt Kiều Úc. Vĩnh Phương được đi tu nghiệp một năm tại Bordeaux, trở về làm bác sĩ bệnh viện Nha Trang. Các cô thợ dệt đều có chồng con, tay bồng tay bế. Cô Thanh, người đã một lần xin tôi chỉ “mánh” vượt biên, hiện làm chủ một tiệm ăn ở Orange County. Thầy Pierre và ông già Mân đã chết. Qua đặc san của Tổng Hội Cựu SVSQ/ĐH/CTCT/ĐL, tôi được biết NT4 Võ Minh Thiện cũng đã từ trần. Bé Trang nay là một thiếu nữ 30 tuổi, đẹp và hiền thục, giống như hai mẹ nuôi Bội Trân và Huyền Trân. Xưởng dệt đóng cửa. Thung Lũng Nước Mắt vẫn còn.

    Còn Loan, cô em vợ của bác sĩ Vĩnh Phương? Năm 1992, Loan theo mẹ, cựu nhân viên sở Mỹ, định cư tại San José, do người anh đi trước bảo lãnh. Ở đó, Loan chơi thân với một cô em họ của tôi. Từ Cheney, Washington, nơi đang dạy học, tôi xuống San José nghỉ hè, và tình cờ, tại nhà cô em, được gặp lại Loan – mà 10 năm trước tôi đã thầm chê là con nít. Rồi chạy trời không khỏi nắng, 3 năm sau, “con nít” Loan trở thành vợ tôi và sau đó nữa là mẹ của hai đứa nhỏ. Như một kết thúc có hậu trong những truyện cổ tích. Hay đúng hơn, một định mệnh an bài, huyền diệu mà những ông thầy tử vi và bói toán trên cõi đời này bó tay, không đoán trước được.

    Kính lạy Nữ Vương Maria, Mẹ của lòng Nhân Ái.
    Kim Thanh


Gom Góp Từ Ngữ Người Miền Nam Và Sài Gòn Xưa
  • Gom Góp Từ Ngữ Người Miền Nam Và Sài Gòn Xưa - Nguyễn Cao Trường + (515 Từ Thông Dụng)


    Bài này nhằm để ghi nhớ lại những từ ngữ mà ngày xưa người Sài Gòn/ Miền Nam hay dùng, như: Mèn ơi, Nghеn, Hén, Hеn, Tà Tà, Thềm ba, cà rịch cà tang, tàn tàn.., và những câu thường dùng như: Kêu gì như kêu đò Thủ Thiêm, làm nư, cứng đầu cứng cổ, tháng mười mưa thúi đất, cái thằng trời đánh thánh đâm…

    Xin nhờ bạn đọc commеnt thêm những từ nào còn nhớ để có thể góp nhặt ngõ hầu lưu lại những tiếng gọi, câu nói thân thương của người Sài Gòn và miền Nam trước đây, е rằng một ngày nào đó nó sẽ mai một…

    Giọng nói, sự pha trộn của ngôn ngữ miền Bắc di cư vào những năm 1950 hòa cùng ngôn ngữ Sài Gòn, miền Tây đã tạo nên thêm một phong cách, giai điệu mới… Và bài hát “cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ” của nhạc sĩ Phạm Duy phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên là hình ảnh cô gái chạy xе chậm rãi tỏ ra bất cần mấy anh chàng thеo sau năn nỉ làm quеn, không biết đã bao nhiêu lần làm bâng khuâng xao xuyến lòng người nghе. Nhất là cái giọng người Bắc khi vào Nam đã thay đổi nó nhẹ nhàng, ngang ngang như giọng miền Nam thì tiếng lóng miền Nam càng phát triển. Dễ nghе thấy, người Bắc nhập cư nói từ “Xạo kе” dễ hơn là nói “Ba xạo”, chính điều đó đã làm tăng thêm một số từ mới phù hợp với chất giọng hơn.  chất giọng đó rất dễ nhận diện qua những Mc như Nam Lộc, Nguyễn Ngọc Ngạmà chúng ta đã từng nghе trên các vidеo chương trình ca nhạc, kể chuyện,…

    Đặc biệt trong dịch thuật, nếu không am hiểu văn nói của Sài Gòn miền Nam, nếu dùng googlе dịch thì câu “qua biểu hổng qua qua qua đây cũng dzậy” (câu gốc: Hôm qua qua nói qua qua mà qua hỏng qua, hôm nay qua nói qua hỏng qua mà qua qua), googlе nó dịch ra như vầy: “through through through through this gaping еxprеssion too”.Ông Tây đọc hiểu được ý thì chịu chết. Hay như câu “giỏi dữ hôn” thì googlе dịch cũng ngất ngư con lạc đà.

    Trong văn nói, người Miền Nam hay dùng điệp từ cùng nguyên âm, hay phụ âm, hoặc dùng hình tượng một con vật đễ tăng cấp độ nhấn mạnh: như bá láp bá xàm, cà chớn cà cháo, sai bét bèng bеng (từ bèng bеng không có nghĩa),… sai đứt đuôi con nòng nọc,… chắc là phải cả pho sách mới ghi lại hết…

    Ai người miền Nam thì cũng hiểu câu này: “thôi tao chạy trước tụi bây ở lại chơi vui hén”, ở đây chạy cũng có nghĩa là đi về, chứ không phải là động từ “chạy = to run” như tiếng Anh.

    Hay và lạ hơn, cách dùng những tựa hay lời bài hát để thành một câu nói thông dụng có lẽ phong cách này trên thế giới cũng là một dạng hiếm, riêng Miền Nam thì nhiều vô kể. 

    Thí dụ: Khi nghе ai nói chuyện lặp đi lặp lại mà không chán thì người nghе ca một đoạn: “Nhắc chi chuyện cũ thêm đau lòng lắm người ơi!”, hoặc khi sắp chia tay thì lại hỏi: “Đêm nay ai đưa еm về!” Người ngoại quốc ai không biết cứ tưởng là người đó đang ca chứ hổng phải đang hỏi mình, như khi nghе ai nói chuyện mà chuyện này ai cũng biết rồi thì lại nói: “Xưa rồi Diễm…” với cái giọng mà âm “…i…ễ…m…” kéo dài tha thướt.

    Tuy nhiên do những từ này được trình bày bằng chữ nghĩa nên cách xài nhấn âm, lên giọng của người Miền Nam không thể biểu lộ hết cái hay của nó,ví dụ như riêng câu: “thằng cha mầy, làm gì mà mồ hôi đổ ướt hết áo dzậy?” Mấy tiếng “thằng cha mầy” kéo dài hơi lại có nghĩa là gọi yêu thương chứ không phải la mắng, tương tự khi mấy cô gái nguýt (nói): “Xí! Hổng chịu đâu”, “Xí! cha già dịch nè!”, ”Sức mấy!”, “Ông nói gì tui ưa hổng nổi nha!”, “cha già khó ưa! ” với cách nhấn giọng thì nghе rất dễ thương và dịu dàng nhưng khó gần lắm à nghеn.  Nhưng đến khi nghе câu: ”Tui nói lần cuối, tui hổng giỡn chơi với Ông nữa đâu đó nghеn!” thì coi chừng… liệu hồn đó.

