Fwd: ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 12-08-2025 (SỐ 219-2025)

5 views
Skip to first unread message

Giu Tran

unread,
Aug 12, 2025, 12:56:49 PMAug 12
to


---------- Forwarded message ---------
From: soan....@hotmail.com <soan....@hotmail.com>
Date: Tue, Aug 12, 2025 at 5:02 AM
Subject: ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 12-08-2025 (SỐ 219-2025)
To:



GOOD MORNING VIET NAM - CANADA - USA

ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 12-08-2025  (SỐ 219-2025)

Image insérée

Image insérée


MỤC LỤC
  1. TINH THẦN CỦA NGƯỜI QUỐC GIA LÀ NHƯ VẬY ĐÓ...!
  2. Lá gan của cô còn tốt lắm!
  3. Trở về nghề cũ
  4. Bạn có biết những món ăn tốt cho sức khỏe tim mạch?
  5. Trận đánh cộng đồng Bún, Bình Dương
  6. Chợ Đông Ba  xưa
  7. Vĩnh biệt Nhạc sĩ Mặc Thế Nhân
  8. Ăn Tết Tại Cổng Tây của Việt Nam-Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù
  9. CÀ PHÊ BAO CẤP
  10. EM HỎI ANH BAO GIỜ TRỞ LẠI?
  11. Cancer de la prostate : le jus de grenade exercerait un effet préventif et thérapeutique






TINH THẦN CỦA NGƯỜI QUỐC GIA LÀ NHƯ VẬY ĐÓ...!

Tấm hình hai vợ chồng Tổng Thống Đại Hàn Park Chung Hee tiếp đón long trọng Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu và phu nhân. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu công du đến thăm Đại Hàn Dân Quốc ngày 27/5/1969. 

Dinh Đô Chánh Seoul treo quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa và quốc kỳ Đại Hàn: “Hoan nghinh Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu và phu nhân viếng thăm Đại Hàn".

Đại Hàn in con tem 7 won làm kỷ niệm.

Trước đó, trung tuần tháng 9/1957 Tổng thống Ngô Đình Diệm thăm Đại Hàn Dân Quốc, đích thân tổng thống Lý Thừa Vãn ra tận sân bay đón tiếp.

TT Ngô Đình Diệm đã có bài phát biểu tại Quốc Hội Đại Hàn Dân Quốc vào ngày 19 tháng 09,1957. Sau đó ngày 22 tháng 9 TT Ngô Đình Diệm nhận bằng Tiến sĩ Luật Danh Dự của Đại Học Seoul.

Việt Nam Cộng Hòa ngày đó chánh thống, Người quốc gia quan hệ chánh thống với Trung Hoa Dân Quốc, Đại Hàn Dân Quốc, Nhựt Bổn.

Cách đây mấy ngày BBC có bài bình luận và so sánh một nhà lãnh đạo đảng Việt Nam hiện tại với ông Park Chung Hee và Lý Quang Diệu. Đây là một vấn đề không thể so sánh vì khác bản chất, khác ý thức hệ. 

Tổng thống của nền Cộng Hòa khác với nhà lãnh đạo đảng cộng sản. Park Chung Hee và Lý Quang Diệu nổi tiếng mạnh tay với người cộng sản.

Người Quốc Gia là những người khi cầm quyền bỏ tánh đảng phái qua một bên, với họ chỉ có quốc gia dân tộc cùng tổ quốc trên hết.

Người Quốc Gia là ai?

Đó là những gương sẵn sàng chết vì nghĩa lớn, vì Quốc Gia, vì lý tưởng như Phan Thanh Giản, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Thái Học ....

"Trống ba hồi, đầu rơi khỏi cổ
Giữa pháp trường máu đổ thây phơi

Dường như vang vọng bao lời:

“Tự do, độc lập muôn đời Việt Nam!”

Người Quốc Gia không phải là người cộng sản.
Người Quốc Gia rất yêu thương dân tộc, cái tình thương đó bao la và bất tận mà không có cá nhân hay đảng phái nào có đủ khả năng đè bẹp nó.

Lời mở đầu trong Hiến pháp VNCH năm 1956 ghi như sau :

"Tin tưởng ở tương lai huy hoàng bất diệt của Quốc Gia và Dân Tộc Việt Nam mà lịch sử tranh đấu oai hùng của tổ tiên và ý chí quật cường của toàn dân bảo đảm.

Tin tưởng ở sự trường tồn của nền văn minh Việt Nam, căn cứ trên nền tảng duy linh mà toàn dân đều có nhiệm vụ phát huy

Tin tưởng ở giá trị siêu việt của con người mà sự phát triển tự do, điều hòa và đầy đủ trong cương vị cá nhân cũng như trong đời sống tập thể phải là mục đích của hoạt động Quốc Gia,"

Lời mở đầu của Hiến pháp VNCH năm 1967 ghi rằng: 

"Tin tưởng rằng lòng ái quốc, chí quật cường, truyền thống đấu tranh của dân tộc bảo đảm tương lai huy hoàng của đất nước.

Ý thức rằng sau bao năm ngoại thuộc, kế đến lãnh thổ qua phân, độc tài và chiến tranh, dân tộc Việt Nam phải lãnh lấy sứ mạng lịch sử, tiếp nối ý chí tự cường, đồng thời đón nhận những tư tưởng tiến bộ để thiết lập một chánh thể Cộng Hoà của dân, do dân và vì dân, nhằm mục đích đoàn kết dân tộc, thống nhất lãnh thổ, bảo đảm độc lập, tự do, dân chủ trong công bằng bác ái cho các thế hệ hiện tại và mai sau."

Đọc là hiểu tôn chỉ liền, dễ hiểu, không vòng vo, không đánh lận con đen, không đảo chữ, tráo chữ. 

Nhà kiến tạo quốc gia vĩ đại Park Chung Hee là một hình ảnh của lịch sử.

Ngày 16 tháng 5, 1961, Tướng Park Chung Hee đã lãnh đạo một nhóm sĩ quan vượt sông Hàn chiếm Thanh Dinh là dinh tổng thống Đại Hàn Dân Quốc, đảo chánh giành chánh quyền.

Ông Park Chung Hee trở thành tổng thống Đại Hàn từ ngày 17 tháng 12 năm 1963 đến ngày 26 tháng 10 năm 1979. Ông là người thành lập nền đệ tam Cộng Hòa trong lịch sử Đại Hàn Dân Quốc.

Ngay sau khi đảo chánh nắm chánh quyền vào 1961, tướng Park Chung Hee đã làm sạch xã hội với hàng ngàn vụ bắt bớ và tuyên bố trước 20.000 sinh viên đại học Seoul:

“Toàn dân Đại Hàn Dân Quốc phải thắt lưng buộc bụng trong vòng 5 năm, phải cắn răng làm việc nếu muốn được sống còn. Trong vòng 10 năm, chúng ta tạo được một nền kinh tế đứng đầu ở Đông Á, và sau 20 năm, chúng ta sẽ trở thành cường quốc kinh tế trên thế giới.

Chúng ta sẽ bắt thế giới phải ngưỡng mộ chúng ta. 

Hôm nay, có thể một số đồng bào bất đồng ý kiến với tôi. Nhưng xin những đồng bào ấy hiểu cho rằng tổ quốc quan trọng hơn quyền lợi cá nhân. Tôi không muốn mỵ dân. Tôi sẽ cương quyết ban hành một chính sách khắc khổ. Tôi sẽ bắn bất cứ kẻ nào ăn cắp của công dù chỉ một đồng. Tôi sẵn lòng chết cho lý tưởng đã đề ra”.

Về sau người ta thừa nhận rằng, Park Chung Hee đã làm đúng như lời ông nói.

Park Chung Hee viết:

"Vào tháng 5 năm 1961, khi tôi lên nắm quyền với tư cách lãnh đạo của nhóm cách mạng, tôi thực sự cảm thấy như thể mình đã được giao cho một hộ gia đình bị chôm chỉa, hoặc một công ty phá sản để quản lý. Xung quanh tôi, tôi có thể tìm thấy một chút hy vọng động viên. Triển vọng thật ảm đạm. 

Nhưng tôi phải vượt lên trên sự bi quan này để cải tạo lại hộ gia đình. Tôi đã phải phá hủy, một lần và mãi mãi, cái vòng luẩn quẩn quái ác của nghèo đói và trì trệ kinh tế. Chỉ bằng cách cải cách cơ cấu kinh tế, chúng ta mới đặt được một nền tảng cho các tiêu chuẩn sống đàng hoàng."

Năm 1960 GDP Đại Hàn Dân Quốc chỉ là 79 USD/người/năm tương đương với Việt Nam lúc đó. Sau 10 năm Đại Hàn Dân Quốc đã bước vào ngưỡng đầu tiên của thâu nhập trung bình 1.000 USD/người/năm.

Nền kinh tế đã tăng trưởng ngoạn mục 18 năm sau đó đưa Đại Hàn Dân Quốc từ quốc gia nghèo nàn lạc hậu lên câu lạc bộ một quốc gia công nghiệp hóa phát triển.

Đến năm 1975, GDP Đại Hàn Dân Quốc là 1.310 USD/người/năm. Chỉ trong vòng chưa đầy 20 năm, từ 1.000 USD Đại Hàn Dân Quốc đã đạt tới mức 10.000 USD/người/năm vào năm 1992, trở thành nước công nghiệp mới (NIC). 

Ngày nay kinh tế Đại Hàn đứng thứ 8 thế giới.

TT Park Chung Hee nói trước một nhóm thợ mỏ và nữ điều dưỡng Hàn Quốc tại Duisburg Tây Đức tháng 12, 1964 nhân chuyến thăm của ông tại Đức với mục đích vay tín dụng cho cuộc canh tân đất nước:

"Nhìn khuôn mặt sạm đen của các bạn, trái tim tôi tan nát. Tất cả các bạn đang liều mạng mỗi ngày khi đi xuống hàng ngàn mét dưới lòng đất để kiếm sống. Thật tội nghiệp! Các bạn trải qua những khoảng thời gian khó khăn này chỉ vì Hàn Quốc quá nghèo khó.

Mặc dù chúng ta đang trải qua thời gian thử thách này, nhưng chúng ta không được phép để lại nghèo đói cho thế hệ con cháu của mình. Chúng ta phải làm phần việc của mình để xóa đói nghèo ở Hàn Quốc để thế hệ sau không phải trải qua những gì chúng ta đang trải qua.

Khoảng 150 năm trước, cuộc cách mạng công nghiệp đang diễn ra sôi nổi ở Đức, trong khi người Đại Hàn không biết thế giới bên ngoài đang thay đổi như thế nào. Người Đại Hàn mắc kẹt trong lối sống truyền thống của họ mà không biết điều gì đang diễn ra bên ngoài. Chúng ta giống như ếch ngồi đáy giếng.

Làm thế nào một đất nước như Đại Hàn Dân Quốc, vốn không được chuẩn bị đầy đủ cho kỷ nguyên sắp tới, lại có thể giàu có như Đức bây giờ?"

Cố TT Park là một nhà mang danh độc tài nhưng rất dân tộc, người đã vực dậy nền kinh tế sau chiến tranh và để lại nền tảng đến hôm nay, ông thẳng tay diệt cộng, diệt tham nhũng và trấn áp những người chống đối.

TT Park Chung Hee làm giàu Đại Hàn Dân Quốc là điều mà chế độ Bắc Triều Tiên không muốn, và họ ám sát ông.

Năm 1968 có 31 lính biệt kích Bắc Triều Tiên vào Nam xâm nhập Đại Hàn với một nhiệm vụ thâm nhập vào dinh tổng thống và ám sát Tổng thống Park Chung-hee. Lính Bắc Triều Tiên đã vào thủ đô Hán Thành và tới Dinh Tổng thống.

Tại một trạm kiểm soát cách dinh tổng thống 100m, họ đã bị xét và một cuộc đấu súng nổ ra. Nhiều người trong số các biệt kích chạy trốn được nhưng hầu hết sau đó đã bị giết hoặc tự sát khi họ cố quay lại miền Bắc. Một người bị bắt.

Hơn 90 người Đại Hàn bị giết, trong đó có một nhóm dân đang ngồi trên xe bu‎s.
Kim Shin-jo là người lính Băc Triều Tiên duy nhứt sống sót, Kim Shin- jo bị trói lạnh lùng tuyên bố trước ống kính máy quay: “Tôi đến để cắt cổ Park Chung-hee”.
Tại buổi lễ Ngày Giải phóng 15 tháng 8 năm1974, một điệp viên Bắc Triều Tiên định ám sát TT Park Chung Hee nhưng những viên đạn đã không trúng ông mà trúng vợ ông, khiến bà thiệt mạng.

Cả đất nước Đại Hàn nghẹt thở dưới sự quản lý của ông.

Có quan điểm rất giống cố TT Ngô Đình Diệm, Tổng Thống Park không hề bác bỏ dân chủ, nhưng cho rằng cần giới hạn nó trong những giai đoạn khó khăn, để cuối cùng cả quốc gia có dân chủ vững chắc.

Ông viết: 

“Sự phát triển lành mạnh của nền dân chủ và sự chăm lo phát triển sức mạnh quốc gia của chúng ta để chiến thắng kẻ thù chủ nghĩa của chúng ta, tất cả những thứ đó phụ thuộc vào sự thành công hay thất bại trong các công trình xây dựng kinh tế của chúng ta.”

Đối với ông, nền dân chủ tự do trong giai đoạn này không chỉ không hiệu quả mà còn làm cho quốc gia dễ trở thành miếng mồi ngon của các lực lượng từ trong lẫn ngoài nước khuynh đảo, lợi dụng. 

“Chỉ khi sự sống còn của 35 triệu người dân và an ninh của Cộng hòa Hàn quốc được đảm bảo, quyền tự do của mọi công dân mới có thể được thúc đẩy và nền dân chủ được phát triển. Thật là vô nghĩa khi nói về tự do và dân chủ mà không có sự bảo đảm như vậy.”

Khúc này xin lật lại có TT Ngô Đình Diệm.
Trong lễ nhậm chức Thủ Tướng vào tháng 7 năm 1954, TT Ngô Đình Diệm đã tâm tình với dân chúng:

“Dân tộc Việt Nam đã bị lạm dụng từ lâu, nay đang tìm lối đi, một đường lối chắc chắn dẫn họ đạt tới những lý tưởng nồng nhiệt khát khao từ lâu. Tôi cương quyết vạch đường lối ấy cho dân tộc, bất chấp mọi chông gai gian khổ”.

Ông cho rằng chủ nghĩa Tư Bản và Cộng Sản đều cực đoan, Việt Nam khó chu toàn theo hai cái đó. Vậy ta cần có một cái trung gian tổng hợp được những giá trị ưu tú nhứt của cả hai, cộng với tinh thần dân tộc Việt để phục vụ cho lợi ích chung.

Tức là ông chủ trương không buông thùa dân chủ quá mức kiểu Mỹ, cũng không thô bạo với cá nhân, con người như cộng sản. 

Chánh phủ đi từ dưới lên, phát triển kinh tế từ xóm làng, từ người dân sẽ tiếp thâu, phát triển kinh tế, văn hóa, ổn định xã hội, ổn định mọi thứ, dân chủ cũng từ từ mở ra. Không thể có dân chủ cái rột khi dân trí còn quá thấp, như vậy sẽ loạn.
Thời kỳ mà dân chủ kiểu Mỹ được làm rầm rộ trên thế giới thì hình thức của anh em ông Nhu bị coi là đi ngược. Và anh em TT Ngô Đình Diệm đã bị giết. 

Đại Hàn, Đài Loan, Singapore làm đúng kiểu TT Ngô Đình Diệm nhưng họ đã rất thành công.

Thập niên 1960 với tinh thần đồng minh quốc gia cùng tham gia, TT Park Chung Hee đã gửi gần 300.000 quân Đại Hàn sang VNCH tham chiến với những Sư đoàn Mãnh Hổ, Sư đoàn Bạch Mã, Lữ đoàn Thanh Long.... hoạt động rất hiệu quả, thiện chiến tại VNCH.

TT Park tuyên bố một câu về chiến tranh VN, ngày 9/2/1965 như sau:

"Chúng ta không thể ngồi không làm người xem trong khi đồng minh của chúng ta trở thành con mồi của sự xâm lược của cộng sản.… "

Năm 1974 vợ ông bị ám sát chết, năm 1979 Park Chung Hee bị giám đốc Cục Tình báo Trung ương Hàn Quốc ám sát chết vì không chịu nổi sự quản lý quá khắc khổ của ông.

Nhưng Hàn Quốc ngày nay với Samsung, Huyndai, Kumho, LG, Hanjin, KIA, Lotte của thời ông Park Chung Hee vẫn tồn tại và phát triển đem về lợi nhuận ròng cho Hàn Quốc.
Dân Hàn gọi ông là “Nhà kiến tạo quốc gia vĩ đại”.

Park Chung Hee là một Tổng Thống liêm khiết, ông rất ghét tham nhũng. Cá nhân ông liêm khiết tuyệt đối và đối với thuộc cấp ông cũng không để họ có cơ hội mất liêm chính. Dưới thời Park Chung Hee, tiết kiệm là quốc sách.

Đại Hàn phát triển lên nhưng nhiều người lại ghét Park Chung Hee nhiều hơn, đơn giản sống ná thở với ông, nước trong quá cá lấy gì rỉa?
Mọi người hiểu rằng, người Quốc Gia là vậy, nghĩ được thì làm được, tất cả cho Quốc Gia mình. Họ không ngại va chạm, không ngại bị rủa xả, căm ghét, đôi lúc khái niệm dân chủ chỉ là thứ trang điểm, không phải quyết định thành tựu của họ. Nhưng nhờ họ dân chủ lại vững bền trong tương lai.

Tinh thần của người Quốc Gia là như vậy đó!

Ngày nay bằng chứng cho mối quan hệ giữa Việt Nam Cộng Hòa và Đại Hàn vẫn còn ở Miền Nam chúng ta. Đó là Xa Lộ Đại Hàn, Bịnh Viện Chợ Quán (BV Việt Hàn), công viện Đại Hàn ngay mũi tàu Nguyễn Chí Thanh và Hùng Vương. Ở Qui Nhơn cũng có công viên Đại Hàn.

Nhìn hình hai vợ chồng TT Park Chung Hee tiếp vợ chồng TT Nguyễn Văn Thiệu mà ngậm ngùi...!

Nguyễn Gia Việt.


Lá gan của cô còn tốt lắm!
  • 1.


    Rissa ngồi bật dậy khi những dòng chữ trên facebook đập vào mắt cô. Ezra Toczek, cái tên khó trùng với ai khác. Cô biết mình không lầm khi nhìn tấm ảnh. Đúng là Ezra, học trò cũ của cô. Cô đọc lại lần nữa lá thư của Karen Toczek, mẹ nuôi của Ezra, nói bà biết rằng có rất ít hy vọng nhưng vẫn gửi thư này ra hơn là ngồi chờ cái tin xấu nhất đến với đứa con trai 5 tuổi của mình. Các bác sĩ cho biết bệnh gan của Ezra đang ở giai đoạn cuối và cậu bé cần được cấy ghép gan càng sớm càng tốt vì bệnh tình cậu ngày càng xấu đi. Cơ hội duy nhất cho cậu bé để giành lại sự sống là được ai đó tình nguyện hiến tặng một phần lá gan khỏe mạnh. Người hiến tặng cần có nhóm máu phù hợp là O+. Rissa buột miệng: 
    “Máu O+? Nhóm máu của mình đây.”
    Rissa nhớ, cô gặp cậu bé lần đầu cách đây hai năm trong lớp mẫu giáo của cô, Precious People Daycare ở Alden, một thị trấn nhỏ thuộc quận Erie, New York. Mẹ nuôi của em, Karen Toczek, cho biết em bị tổn thương gan bẩm sinh khi mới lọt lòng sau một ca sinh mổ khó khăn. Do bố mẹ Ezra không đủ khả năng tài chính cho các chi phí điều trị của con mình, bà Karen và chồng đã nhận cậu bé làm con nuôi và chăm sóc cậu mấy năm nay.

    Ezra được chăm sóc đặc biệt do những biểu hiện tâm tính bất thường. Cậu bé luôn có cảm giác ngứa ran, gãi luôn tay đến trầy xước cả da và bụng thì chi chít những vết sẹo. Điều lạ là Ezra rất mến cô giáo mình, luôn chạy theo cô, quấn quýt bên cô. Và cô giáo trẻ Rissa cũng rất thương mến cậu học trò nhỏ, thường chuyện trò, chơi đùa với cậu.

    Rissa suy nghĩ và quyết định thật nhanh. Cô không thể nào ngồi yên một chỗ khi biết bệnh trạng của học trò mình ngày một tệ hơn và sự sống đang bị đe dọa. Không một phút do dự, cô giáo 20 tuổi gọi ngay đến bệnh viện NYU Langone Health ở New York, nơi Ezra đang được điều trị, cho biết mình cùng nhóm máu với Ezra và muốn được hiến gan cho người bệnh. Bác sĩ khoa ghép tạng hỏi:

    “Cô là thế nào với cháu Ezra?” 
    “Tôi là giáo viên lớp mẫu giáo của cậu bé.”
    Bác sĩ thốt lên, giọng ngạc nhiên:
    “Thật quý hóa!…” Cám ơn cô giáo nhiều lắm. Thế cô đã nói chuyện với gia đình cháu chưa?”
    Rissa trả lời:

    “Tôi chưa nói, và xin bệnh viện giữ kín cho tôi việc này.”

    Rissa muốn chắc chắn mọi việc trước khi báo cho gia đình cậu bé để tránh gieo hy vọng cho mọi người, nếu vì lẽ gì việc hiến gan không thực hiện được thì càng đào sâu thêm nỗi thất vọng. Cô chỉ chia sẻ việc này với mẹ mình. Bà có hơi bất ngờ nhưng tôn trọng quyết định của con mình. 
    Bác sĩ nói:

    “Được rồi, chúng tôi sẽ làm theo ý cô.”


    2.


    Sau khi hoàn thành việc xét nghiệm máu ban đầu theo yêu cầu của bệnh viện, Rissa đến New York City vào tháng Tư để thực hiện các thủ tục tiền phẫu thuật như chụp MRI, chụp CT, điện tâm đồ và các xét nghiệm máu bổ sung nhằm bảo đảm sức khỏe thể chất của người hiến tặng.

    Đến ngày 24 tháng Năm, Rissa nhận cuộc gọi từ NYU Langone Health cho biết cô đã được chuẩn thuận hiến 30% lá gan của mình cho người bệnh. Rissa rất phấn khích, vội tin cho mẹ mình biết. Hôm sau, cô gọi cho Karen, mẹ cậu bé, nói cô sẽ ghé thăm gia đình. Rồi cô chạy đi mua vài thứ và một tấm bìa poster. Xong, cô và mẹ tìm đến nhà hai mẹ con Ezra.

    Karen mở cửa, nhận ra ngay cô Rissa Fisher, cô giáo cũ của con mình. Ezra đứng bên, nắm tay mẹ. Cậu bé lớn hơn một chút nhưng trông tiều tụy, vẻ mặt kém vui. Tội nghiệp, cậu đã bao ngày chịu sự hành hạ của căn bệnh quái ác. Rissa mỉm cười với cậu bé:

    “Ezra, nhớ cô chứ?” 
    Ezra vụt tươi nét mặt, reo lên:

    “Miss Fisher!” 

    Rissa cảm động, cậu bé vẫn còn nhớ cô. Cô bước lại gần, đưa hai chiếc bóng bay và chú gấu nhồi bông cho Ezra. Cô quỳ một chân, ôm lấy vai cậu bé. Ezra nép vào lòng cô, vẻ mặt rạng rỡ, giống như ngày nào cô giáo và học trò ở bên nhau trong lớp học mẫu giáo.
    Rissa ngước lên, mỉm cười với mẹ cậu bé:
    “Chúng tôi rất thân nhau.” 
    Rồi cô đến bên Karen, nói vắn tắt vào tai bà, cho biết cô tình nguyện hiến gan cho Ezra và đã được bệnh viện chuẩn thuận, chỉ còn chờ lên lịch tiến hành việc này. Karen mở to mắt lộ vẻ sửng sốt, ôm chầm lấy Rissa, nước mắt ứa ra:
    “Thật vậy sao?!…” 
    Bà quay sang nói với con mình:

    “Cô giáo sẽ cho con món quà con vẫn ao ước.”

    Rissa mở rộng tấm poster, hướng về cậu bé, đọc lớn tiếng câu ghi bằng bút màu marker trên tấm giấy, “Này Ezra! Con có muốn dùng chung lá gan với cô không?”

    Ezra ngước nhìn cô giáo: 
    “Con nhớ cô, Miss Fisher.”
    Rissa trả lời:

    “Cô cũng nhớ con lắm, Ezra. Đây… con cầm lấy cây bút này, check mark vào chỗ nào con muốn, Yes hay No.”

    Rissa đưa cây bút marker cho cậu bé để đánh dấu vào một trong hai ô vuông dưới hàng chữ “Check one”. Cậu bé ngần ngừ, nhìn cô giáo, có vẻ chưa hiểu rõ lắm.
    Rissa vỗ vỗ vai cậu bé:

    “Chúng mình đã từng chơi trò này ở trong lớp, con nhớ chứ? Nào Ezra, con sẽ chọn Yes, phải không?”

    Ezra linh hoạt hẳn lên. Cúi xuống tấm giấy mở rộng, cậu bé kẻ một vạch check mark vào ô vuông bên cạnh chữ “Yes”.
    Rissa reo lớn:
    “Great job!!!” 
    Cô và mẹ và Karen cùng vỗ tay. Ezra ngước mắt nhìn mọi người rồi cậu cũng vỗ tay theo.
    Karen cúi xuống ôm con mình rồi ôm chặt Rissa lần nữa. Bà không ngăn được tiếng nấc, úp mặt vào vai cô giáo. Nước mắt bà thấm ướt vai áo Rissa. Karen nói trong nghẹn ngào:
    “Tôi như đang nằm mơ… Cô Fisher, đây là món quà bất ngờ và quý giá nhất tôi nhận được trong đời.” 
    Bà quay sang con mình: 
    “Cám ơn cô giáo đi, Ezra.”
    Cậu bé nhoẻn miệng cười tươi:

    “Thank you, Miss Fisher!” 

    Rissa nhìn đăm đăm cậu bé. Ánh mắt cô sáng lên, long lanh. Rồi cô quay đi, giấu giọt nước mắt. Ezra được mẹ và cô giáo giải thích vắn tắt về chuyện ghép gan.
    Rissa mỉm cười với cậu bé:
    “Lá gan của cô còn tốt lắm, chúng mình chia nhau nhé, Ezra!”
    Bà Karen vỗ vai con mình:
    “Con sẽ có lá gan mới toanh. Con sẽ đi học trở lại, sẽ chơi đùa với các bạn. Con sẽ thật khỏe mạnh để làm bất cứ chuyện gì con muốn.”
    Cậu bé quay nhìn cô giáo:

    “Miss Fisher, con muốn làm Spider-Man.”


    3.


    Trong tiến trình cấy ghép gan, bác sĩ sẽ cắt bỏ lá gan của người bệnh và thay vào đó một phần của lá gan khỏe mạnh từ người hiến tặng. Do khả năng tự tái tạo, gan của cả người cho và người nhận sẽ mọc lại thành lá gan nguyên vẹn với đầy đủ chức năng trong vòng vài tháng. Bác sĩ cho Rissa biết tỷ lệ thành công của những ca ghép gan từ người hiến tặng vào khoảng 90%. Sau phẫu thuật, nếu gan phản ứng tốt, không bị nhiễm trùng hay thải ghép, cô sẽ có cuộc sống bình thường và khỏe mạnh.

    Lịch phẫu thuật cấy ghép gan của hai cô trò được ấn định vào cuối tháng 7. Mọi việc tiến hành khá suôn sẻ.
    Câu đầu tiên Rissa hỏi, khi vừa tỉnh dậy trên giường bệnh:
    “Ezra thế nào rồi?” 
    Cô y tá trả lời, giọng dịu dàng:

    “Mọi chuyện ổn cả. Cả cô giáo và học trò.”

    Rissa còn nằm ở bệnh viện ít nhất một tháng để các bác sĩ theo dõi. Ezra phải ở lại New York vài tháng và tái khám định kỳ trong khoảng một năm để bảo đảm các chức năng cơ thể hoạt động bình thường.

    Ngày xuất viện cậu bé được bệnh viện tặng nhiều đồ chơi, bong bóng và còn được cấp một giấy “Certificate of Graduation”. Cô y tá nói cho Rissa biết:

    “Karen viết trên facebook rằng mọi chuyện xảy đến với gia đình bà thật kỳ diệu như một phép mầu, và Rissa giống như là cô tiên trong truyện cổ tích. Không lời nào bày tỏ hết lòng biết ơn của gia đình bà với cô giáo của con mình.” 
    Rissa mỉm cười, nói:

    “Tôi mới phải cám ơn hai mẹ con chứ. Nhờ họ, từ nay tôi có được người bạn nhỏ thân thiết luôn đồng hành với tôi trên con đường đời.”

    Rissa cũng nhận được những hỗ trợ về tài chính từ nhiều người quen và không quen để chia sẻ viện phí với cô. Cô nói:

    “Tôi rất vui và cám ơn những người bạn tốt, tôi còn vui sướng hơn khi câu chuyện này truyền cảm hứng được cho nhiều người. Khi ta san sẻ được với ai thứ gì thì ta luôn cảm thấy được gần gũi, ấm áp và thắt chặt thêm những mối tình thân. Đấy không phải là điều ta vẫn mong ước trong đời này đó sao?”

    Lê Hữu

    * Viết phỏng theo bài báo The Washington Post,  June 9, 2024




Trở về nghề cũ
  • Bác sĩ Nguyễn Duy Cung

    Sang Hoa Kỳ, bác sĩ ngoại quốc nào cũng phải đi học lại.  Nhưng vùng tôi ở lại là một vùng quê, xa thành thị, không có trung tâm huấn luyện thi ECFMG, FLEX.  Gần nhất có một nhóm đồng nghiệp ở tiểu bang Oklahoma tổ chức học chung với nhau, nhưng đường xá xa xôi, tôi lại chưa có phương tiện xe cộ để di chuyển.  Trong thời gian còn ở trên đảo tị nạn Bidong, GS Wareham thuộc trường Y Khoa Loma Linda có nhắn tôi khi nào sang Hoa Kỳ thì đến gặp ông ngay.  Tôi được hân hạnh quen biết GS Wareham từ khi tôi được Bộ Y Tế VN đề cử tôi đại diện Bộ làm việc chung với GS đang hướng dẫn phái đoàn Giải phẫu tim Hoa Kỳ tại Sài Gòn vào năm 1974 và năm 1975.  Ông cho tôi địa chỉ của trung tâm Loma Linda trên Riverside, nơi ông làm việc. 

    Nhưng California lại còn xa hơn Oklahoma, phải đi bằng máy bay tốn kém để đến trạm đầu, Los Angeles..  Từ đó có thể đi thẳng đến Loma Linda nằm trên Riverside, hoặc đi xe về Orange County rồi lên Loma Linda.  Tôi cũng muốn đi, ngặt vì cơ quan thiện nguyện USCC chỉ giúp được có 250 dollars một tháng cho gia đình 9 người của tôi.  Gặp vấn đề tài chánh thật khó khăn, không có đủ phương tiện để di chuyển cả gia đình qua California cùng một lúc, cũng không thể bỏ gia đình để ra đi một mình, tôi không còn cách chọn lựa nào khác hơn là ở lại Van Buren, ôm cuốn sách Y khoa Merck Manual xuất bản lần thứ 13dày 2165 trang do hai em tôi mua cho tôi tại Little Rock để tự học lấy một mình.  Đời sống các em tôi cũng chật vật, phân nửa đã dời đi Bakersfield.

    Một hôm có một người bạn thân – anh Hoàng văn Lộc – cùng đi chung tàu, sang trước, định cư tại Houston; anh có một xe van lớn, tự lái lên Van Buren giúp đưa cả gia đình tôi về thành phố Houston, một thành phố lớn nhất của tiểu bang Texas có diện tích 3 lần nước VN và cho chúng tôi ở trong một căn nhà rộng rãi, tiện nghi, anh đã mướn sẵn, nằm trên đường Victoria khu South Bell.  Như một chuyến xe đò lục tỉnh bên nhà chở đầy hành khách, xe Van của anh cũng phải tháo bớt băng sau mới có đủ chỗ chở người ngồi trên sàn xe.  Còn trên mui xe thì kềnh càng bàn ghế cũ, người lối xóm không dùng nữa, đem vất bỏ ngoài lề đường, chúng tôi lượm đem về.  Ở dưới Galveston, anh bác sĩ Nguyễn văn Tạ một bạn thân cùng lớp qua trước cũng cho tôi một cái bàn học nhỏ vừa vặn, tôi rất thích, làm bằng loại gỗ sồi rất nặng.

    Về Houston, để giúp thêm vấn đề tài chánh cho gia đình, tôi đi làm công cho Utotem, một tiệm bán hàng tạp hóa, đồng thời bán xăng, mở cửa 24 trên 24 giờ, nằm sâu trong rừng, nguy hiểm, kém an ninh, thường hay bị cướp.  Trước quầy tiền lúc nào cũng có tấm bảng nhỏ đề: “Trong hộc tủ chỉ có 20 đồng thôi” viết bằng tiếng Anh.  Làm việc nhiều nhưng lương hàng tháng của tôi không được bao nhiêu, độ vài trăm Mỹ kim, vợ tôi phải quá giang xe một cô bạn quen để đi làm việc thêm trong tiệm bán thời trang hiệu Palais Royal ở địa hạt Pasadena; về nhà dạy thêm Dương cầm và làm hoa vải.  Buổi chiều nào, mượn được xe nhỏ, chúng tôi chạy rong trong rừng, nhìn những nhánh cây khô có hình dáng thon thả cắt về, kết thêm hoa đem bán trong nhà thương.

    Dưới phố Houston có một trung tâm giáo dục tư tên Kaplan, chuyên dạy thi ECFMG và FLEX; trường nằm trên Freeway 55, xa nơi cư trú, phải lái xe trên xa lộ hơn một tiếng đồng hồ mới tới nơi.  Vấn đề di chuyển là hết sức quan trọng trên nước Mỹ vừa rộng vừa lớn.  Trong lúc vợ chồng tôi đang lục quảng cáo, tìm kiếm xe cũ rẻ tiền để mua, thì một anh bạn thân học lớp trên tôi, bác sĩ Chu Bá Bằng đến thăm.  Trước đây anh có làm Ngoại trú Giải phẫu tại bệnh viện Bình Dân.  Khi ra trường anh lên Cao nguyên làm Y sĩ trưởng Bệnh viện Dã chiến Kon Tum.  Sau đó đổi ra Đà Nẵng, anh thay thế tôi trong chức vụ Y sĩ trưởng khoa ngoại thuộc TYV Duy Tân.  Bác sĩ Chu Bá Bằng sang Mỹ trước tôi và đang hành nghề dưới phố Houston, anh khuyên tôi nên mua xe mới để dùng, thay vì dùng xe cũ, để tránh những trục trặc phiền toái như xe bị hư giữa đường, nhất là trên xa lộ dài, 5-6 lằn đường, tốc độ xe chạy rất nhanh 60-70 dặm một giờ rất nguy hiểm, và anh nhận ký tên chung trong giấy mua xe Oldsmobile mới đời 1980 cho tôi (đứng tên chung co-sign có nghĩa là nếu người mua xe không đủ khả năng để trả tiền trong tháng nào đó thì người đứng tên chung có bổn phận phải trả dùm). 

    Chúng tôi cố gắng không để cho anh phải ở trong hoàn cảnh như vậy.  Anh BS Bằng quá tốt.  Nhờ có anh đứng tên chung mà tôi mua được chiếc xe mới để đi học.  Nơi đây tôi thành thật cám ơn anh đã giúp tôi trong bước đầu khó khăn, chật vật.  Có xe rồi nhưng chưa đi học được vì còn vấn đề học phí trong trường Kaplan quá cao 1,200 Mỹ kim cho một khóa.  Khi rời Van Buren em gái tôi có cho 400 đồng để làm lộ phí đi đường.  Có người khuyên tôi, thử trình bày hai tờ giấy của Tòa Đại sứ Mỹ và của Cao ủy tị nạn LHQ ở Kuala Lumpur chứng nhận thời gian tôi làm Trưởng trại tị nạn P.  Bidong.  Không ngờ trường thấy tôi có tích cực đóng góp vào những công tác xã hội trên đảo tỵ nạn, nên đồng ý chỉ nhận 400 đồng và cho tôi đến học.  Bước đầu tới Mỹ tuy còn khó khăn nhưng con đường đến trường lại có nhiều thuận lợi và may mắn khiến tôi như được tăng thêm sức mạnh và ý chí khi tiếp tục nghề nghiệp Y tế của mình. 

    Cách tổ chức các lớp học của trường rất hay; trường có những cuốn băng nhựa trình bày rõ ràng tất cả những điểm chánh của các bài học, các câu hỏi khúc-mắc trong các kỳ thi và các câu trả lời rõ ràng rành mạch.  Có những câu hỏi thông thường tìm thấy câu trả lời trong sách giáo khoa, nhưng cũng có câu hỏi lắt léo khó trả lời, thí dụ một câu hỏi có nhiều câu trả lời gần giống nhau, mà nếu mình không học để biết cách trả lời cho đúng thì dù mình có ôm bao nhiêu sách giáo khoa to tướng như Harrison đi nữa để học thuộc lòng, thì cũng chưa chắc đã có thể trả lời một cách chính xác được. 

    Khóa sinh tự học lấy tùy theo khả năng, Giáo sư nhiều kinh nghiệm là những cuốn băng nhựa quý giá! Tôi đến sớm mượn vài cuốn băng, xong kiếm chỗ yên tĩnh ngồi nghe nghiền ngẫm.  Tôi chăm chỉ học mỗi ngày, từ sáng trường vừa mở cửa cho đến tối mịt mới trở về.  Ngày nghỉ ở nhà tôi tự giam mình trong gian phòng nhỏ, khoá cửa, vứt chìa khóa ra sân, học cho đến khuya, đều đều 12 tiếng trong một ngày.  Trong thời gian ở Houston, tôi hân hạnh gặp lại Bác sĩ Vũ Ban, một đồng viện trước kia trong Quốc Hội Lập Hiến.  Anh đến Mỹ sớm, có cơ ngơi vững vàng. . anh mời tôi cộng tác trong vấn đề Giải phẫu thẩm mỹ.  Thật là điều may mắn bất ngờ cho tôi.  Giải phẫu thẩm mỹ là một chuyên môn mà tình cờ lúc còn học Giải phẫu lồng ngực bên Nhật, tôi được hân hạnh và may mắn gặp GS Uchida, một bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ nổi tiếng của Nhật, cha truyền con nối, hành nghề giải phẫu thẩm mỹ trên 25 năm.  Giáo sư Uchida đã tận tâm truyền dạy cho tôi kỹ thuật sửa mắt một mí thành hai mí cho người Á Đông và kỹ thuật độn ngực bằng túi nylon có chứa chất dẻo.  Nhờ có việc làm thêm khá ổn định nên đời sống trong gia đình tôi trở nên dễ chịu hơn.

    Anh bác sĩ Nguyễn Ngọc Kỳ, bên California thỉnh thoảng lại bay sang Houston thăm hỏi anh em.  Anh đã hết lòng giúp đỡ và khuyến khích tôi học, vì có lúc tôi cảm thấy chán nản, khi nhìn chung quanh thấy việc gì cũng có tánh cách thương mại, ngay cả trong lãnh vực Y khoa.  Đến năm 1980, khi tôi sang Bakersfield, California, ở nhà em tôi để học thi, thì không may thình lình tôi bị đau ruột dư cấp tính.  May nhờ có những người bạn thân cùng làm việc chung trong sở như cựu Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang và cựu tướng Lê quang Lưỡng lo dùm phần hành của mình nên em rể tôi Phạm Minh Hoàng (em ruột của Bác sĩ Phạm Minh Ngọc ở San Diego) lấy phép nghỉ hai ngày để chở tôi vượt đèo vượt núi, về Orange County, nhờ Bác sĩ Nguyễn Ngọc Kỳ giới thiệu tôi vô nhà thương UCI để mổ khẩn cấp.  Đây là lần đầu tiên tôi được hưởng Medical.  Ông bác sĩ thường trú ngoại khoa khám bệnh cho tôi ở phòng cấp cứu, trong hồ sơ bệnh lý, có ghi “bệnh nhân đã tự chẩn đoán lấy bệnh viêm ruột dư cấp tính của mình, khi cơn đau bắt đầu nổi lên ở dưới chấn thủy”.

    Trong thời gian tôi nằm nhà thương, GS Warehnam trên trường Đại học Loma Linda có đến thăm và dặn khi nào tôi ra nhà thương thì đến ngay Loma Linda gặp ông.  Tôi nhớ lời ông nhưng thay vì đi ngay khi xuất viện, tôi đợi đến lúc thi FLEX xong rồi mới lên Riverside, thì GS Wareham đã đi qua Trung Đông giúp cho một trung tâm Giải phẫu lồng ngực thuộc Vương quốc Saudi Arabia.  Có lẽ ông đã có thu xếp trước khi đi nên căn dặn người kế vị là GS Jacobson thay thế ông làm trưởng bộ môn Giải phẫu lồng ngực đã đưa tôi qua gặp GS Bruce Branson, Chủ nhiệm khoa Giải phẫu của Trường Đại học Loma Linda.  Trong thời gian này, thư viện của khu Ngoại khoa có một bác sĩ trẻ người Mỹ, cũng đang chờ đợi để được phỏng vấn.  Khoa Ngoại của nhà thương chỉ lấy có một thí sinh.  Điều làm cho tôi ngạc nhiên là trong suốt thời gian hơn một tiếng đồng hồ ngồi đối diện trước bàn làm việc, trong văn phòng của GS Branson, ông không hỏi tôi một câu nào về kiến thức Y khoa Giải phẫu.  Ông chỉ tâm tình cho biết ông có chứng kiến thời gian miền Nam sụp đổ, vì ông có mặt trong bệnh viện Cơ đốc Phục lâm tọa lạc gần phi trường Tân Sơn Nhứt, ngang Bộ Tổng Tham Mưu:

    Thay vì rời bỏ đất nước trong lúc nguy ngập để ra đi, anh đã tình nguyện ở lại nhà thương để mổ và chăm sóc cho trên năm trăm thường dân bị pháo kích, anh bị bắt trong khi đang làm việc trong phòng mổ, bị đưa đi học tập cải tạo cho đến chân anh bị suy yếu vì thiếu dinh dưỡng.  Anh đã hy sinh nhiều cho xứ sở của anh, bây giờ trường Loma Linda có bổn phận giúp đỡ lại anh.  Chừng nào anh muốn vô chương trình Giải phẫu của Trung tâm Y khoa Loma Linda?”

    Câu hỏi của GS Branson làm tôi vô cùng bàng hoàng, vì trước khi lên Loma Linda, tôi có gặp Bác sĩ Cao Xuân An, một người bạn thân nguyên Đổng lý văn phòng Bộ Xã Hội VNCH.  Anh sang Mỹ trước tôi.  Khi đi tù CS về chung, tôi có mổ cho con anh.  Anh biết tôi thích và có khả năng về Giải phẫu nhưng anh cũng thành thật cho tôi biết tình trạng Y tế trên nước Mỹ lúc bấy giờ.  Đồng nghiệp Việt Nam có ECFMG và FLEX còn đông và đang chờ đợi để được nhận vô thực tập trong một nhà thương được chính phủ công nhận, nhưng vấn đề xin vô đây rất khó khăn, nhất là khoa Giải phẫu.  “Tôi biết anh thích về giải phẫu nhưng tôi cũng thành thật khuyên anh hãy quên đi”. Có vài bạn đồng nghiệp, vì hoàn cảnh sinh sống khó khăn, không thể chờ đợi để được nhận vô nhà thương, nên đã tìm cách đổi nghề, chuyển sang học Chiropractor, Châm cứu, OD, v. v…

    Tôi không ngờ lại được trường Loma Linda gọi phỏng vấn và chấp nhận cho tôi làm Bác sĩ thường trú Ngoại khoa một cách dễ dàng mà không hỏi qua về khả năng chuyên môn.  Trường cũng miễn cho tôi bằng ECFMG dành cho tất cả bác sĩ ngoại quốc muốn học trở lại ngành Y Khoa tại Hoa Kỳ, miễn năm Intership… Chương trình Giải phẫu của Trung tâm Loma Linda là năm năm, năm cuối cùng có phần giải phẫu trẻ em và giải phẫu lồng ngực.  Sau đó, GS Branson giới thiệu cho tôi qua nhà thờ Cơ đốc nằm trong bệnh viện, để nơi đây cho tôi mượn 2,000 đồng thuê chỗ ở trong một cư xá lưu động gần trung tâm cho tiện việc học hành.  Thông thường muốn xin thực tập trong một nhà thương trên toàn nước Mỹ thì việc đầu tiên là phải chuẩn bị đầy đủ hồ sơ để gởi đến các trường Y Khoa mà mình lựa chọn, xong ngồi nhà chờ đợi. 

    Có nơi nào gọi là phải tức tốc đi máy bay tới nơi, mướn khách sạn ở gần nhà thương, chờ đợi phỏng vấn, chẳng khác nào sĩ tử ngày xưa lều chõng ra kinh thi hội.  Ngày xưa đi bộ, băng rừng, trèo non, lội suối, phải mất một thời gian dài đôi ba tháng, hay lâu hơn, ngày nay đi máy bay, nằm ngủ một giấc là đến nơi.  Tuy nhiên việc chuẩn bị đi đến một nơi xa để được phỏng vấn thật là tốn kém.  Tôi rất lo ngại vì biết mình còn trong tình trạng quá yếu về tài chánh.  Tôi chưa dám gởi một hồ sơ đến bất cứ một nhà thương nào, ngay cả nhà thương Loma Linda.  Sau khi được GS Branson phỏng vấn, tôi chưa nhận được thư phúc đáp kết quả của trường, thì tên tôi đã được ghi trên danh sách trực gác của khoa Ngoại nhà thương Loma Linda đúng vào ngày lễ Giáng sinh năm 1984 và đồng thời tôi được lãnh tiền lương Bác sĩ thường trú ngoại khoa. 

    Được làm việc trở lại trong phòng mổ của nhà thương Loma Linda, tôi rất mừng vì vừa phù hợp với khả năng của mình, mà lại vừa ít tốn kém, tuy nhiên tôi vẫn chưa tin đó là sự thật, vì qua đây trễ tràng, tôi không bao giờ dám mơ tưởng tới việc sẽ được học trở lại ngành giải phẫu trên đất Hoa Kỳ.  Lúc đầu tôi cũng còn thấy bỡ ngỡ, không phải vì vấn đề thuần túy ngôn ngữ.  Đọc sách Y khoa tiếng Pháp hay tiếng Anh đối với tôi không có vấn đề, tôi hiểu dễ dàng, vì bên nhà từ nhỏ cho tới lớn, tôi theo học chương trình Pháp; lên Sài Gòn tôi tiếp tục được học hết chương trình Y khoa Pháp.  Biết tiếng Pháp rồi chuyển sang học tiếng Anh tương đối không khó, vì cả hai đều có nguồn gốc chung là tiếng Latin.  Tôi cũng có theo lớp Anh văn trong trường Lê Văn Hai, xong cuốn L’Anglais sans peine (English without toil) và học sách dịch Chinh phụ ngâm của Đặng trần Côn bằng Anh văn dưới sự hướng dẫn của dịch giả Giáo sư Phạm Xuân Thái và nhờ bắt chước một người bạn, mỗi ngày học vài ba chữ trong từ điển Anh-Việt, nghe đài phát thanh ngoại quốc, đọc thêm sách báo tiếng Anh mà tôi có được một số vốn tiếng Anh cũng kha khá

    Thời gian đi du học tại Mỹ năm 1962 trong Tổng Y viện Letterman, nhờ có dịp tiếp xúc hàng ngày với chuyên viên Y tá Mỹ khắp nơi về đây tập sự, có một cô Y tá Hoa Kỳ cấp bậc Đại úy, chuyên môn về Gây mê tặng tôi một quyển sách giáo khoa về Gây mê Hồi sức và giúp tôi trau dồi thêm Anh ngữ; mỗi ngày tôi lại có một bà giáo chuyên dạy về tiếng Mỹ cho tôi … Tại Nhật Bản năm 1969-70, tại Úc Đại Lợi và Phi Châu năm 1974 và thời gian trên đảo tỵ nạn P. Bidong năm 1979-80, làm việc gặp gỡ nhiều phái đoàn ngoại quốc nói tiếng Anh mà tôi có nhiều tiến bộ trên địa hạt Anh ngữ.  Tuy nhiên chỉ nghe giọng nói và cách phát âm của giáo sư đang giảng dạy thôi chứ chưa bao giờ có cơ hội thực hành với người ngoại quốc nói tiếng Anh.

    Khi vào nhà thương Loma Linda, tiếng Anh của tôi trở nên khá hơn nhờ tiếp xúc mỗi ngày với những đồng nghiệp Điều dưỡng Mỹ, chung quanh tôi phần lớn là những người dân Hoa Kỳ thuộc Cơ Đốc giáo … Có một bác sĩ thường trú ngoại khoa gốc Hoa Kỳ, trong một buổi trực gác chung với tôi đã hỏi tôi vô đạo Cơ Đốc bao lâu rồi và đã ngạc nhiên khi biết tôi không phải là người thuộc đạo Cơ đốc mà lại được tuyển chọn vô làm Bác sĩ thường trú ngoại khoa của trường Đại học Loma Linda.  Trong nhà thương suốt ngày chỉ có cơm chay.  Muốn ăn mặn phải ra ngoài phố hoặc về dưới Santa Ana.
    Tôi thầm nghĩ, đây là một phép mầu nhiệm mà Ơn trên đã ban cho tôi, khiến GS Wareham, GS Branson, GS Jacobson đã giúp cho tôi vô học lại về giải phẫu trong nhà thương Loma Linda để trở về nghề cũ {sớm hơn và tương đối dễ dàng hơn, bù đắp lại thời gian bốn năm dài tôi đã mất trong các trại tù lao động tập trung và dưới sự quản chế của công an cộng sản địa phương. 

    Thêm vào đó có thời gian hơn hai năm trời sống lênh đênh trên biển cả, vượt biển tìm Tự Do và ở trên hoang đảo tỵ nạn P. Bidong. } Các Giáo sư của trường Đại học Loma Linda chỉ dựa vào kinh nghiệm chuyên môn Giải phẫu của tôi, dựa vào quá trình làm việc về giải phẫu của tôi tại quê nhà, về giấy chứng nhận của Giáo sư Norman Hoover, nguyên Đại diện Hiệp hội các bác sĩ Hoa Kỳ tại trường Đại học Y khoa Sài Gòn từ năm 1967 đến năm 1974 về thơ giới thiệu của hai vị GS cựu Khoa trưởng trường Đại học Y khoa Sài Gòn là GS Đặng Văn Chiếu và GS Đào Hữu Anh.

    Lãnh lương bác sĩ thường trú ngoại khoa tháng đầu tiên được 1,600 Mỹ kim.  Để tỏ lòng biết ơn trường Loma Linda tôi có nhã ý gởi hết số tiền đóng góp cho khu Ngoại khoa, nhưng GS Branson đã từ chối.

    Tôi tập trung tất cả ngày giờ vào sự học.  sáng sớm, mới 4 giờ rưỡi, tôi đã lái xe Oldsmobile từ Orange County lên nhà thương, vô phòng dành riêng cho bác sĩ, thay quần áo nhà thương, chờ đợi theo anh bác sĩ trưởng thường trú đi thăm bệnh đã mổ hay chuẩn bị mổ, hoặc xuống khu Giải phẫu phụ Giáo sư giải phẫu hoặc sang nhà thương có liên hệ với Loma Linda như nhà thương cựu chiến binh dự thính những buổi nói chuyện về Ngoại khoa.  Khi trở về nhà thương Loma Linda, trước tiên tôi đến thăm “thư viện riêng của tôi” là cái thùng sau của chiếc xe Oldsmobile chứa đầy sách Y khoa để tham khảo thêm.  Ăn cơm trưa xong, ngày nào không có giải phẫu, tôi lên ngồi trong thư viện yên tĩnh của khu Ngoại trên tầng lầu 2 đọc sách, bên ngoài trời tối lúc nào không hay; đến chiều hết giờ làm việc, khu Giải phẫu đóng cửa, tôi lái xe trở về nhà ở Santa Ana. 

    Có khi mệt mỏi, tôi tấp sát xe vô lề đường, hoặc xuống đường bên trong tìm chỗ an toàn đậu xe, ngồi sau tay lái, ngủ một giấc cho thật tỉnh rồi mới tiếp tục trở ra lại trên xa lộ.  Tôi học chăm chỉ.  GS Branson có lòng tốt muốn đào tạo tôi thành một nhân viên Giảng huấn ngoại khoa cho trung tâm.  Nhưng vì hoàn cảnh, tôi còn lo nghĩ đến gia đình ở bên này và những người thân còn ở lại bên nhà cũng như những nhân viên đã từng giúp đỡ tôi, khi tôi đi tù cải tạo về, nên tôi chỉ xin học một năm cho đúng theo điều lệ quy định, để sau đó vào ngày 6-03-85, cùng đi với Bác sĩ Vũ Quí Đài, nguyên khoa trưởng trường Đại học Y khoa Sài Gòn, lên San Francisco thi bằng hành nghề của tiểu bang California.

    Trong ban giám khảo, vị Giáo sư chuyên về ngoại khoa đã hỏi tôi nhiều câu liên quan đến vấn đề đau bụng cấp tính thường xảy ra và cách điều trị.  Tôi đã trả lời đúng từng phần một từ bệnh đau ruột dư cấp tính, đến bệnh viêm túi mật, với chẩn đoán sai biệt bệnh viêm sạn đường tiểu và bệnh viêm buồng trứng.  Viêm ruột dư cấp tính phải mổ liền, còn viêm túi mật phải chuẩn bị cẩn thận bằng trụ sinh rồi mới nên mổ.  Thấy tôi trả lời được, ông hỏi lần lên bộ phận lồng ngực, về chấn thương của động mạch chủ.  Tổn thương động mạch chủ do chấn thương là một trường hợp cần phải can thiệp khẩn cấp, chẩn đoán được tổn thương bằng cách chụp hình lồng ngực để thấy trung thất bị rộng ra và dùng thuốc cản quang để chụp thấy nơi động mạch bị rách để can thiệp.  Tôi trả lời thông suốt các câu hỏi.  Thường thường sau khi hỏi xong thí sinh ra bên ngoài ngồi, chờ đợi kết quả.  Trường hợp tôi, sau khi đúc kết cuộc phỏng vấn, ông Giáo sư lại hỏi tôi thêm một câu: “Chừng nào anh định mở phòng mạch?”. Nghe câu hỏi trong lòng tôi mừng thầm vì đoán được kết quả của cuộc thi.

    Bận trở về chỉ có một mình, tôi ghé thăm anh Nguyễn văn Ánh, một người bạn thân, cựu Đại tá Hải quân, xong theo đường chỉ dẫn tôi lên thăm thung lũng Yosemite nằm giữa tiểu bang California, có chiều dài 10 cây số, chiều cao 1 cây số 300 thước, với nhiều khe sâu và nhiều ngọn núi cao oai nghiêm, hùng vĩ.  Đứng dưới chân núi mát lạnh, nhìn thác nước trên cao triền miên đổ xuống qua nhiều thế kỷ, tôi cảm thấy đời tôi bắt đầu một giai đoạn mới, nhẹ nhàng, dễ thở.

    Sau khi tốt nghiệp bằng hành nghề của tiểu bang California và bằng giải phẫu của trường Loma Linda, trước khi rời nhà thương Loma Linda, GS Bruce Branson chủ nhiệm khoa Giải phẫu của Trung tâm Loma Linda, yêu cầu tôi trình bày tại Hội trường lớn của Trung tâm đề tài: “Cuộc vượt thoát bằng đường biển của một bác sĩ Giải phẫu Việt Nam, nguyên Tổng Quản Đốc Trung tâm Thực tập Y khoa Gia Định-Bệnh viện Nguyễn Văn Học, kiêm chủ nhiệm khoa Giải phẫu”..

    Một đề tài không liên quan gì tới ngành chuyên môn, nhưng tôi biết được chủ ý của giáo sư là muốn cho tôi có cơ hội để nói lên ý chí của mình, bởi vì có ý chí thì mới có thành quả được, tôi cố gắng sắp xếp lại câu chuyện cho mạch lạc và trình bày bằng tất cả sự thật trong trái tim mình. . Sau buổi nói chuyện, cử tọa đứng dậy vỗ tay tán thưởng, và tự động xếp một hàng dài lên bắt tay, an ủi và tỏ lòng mến trọng tôi.  Tôi được Giáo sư Branson trao cho một ngân phiếu 200 đồng tượng trưng tiền thù lao của Thuyết trình viên.

    Rời trường Loma Linda tháng 9 năm 1985, qua năm sau 1986, tôi gia nhập Hội Giải phẫu Thẩm mỹ Hoa Kỳ và sáu năm sau vào năm 1992, đậu bằng Giải phẫu Thẩm mỹ Quốc tế, tôi được GS Bolivar Escobido, Chủ tịch Hội Giải phẫu Thẩm mỹ Quốc tế mời tham gia đi nói chuyện về Giải phẫu Thẩm mỹ tại Âu Châu và Nam Mỹ.  Trong đoàn còn có BS Frank Alvarez, một bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ nhiều kinh nghiệm gốc Cuba.  Tôi phụ trách phần nói chuyện về Giải phẫu thẩm mỹ sửa mắt một mí thành 2 mí cho người Á Đông tại thủ đô Rome (Ý Đại Lợi), Barcelona (Tây Ban Nha), nơi đây tôi được tước vị Giáo sư danh dự của Hội Giải phẫu Thẩm mỹ tây Ban Nha cùng một lúc với GS Pitanguy I, chuyên gia nổi tiếng Thế giới về Giải phẫu Thẩm mỹ ngực, người gốc Brazil.  Tại thủ đô Lima Peru (nam Mỹ) bác sĩ Frank và tôi được mời giải phẫu căng da mặt cho một người trong thân tộc của GS Escobido.  Kết quả cuộc giải phẫu rất tốt.

    Trở về Orange County, tôi mở phòng khám bệnh tư, hành nghề tại số 14441#2 đường Brookhurst, Garden Grove, tiểu bang California được 10 năm.  Sau đó dời về đại lộ Beach Blvd số 17672, làm việc thêm được 4 năm.  Cuối cùng trở về 13071 đường Brookhurst # 170 Garden Grove làm việc cho đến năm 2004.  Suốt thời gian hơn 15 năm hành nghề, tôi đã dùng phòng khám bệnh một phần để giúp đỡ miễn phí cho những người trước đây ở chung trong các trại tù Cộng Sản VN với tôi, những người bên đảo tị nạn Bidong mới sang, những người sống trong tiểu bang California chưa được trợ cấp Medical.

    Một biến cố xảy ra trong thương trường với nhiều gian dối, bị kích xúc mạnh tôi thình lình lên cơn đau tim được Bác sĩ Loan Thị Hồ Ngô chuyên khoa nội thương tim mạch giới thiệu lên nhà thương Good Samaritan trên Los Angeles.  Nơi đây BS Gregory Louis Kay chuyên về Giải phẫu tim đã lấy tĩnh mạch ở chân trái của tôi lên làm nhịp cầu nối động mạch chủ vô tim (bypass surgery) cho tôi.  Qua năm sau tôi lại bị suy thận, một tuần ba lần đi lọc máu (Hemodialysis).  Tôi phải ngưng làm việc.  Phòng mạch tôi phải nhờ vợ và con gái tôi tốt nghiệp chuyên khoa phòng mổ tiếp tục trông nom với sự cộng tác chuyên môn của những người bạn, những bác sĩ Giải phẫu thẩm mỹ hành nghề trên Beverly Hill và ở Newport Beach.

    Ngồi ôn lại suốt cuộc đời Y sĩ từ ngày mới ra trường cho đến nay, trải qua những vinh quang và tủi nhục, tôi cảm thấy lòng mình yên ổn.  Tôi đã làm tròn chức năng của một người thầy thuốc, hết lòng lo nghĩ và chăm sóc tận tình cho quân nhân ngoài tiền tuyến, cũng như tận tụy với bệnh nhân nơi hậu cứ, trong các nhà thương.  Tôi đã không quản ngại nguy hiểm ở lại sau cùng trên mặt trận Dakrotah ngoài biên thùy Tân Cảnh Kon Tum để chờ đợi thương binh còn mắc kẹt trong rừng sâu sau cuộc chiến.  Tôi đã hiến máu loại O của tôi ngoài TYV Duy Tân-Đà Nẵng để kịp thời mổ và cứu sống một thương binh bị thương nặng do một viên đạn trung liên trúng ngực, viên đạn xuyên từ đỉnh ngực bên phải qua cơ hoành, xuống bụng, làm lủng phổi, bể gan, lủng ruột.  Bệnh nhân đã có giấy khai tử của đơn vị. 

    Tôi đã nhảy xuống sông Đà chảy xiết ban đêm để cứu một quân nhân Hoa Kỳ sắp chết chìm… Tôi đã lội qua sông Cà ty Phan Thiết, một vùng xôi đậu thuộc chiến khu tam giác sắt VC để chữa cho một em bé đau nặng.  Tôi đã ra ngoài hải đảo Phú Quý xa xôi cách đất liền Phan Thiết 100 cây số để chăm sóc cho ngư dân nghèo trên biển cả.  Tôi đã hai lần tình nguyện lên tận vùng rừng thiêng nước độc Phước Long-Bà rá, nguy hiểm mà từ trước đến bây giờ, chưa có một bác sĩ nào đến làm việc.  Tôi đã tình nguyện hy sinh ở lại nhà thương Nguyễn Văn Học vào giờ phút chót để mổ cho hàng trăm thường dân bị trúng đạn pháo kích của CS, để rồi bị CS bắt ngay trong phòng mổ và bị đưa đi các trại tù cho đến chân tôi bị suy yếu vì thiếu dinh dưỡng. 

    Được tạm tha trở về nhà thương làm việc vì nhu cầu chuyên môn giải phẫu lồng ngực.  Tôi vẫn một lòng tận tụy cho bệnh nhân không phân biệt giai cấp, giàu nghèo, mặc dù tôi phải làm việc trong phòng mổ một thời gian dài không lương với những tủi nhục chua xót của kẻ chiến bại bị phân biệt đối xử trong chế độ CS.  Thỉnh thoảng tôi còn phải đến những nơi thật là hắc ám để trình diện, ban đêm tôi phải xách tầm vông và dây luộc ra ngồi dưới cột đèn đường Duy Tân, canh gác khu phố dưới sự giám sát của Công an.  Nhà tôi ở cũng không yên ổn, cơ quan an ninh của phường tự tiện vô lục soát bất cứ lúc nào. 
    Không có gì quý hơn độc lập- tự do”.  Mỉa mai thay câu nói này lại đặt trong chánh sách đàn áp độc tài của Cộng Sản. . Người dân không còn sự lựa chọn nào khác hơn là ra đi để thoát khỏi gông cùm đó.  Chúng tôi trân mình chịu đựng cho đến ngày vợ tôi tổ chức cho cả gia đình an toàn trốn được xuống Rạch Giá tìm đường vượt biển …Trải qua những gian nan thập tử nhất sanh trên biển cả bao la để được tới đảo và cuối cùng tới được bến bờ tự do trên đất Mỹ.  Rồi tôi cố gắng học hành để được đặc biệt thâu nhận vô trường Đại học Loma Linda, trở lại nghề nghiệp cũ làm Bác sĩ Giải phẫu Y khoa.

    Cho đến ngày hôm nay, tuổi đã về chiều còn vướng phải hai chứng bệnh ngặt nghèo cùng một lúc, vừa phải mổ nối động mạch tim bị nghẽn vừa bị suy thận phải lọc máu một tuần ba lần.  Tôi không biết có phải là Ơn Trên báo động sẽ chấm dứt sứ mạng cứu người của tôi, hay đây cũng lại là một thử thách khó khăn để rồi sau khi may mắn được lành bệnh sẽ giao phó cho tôi một nhiệm vụ cứu nhân nào khác nữa?
    Trước khi chấm dứt thiên Hồi ký này tôi muốn có một đôi lời tri ân:

    Lúc còn nhỏ, tôi ham chơi hơn ham học, suốt ngày chạy rong trên những cánh đồng ruộng lúa mênh mông, theo những đứa trẻ chăn trâu, mồi chim, bắt cá lia thia, đá gà, bắt dế, giăng câu, v. v… Lớn lên tôi chỉ có một mớ kiến thức khiêm nhường về đồng áng, nhưng may mắn thay, được mẹ và người chị lớn thứ ba hết lòng giúp đỡ dìu dắt cho tôi tiếp tục học hành; tôi thi đậu vô trường trung học Pétrus Ký, học xong ban tú tài Pháp phần I tại trường tư thục Lê văn Hai – Huỳnh thị Ngà, ban tú tài Pháp phần II tại trường trung học Chasseloup Laubat, tốt nghiệp trường Hàng hải Việt Nam với hai bằng Sĩ quan Viễn Dương và Cận Dương thuyền trưởng, tốt nghiệp trường Y Khoa Đại học Sài Gòn với bằng Bác sĩ Y Khoa.  Luận án Tiến sĩ được Hội đồng Giám khảo Y Khoa chấm tối ưu hạng và được đề nghị một Giải thưởng luận án.

    Cuộc đời của tôi đã đi qua những đoạn đường chông gai thời chinh chiến tàn khốc, đôi khi quá kinh hoàng trong bom rơi đạn nổ mịt mù, hay những lúc khiếp sợ hãi hùng trên biển cả cuồng phong bão tố, nhiều lúc tưởng chừng như không thể nào thoát được lưới tử thần, nếu không có bàn tay mầu nhiệm của Thượng Đế đã cứu vớt tôi.  Tôi có người Mẹ thân yêu đã mất cách đây trên 50 năm, lúc tôi còn trẻ.  Tuy nhiên tôi có linh cảm như mẹ tôi lúc nào cũng ở bên cạnh để che chở bảo vệ tôi và giúp cho tôi tránh khỏi những tình huống vô cùng khó khăn đen tối.




    Quyển Hồi ký này tôi viết và để lại cho gia đình bé nhỏ của tôi, cho người vợ hiền tuy nhỏ tuổi hơn tôi nhiều nhưng thật đảm đang, gan dạ, một lòng chung thủy đã không bỏ tôi trong cơn hoạn nạn, thời buổi khó khăn khi tôi còn trong các trại tù tập trung Cộng Sản.  Ở nhà, vợ tôi đã thay thế tôi chăm sóc chu đáo cho cha tôi trong cơn đau tim trầm trọng, biết thu xếp việc gia đình vất vả trăm chiều, tìm kiếm tổ chức vượt biển và lo cho tôi sớm rời khỏi chốn lao tù, đưa cả gia đình xuống miền Tây Rạch Giá để dùng tàu rời khỏi VN.  Sang Hoa Kỳ, vợ tôi biết an phận chấp nhận những thiếu thốn về vật chất riêng tư cho mình, đi làm lụng cực nhọc để lo cho tôi có đầy đủ phương tiện trong việc học hành trở lại và chăm sóc chu đáo các con, các cháu.  Tôi tự thấy mình may mắn khi có một gia đình êm ấm, là điểm tựa vững vàng đã giúp tôi không gục ngã mỗi khi đau buồn thất vọng…

    Nguyễn Duy Cung


Bạn có biết những món ăn tốt cho sức khỏe tim mạch?

Bệnh tim là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu nhưng khoảng 80% các bệnh lý tim mạch có thể phòng ngừa được, bạn có thể giảm đáng kể nguy cơ mắc bệnh tim bằng cách thực hiện các bước như thay đổi chế độ ăn uống và tăng cường hoạt động thể chất.

Mặc dù không có loại thực phẩm hay chế độ ăn nào có thể đảm bảo 100% sức khỏe tim mạch, nhưng một vài lựa chọn trong chế độ ăn có thể tác động mạnh mẽ đến các yếu tố nguy cơ mắc bệnh tim như huyết áp cao và cholesterol cao.

Dưới đây là một vài món ăn quen thuộc nhưng mang lại lợi ích sức khỏe cho tim mạch.

Các loại hạt

Để hỗ trợ sức khỏe tim mạch một cách dễ dàng và ngon miệng, giáo sư y khoa John P. Higgins tại Trường Y khoa McGovern thuộc Đại học Texas cho rằng nên bổ sung các loại hạt vào chế độ ăn uống của bạn.







“Chúng giàu dưỡng chất, dễ tìm và là một nguồn thực tế cung cấp chất béo không bão hòa cùng chất xơ, những yếu tố có lợi trong việc giảm nguy cơ tim mạch”, giáo sư Higgins cho biết.

Các nghiên cứu cho thấy việc thường xuyên ăn các loại hạt như hạnh nhân có thể làm giảm đáng kể mức cholesterol xấu LDL và các dấu hiệu viêm trong cơ thể, từ đó giảm nguy cơ mắc bệnh tim. 

Việc ăn nhẹ với hạnh nhân còn giúp tạo cảm giác no lâu và kiểm soát đường huyết tốt hơn - hai yếu tố quan trọng để duy trì một trái tim khỏe mạnh.

Trái cây

Trái cây sấy khô là một lựa chọn phù hợp khi bạn thèm đồ ngọt. Không giống như kẹo hay bánh quy, chúng không chứa đường bổ sung.

“Trái cây sấy khô giàu chất chống oxy hóa, chất xơ và kali, tất cả đều có lợi cho sức khỏe tim mạch”, Oen-Hsiao, phó giáo sư tại Trường Y Đại học Yale, cho biết.

Phó giáo sư Oen-Hsiao cho rằng nên ăn các loại trái cây sấy như mận khô, mơ khô và nho khô. Những loại quả này chứa nhiều chất xơ và các dưỡng chất khác có thể giúp giảm các yếu tố nguy cơ bệnh tim, như cholesterol cao. 

Tuy nhiên, hãy chú ý đến khẩu phần. “Chúng thường có lượng đường cao hơn trái cây tươi vì đường trở nên cô đặc hơn trong quá trình sấy khô”, cô Oen-Hsiao chia sẻ.

Cá béo

Cá béo là nguồn cung cấp axit béo omega-3, giúp giảm viêm, hạ mỡ máu và huyết áp. Chất béo omega-3 cũng có thể cải thiện độ đàn hồi của mạch máu, hỗ trợ tuần hoàn.

“Không giống như thịt đỏ hoặc thịt chế biến sẵn, cá béo cung cấp nguồn đạm lành mạnh mà không góp phần gây tích tụ mảng bám trong động mạch. Việc đưa chúng vào chế độ ăn thường xuyên có thể tạo ra sự khác biệt đáng kể cho sức khỏe tim mạch lâu dài”, bác sĩ Chaaban - trưởng khoa tim mạch Trung tâm Y tế Clara Maass, Hoa Kỳ - cho biết.

Ngũ cốc nguyên hạt

Tuân theo chế độ ăn giàu tinh bột tinh chế có thể làm tăng nguy cơ hội chứng chuyển hóa -nhóm các tình trạng làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim, đột quỵ và nhiều vấn đề sức khỏe khác. Những người ăn nhiều ngũ cốc tinh chế cũng có xu hướng tăng cân theo thời gian so với những người ăn tinh bột phức.

“Ngũ cốc nguyên hạt như yến mạch và gạo lứt cung cấp chất xơ, giúp giảm mức cholesterol xấu”, chuyên gia cho biết. Chất xơ trong ngũ cốc nguyên hạt cũng giúp giảm huyết áp cao, một trong những yếu tố nguy cơ quan trọng nhất của bệnh tim.







Để hỗ trợ sức khỏe tim mạch và giảm nguy cơ mắc bệnh tim, các chuyên gia khuyên hãy thử bổ sung vào chế độ ăn uống các thực phẩm tốt cho tim. Nên ăn nhiều thực phẩm bổ dưỡng hơn như cá béo, các loại hạt, trái cây và 



Trận đánh cộng đồng Bún, Bình Dương
  • Huy hieu su doan 5 bo binhHuy hieu trung soan 9, SD5BB

    Huy hiệu Trung đoàn 7, Sư đoàn 5 bộ binh.

    Xuân về, nhớ Tết Mậu Thân: giữa Tiểu Đoàn 3/7 và trung đoàn của Tướng VC Trần Độ.

    (Kính tặng anh hai, và các chiến hữu thuộc Tiểu Đoàn Khăn Tím 3/7-SĐ5BB).

    Gió thoảng của những ngày đầu Xuân vẫn nhẹ nhàng mênh mang len giữa bao tia nắng nhạt vàng của buổi chiều sắp tắt. Cái không khí se lạnh vẫn không làm rượi người khi tiếng súng ở thành đô, ở những quận, tỉnh lỵ còn rền vang trong đợt phản công của các đơn vị từ Nhân Dân Tự Vệ, Cảnh Sát Quốc Gia, Địa Phương Quân và Nghĩa Quân, đến các sư đoàn chủ lực cùng những lực lượng Tổng Trừ Bị nhất tâm đánh bật Cộng quân đã thừa dịp hưu chiến trong mấy ngày Tết thiêng liêng, tổng tấn công với mưu đồ thôn tính cả Miền Nam. Tôi cũng đã ráng chạy về đơn vị từ nơi đó, từ Saigon vẫn còn vang tiếng súng, sau khi “dù” về bởi mấy thằng bạn học ôn dịch nhắn nhe có tổ chức...nhảy đầm mở “ball famille” ở nhà bạn học trong khu Nha Viễn Thông gần nhà. Chiều tối đêm giao thừa đó, khoác lên người bộ veston, tôi tản bộ dọc lề đường về hướng Hồng Thập Tự, ngó xem thiên hạ giờ nầy vẫn còn vác mấy cành mai về chưng Tết. Vừa ngang trước Cục An Ninh Quân Đội, số 8 Nguyễn Bỉnh Khiêm, thì gật mình khi nghe tiếng... chửi rủa:

    – Ê, Vũ! Mẹ kiếp, (nói cho nhẹ thôi) Tết “dù” về Saigon đi chơi hả mậy?

    Ngoảnh đầu nhìn vào dãy nhà trong lề, thằng bạn học cùng lớp thuở trung học đang hiên ngang trong bộ đồ Dù, nai nịt chỉnh tề với khẩu colt xề-xệ, bước ra cười mỉm. Thằng Sang, đúng là nó. Nhà nó ở hẻm cây xăng đường Nguyễn Bỉnh Khiêm bên kia Phan Đình Phùng mà. Ồ, mà nó đã mang hai bông mai rồi, ngon lành thiệt! Lại hất đầu, Sang lập lại:

    – “Dù” phải hông mậy?

    Tôi cười khảy:

    – Thì ở rừng rú mật khu hoài, Tết nhứt chuồn về chơi chớ sao mậy. Chớ ai như mầy, Nhảy Dù, Tết nhứt được ở Saigon.

    – Mẹ họ, tụi tao mới vừa về đây nè. Đánh giặc túi bụi. Nhảy Dù mà! Ai như mấy thằng bộ binh nghĩ mình là “hoa khôi chiến trường” nên cứ tà tà.

    – Giỡn mặt, lính đánh giặc mà tà tà để rửa cẳng lên bàn thờ ngồi sớm hả?

    Cả hai cùng cười với bốn bàn tay xiết nhau thật chặt. Rời khỏi học đường, cả đám chia nhau mỗi thằng mỗi nẻo, còn gặp nhau thì biết còn sống, còn đùa giỡn với nhau nên không vui sao được. Dán mắt vào cặp lon Trung Úy của Sang, tôi hỏi:

    – Mầy lên trung úy hồi nào lẹ vậy?

    Vẫn cái giọng kênh kênh, Sang ngước mặt vừa phà khói thuốc lá lên trời vừa nói:

    – Đánh giặc kiểu Nhảy Dù mà mậy. Ai như...

    Biết Sang sắp giở giọng xỏ lá kềnh, tôi nhứ trái đấm thẳng mặt nó:

    – Dẹp mầy đi. Phải rửa lon, mầy.

    – Ừa, bữa nào đã. 
    Sang ngưng lại, mím môi nói nhỏ: 
    – Tao nghe tin thằng Phát...

    Vui vẻ đứt đoạn, tôi cũng cúi đầu hình dung lại khuôn mặt dễ thương của thằng bạn học, Trần Khánh Phát, tên lót thật của Phát là “Khắc,” sợ xui nên trên ê-ti-kết mấy cuốn tập nó đề là “Khánh” nhưng ai dè nó bị “khắc” thiệt.

    – Thằng Phát đã “đi” rồi. Mà cũng tại nó. Ai đời, làm Trưởng Ban 2 Tiểu Đoàn mà lính đại đội rớt đàng sau, nó không muốn xác lính lọt vào tay giặc nên một mình quay lại và rớt ngay tại chỗ đó luôn.

    Biết tụi nầy trước rất thân thiết với nhau, Sang nói câu an ủi... mà huề vốn:

    – Thôi mầy. Mỗi thằng có cái số. Nó hiền từ, ít tội nên đi trước. Còn lại đám “quỷ phá nhà chay” tụi mình nặng tội nên còn lâu để trả nợ đời.

    Nói xong, Sang cười khằng khặc nhưng tôi cười không nổi, tôi hỏi:

    – Mầy nhớ thằng Mỹ không? Đặng Ngọc Mỹ? 

    – Sao không nhớ. Cái thằng Bắc Kỳ, mắt hơi lé, trong trường ưa làm thơ viết văn với mầy và thằng Thúc chớ đâu. Tao còn nhớ nó chọc mầy Nam Kỳ cũng bày đặt văn chương. Vậy mà nó thua mầy tuốt luốt. Sao rồi?

    – Mỹ cũng “rớt” rồi! Nó nắm đại đội trưởng Đại Đội 10, TĐ 3/8, cũng chung Sư Đoàn 5. Lúc tao ra trường về, gặp nhau trên đại lộ Lê Lợi, nó thấy tay áo tao mang Sư Đoàn 5 Bộ Binh nên càng mừng hơn. Mỹ bảo: “Toa về với moa đi, nắm Trung Đội Trưởng Vũ Khí Nặng cho moa. Moa nắm Đại Đội Trưởng rồi.” Tao không nghĩ nó muốn chỉ huy tao để “trả thù” văn của tao được chấm giải cao hơn nó, mấy em khoái xem bài của tao hơn là “Mỹ... lé” mà là tình thân với nhau ở tuổi học trò, tin tưởng cùng rơ hơn.

    – Tại mầy khoái đi làm chính trị, làm Cán Bộ Áo Đen, chớ không thằng nào cũng như nhau.

    – Bậy bạ. Cũng tùy từng thằng. Như mầy đi Nhảy Dù, hơn anh em, tao cũng phục.

    – Tụi mình đời lính mà mậy. “Một xanh cỏ, hai đỏ ngực” vậy thôi. Rồi thằng Mỹ với mầy?

    – Nó ở Trung Đoàn 8, tao về Trung Đoàn 7. Có cái ngộ là tao cũng ở Tiểu Đoàn 3, cũng về Đại Đội 10 và cũng giữ Trung Đội Vũ Khí Nặng. Chỉ có khác là trung đoàn thôi.

    – Thì trung đội đó là trung đội chỉ huy.

    – Thôi, chuyện thằng Mỹ thì nó bị ở Bến Cát. Tiểu Đoàn tụi tao dưới Bình Dương tức tốc lên tăng viện... nhưng không kịp, nó mất quá nhiều máu. Chỉ tội là mới có vợ, và vợ nó... đang mang thai!

    Sang chắt lưỡi:

    – Lính đánh giặc như tụi mình, vợ con làm quái gì cho... khổ thân. Đường nào cũng về... Nghĩa Trang Quân Đội mà. Đúng không?

    – Thì... đương nhiên.

    Và để cắt ngang bầu không khí ngột ngạt, tôi bảo Sang:

    – Ê mầy, tới nhà chị Mai, chung lớp với tụi mình, có mở “ball famille”, trong Nha Viễn Thông kế cận nè. À, rồi mầy rửa lon luôn.

    – Thôi mầy đi chơi đi. Tao không rời đại đội được. Mầy nhớ về sớm nghen. Tụi tao về đây là tình hình không ổn đó.

    Tôi buột miệng chửi thề:

    – Mẹ họ! Nhảy Dù tụi mầy cứ đảo chánh lên đảo chánh xuống.

    Thằng Sang chửi thề lại ngay và trả đũa:

    – Sư Đoàn 5 của mầy cũng vừa hả. Đếch cãi với miệng mồm mấy thằng “chính chị” như mầy nữa. Nhớ... về sớm nghen. Hổng có đảo chánh đâu. Lộn xộn đó.

    Và mà thật. Rạng sáng hôm sau thì tiếng súng nổ rền. Má tôi phải đánh thức mà tôi dậy không muốn nổi vì ban tối uống rượu, nhảy đầm liên tu. Trong giọng ngáy ngủ:

    – Việt Cộng gì... Việt Cộng. Đảo chánh đó. Hồi chiều... thằng Sang có nói con...

    Má tôi, đúng là bà già miền Tây, nắm tóc kéo đầu tôi lên và bảo:

    – Ừa, Việt Cộng nó đảo chánh đó. Tụi nó mang khăn rằn chạy ngoài lộ kìa. Ba mầy, ổng... đi đâu rồi.

    Tôi tỉnh ngủ ngay. Tỉnh như sáo sậu. Nhét khẩu colt sau lưng, xỏ vội chiếc jacket nhà binh với hai băng đạn, tôi phóng ngay ra cửa và men theo những hàng ba của dãy phố để vòng ra đầu ngỏ có trụ sở.

    – Giới chức coi kìa. Có hai thằng cha già đạp xe qua lại nãy giờ hai bận.

    – Kệ mấy ổng. Tết nhứt thì người ta… vui chơi mà.

    Tuy nói vậy với thằng Tân, 1 người lính trong Toán Quân Báo, đang có nhiệm vụ gác trước cổng trường mà Đại Đội chúng tôi đang trấn đóng, tôi liếc xéo ngoài đường quan sát.Đúng vậy! 2 người đàn ông lớn tuổi đạp xe lướt qua từ hướng Bún về ngã ba An Sơn, vừa chạy xe như dạo mát nhưng..vừa đảo mắt qua khu vực đóng quân. Một cảm giác ngờ vực nhuốm lên. Hổng lẻ tụi Việt Cộng muốn giở trò khi chúng tôi đang đóng dọc theo Quốc lộ 13, ba bề đồng trống, gần phố chợ? Bị đánh tan tác trong thành phố giờ muốn gỡ gạc với chúng tôi, với những đơn vị không đầy đủ quân số vì phần nhiều anh em ỷ y những ngày Tết “đình chiến” dù về nhà, kẹt chưa về kịp. Sau khi dặn Tân cứ tự nhiên, hút thuốc ngó mông mênh làm như không để ý gì thế sự, tôi nhảy phóc xuống tường rào gạch định bước vào một phòng lớp nơi ở của Ban Chỉ Huy Đại Đội thì Trung Úy Tín, đại đội trưởng, từ phía cây điệp to bản bước ra chận đầu. Vừa hỏi, ông vừa cười mỉm:

    – Gì thế Vũ? 

    – Thưa anh Hai (mấy trung đội trưởng cùng thân cận thường gọi ổng là anh Hai, dù ổng là người Bắc) có hai thằng...

    – Anh biết rồi... nãy giờ. Dặn anh em cứ tự nhiên, gom cây lá ngay và nhóm lửa giữa sân trường như đun nước pha trà cho ấm bụng, gió lạnh, trời sắp tối rồi.

    Thật khó cái gì qua mắt được cái ông trung úy giọng nói nhỏ nhẹ, dáng dấp thư sinh nhưng đánh giặc thì... “cò can” nầy. Lịnh được thi hành cấp tốc để nghi binh và chỉ có chúng tôi là đang suy tính tình hình thôi. Trung Úy Tín nói rất nhanh với Binh1 Long, Trưởng Toán Quân Báo, đang đứng cùng anh em trong Toán:

    – Trời gần tối rồi, mấy đứa ngồi, đứng trước hàng rào cứ như trò chuyện. Chừng 2 thằng già đó quay về ngang tới thì phóng nhanh ra chận đưa vào đây. Phải làm thật nhanh và êm.

    Thằng Long nhanh nhẩu:

    – Nhận rõ thẩm quyền.

    Nói xong, Long quay người hất hàm ra hiệu 5 người trong toán đi theo. Thằng Bé, toán phó, luôn đi sát với Long bởi hai đứa là bạn bè thân thiết. Hai đứa nó được mang tên là Long VC và Bé VC. Cũng đúng thôi, vì tụi nó cùng đi theo Việt Cộng và cùng từ trong khu ra với ý muốn hồi chánh. Sau khi hỏi han và xác định nỗi bất mãn hận thù của Long và Bé, đơn vị muốn giúp hai đứa có thêm quyền lợi và đơn vị được người có nhiều khả năng phục vụ nên làm thủ tục cho tụi nó đăng lính để có tiền đầu quân, vào Trung Tâm Huấn Luyện Huỳnh Văn Lương, trở về đại đội và được giao nắm Toán Quân Báo vì tụi nó rất rành rẽ những mánh khóe của Việt Cộng. 
    Hai ông già đã bị điệu vào BCH Đại Đội, Trung Úy Tín nghiêm giọng hỏi:

    – Việt Cộng tối nay tấn công mấy giờ? Nói ngay.

    Hai lão chối bây bẩy:

    – Hổng có đâu trung úy. Tụi tui là dân thường. Tết uống rượu nóng trong người nên chạy vòng vòng cho mát.

    Thằng Long giơ tay dọa đánh, Trung Úy Tín khoát chận và nói với hai lão:

    – Hai ông đã đi mấy vòng điều nghiên? Báo cáo các chỗ đóng quân rồi phải không?

    – …..

    – Nói ngay... không tôi giao cho tụi nó.

    Hai người vẫn giở giọng kêu oan nhưng trong ánh mắt chẳng có gì là thật. Thiệt là mất thời gian! Trung Úy Tín quyết định:

    – Bọn thằng Long nhét giẻ bịt miệng, cột hai thằng già nầy vào gốc cây điệp giữa sân trường.

    Xoay qua hai tên tình nghi, ông tiếp:

    – Nếu khai thật thì chúng tôi giữ mấy ông trong này. Bằng không, tối nay mấy “đồng chí” mấy ông tấn công thì tôi sẽ bắn hai ông trước rồi đánh với bọn chúng sau. Mang đi!

    Sau khi cho giải hai người kia ra ngoài, mặt Trung Úy Tín thản nhiên nhưng chúng tôi biết ông đang suy nghĩ, đang liệu định một cái gì. Rút điếu thuốc capstan – là gu của ông – trong bao dẹp nửa, nhìn bọn tôi như dò hỏi. Thượng Sĩ Điểm, thường vụ đại đội, dáng người kềnh càng, dựa lưng vào tường, lên tiếng trước:

    – Tôi nghĩ chắc tụi nó dám chơi mình lắm, trung úy.

    Chương, trung đội trưởng Trung Đội 2, dù thích uống rượu nhưng tánh người lúc nào cũng trầm tĩnh:

    – Tiểu đoàn mình ở ngoài nầy chỉ có 3 đại đội, không đầy đủ quân số, chỉ có thằng Bù (tên thường gọi Đại Đội 10 chúng tôi) mình là đám lính có gia đình ở Lò Chén nhiều nên đã về kịp nhưng quân số chỉ hơn 70. Phải không Dách-Cún (thượng sĩ)?

    Nghe Chương hỏi mình, Thượng Sĩ Điểm nhanh nhẩu:

    – Đúng, hơn 70 nhưng mình chơi ngon lành mà. Bên thằng Sập Dách (Đại Đội 11) chẳng còn bao nhiêu; bên chỉ huy cũng không khá, tụi nó dù tá lả.

    Điếu pall-mall cháy tàn trên tay, tôi liên nhớ tối qua ngay mùng 5 Tết, vừa theo xe jeep của Trung Tá Nguyễn Xuân Mai, tham mưu trưởng sư đoàn, về ngang gặp ngay Đại Bàng Ninh, tiểu đoàn trưởng, nên bị phạt dẫn một tiểu đội đi “ăn sương” (kích) ở Cống Bể. Nửa đêm đúng là VC di chuyển. Thoạt đầu, tôi tính cho “hốt” để lập công chuộc tội nhưng may... ông bà “độ”. Chờ qua mấy thằng xích hầu, tôi tính nổ súng lệnh để tất cả tung lựu đạn diệt cả lũ đi sau có mang theo máy móc liên lạc. Vừa tính xiết cò thì tai tôi thoáng nghe qua đợt gió thoảng từ bên kia đường, qua khoảng đồng lúa đã gặt là một vườn mía mênh mông, mang theo không phải tiếng lá mía xào xạc mà lẫn lộn nhiều tiếng người. Thả lỏng tay cò, tôi rướn người nhìn qua dãy bụi rậm, thấy từ bên kia đường, hướng ruộng mía lố nhố người đi ra, dọc theo bờ cống bể, băng qua đường xuôi về hướng chúng tôi. Không ổn rồi! Tụi nó đông quá, súng ống lủ khủ, trong khi tụi tôi chỉ có 7 thằng. Rồi còn nữa, ở bãi ruộng bên đường, bọn chúng ở đâu ra dầy đặc, đang tuần tự băng lộ để đi trên con đường đất nhỏ độc đạo dọc theo con lạch thoát từ cống bể. Bỏ mẹ rồi! Hồi nãy mà ra tay thì cả đám không còn... xác để hốt. Từ thế hàng ngang, chúng tôi vẫn vậy nhưng bò lùi ra sau, cố gắng qua cách một thửa ruộng nhỏ, nằm mẹp nấp sau bờ đê thấp, hướng súng đặt trên bờ phòng khi bị phát giác thì chỉ còn mạng đổi mạng thôi. Hết đường binh! Đêm khuya, tiếng đi nghe rần rật. Tuy vậy, lúc bọn chúng dừng thì sự thanh vắng ghê lạnh bừng lên. Tôi với tay qua tắt máy PRC-10 trên lưng hiệu thính viên năm sát cạnh vì e tiếng máy rồ-rồ sẽ lộ nơi ẩn núp. Bọn chúng hướng về trên kia, lên phía đường rầy xe lửa. Hàng trăm, hàng ngàn, không phải... hàng cả trung đoàn của địch quân đang di chuyển. Bố tụi nó. Cứ như đi chợ vậy! Tôi chửi thề trong bụng. Cả bọn nằm rạp, dán mắt nhìn bọn Việt Cộng chuyển quân. Phải non 2 tiếng, bọn chúng mới đi qua hết. Chờ một hồi lâu, không còn động tịnh, nhìn bờ ruộng bên kia đường cũng vắng hoe, tôi cho mở máy liên lạc:

    – Hélène. Victor gọi. Hélène...

    Tiếng rè rè của máy liên lạc nội bộ vang lên nho nhỏ vì bọn tôi đã bớt volume:

    – Victor... đây Hélène.

    – Nghe...

    Tiếng máy bên kia cắt ngang:

    – Nãy giờ sao im lặng vô tuyến, liên lạc không được. Đại Bàng cũng có theo dõi. Thẩm Quyền đang lo.

    Tôi bấm combiné:

    – Đang kẹt. Gặp Thẩm Quyền gấp.

    – Nhận rõ Giới Chức. Chờ.

    Chỉ khoảng 30 giây, tiếng Trung Úy Tín lên bên máy:

    – Victor... đây Tango.

    – Nghe 5/5.

    – Tụi em “lặn” đi đâu. Không liên lạc được. 43 (danh hiệu Tiểu Đoàn Trưởng) nãy giờ “qué” tùm lum.

    – Trình Thẩm Quyền. Tụi em tắt máy. Bọn chúng vừa qua. Đông lắm!

    – Có sao không?

    Luôn luôn là sự quan tâm của người chỉ huy thương đàn em như ruột thịt. Tôi xúc động:

    – Dạ... chưa sao. Lúc nãy mà nổ thì... banh xác rồi.

    – Con khỉ. Rồi thế nào?

    – Bọn chúng đã đi qua. Khoảng 1 trung đoàn trừ. Hình như là chính quy Bắc Việt.

    – Đi đâu? Hướng nào?

    – Dạ, giờ nầy chắc trên 2 con rắn đỏ (đường rầy xe lửa).

    – Chắc chắn?... Anh tin. Để đó anh lo. Cố giữ an toàn. Đáp nhận.

    – Nhận rõ.

    Rời combiné, tôi ngã người gối đầu lên bờ đê nhìn trời tối thẩm. Sương đêm khá lạnh, thấm qua đồ treilli, len vào da thịt nhưng trong người chúng tôi nóng nảy bồn chồn. Chẳng biết ở trên giải quyết thế nào. Mong trời mau sáng đặng... dẫn đội trở về. Khoảng mươi phút sau, chúng tôi nghe tiếng depart của pháo binh từ Phú Lợi, căn cứ của sư đoàn, rót về. Và từng loạt đạn đại bác nổ vang trên dãy mô cao dọc theo đường rầy xe lửa. Chỉ huy mình chịu chơi thiệt. Tin và lo cho em út hết mình. Tiếng pháo ì ầm làm toán kích ấm lòng, nôn nao trông chờ rựng sáng. 
    Tiểu đội đứng nghiêm như trời trồng giữa sân trường Trịnh Hoài Đức “Nam” để nghe Đại Bàng “xát xà-phòng”:

    – Tiên sư bọn mầy. Dù chơi về bị phạt rồi đặt chuyện làm cả đêm không ai ngủ được.

    Vừa sạt tụi tôi, Đại Úy Ninh ngó xéo đại đội trưởng bọn nầy như trách cứ ông hay tin thương cái đám ba gai, ba đồ... trong lúc Trung Úy Tín đứng gần bên ông, ngó trời... tỉnh bơ. Đại Bàng Ninh càng tức khí xì nẹt bọn tôi một mách nữa nhưng chưa hả thì một chiếc jeep của sư đoàn chạy vội vào thắng két. Viên trung úy, lúc sau được biết ở Phòng 2 của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn, nhảy xuống xe tiến đến chào Đại Úy Ninh xong, trình phong bì còn hàn kín. Đại Úy Ninh bóc văn thư, hay mật điện gì đó, liếc nhanh xong cười toe và quơ tay:

    – Về trình với Mặt Trời (danh hiệu của Tư Lệnh Sư Đoàn) là yên trí. Chúng tôi lưu tâm và bung rộng lắm. Thế tối qua mới báo lên sư đoàn để pháo.

    Đang nói, ông lại quay qua bọn tôi ra lịnh:

    – Giải tán đi!

    Biết chúng tôi thoát nạn, Trung Úy Tín cười vỗ vai tôi, nhỏ nhẹ:

    – Thôi em về coi sóc trung đội của em đi.

    – Dạ.

    Chúng tôi kéo ra khỏi trường Trịnh Hoài Đức, đi về ngôi trường Cộng Đồng Bún sát cạnh là đất của đại đội tụi nầy. Thằng Tư, trung đội trưởng Trung Đội 3, vừa hích cùi chỏ vừa hỏi, lôi tôi trở về với thực tại:

    – Ê Vũ, sao mậy?

    – Mẹ... tụi nó. Tối qua thì tao xém... rồi. Đám nầy từ hướng dưới, bọn chánh quy chắc bị Cọp Biển (TQLC) dợt cho tan tác giờ kéo về đây tính gỡ gạc. Hồi hôm bị pháo đuổi rồi.

    – Chưa chắc chạy.

    Đôi người lên tiếng. Tất cả suy nghĩ. Tiểu Đoàn 3/7 ở ngoài nầy chỉ có 3 đại đội: ĐĐ Chỉ Huy, ĐĐ10 cùng ĐĐ11 và Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn. Đại Đội 9 thì nằm trong Mật khu An Sơn, thủ căn cứ của tiểu đoàn. Không đơn vị nào còn đủ quân số. Tụi nầy nghĩ thằng Cẩu (ĐĐ9) nằm cheo leo một mình trong vùng địch chỉ có nước thủ, đêm tối không thể cho con cháu bung khỏi cầu Cây Cui thì tụi nó dễ dàng vòng qua, ra ngoài tấn kích hay cầm chưn đơn vị lớn, san bằng đơn vị nhỏ.

    Địa hình tiểu đoàn đóng quân cũng tương đối ổn. 3 đại đội đóng trải trong 2 trường trung học liền nhau: trường Cộng Đồng Bún và Trịnh Hoài Đức (Nam). Trước mặt là quốc lộ 13, gần chợ Bún đi về thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. À, băng qua cánh ruộng hông trường họ Trịnh, một dãy lũy tre khá dày chạy dọc theo con đường đất đỏ dẫn vào trường nữ Trung học Trịnh Hoài Đức. Nơi nầy hơi bất an vào buổi chiều sẩm hoặc tối trời. Du kích thỉnh thoảng xuất hiện nên chúng tôi thường căn dặn những người lính mới về. Đất địa nầy là vùng xôi đậu mà. Chung quanh trường ba mặt là đồng ruộng đã gặt hái, nhứt là phía sau cả một bãi đất trống rộng, người dân đã cắm chà tre để trồng những dây sắn. Phía hướng về Bình Dương thì các toán kích đêm của 3 hậu cứ trung đoàn ở Phú Văn đều bung về mặt đó. Vậy nếu địch muốn tấn công thì sẽ ở mặt nào? Nhìn các cấp trung đội và luôn cả ông thường vụ đại đội cau mày, Trung úy đại đội trưởng nhếch miệng cười khẽ bảo:

    – Mấy người ở đây, cho con cái cơm nước hoàn tất nhanh. Tôi qua gặp Đại Bàng Ninh một tí.

    Nghĩ cấp chỉ huy đã suy định kế hoạch, bọn nầy nhao nhao:

    – Liên lạc máy. Đi làm chi.

    Trung Úy Tín lắc đầu:

    – Có những lúc không nên nói chuyện trên máy khi tiếp xúc thẳng được. Vô tuyến chẳng tuyệt đối an toàn... Chờ lệnh.

    – Nhận rõ.

    – Rõ, trung úy.

    Trung Úy Tín vội vã bước ra sân, băng qua rào giữa ngăn cách hai trường để đến Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn nằm trên dãy lầu của trường Nam. Còn lại, chúng tôi nhìn nhau rồi mạnh ai nấy về lo trung đội của mình. Long, Bé, Tân, Kiệt... đứng chờ bên ngoài, gặp tôi hỏi liền:

    – Sao Giới Chức? Trung Úy có tin là tụi Việt Cộng tấn công không?

    – Chưa biết. Nhưng đừng ồn ào. Làm thinh chuẩn bị thì hơn.

    – Nghe Giới Chức. “Bí mật quân sự”, hì... hì...

    Cái đám quỷ nầy cứ vậy. Nói xong, cười nham nhở, coi lại dây trói và khăn bịt miệng hai lão già tình nghi bị cột quanh thân cây rồi ôm súng ra dọc tường rào quan sát. Đường lộ vắng tanh, bóng tối xuống dần. Mấy căn nhà bên kia đường, ẩn khuất trong những tàng cây rậm giờ thêm tăm tối, toát ra cái lạnh lùng ghê rợn. Tôi ngẫm nghĩ: Địch sẽ tấn công ở mặt tiền, từ phía bên kia, phát xuất từ Mật khu An Sơn. Tấn công và rút cùng 1 hướng. Chắc mẻm! Trung Úy Tín quay về. Cả bọn quay quần và nhận lịnh. Các nhóm lửa phía sau vẫn bập bùng, phía trước được dập tắt. Chờ đêm phủ trùm cảnh vật, bán đội Quân Báo trườn sát mặt đường qua trước, đột nhập 3 căn nhà, buộc gia đình họ xuống hầm vì sợ giao tranh sẽ liên lụy và cũng e họ dùng đèn để báo hiệu lính Quốc Gia hiện diện thì bể kế hoạch. Được báo đầu cầu êm ả, từng tiểu đội, trung đội, lần lượt bò qua hết đại đội. Chỉ trừ 2 người lính thuộc ban Tiếp Tế và 3 quân nhân cảm bịnh ở lại trong sân để xe đạp của nhà trường, dịp Tết sân trống, nên được để chảo đụng, củi dầu, gạo thóc của đại đội.

    Kể ra, sếp của đại đội tụi nầy có tài thuyết phục. Đại Bàng Ninh mà cho đại đội cứng nhứt tách khỏi tiểu đoàn cũng là điều lạ. Đại Đội 11 của Trung Úy Chờ phần yếu, phần ít quân phải cùng Đại Đội Chỉ Huy căng quân ra trám tuyến qua phần trước đó của chúng tôi. Ổng tin cũng phải, ba bề quanh hai trường học là đồng trống, địch không dại gì làm mặt tấn công. Cái nguy là phía trước thiếu bề phòng thủ. Nếu địch từ trong An Sơn ra đánh thẳng vào mặt tiền thì hỏng. Cái nầy trước đó ổng ỷ y ở Đại Đội 9 mà không nghĩ tới.

    Vừa qua toàn bộ, chúng tôi liền bố trí. Trung Đội Vũ Khí Nặng của tôi phải lãnh mặt “nặng” là lập phòng tuyến phía sau, 2 thằng mặt rỗ (đại liên 30) đặt cách khoảng của Phân Đội Đại Liên hướng súng vào phía trong. Việt Cộng mà tiến phía nầy thì những tràng đạn 12.7 ly đan chéo cho chúng biết thế nào là lễ độ vì theo cán bộ thám sát điều nghiên của chúng không thể về báo có thay đổi 1 đơn vị Quốc Gia nằm ở bên nầy. Phân Đội Súng Cối cũng cho 2 “ông già” 60 gióng súng vào trong, xạ bàn kẻ vòng,nvạch sẵn để yểm trợ cho thằng Cẩu nếu nó bị Việt Cộng tính “làm gỏi.” Trung Đội 3 và 2 của Lê Văn Tư với Nguyễn Văn Chương thì căng hình chữ L để lo mặt hông và cánh trái đại đội. Trung Đội 1 của Quách Đức Tú thì nối giáp với Trung 2 dàn sát bờ thấp của quốc lộ trước mặt BCH và đối diện bên kia đường là trường Nam họ Trịnh. Đại đội trưởng của chúng tôi thì ít khi nào đặt TOC trong nhà dân. Lính tráng nằm ngoài thì ổng cũng luôn ở bên ngoài nên anh em ai cũng thương mến.

    Từ quân trường ra, chọn đơn vị và trình diện Bộ Tư Lịnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh ở Phú Lợi tất cả 8 thằng: 6 thằng tới tuổi và 2 thằng học Đặc Biệt đều về Trung Đoàn 7, từ đó phân phối đi các tiểu đoàn. Thằng Phạm Thành Phước, cặp bài trùng với tôi, lại qua Tiểu Đoàn 4/7. Tôi và 1 thằng nữa (không còn nhớ tên và cũng không muốn nhớ vì..) được phân phối về Tiểu Đoàn 3/7. Vừa tới Ban 1 Tiểu Đoàn, thằng về chung tiểu đoàn với tôi liền móc từ túi trên ra lá thư đưa cho 1 trung sĩ, tôi còn nhớ tên là Tĩnh, HSQ Quân Số, nhờ trao cho Đại Úy Nguyễn Văn Lực, tiểu đoàn trưởng, (ghi trên phong bì). Tôi chửi thầm trong bụng: Mẹ nó! Lại thứ “C.O.C.C.” gởi gấm nữa rồi. Cứ ngữ nầy làm được đách gì. Tôi thì quen cảnh từ quân trường là đám “con bà phước, cháu ông sư” nên phớt lờ. Đất nước bị xâm lăng thì đi đánh giặc chớ chạy chọt tránh né thì khác gì “Nam nhi như...chí.” Và sau đó là quảy ba-lô đi qua hậu cứ Đại Đội 10 trao lệnh phân phối để lãnh súng đạn chờ..ra đơn vị, nghe nói đang đóng đâu đó trong rừng. Không phải tôi không có nghĩ: Tiểu Đoàn 3/7 rồi Đại Đội 10 cả 2 đều bù thì phen nầy chắc sạch túi mà sợ. Không! Tôi chẳng có việc đó. Từ ở quân trường, trên nón sắt của tôi mang số 13 chần vần nên tụi cùng khóa ưa chọc ghẹo, nhứt là khi chọn đơn vị,điểm cao mà lại chọn Sư Đoàn 5 Bộ Binh làm đám bạn náo động hội trường. Thằng Khánh (sau về Sư Đoàn 25 BB) cũng chơi thân với tôi, ngồi phía sau níu áo:

    – Ê, mầy muốn chết sớm hả? Còn nhiều chỗ để chọn mà sao mầy đi Sư Đoàn 5?

    – Đi lính, chỗ nào cũng vậy.

    – Mẹ kiếp, mầy ngu quá. Thôi chọn lại SĐ25 đi, hiền hơn. Chút nữa còn chỗ thì tao về 25.

    – Thôi, chừa cho mầy đó. Tao không thay đổi.

    Không phải dưới lao nhao mà trên dãy bàn mấy sếp cũng thầm thì. Trung Tá Trương Như Phùng, tham mưu trưởng, với giọng Huế nặng nề cho tôi 5 phút suy nghĩ và ưu tiên chọn lại đơn vị. Tôi nhứt quyết và dõng dạc: “Sư Đoàn 5 Bộ Binh.” Xong rồi. Cả đám chung quanh tôi lầm bầm, nói năng chửi rủa lung tung:

    – Tao đã nói nó số 13 mà.
    Một thằng khác nói:

    – Chắc ở đó nó có “gốc” đó. 

    – Thằng có tật ưa gàn.

    – Kệ nó. Thôi mình lo thân mình.

    – ….

    Ôi, tụi nó nói tá lả âm binh. Thây kệ tụi nó. Mình có quyết định của mình. Thằng bạn, em ông Tướng Khang, nói sẽ kéo về Thủy Quân Lục Chiến vì gia đình, anh em bà con của tôi đi Cọp Biển khá nhiều. Tôi cũng khoái. Nhưng khóa đó Thủy Quân Lục Chiến không có lấy thì mình đi nơi khác vậy. Đi lính thì đâu cũng lính chớ thắc mắc, thắc... mũi làm gì. Chừng tất cả rời Hội trường, tôi mới biết lý do tại sao trên dưới đều... Lý do là Sư Đoàn 5 Bộ Binh vừa bị thiệt hại 1 trận nặng nề tại Dầu Tiếng, Bến Cát, với Trung Đoàn 7. Trung đoàn nầy đánh thắng 13 trận ở 13 làng trên Bến Cát. Những trận cuối cùng, xác và vũ khí quá nhiều của Việt Cộng khỏi tịch thu mà xe ủi hố, đốt lấp hết. Tới làng 13 Bis (cũng con số 13) có lẽ “lơ là” (?) nên bị tụi nó phục thù tan tác. Báo chí đăng tải tùm lum nên đa số lo sợ là phải. Tôi thì cóc sợ. Hơn nữa thằng Phước tiếp đó cũng theo tôi chọn SĐ5. Tánh gàng bướng cố hủ, chờ phương tiện về Saigon, đầu đội bê-rê vàng,vai áo mang phù hiệu Ngôi Sao Trắng Miền Đông với số 5 đỏ chói làm lóe mắt bạn bè, tụi nó nhìn với vẻ e dè, mặt mấy thằng tôi kênh kiệu. Tự nhiên tôi bắt đầu hãnh diện bởi đơn vị của mình từ đó. Và cả bây giờ, dù mang số 13, tôi vẫn còn ngồi đây ghi lại những dòng nầy.

    Tới đây, tôi xin phép tưởng nhớ những người bạn thân thiết cùng khóa với tôi, tụi nó đã gục ngã trên khắp chiến trường, đã hy sinh xương máu cho Tổ Quốc Việt Nam mà ước vọng vẫn chưa thành! Thằng Lê Sanh Phuông, cháu Thiếu Úy Châu của Quân trường Đồng Đế, rớt trước tiên trong tháng đầu, rồi sau đó thằng Khánh... cùng Sư Đoàn 25. Thằng Cương lên cố thiếu úy khi chiến xa nó bị ở Quảng Trị. Cương về bên Thiết Giáp. Thằng Tùng thì lái trực thăng bị rớt. Còn những thằng nữa, ở Sư Đoàn 22, Sư Đoàn 23, Biệt Động Quân, Lực Lượng Đặc Biệt... không nhớ nổi. Về Sư Đoàn 5 thì hai tay Đặc Biệt ra đi sớm nhứt. Rồi thằng Khanh ở 2/7 bị B40 gọt nửa đầu bên phải, trực thăng tản thương vừa chạm đất thì nó... hết thở. May các bác sĩ tận tình, cắt cuống họng, luồn dưỡng khí, giải phẫu và nó sống với nữa thân mình bất toại. Cuối cùng thì tôi chỉ biết còn lại tôi và thằng Phước trở về Saigon...

    “Ầm! Ầm! ”Hai tiếng nổ chấn động, chớp sáng bùng lên từ trên dãy lầu bên kia đã phá tan bầu không khí trầm lặng giữa đêm khuya. Tiếp đó là những loạt súng đủ loại rền vang từ hướng trường nữ Trịnh Hoài Đức và hình như từ hướng sau hai dãy trường tới tấp bắn tới. Tiếng đạn bay vèo vèo, xé gió cao khỏi đầu ngọn cây. Tất cả anh em đã vững vàng tay súng, bám sát hàng đất dọc lề đường, mắt hướng về phía trước. Tôi phóng người ra tuyến sau. Anh em cũng ghìm súng phòng địch tấn công mặt hậu. 2 xạ thủ đại liên cũng như phụ xạ thủ đã trải đạn căng dài, hướng súng vào khoảng đêm đen um tùm với những vườn dâu, măng cụt, chôm chôm.. liền nhau san sát. Mối lo bị tấn công mặt sau vẫn còn đè nặng trong tôi, nhưng ở đây vẫn yên tĩnh. Tôi căn dặn anh em cẩn thận thì Hạ Sĩ Mậu, một xạ thủ đại liên, cười nói với tôi yên trí: “Tụi nó mà lọt vào cách mấy chục thước thì để bãi lựu đạn trả lời trước, rồi tụi tui đốn hết mấy thằng Việt Cộng ráo trội.” Mậu nói có một phần đúng, vì nguyên tắc của đại đội là khi tối đóng quân thì mỗi trung đội phải cài ngoài phòng tuyến khoảng trên 30 trái lựu đạn gày, rất bén nhạy. Nếu mặt nầy có biến thì tôi vẫn kịp thời kề cận với anh em. Và tôi còn trách nhiệm với Phân Đội Súng Cối nữa. Tới giờ phút nầy, 2 khẩu 60 ly vẫn còn hướng vào mặt trong, để yểm trợ thằng Cẩu cùng lo phía sau của đại đội mình.... Những loạt đạn chát chúa của AK, trung liên nồi RPD của Trung Cộng trao đổi với những tiếng Garant, Carbine M1 nhát gừng, tiếng Thompson, trung liên Bar... từng tràng đáp lễ cũng ở bên kia quốc lộ. Bên chúng tôi hoàn toàn im lặng, không được khai hỏa khi trước mặt không có quân thù, và hơn nữa là cần giữ kín vị trí tới giờ phút chót. Máy nội bộ im lìm, máy tần số tiểu đoàn liên tục phát khiến chúng tôi biết được tình hình bên đó. Việt Cộng đã mở cuộc tấn công hai mặt, phía sau và phía hông hướng Bún. Tụi nó không dám mở ở mặt bắc vì sợ bị tập hậu. Đúng là bọn chó điên muốn cắn càn! Hai mặt kia trống mà tấn công thì chỉ làm... bia thịt.

    – Cửu Long. Đây Hồng Hà gọi.

    Nghe gọi đích danh, thằng Hùng, hiệu thính viên, chụp ống liên hợp trả lời:

    – Cửu Long nghe Hồng Hà. Cho...
    Tiếng của người mang máy tiểu đoàn:

    – 43 muốn trực tiếp với Thẩm Quyền. 

    – Nhận rõ. Chờ...

    Hùng trao máy cho đại đội trưởng kề bên. Trung Úy Tín lên tiếng:

    – Tình hình bên đó ra sao? 43 đâu?

    – Trình Thẩm Quyền, tụi nó thổi B40 lên phòng BCH Tiểu Đoàn trên lầu, vì mấy thằng “mũi lõ” mở đèn coi báo. Một trung sĩ 1 “Mẽo”... dài hạn, Cố Vấn... ngắn hạn, và Đại Bàng vướng miểng ở chân. Tụi nó có lọt vô nhưng xong rồi. Phòng tuyến vững, đang bắn bia...
    Trung úy nóng ruột:

    – 43 đâu? Thế nào rồi? 

    Nghe tiếng bên đầu máy:

    – Ổng mới đây... à, thưa Đại Bàng, có Thẩm Quyền thằng Bù đầu máy.

    Rồi nghe tiếng Đại Bàng Ninh:

    – Tango, đây 43.

    – Nghe 43. Có sao không?

    – Nhẹ thôi. Nhưng khó ổn. Tụi nó đông lắm!

    – Rõ. Nhưng chưa sao. Có cần thằng Bù tiếp chiến ngay?

    – Không. Nằm yên. Mặt đó quan trọng hơn.

    – 43 tính sao?

    – Tao qua bên mầy.

    Cả BCH ngạc nhiên: “Qua bên nầy?”

    Trung Úy Tín hỏi lại:

    – 43 muốn qua?

    – Đúng, giữ an ninh, tao qua.

    – Nhận rõ. 43 chờ tôi cho Dách Cún tụi nầy qua đường đưa 43 qua.

    – OK. Tao chờ...

    Tay còn cầm ống liên hợp, Trung Úy Tín xoay nhìn Thượng Sĩ Điểm và mấy thằng thám báo:

    – Dách Cún giúp tôi đưa Đại Bàng qua đây. Mặt trước còn yên. Mấy thằng tụi mầy yểm trợ.
    Mấy người cùng đáp:

    – Nhận rõ trung úy. 

    Thượng Sĩ Điểm là người rất to con, trước gốc quân đội, sau qua cảnh sát với nhiệm vụ bảo vệ yếu nhân. Không thích thú vai trò nầy, ông lại xin trở về quân đội và xin đi đơn vị tác chiến. Khi Thượng Sĩ Điểm về đại đội, chúng tôi vui lắm vì sẽ có 1 ông thượng sĩ thường vụ chánh tông. Chớ trước nay, hết trung sĩ 1 rồi lại trung sĩ bị bắt giữ chức Thường Vụ, nội nghe không cũng cảm thấy già cú đế. Khi đại đội trưởng giao giữ chức Thường Vụ, Thượng Sĩ Điểm chối từ bây bẩy. Ông chỉ muốn làm trung đội trưởng. Lý do là ổng muốn nắm trung đội trưởng, khi được 6 tháng thì xin đi học khóa Sĩ Quan Đặc Biệt. Chính vì thế mà ổng đi tới những nơi đánh đấm như thế nầy. Cản ngăn mãi không được, cuối cùng Trung Úy Tín phải hứa là hiện giờ các trung đội đều có người, đều quen thuộc địa hình, dễ dàng điều động, thôi làm Thường Vụ tạm thời, thời gian ngắn sẽ cho người hoán đổi. Nhà binh thì chỉ có thi hành lịnh và Thượng Sĩ Điểm rất vui lòng vì biết ông trung úy trẻ tuổi, đẹp trai, thanh liêm nầy rất trọng lời hứa. 
    Thượng Sĩ Điểm rất gan dạ, với sự yểm trợ 2 phía của 6 thằng quân báo, ổng trườn người qua bên kia lộ, và trườn ngược trở lại với ông Đại Bàng trên lưng. Đại Úy Ninh bị thương ở chân, sĩ quan trợ y đã kiểm soát và băng bó cho ông rồi. Trung Úy Tín đưa ổng ngồi tạm ở hố súng cối đào vội vì 2 khẩu 60 đã dời vị thế, hướng ngược lại để sẵn sàng hỗ trợ tiểu đoàn. Có lẽ đám chỉ huy Việt Cộng nóng lòng bởi đã khai pháo, đạn và người áp đảo, nắm yếu tố bất ngờ mà vẫn không tích sự, bèn khai triển ngay mặt đã dự trù là tấn công chính diện. Loạt đầu, cả trung đội VC từ hướng Nam chạy tràn trên mặt đường, vừa bắn vừa hô “xung phong” vang dậy mong cướp tinh thần những người lính cố thủ. Bọn chúng muốn tràn mặt chính nơi cổng chánh, mở đường cho đại đơn vị ập vào làm cỏ 1 tiểu đoàn trừ với khoảng 200 quân số. Và chắc chắn chúng không ngờ 1 đại đội đã chuyển quân khi lợi dụng bóng đêm, 2 cán bộ điều nghiên của chúng đã... “nhậu say” ngủ ở bụi nào. Hơn nữa, từ đầu trận chúng tôi hoàn toàn im tiếng nên.... Tiếng chân chạy rầm rập trên đường, từng loạt AK chỉ thiên, những tiếng hô thét để...hù thiên hạ. Những mục tiêu di động quá gần, cách họng súng của chúng tôi không đầy 5 thước. Từng loạt đạn vút ra, tiếng đạn cắm vào người xừng xựt, nhứt là những viên đạn tiểu liên đầu tròn 11 ly 45 bay đập vào người nghe bịnh bịch. Toàn bộ đám tiên phong bật người ngã lăn, nằm lỳ trên đường... chẳng thèm ngồi dậy.... Đây có lẽ là lần đầu tiên của hầu hết những chiến sĩ biết đích thân mình giết được bao nhiêu địch. Vì quá cận kề, vì cấp chỉ huy của họ không hề tính là sẽ bị bắn xuyên hông. Háo thắng, u mê là điều tối kỵ. Và cuộc chạm súng vừa rồi chắc họ không hay. Bởi súng ống của họ do khối cộng sản quốc tế tận tình trang bị quá tối tân, nổ loạn cả một khung trời trong khi vũ khí trên tay bọn tôi lạch bạch như là những viên pháo tép trong nồi pháo đại. Họ không nghe và không biết gì hết!... Sau những loạt pháo binh từ sư đoàn rải xuống xung quanh ngoài vòng đai phòng thủ, mấy chiếc trực trăng đã lên vùng. Khi những trái hỏa châu lập lòe vừa tắt, một chiếc trực thăng pha đèn sáng rực xuống trận địa và 2 chiếc võ trang bay vòng khạc đạn xuống những đám Việt Cộng đang chạy tán loạn trên đồng. Những tên chỉ huy của Việt Cộng thấy không ổn, cần phải tiếp cận để tránh phi pháo nên những đợt xung phong được thúc đẩy. Thêm những con thiêu thân tiến chạy trên đường. Máy hệ thống nội bộ kêu lên. Giới chức của Trung 2 đang gọi Trung 1:

    – Tango 1... đây Charlie.

    – Nghe Charlie.

    Trung Đội Trưởng Tú vừa lên tiếng thì giọng Chương vừa thật vừa tếu:

    – Ê, Tango 1 nhường sân bớt đi chớ. Chiến lợi phẩm một mình đâu được. Bên nầy buồn ngủ thấy mẹ!

    Đang đánh nhau mà thế đó. Lính mà! Hơn nữa 2 trung đội trưởng nầy rất thân và về đại đội nầy trước tôi khá lâu. Tú cũng là một tay lão luyện chiến trường, cười bảo:

    – Charlie đừng nóng. Hổng mất phần đâu.

    – ……

    Một lần nữa, đợt xung phong thứ hai của VC bị chúng tôi đốn sạch. Vừa thanh toán xong đợt nầy, Trung Đội 1 được lịnh tràn lên vừa thu lượm vũ khí, vừa bám luôn bên kia đường. Trung Đội 2 của Chương trám tuyến. Kịp thời hai cánh đánh bật đợt xung phong thứ ba trên đường lộ muốn tiến vào cổng trường để khuấy động từ trong. Tất cả mưu đồ của bọn chúng đều thất bại. Chúng tôi căng quân, lập phòng tuyến ngăn trên đường... Ông đại đội trưởng của tôi đã đi sát với 2 trung đội trước, sau khi căn dặn tôi điều chỉnh cho chính xác, yểm trợ theo phương cách ổng đã tận tình hướng dẫn trong những lúc đầu. Ổng là thế đó! Luôn luôn ở tuyến đầu với anh em, cùng đương đầu gánh chịu những hiểm nguy với anh em. Có nghe nói ổng từ là thủ khoa về pháo hay điều không tiền tuyến gì đó nên chấm tọa độ hay gọi yểm trợ thì sát nhíp, hết sẩy. Và đó là lý do tại sao tất cả đại đội luôn chết sống cùng ổng. Cách điều quân đánh giặc của ông đại đội trưởng làm tôi nhớ đến một điều trong những cuốn sách viết về chiến tranh. Quân đội Do Thái có sự tự hào về mệnh lệnh của họ khác với hầu hết những quân đội khác trên thế giới. Đó là “Theo Tôi” chứ không phải “Đàng Trước... Tiến.” Ông trung úy nầy luôn đi trước và anh em sẵn sàng “Theo... ông.” 2 trung đội đã qua lộ bắt đầu tiến sau những tràng đạn 60 cơ hữu bắn phá mở đường, trong khi 2 thằng mặt rỗ vẫn yên vị để phòng thủ mặt sau sợ bị đánh úp. 2 khẩu 60 ly của tôi có tật khi khai quả là hàng loạt, mỗi loạt không dưới 10 trái và liên tục. Chính vì thế nên thường bị ông Đại Bàng chửi cái thằng Bù “ăn cối” còn hơn ăn gỏi. Lính bên trong đã liên lạc nên biết có tụi tôi phía trước, họ cảm thấy an toàn. Chúng tôi vừa lập tuyến, vừa gom súng địch trong khi tiếng đạn vẫn vi vút bên trên. Tất cả nằm rạp khi ánh hỏa châu bùng sáng, súng quay về hướng địch phòng bọn chúng lại tấn công, và lui sát tường rào khi trực thăng vào vùng bắn đuổi địch lùi xa. “Tốc”... Ầm! “Tốc”... Ầm! 
    Tú say sưa, tra đạn M79 và bắn liền tù tì. Thẩm quyền tới sát bảo:

    – Em xài “hột gà” dữ vậy. Coi chừng hết đạn.

    Không xoay đầu lại, Tú đăm đăm phía trước, cười nói:

    – Đã lắm anh Hai... anh Hai coi nè...

    Vừa nói, Tú hơi nâng khẩu phóng lựu M79 hướng về đám chà cây, bóp cò. Một chớp nháng lửa kéo theo sau là tiếng nổ của trái đạn chạm đích. Những thân người bung ra, bật nghiêng bật ngửa. Phải công nhận là bọn cán binh Cộng Sản Bắc Việt rất gan lỳ... bị bắn là nằm... lỳ luôn, hổng chạy.

    Chiếc trực thăng rọi đèn nhiều khi đứng sững, pha những chỗ có địch để 2 chiếc kia tắt đèn, bay vòng bắn hạ. Biết cái ác quái là chiếc trực thăng pha đèn nên cây phòng không của Việt Cộng bắt đầu xuất chiến. Từng loạt đạn phóng lên thẳng vào bụng trực thăng nháng lửa từng hồi khiến chúng tôi âu lo nó bị rớt, nhưng... trực thăng vẫn đứng yên, vẫn rọi để chỉ điểm xạ kích. Từ chỗ đóng quân, bên nầy đường nên chúng tôi thấy rõ nơi xuất phát của khẩu phòng không. Nó ở khoảng dãy đất cao với đường rầy xe lửa. Lấy xạ biểu, gióng hướng và khoảng cách theo tọa độ mà ông trung úy đã chấm. Khi mấy chiếc trực thăng vừa rời vùng là tôi cho 2 ông già 60 “ho” liên hồi. Đạn đã trúng đích, ngôi nhà tranh trên kia nơi khẩu phòng không ém đặt bị bốc cháy. Lửa sáng cho chúng tôi dễ dàng thấy qua ống dòm 6×30,những bóng người nhốn nháo trì kéo dường như là khẩu cao xạ. Khoái quá! Trung Úy Tín bốc máy ra lịnh cho 1 trung đội càn lên, vượt qua những chướng ngại, lên mãng đồi thấp để tóm lấy khẩu phòng không kia, nhưng Đại Bàng Ninh thì lại tính... chắc ăn, lấy lý do đại đội nhiều chiến công mà không thằng nào bị mẻ xước chút nào nên phải giữ quân. Đại Úy Ninh cầm máy của Trung Đội Nặng ra lịnh không được xông tới. Thế thì... xìu! Quân đội mà! Muốn đớp cây phòng không nhưng... chịu thôi......... Trời đã tờ mờ. Trung đội tác chiến cuối cùng cũng đã “sang sông” tăng cường cho 2 trung đội trước. Chỉ có đại đội chúng tôi ở ngoài tường rào của hai trường học. Lập 1 vòng đai cho BCH Tiểu Đoàn và 2 đại đội bên trong. Chúng tôi đã thuận lợi hơn. Việt Cộng không còn khả năng tấn sát với ý đồ “thế cài răng lược” hoặc xáp lá cà để không bị phi pháo. Thêm mấy lần điên cuồng xua quân để nướng, bị nướng bởi 3 màn lửa: của chúng tôi tầm ngang; của 2 đại đội kia từ trên bắn thẳng; và của “mưa pháo” do 2 khẩu súng cối 60 ly tụi tôi liên tục rót đạn chéo ô vuông cày nát từng thửa ruộng bung đầy gốc rạ cùng với xác thù.

    Tới đây, tôi không thể không nhắc đến một người: Ông Trung Sĩ 1 Thôn. Ông là người lính kỳ cựu, trước kia là hạ sĩ quan ngành Quân Vận và đã được giải ngũ khi mãn hạn. Trong nhu cầu đất nước chiến tranh, Trung Sĩ Thôn tái ngũ rồi sau đó được thăng cấp trung sĩ 1. Ông giữ nhiệm vụ HSQ Tiếp Tế Đại Đội. Anh em thường gọi ông là Anh Ba. Dù ở hậu cứ, ông luôn quan tâm đến Đại Đội. Khi đại đội, tiểu đoàn đụng trận bất cứ ở đâu, ông đều chạy vào khu truyền tin của hậu cứ Tiểu Đoàn để nghe ngóng theo dõi tình hình. Khi nghe các máy trao đổi, ông biết thằng Bù “ăn nhiều” gần cạn “bánh mì” nên rất nóng ruột. Chạy về hậu cứ đại đội cũng gần bên, ra lệnh cho kho tiếp liệu chất đạn nhứt là các thùng đạn cối M79 lên nửa chiếc dodge.Bao nhiêu người ngăn cản nhưng anh Ba nhứt quyết lái đi. Anh “liều” nhưng trong tính toán không liều. Từ hậu cứ Phú Văn xuống nơi chiến trận chẳng xa xôi.Nghe máy, anh đoán biết Việt Cộng không thể có ở mặt bắc vì sợ lực lượng của cả 3 hậu cứ trung đoàn, còn thêm Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh đóng ở Gò Đậu, còn sư đoàn ở Phú Lợi tăng viện, và tình hình địch... không còn khả năng bung quân. Sau khi hậu cứ Trung Đoàn báo máy cho các toán kích trên quốc lộ, cùng đích thân anh Ba gọi máy báo đại đội rồi pha đèn phóng xe chạy như giông. Dọc đường, nếu có du kích lẻ tẻ thấy xe nhà binh đèn sáng rực thì chắc cũng... “chém vè.” Biết rành vị trí, anh Ba Thôn một mạch tới nơi. Quẹo cúp vào sân nhà, ông nhảy phốc xuống hét lính mang đạn xuống xe ngay để sử dụng. Tướng người có bụng vậy mà anh lanh lẹ vô cùng, tay xách cây carbine M2 phóng ra tuyến quân, kề cận bên đại đội trưởng. Nghe 2 khẩu 60 gia tăng mức độ “cường pháo”, anh Ba vô cùng thích thú.

    Hoa nở rồi tàn. Trận chiến khốc liệt rồi cũng còn lác đác bởi địch lui dần. Đại đội chúng tôi bên ngoài cũng không buồn truy đuổi vì quân số ít ỏi. Vàng vọt những tia sáng đầu tiên hơi rựng trên những hàng cây cau cao vút ở chân trời. Lúc nầy, chúng tôi mới cảm thấy thấm mệt. Thu gom vũ khí, xác Cộng quân xếp dọc lề đường. Đúng 47 tên. Nhìn những thân xác vô tri mà lòng buồn vô hạn. Mộng xâm lăng của cộng sản quốc tế giao cho giặc Hồ làm những tên xung kích bấy lâu tạo biết bao cảnh chết chóc, nhà tan cửa nát, lương dân khốn khổ trăm bề!Giờ đây nhìn bao xác thân của những chú “Sinh Bắc Tử Nam” bó mình trong những bộ ka-ki màu lá mạ nằm bất động, dù nét mặt xám xanh nhưng vẫn thấy rõ họ còn quá trẻ. Những người lính của tôi, lục bóp (ví) của các bộ đội Bắc Việt, đưa cho xem những tấm hình tí xíu, cỡ khoảng 2×2, đa số là một bà mẹ Miền Bắc với vòng khăn đen trên đầu đứng giữa một lũ con nít lô nhô. Tôi muốn tìm xem chú nào ở trong hình nào nhưng tinh thần đã quá nhiều giao động. Bản tính của những người lính Miền Nam!
    Mặt trời đã lên, một số đơn vị nhỏ rải bung để quan sát chiến trường. Họ không thể tìm thêm vũ khí nhưng mang về một số cây tre dài đã vạt nhánh, cứ mỗi mắt tre có thắt một đoạn dây thừng và đầu dây là một móc sắt dùng để kéo xác nhưng bị pháo nà quá đành bỏ… cây chạy lấy người. Nhìn lại những xác trên đường, ngoài sợi nịt màu nâu với đầu nịt đồng khắc hình ngôi sao, tên bộ đội nào cũng thắt quanh bụng một sợi mây để xác dễ dàng được móc kéo đi tẩu tán. 47 xác Vi-Xi nầy được chúng tôi huy động dân chúng đào một hố to ở bìa rào của trường Nông Lâm Súc, đối diện xéo trên bên kia đường để chôn cất. Sau năm 1975, và sau khi tôi ra tù về, nghe nói nơi đó bọn Việt Cộng cho xây một đài “liệt sĩ” để những tên cán binh xấu số “ngậm cười” nhìn thành quả cướp bóc, cho dân lành khốn khổ; cho thiếu nữ VN bán ra nước ngoài; cho thanh niên VN đi làm nô lệ chịu muôn ngàn đắng cay, bị đánh đập đọa đày bởi những chủ nhân ông ngoại quốc; và nhìn những tên cán binh “tốt số” trong những ngôi nhà mới nguy nga, đô-la đầy đống chuyển ngân tẩu tán, được sự bảo kê của quan thầy sau màn cắt đất dâng biển VN cho đàn anh Trung Cộng “vĩ đại” đã có công tiếp trợ vũ khí tận răng để xâm chiếm Miền Nam Việt Nam).

    Vũ khí chất đống. Đạn dược, những cây AK47, B41 báng gỗ đỏ au, trung liên nồi của Trung Cộng... Tất cả đều mới. Chỉ trừ những cây B40 thân nhỏ như cây gỗ tròn, nhìn thấy bộ cò với loa phụt lửa màu đen mới biết là cây súng. Trong đống chiến lợi phẩm được sắp xếp, có thêm những vũ khí mà mấy anh lính bịnh và hỏa đầu vụ đã lập công đầu. Kể ra địch cũng điều nghiên khá kỹ, ngoài hai mặt tấn công, bọn chúng dựa vào yếu tố bất ngờ ở chỗ mà quân đội Quốc Gia lơ là. Đó là hai dãy nhà cầu đâu lưng của hai trường ở phía sau. 1 tiểu đội đặc công VC đã bò vào nơi đó mà chẳng ai hay. Khi B40 hay 41 gì đó bắn lên lầu nơi ở của Ban Chỉ Huy Tiểu Đoàn thì cũng là pháo lịnh cho chúng hành động. Bọn chúng bung ra bắn phá, tạo rối loạn ở tuyến trong cũng như phá tường rào cho đại quân tràn ngập. Đám bộ đội đó không dè khi chúng xuất hiện thì những khẩu carbine của Hạ Sĩ Khiết và Binh 1 Nghiệp, hỏa đầu quân, và Garant M1 của 3 bịnh binh nấp sau các bao gạo trong nhà xe bắn hạ không sót một tên. Không sót người nhưng... còn sót súng. Khi Thiếu Tướng Phạm Quốc Thuần, tư lịnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh, đến quan sát mặt trận, xem thành quả trận chiến và thăm hỏi anh em chiến sĩ, thì trung đội tùy tùng đi theo giữ an ninh đi vòng và “lượm” thêm 2 khẩu B40 nằm trong rãnh nước hông tường. Thiệt tình là tụi tôi chịu thua nếu khẩu B40 chỉ ló phần đầu. Trông cứ như một khúc cây khô tròn lăn lóc dưới mương thôi. Cũng may là công trạng của thằng Bù khá lớn nếu không thì ông Đại Bàng Ninh sẽ cạo xát da. Đơn vị không thiệt hại gì nhiều. Bên Chỉ Huy chỉ có 1 HSQ Mỹ tử trận khi nằm mở đèn đọc báo, một cố vấn và tiểu đoàn trưởng bị thương nhẹ vì miểng. Đại Đội 11 có 2 binh sĩ... đi phép dài hạn. Do đó, không trách Trung Úy Chờ, đại đội trưởng, cáu sườn gặp mấy đứa tôi là mắng:

    – Mấy thằng Mười tụi mầy vừa đánh giặc vừa ăn cướp. Mấy thằng Việt Cộng trước tuyến là tụi tao bắn. Lính tao chết 2 thằng, mà... mà vũ khí tụi mầy thâu hết trơn.

    Thông cảm ổng buồn nên chửi một chút cũng chẳng sao. Tôi kéo mấy thằng Quân Báo đi chỗ khác tránh mặt. Thằng Long cứ cằn nhằn:

    – Mình trám tuyến giữ mặt ngoài cho ổng. Không cám ơn mà còn chửi.

    Tôi kéo tay nó:

    – Thôi, ổng buồn. Kệ ổng. Chút trưa, Thẩm Quyền sẽ kéo ra chợ Bún bao tụi mình một chầu bánh bèo bì.

    Cả đám cười ha hả, đi lại coi hai thằng già VC điều nghiên. May phước là Việt Cộng đánh mặt sau nếu không thì thân hình hai chả sẽ như cái rổ xảo. Hai cha còn sống nhăn và... nhăn thiệt, mặt mày xanh lè vì thoát chết, đang được giao cho Phòng 2 Sư Đoàn đem về Phú Lợi...

    ***

    Tên cán bộ xưng là đại úy từ Hà Nội vào Saigon, móc tôi từ khu tử hình để điều tra. Đây là người thứ nhì bảo ở trung ương. Đại Úy Luyến, tên của hắn, cho biết hắn là em ruột của Trần Quốc Hoàn, một thời làm bộ trưởng ngoài Bắc, thuộc ngành Phản Gián, tra hỏi tôi lung tung nhưng hình như không khá. Chừng theo hồ sơ cá nhân, hắn hỏi tôi về đơn vị mà tôi từng phục vụ.Đó là Tiểu Đoàn 3/7 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh.Ban đầu, tôi ngạc nhiên về cách thức điều tra của hắn.Hắn bảo tôi đừng chối vì cùng... nghề nhưng không cùng chí hướng. Nhưng cả buổi cũng chẳng đâu vào đâu. Trước kia, cả đống tên gồm 1 “đồng nghiệp” báo chí Huỳnh Bá Thành, vẽ hiệu Họa sĩ Ớt, lộ nguyên hình 1 tên thiếu tá VC cùng với 2 tên xưng là trưởng phòng Bảo Vệ Chính Trị 1 và 2, 2 tên chấp pháp nhãi con vì tụi nó cũng là sinh viên Luật nhưng thuộc hậu sinh... khả ố quá xa, cả 5 tên vây điều tra, hỏi han chận đầu túi bụi mà chưa thấy gì, huống hồ...rồi hỏi về tiểu đoàn, mời thuốc và chăm chú nghe kể về trận đánh đầu năm tại Bún hồi Tết Mậu Thân.Tôi kể đúng, kể thật với 1 sự thích thú. Cuối cùng hắn buột miệng:

    – Tôi suýt chết trong trận đó!

    Ngạc nhiên, tôi hỏi:

    – Cán bộ nói đi trong ngành, sao lại dính trong đó?

    Mời tiếp tôi điếu thuốc, Đại Úy Luyến mơ màng:

    – Tôi có công tác của tôi. Tôi cũng suýt chết ở khu Bình Lợi. Sư đoàn tụi tôi thiệt hại nặng, lần lượt rút về khu. Nhưng khi qua khu vực đó, chúng tôi còn khoảng trung đoàn và thấy chắc ăn khi thấy mấy anh đồn đống lơ lỏng. Phải phục hận! Bộ phận điều nghiên và phương án kỹ càng... nhưng... Giờ thì chắc anh biết tại sao tôi hỏi cặn kẽ việc nầy. Nghĩ không thể thua, mà bị...

    – Không ngờ tụi tôi chuyển đội hình à?

    – Thế mới bị... Nếu mấy anh truy đuổi khi chúng tôi chạy ra khỏi căn nhà bị cháy thì tôi và ông Tướng Trần Độ chỉ huy hoặc chết, hoặc bị mấy anh bắt rồi. Cũng chết thôi!

    – Ủa. Trận đó Trần Độ chỉ huy à?

    Sự ngạc nhiên của tôi cũng làm hắn kinh ngạc:

    – Bên anh không biết trận đánh đó do Tướng Trần Độ chỉ huy à?

    Tôi lắc đầu, hoàn toàn không biết. Tên cán bộ Trung ương lững thững đứng lên, đưa tay bắt (lịch sự) và trầm trầm:

    – Cán bộ trại giam sẽ đưa anh về chỗ. Cảm ơn anh đã giải tỏa cho tôi một thắc mắc lớn hơn 10 năm qua. Một lần nữa, cảm ơn.

    Buồn cười thật, tôi nói:

    – Nhưng đến nay là mấy cán bộ đã thắng...

    Hắn lừng khừng, lắc đầu, miệng lẩm bẩm:

    – Thắng... Bại...

    Và lủi đi khi nháng thấy tên cán bộ trại giam đã tới khúc quẹo của hành lang.

    Lê Tường Vũ



Chợ Đông Ba xưa




CHỢ ĐÔNG BA XƯA 

THƯƠNG NHỚ BIẾT MẤY CHO VỪA

Tôn Thất Tuệ

Chùa qua chùa về trên internet có bức hình đen trắng chụp một góc của chợ Đông Ba nhưng là một toàn cảnh gồm cả Ngự Bình và Kim Phụng, bức hình của một nhà nhiếp ảnh ở Đà Nẵng và xuất hiện trên một web bán ảnh cũ khắp nơi trên thế giới, với thời gian không chính xác là thập niên 1950.

Tuy ở Huế, chúng tôi không biết lúc nào bến xe cũ đã chỉnh trang thành bến xe rộng rãi như trong hình. Tôi chỉ nhớ sau 1954, nhiều nhà phố hai đường chính đã lên lầu như nhà sách Gia Long mới, nhà thuốc tây cạnh Ty Thông Tin.
Tiền thân của bến xe khang trang nầy là vùng đất thấp dưới chân cầu Gia Hội ngay ở ngã ba sông; dân chúng chưa chiếm hết mà chỉ ở quanh sông với nhà tranh, nhà tôn, ở đấy có bến đò từ Đập Đá qua. Dân chúng đi bộ từ bên Gia Hội qua hết cầu thì xuống một bực cấp khá cao và rất dài, để vô chợ, xuống đò Đập Đá hay đi xe buýt.
Xe buýt Renault xanh xuất hiện lần đầu tiên cuối 1949 với ba xe chính số 1 An Cựu, số 2 Bao Vinh số 3 Bến Ngự và gia tăng rất nhanh với số lẻ Hữu Ngạn số chẵn Tả Ngạn.
Bến xe nằm ở chỗ thuận tiện vào thời xưa đi bộ hay thuyền xuồng nhưng xe vô ra rất khó. Đi vào chỉ là một con đường nhỏ rẻ từ Trần Hưng Đạo và đi ra bằng một con đường nhỏ chen giữa các nhà tranh chiếm đất, tiếp tục đi sau chợ rồi đến cầu Trường Tiền, chạy ra Trần Hưng Đạo quanh co mấy nhịp. Giữa tam giác đất rất nhỏ tạo nên bởi hẻm đi vào, Trần Hưng Đạo và hông bậc cấp có cà phê Phấn và trạm biến điện. Cả khối nầy đã được giải tỏa, mở đường cho xe buýt vô ra không cần chạy sau chợ nữa. Phía ngoài chúng ta có một ngã năm, tạo nên bởi Phan Bội Châu, đường bến xe, hai đường Trần Hưng Dạo và cầu Gia Hội. Không có bùng binh cột đèn, chỉ thấy cảnh sát đứng
trên bục sắt điều khiển lưu thông.

bến xe đầu tiên
Như vậy nếu đúng trong thập niên 1950 thì việc cải biến e chừng 1958.
Hình cho thấy vài ki ốt mới, làm cho nhiều người hỏi vì sao không thấy bản hiệu Lạc Sơn. Lạc Sơn nhìn ra Trần Hưng Đạo. Tôi nghĩ kiến trúc nhỏ nầy hình thành khi cải thiện bến xe, vì lúc đầu bước xuống xe là vô ngay đình. Có thể kể cả ngôi nhà mái đen bên phải tấm hình; dãy nầy có trạm cảnh sát Phú gì đó, Phú Cát? và cà phê Phấn dọn vô. 

Từ bức ảnh, tôi xin sơ phát ký ức về ngôi chợ muôn thuở trong tâm hồn nay đã biến dạng. Nói về thập niên 1950.
Giữa bốn dãy nhà lồng (nói theo trong Nam) hay là đình xếp thành một hình vuông, chỉ có tháp đồng hồ mang hình thái kiến trúc cùng với đình. Phần còn lại như một khu nhà lụp xụp, lô nhô nóc nhà. Đó là những quày bán hàng, là những ki ốt di chuyển được, không có cột chôn xuống đất; chỉ là những cái sạp bằng gỗ. Lòng chính giữa bốn chân gỗ là một hình vuông 5m x 5m nhưng mở cửa bày hàng làm cho không gian chiếm ngụ có 10m một bề.
Mấy chục hay cả trăm nóc gia nầy bán những thứ không có trong bốn đình, và là khu vui nhộn, người chen người, không thư thả như trong đình, vừa rộng vừa cao.
Đại để, đình bên phải ngay sau bến xe là đình gạo và đình đường. Ôi cái đình nó ngọt làm sao mà các cô bán đường thì đẹp làm sao, áo dài đài cát không khác gì mấy cô đi học. Đường đủ thứ, đường cát, đường muối, đường bánh, đường phèn, đường phổi. Dân chuyên nghiệp nghễ, tay sành điệu (connaisseur), hãy vào đấy mà nhìn, lắm lúc được bố thí một nụ cười, không bị nguýt như dao sắc; một Lan không còn thấy trên đường Phan Bội Châu vào giờ đi học có thể thay mẹ bán đường hay bán nón.
Nếu bán nón thì đình bên trái đối diện là đình hàng nón. Vâng, hàng nón thơm mùi dầu rái ngây say không xáo trộn như Eau de Cologne. Hàng nón nầy thu hút nam sinh nhiều hơn nữ sinh, người nghễ thì nhiều, người mua thì ít. Học sinh nghèo làm gì có tiền mua cái nón tặng nường. Mà nón hả? cả cây nón, gồm hơn trăm cái nón. Mấy cô tom góp nón các nhà chằm đem tới, đóng thành cây nón chở đi Saigon. Noái Saigon không đội nón là sai.
Trở về đình gạo, có những sạp gạo như sạp đường và những người gánh đôi thúng, ngồi dưới đất. Mùi vị hàng đường chỉ thuộc tâm lý nhiều hơn. Nhưng mùi hương của hàng gạo là mùi cám thật, nặng hơn mùi hương lúa ngoài đồng. Không thấy bán gạo tạ, muốn mua gạo tạ thì ra Hàng Bè như tiệm Nam Lai hay tiệm của thầy Phiên. Những thúng gạo được vun thành hình tháp, và khi các bàn tay vun lên thì hương của cám tỏa ra. Vẫn còn thấy những ống gạt bằng tre bóng lưỡng, những cái ô đã nhẵn vì tay cầm. Các bà bán gạo thường lớn tuổi hơn các cô bán đường, những thiếu phụ trông đảm đương; không đường có thể sống nhưng không gạo chỉ có chết thôi.
Cái đình phía sau gần sông là đình cá và đình thịt. Đình còn lại phía trước bán hàng xén, vật dụng như chén bát, đèn đuốc, kim chỉ v.v...
Ở giữa chợ là một cái miễu, chỗ thờ, nằm dưới tháp đồng hồ. Quanh miễu là hàng thợ mã, treo những con nộm áo quần màu mè, quần đỏ, quần xanh; áo vàng, áo tím, áo kép xanh đỏ tím vàng, quần đôi hai màu, báo trước thời trang cho mấy chục năm sau. Huế bây giờ còn nhiều sắc áo sắc quần nhiều màu hơn mấy con nộm nan nầy.
Những nóc gia lụp xụp trong hình bán những thứ không có trong các đình. Tôi biết chắc là hàng bông, rau cải. Người bà con của tôi có sạp rau ngay chỗ tiếp giáp của đình đường và đình cá. Ngày chợ Tết, tôi có đến phụ bán hàng. Khác với chợ Bến Thành Saigon, khu nội địa nầy không có hàng ăn. Muốn ăn xin bước ra Lạc Sơn, ngồi ghế sẽ có người bưng tận nơi, nào là cơm hến, nào là bún bò, nem lụi, nem nướng ...
Cái biết và nhớ của tôi e chưa được 5% của cái chợ. Một phần vì nhỏ quá, một phần tôi sống xa nhà không có dịp theo người lớn vô chợ. Tôi tự hỏi không biết có chỗ bán vải không, bán áo quần không? Tôi chưa đi ngang qua đình cá thịt. Những thứ trong các đình, không biết là cái gì, làm gì. Nhưng biết đường ngọt, gạo ăn và thấy thiên hạ đội nón.

Tuy là chợ, Đông Ba thời xưa vẫn theo một nhịp sống thư thả; đi vào chợ còn thấy thiên nhiên, còn thấy bóng người, còn nghe tiếng nói; không lạnh lùng như dạo các mall bên Âu Mỹ.
Trai khôn tìm vợ chợ đông! Tôi chọn cô hàng đường, ngọt lên cay trái như đóa hoa đời, làm cho ong bay, làm cho ong say. Đông Ba xưa của tôi ơi, thương nhớ biết mấy cho vừa, chợ ơi!




Vĩnh biệt Nhạc sĩ Mặc Thế Nhân

  • Image en ligne
    Image en ligne
    Nhạc sĩ Mặc Thế Nhân vừa rời bỏ cuộc đời lúc 16h (8/8/2025) thọ 86 tuổi.
    Thật buồn, từng nhạc sĩ tài hoa của miền Nam lần lượt ra đi như những dòng sông trôi mãi không về. 
    Mặc Thế Nhân (tên khai sinh: Phan Công Thiệt, sinh năm 1939). Ông là một nhạc sĩ VNCH và cựu ký giả trước 1975 tại miền Nam Việt Nam. Ông có nhiều nghệ danh khi sáng tác nhạc là Nhã Uyên, Phan Trần, Trùng Dương và khi làm ký giả thì dùng bút danh Mộng Thu và Giáng Ái Sĩ. Nhiều sáng tác của ông phổ biến và được yêu thích cho đến tận nay như Cho vừa lòng em, Mùa xuân cưới em, Em về với người...
    Ca khúc có lẽ nổi tiếng nhứt của ông là bài Xin trả tôivề.
    Một nén tâm hương cho người nhạc sĩ tài hoa bằng bài thơ ghép từ 30 tựa bài hát của ông....
    Trời Cao Cho Cánh Chim Bay
    Em Về Bên Đó/ Một Lời Cho Em
    Nhã Ca/ Tiếng Vạc Sầu Đêm
    Một Lần Dang Dở/ Giấc Mơ Tiên/ Gọi Đời
    Giọt Sầu/ Tiễn Người Ra Khơi
    Còn Gì Để Nhớ/ Gửi Người Tôi Thương
    Đường Trần Còn Ai Đó Không
    Giữa Lòng Thế Kỷ/ Xin Em Đừng Hờn
    Trả Tôi Về/ Thuở Vàng Son
    Đêm Nằm Cao Ốc/ Em Còn Nhớ Không
    Tương Tư/ Lời Hẹn Đầu Xuân
    Những Ngày Chiến Cuộc/ Biết Rằng Yêu Em
    Thư Về Em Gái Dạ Lan
    Tình Ca Bọt Biển/ Thuở Vàng Son/ Nhìn Đời
    Chiều Mưa Anh Đưa Em Về
    Ru Em Vào Mộng/ Tình Tôi Với Người....
    Cao Hoàng
    9/8/2025



Ăn Tết Tại Cổng Tây của Việt Nam-Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù

  • Image en ligne

    Âm mưu muốn nuốt trửng Miền Nam Nước Việt, của những người cầm đầu miền Bắc trong Bắc Bộ Phủ, nên năm 1968 các đỉnh cao trí tuệ này nghĩ ra kế hoạch đánh lừa Quân Dân Miền Nam bằng cách: Nhân dịp Tết Mậu Thân tung ra kế hoạch xin ngưng chiến 3 ngày Tết, để Quân Dân miền Nam không đề phòng, để dịp này chúng tung quân Tổng Công Kích Tết Mậu Thân tức đánh úp toàn thể lãnh thổ Miền Nam hầu nuốt trọn Miền Nam trong thế chính nghĩa (với chiêu bài lừa bịp toàn cầu, chúng tung tin dân miền Nam chán ghét chế độ “Việt Nam Cộng Hòa” cho nên toàn dân miền Nam từ vĩ tuyến 17 cho đến Cà Mau đồng loạt Tổng Nổi Dậy đuổi quân xâm lược Mỹ. Nhưng sự thật miền Bắc đã xua quân xâm lấn, dưới sự chỉ huy “lãnh đạo” của Trung Ương Ðảng Cộng Sản Việt Nam, do tên Hồ Chí Minh chỉ đạo và Võ Nguyên Giáp tổng chỉ huy “vậy mà trên thế giới tới hôm nay vẫn còn có người tin là dân chúng miền Nam tổng nổi dậy, đau như thế đó”). Quân Dân Miền Nam vì luôn luôn khao khát Hòa bình, nhất là quá ngây thơ cho nên chấp nhận ngưng chiến và thi hành rất nghiêm chỉnh không tấn công địch trong 3 ngày Tết, bởi thế cho nên sau này mới có câu nói bất hủ:

    "Ðừng tin những gì Cộng Sản nói,
    Hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm".


    Ðể chuẩn bị cuộc lừa bịp này từ mùa hè năm 1967 Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp cùng Bộ Chính Trị đã chuẩn bị kế hoạch Tổng Công Kích kỹ lưỡng và chúng tin chắc chắn rằng chúng sẽ chiến thắng, để Quân Dân Miền Nam không nghi ngờ, ngày 1 tháng 1 năm 1968 Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cư Trinh của chúng còn ngỏ ý xin hòa đàm với Hoa Kỳ; lệnh khởi sự tấn công bằng 4 câu thơ chúc tết của Hồ Chí Minh trên đài phát thanh Hà Nội trong đêm Giao Thừa, giờ mà mọi gia đình còn nguyên truyền thống Dân Tộc cho là linh thiêng nhất trong năm, lệnh này đã phổ biến đến các cấp chỉ huy của Cộng Quân ở miền Nam biết để thi hành từ tháng 9 năm 1967, bốn câu thơ này Hồ Chí Minh gân cổ đọc, sau khi đã mài răng và liếm môi trơn tru, con cáo già gân cổ đọc đúng vào giờ linh thiêng của TẾT Mậu Thân:

    Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua.
    Thắng trận tin vui khắp nước nhà.
    Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ.
    Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta.


    Nhưng nhờ tinh thần kỷ luật cao các đơn vị thuộc sư đoàn Nhảy Dù Việt Nam sẵn sàng chấp nhận gian khổ, những lúc đồng bào vui mừng đón xuân là lúc các chiến sĩ Mũ Ðỏ tay ghìm súng mắt trông chừng về phía rừng núi âm u nơi bọn thảo khấu rừng xanh con cháu của Cáo đang đưa cặp mắt Cáo láo liên rình rập đồng bào vô tội, nên Mũ Ðỏ lúc nào cũng sẵn sàng, để không phụ lòng đồng bào tin tưởng nơi lực lượng Tổng Trừ Bị của QLVNCH, cho nên ngay từ giây phút sanh tử đầu tiên này, lập tức các đơn vị Mũ Ðỏ phản công liền tay dù chỉ với lực lượng hạn hữu, nhưng quyết liệt giữ trọn lời thề với mẹ Việt Nam:

    Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù đã giữ vững Quảng Trị, anh dũng cản bước tiến của một trung đoàn chính quy cùng các đơn vị địa phương, để Quảng Trị vẫn xứng danh là tỉnh địa đầu Giới Tuyến.


    Lính Nhảy Dù trong trận Mậu Thân - SàiGòn


    Tiểu Ðoàn 2 và Tiểu Ðoàn 7 Nhảy Dù đã giữ vững Phong Ðiền và Quảng Ðiền rồi từ đó về cứu nguy Huế, nếu các đơn vị Nhảy Dù không vào Huế kịp thời, Tướng Ngô Quang Trưởng bị bắt hay tự sát, thử hỏi cuộc chiến Mậu Thân tại Huế sẽ ra sao?

    Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù đã giữ vững Ðà Nẵng, trước sự tấn công của trung đoàn địch từ phương Bắc tràn đến.

    Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù đã giữ vững Kon Tum, dù không có Phi Pháo yểm trợ nhưng KonTum vẫn đứng vững không mất một thước đất cho địch.

    Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù đã giữ vững Bà Rịa (Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp) trước sức tấn công của một trung đoàn địch. Ðến năm 2003 kỷ niệm 35 năm cho trên 200 Cộng quân nằm xuống vì thi hành ý đồ thôn tính miền Nam, được chúng ta chôn tập thể tại đây. Trước nấm mồ chôn tập thể, ban tổ chức lễ kỷ niệm này đã than rằng: Trung đoàn này bị sư đoàn Nhảy Dù của địch tấn công, (điêu ngoa là nghề của chúng, sự thật rành rành lúc đó các tiểu đoàn Nhảy Dù đã có mặt các nơi như trong bài này trình bày) nhưng thật sự chỉ có Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù thanh toán trung đoàn này khi chúng tấn công Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp, vào đêm ngày mồng 1 rạng ngày mồng 2, chúng tin tưởng là sẽ thắng Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù dễ dàng vì Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù là tiểu đoàn tân lập, nếu chiến thắng chúng sẽ thôn tính Bà Rịa như trở bàn tay, chúng đã lầm vì tiểu đoàn tân lập nhưng lại có nguyên 8 trung đội từ Trung đội Trưởng đến anh khinh binh đều là những cán bộ kỳ cựu của 8 tiểu đoàn cũ, được thuyên chuyển đến để làm khung cho tiểu đoàn này.

    Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù hai đại đội đã đẩy lui địch quân khỏi phi trường Tân Sơn Nht khi trung đoàn địch đã đưa được 2 tiểu đoàn vào phi trường, tiền quân của chúng chỉ còn cách chỗ đậu phi cơ 100 thước, chỉ cần chậm chân mươi phút máy bay của ta do các phi công của chúng bay lên không phận Sài Gòn, còn hàng trăm phi cơ làm mồi cho bê ta, thiệt hại và nhục nhã biết chừng nào?

    Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù hai đại đội còn lại đẩy 1 tiểu đoàn chính quy đã lọt vào Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH ra khỏi vòng rào, khi tiểu đoàn địch đã vượt qua trường Sinh Ngữ Quân Ðội, tiến trong chỗ không người và chỉ còn cách cư xá các Tướng lãnh không đầy 100 thước, thử hỏi nếu Mũ Ðỏ đến chậm mươi phút thôi, chúng bắt đi dăm bẩy tướng lãnh, cờ đỏ sao vàng lặng lẽ bay trên cột cờ Bộ Tổng Tham Mưu/Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lúc đó chúng ta ê chề ra sao?

    Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù đã đẩy 1 trung đoàn địch ra khỏi kho đạn Gò Vấp, khu Hạnh Thông Tây, Xóm Mới, nếu kho xăng kho đạn Gò Vấp phát hỏa đạn nổ vang rền, xăng cháy khói ngút trời xanh, chúng ta đón nhận đau đớn thế nào?

    Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù giữ vững trung tâm thủ đô, đẩy các đơn vị đặc công ra khỏi Đài Truyền Hình, đài Phát Thanh Sài Gòn, giữ vững khu Sở Thú và Dinh Ðộc Lập, không may cờ đỏ sao vàng bay phất phới trước dinh Ðộc Lập sẽ ra sao?

    Các đơn vị yểm trợ, phòng sở..v.v... của sư đoàn Nhảy Dù chiếm các cao ốc từ ngã ba Bà Quẹo đến ngã tư Bẩy Hiền chặn đường tiến công của các đơn vị đặc công dùng đường này xâm nhập vào khu Tân Sơn Nht, ngã ba Ông Tạ; tóm lại không một đơn vị nhỏ nào thuộc sư đoàn Nhảy Dù/VNCH vắng bóng trên chiến trường ngay từ giây phút đầu tiên của cuộc chiến lừa lọc Tết Mậu Thân. Nếu chậm chân thì chúng ta đã bị Cộng Sản miền Bắc thôn tính từ năm đó.

    *****

    Nhưng Tết năm 1969 các đơn vị Nhảy Dù lại được ăn Tết tưng bừng hơn, xum vầy bên nhau nhiều hơn, tại Cổng Tây của Miền Nam Việt Nam, các đơn vị khác thì hành quân nhiều lần hơn các đơn vị thuộc sư đoàn Nhảy Dù Việt Nam, vì 2 năm chúng tôi chỉ hành quân có một lần, đó là lần chúng tôi hành quân tại Cổng Tây của Miền Nam Việt Nam, lần này chỉ ngắn ngủi khoảng chừng 729 ngày là nhiều, còn các ngày khác trong 2 năm này (1969-1970) chúng tôi ăn ngủ thỏa thuê vì hưu chiến theo thỏa ước với các nhà lãnh đạo miền Bắc.

    Ngày 9 tháng 2 năm 1969 tức ngày 23 tháng chạp năm Mậu Thân, ngày Chủ Nhật, ngày ông Táo lên trời, nên Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù Việt Nam,từ SàiGòn xuất quân để lại Liên Đoàn 2 Nhảy Dù với 3 tiểu đoàn tác chiến hành quân vòng đai ven đô Sài Gòn-Chợ Lớn, Bộ Tư Lệnh/SÐND tiến về hướng Bắc-Tây Bắc Sài Gòn, tới đồn trú tại đồn điền Vên Vên – Tây Ninh, tung 2 lữ đoàn với 6 tiểu đoàn tác chiến ra làm quen với Sư Đoàn Chính Quy Số 9 của miền Bắc (Công Trường 9), cùng các đơn vị phòng không và các đơn vị địa phương lực lượng chính của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, vì có tin các đơn vị này sẽ được Công Trường 7 đang có mặt tại khu vực đồn điền Chup tăng cường nhằm đánh úp, chiếm Tây Ninh để làm thủ đô cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, sau khi chúng thất bại không chiếm được một Quận lỵ nào của chúng ta mà phải tổn thất gần 50 ngàn quân trong dịp tấn công 2 lần tết Mậu Thân, Công Trường 9 của chúng đang đồn trú quân tại vùng sông Vàm Cỏ, ngay cả những làng mạc cách Quốc lộ số 1 khoảng chừng 3 cây số, đối diện với đồn điền Vên Vên cũng là nơi tập trung các đơn vị địa phương của chúng, các đơn vị này sẽ là lực lượng phục kích cắt đường tiếp tế cho Tây Ninh, chặn viện binh cho Tây Ninh, ngay ngày đầu tiên vào vùng khúc quanh của sông Vàm Cỏ, các đơn vị Nhảy Dù Việt Nam cho chúng thấy sự lợi hại của các Thiên Thần Mũ Ðỏ.

    Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Thu Lương đã đụng độ vô cùng mạnh mẽ với đơn vị cấp Tiểu Ðoàn của địch với công sự phòng thủ vững vàng, nhưng các Chiến sĩ Mũ Ðỏ đã tràn vào, cùng đường địch quân phải đánh xáp lá cà, địch tổn thất nặng nề phải rút lui, đây là trận địa chúng đã chuẩn bị sẵn, cho nên Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù đón những trận Pháo liên hồi. Phải nói đây là trận pháo mạnh mẽ nhất của chiến trường miền Nam lúc bấy giờ, nhưng chúng đã pháo vào chỗ không người vì Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù sau khi thu dọn chiến trường, đã tiến chiếm sang mục tiêu khác, vị tướng tư lệnh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh Hoa Kỳ lúc đó đang bay thị sát chiến trường cho các đơn vị của ông, ông thấy chúng ta chạm địch nặng nên ông bay lại quan sát giúp chúng ta, từ trên không quan sát trận đánh ông liên lạc được với cố vấn Hoa Kỳ đi bên cạnh Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù (Team 162), ông đã quan sát được vị trí pháo của chúng, ông cho toán cố vấn biết pháo địch đang ở đâu, đồng thời lập tức ông sử dụng các đơn vị không pháo cơ hữu đánh tan các ổ pháo này, chính nhờ điều may mắn như vậy nên các chiến sĩ Mũ Ðỏ của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù hăng hái tấn công các mục tiêu đã dự trù trong kế hoạch hành quân của quân đoàn, trước sự kinh hoàng của địch quân vì bị tấn công bất ngờ, tại những mục tiêu phía tây bắc của thị xã Tây Ninh.

    Một Tiểu Ðoàn TQLC/Việt Nam tấn công vào khu làng đối diện với Vên-Vên cách quốc lộ chừng 3 cây số, chạm địch nặng, đây cũng là đơn vị địa phương cấp trung đoàn nhưng được trang bị súng và đạn dược như các đơn vị chính quy.

    Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Trương vĩnh Phước tiến song song với TÐ1ND thanh toán những mục tiêu sắt máu chung quanh Gò Nổi, gặp sức kháng cự của trung đoàn địa phương có trang bị đầy đủ súng cộng đồng như các đơn vị chính quy, nhất là B41 các đơn vị địa phương khác chưa có, đơn vị này đã được trang bị để thi hành nhiệm vụ mới, chắc chắn phải quan trọng hơn bình thường, khi bắt được tù binh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III khai thác mới biết nhiệm vụ của trung đoàn này là đánh chiếm Trảng Bàng.


    Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Thế Nhã tiến chiếm khu vực phía Tây bắc của Vên Vên, có chiến xa yểm trợ gặp sức kháng cự bởi 1 Trung Ðoàn của Công Trường 9, nhờ cuộc chạm địch này có bắt được tù binh khai thác mới xác nhận được tin tình báo, Cộng quân đã có quân chung quanh Tây Ninh, và việc đánh Tây Ninh vào dịp tết Kỷ Dậu là việc tất nhiên phải đúng, nếu không chúng không điều động một lực lượng đông đảo như vậy chung quanh và sát nách Tây Ninh, chỉ cần chúng ta điều quân sau Tết Kỷ Dậu là chúng chiếm Tây Ninh dễ dàng bằng 2 công trường và các đơn vị địa phương vào dịp tết này.

    Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn văn Thọ, lục soát dọc theo biên giới đụng độ với các đơn vị địa phương, nên không bị thiệt hại và cũng chỉ tịch thu được không đầy 10 cây súng, tiêu diệt được một lực lượng địch không đầy 20 tên, cùng lúc đó Trung Đoàn 4 TQLC Việt Nam đang đóng tại Phước Tân phía cực Tây của thành phố Tây Ninh bị 1 trung đoàn của Công Trường 7 của MTGPMN “chính quy miền Bắc” tấn công gây thiệt hại đáng kể, TÐ8ND liền được vào thay thế.


    Tướng Đỗ Cao Trí


    Ðây là thời điểm đầu với chức vụ Tư Lệnh Quân Ðoàn III của Trung Tướng Ðỗ Cao Trí, ông nhận chức tư lệnh với nhiệm vụ tiên khởi là ngăn chận địch quân tấn công Tây Ninh vào dịp tết này, “Tiên hạ thủ vi cường” Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn III ngay khi có tư lệnh mới liền tung ngay các cuộc hành quân chung quanh Tây Ninh. Ngay khi TÐ 8ND vào Phước Tân tân tư lệnh Quân Đoàn III đáp trực thăng xuống tận nơi, ông nhấn mạnh với các cấp chỉ huy của Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù là phải cẩn trọng, ban ngày phải lục soát xa, tránh co cụm lại dễ bị ăn pháo gây tổn thất không cần thiết, nhận thêm chỉ thị của cấp trên sự thực là để ghi nhớ, vì lúc nào cũng vậy các đơn vị Nhảy Dù cũng lưu tâm đến tình hình chiến thuật của từng trận đánh.

    Phước Tân không cao như những vùng khác, ngay đầu một khu xóm làng dân cư thưa thớt, bên cạnh là một khu chợ mà dân vùng Tây Ninh thường gọi là chợ Gà, vì ngôi chợ này chuyên bán gà từ Campuchia chở qua, một phía là cánh rừng thưa còn một phía là sình lầy trồng thốt nốt, nếu lội xuống là nước và bùn lên tới đầu gối, nhưng Phước Tân chính nó lại là điểm chiến thuật quan trọng trong vùng, trước đó một đơn vị Dân Sự Chiến Ðấu đã bị tràn ngập, sau đó TÐ4TQLC vào chiếm lại và bây giờ thì TÐ8ND vào thay, ngay ngày đầu sau khi nhận các tuyến phòng thủ, Trung Tá Nguyễn văn Thọ bị đau chân do thấp khớp hành do trời nóng lạnh bất thường và vì lội bộ gần 2 tuần lễ, căn bệnh quái ác hành ông đến tê tái người, nên ông không thể đi quan sát chung quanh vị trí đóng quân được, ông cho lệnh Thiếu Tá Trần Thanh Liêm Tiểu Ðoàn Phó đi quan sát một vòng vị trí, Trung Tá Thọ cũng như cấp trên tin chắc rằng chúng sẽ trở lại đánh Phước Tân như hai lần trước, vì hai lần trước chúng đều thắng, cả hai lần chúng đều phối hợp Pháo, Ðặc Công và bộ đội xung phong, vừa nắm vững địa thế ông cho phối trí quân nới rộng vòng đai phòng thủ mỗi chiều rộng ra gần 100 thước: Ðại Úy Ngôn đại đội trưởng Đại Đội 82 trấn tại phía tây nhìn ra phía sình lầy, ông căn dặn Ðại úy Ngôn, nếu nó đánh đặc công nó sẽ đánh phía này; bên phải của Ðại Úy Ngôn là Ðại Úy Nguyễn Hữu Thành Đại đội Trưởng Ðại Ðội 83, với lời nhắn nhủ là đón nhận các dợt xung phong của chúng. Bên phải của Ðại Úy Thành cũng là bên trái của Ðại Úy Ngôn là Ðại Úy Hoàn đại đội trưởng Ðại Ðội 84, với lời nhắn nhủ là có thể bị cả Ðặc công lẫn tấn công vì địa thế nửa nọ nửa kia, Đại Đội 81 của Ðại Úy Thụy bảo vệ Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù, kiêm trừ bị.

    Phước Tân ngoài tầm súng của Pháo Binh Nhảy Dù, nên được yểm trợ bằng pháo đội hỗn hợp 8 inches và 175 ly của SÐ25BB Hoa Kỳ, ban đêm các đại đội về vị trí đóng quân trong Phước Tân như đã nói ở trên, ban ngày 2 đại đội đi lục soát chung quanh Phước Tân, đến ngày thứ ba lúc 23 giờ 45 hai toán phục kích-báo động của ta ngoài vị trí đóng quân của TÐ8ND từ 300 đến 500 thước, báo về đại đội mỗi hướng chúng di chuyển khoảng 400 quân, đều đi về hướng Phước Tân, các toán này nhận được lệnh trước không khai hỏa và nằm im, 24 giờ 30 một trái mìn chiếu sáng trước mặt Ðại Ðội 82 Nhảy Dù bật sáng, ta tiếp tục bắn soi sáng nhưng vẫn không quan sát được dấu vết có địch xuất hiện, Ðại Úy Ngôn cho lệnh một xạ thủ đại liên bắn chung quanh trái mìn chiếu sáng nhưng vẫn không động tịnh gì, ngay lúc đó Bộ Tư Lệnh/SÐND xin máy bay soi sáng túc trực trên không gần vùng hành quân của Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù chỉ vào vùng thả soi sáng khi có yêu cầu, đồng thời các hỏa tập tiên liệu của Pháo Ðội hỗn hợp được tác xạ, địch quân khởi sự pháo 82 ly va 61 ly vào vị trí của ta, 1 trái mìn chiếu sáng nữa bật lên, lệnh tác xạ nghiêm mật một viên đạn là một quân thù, ÐÐ82ND bắt đầu khai hỏa thưa thớt vì đã quan sát được địch quân rất gần tuyến phòng thủ, có nơi chỉ còn cách ta dưới 20 thước, địch liều chết quăng bê ta nhưng vô hiệu vì còn quá xa quăng không tới, lối đánh cựa tử này giúp anh em Mũ Ðỏ lên tinh thần, các ÐÐ83, ÐÐ84 cũng bắt đầu khai hỏa, địch quân liều chết xung phong, máy bay chiếu sáng vào vùng thả chiếu sáng liên tục, nhờ vậy các Chiến sĩ Mũ Ðỏ của TÐ8ND thi hành đứng đắn lệnh một viên đạn là một quân thù. Địch quân dùng biển người xung phong, cả một vùng trời lửa đạn đôi bên đan vào nhau, chưa một lần nào trong cuộc chiến Việt Nam đơn vị Mũ Ðỏ đang đóng quân, địch quân dùng quân số gấp năm (5) lần tấn công mà chúng có thể thắng được đơn vị Mũ Ðỏ, lần này chúng vụng tính chỉ dùng quân số gấp 4 lần thì làm sao chúng có thể thắng cho nổi.

    Cuộc chiến đang trong lúc cao điểm cực độ, chúng đã dùng quân cảm tử 3 lần xung phong vào tuyến của ÐÐ83ND, nên giấc mê “Sanh Bắc Tử Nam” phải thành hiện thực, không những vậy lần đầu tiên trên chiến trường Việt Nam máy bay C130 của Không Quân Hoa Kỳ trang bị 3 ổ đại liên mỗi ổ là 6 cây đại liên, một dàn hỏa tiễn 12 ống phóng và một súng 105 ly không giật, với tên Việt Nam là “Hỏa Long” vào vùng yểm trợ, lúc đó chính cố vấn Hoa Kỳ cũng không hiểu khả năng và hỏa lực của Hỏa Long mạnh như thế nào, máy bay này có Sensor tìm hơi nóng, có ống kính hồng ngoại tuyến để quan sát ban đêm trên màn ảnh, có khả năng tự soi sáng chiến trường, từ lúc Hỏa Long vào yểm trợ vì hỏa lực quá mạnh và chính xác, nên địch quân tìm đường thoát thân, di động là mồi ngon của Hỏa Long, vì vậy chúng bị thiệt hại trên sự mong đợi của các cấp chỉ huy chiến trường, 1 tiểu đoàn tăng cường cho trung đoàn này đi lạc nên không tham chiến được, nhưng lại bị thiệt hại nặng nề nhất bởi Hỏa Long.

    Ngay sáng hôm sau ta tịch thu vừa súng cá nhân vừa súng cộng đồng trên 100 súng, địch bỏ xác tại trận địa trên 200 mạng, rất nhiều súng và xác địch bỏ lại ta không sao kiểm soát được, không tìm được vì sình lầy, trước mặt Đại Đội 82 Nhảy Dù địch quân bỏ lại xác trên 70 tên đặc công, vì ta đang phòng thủ địch lại không dám pháo bằng súng cối khi Hỏa Long xuất hiện, vì mỗi lần pháo của chúng hoạt động liền bị Hỏa Long tiêu diệt ngay, mà tấn công thì sau 3 lần xung phong đều bị đánh bật ra, bây giờ lại có Hỏa Long can thiệp quá chính xác nên chúng đành im lặng rút lui, do đó ta thiệt hại không đáng kể, một ngày sau TÐ8ND được bốc ra khỏi vùng hành quân về Sài Gòn nhận khao thưởng, và được đặt dưới quyền điều động của LÐ2ND đang đóng tại hãng bột ngọt Vị Hương Tố (sau đó một tuần BTTM khai thác báo cáo của chúng trên hệ thống truyền tin, hệ thống giải đoán mật mã của bộ TTM/QLVNCH đã cho biết trung đoàn đánh Phước Tân xin bổ xung 600 quân nhân các cấp).

    Hơn một năm sau chúng tôi các Chiến sĩ Nhảy Dù Việt Nam buộc lòng phải bước qua Cam Bốt tìm sào huyệt của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, rồi quay về bao bọc chung quanh Tây Ninh cho đến tết năm Tân Hợi tạm giã từ Tây Ninh chúng tôi bước chân vào Hạ Lào, có lẽ còn duyên với Tây Ninh hay chúng tôi vì thương em gái Tây Ninh, hay vì nhớ món ăn đặc biệt của quán “Hắc Quẩy” Tây Ninh nên chúng tôi trở lại Tây Ninh cho đến mùa Hè Ðỏ Lửa chúng tôi từ giã Tây Ninh và không trở lại Tây Ninh nữa, ngẩng cao đầu bước chân vào 3 chiến trường. Một là An Lộc để An Lộc trở thành Anh Dũng; Hai là KonTum để KonTum trở thành Kiêu Hùng và Ba là Trị Thiên để Trị Thiên được Vùng Dậy.

    Trong mùa Hè 1972 không có một sư đoàn nào của chúng ta dẫm chân trên cả 3 chiến trường này, ngoại trừ các Chiến Sĩ Nhảy Dù Việt Nam, đến những ngày cuối cùng của cuộc chiến các Chiến Sĩ Nhảy Dù Việt Nam vẫn giữ tròn câu tâm niệm “Phải Thân Dân, Bảo Vệ Dân và Giúp Ðỡ Dân” đó chính là nhờ tinh thần kỷ luật cao độ của đơn vị, xin cho chúng tôi được quyền hãnh diện là đã được phục vụ trong một đơn vị kỷ luật, một đơn vị mà niềm thương yêu gắn bó nhau như trong một nhà, tại chiến trường gian khổ cũng như tại hải ngoại mịt mờ, phương châm của Nhảy Dù, hiểm nghèo nào cũng Cố Gắng vượt lên.

    Quê nhà Nhảy Dù Cố Gắng
    Hải ngoại Mũ Ðỏ Hợp Quần


    "Mẹ Việt Nam ơi chúng con vẫn còn đây, chúng con luôn luôn quỳ dưới chân mẹ… Mẹ Việt Nam Ơi".

    Mũ Ðỏ Bùi Ðức Lạc

    --
CÀ PHÊ BAO CẤP
  • Đầu những năm 80 tôi cùng mấy thằng bạn buổi chiều cuối tuần rảnh nên hay rủ nhau đi uống cà phê ở cái quầy ăn uống mậu dịch nhà nước.
    Mỗi thằng tự tới quầy mua phiếu, rồi cầm cái phiếu đó qua chỗ chế biến đưa cho mấy chị mậu dịch viên tóc dài cột lại như cái đuôi con chồn lắc lư, chị nào cũng có gương mặt cau có như phụ nữ tiền mãn kinh cùng những đôi mắt mang hình viên đạn và nói giọng Bắc the thé như dao đâm vào tai người nghe. 
    Tui: 
    - Chị bán cho em 1 phiếu! 
    Đuôi chồn lắc lư hỏi cộc lốc: 
    - Đen hay sữa? 
    - Dạ! Đen đá! 
    - Đắng hay thêm đường? 
    - Dạ em hảo ngọt! 
    - Phiếu đây! Xéo qua bên kia cho người tiếp theo! 
    Qua chỗ chế biến, nội nhìn cái mặt bàn cáu bẩn nhớp nháp mà muốn ói... Rón rén đưa cái phiếu cho chị pha chế có gương mặt khá xinh cùng hàm răng chìa ra ngoài như cái bàn nạo dừa:
    - Chị cho em gửi phiếu! 
    - Đen à? 
    - Yes chị! 
    - Yes là cái gì?
    - Dạ! Ngoài Bắc gọi là vâng, trong Nam là dạ đó chị!
    Bàn nạo dừa: 
    - Lắm chuyện!
    Có mấy con ruồi đang vo ve gần đó trên mặt bàn cáu bẩn. Bàn nạo dừa lấy tay phủi phủi mấy con ruồi rồi tiện tay đập cái "bốp", tui giật mình thấy con ruồi bẹp lép trong lòng bàn tay chị. Chị phủi cho con ruồi rơi khỏi tay rồi lấy muỗng múc chút xíu đường cát vàng khè bỏ vô ly cà phê. Chị lùa cái ly về phía tui rất điệu nghệ và nói: - Cầm ra kia uống! 
    - Yes! Cảm ơn chị! 
    - Khỏi dzét! Anh kia, phiếu đâu...???  
    Thằng bạn xanh mặt, rụt rè đưa phiếu cho chị ấy. 
    Quán khá đông, toàn dân lao động như xích lô, ba gác má(y) bốc vác, buôn bán lặt vặt, rồi thì dân chợ trời đủ hết.... Mấy thằng tụi tui kiếm cái bàn trống trống rồi ngồi chung với mấy ông xích lô. Bàn ghế cái nào cũng đen thui, đầy bụi bẩn nhưng không ngồi thì không lẽ ngồi dưới đất còn ghê hơn. 
    Ly cà phê của tui đắng quá nên tui đánh liều cầm ly tới quầy pha chế:
    - Chị... chị cho em thêm chút đường, tại đắng quá...!!! 
    Bàn nạo dừa liếc xéo tui một phát muốn rụng tim: 
    - Đưa ly đây nỡm! 
    Tui run run cầm ly cà phê đưa cho chị, chị múc thêm muỗng đường cho vào ly. Chợt tui thấy có một con ruồi đen thui trong đường rớt vô ly: 
    - Á chị, có con ruồi chị lấy ra giùm em cái! 
    Chị ấy thò hai ngón tay cáu bẩn vô ly cà phê cầm con ruồi ra rồi nói: 
    - Rồi đó! Thanh niên gì mà thấy con ruồi cũng sợ..!!! 
    Tui cầm ly tới bàn khuấy khuấy cho tan đường rồi đưa lên miệng nhấp nhấp... Má ơi! Ngọt như chè đậu đen. Tui cầm ly nhổm đít lên, mấy thằng bạn hỏi: 
    - Mày đi đâu đi hoài vậy? 
    - Mẹ, cà phê ngọt như chè sao uống, tao đi xin thêm chút cà phê đây! 
    Tới quầy vừa thấy mặt tui, bàn nạo dừa lườm lườm: 
    - Gì nữa đây? 
    - Dạ! Cà phê ngọt quá, chị cho em xin chút nước cà phê cho nó bớt ngọt! Chị có mái tóc đẹp quá, với lại chị xinh ơi là xinh. Em nói thiệt đó! 
    Bàn nạo dừa tươi ngay nét mặt: 
    - Đưa ly đây, chị cho mày thêm cà phê, nhưng lần này thôi nhé, không thì mấy con kia nó nói tao mê giai đẹp miền Nam! 
    - Yes! Em hứa em xin lần này lần cuối cùng! 
    Cầm ly tới bàn, tui cười tủm tỉm. Mấy thằng bạn hỏi: 
    - Rồi bả có cho thêm cà phê không?
    - Sao không chứ! Tao khen bả đẹp gái nên bả đổ cho gần đầy ly cà phê luôn... Phụ nữ mà...Hahaha....!!! 
    Cả đám cười nắc nẻ!
    Mà công nhận hồi đó tui cũng đẹp trai ác!
    Cao Hoàng
    Image en ligne
    Ảnh chụp năm 1983 khi tui 22 tuổi


EM HỎI ANH BAO GIỜ TRỞ LẠI?
  • Image en ligne

    Nghe tin anh bị thương nặng trong một trận đánh và được trực thăng đưa về Quân y viện, cô vội vã vào thăm. Nhìn anh nằm mê man trên giường bệnh, đầu quấn băng trắng toát, gương mặt xanh mét không còn chút sinh khí, bộ quân phục đẫm máu còn chưa kịp thay ra. Cô chỉ biết thút thít khóc vì thương anh qua đỗi. Một bác sĩ khuyên cô ra về và không nên ở lại lâu hơn. Vì họ cần chữa trị cho anh. Cô quay trở ra sân, vài người lính đang khiêng những xác người liệm kín mít trong tấm poncho. Có tấm loang lổ những vệt máu đã khô từ bao giờ. Họ, những chàng trai thời chinh chiến đã được sinh ra và lớn lên trên đất nước này. Họ từng sống với những hoài bão, ước mơ... Và bây giờ họ đang nằm im lặng trong những tấm poncho tăm tối. Không biết họ đang nghĩ gì?
    "Tóc xanh khép mắt
    Màu trời vẫn xanh
    Nhân sinh mong manh
    Về như gió thoảng..."
    Có tiếng trực thăng trên đầu cô, rồi nó xa dần và mất hút trong những đám mây trắng bồng bềnh trôi ngang bầu trời thành phố biển.
    Cô nổ máy chiếc Solex rồi chầm chậm chạy ra biển, nắng chiều vàng úa trên hàng những hàng dương xanh đang rì rào cầu nguyện trong gió. Vài chiếc xe quân đội phóng qua trên đường để lại phía sau đám bụi mù rồi bị gió biển thổi bay đi tan tác.
    Tới bãi biển, cô dựng xe, đứng tựa lưng vào một gốc dừa đổ nghiêng vì những cơn bão nhiệt đới từng thổi qua trên thân thể già cỗi của nó. Mắt cô lơ đãng nhìn ra khơi xa. Từng đợt sóng hối hả theo nhau vỗ vào bờ cát nghe buồn tênh.
    Cũng trên bãi biển này, cô và anh từng nắm tay đi dạo trong những buổi chiều vàng hay trong những buổi hoàng hôn tím ngát.
    Rồi thì môi anh tìm đến môi cô quấn quýt không rời. Nụ hôn đầu đời có vị mặn của hơi gió biển, có ngai ngái mùi thuốc lá và cả vị dâu ngọt lịm trên môi cô.
    Để rồi, khi sắp chia tay cô luôn hỏi anh đúng một câu: 
    - Bao giờ anh trở lại? 
    Anh nheo nheo mắt cười cười: 
    - Mai mốt anh về...
    Đang miên man trôi theo dòng kỷ niệm rời rạc thì dường như cô cảm thấy có ai đó vòng tay ôm cô từ phía sau. Hơi ấm sao nghe quen thuộc quá đỗi, cả mùi thuốc lá Ruby nồng nồng, ngai ngái... trong hơi thở của người phía sau. Có tiếng thì thầm nho nhỏ bên tai cô: 
    - Anh đây, lúc nãy em đến rồi đi ra vội vã, anh cố gọi với theo kêu em ở lại cùng anh, nhưng em đã đi khá xa nên không nghe thấy. Chờ bác sĩ ra ngoài lo cho những đồng đội khác thì anh lén ra đây. Anh biết thế nào em cũng ra biển, nơi chúng mình có nhiều kỷ niệm từ thời đi học và cho đến khi anh khoác áo nhà binh... Rồi đời quân nhân bị cuốn vào cơn lốc chiến tranh cùng những cuộc hành quân liên miên tưởng như không còn nhớ gì ngoài mùi thuốc súng, hay những đêm ray rứt mắt lệ hỏa châu trên bầu trời những vùng hỏa tuyến. Nhưng mỗi lần chiến trường im tiếng súng thì anh lại nhớ em. Nhớ đến khắc khoải, da diết... Cuộc chiến dài vô tận làm anh và em, cũng như không biết bao nhiêu đôi lứa khác phải xa nhau ở cái tuổi đẹp nhất, lẽ ra chỉ dành cho tình yêu...
    Tiếng anh thật gần, mà cũng thật mơ hồ xa xăm như từ một cõi nào đó vọng lại. Cô từ từ xoay người, má cô chạm vào chiếc mũi cao của anh, đôi mắt buồn u uẩn đang nhìn cô cùng nụ cười hiền lành, ấm áp của anh. Giọng cô khẽ khàng: 
    - Em nghe bác sĩ nói anh bị thương rất nặng... sao anh lại ra đây được?
    Anh cười hiền: 
    - Tụi anh bị phục kích bất ngờ, bạn anh chết khá nhiều, anh may mắn bị viên đạn sượt qua mũ rồi mảnh đạn ghim vào đầu. Có lẽ ngực anh cũng dính vài mảnh đạn nhỏ và cơn đau làm anh cảm thấy không còn biết gì. Anh bất tỉnh cho đến khi mở mắt ra thì thấy em đang đứng bên giường trong Quân y viện với đôi mắt đỏ hoe và buồn hiu. Rồi anh thấy em bước ra ngoài... Anh gọi với theo nhưng em không nghe thấy.
    Anh hôn nhẹ lên trán cô, chiếc mũi khá lạnh. Chỉ có hơi thở mơ hồ như gió thoảng mùi thuốc lá quen thuộc. Cô tìm bàn tay anh đan vào tay mình. Cô nói: 
    - Tay anh lạnh quá! 
    Giọng anh vẫn mơ hồ xa xăm: 
    - Có lẽ tại gió biển và ở ngoài này lạnh hơn trong bệnh viện, trời khá tối rồi,em chở anh vào lại Quân y viện,nếu anh đi lâu quá thì bác sĩ sẽ đi tìm rồi sẽ la anh! À, ngày mai nếu em đến thăm, em nhớ mua giùm anh vài gói thuốc lá Ruby, cùng ít trái cây gì đó cũng được nha em!
    Cô dạ nhỏ rồi nổ máy xe, anh ngồi sau cô không nói lời nào. Một cảm giác linh cảm mơ hồ nào đó trong cô. Cô cảm thấy anh nhẹ tênh khi ngồi lên xe như không có chút trọng lượng nào, chiếc xe nhẹ nhàng chạy về phía bệnh viện. Tiếng sóng biển nhỏ dần sau lưng hai người. Gần tới cổng bệnh viện anh nói: 
    - Em để anh xuống đây cho anh đi bộ vào, rồi em về nhà kẻo tối rồi. 
    Anh nhắc lại lần nữa:
    - À, mai em nhớ mua giùm anh mấy thứ anh dặn. Đừng quên nha! 
    Anh hôn nhẹ lên trán cô rồi quay lưng đi về phía bệnh viện, bên trong ánh đèn hắt ra, bóng anh mờ ảo lướt đi rồi khuất sau cánh cổng. 
    Buổi trưa, cô vào bệnh viện, không quên mang theo những thứ anh đã dặn. Cô vào căn phòng hôm qua anh nằm. Nơi chiếc giường hôm qua là một gương mặt xa lạ đầy mệt mỏi của một quân nhân. Một bác sĩ bước vào, cô hỏi về anh và hỏi anh đang nằm ở phòng nào để cô thăm anh. Người bác sĩ nhìn cô buồn buồn: 
    - Anh ấy đi lúc chiều qua rồi, chúng tôi đã làm hết sức có thể. Xin chia buồn cùng cô và gia đình...!!!
    Cô không kịp nghe hết thì đã khuỵu gối xuống, những món đồ anh dặn rơi vương vãi... Trời đất tối sầm trước mặt. Cô gắng gượng vịn tay vào thành giường. Giọng cô run run: 
    - Các anh có thể chỉ cho tôi chỗ anh ấy không? Tôi muốn vuốt mắt cho ảnh lần cuối..! 
    Rồi cô nức nở khóc, những đôi mắt buồn bã quanh cô, ai nấy trầm ngâm im lặng. Ngoài xa xa văng vẳng tiếng ca sĩ nào đó hát qua máy thâu thanh:
    "Em hỏi anh, em hỏi anh, bao giờ trở lại?
    Xin trả lời, xin trả lời, mai mốt anh về
    Anh trở lại, có thể bằng chiến thắng Pleime
    Hay Ðức Cơ, Ðồng Xoài, Bình Giã
    Anh trở về, anh trở về, hàng cây nghiêng ngả
    Anh trở về có khi là hòm gỗ cài hoa
    Anh trở về bằng chiếc băng ca
    Trên trực thăng sơn màu tang trắng.
    Em hỏi anh, em hỏi anh, bao giờ trở lại?
    Xin trả lời, xin trả lời, mai mốt anh về
    Anh trở về chiều hoang trốn nắng
    Poncho buồn phủ kín hồn anh
    Anh trở về, bờ tóc em xanh
    Chít khăn sô trên đầu vội vã, em ơi!
    Em hỏi anh, em hỏi anh, bao giờ trở lại ?
    Xin trả lời, xin trả lời, mai mốt anh về..."
    Tiếng ca da diết vang lên như từng hồi kinh niệm, rồi tan đi giữa không trung đầy mây xám. Văng vẳng đâu đó là tiếng động cơ của những chiếc trực thăng bay đi, bay về. Trên những chuyến bay đó, có lẽ có những thi hài giá lạnh của những chàng trai một lần qua sông Dịch trong thời chinh chiến. Họ đã ra đi, một lần và mãi mãi....
    Cao Hoàng

Cancer de la prostate : le jus de grenade exercerait un effet préventif et thérapeutique

Le jus de grenade exercerait un effet préventif et thérapeutique sur le cancer de la prostate, selon une étude américaine publiée sur le site Internet des "Proceedings of the National Academy of Sciences" [...]

Cancers du sein ou de la prostate: les bénéfices du dépistage surestimés par le public

La grande majorité des Européens tendent à surestimer de façon systématique les bénéfices du dépistage par mammographie ou par dosage du PSA (Prostate-Specific Antigen) sur la mortalité [...]

Les bienfaits de la grenade: un vrai fruit médicament !!

17 octobre 2009, 09:13

La grenade est un fruit exotique rouge (originaire d’Inde et cultivé surtout en Méditerranée), qui contient de petites graines remplies de jus savoureux. Même si ce n’est pas pratique, c’est assez marrant à manger car les graines croquent sous la dent. Pour consommer plus facilement et davantage de grenade, il existe maintenant du jus.

La médecine traditionnelle l’utilise depuis longtemps pour soulager les diarrhées et les coliques.

Aujourd'hui, Les chercheurs se sont, en effet, rendus compte que le jus de grenade procurait des bienfaits très intéressants pour notre santé.

Il contient des anti-oxydants, surtout des tannins, qui 
permettent de ralentir le vieillissement et les maladies cardio-vasculaires.

C’est d’ailleurs le fruit qui en contient le plus. Il aurait un pouvoir actif plus puissant que le thé vert, riche en antioxydants avec le tannin qu’il contient également.

Il serait également efficace pour le développement des cellules cancéreuses (notamment pour le cancer de la prostate), 
l’hypertension et dans le cas d’Alzheimer.
Mais, là, comme pour ce qui concerne cancers et autres maladies graves, il est nécessaire de prendre des précautions.
Les études scientifiques ne sont pas suffisamment nombreuses pour en tirer des conclusions incontestables. En tout cas, 
boire régulièrement du jus de grenade, même s’il ne vous guérit pas, vous fera énormément de bien.

Il serait également bénéfique 
pour soulager l’arthrose. Il limiterait l’effet néfaste du diabète sur les artères, malgré sa forte teneur en sucre.

Le jus de grenade contient des vitamines B5, B6 et C qui permettent de vous donner un coup de fouet (mieux que le Red Bull et surtout non toxique) et de votre système immunitaire. Il contient également du cuivre et du potassium également bénéfiques pour votre système immunitaire.

Il est préférable de consommer le jus plutôt que le fruit car en pressant le fruit en son entier, tous les antioxydants contenus dans les graines et la peau blanche sont extraits. 
Le jus de grenade coûte assez cher, près de 7 euros le litre. ( sans ajouter le sucre,100% jus)

Vous pouvez fabriquer votre jus vous-même, en passant les graines du fruit dans un presse-légumes inoxydable ou en les frottant sur un tamis.

Pour que les effets du jus de grenade se produisent, vous devez en consommer tous les jours, l’équivalent d’une tasse. Il est préférable d’en prendre du bio.
La médecine traditionnelle l’utilise depuis longtemps pour soulager les diarrhées et les coliques.Le jus de grenade est en vente partout, surtout dans les rayons bio. Les chercheurs se sont, en effet, rendus compte que ce jus procurait des bienfaits très intéressants pour notre santé. Il contient des anti-oxydants, surtout des tannins, qui permettent de ralentir le vieillissement et éviter les maladies cardio-vasculaires. C’est d’ailleurs le fruit qui en contient le plus. Il aurait un pouvoir actif plus puissant que le thé vert, riche en antioxydants avec le tannin qu’il contient également.Il serait également efficace pour retarder le développement des cellules cancéreuses (notamment pour le cancer de la prostate), limiter l’hypertension et dans le cas d’Alzheimer. Mais, là, comme pour ce qui concerne cancers et autres maladies graves, il est nécessaire de prendre des précautions. Les études scientifiques ne sont pas suffisamment nombreuses pour en tirer des conclusions incontestables. En tout cas, boire régulièrement du jus de grenade, même s’il ne vous guérit pas, vous fera énormément de bien. Il serait également bénéfique pour soulager l’arthrose. Il limiterait l’effet néfaste du diabète sur les artères, malgré sa forte teneur en sucre.Le jus de grenade contient des vitamines B5, B6 et C qui permettent de vous donner un coup de fouet (mieux que le Red Bull et surtout non toxique) et de protéger votre système immunitaire. Il contient également du cuivre et du potassium également bénéfiques pour votre système immunitaire.Il est préférable de consommer le jus plutôt que le fruit car en pressant le fruit en son entier, tous les antioxydants contenus dans les graines et la peau blanche sont extraits. Le jus de grenade coûte assez cher, près de 6 à 7 euros le litre. Vous pouvez fabriquer votre jus vous-même, en passant les graines du fruit dans un presse-légumes inoxydable ou en les frottant sur un tamis. Pour que les effets du jus de grenade se produisent, vous devez en consommer tous les jours, l’équivalent d’une tasse. Il est préférable d’en prendre du bio. Le jus de grenade est devenu le jus à la mode. Les Etats-Unis ont connu en 2007 une frénésie d’achat, au point d’être en rupture de stock. Le phénomène a gagné la France, ce qui semble totalement justifié étant donné les bienfaits de ce jus sur la santé. Ce n’est pas pour rien s’il était le « fruit des dieux » pour les Egyptiens. sources: buvez-du-jus-de-grenade-pour-peter-le-feu 
jus-de-grenade La grenade contient de puissants antioxydants poly phénoliques qui semblent inhiber le développement de l’athérosclérose, réduire le risque de maladie cardio-vasculaire et influer sur l’hypertension. L’extrait de grenade a également montré des propriétés susceptibles d’aider à freiner la croissance de certains cancers. Dans la Grèce antique, la grenade était synonyme de vie et de régénération. En Égypte, elle était considérée comme le fruit des dieux et regardée comme un symbole de fertilité à cause de sa forme ronde et de l’abondance de ses graines. On retrouve des branches de grenadier dans le motif décoratif des piliers du temple de Salomon. Des colons espagnols ont introduit le grenadier en Californie en 1769. L’utilisation médicale de la grenade remonte à plus de 3 000 ans mais ce n’est que très récemment que l’on a redécouvert son efficacité à prévenir toute une série de pathologies potentiellement mortelles. 
Un puissant antioxydant L’activité antioxydante d’extrait de peau de grenade a été mise en évidence dans différents modèles . Un extrait de grenade a ainsi été donné à des rats exposés à du tétrachlorure de carbone, un produit chimique toxique. Le prétraitement avec l’extrait de grenade a protégé les niveaux des enzymes anti oxydantes catalase, peroxydase et super oxyde dismutase. Il a également aidé à protéger le foie des animaux des effets toxiques du tétrachlorure de carbone. La grenade contient une grande variété de flavonoïdes, représentant 0,2 à 1 % du fruit. C’est une source importante d’anthocyanines, de glucosides de delphinidine, de cyanidine et de pélargonidine. Elle est particulièrement riche en ellagitannins et en gallo tannins, essentiellement concentrés dans sa peau. Des tannins hydrolysables, principalement les punicalagines et l’acide ellagique, sont responsables de plus de 85 % de l’activité antioxydante de la grenade. Ce groupe d’antioxydants poly phénoliques est connu sous le nom de punicosides. 
Bénéfique pour la santé cardio-vasculaire Une récente étude réalisée par le Laboratoire de recherche sur les lipides de Haïfa en Israël a exploré les effets d’une supplémentassions avec des antioxydants poly phénoliques chez des animaux. Les chercheurs ont observé que le jus de grenade était associé à l’inhibition de l’oxydation des LDL et à un ralentissement du développement de l’athérosclérose. Ils ont ensuite évalué l’effet de la consommation de jus de grenade chez des patients athérosclérotiques avec une sténose de l’artère carotide. Dix patients ont été supplémentés pendant trois ans avec du jus de grenade. Dès la fin de la première année, les résultats ont montré que l’épaisseur de l’intima-média de la carotide, un indicateur de la progression de l’athérosclérose, avait été réduite de 30 % par la supplémentation contre une augmentation de 9 % dans le groupe témoin. De surcroît, le jus de grenade avait réduit de façon significative les niveaux de LDL sérique en même temps qu’augmenté de 130 % le statut sérique antioxydant. La pression sanguine systolique a été réduite de 21 % au bout d’un an de consommation de jus de grenade . Une autre étude a examiné l’effet de la consommation quotidienne de 50 ml de jus de grenade chez des patients souffrant d’hypertension. Au bout de deux semaines, la pression systolique avait baissé de 5 % et l’activité sérique de l’enzyme de conversion angiotensine (ACE) était réduite de 36 %. Une réduction de l’activité sérique de l’ACE semble atténuer l’athérosclérose, indépendamment des effets de l’hypertension . 
Jus de grenade et hypertension :passeportsante Actualites !!! Grenade : comment manger ce fruit ? Quels bienfaits ? Une étude iranienne a examiné les effets de jus de grenade concentré sur le profil lipidique de patients souffrant d’un diabète de type II avec des niveaux élevés de lipides sanguins. Les patients ont été supplémentés avec du jus de grenade pendant huit semaines. Les niveaux de cholestérol total, de LDL, le rapport LDL/HDL et cholestérol total/HDL ont été réduits de façon significative. Les auteurs de l’étude en ont conclu que la consommation de jus de grenade concentré pouvait modifier les facteurs de risque de maladie cardio-vasculaire chez des patients avec un cholestérol élevé.

Des applications possibles pour le cancer du sein
Le cancer du sein est l’un des cancers les plus courants qui menace la femme ménopausée. L’œstrogène le plus puissant de l’organisme, le 17-bêta-estradiol, joue un rôle important dans la genèse et le développement de cancers dont la plupart sont hormonaux dépendant à leurs premiers stades. Des composants poly phénoliques dérivés de la grenade inhibent la 17-bêta-hydrox stéroïde déshydrogénase de type I, l’enzyme qui convertit le faible œstrogène, œstrone, en son métabolite plus puissant, le 17-bêta-estradiol. Une forte expression de cette enzyme peut être un indicateur de mauvais pronostic chez des femmes ayant des tumeurs du sein avec des récepteurs œstrogènes positifs.
Partant de ces résultats, les chercheurs espèrent conduire un essai clinique pour évaluer les applications préventives et thérapeutiques de la grenade dans le cancer du sein.
Une influence sur le cancer de la prostate
Dans une étude récente, des chercheurs ont montré qu’un extrait de grenade inhibait la croissance cellulaire et induisait l’apoptose dans une lignée cellulaire de cancer de la prostate humain hautement agressive. La même équipe a poursuivi ses recherches et a testé l’effet de l’administration par voie orale d’un extrait de grenade sur des souris auxquelles des cellules de cancer de la prostate avaient été implantées. Ils ont observé, chez les souris traitées avec l’extrait de grenade, une inhibition significative de la croissance de la tumeur. De plus, la sécrétion de la PSA (l’antigène spécifique de la prostate) était réduite dans le sérum des animaux.
Chidambara Murthy K.N. et al., Studies on antioxidant activity of pomegranate (punica granatum) peel using in vivo models, J. Agric. Food Chem., 2002 Aug 14, 50(17) : 4791-5.
. Aviram M. et al., Pomegranate juice consumption for 3 years by patients with carotid artery stenosis reduces common carotid intima-media thickness, blood pressure and LDL oxidation, Clin. Nutr., 2004 Jun, 23(3) : 423-33.
. Aviram M. et al., Pomegranate juice consumption inibits serum angiotensin converting enzyme activity and reduces systolic blood pressure, Atherosclerosis, 2001 Sep, 158(1) : 195-8.
. Esmaillzadeh A. et al., Concentrated pomegranate juice improves lipid profiles in diabetic patients with hyperlipidemia, J. Med. Food, 2004 Fall, 7(3) : 305-8.
. Pasqualini J.R. et al., Recent insight on the control of enzymes involved in estrogen formation and transformation in human breast cancer, J. Steroid Biochem. Mol. Biol., 2005 Feb, 93(2-5) : 221-36.
. Malik A et al. Prostate cancer prevention through pomegranate fruit. 
Cell cycle. 2006 Feb 15 ; 5(4) Epub ahead of print)
________________________________________
Du jus de grenade pour traiter et prévenir le cancer du sein ?
Le jus de grenade pourrait-il un jour traiter et prévenir le cancer du sein ? Une nouvelle étude réalisée en laboratoire par les chercheurs de l’Ohio State University ont analysé les avantages de la grenade dans la lutte contre le cancer du sein alimenté par les oestrogènes. Publiée dans Cancer Prevention Research, cette étude rapporte des résultats prometteurs lors de tests effectués sur le jus de grenade pour combattre et prévenir l’apparition du cancer du sein.
cancer-sein-grenade-acide-ellagique-prevention-traitement-oestrogenes

Les antioxydants contenus dans la grenade
Selon les chercheurs, il a déjà été démontré que la grenade possède des antioxydants qui procurent des avantages pour la santé du coeur et jouent un rôle dans la prévention du cancer. Toutefois, cette étude est la premier à mettre en avant l’incidence de la grenade sur le cancer du sein et l’aromatase, un enzyme impliqué dans la fabrication des oestrogènes et la croissance du cancer du sein.
Des chercheurs basés à Bathesda au Maryland ont créé une échelle appelée Oxygen Radical Absorbance Capacity échelle (ORAC), visant à mesurer le niveau d’antioxydants dans les fruits et légumes. Le Dr David Hnida, rédacteur médical sur CBS3 philadekphie explique : "Plus le nombre [est élevé] sur l’échelle, plus les antioxydants luttent contre la maladie et les produits chimiques présents dans la nourriture."Les chercheurs ont mesuré les niveaux d’antioxydants dans plus de 200 fruits et légumes différents. A côté de la grenade, on retrouve au sommet de la liste les myrtilles, les prunes, les mûres, les framboises, le raisin noir, les pommes et les fraises.

L’acide ellagique contenu dans la grenade

Plus de 75 pour cent du total des cas de cancer du sein sont nourris par les oestrogènes et plus de 400.000 femmes meurent chaque année, partout dans le monde, de cancer du sein. L’équipe de chercheurs a découvert que ce fruit rouge rempli de graines juteuses produit naturellement une substance chimique appelée acide ellagique, qui semble contribuer au ralentissement et à la prévention de la croissance des cellules cancéreuses dans les tissus du sein.
Shiuan Chen, co-directeur du Breast Cancer Research Program au centre médical City of Hope à Duarte en Californie et son équipe ont étudié les effets de dix composés d’ellagitanins produits par des grenades, censés prévenir les cancers du sein liés aux oestrogènes. Ils ont examiné les effets des dix composés d’ellagitanins sur la croissance des cellules cancéreuses du sein ainsi que l’activité de l’aromatase. Sur les dix composés d’ellagitaninsétudiés, les chercheurs ont découvert que l’urolithin B s’est distingué dans la lutte contre le cancer du sein.
Des essais prometteurs pour prévenir et traiter le cancer du sein
Les experts ne recommandent pas de substituer la grenade au traitement médicamenteux prescrit actuellement, mais cette étude offre l’espoir d’utiliser un jour la grenade pour traiter le cancer du sein et prévenir son apparition. De nombreux experts issus du domaine du cancer voient en ces essais des résultats très prometteurs.
Toutefois, selon Powel Brown, MD, Ph.D., président du département clinique de prévention du cancer à l’Université du Texas MD Anderson Cancer Center, qui n’a pas participé à l’étude sur la grenade et le cancer du sein, « Davantage de recherches sur les composants individuels et la combinaison de produits chimiques sont nécessaires pour comprendre les risques et avantages potentiels de l’utilisation du jus de grenade ou de composés isolés pour traiter ou prévenir le cancer. "
En attendant, les femmes peuvent ajouter une grenade quotidiennement à leur alimentation

Intérêt du jus de grenade dans le cancer de la prostate



[left]Selon une étude de 3 ans sur 50 patients, conduite par le Dr. Allan Pantuck, urologue au centre anticancéreux Johnson, et ses collaborateurs de l’université de Californie, boire du jus de grenade une fois par jour augmenterait de quatre fois environ la période pendant laquelle les taux de PSA restent stables, chez les hommes traités pour cancer de la prostate.
On savait déjà que le jus de grenade pouvait avoir un effet protecteur chez la souris, contre le cancer de la prostate. Mais une étude de l’Université de Californie, publiée dans le Journal américain de la Recherche Clinique contre le Cancer vient de montrer que la consommation régulière de jus de grenade pouvait également protéger l’homme contre ce cancer.
L’équipe californienne a fait consommer régulièrement du jus de grenade à 50 hommes qui avaient été traités par chirurgie ou radiothérapie contre un cancer de la prostate mais qui étaient en phase de récidive. La présence de cellules cancéreuses chez ces patients était surveillée en mesurant leur niveau de PSA (antigène prostatique spécifique). Les chercheurs ont mesuré combien de temps a été nécessaire pour que ce niveau de PSA double chez les patients. Ce temps de doublement moyen est d’environ 15 mois, mais, pour les patients qui buvaient régulièrement du jus de grenade, ce temps a été de 54 mois en moyenne.
Quelques patients de cette étude continuaient même à présenter des niveaux très faibles de PSA plus de trois ans après leur traitement initial et alors qu’ils ne bénéficiaient plus d’aucune thérapie, hormis la consommation journalière de jus de grenade. Le Professeur Allan Pantuck, responsable de cette étude, souligne qu’il a été surpris par une telle amélioration durable du niveau de PSA. « Chez des hommes âgés de plus de 65 ans qui ont été traités pour le cancer de prostate, la consommation régulière de jus de grenade pourrait améliorer sensiblement leur espérance de vie en diminuant les risques de récidive", souligne le chercheur.

Le jus de grenade est réputé pour ses effets anti-inflammatoires et sa richesse en antioxydants qui protégent l’organisme contre les dommages provoqués par les radicaux libres. Il contient également les isoflavones, substances dont on sait qu’elles jouent un rôle dans l’apostose (mort programmée) des cellules cancéreuses. Selon le Professeur Pantuck « Il y a beaucoup de substances complexes dans le jus de grenade et c’est probablement l’association en synergie de tous ces composants qui produit cet effet protecteur remarquable".

(Source : Unevieenplus)__._,_.___



--
====================================================================
Trên Facebook :
http://www.facebook.com/DaiHocKhoaHocSaiGon
====================================================================
 
Bạn đã nhận được bài viết này vì bạn đã đăng ký vào Nhóm "KhoaHocSG" của Google Groups.
* Để đăng bài lên nhóm này, hãy gửi email đến "khoa...@googlegroups.com"
* Để RÚT TÊN ra khỏi nhóm này, gửi email đến "khoahocSG+...@googlegroups.com"
* Để có thêm tuỳ chọn (preference set up), hãy truy cập vào nhóm này tại: http://groups.google.com/group/khoahocSG?hl=vi
---
Bạn nhận được thư này vì bạn đã đăng ký vào nhóm Google Groups "KhoaHocSG".
Để hủy đăng ký khỏi nhóm này và ngừng nhận email từ nhóm, hãy gửi email đến khoahocsg+...@googlegroups.com.
Để xem cuộc thảo luận này, hãy truy cập vào https://groups.google.com/d/msgid/khoahocsg/MN2PR02MB6592E653EF173C02CA14B964FC2BA%40MN2PR02MB6592.namprd02.prod.outlook.com.
Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages