Fwd: ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 18-08-2025 (SỐ 223-2025)

5 views
Skip to first unread message

Giu Tran

unread,
Aug 18, 2025, 12:24:45 PMAug 18
to
---------- Forwarded message ---------
From: soan....@hotmail.com <soan....@hotmail.com>
Date: Mon, Aug 18, 2025 at 8:34 AM
Subject: ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 18-08-2025 (SỐ 223-2025)
To:




*GOOD MORNING VIET NAM - CANADA - USA*






*ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 18-08-2025 (SỐ 223-2025)[image: Image
insérée][image: Image insérée]*

*MỤC LỤC*

*Ký Ức Bỏ Quên*
*Bửa tiệc Tết kỳ lạ của Từ Hi Thái Hậu*

*Bạn Không Phải Yêu Nước Mỹ*

*Ngày nào vẫn còn đoàn quân mũ Đỏ...*

*NGƯỜI XƯA GIẤU MẶT*

*Các Thuật Ngữ Văn Chương và Một Số Kinh Nghiệm Viết Văn*
*Giáo sư Trần Ngọc Ninh (1923 – 2025) và ước vọng duy tân*





*Ký Ức Bỏ Quên*

-
[image: Image en ligne]
Nguyễn Thanh Khiết

Thành Gia Định
Khai trận:
Ngày 17 tháng 10 năm 1977. Tôi bị bắt ở quận 4, với những tang chứng
không chối cãi – Tổ chức chống chính quyền cộng sản. Nằm ở công an quận 7
ngày, tôi bị đưa lên trại giam T20, chính là thành Gia Định được xây dựng
từ thời Pháp.
Khi được mở băng bịt mắt trên suốt chặng đường từ lúc bước ra khỏi phòng
tạm giam ở quận 4, cái không gian mà tôi thấy được làm tôi muốn ngạt thở.
Tiếng cánh cửa đóng sầm thô bạo, tiếng khóa bên ngoài vang lên chói tai,
căn biệt giam tối mờ mờ, một ngọn đèn bóng tròn trên tận nóc cao, rọi xuống
xuyên qua lớp lưới chống B40, mùi ẩm mốc bốc lên trong khoảng không gian
chật hẹp, bít bùng như một trấn áp đầu tiên khiến tù nhân phải sợ. Chắc
khoảng gần một phút sau tôi mới trấn tỉnh và quan sát thật kỹ chung quanh.
Một cái bệ xi măng cao 2 gang tay, ngang và dài như một cái giường cá nhân,
một cánh cửa thép dày, khoét một hình vuông mỗi cạnh 20 phân với 1 cái chốt
khóa bên ngoài, dĩ nhiên nó được đóng kín, liền sau cái bệ xi măng đó là
1 cầu tiêu kiểu ngồi xổm, có một vòi nước. Dọc theo cái bệ này là phi đạo
(lối ra vào duy nhất) có bề ngang đúng 3 gang tay, và dài 20 bàn chân bước
khít lại. Im lặng, chính cái im lặng trong âm u rờn rợn đó làm dấy lên cảm
giác lẻ loi vô hạn. 2 tuần trong biệt giam là những ngày bọn công an điều
tra quay tôi như chong chóng. Sáng sớm cái lỗ thông gió được mở ra để điểm
danh, sau đó một tên dẫn mối (danh gọi này do anh em tù nhân gọi đám công
an cắc ké dẫn tù lên bộ phận chấp cung gọi là ban chấp pháp), công việc này
nôm na gọi là “đi làm việc”. Thức ăn ngày 2 bữa được phát qua cái lỗ gió
con con đó. Suốt thời gian tôi ở xà lim, cái lỗ gió khốn kiếp ấy luôn đóng,
nó chỉ mở ra khi đi làm việc và nhận thức ăn, nước uống.
Hồi đó tôi rất trẻ, cái năng nổ trong thời gian hoạt động lặn lội hãy
còn, cho nên ngay khi bị tống vào cái biệt giam khốn kiếp này tôiđã tìm
cách liên lạc chung quanh, trái phải, trước sau. Nó tự khắc đến trong bản
năng sinh tồn của con người như một thứ cùng tắc biến, biến tắc thông. Mà
thực ra, không cần tôi phải vận động cái khôn vặt đó. 10 phút sau khi tôi
có mặt ở biệt giam này, lúc cánh cổng khu bằng sắt đã kéo ngang lối ra, 1
dấu hiệu không cần nhìn cũng biết, tên vệ binh dẫn mối đã rời khỏi khu, là
tôi đã nghe một âm thanh văng vẳng từ đâu đó:
– Ê! mới vô hả? Tên gì? Có gì lạ không? Bị tội gì? Nhà ở đâu?
Một loạt lấy cung từ các tù nhân hàng xóm đã ào ào, bên kia vách tường
cũng có tiếng gõ nhè nhẹ, nhưng âm thanh nghe như phát ra từ trần nhà hòa
trong tiếng dội lại, thứ âm thanh của ma trơi quỷ hú mà thuở nhỏ tôi đọc
trong các chuyện liêu trai hay ma cà rồng. Vâng, nó phát ra từ trên cao có
hơn 4m vọng xuống. Một cái lỗ thông hơi phía sau cái bóng đèn 15watt với
cọng dây điện bám đầy váng nhện, phía dưới nó là tấm lưới B40 cũng bụi bám
nhện giăng làm ánh sáng trở nên mù mù, dù ngọn đèn vẫn cháy liên tục ngày
cũng như đêm. Có lẽ sau 1 tuần ở trại tạm giam quận 4 tôi cũng kinh qua cái
cảnh tù non rồi. Không vội vàng trả lời hàng xóm, tôi leo lên bục ngồi nhắm
mắt theo kiểu thiền của những vị chân tu mà tôi chỉ biết man mán qua sách
vở. Chiều tối, biết là tối do nhận thức ăn, nước uống và lỗ gió mở ra điểm
danh. Thời gian như đứng lại trong cái mờ mờ và đơn độc nếu không đi làm
việc hay lỗ gió mở ra.
Biệt giam tôi ở là 5C2. Trại này có 2 khu biệt giam nằm đối lưng nhau,
mỗi khu là một dãy 30 phòng. Đối diện từng dãy biệt giam là phòng tập thể,
mỗi phòng có khi chứa cả 30 người chen chúc nhau như cá hộp dưới mái tole
của trời Sài Gòn, dù lúc tôi vào đã là tháng 10. Bên trái tôi là một gã tên
Trung, nghe đâu là tay anh chị cướp của, giết người đang bị cùm hai chân và
xiết ngang đùi bằng một dây loại câu cá cỡ lớn khó đứt làm cho chân gã tù
dần dần teo lại, mất khả năng bạo động, trong thời gian chờ đem đi xử bắn.
Bên phải là Nguyễn Phú Hải, một sinh viên Phú Thọ bị bắt trước tôi mấy
tháng, thành phần của một mặt trận nào đó ở Phương Lâm, về Sài Gòn hoạt
động và bị lùa vào đây. Anh bị đưa vào xà lim này từ trại giam Đại Lợi,
trước 1975 nó là cái rạp ciné ở khu Ông Tạ. Có điều, sau lưng tôi là biệt
giam 5C1. Nhà văn Hoàng Hải Thủy đang “tạm trú”, hình như ông bị tóm trong
một chiến dịch mang tên Sông Vĩnh, nhằm hốt tất cả nhà văn, nhà báo, ký giả
của Sài Gòn, một đợt tấn công có kế hoạch và chuẩn bị chu đáo nhất của công
an thành phố. Tôi cứ thắc mắc hoài, suốt thời gian tôi ở 5C2. Tôi lên đài,
ông không trả lời, tôi gõ S.O.S ông không đáp. Duy nhất một lần buổi sáng
vừa thức dậy tôi nghe tiếng gõ thật nhẹ ở vách tường phía sau, tiếng gõ như
một thăm dò, một kêu cứu, một tuyệt vọng, cho dù tôi đáp lại nhiều lần
nhưng vẫn im lặng, tôi nghĩ ông tránh né, cũng có thể một phản ứng bất thần
nào đó trong lúc sống trong cái không gian cô độc tối om om như thế này,
nằm không gõ nhẹ vách tường chơi, hoặc kiếm cái gì đó khả dĩ làm dấu được
trên bốn vách tường để biết mình trọ nơi này bao lâu, và hình như tay nào ở
biệt giam cũng làm cái vụ này. Khi tôi tới phòng này, 4 vách tường là chi
chít, chấm, gạch, dấu thập, rồi 7 cái gạch ngang một phát, 4 cái gạch ngang
hai phát, với đủ kiểu, đủ hình thái và màu sắc, cũng có khi là một vết lõm
chắc do cạo bằng vật cứng nào đó. Vả lại, ông cũng đã già, không như đám tù
trẻ của chúng tôi thời đó, tôi nghĩ thế nên thôi không cố bắt liên lạc. Tôi
biết vậy là khi tôi rời biệt giam lần đầu từ 5C2 ra phòng tập thể khu A,
những nhân vật cộm cán ở khu tập thể này nói với tôi là Hoàng Hải Thủy nằm
biệt giam 5C1 lâu lắm rồi mà chưa ra tập thể.
Buổi tối trong biệt giam là một cực hình, thường những ngày đầu vào đây
ai cũng bị mất ngủ, cái thức đợi đêm thâu, đêm thâu với tiếng thạch sùng
tắt lưỡi não lòng.
Lâu lâu một cơn gió đi qua, tưởng như thổi một hơi mỏng manh vào khe hở
dưới cái cánh cửa, cái khe nhỏ xíu nhét cái cán muỗng chưa chắc gì qua lọt.
Im, vắng, chỉ nghe được thỉnh thoảng tiếng thở dài của chính mình khi vơ
vẩn nghĩ một tình tiết nào đó cần phải khai ra cho thật có lợi. Tôi thường
bước trên phi đạo này, có khi hàng nhiều giờ trong đêm, đếm từng bước chân
khít sát nhau, như một gã đi trên sợi dây căng ngang thung lũng, hay chợt
nhớ một thế võ công trong phim ảnh “Bích hổ du tường”, dang hai chân, hai
tay bám lên hai bức tường nhích từng chút một cho tới khi đầu chạm cái lưới
sắt trên nóc, rồi đi xuống, lại đi lên. Hết đi trên phi đạo, không đi trên
tường thì ngồi như kiểu tham thiền. Ý nghĩ tới lui trong đầu thật bất an,
nằm xuống sàn xi măng lạnh, cởi cái áo, lót cho cái đầu bớt cấn, rồi lại
đi, rồi lại ngồi. May mắn là đêm trường nhất định tới một lúc cũng hết.
Nghe tiếng kẻng 3 hồi vọng lên, một sớm mai, một ngày, tôi cũng bắt chước
thêm một gạch lên tường để nhớ.
Sau gần 1 tháng trong xà lim, tôi được chào đón vào phòng 2A bằng những
ánh mắt thăm dò tội nghiệp của cả phòng. Hơn 30 con người nhìn tôi quan
sát. Gã trưởng phòng là 1 tên cán bộ cộng sản, ăn hối lộ hay bị trù dập chi
đó bị đưa vào đây. Sau khi cánh cửa phòng đóng và khóa lại cẩn thận, anh
ta chỉ cho tôi một chỗ nằm, đó là phi đạo, có điều nó lớn hơn và cái bệ nằm
cũng rộng hơn nhiều, trên cái phi đạo này đã có nhiều cư dân cắm dùi trước
tôi đến hơn chục mạng.
Giáo sư Phạm Quốc Bảo nằm trước tôi theo hàng dọc, kế đến là Đằng Giao
Trần Duy Cát, hòa thượng Thích Thiện Huê đạo hạnh của chùa Đại Giác trên
đường Công Lý, Nguyễn Văn Thủy một trình dược viên nặng ký. Nằm trên bệ xi
măng trong số này có cả thiếu tá Mai Văn Trị hạm phó của chiếc tàu Việt Nam
Thương Tín từ Guam trở về, chưa kịp cặp bờ đã ghé bến trại T20, đại úy Pháo
Binh Nhảy Dù Đào Văn Thương thì nằm cuối phi đạo. Rất nhiều những nhân vật
tiếng tăm lừng lẫy có mặt trong cộng đồng tù nhân ở trại T20 này, bởi nó là
trại trung ương của thành phố được chính sở công an trực tiếp săn sóc.
Ngày 2 lần điểm danh cùng một kiểu, tù nhân hai hàng ngồi xếp bằng trên
bệ, phi đạo dọn trống, tất cả cư dân tạm trú trên đó, đồ cá nhân phải xếp
sát vào tường, sàn phòng sạch sẽ, lau bằng tay, do trực sinh trong ngày
chia nhau trách nhiệm trừ trưởng phòng. Anh ta đứng ngay cửa ra vào và báo
số người có mặt, lần lượt tù nhân đọc tên mình cùng số thứ tự. Cú điểm danh
tốc hành chừng 3 phút là xong và lần nào cũng vậy, một trong 2 tên đi điểm
danh sẽ bước hẳn vào tận cuối phòng. Nơi đó là 1 bể nước đổ bằng bê tông
thời Pháp dày cui và kiên cố đến rùng mình, anh ta sẽ nhìn thẳng xuống mặt
nước hồ quan sát, rồi nhích hai bước tới gần cái lỗ cầu tiêu kiểu bệ ngồi,
dù từ xa vẫn có thể nhìn thấy rõ màu gốm lâu đời dưới ánh sáng của ngọn đèn
1m2, cái cầu tiêu cực kỳ sạch, được lau bằng tay, khô và bóng. Kết thúc cú
nhìn này anh ta bước ra, cửa đóng rầm một cái, hết chuyện.
Thời gian sống trong phòng tập thể này tôi học được nhiều thứ, có lẽ do
tôi nhỏ tuổi nhất, chính cái khờ dại và vẫn còn chút trẻ con của mình được
các đấng dạy dỗ nhiều,từ cách đối phó với ban chấp pháp đến những thủ thuật
cần thiết để sống trong biệt giam hay cách di chuyển 1 món đồ từ phòng này
sang phòng khác bằng một sợi dây se lại từ những sợi nylon trong một manh
chiếu nát,làm sao có thể treo một nải chuối to bằng một đoạn dây se cứng
trên vách tường thẳng đứng v...v...
Một điều mà sau này so sánh tôi mới thấy. Cái cộng đồng tù nhân thời
điểm này cư xử với nhau rất tình nghĩa, đối với nhau thành thật hơn nhiều,
so với khi chuẩn bị hay ra trại tập trung đi lao động. Chẳng biết có phải
vì đó là thời gian tạm giam, mọi cái chưa rạch ròi và hầu hết những nhân
vật ở trong phòng này rất trí thức, họ là những người rất chống cộng, chống
từ trong ánh mắt nhìn, trừ mỗi một gã trưởng phòng, là người mà chúng tôi
gọi là phía bên kia, mặc dù do chán chế độ, hoặc vì lý do cá nhân nào đó,
anh ta không báo cáo, thậm chí còn bao che anh em trong phòng. Nhưng, vì là
người phía bên kia, nên anh em đều bảo nhau dè dặt với anh ta.
Hòa Thượng Thích Thiện Huê rất thương tôi, suốt hơn 20 ngày sống trong
phòng này ông dạy tôi cách ngồi cho đúng để giữ sức khỏe, phương pháp
dịch cân kinh của Đạt Ma Sư Tổ...
3 ngày 1 lần là thăm nuôi, nếu đã được liên lạc với gia đình,đa số là
dân mồ côi vì hầu hết là tù mới bị bắt. Lao động bên ngoài phòng là những
tù nhân thuộc phía bên kia, thường là tù hình sự, trong số họ có 1 chàng
tên Hỏa rất dễ thương, là người đưa cơm nước vào khu A và khu biệt giam.Có
lẽ nhờ vàoHỏa mà anh em ở trước tôi biết nhiều thứ,từ chuyện nhà thơ Hoàng
Hà ở phòng nào, Trần Dạ Từ ở khu nào, Hoàng Hải Thủy ở 5C1,các linh mục
ở phòng nào, số mấy, ai ở chung với ai v..v...
Nguyễn Văn Thủy hay tán gẫu với Trần Duy Cát và tay này biết nhiều thứ
trên trời dưới đất, nhiều khi Phạm Quốc Bảo kê ngang:
– Trời! chuyện bà Lệ Thu mày cũng rành vậy hả Thủy?
Đằng Giao cũng trạc tuổi anh Thủy nên hai anh tha hồ kể “chuyện đêm
khuya” cho cả phòng nghe để cười quên đói, quên buồn.
Thời gian này có một đợt bệnh ghẻ kinh hoàng, may mắn thay, tôi không bị
dính. Doãn Quốc Sỹ nghe đâu bị ghẻ lên tới mặt. Thứ ghẻ mà chúng tôi gọi
đùa là ghẻ Hà Nội thật tàn bạo lây lan chóng mặt, trại chỉ cấp lưu huỳnh để
bôi cầm hơi.
Tôi nhớ Lý Sen, ông chủ Vicasa được cho làm y tá. Ông ta, với tướng đi
lệch bệch như con vịt mái vào mùa đẻ trứng, kéo đôi dép nhựa trên nền
nhà,gõ vào cửa và hống hách một tiếng duy nhất “Thuốc” rồi đưa chai lưu
huỳnh pha loãng nhỏ như ngón tay cái cho tên trưởng phòng. Anh em chấm cây
chân nhang quấn bông gòn thoa trên mụn ghẻ. Nhìn là thấy cái lây lan sẽ đến
ngay cho người thứ hai xử dụng tức thời, vậy mà cũng phải xài, chứ không
lấy chi làm ra cái thứ chống ghẻ.
Trời nắng chiếu xuống hành lang là cả đám trần truồng ngồi bắt cái ghẻ
ngay trước cửa phòng, bất kể thứ gì có thể dùng được đều được mang ra để
khều, móc, trên những mụn nổi sần sùi chảy vệt nước vàng cùng với mùi tanh
tưởi nén trong hơi lưu huỳnh nồng nồng. Dù chưa ai chết vì ghẻ vào lúc đó,
chỉ có nằm khềnh khàng tay chân cứng đơ, không thể co vào cầm nắm một vật,
cố gắng lắm mới bê nổi chén cơm bằng nhựa dẽo lên miệng, tay kia cầm cái
muỗng khều từng hạt cơm một cách khó nhọc, chậm rãi đưa vào mồm. Cái thứ
ghẻ ác ôn chỉ mọc nhiều trên những chỗ khớp nối của thịt xương, làm cho con
bệnh khó co duỗi, ghẻ nổi thành dề như miếng cơm cháy, từng mảng trên da
cứng, ghẻ sần sùi, ghẻ ghê rợn, có người từ cổ xuống gót chân như một cái
xác cùi hủi vào giai đoạn chót, các khớp ngón cứng ngắt, những mụn ghẻ dưới
bờ môi kéo cái miệng méo xệch. Ghẻ gần như cả trại, như bay mù mù trong
không gian, chỗ nào cũng có, phòng nào cũng ghẻ, ghẻ như là... ghẻ, mà nó
đâu phải thứ ghẻ ngứa thông thường, trách sao anh em chẳng gọi nó là ghẻ Hà
Nội. Đầu tiên tôi cũng thấy ghê ghê, nhưng rồi đành sống chung với lũ. Cho
đến ngày này tôi vẫn không quên, Đại úy Đào Văn Thương, sĩ quan ban 3
tiểu đoàn 3 pháo binh Nhảy Dù, trầm trầm kể cho tôi và Đằng Giao Trần Duy
Cát nghe trận đánh ở đồi máu. Đồi 31 nơi mà người hùng Nguyễn Văn Đương của
Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù tuẫn tiết. Câu chuyện được nghe giữa một đêm nát
lòng trong tù ngục, cái buồn đứt ruột của một người trẻ còn hừng hực một
lòng chống cộng, và cuộc chiến chưa tàn, vẫn rần rần chảy trong từng mạch
máu, chưa chịu tan hàng, chắt chiu từng viên đạn mót tìm trên bãi chiến
trường cũ hay những căn cứ, tiền đồn còn sót lại, vẫn hiên ngang lên đường,
nó hừng hừng như một thứ rượu uống ngà ngà say. Anh Thương chơi một hớp
nước, xe một điếu thuốc rê, xin Đằng Giao một que diêm, chầm chậm đốt và
rít một hơi dài:
– ... Lúc đó hầm tôi đã sập, Đương gọi tôi qua máy nội bộ “Thương! mày
cho bắn lên đầu đi tụi nó kín hết rồi” và chiếc T54 lướt qua hầm, trong ống
liên hợp tôi nghe phát súng nổ.
Giọng anh trầm xuống:
– Đương nó tự sát cách tôi không quá 10m, tôi bị chúng bắt khi đang bất
tỉnh trên cửa hầm do sức ép của đạn phá, lúc tỉnh dậy hai tay bị trói mẹ nó
rồi.
Đằng Giao hỏi tới:
– Vậy ông dính cho tới ngày này?
– Ừ cho tới ngày nay, qua nhiều trại từ Bắc vào Nam.
Cuối câu chuyện này anh Thương nắm tay tôi, khi Đằng Giao bỏ đi về phía
hồ nước:
– Em nhớ làm gì cũng phải cẩn thận, trong tù không đơn giản chút nào,
anh qua nhiều trại rồi, thứ trại tù cộng sản ác độc lắm.
Tôi còn nhớ, nói xong câu đó, anh vói tay lấy miếng bông, dốc chai lưu
huỳnh mà anh giấu được còn đọng một ít dưới đáy, chấm trên vết ghẻ mới nổi
một mụn trên ngón tay út, chai lưu huỳnh do Hỏa chuyển cho anh lúc lãnh cơm
trưa.
Hải Quân Thiếu tá Mai Văn Trị cũng dăm ba lần kể chuyện về chuyến hải
hành chết tiệt của đời anh từ Guam trở về. Cũng có người cho là điên, cũng
có anh cho là đúng, thói người quả khó mà lường. Anh chuyện trò với tôi,
bởi có lần tôi hỏi anh có biết tay anh rể của tôi là dân Hải Quân Khóa 1
OCS Hoa Kỳ, từng là giang đoàn phó Giang Đoàn 46 Ngăn Chận đóng ở Tuyên
Nhơn – Mộc Hóa, đơn vị cuối của anh ấy thuộc toán 4 lực lượng hải yểm vùng
4 sông ngòi với cái tên tắt là ANGLICO.
Tôi bị tống vô biệt giam lần nữa, đúng như Thượng tọa Thích Thiện Huê
tiên liệu khi hỏi tôi về những buổi lấy cung trước, tôi kính ông như sư phụ
của mình nên kể hết cho ông nghe.
– Tụi nó sẽ nhốt anh lần nữa, để dụ anh khai, nó mới cho anh ra tập thể.
Đưa anh trở lại biệt giam để anh thấy và sợ cô đơn, sợ đói, sợ đủ thứ...
hãy cẩn thận.
Cho tới bây giờ tôi mới nghiệm ra đó là môt lời khuyên đáng giá ngàn
vàng. Ông cũng không quên cho tôi một ít đồ dùng cần thiết vào hôm sau khi
ông được các đệ tử gởi đồ tiếp tế.
Tôi vẫn cố bám lấy đất nước tôi:
Phòng Tập thể C1 rộng hơn nhiều so với phòng 2A, không gian tương đối
thoáng nhờ cái sân rộng ngăn cách giữa biệt giam nằm đối diện với nó. Tôi
bị tống vào đây sau mấy tuần nằm biệt giam lần 2 ở khu C, một giai đoạn như
vượt đoạn đường chiến binh lần đầu cho cái hồ sơ hỏi cung kết thúc.
Chỗ tù nhân nằm là bệ xi măng cao 30 phân xây hình chữ U chừa 1 phi đạo
giữa ngay cửa phòng, 1 lá thép dày phía dưới, chấn song dọc ở trên, có chút
không khí để thở cho 28 con người nhét kín trong đó, phi đạo chỉ trống ban
ngày nhưng chật chội lúc đêm, phi đạo chỉ ưu tiên cho trưởng phòng nằm sát
cửa và những tù đàn anh là lớp lâu hơn thứ tù còn non như tôi.
Phú Hải, tay nằm biệt giam C2 kế tôi lần trước cũng được đưa về phòng
này. Tù vào đây là chuẩn bị lên đường ra trại lao động, đi đâu, lúc nào chỉ
có sở công an biết. Giám thị trại cùng lắm biết trước vài tiếng để chuẩn bị
thức ăn đi đường cho tù nếu chuyến đi khá xa, tù nhân chỉ biết khi tập hợp
đọc tên, rồi lên xe. Tuy nhiên, có khi mánh mung quen biết đám nhà bếp thì
cũng có vài tin tức. Ở đây thì khác, để chuẩn bị đi và về nơi không biết,
nên cái tình đồng cảnh cũng không giống khu A tạm giam, mọi người ai cũng
thủ, chỉ thâm tình hay kết nhau lắm mới tâm sự đôi điều.
Những hình ảnh khốn nạn, chia rẽ cũng bắt đầu được nhìn thấy từ chỗ như
vầy trong những ngày tháng tù ngục, cái thế thủ bắt buộc phải có để sinh
tồn trong thiếu thốn, chật chội và bỉ ổi của một xã hội thu hẹp. Tôi bắt
đầu khôn ra từ cái cảnh bần cùng chó chết này.
Tôi gọi anh là Hiển râu, bởi hàm râu quai nón và tướng ốm cao như tôi,
anh là một cán bộ Xây Dựng Nông Thôn hình như ở Củ Chi hay Trảng Bàng gì
đó. Sau nhiều lần, nhiều ngày tránh né tại địa phương nơi anh cư trú, anh
bị tóm về đây với cái tội danh trốn học tập, khai man lý lịch. Tôi có cảm
tình với anh qua cách anh chỉ chỗ cho tôi nằm khi chân ướt chân ráo bước vô
phòng. Anh nói với Phú Hải để tôi nằm giữa hai người. Từ hôm đó, chúng tôi
3 mạng hay rù rì với nhau.
Bên kia sân là biệt giam đã đầy kín, những con ma mới rụt rè vài hôm
trong những chiếc hộp nhỏ đó, rồi cũng lên đài đấu hót vang trời, đa số là
phản cách mạng, một cái tội danh như một thứ thời thượng, bởi thời gian này
là một chiến dịch khác đang rầm rộ hốt các phe nhóm, các mặt trận chống
cộng đang nở rộ khắp nơi. Tại miền Nam, ngay Sài Gòn này, ngoài Chí Hòa thì
T20 là trại thuộc loại “cái bang” nhiều túi, bên cạnh đó xa hơn là phải kể
các trại loại chóp bu ở tỉnh.
Trại tù mọc lên như nấm, tù vào trại không còn chỗ chứa, lại mọc thêm
trại khác. Những đợt tấn công càn quét văn nghệ sĩ, tu sĩ vừa xong thì bắt
đầu tới thành phần chống chế độ, từ đây cả nước rủ nhau đi tù.
Chúng tôi dù chỉ là những thứ tù con nhưng cũng chắc mẫm mình thuộc loại
trong hàng triệu người chọn nhà tù làm chỗ dung thân. Bởi qua những tin tức
nghe đồn thổi đâu đó, ông tướng này, đơn vị nọ, trú đóng một nơi nào
đó,bí mật có,chỉ danh có.Tuổi trẻ máu nóng thường dồn lên mặt, bất chấp tai
ương, ở đâu có chống cộng là tìm tới.Nghĩ mà tội cho những kẻ mất nước, c
ứ húc đầu mất mạng như chơi sao lại không hề nghĩ tới, cứ nghe chống
cộng, 2 con chữ như một mãnh lực không cưỡng lại được, nó là thứ nam châm
hút dính không rời đối với đa số tuổi trẻ miền Nam thời đó, thời của
1975-1985. Nó không phải là thứ lên đường mù quáng, nó là thứ cần biết,
chẳng cần mời, một thứ kháng sinh phải có, dù mua bất cứ giá nào để tiêm
chích ngăn ngừa và trị liệu con bệnh đang thập tử nhất sinh “Cộng Sản”.Tôi
đã vượt hàng trăm cây số từ SàiGòn ra Phan Thiết, từ Tây Ninh về Hậu
Nghĩa,từ Cần Thơ ngược qua Bến Tre vào tận Chợ Thơm Mõ Cày Bắc, để lục lọi
tìm dấu vết của bất kỳ đơn vị tàn binh nào còn sót lại, tự nhủ trong lòng,
với tấm bùa hộ mệnh là thẻ sinh viên với cái hình chụp bán thân mặc áo nhà
binh có số C3A của trại Nguyễn Huệ, trên nắp túi rõ ràng còn sợi dây thẻ
bài luồn qua lỗ nút áo. Vì tôi là khóa 3/73 Thủ Đức và xuất ngũ khi có điểm
thi và trúng tuyển sau cái ngày hết hạn giấy hoãn dịch,trong mùa tổng động
viên toàn phần nhân lực1972. Hải, có một nụ cười dòn tan, lúc nào anh ta
cũng có thể cười được, nụ cười đó an ủi tôi rất nhiều trong những ngày ở
trại T20 – Thành Gia Định. Anh khoái xe gắn máy, anh hay kể cho tôi nghe về
chiếc Honda 100 cc của anh với những tà áo dài xanh, tím phía sau. Hải là
dân kỹ sư cơ khí, anh đã qua trường cao đẳng, cũng rất là bụi và văn nghệ,
anh hay kể những đêm hát hò, những ngày xuống đường trong một thời sinh
viên cho tôi và Hiển râu nghe.
Buổi chiều, trước lúc nhận cơm, tay dẫn mối đưa tới phòng một anh gầy
nhom, có vẻ như thiếu ăn với cặp kính cận, cái lưng khòm khòm, tóc gần như
húi cua, nhưng khuôn mặt rất cương nghị, chững chạc thật đàn ông và trí
thức. Gã trưởng phòng nhận anh, xếp anh nằm đối diện “bạo chúa áo đen” Đinh
Xuân Hải, linh mục dòng Tân Sa Châu.
Nguyễn Đình Toàn, bị bắt vì can tội “nhà văn đồi trụy”, anh khai tên làm
tôi giật mình, hóa ra đây là ông tướng viết truyện “Thành Phố” trên báo
mà tôi từng đọc, là tay có bản nhạc hút hồn “Tình Khúc Thứ Nhất” trong tập
10 bài không tên của Vũ Thành An.
Trời nóng, khung cửa nhà tù quá nhỏ so với ngần ấy con người hít thở,
tôi và anh Toàn ra đứng một bên bám vào song sắt, bên kia dãy xà lim vẫn
đóng cửa gió kín bưng, một bầy chim sẻ sà xuống sân ngăn với dãy biệt giam,
những con chim tội nghiệp hớt hãi tìm mồi sau khung sắt cửa. Anh Toàn thở
dài:
– Ngay cả loài chim bé nhỏ còn không có cái để ăn nói chi tụi mình.
Một tiếng than, bất thần vỡ vụn giữa điêu linh của đời người nghe mà tội
nghiệp làm sao. Anh, một cây viết lừng lẫy như vậy, chí ít có một tầm vóc
nhất định như vậy, mà trước cái nhà tù gần như khắp chỗ thế này còn cất
tiếng than như vậy huống hồ chi tôi, một thằng học trò mặt búng ra sữa. Bất
ngờ anh hát khẽ một câu:
“Tôi vẫn cố bám lấy đất nước tôi,dù sức người khô kiệt”
Tôi níu tay anh:
– Trời! ra đâu mà có dòng nhạc rợn da gà như vầy! Bài chi vậy? Của ai hả
anh Toàn?
Thật sự lúc đó tôi chỉ biết Nguyễn ĐìnhToàn qua cái tên tác giả của
truyện Thành Phố, hơn một chút nữa là biết anh có bài thơ Vũ Thành An phổ
nhạc.Tôi mù tịt về anh.
– Bài nhạc này của mấy đám sinh viên quen, tụi nó nhờ anh nghe rồi cho ý
kiến.
– Bài nhạc thật tuyệt vời, lời của nó làm nổi gai óc.
Tôi vẫn cố nhớ và gần 40 năm sau vẫn nhớ nó, cùng với một cảm xúc như
lần đầu.
Tới giờ lãnh cơm, bát chén lại mang ra. “Trên đầu súng quê hương, tổ
quốc..” thì bây giờ “..Trong nhà mát hôm nay, chỉ có thế này..” Một chén
cơm gạo mốc, nửa chén nước muối pha loãng!
Phơi nắng là ân sủng thượng hạng mà bác dành cho, được thực hiện bởi chủ
trương và chính sách không ghi trên văn bản, theo tiêu chuẩn bất thường
hứng thì cho, không thì miễn khỏi ý kiến, không có trong biên bản sinh hoạt
hàng tuần vào thứ sáu. Ra cho nắng ăn 5 hay 10 phút tùy vào thời tiết nóng
lạnh trên trán của bọn cán bộ trực khu. Cả bầy tù như chuột bạch, từ trong
phòng ùa ra, ngồi la liệt trên sân xi măng trước và cách xa cửa dãy biệt
giam hơn 2m, khoảng cách an toàn để tù nhân không thể chuyển vào biệt giam
bất cứ thứ gì, lúc cho nắng ăn, tay cán bộ gác chân ngồi canh trước cửa khu
bên ngoài song sắt có khóa. Việc mở cửa phòng cho tù ra phơi nắng do đám
lao động như Lý Sen hay Hỏa nhà bếp thực hiện. Cho nắng ăn, cái tên gọi cho
buổi tắm nắng, dành cho những người bất hạnh, mất tự do nghe mà đau, hết
phòng này thì tới phòng kế tiếp, dĩ nhiên, quá nhiều phòng nên phải luân
phiên.
Trên sân, vào thời điểm này anh Toàn hay chỉ cho tôi những tai to mặt
lớn mà anh từng quen biết ngoài đời, nhân vật thế nào, tầm cỡ thân tình ra
sao... Doãn Quốc Sỹ, Từ kế Tường, nhà thơ Hoàng Hà, họa sĩ Hồ Thành Đức...
Anh Toàn cũng có hỏi tôi, ở bên Khu A có nghe nói tới tên Nhã Ca hay Thụy
Vũ gì không? Tôi lắc đầu.
Xéo phía phải là phòng 5C1, “cái bang tám túi” Hoàng Hải Thủy đang luyện
công ở đó và duy nhất một lần, chúng tôi nhìn thấy chỉ mỗi một con mắt của
ông dí vào cửa sổ gió biệt giam, cố nhìn ra bên ngoài. Đoán chắc ông đang
tìm võ lâm đồng đạo, trong đám tù cù cưa phơi nắng dưới sân. Ở khu C1 chỉ
có cửa sổ gió của phòng ông được mở, nhưng nó sẽ đóng trong giờ tù ra cho
nắng ăn, chẳng hiểu cớ sao hôm ấy cái lỗ gió mở ra, mà chỉ tiếc chân dung
của Công Tử Hà Đông không vẻ được trọn vẹn, cái lỗ gió quá nhỏ.
Tôi kết anh Nguyễn Đình Toàn, ngoài việc kính trọng một đàn anh đi
trước, trí thức, điềm đạm, nhỏ nhẹ từng lời. Tôi mến anh hơn trong một lần
bực dọc mà anh can thiệp như một thầy giáo với tên học trò khó dạy bằng một
thái độ có thể nói, trong đời tôi chưa từng gặp ai có cách cư xử đáng nể
như vậy.
Cái khó trong nhà tù thật khốn nạn. Một thau cơm chia đều cho tất cả. Dù
mới hơn 2 năm sau ngày mất nước, cái đói đã ập xuống miền Nam trù phú, nó
bị kéo lê thê vì phải gánh miền Trung và nuôi dân Bắc. Vơ vét miền Nam là
chiêu thức đầu tiên bọn việt cộng giở trò sau khi đã lùa hết quân, dân,
cán, chính còn lại hoặc không thoát được hay chưa thoát được sau cuối tháng
4 năm 1975. Xã hội như vậy nói chi nhà tù. Đói là cái vốn của chế độ cộng
sản.
Cả phòng đồng ý theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa, lao động bằng nhau,
thì ăn bằng nhau, tránh thiên vị, cơm phải thay phiên chia từ thau lớn cho
có cái gọi là công bằng. Dù đó là thứ luật nhà tù bất thành văn, chẳng biết
nó có từ lúc nào.Khi tôi ở 2A thì chuyện này cũngđã xảy ra nhưng không đến
nỗi đau lòng như tại phòng này.
Ý kiến, ý cò cho đã, sau cùng mấy anh còn trẻ thay nhau gánh vác cái
trách nhiệm thiêng liêng của nhà nước giao phó: chia cơm tù, trong đó linh
mục Đinh Xuân Hải tự nguyện tham gia. Mấy thằng trẻ và ông sẽ thay phiên
chia cơm mỗi ngày và người nào chia cơm thì miễn trực, tức là lau chùi cầu
tiêu, lau sàn phòng.
Trong một hoàn cảnh quá bi đát, con người sẽ lộ ra hết tính khí, cái bản
chất dù cất kỹ đến đâu cũng lộ ra, nhất là khi người ta đương đầu với khó
khăn bần cùng.
Tôi ghét, hay nói đúng ra tôi rất căm thù cái vụ này. Thường tôi, anh
Toàn, Phú Hải, Hiển râu quăng cha cái chén bằng nhựa xuống đó rồi ra trước
cửa phòng ngó trời hiu quạnh hay nghe anh Toàn hát dăm câu, tán dóc chuyện
vớ vẫn chi đó. Cho đến khi cái vụ chia chác xong, anh em chúng tôi luôn là
kẻ sau cùng nhẹ nhàng đến lấy cái chén cơm lưng lưng nấu bằng gạo mốc, chứa
đầy cặn bã, rác rưởi, kinh qua thời gian chia chác tiến lên xã hội chủ
nghĩa đó, kéo nhau lên chiếc chiếu tù trải nửa của Phú Hải ngồi ăn, dĩ
nhiên chỉ với đồ của trại, anh em chúng tôi là con bà phước mà. Cách chúng
tôi 3 hay 4 bước chân là cái lưng trắng hồng của linh mục Hải đang cúi
xuống moi móc một cách kín đáo và có chút kỹ càng, thức ăn trong cái giỏ
thăm nuôi mà con chiên của ông, cứ 3 ngày 1 lần mang vào cung phụng cho
bạo chúa. Tôi quả thực rất chán tay linh mục bạo chúa này, tôi từng nghe
danh ông ta trên báo Trắng Đen, những loạt bài về bạo chúa áo đen Tân Sa
Châu trong cơn đại hồng thủy “Xuống Đường” trước ngày sập tiệm. Tôi lại
càng khinh ông hơn, khi phát giác ra rằng, bất kỳ ai chia cơm đều có ông
phía sau, chỉ cho người đang chia rằng chén này hình như ít hơn chút, chén
kia đầy hơn chút, dĩ nhiên cái chén mà ông luôn bảo là ít là của ông.
Một ngày, trúng cái phiên tôi phải lên đường tòng quân diệt giặc bằng võ
khí trang bị là thau cơm cùng 20 mấy cái chén nhựa xếp quanh. Cứ một mực
thẳng thừng như cán cuốc của dân Nam bộ, tôi lấy cái chén duy nhất làm cỡ,
múc cơm từ thau lớn, một chiếc đũa nhựa quẹt ngang cho bằng mặt rồi úp vào
cái chén không nào đó. Sau một vòng, phần còn lại trong thau, chơi bằng
muỗng cho chắc ăn, mỗi em một muỗng trước đã, dư thiếu tính sau. Tay bạo
chúa đã 2 lần chỉ vào một cái chén mà bảo là nó hơi ít, tôi nhẫn nại vít
thêm một chút bỏ vào. Cho tới lần thứ 3 thì tôi úp nguyên thau còn trong đó
một ít cơm dư, vào cái chén bạo chúa đang chỉ, đứng phắt dậy, máu nóng dồn
lên mặt hét to:
– Đ.M... như vầy được chưa? Hả, thằng hèn!
Anh Toàn từ ngoài cửa phòng phóng vào nắm tay tôi, anh nói thật nhỏ vừa
đủ cho tôi nghe:
– Khiết, nghe anh Toàn, hãy cư xử có ý thức và nhẹ nhàng, không được bạo
động.
Bao nhiêu cơn nóng ầm ầm tự nhiên tụt xuống, tôi méo mó, thảm hại theo
anh ra cửa. Phú Hải, Hiển râu trừng mắt ngó bạo chúa đang khoa tay phân bua
với mọi người trong phòng,ai cũng lắc đầu ngao ngán nhìn ông.
Đó là bài học khốn nạn, lần đầu trong 10 năm tù đày. “Một chén cơm tù,
trên tay một người đáng kính”:
Chiều xuống, lúc Hiển râu thầm thì với Phú Hải, anh Toàn kéo tôi ra phía
ngoài cửa:
– ... Hứa với anh là tụi em không làm gì nghen.
Anh Toàn vừa nói vừa bóp bàn tay tôi. Tôi quí anh đã tuyệt vời qua cách
cư xử rất chi người lớn đó. Nếu anh Toàn không can thì theo kế hoạch Hiển
râu sẽ trùm mềm bạo chúa với sức mạnh của đai đen Phú Hải chỉ một đòn là
ông ta sẽ nằm một đống, nếu cần thiết đốt luôn mùng của ông, như một chuyện
lỡ tay mà cháy, rồi ra sao thì ra. Đây là chiêu Hiển râu học được từ những
cuốn tiểu thuyết trinh thám hay những mẩu truyện giang hồ gì đó.
Dù không biết anh Nguyễn Đình Toàn nhiều lắm, nhiều có nghĩa là một kiểu
quen biết từ ngoài đời trước khi vào trại tù này, tự nhiên, với anh tôi có
một cái gì đó rất gần gũi, thứ tình cảm cho phép mình tin tưởng được. Anh
không hỏi nhiều về tôi, nhưng tôi nói hết với anh. Những ngày sống chung
với nhau dù không hơn 3 tháng nhưng giữa anh và tôi được mô tả là gắn bó
giữa 30 nhân mạng trong phòng. Anh kể tôi nghe về chậu lan đất duy nhất anh
trồng cho có một chút hoa lá ởcăn nhà trong cư xá báo chí, anh nói về chị,
người đàn bà hiền thục luôn đứng sau lưng anh trong những lúc gian nan:
– Anh rất nghèo, những khi viết truyện như một lối kiếm cơm, làm anh nản
lòng. Nó không lột hết những gì mình muốn, mình phải sống nên phải viết.
Anh gần như té sấp sau ngày “đứt phim”, ngày đó anh không có tiền, chật vật
đứt hơi, chị tảo tần theo cái khó và máu văn nghệ của anh... tội cho cô ấy.
Anh nói với tôi bằng ánh mắt thật buồn. Tôi không dám hỏi anh, sợ nó làm
anh nhớ và lo cho nỗi khốn khó của người đàn bà trong tình huống thế này.
Cái hoàn cảnh khốn nạn cho những gia đình có người lọt trong tay cộng sản
như hôm nay.
– Sao anh Toàn không đi?
– Anh có nhiều cơ hội để đi, và rồi có nhiều cái trì níu anh lại. Sau
cùng anh không đi.
– Anh có hối hận cho việc mình ở lại không?
– Với em thì anh trả lời thật. Có khi ở lại là điều may mắn. Chí ít cũng
nhìn rõ cái tan hoang sau cái ngày đó, chí ít mình cũng có ngày hôm nay,
trong trại tù này. Đâu biết cái gì sẽ đến, kệ nó...
Anh khuyên tôi cố chịu đựng, hy vọng và hy vọng để sống còn. Trong cái
vóc dáng chịu dựng, anh đứng tựa cửa phòng. Buổi tối chỉ có ngọn đèn
chiếu ngoài sân, phân nửa con người tong teo của anh, đổ cái bóng dài trên
mặt chiếu trải dưới sàn tù,cái bóng gãy gập ở vách tường loang lỗ,đè lên
cái bóng của tôi. 2 chúng tôi đứng đó,nhìn ra ngoài xa xa âm thanh phố
phường văngvẳng từ chợ Bà Chiểu thỉnh thoảng còn nghe được. Anh hát, những
dòng nhạc chảy đi tận cùng từng mạch máu:
“Tôi vẫn cố bám lấy đất nước tôi dù sức người khô kiệt, dù sức người đã
tả tơi ước mơ, tay chân dường rũ liệt.
Tôi chẳng còn niềm tin nào cầm cho ấm tay, sống từng ngày, sống ngày nào
biết ngày ấy thôi”....
Bóng đen kéo ngày qua đi vội trong những tháng cuối năm, những buổi tối
sau giờ điểm danh, trong phòng Phú Hải thường cùng Hiển râu đánh cờ tướng,
bộ cờ không biết của ai, chuyền nhau mà chơi, những người khác mỗi người
một riêng tư, kẻ nhớ nhà, người gác tay lên trán nghĩ suy cho thận phận, kẻ
nhớ vợ, người thương con. Thường lúc đó, với đôi mắt và giọng nói buồn thăm
thẳm anh Toàn hay hát cho tôi nghe, ở trước và bên trong cửa phòng, những
bài nhạc mà 10 năm sau khi quay về với đời, tôi nhiều lần nghe lại:
“Tôi còn trẻ tôi không muốn bỏ ngang đời...
người với người đã trở thành thiên tai
Chiều vàng rơi trên má em tôi... mùi ngọc lan...”
Mỗi lần nghe những bài hát đó tôi nhắc riêng mình, với một chút hãnh
diện, tôi đã là một trong những người đầu tiên nghe nó, cách đây lâu lắm
rồi, từ cuối năm 1977, do chính Nguyễn Đình Toàn hát cho nghe trong tù. Ở
trại T20, Phan Đăng Lưu, nó còn có một cái tên nữa – Thành Gia Định.
Tuổi trẻ điêu linh:
Tôi có một thời tuổi trẻ chẳng hay ho gì lắm, nếu không nói là phải cực
lực chê trách nhiều mặt thì đúng hơn. Cái tuổi trẻ trong thời nhiễu nhương,
mỗi bước chân đi là đạp trên tang tóc của chiến tranh, tan vỡ trong ý niệm
con người, một con người sống đúng với châm ngôn đạo đức và trách nhiệm.
Đất nước chiến tranh, những bậc đàn anh ra đi và nằm xuống nhan nhản ngày
một. Trong cái nhìn của chúng tôi thời đó, cái chết treo trên đầu như sợi
dây thòng lọng, nó sẽ thắt lại.
Vào một ngày nào đó khi rời bỏ trường học, vĩnh biệt tuổi thơ, ưỡn ngực
về thăm nhà trong bộ đồ lính. Nằm xuống, có thể chỉ còn một cái xác mang về
cho cha mẹ, cũng có khi mất hẳn không dấu vết trên một chiến trường đang
ném binh như vãi đậu ngoài kia, hay mất một chân, một tay, lăn xe về trong
thân phận người phế binh của một trận chiến nghe hoài đến nhức nhối. Cuộc
chiến chống cộng mỏi mòn. Quả thực chúng tôi, cụ thể là tôi có làm gì được
đâu, khi bắt đầu biết suy nghĩ. Cái thuở học đòi làm người lớn, điếu thuốc
trên tay, quán càfé để la cà, biết ngó con gái đẹp, biết chăm chăm nhìn vào
cái chữ V ngược, chỗ thắt lưng của cái áo dài Mini,Raglan và cái quần ống
rộng láng bóng, nổi những thứ mời gọi đầy dục vọng. Mode của miền Nam thập
niên 1970. Tôi tự nhiên đâm ra khác đám bạn học này. Những gã học trò tối
ngày chỉ biết ăn học, nhất là ở tỉnh lẻ, tôi phải khác hơn chứ, đại loại
giống một thứ dị hợm nào đó, khác hoàn toàn khác. Chắc tôi vẫn mang trong
người cái di truyền của ba tôi. Ông nội tôi từng nói:
– Ba con hồi trẻ đào hoa lắm.
Câu phán của một ông già nho giáo rặc ri, viết chữ Hán, làm thơ chữ Hán,
có một bồ chữ toàn là tứ thư ngũ kinh nghe mà phát sợ. Ông ấy mà phán như
vậy chắc ba tôi hồi trẻ dễ nể lắm. Tôi không rõ ràng lắm về cái thành tích
ngoại hạng thời đó của ba tôi, nhưng nghe nhiều lần má tôi kể lại:
– Ba mày từng theo bè bạn, nửa đêm bị Việt Minh phục kích phải nhảy sông
Ngã Bảy đội lục bình về nhà chứ đâu có vừa.
Khi tôi chưa ra đời, ông chính là ông Cò xứ Phụng Hiệp, Cần Thơ, thời
quân đội Cao Đài có mặt tại miền Nam. Ông đi lính nghe đâu là khóa 13 sĩ
quan do Pháp đào tạo.
Suốt thời tiểu học tôi là loại giỏi có máu mặt ở tỉnh, từng được học
bổng của Tỉnh từ lớp 3 tới lớp nhất. Cái học bổng mỗi năm lãnh 2 lần, một
lần 900 đồng hồi đó đâu phải là nhỏ. Vậy mà bước sang trung học, những tinh
hoa đó rớt đâu mất, tôi học hành bết bát, tới trường là chỉ để vui chơi
nhiều hơn. Hóa ra tôi tự biết mình thuộc hạng tương đối thông minh, đọc đâu
nhớ đó. Trường Trung Học Tây Ninh trai gái học chung là loại trường công
lập phải thi tuyển, thi rớt vào đệ thất là ra tư thục. Người đủng đỉnh thi
đâu đậu đó, có học bổng từ bé thì phải đương nhiên vào trường này. Đùng một
cái, máu văn nghệ nổi lên cuồn cuộn trong lòng trai mới lớn của nước Việt
hiên ngang có cái di truyền đào hoa của ông cha. Tôi bắt đầu làm thơ, mở
“thi văn đoàn” vào những năm 1969-1970 lúc mới học đệ ngũ, đệ tứ trường
làng.
Sóng gió dậy lên từ đó.Tôi còn nhớ mình đã hiên ngang thiết lập 1 hộp
thơ lưu trữ tại bưu điện tỉnh mang số 21 làm một trung tâm liên lạc bốn
phương. Mỗi ngày, trên chiếc xe gắn máy trước khi tới trường, quẹo ngang,
ra vẻ người lớn trịnh trọng lấy chìa khóa mở hộp thư, lôi ra một chồng
từ các nơi gởi về cho thi văn đoàn lá cải của mình. Vậy là viết thư trả
lời. Tôi viết rất nhanh, một cái rẹt là xong, trả lời 10, 15, 20 cái thơ
trong một ngày dễ như lấy đồ trong túi. Một chút hãnh diện về cái
thiên phú của
mình không biết do ai cho.
Bài vở ở trường, các cái thuộc loại văn chương, chữ nghĩa, sử địa là tôi
khỏi cần học, những giờ đó tôi có mặt ở cái quán nước trước cửa trường. Nơi
đó có những bậc đàn anh lớp trên thuộc loại dân chơi tỉnh lẻ, anh hùng xa
lộ Kim Sơn với chiếc Suzuki M12 bô treo mới cáu cạnh màu xanh nước biển hay
Nguyễn Tấn Cọp, con người quá khổ cao và to, có thể ăn liền tù tì ba nải
chuối già lớn, uống thêm ly cối trà đá, từng cá độ về sức chứa của cái bao
tử và chưa lần nào thua cuộc. Tôi theo các anh ấy học đòi làm người lớn.
Hậu quả là tôi bắt đầu biết trai gái từ cái thuở đó.
Trần Thanh Bạch học trên tôi một lớp, Nguyễn Văn Dũng con ông Đại úy Nguyễn
Văn Mới, Quận Trưởng Quận Phú Khương Tây Ninh, lại chung năm, và cùng
trường với Bạch. Nguyễn Anh Tuấn con thiếu tá Nguyễn Văn Mách Quận Trưởng
cho tới ngày sập tiệm. Cả hai ông quận này đều là bè bạn của ba tôi thuở
còn niên thiếu. Tuấn học một lớp với tôi từ lớp đệ thất. Chúng tôi quen
nhau qua thế hệ trước, thế hệ của sĩ quan khóa 13 giáo phái thời Tây.
Nhắc tới ông Quận Mới này thì khỏi chê vào đâu được. Năm 65-70, Miền Nam
có mode quần ống túm, tóc dài theo kiểu Hippy mới du nhập. Ông Quận thì
thuộc phe bảo thủ, cựu sĩ quan giáo phái Cao Đài, đức trọng tài vừa đủ
cao,ông chúa ghét đám thanh niên thời thượng.
Ông Quận cho lập mấy cái chốt chận xét giấy tờ tùy thân, không phải là
một mà gần như tất cả con đường trong quận nơi ông làm thủ lĩnh. Tên nào mà
lính của ông nhét chai nước ngọt không lọt vào cái ống quần thì sẽ bị rọc
một đoạn cả hai ống. Tóc dài tới cổ hả? Cắt ngang một phát liền. Động trời
một cái, toàn dân, mà không, chỉ mấy bô lão, nhà làng tích cực ủng hộ ông
thủ lĩnh một đao chém chết phong trào Hippy, quyết liệt triệt hạ các cuộc
đua xe, hút chích và đặc biệt là quần ống túm, tóc dài, áo cánh dơi.
Một hôm tôi đi học về,bị chận lại. Lính của ông đang xét giấy, may sao
ông Quận lù lù bước tới hất hàm hỏi tôi:
– Mày đi học sao tới giờ mới về hả?
– Dạ con phải ghé qua chỗ ba con một chút.
– Ba mày sao rồi, nhắn lại với anh ấy mai mốt chú vô nhà thăm. Còn mày
đó, quần với áo, tóc tai nữa, bữa nay tao tha cho một lần, lần sau mày coi
chừng đó.
Ôi trời đất, xém chút nữa, hai cái ống quần tôi đã bị rọc rồi. Tay lính
nhận ra người nhà của quan nên trả giấy tờ cho tôi, thật hú vía. Ông nhớ
mặt tôi, vì có mấy lần ông thăm ba tôi theo kiểu tình thời chinh chiến của
mấy lão và tôi bị làm thằng hầu bưng bê nước uống.
Về sau này, tôi thình lình hiểu ra rằng, không phải ông khó khăn hay ra
cái vẻ uy quyền tại địa phương, hình như ông đangcố kìm hãm sự buông thả
của tuổi trẻ.Suy cho cùng trong đám lão làng ngày trước cũng còn có dăm
người muốn bảo vệ cho bằng được cái thuần khiết của văn hóa nước nhà,
kèm theo đó là cái phong tục cổ truyền sở hữu ngàn năm nay truyền qua đời
mấy lão...
Những khuôn mặt đó, những hình ảnh như vậy, có khi mờ mờ ẩn hiện trong
một cơn say ngủ nào đó, hoặc một buổi hoàng hôn bất thần dậy lên một chút
nhớ nhà, nhớ quê, cái xứ nhỏ nhoi nằm sát biên giới Campuchia, tràn ngập
việt cộng. Chỗ nào cũng có kể cả trong Tòa Thánh Cao Đài mà người dân ở đó
coi như một nơi tôn nghiêm, bất khả xâm phạm. Nhiều khi tôi tự hỏi việt
cộng đâu mà lắm thế! Sao không ném mẹ xuống mấy trái bom, tiêu tùng cả lũ
cho rồi. Kẹt một nỗi, nơi đó có ông nội tôi, một chức sắc thuộc loại kha
khá, trong vài chục mạng là nhân tố thời khai sáng giáo phái Cao Đài, có ba
tôi và một lô bạn bè của ông, còn có thêm mấy tấm hình để đời lúc các ông
mặc quần soọt, áo ka ki vàng, đeo túi da, chụp chung tại quân trường, mấy
tấm hình vàng khè màu thời gian, như một thông báo cho nhiều đời chống
cộng. Cũng có thể đó là kỷ niệm thời trai trẻ hay biểu hiện tinh thần một
lòng đi giữ nước theo kiểu của mấy lão.
Tôi làm báo với Bạch, anh ta ký một bút hiệu đầy kiêu hãnh và trữ tình
“Trần Duyên Tưởng”. Cái bút hiệu liên quan đến người con gái tên Duyên gì
đó, mối tình đầu thủy chung cho tới chết của hắn. Nói là làm báo cho nó
oai, cho hách. Thật ra là dăm bài thơ, vài truyện ngắn học trò, một cái máy
đánh chữ, một chồng giấy carbon, gõ và lăn rulô. Xong cắt xén bằng tay, bấm
kim. Không cần ai kiểm duyệt, cứ thế mà mang vào các trường trung học trong
tỉnh, xin phép giám học cho giới thiệu ấn phẩm và rao bán từng lớp, dưới sự
khích lệ và cổ động của các giáo sư, thường là giáo sư hướng dẫn.
Đám chúng tôi, bỗng chốc trở thành cây đinh trong lớp thanh niên nam nữ
cỡ tuổi của mình vào thời gian đó, tại cái đất địa có cái núi Bà nằm chình
ình, có thể nhìn thấy từ chân tới đỉnh dù là ở tại tỉnh lỵ, có thể thấy
những tảng đá trắng mốc đầy dấu đạn bom, và nơi đó việt cộng ở hang đông
như kiến, mà không tài nào diệt hết cho được. Nơi phát tiếng kích hỏa của
hỏa tiễn 122 ly vào trung tâm tỉnh hay một đơn vị hành quân nào đó trong
khu vực, mà chuyện này lâu lâu lại xảy ra.
Tôi thì có mệnh Sa trung kim, cho nên, trên mảnh đất rộng của gia đình,
tôi được 1 khoảng không gian riêng gần như cách ly, trừ 2 bữa cơm với gia
đình, tôi ở căn phòng đó, kề sát ngôi chính đường. Bè bạn liền đặt cho nó
cái tên rất chi là văn nghệ “Kim Sa Các”. Đó là nơi tụ tập bè bạn của tôi,
nơi tôi thơ nhạc ò í e cùng bằng hữu bốn phương, nếu có một mạng quen biết
của bè bạn từ xa về thăm, thì đó là nơi lý tưởng.
Ôi! một tuổi trẻ hừng hừng, nở như một đóa hoa giữa mùa chinh chiến,
chớp chớp dưới ánh sáng của thiên đàng văn học. Bàn tay đang vươn ra hứng
hàng tá ngợi khen,báo chí sẽ ầm ầm,tên tuổi sẽ bay xa, một trời rộng mở như
con chim bé nhỏ đang tập bay. Rồi nó lụi tàn, tắt cái rụp khi ánh sáng kinh
đô chiếu vào lớp sương mù mơ mộng của xứ đèo heo hút gió, ngay khi tôi bước
chân về Sài Gòn chuẩn bị cho năm học thi tú tài phần 2. Cộng thêm mùi tử
khí từ 4 vùng chiến thuật. Tất cả cái trăm hoa đua nở đó rớt mất tiêu. Cái
Kim Sa Các từ đó cũng tàn lụi. Những ký ức đẹp như trang giấy, thơ tình màu
xanh xanh viết bằng màu mực tím,Quán lều,những hội ngộ, những va chạm thịt
da, những đua đòi kiểu sống hiện sinh. Tất cả trở thành quá khứ tang
thương.
Một ảnh hưởng không có gì ngăn giữ được từ phong trào sách dịch, từ
những thước phim phương tây, ma túy, chất gây nghiện đã dập vùi tuổi trẻ
Việt Nam vào thời tôi mới lớn. Nghe nhạc Trịnh Công Sơn, hút xì ke, uống
Nubarelle, Valium và các tây dược trấn kinh có trong danh sách độc bản A.
Uống tới ngật ngừ, ngả nghiêng, rồi sinh ra những chuyện phá phách do những
kích động không tự chủ được của thuốc. Cái mode càfé đen, hút Bastos Luxe,
nghe nhạc Trịnh Công Sơn, trên tay cầm một quyển sách của Phạm Công Thiện,
Jean Paul Sartre, Erich Maria Remarque, Hemingway, Maxim Gorky, hay he hé
cái bìa của Anna Karenina... Thời tuổi trẻ đua đòi. Những thứ này không chỉ
có trung tâm Sài Gòn mà nó lan về cả nơi hang cùng ngõ hẻm, chui tới tỉnh
lẻ miền quê.
Tôi đã qua cái giai đoạn đó, đã sống trong bối cảnh tào lao thiên binh
thiên địa đó. Trong cái thời loạn lạc, kè kè bên mình một cuộc chạy đua võ
trang với cái giấy hoãn dịch học vấn từng năm. Cũng có cái chán nản từ đâu
đó, tiềm tàng trong ẩn ức, tự nó bùng lên theo nhịp sống hối hả. Tuổi trẻ
của tôi lúc bấy giờ, trên sách báo, theo thế giới văn minh nở rộ ngày một,
là thế, nó là thế.
Những chiến binh từng đi lính một thời của tôi, thời của những năm 1970
cho đến ngày tan trận. Chắc đôi khi cũng nhìn lại, không cần một can đảm
phi thường nào, để nhớ, để thấy trong quá khứ đã từng có những vấn nạn này,
một vấn nạn mà có lẽ tới bây giờ ít ai chịu nhận, hoặc không muốn nhận một
thực trạng đau lòng như vậy dù nó từng xuất hiện ở miền Nam.
Suy nghĩ của tuổi trẻ thì sao? Dấn thân, đi chiến đấu cho tự do của quê
hương ư? Ôi! ngày tháng đó được bao người? Trong chiến tranh trùng trùng,
chiến trường càng ngày càng nhân rộng, vũ khí có tầm sát hại nhiều hơn.Cái
sợ chết,cái tránh né “bổn phận sự, trách nhiệm vụ” của một công dân là
chuyện thường ngày ở huyện. Ai cũng sợ, theo bản năng sinh tồn. Họa hoằn
lắm trong đám bạn bè trang lứa của tôi mới có thằng can đảm bỏ học đi vào
quân đội, dù nó có đủ điều kiện để được ở nhà đi học. Những kẻ từ chối ân
sủng của tử thần này hiếm hoi lắm. Bên cạnh đó, cũng nhiều tay bán trời
không mời thiên lôi, giận gia đình hay thất tình một em nào đó đâm đầu vào
lính, theo kiểu đi cho quên quá khứ, trên tay xăm nguyên hàng chữ “hận kẻ
bạc tình”. Đùng một cái, sập trời, một con người không ra chi ngày trước
bỗng chốc trở thành một anh hùng bỏ cả tuổi thanh xuân lên đường cứu nước,
nhất là tiểu sử của người được thay đổi một ít để trở thành một ngôi sao
sau ngày tan trận. Tôi cũng vậy. Đùng một cái vào Quang Trung, không phải
theo tiếng gọi của núi sông, mà theo luật định, theo cái hết hạn hoãn dịch
của mình. Góp mặt vào đoàn hùng binh này gồm tất cả thành phần sinh viên,
học sinh, giáo chức, biệt phái. Nhiều, rất nhiều trong tập hợp bị ảnh hưởng
do lệnh đôn quân. Lúc chiến trường trở nên khốc liệt, con số thương vong
ngày một nhiều hơn, ta đành phải lên đường.
Những trận chiến đổi màu không như kiểu du kích, nó trở thành chiến
tranh diện địa. Quân đội phải trải mỏng từ rừng sâu núi thẳm, tới tận hóc
hẻm buôn làng, quân số phải được nhân lên. Tuổi thi hành quân dịch thay vì
là 18, nay là 17. Đó là lệnh Tổng Động Viên toàn phần nhân lực của năm
1972. Chính cái đợt đôn quân này, tôi mới hân hạnh trần truồng ra cho cô y
tá ở quân trường QuangTrung dùng cây thước nâng “cái quí phái” của mình lên
và phán một chữ tàn nhẫn “Tốt!” Vậy là từ giữa năm 1972, Tân binh ùn ùn về
như trẩy hội. Quân trường không đủ chỗ chứa, tinh thần ra đi cứu nước tràn
ngập phố phường, tràn qua các đại học, leo xuống bậc trung học,chạy ào ào
tới các đơnvị biệt phái,chuyên viên. Các khóa được đôn lên, quân trường
chật cứng.
Cùng vào Quang Trung một lúc với chúng tôi, nào là khóa 8/72, khóa 9/72,
rồi tháng 1/73, cho tới tháng 4/73 v..v... Và tôi là chiến binh nhóc của kh
óa 3/73. Đơn vị đầu đời mang con số C3A của trại Nguyễn Huệ.
Cùng một đại đội tân binh với tôi còn có đám bạn cùng quê Trần Thanh
Bạch, Nguyễn Văn Dũng, Nguyễn Hữu Lộc, 3 thằng gốc Tây Ninh. Có thêm Tưởng
Năng Tiến, Chương Còm bên Văn Khoa, có Quang kỹ sư cơ khí, Hùng, Trần Mộng
Hằng “con kiến càng của năm 1971-72”, thêm một lô đủ cỡ nằm chung một lều.
Lũ chúng tôi như cá hộp trong các lều vải đó lúc các sam, trại cố định đã
quá tải.Đám bạn cùnglớp với tôi cũngrời trường học vào lính, tụi nó vào
nhập khóa trước hoặc bị kẹt quân trường, vác quân trang ra Đồng Đế, học ké
quân trường dành cho hạ sĩ quan. Một giai đoạn rối ren nhân lực và tài
nguyên quốc phòng.Hết chỗ, khóa 3/73 chúng tôi đi phép dài hạn 1 tháng,
đợi... quân trường trống để thực hiện cái mộng yên cương, vó ngựa sa
trường, như người ta thường vẽ tấm tranh màu sắc như vậy.
Tôi nhớ Bạch và Dũng thuê 1 căn phòng nhỏ ở đường Trần Bình Trọng, đối
diện với Hồng Tá hotel, căn phòng nằm sâu trong một vườn cây đẹp giữa lòng
thành phố chật chội, vào năm thứ nhất Đại Học Khoa Học, chắc cũng mưu đồ
nhảy vào Y Khoa. Tôi cũng đôi lần qua chỗ đó, nơi thi sĩ mày mò trau chuốt
những con chữ, từng câu thơ và Dũng thả hồn trên cây guitar viết nhạc.
Cái thời đẹp biết bao. Ôi! Những ngày mà thi sĩ Trần Duyên Tưởng của đất
Tây Ninh, của bạn bè tôi đang đợi tin vui, mong Phạm Duy phổ nhạc cho một
bài thơ của hắn đã được đăng tải trên tờ báo Văn và Khởi hành. Ôi mơ ước
của chàng hiệp sĩ bất đắc chí không thành hiện thực. Có lẽ ước mơ đó cũng
theo anh ta vào lính, trong những buổi sáng chà láng mấy cái giao thông hào
ở trại Nguyễn Huệ hay trên bãi bắn số 10 chạy mỏi chân, nhất là những ngày
ra bãi học đêm, tôi vẫn nghe hắn nhắc đi nhắc lại..như một tình khúc buồn.
Tôi đã cày mướt mồ hôi trên đoạn đường chiến binh, chạy đua với tân binh
Nhảy Dù khi ra bãi bắn, khổ thân cho tụi tôi.Trại Nguyễn Huệ sát náchVương
Mộng Hồng là một trại chuyên biệt dành tân binh Nhảy Dù thời đó. Tay huấn
luyện viên mang 2 chữV cứ hét theo chúngtôi:
– Mai mốt các anh là chỉ huy của họ, phải vượt lên, chạy không nổi thì
bò, nghe rõ chưa?
Tôi cũng từng vượt con kinh Tham Lương đen ngòm, bốc mùi hôi vào những
ngày cuối giai đoạn 1 của khóa.
– Tao xuống trước, mày xuống sau nghen.
Tôi nói với Lộc (con) khi hai chúng tôi cuộn tất cả quân trang của hai
đứa vào cái poncho. Cứ từng cặp một làm bè vượt sông.
– Trời sao hôi quá vậy?
Tôi nhìn Lộc:
– Nhảy xuống đi, cha huấn luyện viên tới kìa.
Tay huấn luyện viên đếch cầnbiết nước hôi hám cỡ nào hắn tà tà cầm cây
thước gõ đầu trẻ đi dọc bờ kinh, mặc tụi tôi bì bõm trong dòng nước ngửi
không vô đó. Trung đội dầm mình lội dọc con kinh nước đen. Đó là chuyến
thao dợt cuối giai đoạn 1 huấn luyện cơ bản để nay mai có mặt ở Thủ Đức đi
nốt giai đoạn 2 ra trường làm 1 sĩ quan, lỡ mà thi rớt thì mang cánh gà ra
đơn vị. Rồi cũng đùng một cái, tôi quay về trường Luật với cái lệnh xuất
ngũ của trung tâm 3 tuyển mộ nhập ngũ, tham chiếu một lô văn kiện, chi chít
số và chữ đính kèm.
Trình diện ở phòng quân vụ thị trấn. Sau hơn 3 tháng “quân trường đổ mồ
hôi, chiến trường bớt đổ máu”, tôi cầm cái giấy hoãn dịch vì lý do học vấn
một lần nữa.
Nhớ ngày tôi rời Quang Trung, bạn bè có đứa trúng tuyển vào Hải Quân,
Không Quân, cũng trả quân trang cầm sự vụ lệnh đổi thay cuộc đời như tôi,
trong đó Nguyễn Văn Dũng sang Không Quân. 1 số đông những anh chàng biệt
phái cũng đu dây theo sự can thiệp của quốc hội, chống lại lệnh đôn quân.
Hàng tá kiến nghị được công bố, một cuộc đấu tranh ầm ĩ, kéo dài từ khi
hành pháp ban lệnh đôn quân tới cuối cùng là kết quả cho năm 1973, hạn tuổi
động viên quay lại với con số 18 tuổi. Bạch nói với tôi vào buổi học chiến
thuật cuối:
– Mày quyết định về là đúng, chí ít cũng làm xong cái đại học rồi tính
gì thì tính, còn tao hả? ra trường coi tình hình ra sao tao mới tính tiếp.
– Mày có ý định nhờ ba mày chạy về Tiểu Khu Tây Ninh không? Hay mày về
sư đoàn 25 đi.
– Dễ gì? Tới đâu hay tới đó.
Dũng danh số 030, là trung đội trưởng khóa sinh, hắn đang lui cui phụ
kéo thùng cơm từ trên xe xuống, đại đội chuẩn bị ăn cơm chiều tại bãi.
Tưởng Năng Tiến gõ cà mèm từ xa lừ đừ bước tới, dáng hắn cao lều khều,
pha một chút hom hem, in trên nền trời sắp xuống hoàng hôn.
Mấy đứa tôi ngồi quanh, Bạch mở lon guigoz đựng thức ăn mà má hắn cho
vào chủ nhật trước khi đi về phép. Tiến bỏ cái muỗng nhôm có hàng chữ
QLVNCH xuống, hắn nói:
– Nuốt không vô, cái mùi cá chiên mỡ cừu khó nuốt bỏ mẹ.
– Mày làm như công tử, đi lính mà còn bày đặt kén cá chọn canh. Cuối
tuần có về Đà Lạt không hả Tiến?
Nói xong 1 câu chẳng ra tích sự gì, Bạch hỏi khơi khơi.
– Còn chưa biết có đủ tiền ra tới Sài Gòn không nói chi là Đà Lạt.
Dũng chen vào:
– ... Tao có kết quả bên Không Quân rồi, nay mai đếch ngồi chung tụi bây
nữa, tao lên trời ngồi ăn. Mai mốt ra trường uýnh đấm gọi tao yểm trợ cho
nghen.
Đó là buổi chiều cuối tôi ở Quang Trung.
Lúc tôi lên trình diện tiểu đoàn khóa sinh, Trần Thanh Bạch, Tưởng Năng
Tiến đang la cà ở câu lạc bộ, bọn hắn là chuyên viên ăn uống trước rồi ký
sổ, trả tiền sau. Tôi rời quân trường đếch có thằng bạn nào tiễn đưa.
Cầm cái thẻ hoãn dịch trên tay tôi có một chút bồi hồi, không tiếc,
nhưng nhớ, không bận bịu nhưng vẫn nghĩ hoài trong đầu và nghĩ lung tung.
Hình ảnh bạn bè lính lác thoáng mất thoáng còn qua nhanh trong cái chạy đua
kiếm sống theo kiểu sinh viên tỉnh lẻ về thành. Tôi làm đủ thứ nghề, dạy
kèm, tạp dịch, phục vụ quán ăn...
Quên đi nhà bàn với con cá chiên tanh mùi khó nuốt, quên đi những ca
phạt dã chiến, quên tuốt cú chào tay 100 cái vì nhắm mắt đụng đầu huynh
trưởng, quên đi... quên đi.... Có lúc tôi theo chuyến xe bus chở công nhân
lên tận Biên Hòa để dạy kèm cho mấy đứa con em của một gia đình ở Công Ty
Đường, mà cư xá của họ nằm bên cầu Đồng Nai. Cũng có lúc kè kè theo chồng
sách Luật ở lì trên đó, chạy ăn nên khỏi tới giảng đường.
Tôi là dân Tây Ninh nên cứ tỉnh bơ chui vào số 55 đường Trương Minh
Giảng, nơi đó là tư dinh của thiếu tướng Trình Minh Thế, sĩ quan cao cấp
Cao Đài, người bị bắn rớt đài trên cầu Tân Thuận trong hoàn cảnh tranh sáng
trang tối của quân đội thống nhất, loại trừ các phe phái tại miền Nam.
Người chỉ huy trưởng của ba tôi ngày tôi chưa chào đời. Căn biệt thự cổ to
lớn vậy mà chỉ có điện, không có nước, có lẽ Sài Gòn Thủy Cục đã khóa đồng
hồ từ lâu lắm rồi trước khi tôi tới, nó cũng hoang tàn từng ngày khi chủ
nhân nó không còn và những người thừa kế chính thức không có. Nó làm nơi tá
túc cho sinh viên từ Tây Ninh xuống trọ học một cách không lấy gì làm minh
bạch, dưới sự cho phép và quản lý của hội thánh Cao Đài.
Quả là cuộc đời tôi đi tới đâu toàn gặp trắc trở. Cái giấy hoãn dịch
được cẩn thận ép nhựa và thường lấy ra. Thời nhiễu nhương, thiếu lính, Cảnh
Sát, Quân Cảnh thường hay hành quân kiểm soát nhất là thành phần đào binh.
Nó không là gì, chỉ là con dấu đỏ mang tên và chữ ký của thiếu tướng Bùi
Đình Đạm. Nó là bùa hộ mệnh cho chúng tôi, những người trẻ tuổi buổi đao
binh, một thứ an toàn thân thể được ban phát.
Tôi cũng có biết những tay mánh mung, thậm chí còn có một hệ thống làm
các loại giấy tờ hoãn dịch. Theo nhu cầu, theo giá trị tính bằng tiền, tùy
vào bộ hồ sơ đi kèm để có một cái giấy lộn lưng gọi là hoãn dịch vì lý do
học vấn, vì sức khoẻ, gia cảnh hoặc tôn giáo. Lại có cái thứ hoãn dịch vì
tôn giáo, nó là tai ương không hiểu nổi, từ thành phần chức sắc của các
giáo phái vận động, viện một lý do có trời mới hiểu, Quyền Đi Tu, mà đi tu
thì đứng ngoài vòng chiến, đã đứng ngoài thì khỏi nói tới trách nhiệm công
dân – Thi hành quân dịch. Thêm vào dịch vụ này là những mánh khóe hoán đổi
đơn vị, các hồ sơ lính ma lính kiểng. Dĩ nhiên chỉ có những kẻ lắm tiền,
thuộc loại con ông cháu cha mới có thể sờ mó vào mấy thứ này. Xã hội nào
cũng vậy có mặt trái của nó, như một đứa con vô thừa nhận, có đó mà làm như
chẳng biết. Tôi lớn lên và trưởng thành đúng vào cái giai đoạn khó chịu đó,
một giai đoạn mà người trẻ cảm thấy mình bị dẫm đạp tàn nhẫn. Thêm nữa là
đám nội thành của cộng sản trà trộn trong lực lượng sinh viên, học sinh,
tranh thủ tìm kiếm nhân sự để quấy rối hậu phương. Các nhà sư, chóp bu phật
giáo nhảy ra chính trường, không chịu ăn chay niệm phật như lời dạy thông
thường mà cổ xúy cho cái việc vạch lá tìm sâu, bắt chẹt chính quyền, kết
bè kết đảng cùng việt cộng phá tan tành từ nhỏ đến lớn ở hậu phương. Một
giai đoạn mà tuổi trẻ lớn lên dễ lầm lạc nhất.
Đã đi qua, sống và từng bị cuốn vào cái rối rắm như một thứ bùi nhùi
không mối gỡ ra đó, tôi có lúc ngồi một mình nghĩ ngợi hay tâm sự nhỏ to
với lũ bạn cùng lứa. Chúng tôi lớp trẻ vào giai đoạn này, như người mù bị
lôi đi, cột cứng bằng những sợi dây xung quanh mình, mỗi đầu dây là một
hướng.
Bản thân tôi, ý thức chống cộng vốn dĩ cha truyền con nối. Những ngày
thăm đơn vị của ba tôi ở một tiền đồn trên quốc lộ 22. Cũng có khi, nằm
trong đồn chờ ba tôi dẫn đại đội 277 địa phương đi hành quân hay quan sát
những buổi rà mìn trên quốc lộ. Những cảnh việt cộng đấp mô, gài mìn giết
dân, những chuyến xe đò tan nát. Xác dân thường sau tiếng nổ, thịt xương
vương trên hàng cây bụi cỏ bên đường, tôi đã chứng kiến tận mắt những thứ
đau chết được này từ khi còn để chỏm. Những ngày hớt ha, hớt hãi chờ tin ba
tôi dẫn quân đi và chạm địch. Tôi làm quen với đời lính từ khi ba tôi trấn
thủ đồn Bàu Nâu, cũng có khi tôi ở trong đồn với ông cả ngày, chưa nói tới
mấy ông lính trẻ dạy tôi tháo ráp từ Colt 45 tới Carbin M2, Garant M1. Tôi
biết lính và đồ chơi của lính từ thuở đó. Cái sống chết của người thân,
những tiếng nguyện cầu tuyệt vọng khi người ta không còn nơi để vịn níu,
tôi từng có qua.
Những cuộc xuống đường thời đó dứt khoát không có mặt tôi. Tôi biết rõ
một triệu phần trăm là đúng. Chỉ dăm ba tay trà trộn,chỉ một hai ông trọc
đầu hò hét vận động. Nó như một mồi lửa cháy lan, sinh viên học sinh được
mấy đứa gọi là ý thức đấu tranh đâu, chỉ là nghe tiếng gọi của đám đông hay
hè nhau vui chơi một chuyến, ra cái điều mình cũng xuống đường và chẳng cần
biết nó là cái gì, do đâu và để làm gì. Một cái biểu ngữ căng ra vội vàng
do một ai đó nhét vào tay mình, đám đông cổ vũ, mình làm theo tiếng vỗ tay
đó, đơn giản thế mà nó thành lớn chuyện, đại khái là toàn thể sinh viên
cùng âm thầm tổ chức và xuống đường... Chó chết thật, cái tuổi trẻ bị lợi
dụng dã man từ những trò chơi chính trị, từ những thiểu số quá ít oi của
thành phần đối lập hay kẻ thù giấu mặt trong cuộc chiến du kích, đánh phá
trị an. Tuổi trẻ lao đao, bị chiến tranh đè bẹp tương lai, bị xách động,bị
ảnh hưởng từ những tệ đoan xã hội.Chính quyền lo phải chiến đấu, việc bình
định trị an tự khắc trở thành thứ yếu, do đó rối ren xã hội làm bất an. Một
khi đã bất an thì dễ chết, chết trong cuộc chạy đua thảm khốc sống còn,
chết trong sự dung nạp tiến bộ và thác loạn vừa du nhập theo bước chân của
quân đội đồng minh.Thêm một thứ độc dược nữa từ những chán nản sợ hãi, hay
phong trào phản chiến, những bài thơ, bài nhạc làm mềm lòng chiến đấu,ru
ngủ tuổi trẻ. Và kết quả của những loạt tấn công này là một xã hội mà vào
thời đó, các nhà trí thức mô tả bằng 2 chữ: “băng hoại”.
Tôi mang một chút say mê văn nghệ, văn gừng (nói như bạn bè tôi thời đó)
rất bén nhạy với những thứ mơ mộng, tình cảm lăng nhăng. Tôi chẳng biết,
mình có từng yêu chưa hay những người con gái đi ngang qua đời chỉ là thứ
tình cảm trai gái bình thường, một chút nhớ rồi quên, một thời hẹn hò rồi
xa. Một vài lá thư mùi mẫn ra cái vẻ yêu người quên ăn thiếu ngủ, lâm ly bi
đát rồi chẳng để lại chút vấn vương nào. Nói vậy mà không phải vậy. Tôi vẫn
nhớ hoài tên người con gái đầu tiên mà mình lò dò chạy theo, chạy theo cho
cái gọi là có chút tình cảm trai gái cầm trên tay.
Ngoài ra thì nhiều, rất nhiều người đã qua trong đời và qua rồi là đi
tuốt, có khi moi óc để nhớ cái tên gọi mà không thể. Chuyện phải thế thôi,
lúc còn làm mấy cái thi văn đoàn tỉnh lẻ, có bao nhiêu là thư, đâu nhớ cái
nào mình trả lời nghe thật mùi mẫn và đã viết như vậy cho ai? Bao nhiêu lần?
Tàn nhẫn thay, khi tôi về Sài gòn, những thứ đó biến mất, biến trong
chớp nhoáng, tan tành trong ký ức. Có thể do tôi bị cuốn vào cái xã hội
mới, nhịp sống thành phố hối hả và chìm trong cái lu bu vô phương đào
thoát. Chạy ăn và đi học, thỉnh thoảng mới về quê, nhận tiếp trợ của gia
đình dựa trên đồng lương lính của ba tôi, trong hoàn cảnh phải nuôi một lúc
5 đứa con còn đi học. Tôi lồng lộn, chạy hụt hơi, tuyệt vọng và nhìn tương
lai mờ mịt của mình, tương lai con mẹ gì.
Tôi theo trường Luật vì không đủ điểu kiện chạy đua vào các phân khoa Y,
Dược, tôi chán văn chương, nên không đâm đầu vào Văn Khoa, tôi không khoái
chùa chiền nên không vô Vạn Hạnh hay đại học Cao Đài. Nói chung tôi lầm lũi
đi, thu thập những tài liệu từ khắp nơi cho cái môn tôi đang học.Cũng đôi
khi tới giảng đường, nói cho oai, cho ra vẻ mình là dân đại học một chút.
Cái thời của tôi, năm thứ nhất có hàng tỷ sinh viên chỗ đâu mà chứa. Trường
Luật đang đập ra xây lại, nhà trường bèn mượn cái rạp Thống Nhất, nằm trên
con đường cùng tên, xéo xéo tòa đại sứ Mỹ làm giảng đường tạm. Vậy mà không
đủ ghế ngồi, sinh viên phải đến sớm chen nhau tìm một chỗ. Thế cho nên, tôi
là thằng lười, may mắn tôi có một cô bạn, cô ta tới trước ném vài quyển
sách trên cái ghế bên cạnh. Tôi đủng đỉnh, cà phê, cà pháo cho đã rồi vào
sau. Vậy mà Hồng Đức, cô bạn gốc Long Hoa, Tây Ninh cũng chìu tôi gần hết
năm học. Sau ngày sập trời, nghe đâu cô đã bỏ nước ra đi và hình như chưa
lần về thăm quê nhà.
Cái vụ xây trường mới làm tôi tiếc hùi hụi. Ngày đầu quân về trường Luật
ở cái cổng số 17 Duy tân, tôi nhớ hoài, khi đi vào bên trong, tôi hay đứng
ở tấm biển đồng có ghi hàng chữ: “Nơi đây Lê Khắc Sinh Nhật đã nằm xuống”.
Tôi mường tượng cái cảnh anh bị bắn ở chỗ này. Ai bắn anh, một sinh viên
chủ chốt của đại diện sinh viên Sài Gòn phụ trách Ngoại Vụ, có tiếng không
khoái cộng sản, chắc là một cuộc dàn dựng cho anh đi tàu suốt để dễ bề thao
túng. Tôi nghe bén mùi chính trị, chính em trên ghế học đường từ đó, từ
ngày đầu vào Luật Khoa Sài Gòn, tôi đã nhìn thấy các bậc đàn anh của mình
bị sát hại thê thảm, dấu tích còn kia.
Luật Khoa là một trường, tự điển cầm tay, học chí chết, học thuộc lòng,
nhất là những 4 năm liền tù tì môn Cổ Luật, cái môn học chán như cơm nếp,
phải nhớ từng con số, đạo dụ số mấy, năm nào, Minh Mạng thứ mấy, tu chính
ra sao. Mệt, thêm nữa. Người ta coi Luật Khoa là một trường tự do, không
thi tuyển, thiệt là lãng xẹt.
Cái trường tôi học gần như nổi tiếng với họ Vũ. Thời tôi vào đó, giáo sư
Vũ Quốc Thông là khoa trưởng, giáo sư Vũ Văn Mẫu dạy Cổ Luật, con gái của
ông, bà Vũ Thị Việt Hương dạy Luật Đối Chiếu. Giáo sư Vũ Quốc Thúc dạy Kinh
Tế Học.
Ông Mẫu ra đề thi rất chi là khó (nhận định từ các anh chị đi trước). Ôm
chồng sách cao ngập mặt, mỗi cuốn dầy cui tối thiểu 300 trang, học thuộc
lòng. Ông cho đề thi với một câu hỏi trời ơi, đất hỡi. Một đạo luật nào đó,
Hồng Đức hay Gia Long, câu trả lời vỏn vẹn hai dòng. Rồi thêm cái thi tuyển
bất thành văn, năm thứ nhất vài trăm ngàn sinh viên, một số ít anh em trong
quân đội ghi danh, Sinh viên thuần túy là đa số, dĩ nhiên trong số đó
phải kể những tay ghi danh một lúc vừa Văn Khoa vừa Luật. Lên năm thứ hai
còn khoảng 3 ngàn. Chơi một phát năm thứ ba, mỏng chút nữa, để cuối cùng
ra trường là khoảng 300 cái cử nhân cho học trình 4 năm với từng ban Kinh
Tế, Tư Pháp, Công pháp, mỗi ban tròm trèm 100. Một lối thi tuyển một chọi
vài ngàn, mệt ngất ngư. Ý là chưa nói tới 2 năm Cao Học, nếu hên mà qua
được 4 năm cử nhân. Được mỗi cái là ban đại diện sinh viên, mỗi năm ra một
tuyển tập gồm những đề thi từ 10 năm trước. Thế cho nên, lúc tôi nhảy vào
Luật Khoa, chuyện học tủ là đương nhiên đối với chồng sách ngập mặt đó. Hơn
thế nữa, năm thứ nhất, thứ nhì với số sinh viên quá đông giáo sư không tài
nào chấm bài thi hết được, việc này được san sẻ bởi các anh chị Cao học.
Cũng có thể, hay không bằng hên hay học tài thi phận... Mà chắc những năm ở
trường Luật tôi rớt vào loại may mắn này.
Qua hết rồi tuổi trẻ của tôi ơi – những ngày trú trọ kiếm sống trên
thành phố phồn hoa đô hội, chạy đua với Nha Động Viên, chạy thục mạng vì
“vận động viên lão thành Bùi Đình Đạm” đang theo sát nút sau lưng.
Đứt phim 30/4/1975, tôi ngả xuống cùng tan hoang trời đất, tôi tiếc hùi
hụi những ngày ở quân trường, sao tôi không bậm môi xé cha nó cái lệnh xuất
ngũ chó chết đó, để có những ngày biên cương áo trận đối diện với kẻ thù
trước mặt, thứ kẻ thù của tự do. Biết đâu chừng, máu giang hồ vặt làm nên
chuyện lớn, tôi sẽ hách xì xằng được thăng cấp ngoài mặt trận. Quan trọng
nhất là vỗ ngực tự vinh danh mình “từng đi chiến đấu bảo vệ quê hương” hay
“bỏ hết xuân xanh lên đường giữ nước” như các bạn cùng khóa 3/73 của
tôi, đã nói thế sau ngày tan trận.
Tháng 8 năm 1975, tôi bị xách cổ vào các lớp chính trị theo lệnh của
chính quyền mới chiếm đóng. Cũng như hàng ngàn sinh viên khác ở tất cả các
phân khoa từ cử nhân cho tới cao học phải chịu cái cảnh,một thằng nhóc nhi,
nón tai bèo, băng đỏ đặc trưng của bọn a dua thời cuộc, nói dai nói dài nói
dóc trên diễn đàn,trong một rạp hát nào đó ở thành phố làm nơi học tập.
Cái khóa chính trị này luôn mở đầu và kết thúc bằng những bài hát “như có
bác..”, “dưới bóng cây Kơnia” hay “Trường Sơn đông, Trường Sơn tây” gì đó
mà tôi ghét cay ghét đắng.
Sau ngày đó, tôi giận dữ cuộc đời, không muốn sống chung cùng lũ người
ngợm không ra chi, tôi bỏ về Tây Ninh. Đánh dấu một khúc quanh đời mình.
Qua hết rồi những ngày tháng của tuổi mới lớn, với một tuổi trẻ đáng
thương, thỉnh thoảng tôi nhớ nó như một ký ức đã lãng quên. Cú tan hàng thê
thảm, nó làm cả miền Nam rưng nước mắt. Thành phố Sài Gòn, mà không, là
người miền Nam khóc như cha chết, tiếng khóc không phát ra từ cửa miệng,
không nghe được tiếng nấc, chẳng tiếng thút thít hay vật vã kêu than. Người
miền Nam khóc, khóc nghẹn ngào, tức tưởi trong cổ họng, khóc với những tan
hoang, dưới dấu chân loài hai chân từ đâu đó ở Trường Sơn kéo nhau về làm
banh ta lông cái hòn ngọc viễn đông.
Ngoài đường rầm rập tiếng dép râu, nón tai bèo, băng đỏ trên tay, súng
AK lăm lăm. Từng con phố, từng hẻm hóc, những trận đòn thù diễn ra thô bạo
trên chính đồng bào ruột thịt của mình, như một hành quân tảo thanh sau
ngày chiến thắng.
Lộ quân Bắc Việt vào miền Nam, chân ướt chân ráo, thấy cảnh phồn hoa đô
hội của Sài Gòn, bật té ngửa khi bên tai còn vang vang khẩu lệnh của bác.
“Giải phóng miền nam, giải phóng cho đồng bào đang bị nô lệ, đói khổ, không
có cái ăn, bị Mỹ Ngụy kìm kẹp”. Bộ đội Bắc quân té ngửa trên những đồng hồ
2 cửa sổ, automatic, cái đài rẹt rẹt đeo trên vai. Họ ngỡ ngàng với cái túi
chứa ít gạo mục đem cứu đói cho bà con ruột thịt, khi theo quân về giải
phóng Sài Gòn, bổ ngữa khi thấy chung quanh toàn là vàng son nhung lụa. Bộ
đội té ngửa, khi không biết làm sao với con cá lóc mới mua, trong một cao
ốc vừa chiếm đóng, nhốt con cá trong bồn cầu, chờ buổi đánh chén canh chua
lúc cơm chiều, giựt nước, con cá chui mất, bữa cơm quay về với chút muối
hột mang theo từ Trường Sơn. Bộ đội Bắc quân mù tịt trên thành phố thừa mứa
đồ tiêu dùng mang đủ nhãn, đủ mác. Chúng cố gắng vơ vét đem về Bắc, bằng
mọi cách để gọi là làm quà sau chinh chiến. Cái ngu ngơ đó được đám Giải
Phóng Miền Nam, một công cụ với lá cờ nửa xanh nửa đỏ giúp một tay. Tất cả
những quân, dân, cán, chính đang tránh né không chịu ra ghi danh để lên
đường đi học tập bị đám này lùng sục. Một cuộc trả thù tàn bạo, sau ngày
Sài Gòn thất thủ và khởi từ tháng 6 năm 1975. Tháng sáu trời mưa ướt nhem
thành phố, đoàn quân bại trận đi trong mưa, trong tối thẳm cuộc đời, tới
những điểm tập trung theo lời dỗ ngọt của cái gọi là Uỷ Ban Quân Quản. Tiêu
tùng. Chuyến đi của hơn 500 ngàn người vào chỗ chết. Chết bờ, chết bụi,
chết trên xứ Bắc trong một trại giam nào đó có thể là Cổng trời, Nam Hà,
Tân Lập, Vĩnh Phú hay một nơi kín đáo ở miền Trung, dưới những cái tên A20,
A30, hoặc Z30C, Z30D v..v....
Lũ băng tay đỏ này chính là đám ngày xưa trà trộn trong cộng đồng sinh
viên, học sinh, trong xóm thôn, công tác thành, trong chiến tranh du kích.
Lũ mọi rợ đã cống nạp dưới chân lãnh tụ biết bao nhiêu xương máu dân miền
Nam.
Hết, cú sập tiệm dẫn đến không biết cơ man nào để nói ngoài hai chữ tóc
tang. Thôi thì cứ để nguyên nước mắt chảy, thôi thì cứ rũ rượi nhìn cái tan
tành, tan từng nóc nhà, bờ giậu, vườn cây, tan tành ngọn lúa, con trâu, tan
tành một cuộc đời tươi đẹp của hơn 2 chục triệu dân tha thiết yêu tự do.
Qua bao triều đại và hai nền Cộng Hòa cố công gìn giữ.
Từ cái tiêu tùng đó, Sài Gòn mang tất cả của cải, cái muỗng có nhãn US
đến cái bình hoa bằng vỏ đạn đồng, tới bộ ly chén bằng sứ, cái đồng hồ ODO
tòn teng, lắc qua lắc lại làm mê mẫn trong ánh mắt nhìn của những người vốn
dĩ quen sống thời mọi rợ. Bán hết, bán lấy tiền đổi gạo, bán lấy tiền đi
nuôi thân nhân đang ở các trại tù thiếu ăn, bệnh tật và đang chờ chết. Sạch
sành sanh. Bỗng chốc Sài Gòn trống trơn, buồn như một đám ma, một đám ma
không kèn không trống, im re và chôn sâu trong lòng mỗi người, tất cả chỉ
còn biết đổ thừa cho vận mạng của nước non. Tôi bị cuốn trong cái lùng bùng
tan hoang rồi sạch sành sanh đó. Làm một cú quay về Tây Ninh, từ đồng bằng
ta lên núi ở.
Sau này, những ngày nằm trong biệt giam khu C2 rồi C, hay những đêm thao
thức trong thời chưa ra trại lao động,tôi có nhiều thời gian để nhớ cái
thời oanh liệt của mình,nhớ từng cái li ti theo bám một đời, một đời tưởng
như quên tuốt. Không may mắn chút nào nó lù lù quay lại, xuyên thủng cái
bóng tối mờ mờ, xuyên qua khe hở cái cửa gió và ập xuống làm tôi nhiều đêm
bỏ ngủ.
1. Đường đi không đến:
Từ đầu tháng 6 năm 1975, người ta đã tháo dỡ mìn và có nhiều đoàn đông
người tái tạo lại những chuyến hành hương lên núi Bà Đen. Tôi có mặt trong
đám đông này nhưng mục đích của tôi thì khác hẳn. Tôi sẽ qua khỏi chùa
Hang, tới núi Phụng, tìm những khu giáp giới với Campuchia như Kà Tum, Khe
Dol, thậm chí có thể quan sát đường rừng đi về núi Cậu. Với tấm bản đồ thu
nhỏ của vùng này mà tôi có được từ đống bản đồ hành quân của ba tôi ngày
trước, cắt nó ra theo đúng đường XY của khu vực.Tôi hiên ngang đi hành quân
một mình.
Người ta như trẩy hội trên đường dẫn lên chùa Bà. Tôi gặp Dũng,nó nhỏ
hơn tôi 2 tuổi, dân xứ Vườn Điều, một địa danh trên đường đến đây. Thấy tôi
đi một mình hắn rủ tôi nhập bọn, cùng đi với hắn là cô vợ mới cưới tên
Chung và Hoa là bạn gái của Chung. Tôi nghĩ mình không gấp gáp gì và cũng
nên tạo một tình huống bình thường tránh sự soi mói nếu có, nên đồng ý.
Chúng tôi tới chùa Bà, thay vì theo đoàn người lên đỉnh, 4 đứa tôi cắm trại
bênkia khu vực chùa hướng về phía núiPhụng.
Đứng trên dốc đá cao nhất tôi nhìn chếch phía tây. Biên giới Việt Miên
còn cách xa lắm, Kà Tum ở hướng này, Khe Dol cùng một khu vực còn Xa Mát
lại chếch hướng Tây Nam cách nơi tôi đứng ít nhất là 40 cây số đường rừng.
Nói là cắm trại kỳ thật là chúng tôi chia nhau hai cặp, tựa trên những hốc
núi nhỏ làm chỗ qua đêm. Tôi không chính thức là hướng đạo sinh nhưng những
kỹ thuật căng lều, các thứ nút dây, tôi học ở bà chị tôi khi còn bé, bà chị
tôi là Chim Xanh kỳ cựu của Hướng Đạo Cao Đài. Cộng thêm những tháng quân
trường khi vào khóa 3/73 Thủ Đức và những bài học lóm từ mấy anh lính
của ba tôi cùng với kinh nghiệm từ bè bạn toàn là lính, nên thấy an lòng
trước hiểm nguy của núi non và tai ương của rừng rú. Như tôi từng hãnh
diện, tôi biết về lính nhiều hơn sách vở. Hai chỗ trú quân của chúng tôi
cách nhau hơn trăm thước trên một vùng nhiều gộp đá tương đối bằng phẳng.
Hoa có mấy cây nến đủ tạo một không khí ấm cúng trong đêm trường lạnh
lẽo của rừng núi Tây Ninh. Chuyện trai gái chẳng có gì ầm ĩ, nhưng bản thân
tôi còn canh cánh bên mình mục đích tối thượng. Đi tìm dấu vết của một
đoàn, một toán quân nào đó còn sót lại sau cú tan hàng. Chính vì thế, những
tình cảm có được chỉ là thứ dọc đường gió bụi, trang trí thêm hoa hòe cho
chặng đường đi mù mịt của tôi.
Sáng hôm sau viện lý do đi tham quan một vùng quanh núi, vợ Dũng không
cho hắn theo, tôi thì từ chối cho rằng Hoa là con gái leo trèo không tiện,
vả lại cô đi dép da thì khó mà qua được gai rừng. Vậy là tôi một mình một
dao đi sâu vào núi.
Qua khỏi khu cắm trại, lên tới 1/3 chiều cao của núi Bà Đen hơn 900m,
nhìn rõ mồn một tỉnh lỵ Tây Ninh, thấy một đoạn phi đạo của phi trường ẩn
sau một rừng cao su thưa. Chỉ mới lên độ cao này mà tầm nhìn đã vậy, không
trách được với cao độ đó giặc pháo hỏa tiễn 122 ly chính xác trên từng
thước đất. Núi bà Đen có một bãi đổ trực thăng trên đỉnh, có một anten bắt
sóng cho cả một vùng Bình Dương, Chơn Thành, An Lộc, phủ tới Hậu Nghĩa, Mỹ
Tho. Mới thấy cái núi này nó quan trọng cho vùng biên giới Tây Ninh như thế
nào. Cả một vùng giáp biên giới nằm trong tầm nhìn. Phía đông bắc là Bình
Dương, Chơn Thành, rừng trải dài, rừng hun hút sau những đồng lúa trước
mặt. Ngày trước trong trận An Lộc, Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù tan hàng ở đồi Gió,
theo lời kể của nhà văn quân đội Phan Nhật Nam trong Mùa Hè Đỏ Lửa nhờ cây
anten này mới có thể đánh một vòng trung chuyển để liên lạc với đại bàng
Lưỡng mà trung tá Đỉnh mới thoát được. Bây giờ, chẳng biết những nơi khuất
trong tầm mắt này tại một vị trí chiến lược như vậy còn có một đoàn quân
nào sót lại không? Tôi vừa trèo núi vừa miên man nghĩ ngợi. Bất thần, sau
tảng đá lớn một cửa hang lộ ra, tôi lách mình chui vào. Cái hang càng vào
sâu càng lên dốc và rộng ra. Tôi không tưởng tượng được, trước mặt tôi là
hai dãy sạp nằm bện bằng tre, tựa trên những đoạn gỗ rừng nối nhau, bông
băng, túi cứu thương và mùi tanh của máu thoang thoảng ở đây. Cái hang rộng
nhưng sáng nhờ một khe hở và mặt trời chiếu từ sườn phía đông, ánh sáng
trực tiếp đổ xuống một khoảng rộng giữa hang. Tất cả những dụng cụ y tế, từ
kim tiêm tới lọ penicilline đều đóng nhãn Trung Cộng, một vài manh áo rách
màu cứt ngựa vất bừa trên gộp đá, có cả những bi đông nước sản xuất từ Tàu,
vài cái thùng rỗng không thật to, có lẽ chứa hỏa tiễn. Ngoài những trang bị
y tế đó tôi còn nhìn thấy một số vũ khí cá nhân hỏng hóc, những viên đạn AK
rải rác quanh đó. Chắc có một trận đột kích vào cái hang này. Đây chắc chắn
là tiền trạm y tế của việt cộng trong cuộc chiến, có thể nó được sử dụng
cho đến ngày chiếm Tây Ninh.
Có một âm thanh rất lạ, tôi nằm áp tai xuống mặt đá lắng nghe, hồi hộp
tưởng như hy vọng đã đến với mình. Nhưng không, đó chỉ là tiếng nước chảy
qua khe đá đằng sau hang núi. Cái hang ngoằn ngoèo dẫn ra một chỗ lộ thiên
về phía đông Núi Bà. Từ đây quan sát cả một vùng thật rộng, có thể thấy Núi
Cậu ở xa xa.
Dưới sự kiểm soát chặt chẽ của biết bao đơn vị VNCH trên địa bàn tỉnh,
vậy mà, ở ngay trong tầm pháo, cách tỉnh lỵ không hơn 5 cây số, lưng chừng
Núi Bà có một trạm y tế lớn như một bệnh viện dã chiến như thế. Thứ chiến
tranh du kích đáng sợ thiệt. Vậy mới rõ ràng bắc quân theo đường mòn xâm
nhập sát thành phố, không thấy dấu vết của du kích địa phương tồn tại chỗ
này. Mà cũng phải, việt cộng nằm trong cái hang như vầy làm sao pháo binh
phá được, chúng chui xuống dưới chồng đá tảng cao mấy trăm thước bom nào
đánh tới, đột kích thì chúng rút êm qua bên kia núi. Núi Bà Đen biết bao
hang hóc như thế này. Thiệt quá tệ, cái núi chiến lược cho cả hai phe, phía
nào cũng cố thủ, hậu quả chỉ có dân Tây Ninh ăn đạn.
Đánh dấu phương hướng, ngày hôm sau tôi lại 1 mình đi xa hơn, ngược cái
hang đã phát hiện. Toàn là đường mòn với đám tre rừng gãy tan nát vì
bom,những đám rễ vắt ngang, những gốc cổ thụ ngả nằm ngổn ngang trên vách
đá.Không có dấu hiệu của bước chân nào đã qua, đám gai rừng đan chằng
chịt,nhiều nhất là cây găng, từ trên xuống dưới đầy gai nhọn, thứ gai dễ sợ
mọc từng vùng rộng lớn, thứ bẫy rập của rừng không thể vượt qua. Một cây
găng nhỏ cao chừng 2 thước nhưng cành của nó duỗi dài cảchục thước và gai
mọc chi chít quanh thân. Tôi thất vọng quay về khi trời vừa đứng bóng.
Chúng tôi ở trên lưng chừng núi cả tuần, đói thì lấy gạo, lấy nồi dùng
nước suối nấu, đêm vào hang hóc tìm một tảng đá tương đối bằng, trải poncho
làm chỗ ngủ. Chuyến hành quân lần đầu thất bại, tôi theo cả bọn xuống núi.
Không đầu hàng, khoảng một tuần lễ sau tôi quyết chí lên núi một mình và
qua phía bên kia đỉnh. Vẫn cái ba lô, con dao đi rừng, tôi bắt đầu trèo lên
núi. Qua Chùa Bà, men theo con đường lên đỉnh của các nhà sư. Nhưng cách
đỉnh khoảng 150m thì vô phương, phi cơ đã ném xuống độ cao này hàng tấn
bom, đá từng tảng to nhỏ chồng nhau phơi trắng một sườn phía đông nam,
không còn cách nào đi lên theo đường cũ, tôi quyết định vượt một thung lũng
khá rộng trèo qua sườn phía đông. Ngó lên cao mặt trời đã xuống, tìm một
nơi an toàn tôi căng võng qua đêm.
Trên núi Bà Đen:
Ta trở giấc trong giao thông hào cũ
Của bạn bè xưa đào vội bên rừng
Dưới trăng vàng sương rơi thật dửng dưng
Trên cái nón sắt còn in dấu đạn
Ta sờ soạng dưới lá khô vùi đống
Một mảnh bom làm lạnh cóng bàn tay
Tự hỏi nơi nầy còn có xác ai
Thù hay bạn, hoặc mai đây ta chết
Chỗ nầy che thân cho hai cuộc chiến
Một mới vừa qua và một hôm nay
Ta tới đây dù cho cũng chỗ nầy
Thêm nắm xương bón để rừng xanh mãi
Phía xa xa trong sương mờ gió núi
Phố phường xưa giặc mới chiếm hôm nào
Có một đời ta ném bỏ thương đau
Và bè bạn chết dần trong tù ngục
Ta tới đây, chờ đoàn quân còn lại
Đang vượt rừng trở lại chiến hào xưa
Kèn thúc quân sẽ vang át rừng mưa
Cờ sẽ cắm trên cổ thành như trước
Ta tới đây dù không cùng hẹn ước
Bạn bè ta còn nhiều đứa hiên ngang
Dí súng vào đầu, thà chết không hàng
Nói chi là buộc cúi đầu dâng mạng
Ta tới nơi đây, ta đón chỗ nầy
Trên cao điểm của thành trì biên giới
Đêm sáng trăng chờ, còn ta đứng đợi
Đoàn quân nào? Ai đó gọi tên ta...
(nguyễn thanh khiết - tháng 6-1975).
Băng vòng qua nửa ngọn núi, tôi mất cả 3 ngày. Ngày đi đêm vào hang hay
ngủ võng, dù đã trang bị loại võng có mùng và thuốc chống muỗi, đốt lửa vào
đêm, nhưng lũ côn trùng đủ loại vẫn không tha.
Sườn tây bắc núi Bà Đen là một vùng đá bị bom nghiền vụn, cây cối xác
xơ, rừng bị thuốc khai hoang phá trơ trụi. Nhìn xuống, Kà Tum là đó. Hồi
còn bom đạn, nơi này là vùng chiến địa ác liệt,đó là nơi tiếp giáp mật khu,
dọc biên giới, mìn bẫy giăng đầy.Nếu có một đơn vị nào sót lại, e khó mà
trụ được ở đây. Chung quanh nó, các chốt chận của việt cộng vẫn dày đặc,
những người đi rừng đã nói thế. Tại khu núi Bà này xem ra không có dấu vết
của bất kỳ đơn vị nào. Nó là chiến trường chết.
Đêm co ro trong hang núi trên đường đi ngược xuống, tôi buồn lắm, tiếng
gió hú trong đêm, tiếng rên rĩ của rừng núi, trong cái đơn độc và hy vọng
tan tành, tôi quả thật vô phương tìm cho mình một lối đi trên hành trình
chẳng biết về đâu.
Chiều qua Suối Vàng
Cởi giáp sắt dừng cương một tối
Cầm thanh gươm treo giữa lưng đèo
Tráng sĩ qua sông, giòng nước biếc
Tiễn lên đường thay trống thúc quân
Cờ rách trong tay, ngày tan trận
Nặng oằn vai vác hết hành trình
Hai mươi năm một trời căm hận
Ta là ai? đi dựng đao binh
Hồn tử sĩ kêu đau dưới thác
Chim lạc bầy khóc dưới trời sương
Bước chân qua rừng chiều nhã nhạc
Nhạc rừng ơi! quá đổi đoạn trường
Thôi! mài kiếm, thắng yên, lên ngựa
Trăng sẽ soi bước tới biên thùy
Tráng sĩ qua sông, dòng nước rửa
Bụi trần ai – để lại rồi đi.
(nguyễn thanh khiết - 1975).
Dưới cơn mưa trời tháng 6, anh rể tôi đi tù. Trong thân phận bại binh
với cấp bậc Đại Úy Hải Quân, anh phải theo tất cả những sĩ quan của quân
đội vừa mới tan hàng còn lại trên đất nước này, trình diện học tập theo
lệnh của nhà nước mới.
Anh ấy vào trại Cây Cầy ở Tây Ninh, chị tôi bụng mang dạ chửa, gần đến
ngày sinh đứa con kế, ba má tôi chán nản về rừng Mỏ Công làm ruộng rẫy. Căn
nhà trở nên vắng vẻ, cái ăn, cái mặc làm nặng lo từng ngày. 2 thằng em kế
và cô em gái út quá nhỏ để trông coi gia đình, tôi bị nhiều thứ áp lực đè
nặng từng ngày, từng giờ.
Ngoài cái buồn mất nước, ngoài cái bực bội khi nhìn đám du kích địa
phương hoạnh hẹ. Chúng mang băng đỏ trên tay tha hồ đàn áp. Chủ trương x
óa bỏ văn hóa mà chúng cho là “đồi trụy”, tất cả sách báo trước 1975 đều
bị tịch thu mang ra đốt, chúng lùng sục soát từng nhà, những mục tiêu mà
chúng nghi ngờ bị bới tung lên, nhất là những gia đình có dính líu tới
QLVNCH.
Những ân oán giữa những người chiến thắng và người thua trận được thanh
toán bằng nhiều hình thức. Đấu tố trong một phiên họp tổ, ấp công khai hoặc
thủ tiêu bí mật, thậm chí tìm cách ghép một cái tội không đâu, dẫn đến nạn
bắt bớ lùng sục khắp nơi. Toàn cảnh bức tranh hòa bình được vẽ bằng màu máu.
Gia đình tôi bị dòm ngó kỹ hơn vì ba tôi là lính từ thời quân đội giáo
phái trải qua 2 thời cộng hòa, anh rể tôi là sĩ quan, tôi là sinh viên
có gốc lính. Vả lại, vài thằng bạn học của tôi bây giờ chường mặt ra là bọn
nằm vùng, có thằng rất rõ tính chống cộng của tôi, một vài đứa có chân
trong ban quân quản Tây Ninh, chúng nhìn tôi dưới cái nhìn chẳng mấy thiện
cảm. Gia đình chúng tôi trở thành cái gai của công an ấp, xã.
Tôi nhớ hoài một đêm tối trời, tôi đưa chị tôi đi sinh con trên chiếc xe
đạp cũ, mất đi cái giò đạp. Tôi đẩy nó thật nhanh về phía nhà một bà mụ
vườn cách xa 3 cây số, bất lực nhìn chị tôi cố nén cơn đau đẻ, chị ngồi
trên ba ga xe, hai tay níu chặt cái yên. Tôi thương chị quá, tôi thương
cuộc đời bên bại trận của chúng tôi quá. Cú tan hàng làm chúng tôi rớt
xuống vực thẳm, gia đình ly tán, đói nghèo chờ trước mặt. Thậm chí chuyện
sinh nở của chị cũng khốn khó vô cùng..Những đứa con của chị đều do chính
tôi săn sóc, thằng lớn nhất sinh ra và chết ngay, lúc đó chồng chị đang đi
học một khóa Hải Yểm ở Mỹ. Thằng thứ nhì sanh ra khi anh ấy đang đi hành
quân, anh ấy là Giang Đoàn Phó của Giang Đoàn 46 Ngăn Chận, đóng ở Mộc H
óa. Thằng thứ ba sinh ra sau ngày mất nước, cha nó đang bị giam cầm.
Tình chị em gắn bó qua đủ thứ biến động như vậy. Làm con trai lớn trong nhà
mà lần này tôi không thể giúp gì được cho gia đình, tôi tệ thiệt.
2. Thân phận khốn cùng:
Tháng 8 năm 1975, Viện Đại Học Sài Gòn ra thông báo, phát trên radio
cùng báo chí. Buộc tất cả sinh viên ban cử nhân thuộc các phân khoa của đại
học Sài Gòn phải trình diện học khóa chính trị cơ bản. Tôi biết chúng
bắt đầu sờ tới lực lượng sinh viên, đành chịu thôi. Ở lại Tây Ninh thì
không thể, tôi đang bị mấy thằng bạn học nằm vùng theo bén gót. Bây giờ
chúng cũng khoác băng đỏ súng ngắn, súng dài lạng qua lạng lại trên đường
trước nhà tôi. Thậm chí Trần Thanh Bạch, Nguyễn Hữu Lộc, những đứa cùng kh
óa 3/73 ngày xưa, ra trường mang lon chuẩn úy, nên tại Tây Ninh tụi nó
chỉ đi học tập chính trị gì đó có dăm ngày rồi về, nghe đâu bọn 30/4 xếp
mấy tên mang quai chảo chỉ là Hạ Sĩ Quan Cao Cấp cho nên không bị liệt kê
vào danh sách Sĩ Quan Trình Diện, tôi cũng không thể tới thăm nom được. Tôi
có cảm giác mỗi bước đi của mình dù ban ngày hay ban đêm đều có ai đó lù lù
theo sau.
Tôi về Sài Gòn, bơ vơ giữa cảnh đổi thay. Tôi ở nhờ tại số 27 đường
Nguyễn Huỳnh Đức, nhà anh Nguyễn Huy Đình, bạn của anh rể tôi. 3 ngày trong
tuần tôi phải tới trường Luật theo học lớp chính trị. Ban cử nhân Luật ngày
trước rất đông sinh viên nhất là năm thứ nhất, năm thứ hai, vậy mà bây giờ
4 năm cử nhân chỉ còn lại không hơn 300. Có lẽ các phân khoa khác cũng vậy,
sau tháng tư biết bao người đã bỏ nước ra đi. Trường trại thưa thớt, sinh
viên ngơ ngơ nhìn nhau trong hoang mang, nhìn nhau trong dè dặt, sợ hãi,
biết ai cùng chung màu cờ. Chúng tôi sinh hoạt với nhau trong thế thủ, dè
dặt từng lời ăn tiếng nói. Ban giảng huấn là đám sinh viên nằm vùng của
việt cộng từ trước ngày mất Sài Gòn, thêm một hai tên từ miền Bắc vào. Ch
úng tha hồ nói dóc, tha hồ đọc lại những câu, những lời phát biểu trống
rỗng của chủ tịch, của Lê Nin, của Mao, của Mác như con vẹt. Sau 3 bài
giảng thì có trận thu hoạch, viết những nhận xét bài học. Chúng tôi như con
cá nằm trên thớt, mặc chúng chiên xào thế nào cũng được, mặc chúng nói dai,
nói dài, nói dở, mặc chúng chửi xiên, chửi xéo hay chửi thẳng. Dĩ nhiên
cũng có rất nhiều người giác ngộ cách mạng sau khóa học, dù chỉ là giác
ngộ trên giấy, cũng có kẻ thấy mình cần phải đứng ngoài xã hội hôm nay. Tôi
là một trong những người không chấp nhận sống chung với cộng sản.
3. Lan trường Luật:
Nhà Lan là một nhà may lớn ở đường Gia Long, chúng tôi học cùng năm ở
Luật và tự nhiên gần nhau hơn một chút nữa trong khóa chính trị này. Lan
rất dễ thương với cái kính cận và nụ cười thật đẹp. Lan biết tôi chống cộng
tới bến, nàng khuyên tôi vượt biên cùng gia đình nàng, tôi từ chối. Dễ hiểu
thôi, thời đó muốn vượt biên thì phải có vàng, chí ít ra cũng cả 10 lượng.
Tôi nghèo rớt mùng tơi, tiền ăn hàng ngày còn không có nói chi chuyện vượt
biên.
Tôi quí tình cảm của Lan dành cho mình. Lan hay đạp xe đến đón tôi vào
trường hoặc tới những rạp hát mà tụi bò đỏ lấy làm nơi học tập. Nhìn Lan
hồn nhiên kề bên, lòng tôi buồn lắm. Kỷ niệm những khi hai đứa ngồi ở cà
phê vỉa hè dưới hàng me đường Nguyễn Du, khi hai đứa đèo nhau trên chiếc xe
đạp mini, những lần dắt xe đi bộ trên dốc cầu Trương Minh Giảng. Nó đi theo
tôi suốt mấy mươi năm dài, nhất là câu Lan nói với tôi bên cạnh nhà thờ Đức
Bà:
– Anh Khiết, hai đứa mình chơi trò người lớn nghen anh, mình sống với
nhau.
Câu nói chân thành của Lan bắt nguồn từ những lần tôi từ chối tình cảm
của nàng, dù rằng tụi tôi từng hôn nhau ở môt góc giảng đường vắng vẻ, hay
những khi đưa đón nhau về.
– Lan à, anh đâu biết ngày mai sẽ ra sao, anh không muốn em buồn vì tình
cảm em dành cho anh. Sớm muộn anh cũng phải đi theo tiếng gọi của riêng
mình.
Lan biết tôi sẽ rời xa nàng, tôi sẽ không theo chuyến vượt biên như nàng
muốn.
Hôm tới nhà Lan, nàng nhìn tôi van lơn:
– Em muốn anh đi cùng em, tất cả mọi việc để em lo, được không?
– Cám ơn em đã nghĩ đến anh, nhưng không thể được.
Tôi không sợ thành hay bại của chuyến đi, tôi chỉ không muốn mình bị lệ
thuộc bất kỳ vào một thứ gì, tiền bạc, tình cảm. Tôi có sĩ diện của mình.
Tôi muốn, nếu có cơ hội chính tôi tự đi bằng cách của mình. Lan hiểu điều
đó nhưng nàng lại giận tôi cố chấp không nghe nàng để cùng nhau trên một
chuyến tàu vượt biên. Lan là con nhà giàu, thừa hưởng cái văn minh và tự do
khi nàng vào Marie Curie, Lan ghi danh một lúc cả bên Văn Khoa, nhưng tới
năm thứ hai nàng quyết định theo Luật. Trong đám bạn trường Luật, Lan
thường ngồi kế tôi ở giảng đường, chạy cái cassette thu âm lời giảng của
giáo sư rồi đưa cho tôi nghe lại, nếu một hôm nào đó chàng buồn tình trốn
học.
Lan đưa tôi ra về, hai đứa đi dọc Gia Long về phía nhà thờ Đức Bà. Những
bước chân trên mặt đường trở thành xa lạ, chúng tôi có lúc nhìn nhau trong
im lặng, sau lưng là thành phố với những dấu hiệu đổi thay và mất mát, đi
ngang cửa Bắc chợ Bến Thành, nhìn xuống con dốc, những hoa trái xác xơ được
bày bán trong cảnh vắng buổi chợ chiều.
– Anh thấy không, tất cả còn gì để anh nắm níu mà ở lại, đi với em đi
nghen anh.
Nàng nắm chặt cánh tay tôi, như van lơn. Có mấy giọt lệ hình như sắp làm
lem hai tròng kính cận. Tôi im lặng tránh né câu trả lời, hai đứa đi mãi
cho tới Ba Son.
Chiều xuống, trên dòng sông không có bóng một chiếc thuyền, phà Thủ
Thiêm xình xịch thở cụm khói đen từ bên kia bờ. Chúng tôi chia tay chỗ đó,
bến Bạch Đằng nơi có người đã đi và có kẻ sắp ra đi. Lan là người con gái
để lại trong tôi một ân tình khó phai trong những ngày tháng điêu linh trên
con đường mù mịt của hành trình đi lấy lại quê hương.
Gần cuối khóa học, tôi đụng độ vài lần với đám giảng viên, tôi công khai
trên giấy trắng mực đen và phát biểu của mình trước buổi sinh hoạt liên
đoàn sinh viên gồm nhiều phân khoa. Bọn chúng thẳng thừng cho rằng tôi có
tư tưởng phản động và tìm cách loại tôi. Bỏ ngang khóa học, tôi trở về
Tây Ninh, 2 ngày sau tôi bỏ nhà tiếp tục tìm đường vô bưng.
Ngày qua trường cũ
Muốn hỏi em, bao giờ em trở lại
Đứng bên đường anh sẽ đợi em qua
Có lẽ bây giờ em chẳng thiết tha
Đường cũ, trường xưa, vỉa hè, quán cóc
Nơi hồi xưa anh thường ngày lăn lóc
Đón em về, nhỏ kính cận rất duyên
Tất cả chỉ còn trong trí đảo điên
Anh già cỗi làm sao mà đếm hết
Muốn hỏi em có bao giờ em nhớ
Đường Nguyễn Du, lá me rớt đầy vai
Một chiều, anh can đảm nắm bàn tay
Em nép vào anh nhìn mưa xuống phố
Áo học trò anh thấy em rất ngộ
Con bé hồn nhiên cười vỡ tim anh
Mấy mươi năm tình yêu hãy còn xanh
Mà mình đã bạc đầu trong nỗi nhớ
Muốn hỏi em, có bao giờ trăn trở
Đời chia ra mỗi ngả mỗi lối về
Không lẽ chưa lần em chợt nằm mê
Nhớ một chút, tình xưa và chốn cũ
Em ơi! Sài Gòn chiều mưa ủ rũ
Qua Duy Tân là nhớ dáng em xưa
Về Gia Long chẳng biết nói sao vừa
Trong tim óc em vẫn còn đâu đó
Muốn hỏi em có bao giờ, con nhỏ
Nghe tình xưa dậy một chút trong lòng
Nho dù phận người trôi dạt long đong
Từ một chỗ tận cùng trời, cuối đất
Sẽ một ngày nhìn mưa bay lất phất
Lỡ như mà nghe ai gọi tên em
Thì coi như một người cũ rất quen
Đang chợt thì thầm. Ôi!..Lan trường Luật!
(nguyễn thanh khiết / 5-7-2009)
(Viết cho Lan trường Luật).
4. Gian nan theo dấu cũ:
Tôi quyết định về Mộc Hóa,đi xe đò xuống Tuyên Nhơn, anh rể tôi là dân
giang đoàn 46 Ngăn Chận, nên tôi nhớ rất rõ khu vực này. Tháng 7 năm 1972,
tôi đến thăm anh vào đúng lúc giang đoàn kéo về Bến Lức, tôi được tháp tùng
theo anh. Những hình ảnh khó quên trong chuyến đi này, cho tôi học thêm
nhiều thứ về Hải Quân.
Hai chiếc Zippo, trang bị 2 cây súng phun lửa nén bằng xăng đi đầu, dọn
đường cho chuyến dời đô của giang đoàn. Chiếc Tango hộ tống cho mấy chiếc
Alpha mũi nhọn theo sau. Tôi và anh ấy ở trên chiếc Uniform, giang đỉnh có
tốc độ rất nhanh. Giang đoàn từ kinh Lagrange ra Vàm Cỏ Tây, hướng về Bến
Lức, chuyến đi giữa cơn mưa lớn. Leo lên cột cờ giang đỉnh lúc mưa tạnh,
nhìn những chiến thuyền rẻ nước lao đi giữa dòng sông Vàm Cỏ, mới thấy được
cái oai phong của những đơn vị hải quân trên sông rạch miền Nam.
Tôi có rất nhiều cơ hội trong đời để tham gia vào đời sống quân đội, dù
tôi là dân sự thời tôi mới lớn. Có nhiều lần nếm trải gian nan cùng lính,
biết chút ít những khí cụ chiến tranh. Lòng tôi lại càng thắc mắc, thậm chí
có cả bất mãn khi miền Nam tan hàng. Với một lực lượng hùng hậu như vậy tại
sao thua? Thua từ đâu? Đến lúc này tôi phải cố gắng tìm cho bằng được một
đơn vị còn lại đang âm thầm chiến đấu sau ngày tan trận. Nói cho cùng tôi
sẽ tìm mọi cách như một chiến binh đi lấy lại quê hương.
Tại Mộc Hóa, lấy cớ đi tìm thân nhân thất lạc sau chiến tranh, tôi xin ở
nhờ trong một nhà dân. Tôi nói đại một cái tên, tạo dựng một lý lịch của
người thân rất mơ hồ, để có cái lý mà đi tìm. Thuê xuồng chèo qua những
kinh rạch, tôi cố đi thật xa vùng dân cư hai bên bờ, tôi chèo xuồng chui
qua những kinh nhỏ dẫn vào những nơi hẻo lánh. Đất phương Nam ruộng đồng
ngút mắt, nếu có kiểm soát việt cộng ở thời điểm này khó mà làm gì với một
vùng như thế.
Đêm xuống, tôi cột xuồng dưới cây bần, cây mắm, căng cái nóp chống muỗi,
đói thì có bánh tét mang theo, khát thì cứ nước kinh mà uống. Lúc ở Sài Gòn
tôi nghe vài người thân quen nói là khu vực này thường có những chiến binh
bất khuất, họ trụ lại hoạt động từng nhóm hoặc lẻ loi. Ám sát, bắt đem đi
những cán binh việt cộng là chủ tịch xã, chủ tịch ấp. Tin đồn thì nhiều mà
thực tế khó đánh hơi được họ đang ở nơi nào. Tôi còn nghe đến những sĩ quan
cấp tiểu đoàn đã tan hàng sống và hoạt động bằng cách trà trộn trong vùng
dân cư hẻo lánh như vầy, họ đang đợi chờ cơ hội nắm tay khởi binh lấy lại
giang sơn.Thậm chí cả tin “Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam tư lệnh vùng 4 chưa
chết, cái xác thấy được chỉ là xác 1 cận vệ của ông”. Hằng hà sa số tin tức
về những lực lượng thoát ly sống ngoài vòng kiểm soát của việt cộng. Nhưng
họ ở đâu? Nếu có gặp chắc gì họ sẽ tin để sẵn sàng cho tôi theo họ. Làm sao
mà tin ai được trong tình trạng 1 xã hội bất ổn như vầy.
Tôi ngộ ra điều đó, tôi nghĩ hoài phương cách, nhất là những đêm một
mình đốt hơi thuốc nhìncảnh vật chung quanh, tôi quả thật cô đơn và tuyệt
vọng. 10 ngày đi theo con nước mà không thấy được gì ngoài cái mênh mông
của cỏ và lúa.Tôi trở lại Ấp Bắc lên xe về SàiGòn.
Ở ngã ba Trần Quang Khải và Trần Khắc Chân có một cái quán càfé không có
tên, tôi thường đến đó. Tại đây tôi quen biết với một nhân vật rất lạ, ông
ta không bao giờ cho tôi biết tên. Một người tốt, tôi biết là ông rất tốt
qua cảm quan của mình. Tôi gọi ông là chú Hai, ông nhỏ hơn ba tôi tới 10
tuổi. Ông thích đọc sách lúc uống càfé,đa số mà tôi thấy là tác phẩm của
Hemingway, của Boris Pasternak, nhiều nhất là Erich Maria Remarque, những
quyển sách ông đều bao bọc kín mặt bìa. Chẳng biết ông là loại người thế
nào, nhưng chắc chắn là không dính đến cộng sản. Ông kể chuyện tôi nghe,
ông là nhà kinh doanh bán những món hàng gia dụng, sau ngày sập trời, ông
bị đánh tư sản và mất hết, bây giờ ông chỉ đọc sách cho đỡ buồn. Ông nghe
tôi kể chuyện về mình, lúc đầu tôi rất dè dặt, nhưng dần dần tôi cảm nhận
được tinh thần của ông. Ông cố giúp những người trẻ, những ai chán ghét chế
độ hiện hành. Biết tôi là dân trường Luật, xa nhà, có lẽ cũng ít nhiều
thương cảm với tôi ông hay cho tiền tôi tiêu vặt. Ông nói là cứ xem như
những người có duyên trong đời giúp nhau trong cái khó hôm nay. Ông khuyên
tôi hãy tìm hiểu thật tường tận về bất cứ ai trong quan hệ, bởi bây giờ
khắp nơi, cộng sản hay trà trộn tìm cách dập tắt những nhóm nhen nhúm phản
động.
Một chiều tôi tới quán muộn hơn thường ngày, thấy cảnh xôn xao trong
quán, tôi đứng tựa cột đèn nhìn lại. Chú Hai bị 2 thằng đeo băng đỏ còng
tay dẫn đi trước quán. Hôm sau tôi trở lại, quán đã đóng cửa. Nghe những
người gần đó rầm rì bàn tán, quán càfé đó là nơi gặp mặt của những kẻ phản
động, âm mưu lật đổ chính quyền, hôm trước đã lùng bắt chục người, lấy được
truyền đơn và súng ngắn. Tôi rất buồn, thực ra tôi đang tìm cơ hội để nói
với chú Hai rằng tôi muốn tham gia bất kỳ 1 lực lượng nào ở thành phố hay
trong rừng rú, miễn là lực lượng đó chống cộng sản. Bất kể lớn hay nhỏ, bất
kể khó khăn gì, tôi thực sự muốn chú Hai giới thiệu cho tôi tham gia. Bây
giờ chú Hai bị bắt, tôi không sợ mình bị dính líu mà chỉ sợ mình không còn
cơ hội.
Mỏ Cày Bắc, thương người nằm lại:
Tôi về Tây Ninh thăm Dũng, tâm tình mấy ngày, hắn rủ tôi về Bến Tre, quê
của Hoa. Dũng và tôi tính sẽ tạm ở nhà ông ngoại Hoa rồi tìm bất kỳ một
toán quân nào đó mà đi theo. Tôi nhắm mắt đánh liều 1 chuyến đến một nơi
hoàn toàn xa lạ.Với ý nghĩ trong đầu nơi nguy hiểm nhất là nơi an toàn. Bến
Tre là ổ việt cộng, nơi đó có thể, rất có thể tìm ra 1 con đường. Phút
cuối, vợ Dũng mè nheo đòi theo cho bằng được. Dũng vô phương thuyết phục,
chúng tôi đành để cô đi. Tụi tôi trù liệu sẽ để hai cô nàng ở lại nhà ngoại
Hoa, hai thằng chúng tôi sẽ tìm cách tách ra.
Qua phà Rạch Miễu, nhìn sông Tiền nước đục một dòng khi thủy triều
xuống, tôi nao nao nhớ ngày còn đi học. Mỹ Tho với vườn hoa Lạc Hồng có dãy
khách sạn nhìn về bờ sông, những quán xá xôn xao thời 1969, lúc tôi lang
bạt về đó cùng với Nguyễn Hồng Đức, thằng bạn học cùng chung một lớp. Đức
là công tử nhà giàu, ăn chơi bạt mạng, tôi bị lây nhiễm cái bạt mạng đó.
Mới học đệ tam mà tôi với nó đã trốn học hàng tháng chơi ngông một phát,
xách xe gắn máy đi gần hết miền Nam. Sau ngày sập trời nghe đâu nó vượt
biên chẳng biết có đến bến bờ tự do được không nữa.
Hôm nay tôi trở lại Mỹ Tho, qua bên kia sông như một Kinh Kha nhưng
chẳng dám có 1 lời thề nào trên sông Dịch. Nắm tay Hoa xuống phà, đón xe
lam về Bến Tre. Tôi bắt gặp cái cô đơn vô tận trong lòng, trong 4 con người
trên cùng hành trình,riêng tôi có một ngả rẽ trong lòng mà không thể nói
ra. Tôi biết Dũng khó bứt rời cô vợ mới dù cùng một ý chí như tôi. Nếu cùng
đi với tôi hắn sẽ phải rất nhiều khó khăn khi quyết định.
Mỏ Cày Bắc của Bến Tre, như tên gọi là cực bắc của tỉnh này. Chúng tôi
phải qua nó đi miết cho tới chợ Thơm. Một vùng khỉ ho cò gáy, đồng ruộng
mênh mông hút tầm mắt. Khi chúng tôi đến nơi, vụ mùa vừa xong, trên mặt
ruộng trơ gốc rạ. Nhà ngoại Hoa nằm bên kia sông của chợ Thơm, một cây cầu
gỗ bắt ngang lỏng lẻo chỉ dành cho người đi bộ, mà cái xứ này có xe gắn máy
cũng vô ích. Đất địa gì mà chỉ một con đường sỏi đỏ nhỏ xíu dẫn vào tới chợ
là hết, chung quanh còn lại là đường đê, bờ mẫu.
Nhà ngoại của Hoa là căn nhà tranh vách đất hai gian, có một chái nhỏ
phía sau làm nhà bếp, vườn rau sau nhà rất rộng. Những luống cải xanh mướt
lá non, mấy luống rau thơm đủ loại chen nhau trên đất phân rải lớp rạ, lối
trồng tỉa rặc ri nam bộ. Cái áo nâu đã bạc màu của ông ngoại Hoa lấm tấm mồ
hôi, đó là chân dung một lão ông cần cù, đạo hạnh. Ông vất cái thùng tưới
trên lối đi, bước vội về phía cô cháu gái, nét vui mừng hiện rõ trên khuôn
mặt già nua với cặp chân mày, hàm râu bạc trắng. Ông hối chúng tôi vào nhà,
bảo Hoa bắt con gà mái tơ làm bữa chiêu đãi.
Buổi tương phùng với cô cháu của ông cùng bọn tôi tắt vội, khi đám công
an xã ập vô nhà vào sáng hôm sau. Bọn chúng bắt tôi lần lượt xuất trình căn
cước, giấy phép đi đường. Trong ví tôi làm gì có căn cước. Tháng 9 năm
1972, tôi đã nạp vào hồ sơ khi vô khóa 3/73 trường Bộ Binh Thủ Đức mất rồi,
cái giấy xuất ngũ thì thay bằng giấy hoãn dịch. Giấy phép đi đường? Tôi có
bao giờ biết tới thứ này từ sau ngày sập trời đâu?
Tên công an chỉ huy xã hất hàm hỏi khi nhìn cái thẻ sinh viên trường
Luật của tôi:
– Anh trốn học tập hả?
Đến bây giờ tôi mới thấy cái ngu của mình. Trên thẻ sinh viên, tôi đã
dùng tấm hình chụp trong thời khóa sinh Quang Trung coi như 1 kỷ niệm thời
quân trường. Ai có ngờ xảy ra cái ngày 30 tháng 4 nghiệt ngã này. Cái hình
áo lính còn đây, cả cái dây đeo thẻ bài cài trên nút áo nữa chứ, thiệt là
đại họa. Trong một tích tắc, bằng tính bén nhạy sẵn có tôi trả lời thật
bình tĩnh:
– Không, tôi là sinh viên trường Luật nên không nằm trong hàng ngũ phải
trình diện đi học tập.
– Láo khoét, hình chụp anh là lính rõ ràng như vậy mà anh nói anh không
thuộc diện phải trình diện.
– Không, đó là hình chụp khi tôi học quân sự học đường, tất cả sinh viên
chúng tôi phải đi học khóa này khi nghỉ hè trong thời gian đi học chữ.
Tôi biết rất rõ, bọn chúng mới nắm chính quyền chưa biết hết tất cả
guồng máy làm việc của nền Đệ Nhị Cộng Hòa. Nhất là những vùng nông thôn
hẻo lánh thế này bọn cán ngố rất dễ bị lừa. Tôi đánh thêm một đòn cho chắc
ăn:
– Sinh viên chúng tôi bị bọn Mỹ Ngụy bắt học căn bản quân sự, ai cũng bị
chúng lùa đi học 2 tuần sau đó mới cấp giấy này mà vào trường.
– Căn cước anh đâu?
Không cần suy nghĩ tôi trả lời rất mạch lạc:
– Khi được cấp thẻ sinh viên này, chúng tôi bị thu cái căn cước, tất cả
giấy tờ tùy thân của chúng tôi chỉ có giấy này cùng chứng chỉ hoãn dịch.
Bọn Mỹ Ngụy dùng nó để kiểm soát chúng tôi. Chúng lấy tất cả giấy tờ khác,
chỉ có thẻ sinh viên và cái giấy hoãn dịch vì lý do học vấn là làm bằng
chứng tôi không phải là lính. Đó là tấm thẻ màu vàng trên tay của ông.
Tên cán ngố lật tới lật lui cái giấy hoãn dịch:
– Anh không phải là lính, là sĩ quan nên tên thiếu tướng mới ký giấy cho
anh? Khai thật đi nhà nước sẽ khoan hồng cho anh, anh là sĩ quan, gián điệp
hay tình báo CIA?
Bỏ mẹ, hóa ra là vì ông Bùi Đình Đạm là thiếu tướng nên tôi bị nghi là
gián điệp CIA, tới cấp thiếu tướng ký giấy. Kết quả là tôi và Dũng bị bắt
đưa đi, 2 cô gái ở lại, ông ngoại Hoa cam kết cho hai cô. Nhưng tất cả giấy
tờ của chúng tôi đều bị giữ. Riêng cá nhân tôi chờ địa phương nơi cư trú
xác nhận lý lịch. Dũng bị cho là đồng bọn với tôi, cố ý giúp đỡ gián điệp.
Bất luận chúng tôi thanh minh thanh nga thế nào đều không tác dụng. Thật là
họa vô đơn chí. Hai đứa chúng tôi bị dí súng vào lưng và đưa đi trên bờ
mẫu. Qua biết bao ô vuông đồng ruộng, qua con suối, qua hai cây cầu khỉ tới
một ngôi nhà khang trang mái ngói, vách ván. Căn nhà đơn độc chung quanh
bốn bề là đồng ruộng, cách xa nhà ngoại của Hoa nhiều cây số.
Chủ nhà là cặp vợ chồng trung niên có cô con gái 5 tuổi, hắn là công an
của xã này. Chúng tôi bị giam lỏng.
– Các anh ở đây trong lúc chúng tôi điều tra lý lịch rõ ràng. Nhớ kỹ ra
khỏi hàng rào nhà này chúng tôi sẽ bắn bỏ.
3 ngày đã qua, chúng tôi chỉ tới lui trong căn nhà đó, đói thì có gạo và
thức ăn của ông ngoại Hoa gởi tới qua tay mấy tên du kích. Mọi bước đi
trong sự giám sát của tên công an chủ nhà.
Hai đứa tôi ngủ trên cái phản bằng gõ đỏ kê ở giữa nhà, chính giữa nhà
là một bàn thờ với cái hình Hồ Chí Minh trên đó. Có một cái võng căng trên
cái khung thép kê ở góc sân dưới một giàn thiên lý vào mùa kết hoa. Buổi
trưa tôi và Dũng ra đó, đứa nằm, đứa ngồi hoang mang cho tình huống của
mình, không biết bọn du kích sẽ giở trò gì. Có điều tôi biết chắc sẽ không
có cái vụ điện về địa phương làm rõ lý lịch như chúng nói. Sẽ không có thư
báo như tên chỉ huy công an hứa là sẽ thực hiện nếu sau khi cố gắng điện
thoại cho địa phương nơi tôi ở bất thành. Nơi đây là đồng ruộng mông quạnh,
nơi đây là chỗ giáp ranh giữa thế giới văn minh và thời đồ đá, đồ đồng.
Chúng tôi sẽ bị giam như kiểu nghi ngờ cho tới chết. Có thể chúng đang tìm
cách đưa tôi vào nhà giam chính thức của tỉnh Bến Tre.
Hai đứa chúng tôi quyết định chờ cơ hội để trốn thoát, nhất định phải
trốn. Cơ may đi tìm đường sống của chúng tôi đã khép lại nói chi đến chuyện
theo tàn quân.
Ngày thứ tư Dũng lên cơn sốt, cơn sốt tăng dần, nó mê man vào lúc gần
sáng. Tôi xin chủ nhà cho ít giấm vì không có chanh làm thứ giải nhiệt cho
nó, sau đó thì thằng nhỏ lạnh run. Sốt rét! Đúng là triệu chứng của sốt rét
rừng tôi từng thấy ở Tây Ninh những ngày tôi còn nhỏ. Con bệnh hết sốt, tới
rét liên lục nhiều lần trong ngày da sẽ vàng đi, gan sẽ tiêu rồi kiệt sức
và chết. Tôi chẳng làm gì được trong những trận sốt của nó, người nó như
cái lò lửa, mỗi lần như vậy tôi chỉ biết dùng giấm nuôi thứ duy nhất có
được ở đây để hạ sốt cho nó. Khi nó qua cơn lạnh thì may mắn bà chủ nhà là
dân miền nam dù có chồng là công an việt cộng vẫn có chút lòng nhân cho nó
một cái mền chống rét. Không 1 viên thuốc, không 1 liên lạc với nhà ông
ngoại Hoa. Tôi định bỏ trốn, nhưng Dũng thì sao? Tôi không thể mang nó theo
trong tình huống này, mà làm sao tôi bỏ nó lại một mình? Những toan tính
dằn vật. Không có cơ hội nào đến. Ngày thứ năm kể từ khi Dũng bệnh, tôi bắt
đầu sốt. Tôi thiếp đi trong cơn nóng hầm hập của thịt da, nhức đầu như búa
bổ, rồi lạnh run, quấn cái mền mà bà chủ mới đưa thêm tôi co quắp người,
hai hàm răng đánh vào nhau, cái lạnh trong tủy xương sống, cái lạnh trong
từng tế bào, lạnh chưa bao giờ thấy trong đời, tôi lại thiếp đi. Tôi mà làm
sao sốt rét được? Ngày lên núi tôi đã uống Chloroquine, loại đặc trị của
quân đội Mỹ, tôi từng được chủng ngừa các thứ khi vào lính. Tôi đã dùng
những thứ dược phẩm ngăn ngừa nó, thậm chí lấy nước từ suối cũng phải đun
sôi, ngủ có mùng kể cả ngủ võng. Khó có thể nói là tôi bị sốt rét, ban ngày
đi trong rừng tôi luôn thoa thuốc chống muỗi. Tôi có nhiều kinh nghiệm ngăn
ngừa thứ bệnh này, vậy mà tôi lại bị sốt rét. Hai đứa chúng tôi cùng bệnh,
không đứa nào săn sóc được đứa nào, chúng tôi cứ nằm đó trong những cơn hết
sốt tới rét.
Đã 20 ngày kể từ khi bị bắt, không một tin tức từ nhà ngoại của Hoa,
không một liên lạc nào trừ đồ tiếp tế. Dù chúng tôi đã trả lời hàng trăm
lần trong những lần bọn công an đến lấy cung, những câu hỏi cứ lập đi lập
lại:
Tôi là ai? Gián điệp? sĩ quan trốn học tập? Dũng là ai? Chung nhóm,
người dẫn đường cho gián điệp hay là một trong những tàn quân?.....
Bờ sông rất vắng, buổi chiều nghe tiếng bìm bịp kêu. Tôi và Phương Loan
ngồi trên con xuồng nhỏ đi giữa lòng kinh dẫn vào chùa Gò Kén. Chùa nằm bên
trái quốc lộ 22 đường vào tỉnh Tây Ninh. Lần trước chúng tôi đi với đám
đông bè bạn, lần này chỉ có hai đứa. Chiếc xuồng trôi đi, hai đứa hôn nhau
trên bập bềnh sóng nước đó.Rồi bỗng dưng cái xuồng lật ngang, Loan rớt
xuống,tôi vươn tay kéo nàng lên, tôi vươn tay, vươn tay, chạm phải cái gì
đó rớt xuống, không phải là mặt nước, là đất. Tôi rơi xuống cái hố thật
sâu, giật mình tỉnh lại. Tôi vừa qua cơn mê thiếp trong cơn sốt chiều.
Tôi cứ nằm yên chờ cơn lạnh sẽ tới, nó sẽ tới tức thì sau cơn sốt. Cái
lạnh tàn nhẫn cướp dần sự chống chọi của tôi, cái lạnh làm mất khả năng
kiểm soát, lạnh đâu từ trong xương tràn ra ngoài đóng băng tất cả các tế
bào, lạnh cóng hai tay, lạnh buốt xương sườn rồi từ từ dịu xuống, cả người
gần như tê liệt, cứ muốn nằm im, chỉ còn lại hơi thở khò khè của người sắp
chết. Tôi thấy bác năm tôi là trung úy Nhảy Dù Trần Ngọc Cảnh dẫn 1 đại đội
về đây, ông đi như chạy về phía căn nhà nơi tôi bị giam. Lính của ông ào ào
vừa chạy vừa bắn, việt cộng túa ra chật cả cánh đồng, những thi thể bị hất
tung lên vì lựu đạn, tôi nghe mơ hồ tiếng bác năm hét lên:
– Cứu cho bằng được thằng cháu tôi, trung đội ép sát cái nhà khốn kiếp
đó, không cho thằng nào ngóc lên được, súng cặp hông mà bắn.
Ông bác năm, bạn thân của ba tôi từ khi còn ở quân đội. Hai ông cùng tốt
nghiệp sĩ quan khóa 13 của giáo phái Cao Đài. Tôi từng thấy ba tôi và
bác chụp tấm hình với quần ngắn, áo sơ mi tay ngắn, đội kalo màu vàng, trên
tay có tập giấy như đang bước vào lớp học, cái hình đã ngả màu ố nhiều nơi,
mặt sau còn ghi “Tháng 5-1955 ở Cần Thơ”.
Tôi còn nhớ, năm tôi lên lớp đệ tứ. Bác năm trong một lần về thăm ba
tôi, đi cùng với ông là trung úy Lê Kỳ Lân, chỉ huy trưởng căn cứ Trảng Sụp
của Lực Lượng Đặc Biệt. Chú Lân là em nuôi của ba tôi, chú đẹp trai cao
lớn, thân thể như một tượng đồng trong bộ quân phục rằn ri với cây súng nhỏ
xíu mang dưới nách bằng một đai da màu đen bóng, có mấy viên đạn nhét phía
ngoài bao súng. Nghe đâu ông là người tình một thuở của Thẩm Thúy Hằng, khi
người đẹp Bình Dương đến hát và ủy lạo đơn vị của ông.
Giữa cuộc nhậu tại nhà, lúc tôi đi học về ra cúi chào hai ông. Bác năm
đã rút trong túi cho tôi cây viết Pilot 57 có khắc tên ông, chú Lân thì bảo
người cận vệ mang từ xe jeep của ông, chú cho tôi cái máy đánh chữ hiệu
Olympia. Thuở đó, học trò nhà giàu mới có cây viết Hero 303, dân con nhà
thường thường chỉ xài TaTung, loại viết có cái ống mực như ống tiêm khi vặn
cái đuôi nhựa đàng sau, nắp của nó nhìn thấy thô và to. Viết Pilot 57 là
loại hiếm thấy kể cả các giáo sư đang dạy ở trường tôi đang học vào thời
đó. Một món quà kỷ niệm mà tôi còn giữ mãi cho tới ngày sập tiệm.
Bác năm đứng đó vói tay kéo tôi ra khỏi căn nhà đã sập, hai chân tôi bị
giặc cột cứng vào thành giường, bác cố gắng lôi tôi đi, một trái đạn nổ sát
chỗ tôi và bác, tôi bị bắn ra xa, bác năm lãnh một mảnh ngay tim chết tại
chỗ. Tôi bò dậy cố lết về phía bác, máu trên ngực bác ướt đỏ, máu tràn ra
thành dòng xuống vạt áo hoa dù. Tự nhiên bác năm xa dần, xa dần rồi mất
hút. Hai tay tôi vẫn còn giơ lên khi tỉnh dậy.
Bác năm của tôi,Trung ÚyTrần Ngọc Cảnh của sư đoàn Nhảy Dù đã tử trận
vào Tết Mậu Thân 1968 khi dẫn đại đội chiếm lại một cao ốc ở Sài Gòn. Đó
mới là sự thật.
Những ngày bị giam lỏng ở đây trong những cơn sốt tôi luôn nằm mơ, những
giấc mơ trong quá khứ rất đẹp, nhưng cuối cơn mơ bao giờ cũng là cảnh trớ
trêu, đau đớn. Tôi ở đây sốt và rét từng cơn, mơ từng ngày, mơ trong cơn
sốt, mơ trong bóng tối của ruộng đồng bao la, mơ trong tuyệt vọng. Sẽ không
ai đến cứu tôi, sẽ không ai... Bọn công an cho người cáng hai đứa chúng tôi
trên võng về nhà ngoại của Hoa, sau 24 ngày giam lỏng, sau khi thấy Dũng đã
kiệt lực thoi thóp thở chờ chết và tôi chẳng hơn gì. Chúng tôi đã nằm liệt
trên giường từ ngày thứ 18. Chúng tôi đang chờ chết. Dũng nằm trên sạp tre,
thân thể mỏng như tờ giấy. Chung và Hoa cũng bị sốt từ ngày tôi và Dũng bị
dẫn đi. 4 đứa tôi đều bị bệnh, Dũng coi như nặng nhất và tôi nhẹ hơn một
chút, hai cô gái nhờ ngoại của Hoa cho uống thuốc nam nên đã cầm cự từ ngày
đó.
Sáng hôm sau, tôi cố thức dậy mò ra sau nhà, đứng tựa vách nhìn những
luống rau đã cắt còn trơ trên đất, vài bụi kim thất còn lại nằm bên đám rau
thơm. Kim thất là loại rau thân lá giống như tần ô nhưng không ngạt mùi.
Tôi hái mấy nhánh, rửa sạch đưa vào miệng nhai. Tôi nhớ hồi còn nhỏ má tôi
có nói cây này hạ nhiệt rất hay. Đến trưa, cơn sốt không dữ dằn như trước,
tôi lại nhai cây kim thất.
Dũng chết sau 2 ngày được cáng về nhà. Nó chết chắc đâu gần sáng, nó đi
âm thầm cả nhà không ai hay. Đến sáng, Chung lay nó dậy mới phát hiện nó
chỉ là cái xác cứng đơ. Bọn công an bắt phải chôn Dũng ngay lập tức. Ông
ngoại ra sau nhà rút mấy miếng ván làm vách ngăn của nhà sau với cái chuồng
heo đã bỏ không lâu rồi, làm áo quan cho nó. Cái hòm của Dũng là mấy tấm
ván mỏng đóng vội vàng sần sùi trong ngoài. Đưa nó vào áo quan với chiếc
chiếu mong quanh, mấy bộ đồ mang theo, bó chặt bằng sợi dây nylon thứ dùng
cột kiện hàng. Nắp quan tài đóng lại, đinh làm nứt 1 đường, qua khe hở nhìn
thấy xác Dũng bên trong. Đành vậy thôi, ông ngoại quyết định cứ để vậy, đâu
còn ván để thay cho nó, ông ngoại nhét mấy bao nylon vào khe nứt để đất cát
không lọt vào quan tài. Chúng tôi lết đi theo sau ra nghĩa trang tại một
ngã ba đường ngay bên lối vào nhà ngoại. Cỗ quan tài lọt thỏm trên chiếc xe
cải tiến làm bằng 2 bánh xe Honda. Đất lấp xuống đúng 10 giờ sáng, sau khi
phát hiện nó chết đúng 3 tiếng đồng hồ. Một cái chết như một tử sĩ ngoài
mặt trận, chôn vội vàng, may mà có cái áo quan. Dù sao nó cũng đang tìm
đường để làm lính,thứ lính chiến đấu sau ngày tan trận. Mộng của nó bất
thành,mộng của tôi cũng tantành trong chuyến về Bến Tre tìm đường cứu nước
thê thảm này.
Chôn Dũng xong, quay về tôi đã thấy một đám công an và du kích ngồi đợi.
Bọn chúng quyết định cấp cho chúng tôi duy nhất một giấy đi đường có tên 3
đứa còn lại, từ Bến Tre về Tây Ninh để xác nhận lý lịch cá nhân. Một giấy
xác nhận Dũng chết tại đây với sự chứng kiến và ký tên của ông ngoại cùng 3
đứa chúng tôi với thằng công an xã. Tờ chứng tử viết trên giấy học trò,
chẳng có con dấu nào làm thuốc. Tất cả tư trang đồng hồ, vàng, tiền mặt bị
giữ lại, chỉ cho mang theo lộ phí vừa đủ để đi xe. Chúng trả tôi cái thẻ
sinh viên với yêu cầu chính quyền địa phương đóng dấu và xác minh phía sau,
cái giấy động viên tại chỗ bị giữ lại. Chúng tôi có 7 ngày đi và về Bến Tre
để nhận lại tất cả khi có giấy xác nhận lý lịch cá nhân do công an tỉnhTây
Ninh đóng dấu.
Một tiếng đồng hồ sau, 3 đứa chúng tôi đón xe rời chợ Thơm dù biết đã
không cách gì để có xe tiếp tục về Sài Gòn, nói chi đi thẳng về Tây Ninh.
Chúng tôi nghỉ tại nhà anh bà con của Hoa tại thị xã Bến Tre tối đó, ngày
mai tính tiếp.
Về Tây Ninh, tôi quyết định không quay lại chợ Thơm, Mỏ Cày Bắc. Bằng
chiêu, cớ mất toàn bộ giấy tờ. Giấy này tôi làm tại công an tỉnh Tây Ninh,
trong đó liệt kê toàn bộ chứng từ cá nhân đã mất. Tôi biết, ở thời điểm đó
cái đấu đỏ của công an tỉnh có giá trị như một thứ giấy đi đường, hiệu lực
như một căn cước thật, hai cô gái cũng đã làm như vậy.
Một điều khốn nạn là tôi khám phá ra, thứ sốt rét mà chúng tôi bị không
phải sốt rét rừng mà là do nhiễm độc Dioxin. Những thùng phuy chứa Dioxin
trên đỉnh núi Bà, sau tháng 4/75 bị tụi du kích mở banh ra bỏ lăn lóc, thứ
độc hại của hóa chất này theo mưa tan trong nước suối. Nước đun sôi có
thể giết vi khuẩn, nhưng độc tố thì không. Cả mấy ngàn thanh niên ở Tây
Ninh, những ai từng lên núi Bà, từng uống nước suối như chúng tôi trong
thời gian đó đều bị nhiễm độc. Họ cũng có những triệu chứng như chúng tôi
đã bị, bệnh viện tỉnh không còn chỗ chứa. Chết vì nhiễm độc Dioxin trong
đợt đi lên núi Bà Đen đã lên con số ngàn.
Chúng tôi 4 đứa, chỉ có Dũng chết do thứ hóa chất này. May cho tôi và
hai cô gái thoát khỏi bàn tay tử thần. Chẳng biết có di chứng hay không,
tôi chẳng thuốc thang gì khi rời chợ Thơm, vậy mà cơ thể dần dần phục hồi
chứng sốt rét mất hồi nào chẳng biết.
Qua chợ Thơm thăm người chết trẻ
Về đây ngó đá xanh rêu
Mộ người năm cũ buồn hiu bên đường
Ta thân khách trọ bốn phương
Lần về bến cũ mà thương nước ròng
Về đây nơi máu tắm hồng
Ngày xưa biến loạn đau lòng từng qua
Chợ Thơm còn nợ ở ta
Những cơn sốt cháy vàng da trong cùm
Về đây thấy nhớ vô cùng
Chiều trên xứ giặc mịt mùng bóng mưa
Gươm, đàn gãy gánh thuở xưa
Sao giờ còn lại lưa thưa cỏ buồn
Ba mươi lăm năm lệ tuôn
Còn con mắt ráo ngồi thương bạn bè
Ba mươi lăm năm lắng nghe
Mầy xương trắng, tao xương che kiếp người
Và đây rượu kẻ rong chơi
Rót lưng chén khóc một đời bỏ qua
Và đây chén của sơn hà
Nửa chừng rót lỡ như là rượu đau
Mầy uống trước – tao uống sau
Uống cho người sống đang trào máu tươi
Hận tao lỡ đứng làm người
Nhìn thân phận nát giữa hồi trống khua
Về đây gió chuyển hơi mưa
Ngó mầy lụn xuống bia vừa rêu rong
Thương mầy chảy lạc nhánh sông
Chảy trong hoang lạnh cho xong một đời
Về đây ta nhớ góc trời
Mỏ Cày Bắc có một thời tóc tang
Chợ Thơm chinh chiến còn mang
Trên lưng người trẻ chết đang cố cười
(nguyễn thanh khiết – Bến Tre 2010)
(Viết cho Dũng Tây Ninh).
Tây Ninh không còn là quê hương an toàn cho tôi dung thân, biết về đâu,
đi đâu? Sau cùng tôi quyết định ở lại Sài Gòn. Tôi và thằng bạn gốc Tây
Ninh, nó học ở Văn Khoa, tụi tôi trọ ở một căn gác trên đường Nguyễn Minh
Chiếu. Tại nơi này cuộc đời tôi thay đổi, tôi gặp H. sau này là vợ tôi.
Nàng cưu mang tôi trong những ngày khó khăn cùng cực trên thành phố đã thay
tên đổi họ.
Tôi bắt đầu buôn bán ở chợ trời, thứ chợ tự phát bày dọc nhiều con đường
trong thành phố. Tôi đóng đô ở Hàm Nghi bên vách Việt Nam Thương Tín,tôi
bán thuốc tây, khách hàng của tôi đủ loại, bọn bắc quân mới về thành, ngơ
ngơ đi tìm thuốc cảm, thuốc kháng sinh hay những cô gái, quí bà đang khao
khát những loại thuốc ngừa thai, trong quan hệ với giặc để sinh tồn. Tôi
không quan tâm tới chuyện buôn bán lắm, chỉ cố bắt chuyện, làm quen với
những người mang dáng dấp của người cũ. Sự phân biệt hai loại người cũ và
mới rất dễ nhận ra, chỉ cần chú ý cung cách cư xử, âm giọng của họ và ánh
mắt khi họ nhìn một cán binh việt cộng qua đường.
H. đưa tôi về nhà,sống chung với đại gia đình của nàng ở đường Hoàng
Diệu và Đỗ Thành Nhân thuộc Quận 4. Chợ trời ở Sài Gòn trong những ngày
tháng đó thật lu bu, cái lu bu nhìn rõ trên đường phố. Việt cộng dắt xe đạp
thồ, thứ loại tải đạn trên đường Trường Sơn như từng thấy trên báo chí thời
trước, ghi đông xe được nối bằng cây đòn nhỏ kéo dài làm điểm tựa để cầm và
dắt xe đi, nồi niêu xoong chảo lỉnh kỉnh bên hông xe, khá lắm là một chiếc
mang nhãn Phượng Hoàng của Trung Cộng, dĩ nhiên đi loại xe này phải là cấp
sĩ quan. Hình ảnh giặc về làm dơ bẩn cả Sài Gòn. Chúng tôi, những người
đang kiếm sống trên vỉa hè chỉ biết chua xót nhìn nhau, thành phố đáng yêu
không còn nữa. Riêng tôi, tôi cần quái gì với nó, tôi chỉ mong sao tìm được
một lối ra, lối đi cho riêng mình. Trong cộng đồng của những kẻ đi bán chợ
trời, đa số là vợ con sĩ quan đã bị bắt đưa đi học tập hay nói đúng hơn
là những người tù của chế độ, những tay giang hồ tránh né việc truy lùng từ
nơi cư trú cũ, những người không có giấy tờ sống như kẻ ngoài vòng pháp
luật. Tôi học ở họ rất nhiều, tôi biết nhiều thứ động trời về họ. Có những
người trông rất bình thường, hiền hòa, nhưng lại là những tay chọc trời
khuấy nước, những tay làm giấy tờ giả chuyên nghiệp, những mối lái vượt
biên, những cựu binh trốn tránh. Cái cộng đồng đó là hình ảnh bi thảm sau
ngày sập trời. Chúng tôi, những cư dân này là những người bị nhà nước hiện
hữu đẩy ra vỉa hè.
Người Sài Gòn kiệt quệ. Trung tâm tiếp huyết là nơi cứu họ, bằng việc đi
bán máu mà sống, hình ảnh đau thương này mấy ai còn nhớ. Tại các tỉnh thành
đều có thứ chợ mua bán này, mỗi 1 đơn vị máu là 250cc được các bệnh viện
mua lại với giá 50 ngàn đồng vào đầu năm 1976, nhưng nếu một bệnh nhân nào
cần đến, con số sẽ bán ra là vài trăm ngàn. Thứ chợ làm xác xơ người cũ,
thứ chợ tàn nhẫn trong những ngày Sài Gòn thật sự đã chết. Tôi, vạn bất đắc
dĩ cũng là nạn nhân trong những khi không còn 1 đồng xu dính túi. Tôi bán
máu để có tiền cho vợ thai nghén, để có tiền cho một chuyến xe lửa ra Phan
Thiết. Tôi có dăm người bạn ở Phan Thiết, những bạn bè học cùng trường
Luật. Tôi muốn tìm họ với mong mỏi có thể có được hơi hướm của một đơn vị
sót lại hay ít ra họ sẽ cho tôi biết những thông tin về vùng Long Khánh,
Phương Lâm. Đặc biệt là Trừu, bạn thân của tôi, anh ấy là người gốc cây số
125 và Tân, những người có thể tin được.
Ra Phan Thiết, tôi mới biết Tân đã vượt biên, Trừu không còn ở Long
Khánh và chẳng biết về đâu, chắc chắn anh không về cây số 125, anh là lính
của An Ninh Quân Đội, thứ mà việt cộng ghét nhất.Suốt cả tuần loay hoay ở
Phan Thiết tôi buồn chết được. Ngày xưa, khi còn đi học Tân đã mấy lần đưa
tôi ra đây tắm biển. Lầu ông Hoàng vẫn đó, biển vẫn vậy mà tôi bơ vơ vô
cùng.
Cái bụng của H. to dần, sinh kế của chúng tôi khó khăn cùng cực. Tôi đưa
H. về Nhà Bè. Nghe lời nàng tôi theo ông cậu vợ sang Phước Khánh bên kia
sông Nhà Bè làm ruộng.Tôi làm hộ khẩu có địa chỉ ở đó nhưng không có nhà,
dù là một chòi tranh.Trên cánh đồng ngập nước mặn, tôi vỡ đất hoang,
cuốc bằng loại cuốc chuyên biệt cho vùng đất khai hoang này, người địa
phương gọi là cuốc ba lá.Cuốc bên trái, bên phải, một nhát phía trước, một
cái kéo mạnh để đất phèn đó lật sấp lại, đạp chân ép chung quanh cho cỏ
trên vỡ đất đó chết đi. Cuốc như vậy trên diện tích nửa mẫu đất, sau cùng
sạ những hạt lúa giống xuống và đợi ngày thu hoạch. Công việc như một thứ
kiếm cơm và do ông cậu vợ tài trợ, dĩ nhiên phải bắt ốc mò cua làm cái ăn.
Miền Nam thay đổi sổ gia đình bằng “hộ khẩu”. Trong một lần giúp cho gia
đình bên vợ làm lại bản khai tôi bị bọn du kích ngu dốt làm khó dễ, lấy cớ
là tôi không có giấy đi đường từ Phước Khánh về Lô Đất. Kết quả là tôi bị
tống giam. Vợ tôi phải chèo ghe sang Phước Khánh năn nỉ thằng xã trưởng,
hắn là tay có thiện cảm với hai chúng tôi, bởi một lý do duy nhất là trên
giấy tờ tùy thân đã khai, tôi là thằng có trình độ cao nhất xã, và hắn đang
muốn tôi làm thư ký cho xã này.
Sau một tuần trong khám đường ở Nhà bè, tôi được hắn bảo lãnh ra chỉ
bằng lời nói với tay công an quận. Thật là thứ luật pháp rừng rú.
Sau cú nằm ấp này, tôi có ý định sẽ tìm cách vượt biên khi H. sinh xong.
Nhưng số trời là thế.
Theo mùa nước nổi:
Hôm gặp Trần Chánh Thành, một ông anh bà con với vợ tôi, anh ta từ Thốt
Nốt, Hậu Giang lên thăm bà dì vợ tôi ở Phú Xuân. Cuộc đời tôi lại đi một
chặng khác.
Qua mấy lần tiếp xúc, từ tình cảm thân thuộc bên vợ, chúng tôi biết
nhau. Tôi biết anh Thành là một trong những đại diện của Phật Giáo Hòa Hảo
trong Hội Đồng Liên Tôn do Nguyễn Long Châu xây dựng. Anh Điệp, tên cúng
cơm của anh Thành, là chủ một lò ly tâm đường cát ở Thốt Nốt. Anh dùng nó
làm hậu cần cho lực lượng của anh đang đóng ở khu Đồng Bà Chiêu. Tôi mừng
lắm, chí ít ra qua anh tôi đã gặp một đơn vị. Bây giờ phải đợi vợ tôi sinh
xong mới tính tiếp.
Giữa năm 1976, tôi bỏ tất cả ruộng lúa đang chờ ngày gặt, bỏ Phước
Khánh, tôi về Thốt Nốt.
Nhà anh Thành nằm bên bờ sông Hậu, cách Ngả Ba Lộ Tẻ giáp với Long Xuyên
khoảng 2 cây số hướng về phía Cần Thơ. Căn nhà khang trang, cái lò ly tâm
đường ở một nơi khác. Vợ anh là con gái một phú hộ giàu có ở đây, anh được
các tín đồ Hòa Hảo nể nang. Phía sau nhà, qua 1 sân rộng trồng lưa thưa mấy
cụm bồ ngót, dăm liếp rau thơm là tới bờ sông Hậu. Trước mặt là quốc lộ 91,
đi từ Cần Thơ về Long Xuyên, 1 địa điểm rất thuận lợi. Anh chọn nó làm tiền
trạm và cho là chỗ gần như lộ liễu thế này sẽ là nơi an toàn,đường bộ,
đường thủy ở trước và sau nhà. Địa điểm khó mà nghi ngờ, nhất là nơi đây
thường có những khách hàng lui tới mua bán những sản phẩm của anh. Đơn vị
của anh nằm trong khu Đồng Bà Chiêu, một khu ngập nước bạt ngàn, nó là
đường thủy đi về Châu Đốc,Tri Tôn,tiếp cận được vùng Thất Sơn bí hiểm, mà
theo anh ở đó còn nhiều lực lượng rờirạc chưa thống nhất được do những bất
đồng trong cách làm việc của Hội Đồng Liên Tôn.
Qua mấy lần tiếp xúc với anh Điệp tại tiền trạm này, anh chính thức mời
tôi tham gia nhưng, vẫn nằm tại Sài Gòn làm một trạm liên lạc với các lực
lượng mà anh có quan hệ tại những hòm thư chết. Tôi không đồng ý nhưng
không thẳng thừng từ chối, tôi bảo anh cho tôi có thời gian thu xếp.Quả
thật tôi không muốn ở lại trong thành phố, những tháng ngày lặn lội vừa qua
cho tôi có 1 bài học khá chính xác, Sài Gòn dễ nhưng cực kỳ khó, bọn công
an đã xây dựng xong một bộ máy kiểm soát nhân hộ khẩu và những khu phố có
cài công an tại chỗ, tất cả mọi ngóc ngách đều được giám sát chặt chẽ.
2 tháng sau, trong một cuộc gặp tay ba, tôi, anh Điệp và anh Long, cựu
trung úy của Sư Đoàn 9 ngày trước. Anh Long phụ trách quân đội nằm trong
khu Đồng Bà Chiêu. 3 chúng tôi bàn bạc và chính thức thành lập một liên
đoàn, “Liên Đoàn A Lực Lượng Dân Quân Phục Quốc” trực thuộc Hội Đồng Liên
Tôn,có địa bàn từ Long Xuyên về Thất Sơn. Dĩ nhiên, đó chỉ là mục đích và
tham vọng của chúng tôi, tìm cách thống nhất các đơn vị lẻ loi, để xây dựng
một hàng ngũ tạm ổn định hơn trên đường chiến đấu. Việc quan trọng nhất của
chúng tôi bây giờ là phải kiện toàn đơn vị. Theo tường thuật của anh Long,
anh đang chỉ huy một nhóm 30 người chia nhau sống và trà trộn với dân trong
khu vực Đồng Bà Chiêu, đã từng đụng độ vài lần với du kích việt cộng, trên
đường từ Thất Sơn kéo về. Sự có mặt của đơn vị này nằm trong khu vực có thể
gây chú ý đối với hệ thống trinh sát của sư đoàn Tây Đô 3, một sư đoàn của
bắc quân chịu trách nhiệm từ Trà Nóc tới Long Xuyên bao phủ một vùng rộng
và Đồng Bà Chiêu nằm trong tầm kiểm soát của chúng. Nhưng anh không ngại,
vì anh có một an toàn khu rất vững. Chúng tôi có 3 vấn đề lớn:
– Việc nuôi quân là một cấp bách.
– Trải thưa đơn vị để bảo đảm an toàn, song song việc này là phải bắt
tay các nhóm còn rời rạc.
– Vấn đề vũ khí càng làm nhức đầu hơn.
Từ khi chiếm chính quyền, bọn giặc đã tiêu hủy, cô lập và đưa đi những
vũ khí thu được từ các kho lớn chứa quân trang quân dụng của VNCH. Kho Long
Bình lớn nhất miền Nam bị đốt, phá hủy, miền Tây không hơn gì, các nơi
có thể tìm ra vũ khí đều cạn kiệt. Không có vũ khí thì vô phương, không có
hậu cần lấy gì nuôi quân. Những quyên góp bí mật của Phật Giáo Hòa Hảo
không đủ giải quyết vấn nạn này, nuôi 30 con người thì dễ, nhưng càng đông
hơn thì càng khó. Không lẽ một công cuộc xây dựng lại giang san chỉ có
chừng này?
Cho tới thời điểm này, chúng tôi chưa có một trợ lực nào từ ngoại quốc.
Chưa có một chính danh để dựng cờ khởi nghĩa, chúng tôi chỉ là một nhóm ít
oi, đùm bọc nhau làm lại từ đầu. Hơn ai hết chúng tôi biết khả năng của
mình. Một triệu quân, có dân, có trường lớp huấn luyện, có tài trợ của đồng
minh, có lãnh thổ trên giang san này còn thua sạch. Chúng tôi có gì? Ngoài
dựa vào lòng yêu nước và một cụm nhỏ tín đồ của Hòa Hảo, bằng những thứ lực
yếu kém đó, chúng tôi sẽ làm được gì? Nhưng chúng tôi vẫn phải làm. Ý thức
chống cộng, sự cương quyết không chung cùng với giặc là căn bản để chúng
tôi chiến đấu, dù chiến đấu trong vô vọng.
Theo nhiệm vụ phân công, anh Thành chịu trách nhiệm tổng quát, kể cả
phần đối ngoại, liên lạc chặt chẽ với Hội Đồng Liên Tôn, cố gắng nắm cơ hội
tập trung các phe nhóm từ phía Nguyễn Long Châu và các đơn vị giáo phái
khác, kể cả bên Cao Đài và Công giáo. Anh Long chịu trách nhiệm phần quân
đội trong Đồng Bà Chiêu và các khu lân cận. Phần tôi lo về kỹ thuật, cung
cấp các thứ cần thiết cho đơn vị. Tên tuổi chính thức của Liên Đoàn A đã
bắt đầu đi vào nghị sự của Hội Đồng Liên Tôn từ đó. Chọn danh nghĩa là Liên
Đoàn, chúng tôi nhằm mục đích không nhất thiết lệ thuộc vào con số, có thể
là 50, 100 người, hay hơn nữa.
Anh Long về Đồng Bà Chiêu. Tôi và anh Điệp tính toán tìm cách kiếm tiền
nuôi quân trước nhất, song song việc này tôi phải kiếm một số vũ khí cho
đơn vị. Bởi vì, với 30 tay súng mà chúng tôi chỉ vỏn vẹn có vài cây M16,
một số lựu đạn M26, vài cây Carbine, cướp được từ những thằng du kích xã
hay ấp.
Qua Đồng Bà Chiêu
Đồng Bà Chiêu nước lên tới rốn
Đoàn quân ma, khuất dưới rừng tràm
Dăm viên đạn treo đời kháng chiến
Ta ngửa mặt cười đêm U Minh
Xưa chiến trận trùng trùng phi pháo
Một triệu quân bỏ giáp qui hàng
Cái giang sơn tan tành như thế
Sá chi thằng vác súng vô bưng
Xuồng ba lá ngửa nghiêng, nước lũ
Mây lè tè mấy dặm Thất Sơn
Trăng đâu cười, với nỗi oan khiên
Giặc lớp lớp kín đường qua núi
Ta vẫn đi dưới trời sương rũ
Lũ bạn ngày qua một thưa dần
Đêm biên giới rừng già đen thẫm
Cú vọng nhớ thành, nhớ anh em
Áo không đủ che đời sương gió
Cơm mo cau như kiếp lưu đày
Mai có chết ta nằm trên cỏ
Mở mắt chờ rửa hận hôm naycenter”
nguyễn thanh khiết
(Khi qua Đồng Bà Chiêu 1976).
Trở về Sài Gòn. Tôi nghĩ nát óc không biết sẽ bắt đầu từ đâu? Lấy gì làm
vốn để đặt cược một đời của mình. Ở quận tư tôi có quen với Võ Thành Ngang,
một trung sĩ giám lộ đã phục vụ trong một giang đoàn viễn thám của Hải Quân
VNCH, anh ta lớn hơn tôi mấy tuổi, một chiến binh can trường, ý thức chống
cộng gần như tuyệt đối và có thể tin tưởng được. Tôi hỏi anh Ngang cách tìm
kiếm ra vũ khí, anh nhận lời, mừng rỡ như bắt được vàng. Từ sau ngày tan
hàng anh đã nhiều lần giống như tôi tìm đường vô bưng.
Thời bán chợ trời tôi quen biết rất nhiều, trong đó có Năm râu, một tay
lão luyện về con dấu. Bất kỳ loại nào, trên đồng, trên gỗ, anh ta làm nhanh
như chớp và giống 99% bản gốc. Tôi đã từng cùng anh thực hiện phi vụ này
cho vài tay vượt biên, dùng con dấu của sở công an, đơn vị nhà nước làm
giấy đi đường cho mấy chục mạng, ra miền biển để lên taxi ra tàu lớn mà đi.
Tôi bàn với anh Điệp, nhân cơ hội bọn việt cộng vừa xây dựng cuộc cải
cách công thương nghiệp, tất cả nguyên vật liệu nằm trong tay những xí
nghiệp nhà nước, giá chênh lệch bên ngoài chợ đen cực lớn, một cái moteur
có giá chính thức 100 ngàn, ở chợ đen lên tới tiền triệu. Muốn có nó phải
có giấy kinh doanh, có giấy giới thiệu của đơn vị quản lý, giới thiệu cái
cửa hàng con này đến trung tâm thương nghiệp tỉnh hay thành phố để mua
nguyên vật liệu về. Nông ngư cơ là thứ hút hàng và đắt đỏ nhất. Ngoài ra,
còn có những công ty lớn đang yêu cầu nhà nước hỗ trợ để cải tạo lại xí
nghiệp, liên doanh với nhà nước.
Bây giờ việc phải làm là tôi săn tìm tất cả giấy tờ liên quan những thứ
nguyên vật liệu. Đường đi của nó từ A tới Z, bao nhiêu cái mọc đóng vào đó,
có bao nhiêu giai đoạn theo trình tự phải vượt qua.
Chuyến hàng đầu tiên trót lọt khi đi mua mấy thùng thuốc tẩy đường
Sodium Hydrosulfite, chuyến thứ hai 10 cái moteurs dùng cho lò ly tâm đường
cát trắng. Và cứ thế chúng tôi cho người bung rộng ra, mua và bán mọi thứ
có thể được. Công việc cứ thế mà làm, tôi đích thân nghiên cứu những cái
cần mua, lấy bản mẫu, các thứ mọc, thực hiện xong mang về Thốt Nốt cho anh
Điệp rải người đi mua và bán.
Về vũ khí, ngoài Võ Thành Ngang còn có bạn tôi Ngô Hữu Quyền, một sinh
viên Văn Khoa ban triết, người gốc Hoa, là người từng trải, đã tay bắt mặt
mừng lúc ở chợ trời. Quyền bị văng khỏi cái hộ khẩu không có nơi cư ngụ,
tôi từng giúp hắn làm giấy tờ giả để sinh sống ở Sài Gòn, hắn đang tìm
đường vượt biên sau những chuyến mò vô bưng bất thành. Quyền là một sinh
viên chống cộng đáng nể. Tôi ráp nối với Quyền trong tinh thần của hai
thằng quyết chí đi lấy lại quê hương. Trong giới giang hồ Quyền quen rất
rộng, từ phu xích lô đến những tay đánh bạc thâu đêm, cô gái điếm rẻ tiền
đến quí bà có tình nhân là cán cớm, một số bè bạn của anh là quan chức của
vài công ty nhà nước. Bên cạnh Quyền còn có Tài, một hiệp sĩ trẻ năng động
và khoái làm mấy vụ găng tơ như trong phim.
Lần đầu tiên, Quyền mang về cho tôi một lô cả trăm viên đạn M16 mới cáu,
chúng tôi dùng hòm thư chết là mấy thùng rác làm nơi nhận, rồi chuyển về
Thốt Nốt.
Chú Chín,em ruột của ba tôi,ông có 2 thằng con Phước và Đạt. Phước ở
rừng Tây Ninh từ sau 1975, vẫn liên lạc với chú tôi. Thằng Đạt có lần đã
dùng lưỡi liềm cắt cổ một mụ trưởng ban trong hội phụ nữ gian ác của nhà
cầm quyền. Sau đó, nó theo ông anh trốn vô rừng từ cuối năm 1975. Tụi nó
thiếu đạn, ông chú Chín nhờ tôi kiếm một ít đạn colt 45 và M16. Hôm sau,
tôi và chú Chín hẹn ra kiosque 18 đường Nguyễn Huệ, một quán càfé ngay giữa
Sài Gòn. Hai chú cháu tôi kẻ trao người nhận trót lọt. Tới năm 1977 cả hai
anh em tụi nó bị vây bắt và giam ở Tây Ninh.
Tôi và Quyền thường thay đổi điểm hẹn và không bao giờ đi chung với
nhau, nếu có việc cần thì hết sức cẩn thận với những cái đuôi theo sau, có
an toàn tuyệt đối mới gặp nhau. Chúng tôi đang dùng chiêu của địch hoạt
động trong thành phố, bài gậy ông đập lưng ông. Quyền luôn có Tài bên cạnh,
một chuyên gia giao và nhận. Có khi tháo rời một cây súng trường, đạn dược
hay lựu đạn, chất nổ. Chúng tôi phải bỏ nó vào bên trong niềng xe tải, nhét
cái ruột bên ngoài, bơm bánh căng lên làm bánh sơ cua rồi vận chuyển. Nói
chung, trong những ngày tháng nổ lực làm việc cho chính nghĩa của mình,
chúng tôi vận dụng mọi thứ có thể che mắt và qua mặt địch quân. Trong cuộc
chiến âm thầm, đi mà đích tới còn xa lắm, có thể một sơ xuất là thua trắng
tay. Bên cạnh những toan tính chu đáo đó, tôi cũng một lần ẩu tả nhớ đời.
Một ngày,tôi và vợ tôi về Thốt Nốt.Không gặp được anh Điệp, chiều xuống
hết xe, chúng tôi phải quá giang xe bộ đội việt cộng từ Long Xuyên. Trong
xách tay của H. là trái lựu đạn mini, trong thắt lưng tôi là cây Browning
6,35, vậy mà hai đứa tỉnh bơ lên xe ngồi giữa đám bộ đội. Khi xuống xe ở
ngã ba Vĩnh Long, thằng trưởng xa mở cửa tháo bửng ra, hắn buông một câu
làm tôi lạnh xương sống:
– Tới nơi rồi, đồng bào ai quá giang thì xuống đây. Nhớ có súng đạn, dao
găm làm ơn mang hết xuống dùm tui.
Kể ra vợ tôi quả là một phụ nữ can đảm có thừa, mặt nàng không hề biến
sắc.... Tôi cũng đã nhiều lần theo những hòm thư chết đi sâu vào Đồng Bà
Chiêu. Chiếc xuồng con chòng chành dưới đám rừng tràm, phía trước là căn
nhà nằm giữa ruộng. Một gia đình cắm dùi ở đây, trong số họ là một chiến
binh phục quốc đang ẩn thân. Anh Ba tiếp tôi ngoài đống rơm bên hông nhà,
anh gầy gò nhưng đôi mắt sáng quắc, tôi hỏi thăm anh về tình hình trong an
toàn khu này:
– Tụi nó cũng thường lục lọi ở đây nhưng chúng tôi đều có quan sát theo
từ xa, khó mà phát hiện, vả lại vũ khí ít khi tôi mang theo, thường chôn ở
nơi có thể lấy ngay tức thì, nếu động là tui dọt.
Đây là một trạm trong nhiều trạm mà anh Long bố trí cho anh em từ ngoài
vào an toàn khu. Thực ra, nói là “an toàn khu” thì hơi quá. Nó chỉ là một
vùng rộng, người của ta ở rải rác quanh đó trên những chiếc xuồng câu,
trong những túp lều tạm trú nắng mưa của dân đi làm ruộng. Anh Long từng là
đại đội trưởng khi ở chiến trường, anh có nhiều khả năng và kinh nghiệm
trong du kích chiến tại vùng này, dân sư đoàn 9 có khác và khu này tuyệt
đối an toàn.
Anh Thiện rất cứng, hắn là tay đi cặp với anh Long, trung sĩ 10 tuổi
lính của sư đoàn 7. Giết cán bộ cộng sản cướp súng, trốn vào an toàn khu.
Cả năm mới được anh Long nhận, Thiện ngồi với tôi trên xuồng:
– Anh mới ngoài Thốt Nốt vô hả?
Tôi cười, móc bao thuốc Vàm Cỏ mời anh:
– Ở đây tụi tui hút thuốc rê thôi, tui hút quen rồi, thứ này nhạt phèo
không khoái.
Cái áo xám tro, màu áo của tín đồ Hòa Hảo đặc thù đã rách vai, trông anh
thật nhẫn nhục, khuôn mặt chữ điền hiền hậu, nụ cười không xua tan những
cam go cùng khổ của anh làm tôi se lòng:
– Ráng lên anh Thiện, sớm muộn anh em mình cũng kéo nhau về mà.
– Càng ngày anh em mình càng kiệt quệ. Hôm trước mất 2 thằng khi tụi nó
mò về Tịnh Biên, anh Long đang đi xuống đó. Thiếu thốn thì không nói, nhưng
bệnh tật, liên lạc khó khăn làm anh em nản lòng, đã có một số chịu không
nổi bỏ về rồi. Tôi sợ, kéo dài mình sẽ không còn gì.
Câu nói chất phát của Thiện, nhìn cái đồng không mông quạnh, những cái
khó mà tôi đã nhìn thấy, lòng tôi buồn lắm, lo lắng được kìm giữ lại, tôi
nói với anh:
– Ráng đi anh Thiện, không lẽ mình thua lần nữa sao? Mọi cái phải bắt
nguồn từ sự quyết chí của mình. Ở ngoài xã hội có chút tự do, nhưng còn khó
hơn ở đây, chung quanh chúng ta đều là giặc, luôn bị lùng bắt, nhất là giấy
tờ, hộ khẩu. Anh sống ở ngoài có khi còn khổ hơn nữa.
Đêm, tôi nằm trên ổ rơm, nghe chim lạc bầy bay ngang cất tiếng kêu thảm.
Rừng tràm dày đặc, cái xuồng vô nước chỉ còn mỗi sợi dây cột vào cầu ao.
Tôi chiến đấu vì cái gì? Cuộc chiến này quả thật đơn độc và cạn kiệt
dần. Ý chí một thanh niên trước cảnh nước mất nhà tan luôn thôi thúc trong
lòng, nhưng sức người có hạn, tôi chịu đựng được, còn anh em thì sao? Họ có
như tôi không, họ có những đêm gác tay trên trán thấy mình nhỏ nhoi trước
hoàn cảnh, bất lực trước khó khăn. Đôi lúc muốn xuôi tay hay vẫy vùng một
trận, gom hết tất cả đụng độ một lần, như vậy cũng chỉ là kéo nhau tự sát.
Chúng tôi đã không còn gì, chúng tôi mất tất cả từ tháng 4 năm 1975. Chỉ
còn 1 tia hy vọng, một ngày có được giang san đã mất. Mà làm sao có được?
Làm sao lấy lại quê hương? Cái còn lại hôm nay là một ý chí chống cộng, một
chờ đợi cơ hội. Đợi 1 sự giúp đỡ nào đó lớn hơn, có tầm vóc hơn, ít ra sẽ
dẫn chúng tôi qua khúc đường nghiệt ngã này. Nếu cứ theo hoài con đường đi
không đến này, chúng tôi sẽ chết.
Ngày qua biên giới
Chỗ đó ta tựa lưng vào nỗi chết
Trên đồng hoang lau lách trổ đầy bông
Đêm lạnh lùng, đêm căng mắt, đêm đông
Giặc kín lối bốn bề không đất sống
Bò trên bãi sình tanh mùi xác chết
Cắn răng nhìn bạn nát bấy hai chân
Cuộc chơi không ngang sức, không hậu cần
Thiếu đạn, thiếu ăn, thiếu trăm ngàn thiếu
Những cái đầu tóc che không thấy mặt
Trên bộ xương khô khốc ngả nghiêng đi
Rừng tràm xanh, như nấm mộ xanh rì
Đang lấp kín dần dần đời tráng sĩ
Qua biên giới, đêm này qua biên giới
Đoàn quân còn lác đác mấy tay dao
Áo trận còn đâu, súng đạn năm nào?
Ta đi nữa, đi cho đời chảy máu
Ta đã nợ một trời quê tang tóc
Nợ gió sương khi lỡ kiếp nam nhi
Nợ bạn bè đã ném tuổi xuân thì
Trong cuộc chiến có thằng không trở lại
Qua biên giới đêm đông buồn tê tái
Hai năm rồi chưa thấy ánh đèn xưa
Hai năm rồi trời vẫn nắng vẫn mưa
Ta vẫn chưa làm gì cho chí cả
Sau lưng ta, quê hương giờ xa lạ
Giặc về thành, ta đổi chỗ vô bưng
Sẽ bao lâu mới chuốc chén rượu mừng
Thôi mặc kệ đêm này qua biên giới
nguyễn thanh khiết
(Tịnh Biên tháng 12/76)
Vỡ mộng giang hồ:
Võ Thành Ngang ở quận 4, cứ loay hoay đi đứng không yên. Anh muốn làm
chuyện lớn, một cú làm giật mình đánh tiếng cho thiên hạ. Ngang định ám sát
tay đại tá tư lệnh công an ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngang được anh Điệp
chính thức đề bạt làm trưởng nhóm tại Sài Gòn. Anh ta rất cứng trong tầm
nhìn, 8 năm quân ngũ, từng là tay giang hồ đất quận 4 ngày xưa, dưới trướng
của anh có vô số bạn bè, anh em giang hồ.
Ngang vẽ kế hoạch. Tên xếp sòng công an thành phố thường đi làm trên
chiếc xe Mercedes số automatic, hắn đi từ một biệt thự riêng ở bên kia cầu
Sài Gòn và chạy qua những con đường nhất định tới bộ tư lệnh của chúng, Sở
Công An thành phố. Muốn chơi thì phải hy sinh, một trái lựu đạn kèm khối C4
vừa đủ phá banh chiếc xe tại ngay cổng ra vào Sở Công An.Ầm một tiếng là
xong. Chỗ đó, giao lộ của Nguyễn Trãi và Nguyễn Cư Trinh, hắn sẽ đi vào
cổng đó. Chỉ cần 2 chiếc xe gắn máy là được. Xe sau sẽ chở hai, thằng ngồi
sau ném lựu đạn, xe trước lạng một đường làm giảm tốc chiếc Mercedes, trước
khi nó rẻ vào cổng. Xong, cả hai chia nhau, xe sau 360 độ về đường Nguyễn
Cư Trinh, chạy sang cầu ông Lãnh về quận tư biến vào các con hẻm, người của
mình rước ngay đầu cầu. Xe trước, đi thẳng, quẹo trái xuống Trần Hưng Đạo,
phóng sang Nguyễn Biểu, người của mình rước ở đây. Võ Thành Ngang vẽ những
con đường, những yếu tố căn bản cho tôi thấy, ngay trên tấm giấy học trò
tại nhà anh. Ngang nói:
– Im lặng quá lâu sau vụ Vinh Sơn, bây giờ phải hâm nóng lại. Dân Sài
Gòn đặc biệt là đồn. Có ít đồn to, lan rộng làm tiếng vang.
Tôi hỏi anh:
– Có liều lĩnh quá không?
– Chứ không lẽ nằm yên không cục cựa thế này, ngứa tay ngứa chân quá đi.
Yên chí, đường thoát toàn bộ nằm dọc theo kinh, cùng là tụi nó lặn sang bên
này bờ.
– Từ từ tính kỹ lại. Tui cũng đồng ý với ông là làm, nhưng chớ có vội.
Bây giờ, anh cứ theo dấu hắn thật kỹ cái đã. Chúng ta sẽ chơi, nhưng lựa
đến cận kề một ngày quan trọng nào đó, như vậy tiếng vang xa hơn. Tôi sẽ có
C4 cho anh cùng 1 trái mini còn mới cáu.
Nguyễn Long Châu sa lưới, bị bắt cả tháng trời tôi mới biết. Anh Điệp
như rắn mất đầu. Cả hệ thống phục quốc của Hòa Hảo đứng ngồi không yên. Một
cuộc bố ráp qui mô ở miền Nam đã lòi ra hàng đống mặt trận, tù rạc mỗi ngày
một đông. Những bản án âm mưu lật đổ chính quyền đã xuất hiện, dù chưa có
vụ nào chính thức trước bàn dân thiên hạ như vụ Vinh Sơn. Nhưng, cổ máy cầm
quyền đã xiết lại.
Dân Sài Gòn lại kháo nhau, như thể sắp tới rồi, kèm theo là những tin
“Tư lệnh Hải Quân VNCH đã xâm nhập ở biển Cà Mau”. “Đại tá Lê Quang Lưỡng,
con báo của nhảy dù đổ bộ trên KonTum”. Thậm chí họ còn rỉ tai nhau là
“toàn miền Nam đang may cờ vàng ba sọc đỏ chờ rước đoàn quân phục quốc”,
“Thấy chưa các mặt trận đang lộ diện làm áp lực cho chính quyền phải trả
lại miền Nam”. Động trời hơn nữa là có tin đài BBC vừa công bố. “Thành phần
nội các lưu vong đang thúc ép đồng minh nối lại hiệp định Paris” và tá lả
những tin gây xôn xao một dạo.
Ở Đồng Bà Chiêu, Tịnh Biên, Châu Đốc, tất cả hoàn toàn tê liệt. Tiền
trạm của anh Điệp tức xếp Trần Chánh Thành của Liên Đoàn A Lực Lượng Dân
Quân Phục Quốc, co lại một chỗ, lệnh án binh bất động tới tất cả anh em.
Tôi trở lại quận tư, lang thang cùng khắp nơi với cái giấy đi đường của hộ
khẩu gốc bên Phước Khánh – Đồng Nai, dù không có nhà, nhưng xã Phước Khánh
vẫn hoan hỉ đổi giấy đi đường cho tôi về quận tư nuôi vợ ốm. Cái giấy phép
ba tháng một.
Tôi không thua vì lộ từ những người anh em chiến đấu của mình. Tôi thua
vì một chuyện tào lao, 1 thằng cha không ra ôn binh chi trong quan hệ hàng
xóm.
Ngày 17/10/1977, sáng sớm, tôi ra cái quán đầu hẻm uống café như thường
lệ, đến khi quay vào, tôi biến sắc, trước sau trái phải, công an đứng chật
cả khu phố, tên trưởng công an quận tư dẫn đầu. Hắn chĩa súng vào tôi, khi
tôi sắp quẹo sang con hẻm khác:
– Anh Khiết, đứng yên, nhúc nhích tôi bắn bỏ.
4 thằng cớm kẹ nhào tới thúc ké tôi lại, móc còng vào tay tôi. Chúng đọc
lệnh bắt, khám xét căn nhà nơi tôi ở. Dân quận tư tràn kín các con hẻm vào
nhà vợ tôi. Lũ công an lục từng hóc kẹt, gõ từng viên gạch, cuộc khám xét
từ 7 giờ sáng tới 11 giờ trưa. Chúng lôi ra một lô súng đạn mà tôi cất
giấu: Súng trường đã tháo rời, súng ngắn, Browning 9 ly, đạn đầu bằng,
xuyên phá, đạn dược các loại, ống nhắm hồng ngoại tuyến v..v... một đống
mọc các loại từ bộ tư lệnh quân đội nhân dân thành phố đến các sở công an,
các quận, nhiều đơn vị biệt lập. Một số ấn bản làm truyền đơn kêu gọi chống
cộng chưa kịp chuyển đi. Bọn việt cộng chất đầy thùng xe bán tải. Chúng bắt
tôi đứng trước nhà, trước chiếc xe chụp hàng tá tấm hình. Tôi bị bắt, tôi
chính thức sa lưới trong tiếng xì xào của người dân trong khu phố:
– Trời! thằng này là học trò mà. Ai có dè có cả súng ống, đạn dược cả xe
thế này. Chắc là phản động lật đổ chính quyền có tổ chức.
Cho tới khi bị còng tay, tôi rất tỉnh. Biết là vô phương tẩu thoát trước
hàng trăm tay súng lăm lăm từ 4 hướng. Tôi nhếch môi cười khi bị đẩy lên
xe, như một nụ cười trấn an đồng bào đang âm thầm tiễn tôi vào ngục. H.
không hốt hoảng, nàng bế đứa con gái 10 tháng tuổi, đứng trước cửa nhà nhìn
tôi, mấy đứa em vợ thập thò nhìn theo bên trong cửa sổ. Xe lăn bánh, chúng
đưa tôi về công an quận tư.
Cú bắt tôi, cùng 1 lúc với Võ Thành Ngang tại góc Xóm Chiếu,Đỗ Thành
Nhân, Ngô Hữu Quyền thì sau đó. Khi 2 thằng gặp nhau ở trại Z30D, tôi mới
biết, hắn bị vây trên đường qua cư xá ngân hàng, 1 tuần sau khi tôi sa
lưới. Duy có Ngang là tôi chưa gặp lại, nghe đâu hắn cũng bị đày lên Z30D ở
phân trại B và đã vượt ngục.
Cuộc vây bắt tôi được thông tin rộng rãi, chúng dán nguyên tờ báo Sài
Gòn Giải Phóng có hình của tôi chần dần trên trang nhất, vào những bản tin
của quận, trên đường Hoàng Diệu, trước công an quận, bản tin lưu giữ hàng
tháng trời. Đối với bọn chúng, vụ của tôi là vụ ì xèo thứ nhì sau vụ Vinh
Sơn. Xui một cái, gia đình tôi trong cơn hoảng loạn và bị giam lỏng, không
ai lưu giữ một bài báo nào cho tôi làm kỷ niệm thời chiến đấu chống cộng
của mình. Tôi tiếc hùi hụi.
Khi ở tù, có lắm lúc tôi nhớ Ngang, nhớ cái hy vọng gây tiếng vang chưa
thành tựu. Nhớ Quyền, cái tướng cao to, đầy nhiệt quyết, phải chi tôi để
hắn vượt biên như hắn muốn. Nhớ Tài cũng bị chung với Quyền, nó còn trẻ
quá, tội nghiệp. Trong số người tôi quen, có một tay ở gần nhà vợ tôi. Hắn
là một thầy Lỗ Ban, tôi không biết rõ tên hắn, dân trong khu vực gọi hắn là
thầy Tám.
Có một ngày, tôi đi chợ mua con cá đuối về nấu canh chua, do sơ ý tôi bị
đứt một vết nhỏ ở ngón tay cái, cái đuôi quái ác của con cá chạm vào vết
đứt, mấy giờ sau ngón tay sưng lên đau nhức vô cùng. 2 ngày sau nữa, dù đút
ngón tay vào túi mật heo như người ta đã chỉ dẫn, ngón tay vẫn sưng to và
đau thấu xương. Tôi nghe người trong xóm chỉ thầy Tám, tôi tới nhờ ông hô
biến một cái, bằng một cây nhang quơ quơ trên ngón tay đang sưng to, mấy
phút sau là cơn đau lắng xuống. Hôm sau tôi tới thầy Tám làm phép lần
nữa là hết hẳn, ngón tay xẹp xuống một cách kỳ diệu. Người ta gọi đó là
khoán bùa. Tôi quen anh Tám từ đó, anh còn là dân thợ mộc, thỉnh thoảng tôi
cũng mượn đồ mộc của anh về, nói là đục đẽo sửa mấy cái ghế chi đó, thực tế
là tôi đang làm lại mấy cái báng súng gãy. Đâu có ngờ, sau này tôi mới biết
thầy Tám là tổ sư công an chìm của quận tư trong dáng dấp một dân lao động
và là thầy lỗ ban. Hắn theo dõi tôi từ đó, chắc là vậy. Dĩ nhiên ở quận này
tôi quen biết ai, Thầy Tám biết tỏng tòng tong. Tôi nhận ra cái sai lầm
chết người của mình khi tôi bị còng tay tại nhà. Vô tình ngó sang những
người hiếu kỳ đứng xem ở con hẻm đối diện, tôi thấy thầy Tám đang to nhỏ
với thằng trưởng công an phường, hắn đứng đó quan sát suốt thời gian bọn
công an khám xét nhà, cho tới khi tôi bị áp giải lên xe. Phải chi tôi đừng
quay lại Sài Gòn vào tháng 10 năm 1977. Phải chi tôi đừng đứt tay vì một
con cá đuối. Phải chi tôi không quen thầy Tám để hắn biết mà theo dấu tôi.
Phải chi thằng lấy cung tôi ở trại T20 trung tá Tạ Đức Trung đừng nói với
tôi về thầy Tám là 1 cán bộ nằm vùng ở Sài Gòn trước năm 1975 và tiếp tục
công việc tận trung với đảng mãi sau này. Hắn là chìa khóa làm lộ tung
tích của tôi. Tôi không tiếc nuối chút nào, không ân hận gì. Tôi cũng không
vỗ ngực cho rằng tôi đã có một thời chiến đấu cho cái giang san tả tơi này.
Dù sao tôi đã sống đúng cái tuổi trẻ của tôi. Một tuổi trẻ ngạo nghễ, một
đời không sống chung với cộng sản, tôi đã hiên ngang đi hết đỗi đường riêng
của mình, cho dù đó là con đường đi không đến. Cho dù, tôi chẳng làm gì cho
ra hồn, nhưng ít ra, tôi có chút hãnh diện là mình đã sống đúng, đúng với
cái chất liệu bạt mạng của tôi, đúng cái suy nghĩ của một con người. Người
tuổi trẻ đã đạp trên gông xiềng và nô lệ.
Tôi cầm chắc với những tang vật mà bọn công an thu được, cái án chung
thân là nhẹ nhất, có thể sẽ tử hình. Chết là cùng, tôi nghĩ vậy. Nhưng còn
anh Điệp, khu Đồng Bà Chiêu làm sao thoát được.
Ngang thua một lượt với tôi, hôm bị đưa đi lấy cung tại quân 4, tôi thấy
Ngang bị còng tay ngồi ở phòng bên.
2 tuần sau khi lên trại T20, trại giam Phan Đăng Lưu, tôi lại thấy Quyền
đi làm việc từ biệt giam. Vậy là những mắc xích đầu tiên, bọn công an đã
nắm gọn. Bây giờ tính sao? Kéo dài thời gian là phương pháp duy nhất có thể
cứu vãn tình thế nhưng bằng cách nào.Muốn chúng tạm tin thì phải nhận trước
những câu hỏi không thể từ chối được. Tôi làm việc với ai? Từng liên lạc,
gặp gỡ những ai? Chỉ có tôi là điểm cuối cùng đối với những người bị bắt
chung. Không ai biết về Thốt Nốt, về anh Trần Chánh Thành, về Hội Đồng Liên
Tôn. Tất cả chỉ nghe và biết qua văn bản. Thứ văn bản xác nhận làm niềm tin
cho Ngang và Quyền rằng đó là một lực lượng có thật và chính danh để hoạt
động. Nhưng, đối với cả hai, tôi là điểm cuối cùng trong mắc xích của toàn
bộ lực lượng. Chỉ khi nào tôi thua thì anh Thành và anh em còn lại mới
thua. Làm sao để cắt ngang chỗ này. Tôi phải nhận và nhận tất cả, mà phải
bằng mọi cách để đến tôi là kết thúc. Tôi không sợ bị tra tấn, tôi không sợ
bị kìm kẹp, tôi chỉ lo cho những đồng đội còn lại, phải cứu những người
chưa bị sa lưới. Tôi nhận mình chỉ liên lạc qua những hòm thư lưu động, một
liên lạc viên của Hội Đồng Liên Tôn, một nhân vật ảo do tôi vẽ ra.
Đòn này làm bọn công an tin là tôi nói thật, lý lẽ duy nhất là, một việc
lớn lao như vậy làm sao tôi có thể tiếp xúc được những người cấp cao hơn
được, họ chỉ sai liên lạc viên và tôi chỉ biết có ông ta. Bọn công an đã
đưa tôi đi lòng vòng Sài Gòn cả hơn tuần lễ tới những điểm hẹn do tôi vẽ
ra, kể cả hình dáng của người liên lạc với tôi. Đám mọc hả? Đồ chợ trời
làm xong trả tiền công, mạnh ai nấy biến, súng đạn thì mua chui, từ công an
nào đó, một tên ba ke thiếu tiền xài ăn cắp đồ quân đội, đâu có để lại dấu
vết, mua bán xong mạnh thằng nào nấy đi. Tôi cứ một lời khai mọi cái súng
đan, in ấn, chỉ qua hòm thư. Dứt khoát tôi tìm mọi cách sao cho mình là cái
gạch cắt ngang toàn bộ. Muốn chúng tin hay tạm tin là một điều không dễ,
tôi phải thuộc lòng tất cả những gì mình từng khai, sắp xếp theo một trình
tự như thật. Tôi luôn phải nhớ trong đầu rất bình tỉnh, thật cẩn thận phân
tích câu hỏi, không trả lời dù có một chút khác biệt nhỏ nhất trong một vấn
đề. Cuộc điều tra nhiều tháng, chuyển qua nhiều lần biệt giam. Sau cùng,
bọn chúng kết cung. Tôi bị đưa đi tù với tội danh Phản Động và án phạt Tập
Trung Cải Tạo. Tên chấp pháp Tạ Đức Trung nói với tôi:
– Đúng ra chúng tôi đưa anh ra toàn án nhân dân. Chắc chắn anh sẽ nhận
mức án thấp nhất là chung thân. Nhưng thấy anh còn trẻ chưa có ý thức cách
mạng, thay mặt cho đảng, chúng tôi khoan hồng cho anh một con đường sống để
anh có cơ hội ăn năn, chuộc lỗi với nhà nước và kết cung anh bằng mức án
Tập Trung Cải Tạo, can tội Phản Động.
Hơn ai hết tôi biết rõ cái án tập trung. Đối với cộng sản nó là án chế
độ. Còn chế độ là còn ở tù. Nó là mức án dưới tử hình nhưng trên chung
thân,không hề có chuyện giảm án. Tội Phản Động thì khỏi nói, nó sẽ đi theo
tôi tới khi nhắm mắt, nếu tôi vẫn còn sống trong xã hội cộng sản. Quan
trọng nhất theo đánh giá của tôi. Cho tới thời điểm đó có quá nhiều anh em
từ các lực lượng nổi dậy, quá nhiều tổ chức đồng loạt dấy lên, trong đó có
những tổ chức do công an dàn dựng để thanh niên miền Nam, những ai có tinh
thần chống cộng sa lưới. Cho nên hồ sơ án tiết của tôi chắc chúng nghĩ cùng
lắm thì giống như đám đông từ các mặt trận đã sa lưới. Do đó chúng không
đào tận gốc, bới tận ngọn theo cách của cộng sản. Cơ may này làm tôi thoát
ra khỏi án tử hình.
Những chuyến đi quên về:
1- Rừng đã phai chưa:
Mùa hè, những đụn cát bỗng nhiên nóng hơn, dưới cái nắng tháng tư theo
những cơn gió thỉnh thoảng thổi qua khe lá.Đất Bình Thuận quả không thương
người, không thương những đứa con da vàng đang giẫy chết trong Rừng Lá. Mưa
không về, con Suối Lạnh tang thương phơi những lớp đá cuội dưới đáy, từng
tảng rong rêu màu đỏ gạch nổi lều bều trên mặt nước. Con suối chạy ngang
qua một thung lũng hẹp dẫn vào trại giam, nơi mà hàng ngàn tù nhân đang
chết dở vì thiếu nước.
Buổi chiều, dưới cái nóng như lò lửa sau một ngày chật vật với đám lồ ô.
Cắt, cưa, đục đẽo, để dựng lên một căn nhà mới nằm bên lộ chính dẫn vào
trại.
Khu A của trại giam Z30D, thuộc địa bàn Bình Thuận, Hàm Tân. Căn nhà có
cái tên rất tội nghiệp “Nhà hạnh phúc” đó là nơi thân nhân của những
người tù ở khu A làm nơi thăm nuôi, gặp mặt. “Thăm nuôi”, một danh động
từ tàn nhẫn xuất hiện trong tự điển Việt sau ngày tan hàng, sau ngày mất
nước hay đau đớn hơn là sau ngày 1 quân đội có tiếng kiêu hùng ở Đông Nam Á
đầu hàng vô điều kiện trước 1 đội binh tạp nhạp,nón tai bèo, súng AK, dép
râu, đã chính thức vào “giải phóng Sài Gòn” cuối tháng Tư năm 1975. Chúng
tôi, 28 con người xây dựng nó, “Nhà hạnh phúc”. Cái công việc phải làm
cho có đó, phải làm cho xong đó, kéo dài dưới cái nóng trời mùa hạ của Hàm
Tân. 28 con người là 1 đơn vị, cùng một lúc hàng chục đơn vị có tổng số
ngang nhau ùa xuống con suối. Trong một tích tắc dòng chảy đã biến một màu
đất bùn, cáu cợn, nó không là con suối nữa mà là một vũng như từng thấy ở
miền quê “vũng trâu nằm”, nó tệ hơn cái vũng trâu đó một chút, nó không có
chiều sâu, có chỗ chỉ một gang tay, hay độ cao mặt nước bùn chỉ bằng cái
lon Guigoz móp méo đang cố gắng chắt lọc may ra có ít nước chảy vào. Đó là
một trong những buổi chiều đi tắm suối, theo đúng qui định của trại “được
tắm rửa sau giờ lao động”.
Con suối Lạnh ngoằn ngoèo ở đoạn này, nhờ trời nó quanh co đi qua những
chòm cây nhỏ. Cho nên đội nữ, gồm một số tù nhân chính trị và biệt đội
Thiên Nga ở nhà 7 khu A, có cái chỗ để mà che cái nõn nà bị bầm dập trong
điều kiện sinh hoạt thê thảm này. Nếu không, dưới trời lồng lộng có khi làm
đau cho phận đàn bà. Có lẽ thượng đế trên cao đã dự trù cho cái tai ương sẽ
xảy ra nơi này vào những năm 1978 tại Rừng Lá, Hàm Tân, nên cho mọc lên
những chòm cây thấp, bụi cỏ cao để che người, che tấm thân lõa lồ, mới có 2
năm sau ngày thua trận đã tàn phai quá đỗi. Không có ưu tiên nào cho việc
đi tắm, không có chọn lựa, đội nào về trước, tắm trước. Hôm nào cùng một
lúc tất cả các đội cùng gặp nhau bên bờ suối là thê thảm. Dĩ nhiên, thê
thảm nhất cho đội ở sau cùng của dòng chảy. Nước, mà không, cái sền sệt đó
không thể gọi là nước được, nó là triệu thứ cặn bã dồn về, mụn ghẻ, cáu
ghét, mồ hôi, thậm chí những chất thải trong chu kỳ kinh nguyệt của các bà
trong 40 nhân số của đội nữ, cộng thêm mấy cán ngố nữ chuyên trông coi đội
này, đã làm đặc quánh nguồn chảy, chưa nói đến những cuộc băng tròn nhỏ như
ngón tay làm bằng quần áo xé ra, khăn cũ....v...v... Đã ít nhất một lần đặt
vào cái nơi kín đáo của cô hai, cô ba nào đó, nó lờ mờ quyện trong cái gọi
là dòng nước. Thiệt tội cho những con người đã đi đến tận cùng của đời sống
khi nước mất nhà tan.
Ở đâu cũng vậy, người ta nói: Giàu nhà kho, no nhà bếp. Một khoảng suối
rộng nằm trên đầu nguồn, ngang khu vực nhà bếp là khu chỉ dành cho đội nhà
bếp và là nơi lấy nước uống cho toàn trại. Thường đội này là thành phần
chọn lựa từ những người được mô tả là học tập tốt, hay những cán bộ thoái h
óa bị giam giữ, nó được cộng thêm đội lâm sản là những lao động tự giác,
lên rừng đốn củi, đi làm không có vệ binh (những tên vác súng dài) theo sau
canh giữ.
Vào những năm 1977-1980, trại này, đội lâm sản là đám hình sự phạm. Về
sau, nghe nói khi những quân nhân trình diện để được đi học tập từ miền Bắc
về, họ đã thay cho lực lượng lao động ưu tiên này.
Hàm Tân là khu vực được mô tả có các trại giam liên tiếp nhau. Từ Xuân
Lộc là Z30A, Z30C, Z30D. Thời đó con số Z30 khởi đầu của tên gọi chưa được
nhận biết đầy đủ lắm. Sau này, qua những lần thay đổi của cục quản lý trại
giam, mới biết nó là những trại trực thuộc Bộ Nội Vụ. Ngày nay nó thuộc Bộ
Công An, mang tên cục V26 và tên trại là Thủ Đức, dĩ nhiên nó đã được nhân
rộng ra và qua biết bao lần tái xây dựng từ những mái lá của cây buông trở
thành gạch ngói, tường vôi, hoa hòe, hoa sói.
Đêm trở lạnh của mùa đông, cái lạnh se se giữa núi rừng Trường Sơn, làm
dấy lên những tiếng than của đám người đang sống trong địa ngục. Tiếng con
mang lạc loài vẳng từ rất xa nghe buồn chết được. Gió gào qua lớp rừng lá
buông, len lỏi về trên mái lá trại giam nghe rờn rợn u linh như tiếng nỉ
non của một bầy quỉ dữ, đang gươm giáo diễn hành trong đêm trần gian, đến
tận cùng hang hóc của địa cầu, hăm dọa linh hồn người sắp chết.
Khu A có 4 dãy nhà theo hàng dọc, trên đường chính vào trại khi qua khỏi
khu trung tâm của trại (nơi này, quản lý các phân trại B, C, D, những phân
trại này nằm xa trên con đường ngoằn ngoèo ở dãy núi sau trại). Sau lưng
cái dãy dọc này là một khối 4 dãy nhà ngang, phía trước có một sân rộng
để tập hợp và thường dùng làm sân bóng chuyền. Giữa hai khu đều có hàng rào
bốn phía đan chéo nhau bằng cây lồ ô, một thứ giống tre, nhưng lóng dài và
thẳng hơn. Băng qua một lối thật rộng là bếp trại, sau lưng nó là giao
thông hào với nhiều lớp thép gai cao 5m.
Phải nói là tôi rất may mắn, những năm trong tù, qua mấy trại giam, tôi
gặp được rất nhiều bậc tiền bối kèm cặp cho tôi trụ được trong những ngày
tháng trên gông xiềng. Bên cạnh đó cũng hàng hà sa số những cái làm tôi mất
đi ít nhiều nhiệt tâm của tuổi trẻ. 23 tuổi, tôi trẻ măng trong hàng ngũ
đứng trên sân trại giam, lao động khổ sai. Tôi đi tù vì cái nhiệt huyết của
tuổi trẻ. Tôi đi tù vì cố đi lấy lại quê hương. Tôi đi tù vì đã bước trên
con đường chông gai mà mình dư biết khó mà đến đích. Khi bị ném vào cái lò
sát sinh này, tôi không chút gì sợ hãi và nuối tiếc chút nào.
Hồi ở trại tạm giam T20, Thành Gia Định, Thượng tọa Thích Thiện Huê dạy
tôi ngồi vận khí để giữ sức khỏe
và tập nhẫn nhịn trong im lặng. Bài tập đó được thực hành suốt thời gian
ở biệt giam trong giai đoạn bị lấy cung. Cũng hay, tính nông nỗi của tôi có
phần giảm bớt. Tôi tiếp tục tập nó trong những ngày ở các trại lao động,
tôi dùng nó để nhìn lại từng ngóc ngách của đời mình trong đêm vắng. Ban
đầu những chia ly với những người đồng cảnh làm tôi bịn rịn. Từng khuôn mặt
Trần Duy Cát, Đào Văn Thương, Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Phú Hải... cứ lởn
vởn trong đầu hàng tháng trời khi tôi đặt chân lên trại Z30D. Con đường dài
tù tội dạy cho tôi bài học phải dứt khoát những tình cảm vụn vặt đó. Tôi
trưởng thành hơn, chịu đựng hơn. Tôi ngạo nghễ hơn trước những khó khăn mà
mình gặp phải.
Tù, một xã hội thu gọn, đầy bất công. Cái kiểu lớn hiếp nhỏ, giàu khinh
nghèo vẫn có đủ tính chất khốn nạn của nó. Nó càng rõ nét hơn nữa khi đối
diện với kẻ thù. Có khi người ta sẵn sàng bán đứng nhau vì lợi ích cho một
lần được viết thư về gia đình. Có lúc người ta bán cả danh dự đời mình vì
cái chuyện không chịu đựng nổi khó khăn. Đói khát là căn bản cho những tội
lỗi này.
Hàm Tân Z30D, chỉ cách Sài Gòn hơn 100 cây số. Tiếp tế từ gia đình cho
các tù nhân ở đây có vẻ dễ dàng hơn. Nhưng, những năm 77-80, cả nước rớt
trong tình trạng cùng cực, người ta không có cái ăn, thì trong tù càng thê
thảm hơn. Đói làm mờ mắt, đói làm tù nhân lê lết đi lao động. Thời ăn bo
bo, gia đình nào khá giả thì còn cố tằn tiện, dành để từng chút cho thân
nhân của mình đang chết đói trong trại giam. Có người được gọi tên nghỉ đi
làm, ở trong trại chờ gặp gia đình. Khi trở vào cầm trên tay cái túi con
con, chứa mỗi kilo đường tán, vài viên kẹo, một ít thuốc cảm. Hắn ôm mặt
khóc ròng, không phải hắn thương cho phận nghèo của hắn mà thương cho vợ
con mình đã đôn đáo chạy ăn ngoài đời, còn phải cưu mang mình, 1 thằng tù
ngày về không thấy. Những giọt nước mắt khóc cho thân phận kẻ bại trận,
những giọt nước mắt có lẽ ngàn sau phải nhớ.
Trại tù cũng có 2 giai cấp thống trị và bị trị như xã hội bên ngoài. Sự
đối kháng giữa 2 giai cấp này là nguyên nhân của gông cùm, xiềng xích.
Đương nhiên là cai tù lúc nào cũng chuẩn bị những nhục hình, có điều thứ
nhục hình mà cộng sản đã dùng trong các trại tù thời bấy giờ là một chính
sách, dựa trên những công cụ thống nhất từ trại trung ương đến địa phương.
2- Bầy Thiên Nga trong khu rừng hoạn nạn:
Phân trại A, Z30D thời tôi có mặt, gồm 12 đội toàn là dân chính trị
phạm, có án tập trung cải tạo, nghĩa là những tù nhân không bị truy tố ra
tòa, có 2 đội hình sự, 1 đội lâm sản, 1 làm tạp dịch chokhu cơ quan, 1
đội nữ, 40 mạng, trong đó hơn 1 nửa là Cảnh Sát Đặc Nhiệm Thiên Nga, xếp
sòng là thiếu tá Nguyễn Thanh Thủy, nửa còn lại là các chị em chính trị bị
bắt sau 1975. Những chính trị phạm này đều có án tập trung cải tạo, đa số
còn rất trẻ thường không quá 25, trong số đó nhiều nhất xuất thân gốc Văn
Khoa và Luật Khoa. Cho đến cuối năm 1979, khi đội nữ chuyển đi trại khác
mới có quân đội trình diện về đây, đa số các anh này từ các trại ở Phước
Long. Các tù nhân chỉ đi lao động chung quanh phân trại. Hàm Tân là loại
liên trại không có diện tích lớn cho từng trại, chúng xếp dài dọc theo Quốc
lộ 1 thuộc khu vực Bình Thuận. Nằm sát núi Mây Tàu nên tù nhân không đi làm
xa. Lúc tôi ở đây rừng lá buông bạt ngàn, những cánh rừng cây lồ ô,chằng
chịt tới tận chân núi. Tất cả xây dựng trại đều dựa vào 2 nguyên vật liệu
này, lá buông làm mái lợp, phần còn lại là lồ ô từ sạp nằm, đến cột, kèo
đều rặc ri lồ ô. Hình như với địa lý đó nên các tù nhân ai cũng học được
cái nghề đan lát nhất là đội nữ, tôi thấy cả cái nón lá được phân phát cũng
chèn thêm hay trang trí bằng lồ ô chẻ, chuốt mỏng, cái giỏ đựng đồ cá nhân
quí bà, quí cô cũng tự đan. Những ngày thăm nuôi thì các món tự làm này
được mang ra tặng lại cho người nhà làm kỷ niệm thời đi đày. Lẽ dĩ nhiên để
làm ra những sản phẩm như vậy, phải nhiều công phu, tiêu tốn nhiều thời
gian, tránh né đám cai tù và lũ trật tự, lúc nào cũng rình rập với mỗi một
lý do:
Không được làm chuyện riêng tư ảnh hưởng đến thời gian học tập. Coi, có
chết không? Một qui định tào lao quá mức. Xét ra đi tiêu, đi tiểu, thay
băng vệ sinh.. toàn mấy chuyện riêng tư, đầy tính lý cá nhân mà cũng tính
luôn vào “thời gian học tập”? Nội cái việc chuyển những món hand made này
ra khỏi cổng trại cũng đâu đơn giản, phải lót đường cho đám trật tự. Khi ra
đi thăm gia đình, đương sự tù nhân bị xét rất kỷ, sờ mó toàn thân, đó là
theo qui định. Nhưng chỗ nào có qui định đều có trừ lệ của nó. Thậm chí có
khi phải mượn tay thằng trật tự mang ra cho gia đình, hay mang qua khỏi cái
cổng chết bầm của khu trại.Về khoản này các kiều nữ xem ra có lợi thế
hơn,lý do là trật tự toàn đực rựa vì thế chuyện sờ mó chi li sẽ không quá
mức lúc kiểm tra ra cổng.
20 đội nam, khi khổng khi không phải ở chung với 40 quí bà, quí cô, tùy
theo lứa tuổi, ai ai cũng mặn mà, vẫn còn đâu đó kiểu dáng của môi son, má
phấn hết thì làm sao không sinh chuyện. Với hiện trạng đó, chuyện gởi một
chút tình từ bên đội nam sang đội nữ nhất là những người trẻ là điều không
tránh khỏi.Dĩ nhiên các cán ngố biết điều này, không ít lệnh lạc được công
bố liên quan đến cái vụ nam nữ trong trại. Thậm chí khi tập hợp đi làm, tất
cả ngồi xếp hàng trên sân theo đội hình, dù cái sân chà bá có thể chứa thêm
vài chục đội nữa, nhưng đội nữ của nhà 7 chỉ xếp hàng tập hợp ngay trước
cổng nhà, cách xa đám đực rựa 10m. Ngăn cấm tiếp xúc, dùng đủ mọi biện pháp
rồi đâu cũng vào đấy.
Đội nữ thì có cán nữ phụ trách, tuy vậy những gã ba ke, mới thò chân vào
Nam cũng thèm rỏ dãi, khi thấy nhan sắc con gái Nam kỳ cho dù có bị tàn
phai đôi chút, nhưng cũng trên trời dưới đất so với răng hô mã tấu của Bắc
kỳ. Nhưng làm sao có cửa cho đám cán. Bên cạnh các nàng là những tay coi
trời bằng vung, nếu không đẹp trai ra phết thì tinh thần chống cộng cũng
hợp nhãn với nhau theo đúng tình lý của “những con tương cận” có từ ngàn
xưa.
Mỗi ngày đi tắm suối một lần theo qui định, đội nữ luôn được ưu tiên, kể
cả trong lao động, các nàng là đội chuyên làm việc nhẹ so với đội nam. Khi
quí bà, quí cô tắm giặt thì nhiệm vụ của các cán nữ phải dọn bãi, đề phòng
mấy cán ngố rình rập theo cái kiểu chiêm ngưỡng giữa rừng, có lẽ đã từng có
những chuyện này xảy ra, nên khi tôi tới đây, chuyện dọn bãi cho các kiều
nữ tắm giặt hình như khá an toàn hơn.Đám tù nam phải tắm dưới nguồn và cách
xa xa một chút, đó là qui định “an toàn lao động”, hình như qui định này
chỉ xảy ra ở mỗi cái trại Z30D mà tôi biết khi qua nhiều trại giam.
Một điều nữa làm cho đám cán quản lý trại điên đầu. Buổi tối thì vệ binh
súng dài có khi đi vào sát hàng rào nhà kiểm soát, xem có ai buồn tình đào
hào khoét vách gì không, nhà 7 cũng không ngoại lệ, mấy cán vệ binh thường
là bộ đội công an tò te, tuổi còn trong thời kỳ rạo rực tránh sao không tò
mò. Quí bà, quí cô dưới cái nóng của đụn cát trắng Hàm Tân lúc ngủ phải
mong manh cho giảm nhiệt, mà chắc cũng phải đành trần như nhộng trong lớp
mùng chống muỗi sốt rét ở Hàm Tân. Thậm chí để trêu ngươi lũ khỉ, các kiều
nữ có khi banh càng chọc giận, cái rắn mắc đó tới tai cai tù liên trại. Vậy
là lệnh cấm các súng dài vào khu nhà 7, chỉ có thượng úy Sáu làm trực trại
đi cùng trật tự, tuần tra khu này mà thôi. Tên này miệng rộng, tiếng to và
hay nói nên anh em trong tù đặt hắn biệt danh Sáu la. Đúng như người ta
nói, phái yếu có cái mạnh rất đáng sợ.
2 năm trời chung một trại tôi dần dà rồi cũng quen biết gần hết đội nữ.
Chị Thanh Thủy thì khỏi nói rồi, được cái các chị thì thương, mấy em thì
quí, nhất là có đàn chị Lệ Hải của tôi, máu mặt số một trong đội nữ, hay
khoe thằng nhóc em ngang hông, nên lắm em cứ đòi làm dâu nhà chị.
Cùm là 1 kiểu nhưng có nhiều loại lớn nhỏ khác nhau, bọn chúng tha hồ
chế biến nhiều đòn phép để hạ gục những tù nhân mà chúng khép tội và đưa đi
cùm. Ở Z30D cũng thế bất kể nam hay nữ. Cùm là thứ mà ai từng đi tù thời
cộng sản đều phải biết, nếu không kinh qua thì cũng tận mắt nhìn thấy hay
sờ tay lên nó.
Sáu la, thượng úy cộng sản trực trại K1 của trại Z30D, lãnh trách nhiệm
thi hành lệnh cùm tôi vì tội chống lao động, xách động trại viên chống
chính sách cải tạo, hắn là thằng cùm tôi lần đầu trong những ngày tôi ra
trại lao động.Nhà cùm nằm sát hàng rào nhà 7 nơi nhốt đội nữ, dĩ nhiên là
tôi phải đứng trước sân tập họp dưới sự chứng kiến của cả trại nghe đọc
lệnh kỷ luật. Thằng an ninh trại vừa đọc xong cái dòng cuối “thay mặt ban
lãnh đạo trại đồng chí... ” thì a lê hấp 2 thằng trật tự kè tôi đi ngang
qua đội kiều nữ hướng về phía cửa nhà kỷ luật. Trực trại đọc tên đội cho
đội nữ xuất cổng đầu tiên, để không ai trong họ nhìn thấy gì bên trong cánh
cửa đang mở ra, cái thói việt cộng luôn là vậy úp mở, giấu diếm làm ra vẻ
quan trọng.
Cùm ở Z30D khá đơn giản, nó chia làm 2 dãy sạp nằm, trên lối đi mỗi bên
đóng một hàng trụ gỗ cách nhau 2m, mỗi trụ gỗ, có khoan mấy lỗ theo chiều
thẳng đứng. Nhiều cây sắt dài 18 ly xỏ qua những lỗ này. Bọn công an cho
đánh một vòng thép tròn ở đầu cây sắt, đầu kia khoan một lỗ làm lỗ khoá,
cái khóa luôn nằm bên ngoài vách của nhà kỷ luật. Mỗi cái cùm đánh 2 cái
vòng tròn để xỏ cây thép đó đi ngang, cứ 2 hay 3 trụ chúng chơi một cây sắt
ngang, tùy theo độ cao của các lỗ trên trụ.
Thằng trật tự mở khóa bên ngoài kéo cây thép 1 đoạn, tới chỗ tôi nằm,
hắn lấy cái cùm tra vào cổ chân tôi, xỏ cây thép qua, bước ra bên ngoài kh
óa lại. Cái cùm khá chật, cây thép lại nằm ở cái lỗ cao nhất của cây
trụ. Vậy là chân tôi bị treo tòn ten trên cây thép.Đòn này là chiêu biến h
óa của lũ cai tù,những cái lỗ trên đầu trụ, cao hay thấp, nói lên mức độ
hình phạt mà đám cai ngục thực hiện. Đối diện tôi, dãy bên kia cũng có 2
tay đang treo cùm trước rồi. Ngày đầu tiên vào nhà cùm, tôi chưa kịp liên
lạc với bên ngoài. Nữ chúa Lệ Hải, bà chị giang hồ của tôi đã vội vàng “lên
đài” ngay khi đi làm về. Buổi sáng đàn chị đã thấy thằng em bị đưa đi cùm
trên sân tập hợp rồi. Câu đầu tiên đàn chị dặn dò là:
– Thằng nhóc, yên chí có gì chị sẽ lo.
Nhà kỷ luật cách hàng rào nhà nữ một khoảng hai tầm với, che chắn bằng
những tấm gỗ mỏng làm vách, có những khe hở, đó là chỗ mà đàn chị Lệ Hải
chơi một cây dài treo thuốc hút, diêm quẹt, hay các thứ cần thiết chọt qua
khe hở cho tôi.
Đàn chị Lệ Hải của thời Đại Cathay lúc tôi còn nhỏ xíu. Vào trại này
chẳng nhớ rõ cơ duyên nào mà bà chị lại thương tôi đến vậy. Tôi chỉ nhớ
mang máng, có lần tôi hỏi anh kỹ sư Phan Thành Trường về những nhân vật nổi
cộm ở nhà 7, được biết trong đó là những Thiên Nga, thủ lãnh là chị Thanh
Thủy, có Mộc Hoa rồi Lan tếu và bà chúa Lệ Hải v..v....
Mấy hôm sau khi tắm suối lên, sắp hàng chờ nhập trại, 2 đội đứng cạnh
nhau, tôi liếc sang thấy bà chúa Lệ Hải đang chơi một điếu thuốc trên môi,
ngang tàng không chịu được. Tôi chào chị bằng cái gật đầu.
Bà chị nhìn thẳng thằng tôi:
– Nhóc, cậu đội 9 hả, vô lâu chưa?
– Dạ mới 2 niên thôi.
– Phục quốc hả?
– Dạ... gần gần vậy, chị vào đây lâu chưa?
– Sau ngày sập tiệm.
– Ôi trời! Cái bang 8 túi hả?
– Ráng lên đi, mai mốt về gặp, chị mời cậu uống café Pagode.
Vậy thôi đó, mà tôi quen biết nữ chúa rằn ri, một nữ tù chính trị nổi
tiếng, coi trời bằng vung, coi đám cai ngục như con, một thời khét tiếng ở
Z30D. Có lần tôi đi lấy cơm ở đội nhà bếp, gặp chị đang gánh đôi thùng nước
uống, chị dừng lại ngay trước cổng nhà bếp:
– Nhóc, chị hỏi mấy anh ở đội cậu, nghe nói cậu khá lắm, chị khoái tính
ngang ngang của cậu, chị nhận mày làm em chị, chịu hôn?
– Dạ, em cám ơn bà chị.
– Cậu giỏi lắm, hôm nào chị cho cậu xem cái đặc biệt của Lệ Hải nghen.
Chị vừa nói vừa gánh đôi thùng nước, ỏng ẹo cái lưng chọc quê mấy tên
nhà bếp và tiến về phía nhà 7.
Cho đến ngày tôi rời nơi đó, tôi vẫn chưa có cơ hội nhìn thấy nét “đặc
biệt” của nữ chúa rằn ri. Vài anh lớp trên tôi kháo nhau rằng: Vô tình đi
tắm suối, vài người trong đám lâm sản, từng nhìn thấy hai chân của nữ chúa
xăm nguyên hàng chuột lớn nhỏ dọc theo đùi trong, bí mật này không phải ai
cũng biết.
Buổi chiều các cô Thiên Nga điệu đàng đi dọc hành lang nhà 7 để tìm cách
nói chuyện với bọn tôi, những tay đang bị cùm, Quỳnh Như cũng tới hỏi thăm
tôi, rồi Lan lùn, Huệ... Những kiều nữ trong đội Thiên Nga làm ấm áp trong
những ngày biệt giam, trong cùm gông của Hàm Tân, Rừng Lá. Thứ tình người
có được trong trại giam hoàn toàn khác với thế giới bên ngoài. Nó chân
phương, rõ ràng và rất nhẹ nhàng, không một đắn đo, gian dối. Trong thế
giới này, chúng tôi không có thời gian để “câu giờ” dù không có sự an toàn
nào cho cách nhích lại của tình người, nó cũng phải vội vã, như chạy tìm
nhau, như đã chuẩn bị từ muôn kiếp. Quỳnh Như giả bộ gánh nước uống cho đội
từ nhà bếp, trước giờ lao động buổi chiều. Nàng đi thật sát hàng rào nhà kỷ
luật nói nhỏ để tên lính canh ngoài cổng không nghe:
– Anh ráng giữ sức khoẻ, về đội rồi tính, chớ có làm căng với tụi chèo,
nhớ nghen anh Khiết, cố nhịn nghen chàng của em.
Câu dặn dò ân tình đó, cùng với mái tóc dài, đôi má lúm đồng tiền khuất
vội qua khe hở, nó đã lởn vởn trong đầu tôi một dạo rất lâu.
Chiều tàn là lúc các nhà chuẩn bị điểm danh vô chuồng, thời gian rỗi
rảnh duy nhất trong 1 ngày tù là thời khắc này, sau buổi cơm chiều, các tù
nhân có thể đi bộ trên sân nhà, vội vàng trao đổi cho nhau những thứ gì đó
qua hàng rào ngăn chia giữa nhà này và nhà nọ,chuyển tin tức cho nhau. Dĩ
nhiên làm những điều này thì phải