    Thật ra không phải người Sài Gòn ai cũng xài hết mấy từ ngữ này, chỉ có người bình dân mới dám xài từ như “Mả cha, Tổ mẹ” để kèm thеo câu nói mà thôi. Dân nhà trí thức ít ai được ba má cho nói, nói ra là vả miệng không kịp ngáp luôn, giáo dục ngày xưa trong gia đình rất là khó, nhất là mấy người làm bên nghề giáo dạy con càng khó dữ nữa.

    Ra đường nghе mấy đứa con nít nói “ĐM” thậm chí còn không hiểu nó nói gì, về nhà hỏi lại chữ đó là gì, chưa gì đã bị cấm tiệt không được bắt chước, lúc đó chỉ nghе Ba Má trả lời: “Đó là nói bậy không được bắt chước đó nghеn!” chưa kể tới chuyện người lớn đang ngồi nói chuyện mà chạy vô xầm xập hỏi thì cũng bị la rầy liền: “chỗ người lớn nói chuyện không được chеn vô nhớ chưa?”

    Đến năm 1980 thì giáo dục cũng khác hẳn ngôn ngữ bắt đầu đảo lộn ở cấp tiểu học… tiếng Sài Gòn dần dần bị thay đổi, đến nay trên các chương trình Gamе Show chỉ còn nghе giọng miền Nam với câu nói: 

    “Mời anh trả lời ạ”, “các bạn có thấy đúng không ạ”,  ạ… ạ… ạ… cái gì cũng ạ… làm tui thấy LẠ!

    Thêm nữa, bây giờ mà xеm phim Việt Nam thì hình như không còn dùng những từ ngữ này, khi kịch bản phim, hay tiểu thuyết đặt bối cảnh vào thời điểm xưa mà dùng ngôn ngữ hiện đại lồng vào, coi phim nghе thấy nó lạ lạ làm sao đâu á…

    Tò tе tí tе chút, mong rằng các bạn khi đọc những từ ngữ này sẽ hồi tưởng lại âm hưởng của Sài Gòn một trời thương nhớ!

    Trân trọng,

    Nguyễn Cao Trường

     

    LIỆT KÊ MỘT SỐ TỪ NGỮ CỦA NGƯỜI MIỀN NAM VÀ SÀI GÒN XƯA:

    1. A-ma-tưa(ơ) = hổng chuyên nghiệp (gốc Pháp Amateur)
    2. À nha = thường đi cuối câu mệnh lệnh dặn dò, ngăn cấm (không chơi nữa à nha)
    3. Áng chừng, đâu chừng, hổng chừng, dễ chừng = dự đoán (từ đây qua kia áng chừng 500 thước – Đâu chừng thằng Sáu chiều nay nó dìa tới đó bây)
    4. Anh em cột chèo
    5. Áo ca-rô = áo kẻ ô (bắc)
    6. Áo thun ba lá = Áo thun ba lổ, Áo May Ô (bắc) gốc Pháp maillot
    7. Áp-phe = trúng mánh, vô mánh (chạy áp-phe vớt cú chót kiếm tiền!) gốc tiếng Pháp affaire
    8. Áp-phê = hiệu ứng, hiệu quả (billard: để hết áp-phê bên trái chúi đầu cơ xuống kéo nhẹ là nó qua liền hà)
    9. Ăn coi nồi, ngồi coi hướng = Ăn trông nồi, ngồi trông hướng
    10. Ăn cộc đi con = ăn nhiều dô (Gò Công)
    11. Ăn hàng = ăn uống, đi ăn cái gì nhẹ như chè, chứ không phải ăn cơm trưa-chiều
    12. Âm binh = Cô hồn, các đảng, phá phách (mấy thằng âm binh = mấy đứa nhỏ phá phách)
    13. Bà chằn lửa = người dữ dằn (dữ như bà chằn)
    14. Bá chấy, bá phát = quá xá – Ngon bá chấy bò chét chó! Là ngon quá trời đất luôn!
    15. Ba ke, Ba xạo = xạo – sau này (1975) có thêm chữ ba đía rồi bớt dần thành đía (đừng có đía= đừng có nói xạo)
    16. Ba lăm = 35 = già dê (dê 35)
    17. Ba lơn = tính hay đùa cợt, chòng ghẹo người khác nhưng không gây hại, hoặc có chủ đích hại người
    18. Bá Láp Bá Xàm =Tầm xàm – Bá láp
    19. Bà tám = nhiều chuyện (thôi đi bà tám = đừng có nhiều chuyện nữa, đừng nói nữa)
    20. Ba Tăng = Bảo kê gốc Pháp Patent
    21. Bang ra đường = chạy ra ngoài đường lộ mà không coi xe cộ, hoặc chạy ra đường đột ngột, hoặc chạy nghênh ngang ra đường
    22. Bành ki = bự
    23. Banh ta lông = như hết chuyện (gốc từ cái talon của vỏ xe)
    24. Bảnh tỏn, Sáu bảnh= đẹp ra dáng (mặc đồ vô thấy bảnh tỏn ghê nha)
    25. Banh xà lỏn
    26. Bạt mạng = bất cần, không nghĩ tới hậu quả (ăn chơi bạt mạng)
    27. Băng = nhà băng, ngân hàng gốc Pháp (banque)
    28. Bặc co tay đôi = đánh nhau tay đôi
    29. Bắt kế: là do PƠRKAI KUDA mà ra, Pơkai = Thắng vào xe, Kuda = Con ngựa
    30. Bặm trợn = trông dữ tợn, dữ dằn
    31. Bất thình lình = đột ngột, Bất tử
    32. Bầy hầy = bê bối, ở dơ
    33. Bẹo = chưng ra, Bệu (gốc từ cây Bẹo gắn trên ghe để bán hàng ở chợ nổi ngày xưa)
    34. Bẹo gan = chọc cho ai nổi điên, ứa gan
    35. Bề hội đồng = hiếp dâm tập thể
    36. Bển = bên đó, bên ấy (tụi nó đang chờ con bên bển đó!)
    37. Bí lù = không biết đường trả lời, không biết
    38. Bí xị = buồn
    39. Biết đâu nà, biết đâu nè, = biết đâu đấy
    40. Biết sao hôn!
    41. Biệt tung biệt tích, biệt tăm biệt tích, mất tích, mất tiêu, đâu mất = không có mặt, mất dấu
    42. Biểu (ai biểu hổng chịu nghe tui mần chi! – lời trách nhẹ nhàng) = bảo, nhưng câu “ai biểu” thì lại có hàm ý người kia: “tự làm thì tự chịu”
    43. Bình thủy = phích nước
    44. Bình-dân = bình thường
    45. Bít bùng
    46. Bo bo xì = nghỉ chơi không quen nữa (động tác lấy tay đập đập vào miệng vừa nói của con nít)
    47. Bỏ qua đi tám = cho qua mọi chuyện đừng quan tâm nữa (chỉ nói khi người đó nhỏ vai vế hơn mình)
    48. Bỏ thí = bỏ
    49. Bồ = gọi bạn thân thiết (Ê chiều nay bồ rảnh tạt qua nhà chở tui đi luôn nghen)
    50. Bồ đá = bị bạn gái bỏ
    51. Bội phần, muôn phần = gấp nhiều lần
    52. Bồn binh = Bùng binh, vòng xoay (nay)
    53. Buồn xo, buồn hiu = rất buồn (làm gì mà coi cái mặt buồn xo dậy?)
    54. Buộc = cột
    55. Bữa = buổi/từ đó tới nay (ăn bữa cơm rồi về/bữa giờ đi đâu mà hổng thấy qua chơi?)
    56. Cà chớn cà cháo = không ra gì
    57. Cà chớn chống xâm lăng
    58. Cà giựt = lăng xăng, lộn xộn
    59. Cà kê dê ngỗng = dài dòng, nhiều chuyện
    60. Cà lăm = nói lắp
    61. Cà Na Xí Muội = chuyện không đâu vào đâu
    62. Cà nghinh cà ngang = nghênh ngang
    63.  nhỏng rảnh rỗi không việc gì để làm (đi cà nhỏng tối ngày), có khi gọi là nhỏng nhỏng
    64. Cà lơ phất phơ
    65. Cà rem = kem
    66. Cà rề, Cà rịt cà tang = chậm chạp
    67. Cà rịch cà tàng
    68. Cà rgin chơi cho vui, ngoài ra cũng có nghĩa như ba lơn
    69. Cà tàng = bình thường, quê mùa,…
    70. Cà tong cà teo = ốm, gầy yếu
    71. Cà tưng cà tửng
    72. Cái thằng trời đánh thánh đâm
    73. Càm ràm = nói tùm lum không đâu vào đâu/nói nhây
    74. Cạn tàu ráo máng; ăn cháo đá bát = vô ơn
    75. Càng quấy = phá phách hư hỏng
    76. Cạo đầu khô
    77. Cảo = kéo, rít (cảo điếu thuốc gần tới đót)
    78. Cảo Dược = làm cho thẳng
    79. Có chi hông? = có chuyện gì không?
    80. Coi = thử; liền vd: Nói nghe coi? Làm coi
    81. Coi bộ ngon ăn, ngon ăn đó nghen = chuyện dễ ăn (không liên quan tới ngon d – chuyện này làm coi bộ ngon ăn đó nghen!)
    82. Coi được hông?
    83. Còn ai trồng khoai đất này = chính là tôi, “tôi đây chớ ai”
    84. Còn khuya = còn lâu (uh! mày ngon nhào vô kiếm ăn, còn khuya tao mới sợ mày!)
    85. Con ở = người ở, (nay Oshin từ tựa đề bộ phim của Nhật)
    86. Cô hồn, các đảng
    87. Công tử bột = nhìn có dáng vẻ thư sinh yếu đuối – Xem thêm
    88. Cù lần, cù lần la = từ gốc từ con cù lần chậm chạp, lề mề, chỉ người quá chậm lụt trong ứng đối với chung quanh … (thằng này cù lần quá!)
    89. Cua gái = tán gái
    90. Cụng = chạm
    91. Cuốc = chạy xe (tui mới làm một cuốc từ Hocmon dzia Saigon cũng được trăm hai bỏ túi!)
    92. Cưng = cách gọi trìu mến (“Cưng” dân Trảng bàng nè! Trên cưng ”dẫn” ”sài” ”dậy” hà)
    93. Cứng đầu cứng cổ
    94. Chả = Cha đó
    95. Chà bá, tổ chảng, chà bá l= to lớn, bự
    96. Cha chả = gần như từ cảm thán “trời ơi! ” (Cha chả! hổm rày đi đâu biệt tích dzậy ông?)
    97. Chàng hảng chê hê = banh chân ra ngồi (Con gái con đứa gì mà ngồi chàng hảng chê hê hà, khép chưn lại cái coi!)
    98. Cháy túi = hết tiền
    99. Chạy, Dọt, Chẩu = đôi khi cũng có nghĩa là đi về (thôi tụi bây ở chơi tao chạy (dọt) trước à!) Chẩu:  nguyên gốc âm lấy từ tiếng Quảng Đông
    100. Chạy te te = chạy một nước – Con nhỏ vừa nghe Bà Hai kêu ra coi mắt thì nó xách đích chạy te te ra đằng sau trốn mất tiêu rồi
    101. Chạy tẹt ga, đạp hết ga= kéo hết ga, hết sức – cũng có nghĩa là chơi thoải mái – “mày cứ chơi “tẹt ga” (mát trời ông địa) đi, đừng có sợ gì hết, có gì tao lo” (ga = tay ga của xe)
    102. Chạy u đi
    103. Chạy vắt giò lên cổ, Chạy sút quần, Chạy đứng tóc = chạy không kịp thở
    104. Chằn ăn trăn quấn = dữ dằn
    105. Chăm bẳm = tập trung (dòm cái gì mà dòm chi chăm bẳm vậy?)
    106. Chậm lụt = chậm chạp, khờ
    107. Chận họng = không cho người khác nói hết lời
    108. Chém vè (dè)= trốn trốn cuộc hẹn trước
    109. Chén = bát
    110. Chèn đét ơi, mèn đét ơi, chèn ơi, Mèn ơi = ngạc nhiên
    111. Chèo queo = một mình (làm gì buồn nằm chèo queo một mình dậy?)
    112. Chết cha mày chưa! có chiện gì dậy? = một cách hỏi thăm xem ai đó có bị chuyện gì làm rắc rối không
    113. Chì = giỏi (anh ấy học “chì” lắm đó)
    114. Chiên = rán
    115. Chình ình, chần dần = ngay trước mặt (Nghe tiếng gọi thằng Tư quay đầu qua thì đã thấy tui chình ình trước mặt)
    116. Chịu = thích, ưa, đồng ý (Hổng chịu đâu nha, nè! chịu thằng đó không tao gả luôn)
    117. Chỏ mũi, chỏ mỏ= xía, xen vào chuyện người khác
    118. Chói lọi = chói sáng
    119. Chỏng mông = mệt bở hơi tai (làm chỏng mông luôn đây nè)
    120. Chỗ làm, Sở làm = hãng xưỡng, cơ quan công tác
    121. Chột dạ = nghe ai nói trúng cái gì mình muốn dấu
    122. Chơi chỏi = chơi trội, chơi qua mặt
    123. Chùm hum = ngồi bó gối hoặc ngồi lâu một chỗ không nhúc nhích, không quan tâm đến ai (có gì buồn hay sao mà ngồi chùm hum một chỗ dậy?)
    124. Chưn = chân
    125. Chưng hng = ngạc nhiên
    126. Chưng ra = trưng bày
    127. Dạ, Ừa (ừa/ừ chỉ dùng khi nói với người ngang hàng) = Vâng, Ạ
    128. Dạo này = thường/nhiều ngày trước đây đến nay (Dạo này hay đi trễ lắm nghen! /thường)
    129. Dấm da dấm dng
    130. Dân chơi cầu ba cẳng = dân giang hồ – cũng có nghĩa khác là chịu chơi nữa (nhìn mày giống dân chơi cầu ba cẳng quá)
    131. Dây, không có dây dzô nó nghe chưa = không được dính dáng đến người đó
    132. Dè chừng = coi chừng (Tui lỡ nói lớn chút ai dè nó nghe được, chứ thiệt tình tui đâu có muốn)
    133. Dễ tào = dễ sợ
    134. Dì ghẻ = mẹ kế
    135. Dị hợm = quái dị, không giống ai
    136. Dĩa = Đĩa
    137. Diễn hành, Diễn Binh= diễu hành, diễu binh (chữ diễu bây giờ dùng không chính xác, thật ra là “diễn” mới đúng)
    138. Diễu d =????
    139. Dọt lẹ
    140. Dô diên (vô duyên) = không có duyên (Người đâu mà vô diên thúi vậy đó hà – chữ “thúi’ chỉ để tăng mức độ chứ không có nghĩa là hôi thúi)
    141. Dù = Ô
    142. Du ngoạn = tham quan
    143. Dục (vụt) đi = vất bỏ đi (giọng miền nam đọc Vụt = Dục âm cờ ít đọc thành âm tờ, giống như chữ “buồn” giọng miền nam đọc thành “buồng”)
    144. Dùng dằng = ương bướng
    145. Dữ đa, Dữ hôn và …dữ …hôn…= rất (giỏi dữ hén cũng có nghĩa là khen tặng nhưng cũng có nghĩa là đang răn đe trách móc nhẹ nhàng tùy theo ngữ cảnh và cách diễn đạt của người nói ví dụ: “Dữ hôn! lâu quá mới chịu ghé qua nhà tui nhen”, nhưng “mày muốn làm dữ phải hôn” thì lại có ý răn đe nặng hơn) Dữ đa thường dùng cuối câu ”cái này coi bộ khó kiếm dữ đa”
    146. Dzìa, dề = về (thôi dzìa nghen- câu này cũng có thể là câu hỏi hoặc câu chào tùy ngữ điệu lên xuống người nói)
    147. Dừa dừa (vừa) thôi nhen = đừng làm quá
    148. Đá cá lăn dưa = lưu manh
    149. Đa đi hia = đi chỗ khác
    150. Đã nha! = Sướng nha!
    151. Đài phát thanh = đài tiếng nói
    152. Đánh dây thép = gi điện tín
    153. Đàng = đường (Đi một đàng học một sàng khôn)
    154. Đánh đàn đánh đọ = Đánh đàn (học thì lo học không “đánh đàn đánh đọ” nhe hông) một cách để chê việc đánh đàn bằng cách ghép thêm hai từ láy đánh đọ phía sau
    155. Đánh tù xầm, Quảnh tù xì = oẳn tù tì (trò chơi bằng tay ra kéo, búa, bao) gốc từ tiếng Anh: one two three
    156. Đâm ra = thành ra
    157. Đào hát = nữ diễn viên cải lương, Tài tử cải lương = nam
    158. Đặng = được (Qua tính vậy em coi có đặng hông?)
    159. Đầu đường xó chợ
    160. Đen như chà dà (và) = đen thui, đen thùi lùi = rất là đen
    161. Đẹp trai con bà Hai = đẹp
    162. Đế = chen thêm (đang nói nó đế vô một câu chận họng làm tui câm luôn)
    163. Đêm nay ai đưa em dìa = hôm nay về làm sao, khi nào mới về (một cách hỏi) – từ bài hát Đêm nay ai đưa em về của Nguyễn Ánh 9
    164. Đi bang bang = đi nghênh ngang
    165. Đi bụi
    166. Đi cầu = đi đại tiện, đi nhà xí
    167. Đi mần = đi làm
    168. Đồ bỏ đi = đồ hết xài (người gì xài hổng dô, đúng là đồ bỏ đi mà)
    169. Đồ già dịch = chê người mất nết tùy ngữ cảnh và cách nhấn âm, kéo dài thì sẽ có hàm ý khác
    170. Đồ mắc dịch = xấu nết tuy nhiên, đối với câu Mắc dịch hông nè! có khi lại là câu nguýt – khi bị ai đó chòng ghẹo
    171. Đờn = đàn
    172. Đùm xe = Mai-ơ
    173. Đực rựa = đàn ông, con trai
    174. Đừng có mơ, đừng có hòng
    175. Được hem (hôn/hơm)? = được không? chữ hông đọc trại thành hôn, hem hoặc hơm
    176. Gác dan = bảo vệ, người gác cổng (gốc Pháp: Guardian)
    177. Gần xịt = thiệt là gần
    178. Ghẹo, chòng ghẹo = chọc quê
    179. Ghét = tùy cách nhấn giọng và kéo dài thì…
    180. Ghê = rất – hay ghê há tùy theo ngữ cảnh và âm điệu thì nó mang ý nghĩa là khen hoặc chê
    181. Ghệ linh= em đẹp
    182. Gớm ghiết = nhìn thấy ghê, không thích
    183. Già dịch = Già dê
    184. Già háp = già khằn, già cú đế
    185. Giục giặc, hục hặc = đang gây g, không thèm nói chuyện với nhau (hai đứa nó đang hục hặc!)
    186. Ghi-đông, Bọt-ba-ga
    187. Hãng, Sở = công ty, xí nghiệp
    188. Hay như = hoặc là
    189. Hầm = nóng (trời hầm quá ngồi không mà người nó đổ mồ hôi ướt nhẹp)
    190. Hầm bà lằng (gốc tiếng Quảng Đông);
    191. Hậu đậu = làm việc gì cũng không tới nơi tới chốn
    192. Héo queo = xụi lơ, bi xị
    193. Hết = chưa, hoặc chỉ nâng cao mức độ nhấn mạnh (chưa làm gì hết)
    194. Hết trơn hết trọi = chẳng, không – “Hết Trọi” thường đi kèm thêm cuối câu để diễn tả mức độ (Ở nhà mà hổng dọn dẹp phụ tui gì hết trơn (hết trọi) á!)
    195. Hôi mợi= thôi mày ơi
    196. Hồi nảo hồi nào = xưa ơi là xưa
    197. Hồi nẳm = lâu lắm rồi không nhớ ngày tháng
    198. Hổm bữa = hôm trước
    199. Hổm rày, mấy rày = từ mấy ngày nay
    200. Hổng có chi! = không sao đâu
    201. Hổng chịu đâu
    202. Hổng thích à nhen!
    203. Hổng xi nhê = không ăn thua, không có ý nghĩa gì hết, (Kiếm nhiêu đây tiền đâu có xi nhê gì) gốc pháp: Signifier
    204. Hột = hạt (hột đậu đen, đỏ) miền nam ghép cả Trứng hột vịt thay vì chỉ nói Trứng vịt như người đàng ngoài
    205. Hờm = chờ sẵn (tui hờm sẵn rồi chỉ chờ thằng kia nó chạy ra là tui cho nó một đá cho nó lăn cù mèo luôn)
    206. Hợp gu = cùng sở thích
    207. Hớt hơ hớt hãi = hấp tấp và sợ hãi (nó hớt hơ hớt hãi chạy vào báo tin…
    208. Hú hồn hú vía
    209. Kẻo = coi chừng (Trời ui ui! giờ không đi sớm kẻo trời nó mưa là ướt chèm nhẹp luôn đó nhe)
    210. Kể cho nghe nè! = nói cho nghe
    211. Kêu gì như kêu đò thủ thiêm = kêu lớn tiếng, kêu um trời
    212. Kêu giựt ngược = kêu gấp bắt buộc người khác phải làm theo ý mình (kêu cái gì mà kêu như giựt ngược người ta hà!)
    213. Kinh thiên động địa
    214. Khán thính giả (người xem kịch, cải lương, truyền hình…) trong đó Khán (): xem – Thính (): nghe, giả (): người, tổng hợp lại là người nghe nhìn, giờ thì kêu ngắn gọn là khán giả: chỉ biết xem mà không nghe được, đỡ cãi
    215. khính = ké – mặc đồ khính, đi ăn khính
    216. Khỉ đột
    217. Khỉ gió
    218. Khỉ khô
    219. Khó ưa = chê nhưng có lúc lại là khen
    220. Khoái tỉ = thích gần chết
    221. Không thèm = không cần (làm gì dữ dạ tui đâu có thèm đâu mà bày đặt nh qua nh lại trước mặt tui?)
    222. Lâu lắc= chậm trễ, trễ nãi hàm ý trách móc (Kêu hoài sao ko mở cửa, làm gì trong trỏng mà lâu lắc vậy?)
    223. Lai căng = không nguyên bản
    224. Làm (mần) cái con khỉ khô = không thèm làm
    225. Làm (mần) dzậy coi được hông?
    226. Làm dzậy coi có dễ ưa không? = một câu cảm thán tỏ ý không thích/thích tùy theo ngữ cảnh
    227. Làm gì mà toành hoanh hết zậy
    228. Làm mướn = làm thuê
    229. Làm nư = lì lợm, Làm cho lợi gan
    230. Làm um lên = làm lớn chuyện
    231. Láng cón = bảnh bao (có thể do hồi xưa ra đường chải đầu tóc bóng mượt, đánh giày bóng như gương, quần áo thẳng thớm nên ra từ này)
    232. Lanh chanh
    233. Lạnh xương sống
    234. Lao-cần (cách dùng từ của Ông Nguyễn Văn Vĩnh có gạch nối ở giữa)
    235. Láo-háo = khoảng chừng (tuổi nó láo háo c tuổi tao chứ mấy)
    236. Lao-tổn (cách dùng từ của Ông Nguyễn Văn Vĩnh có gạch nối ở giữa)
    237. Lặc lìa = muốn rớt ra, rời ra nhưng vẫn còn dính với nhau chút xíu
    238. Lặc lìa lặc lọi =
    239. Lắm à nhen = nhiều, rất (thường nằm ở cuối câu vd: thương lắm à nhen)
    240. Lăn cù mèo = lăn long lóc, té nga
    241. Lắc lư con lạc đà = nghiêng qua nghiêng lại
    242. Lầm lầm lì lì = không nói không rằng mặt nghiêm tỏ ý không thích
    243. Lần = tìm kiếm (biết đâu mà lần = biết tìm từ chỗ nào)
    244. Lần mò = tìm kiếm, cũng có nghĩa là làm chậm chạm (thằng tám nó lần mò cái gì trong đó dậy bây?)
    245. Lấy le = khoe đồ
    246. Lẹt đẹt = ở phía sau, thua kém ai (đi lẹt đẹt! Lảm gì (làm cái gì) mà cứ lẹt đẹt hoài vậy)
    247. Leo cây; leo cây me = thất hẹn; Xong! nãy giờ chờ thấy bà, chắc thằng Tám nó cho tụi mình leo cây rồi!
    248. Lèo = thất hẹn – hứa lèo
    249. Lề mề
    250. Lên bờ xuống ruộng
    251. Lên hơi, lấy hơi lên = bực tức (Nghe ông nói tui muốn lên hơi (lấy hơi lên) rồi đó nha!
    252. Liệu = tính toán (thằng Ba liệu coi đi sớm một chút kẻo bị kẹt xe thì lỡ hết chiện đó nhen!)
    253. Liệu hồn = coi chừng
    254. Líp-ba-ga = mút mùa Lệ Thủy, thoải mái
    255. Lóng rày = hổm rày (thời gian gần đây)
    256. Lô = đồ giả, đồ d, đồ xấu (gốc từ chữ local do một thời đồ trong nước sản xuất bị chê vì xài không tốt)
    257. Lộn = nhầm (nói lộn nói lại)
    258. Lộn xộn = làm rối
    259. Lục cá nguyệt: sáu tháng
    260. Lục đục = không hòa thuận (gia đình nó lục đục quài), đôi khi lại có nghĩa khác (Làm gì lục đục ở sau bếp hoài vậy bây?)
    261. Lụi hụi = ???? (Lụi hụi một hồi cũng tới rồi nè!)
    262. Lùm xùm = rối rắm,
    263. Lung tung xà beng
    264. Lừng mặt = quen quá không còn sợ nữa (Chơi với nó riết nó lừng mặt mình luôn nhen)
    265. Lười chẩy thây; đại lãn; liệt = làm biếng
    266. Má = Mẹ
    267. Mả = Mồ
    268. Ma lanh, Ma le gốc Pháp (Malin)
    269. Mã tà = cảnh sát
    270. Mari phông tên = con gái thành phố quê mùa
    271. Mari sến = sến cải lương
    272. Mạnh giỏi = mạnh khỏe
    273. Mát trời ông địa, tẹt ga = thoải mái
    274. Máy lạnh = máy điều hòa nhiệt độ
    275. Mắc cười = buồn cười
    276. Mắc dịch = Mất nết, không đàng hoàng, lẳng lơ, xỏ lá, bncợt
    277. Mắc địt = d ẹt; một cách chê cái gì đó d
    278. Mặt chù ụ một đống, mặt chầm dầm
    279. Mần ăn = làm ăn
    280. Mần chi = làm gì
    281. Mậy = mày (thôi nghen mậy = đừng làm nữa)
    282. Mé = phía (nhà ổng ở xích mé bên kia kìa)
    283. Mé = tỉa nhánh
    284. Mè nheo = Mèo nheo
    285. Méo xẹo, buồn hiu = thất vọng (cầm bài thi nhìn điểm xong thằng Tư mặt méo xẹo, về nhà thể nào cũng bị Ba rầy)
    286. Mét = mách
    287. Miệt = kèm theo để chỉ một vùng đất, địa danh Miệt Hóc Môn, Miệt dưới, Miệt vườn
    288. Miệt, mai, báo, tứ, nóc… chò = 1, 2, 3, 4, 5…
    289. Mình ên = một mình (đi có mình ên, làm mình ên) gốc Khmer
    290. Mò mẫm rờ rẫm sờ sẩm (hài) = mò
    291. Mở bum, mở ban: Mở party nhấy đầm
    292. Mợi = mày ơi
    293. Mồ tổ! = câu cảm thán
    294. Một lèo, một hơi = một mạch
    295. Muỗng = Thìa, Môi
    296. Mút mùa lệ thủy = mất tiêu
    297. Mút chỉ cà tha
    298. Mừng húm
    299. Mưa thúi đất (nam bộ) xem thêm tháng mười “mưa thúi đất” để rõ hơn
    300. Nam Tàu Bắc Đẩu
    301. Nào giờ = từ trước tới nay
    302. năn nỉ ỉ ôi
    303. Niền xe = vành xe
    304. Nói nghe nè!
    305. Nón An toàn = Mũ Bảo hiểm
    306. Nổ banh xác = nói láo
    307. Nổ dữ dội= quăng lựu đạn (ngày xưa có chuyện hay chọi “lụ đạn” vô chợ khủng bố dân lành)
    308. Nổi cơn tam bành = giận dữ
    309. Nước lên, nước xuống, nước rồng (thủy triều)
    310. Nước phông-tên = nước thủy cục, nước máy, gốc Pháp fontaine
    311. Ngang Tàng = bất cần đời
    312. Nghen, hén, hen, nhen
    313. Nghía = ngắm
    314. Ngó = Nhìn, dòm
    315. Ngó lơ = làm lơ, nhìn chỗ khác không để ý tới ai đó
    316. Ngoại quốc = nước ngoài
    317. Ngõ đường = ngã đường (ngõ ba ngõ tư)
    318. Ngon bà cố = thiệt là ngon
    319. Ngộ = đẹp, lạ (cái này coi ngộ hén)
    320. Ngồi chồm hm = ngồi co chân …
    321. Ngủ nghê
    322. Ngựa đực, Ngựa cái = xảnh xẹ
    323. Người Thượng = người dân tộc miền núi
    324. Nhá qua nhá lại
    325. Nhà đèn = công ty điện lực
    326. Nhà thép = bưu điện – Đánh dây thép
    327. Nhà thuốc GÁC = nhà thuốc Tây bán 24/24
    328. Nhan nhản = thấy cái gì nhiều đằng trước mặt
    329. Nhào vô kiếm ăn, ngon vô đây = thách đố (dám chơi hông, ngon vô đây!)
    330. Nhắc chi chuyện cũ thêm đau lòng lắm người ơi! = đừng nhắc chuyện đó nữa, biết rồi đừng kể nữa – trích lời trong bài hát Ngày đó xa rồi
    331. Nhậu = một cách gọi khi uống rượu, bia (Nói gì thì nói giờ nhậu cái đã)
    332. Nhí nhảnh
    333. Nhiều chiện = nhiều chuyện
    334. Nhìn khó ưa quá (nha)= đôi khi là chê nhưng trong nhiều tình huống lại là khen đẹp nếu thêm chữ NHA phía sau
    335. Nhóc, đầy nhóc: nhiều
    336. Nhột = buồn
    337. Nh qua nh lại = đưa qua đưa lại cái gì đó trước mặt ai (tương tự “nhá qua nhá lại – nhá tới nhá lui” nhưng cấp độ mạnh hơn)
    338. Nhựt = Nhật
    339. Òm = dễ òm, dị òm
    340. Oải chè đậu; quải chè đậu
    341. Ông bà bô = ba má (thường những người có học vấn thì dùng từ này để nói chuyện với bạn về ba má mình)
    342. Ông bà ông giải = Ông bà ông vải (bắc)
    343. Ồng Cò = cảnh sát
    344. Ổng, Bả, Cổ, Chả = Ông, Bà, Cô, Cha ấy = ông đó ổng nói (ông ấy nói)
    345. Pê Băm-Tám: đồ khui bia, khui nghe cái Bốp giống nổ súng P-38
    346. Phi cơ, máy bay = tàu bay
    347. Phờ râu = mệt
    348. Qua bên bển, vô trong trỏng, đi ra ngoải,
    349. Quá cỡ thợ mộc…= làm quá,
    350. Qua đây nói nghe nè! = kêu ai đó lại gần mình
    351. Quá xá = nhiều (dạo này kẹt chiện quá xá!)
    352. Quá xá quà xa = quá nhiều, quá đã
    353. Quắc cần câu = nhậu say hết biết đường
    354. Quăng lựu đạn (ngày xưa hay có chuyện quăng “lựu đạn” vô chợ khủng bố dân lành)
    355. Quần què = (từ tục) chỉ cái quần của phụ nữ ngày có kinh nguyệt, dơ
    356. Quấy = làm sai – dùng cho con nít thì lại khác, có ý là vừa quậy phá vừa khóc (thằng nhóc này hay khóc quấy quá!)
    357. Quê một cục
    358. Quê xệ
    359. Quề trớt = huề vốn, cũng như không
    360. Quởn = rảnh rỗi
    361. Quới nhơn= Quý nhân =/= Cô hồn các đảng (Quới nhơn= Quý nhơn, quý nhân, người tốt đến giúp đỡ)
    362. Ra giường (drap) = vải trảgiường (tui không tính đưa từ này vô nhưng bây giờ họ xài từ chăn, ga, gối, nệm nghe nó kỳ cục gì đâu, đã vậy còn dịch là khăn trải giường, khăn chỉ dùng để lau, cũng không thể nào lớn như cái tấm vải trải giường được)
    363. Ra giêng = qua năm mới, qua tết
    364. Rành = thành thạo, thông thạo, biết (tui hồng rành đường này nhen, tui rành nó tới “sáu câu vọng cổ”
    365. Ráo = hết
    366. Rạp = nhà hát (rạp hát), dựng một cái mái che ngoài đường lộ hay trong sân nhà để cho khách ngồi cho mát (dựng rạp làm đám cưới)
    367. Rân trời = Rần trời, um sùm
    368. Rầu thúi ruột = Sầu thê thảm
    369. Riết = liên tục, hoài – Mần riết = làm hoài
    370. Ro ro = nhuần nhuyễn, (mới tập chạy xe honda mà nó chạy ro ro hà – nó trả bài ro ro)
    371. Rốp rẻng (miền Tây) = làm nhanh chóng
    372. Rốt ráo (miền Tây) = làm nhanh chóng và có hiệu quả
    373. Rủng rỉnh = có tiền trong túi
    374. Ruột xe = xăm
    375. Rượt = chạy đuổi theo
    376. Sai bét bèng beng = rất sai, sai quá trời sai!
    377. Sai đứt đuôi con nòng nọc = như Sai bét bèng beng
    378. Sạp = quầy hàng
    379. Sáu Bảnh
    380. Sấp nhỏ = tụi nhỏ, mấy đứa nhỏ
    381. Sến = cải lương màu mè (mặc đồ gì sến quá trời dậy cha?) nhạc sến lại có ý nghĩa khác không phải là nhạc cải lương
    382. Sến hồi xưa là người làm giúp việc trong nhà
    383. Sên xe = xích gốc pháp chain
    384. Sếp phơ = Tài xế
    385. Sợ teo bu gi (sợ gần chết)
    386. Sống lây lất qua ngày
    387. Sụm bà chè = mệt mỏi, đi hết nổi
    388. Sức mấy = Sức mấy mà buồn = đâu buồn gì
    389. Sườn xe = khung xe
    390. Tả Pín Lù: Hầm bà lằng (gốc Quảng Đông)
    391. Tà tà, tàn tàn, cà rịch cà tang = từ từ
    392. Tài lanh
    393. Tài khôn
    394. Tàn mạt = nghèo rớt mùng tơi
    395. Tàng tàng = bình dân
    396. Tào lao, tào lao mía lao, tào lao chi địa, tào lao chi thiên… chuyện tầm xàm bá láp = vớ vn
    397. Tạt qua = ghé qua
    398. Tàu  = đậu phụ
    399. Tầm ruồng
    400. Tầm xàm bá láp
    401. Tần ngần = do dự (tẩn ngẩn tần ngần) Cậu Hai đứng tần ngần trước nhà cô Ba muốn  cửa mà khổng dám
    402. Tầy quầy, tùm lum tà la = bừa bãi
    403. Té (gốc từ miền Trung) = Ngã (ngã cái ịch - chú thích anh Tuấn Khải – Mắt chú tng nó xụp thần dì mới chịu ngã cái ịchxuống gối ngủ hết biết đầu đít chỗ nào”)
    404. Tèn ten tén ten = chọc ai khi làm cái gì đó bị hư
    405. Teo bu-gi = Sợ gần chết (bugi gốc Pháp)
    406. Tía, Ba = Cha
    407. Tiền lính tính liền, tiền làng tàn liền…!
    408. Tó = lấy, bắt
    409. Tò te tí te = Nói chuyện – “Coi đó! nó xẹt qua tò te tí te với tui mấy câu thì xẹt đi mất tiêu”
    410. Tòn teng = đong đưa, đu đưa
    411. Tổ cha, thằng chết bầm
    412. Tốp nhỏ = nhóm người nhỏ tuổi (thường chỉ có người lớn tuổi gọi như vậy “Tốp nhỏ tụi bây coi dẹp đồ chơi cho lẹ lo ra tay rồi lên ăn cơm nhen”)
    413. Tới = đến (người miền Nam và SG ít khi dùng chữ đến mà dùng chữ tới khi nói chuyện, đến thường chỉ dùng trong văn bản)
    414. Tới chỉ = cuối (Hôm nay chơi tới chỉ luôn!)
    415. Tới đâu hay tới đó = chuyện đến rồi mới tính
    416. Tui ưa dzụ (vụ) này rồi à nhen = tui thích việc này rồi (trong đó tui = tôi)
    417. Tui, qua = tôi
    418. Tụm năm tụm ba = nhiều người họp lại bàn chuyện hay chơi trò gì đó
    419. Tử tế = tốt bụng
    420. Tức cành hông = tức dữ lắm
    421. Tháng mười mưa thúi đất
    422. Thảy = quăng
    423. Thắng = phanh
    424. Thằng cha mày, ông nội cha mày = một cách nói yêu với người dưới tùy theo cách lên xuống và kéo dài âm, có thể ra nghĩa khác cũng có thể là một câu thóa mạ
    425. Thâm căn cố đế = người sống ở vùng nào rất lâu rồi, dân gộc
    426. Thậm thụt
    427. Thân chủ: người khách quen thường xuyên
    428. Thầy chạy
    429. Thấy ghét, nhìn ghét ghê = có thể là một câu khen tặng tùy ngữ cảnh và âm điệu của người nói
    430. Thấy gớm = thấy ghê, tởm (cách nói giọng miền Nam hơi kéo dài chữ thấy và luyến ở chữ Thấy, “Thấy mà gớm” âm mà bị câm)
    431. Thấy gớm = thấy ớn
    432. Thèo lẻo = mách lo (Con nhỏ đó chuyên thèo lẻo chuyện của mầy cho Cô nghe đó!)
    433. Thềm ba, hàng ba
    434. Thêm thắt
    435. Thí = bố thí, cho không, miễn phí, bỏ (thôi thí cho nó đi!) – xưa SG có nhà thương thí: bệnh nhân không phải trả tiền, thí ở đây không mang hàm ý xấu như bây giờ
    436. Thí cô hồn
    437. Thí dụ = ví dụ
    438. Thiếu Tá lỗ: Thượng Sĩ, vì cái lon Thượng Sĩ giống Thiếu Tá nhưng có cái lỗ tròn
    439. Thiệt hôn? = thật không?
    440. Thiệt tình = cảm thán (thiệt tình! nói quài mà nó hổng chịu nghe để giờ té nằm một đống)
    441. Thính giả (người nghe radio, đài)
    442. Thọc cù lét, chọc cù lét = ??? làm cho ai đó bị nhột
    443. Thôi đi má, thôi đi mẹ! = bảo ai đừng làm điều gì đó
    444. Thôi hén!
    445. Thơm = dứa, khóm
    446. Thúi = hôi thối,
    447. Thủng thẳng, Thủng thỉnh = từ từ
    448. Thủy cục = công ty cấp nước
    449. Thưa rỉnh thưa rảng = lưa thưa lác đác
    450. Thước = 1 mét (Đo cho tui chừng 2 thước vải tui may cái áo dài cho sấp nhỏ)
    451. Thưởng Lãm
    452. Thưởng Ngoạn
    453. Trà = Chè
    454. Trả treo
    455. Trăm phần trăm = cạn chén - (có thể gốc từ bài hát Một trăm em ơi – uống bia cạn ly là 100%)
    456. Trật chìa, trật đường rầy = sai giờ giấc ( Hẹn cho đã rồi không ra làm trật chìa hết trơn hết trọi)
    457. Trẹo Bảng họng, lẹo lưỡi = khó phát âm (nói muốn trẹo bảng họng)
    458. Trển = trên ấy (lên trên Saigon mua đi, ở trển có bán đồ nhiều lắm)
    459. Trọ trẹ = giọng nói không rõ ràng
    460. Tròm trèm = cũng c, gần tới (tròm trèm 70 tuổi rồi)
    461. Trời thần đất lở
    462. Trời ui ui = trời hơi tối tối
    463. Trụi lũi = nhẵn thín (cạo râu trụi lũi)
    464. Trừ phi =
    465. Trực thăng = máy bay lên thẳng
    466. Tụi mình = chúng mình
    467. Uể oải = mệt mỏi, lừ đừ
    468. Um xùm
    469. Ứa gan = chướng mắt
    470. Ưng = đồng ý, thích, chịu, … (Ưng ý)
    471. Ướt chèm nhẹp
    472. Ướt như chuột lội (miền Nam hay nói sai là ướt như chuột lột)
    473. Ván ngựa =giống cái sập bằng cây mà hay gọi là đi-văng, có ba tấm gỗ dày đặt lên 2 cặp chân, gọi là bộ ngựa???
    474. Vầy = như vậy (làm vầy nè = làm như vậy nè)
    475. Vè xe = chắn bùn xe
    476. Vỏ xe = lốp
    477. Xa lắc xa lơ: xa thiệt xa
    478. Xả láng sáng về sớm = Cứ thoải mái không lo gì hết
    479. Xà ích (Sãis) có nghĩa là Thằng đánh xe, (1930 – không sử dụng nữa từ khi có xe hơi)
    480. Xà lỏn, quần cụt = quần đùi
    481. Xà quần gốc Khmer
    482. Xài = dùng, sử dụng
    483. Xảnh xẹ, Xí xọn = xảnh xẹ = làm điệu
    484. Xe Cá = giống xe thổ mộ nhưng không có mui, dùng để chở hàng, không chở người
    485. Xe ba gác = xe ba bánh dùng để chở đồ, xe ba gác máy (như xe ba gác nhưng gắn thêm máy chứ không đạp)
    486. Xe cam nhông = xe tải
    487. Xe đò = xe chở khách, tương tự như xe buýt nhưng tuyến xe chạy xa hơn ngoài phạm vi nội đô (Xe đò lục tỉnh)
    488. Xe Honda = xe gắn máy (có một thời gian người miền Nam quen gọi đi xe Honda tức là đi xe gắn máy – Ê! mầy tính đi xe honda hay đi xe đạp dậy?)
    489. Xe hơi = Ô tô con
    490. Xe nhà binh = xe quân đội
    491. Xe ôm
    492. Xe thổ mộ
    493. Xẹp lép = lép xẹp, trống rổng (Bụng xẹp lép – đói bụng chưa có ăn gì hết)
    494. Xẹt qua = ghé ngang qua nơi nào một chút (tao xẹt qua nhà thằng Tám cái đã nghen – có thể gốc từ sét đánh chớp xẹt xẹt nhanh)
    495. Xẹt ra – Xẹt vô = đi ra đi vào rất nhanh
    496. Xí = hổng dám đâu/nguýt dài (cảm thán khi bị chọc ghẹo)
    497. Xi-cà-que: đi cà nhắc
    498. Xi nhan = ra hiệu (gốc từ tiếng Pháp: signal)
    499. Xì-tin= style
    500. Xí xa xí xầm, xì xà xì xầm, xì xầm= nói to nhỏ
    501. Xí xọn
    502. Xí cái bùm bum
    503. Xía = chen vô (Xí! cứ xía dô chiện tui hoài nghen!)
    504. Xỉa răng = không đủ chi phí (Làm muốn chỏng mông mà hổng đủ xỉa răng nữa)
    505. Xỉa xói = châm chọt
    506. Xiết = Làm hết xiết (làm không nổi) Nhưng Ở một số vùng tây nam bộ (Cà Mau) cũng có nghĩa là: Nhanh - Ví dụ; Làm xiết xiết = Làm nhanh nhanh, Chạy xiết đi = Chạy nhanh đi
    507. Xiên lá cành xiên qua cành lá = câu châm chọc mang ý nghĩa ai đó đang xỏ xiên mình???? (gốc từ bài hát Tình anh lính chiến- Xuyên lá cành trăng lên lều vải)
    508. Xỏ lá ba que = giống như chém dè (vè), tuy nhiên có ý khác là cảnh báo đừng có xen vào chuyện của ai đó trong câu: “đừng có xỏ lá ba que nhe mậy”
    509. Xỏ xiên = đâm thọc, đâm bị thóc chọc bị gạo… (ăn nói xỏ xiên)
    510. Xú chiên = áo lót nữ – gốc tiếng Pháp
    511. Xì líp = quần lót
    512. Xụi lơ
    513. Xưa như trái đất, hồi nẩm, cái thời ông Cố ông Sơ ông Sờ ông Sẩm = xưa thiệt là xưa
    514. Xưa rồi diễm = chuyện ai cũng biết rồi (gốc từ tựa bài hát Diễm xưa Trịnh Công Sơn)
    515. Y chang, Y đúc, Y khuôn, y bong = giống nhau.

    Nguyễn Cao Trường


    --


--
====================================================================
Trên Facebook :
http://www.facebook.com/DaiHocKhoaHocSaiGon
====================================================================
 
Bạn đã nhận được bài viết này vì bạn đã đăng ký vào Nhóm "KhoaHocSG" của Google Groups.
* Để đăng bài lên nhóm này, hãy gửi email đến "khoa...@googlegroups.com"
* Để RÚT TÊN ra khỏi nhóm này, gửi email đến "khoahocSG+...@googlegroups.com"
* Để có thêm tuỳ chọn (preference set up), hãy truy cập vào nhóm này tại: http://groups.google.com/group/khoahocSG?hl=vi
---
Bạn nhận được thư này vì bạn đã đăng ký vào nhóm Google Groups "KhoaHocSG".
Để hủy đăng ký khỏi nhóm này và ngừng nhận email từ nhóm, hãy gửi email đến khoahocsg+...@googlegroups.com.
Để xem cuộc thảo luận này, hãy truy cập vào https://groups.google.com/d/msgid/khoahocsg/MN2PR02MB6592E9CD2472B41D4D166AF1FC27A%40MN2PR02MB6592.namprd02.prod.outlook.com.
Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages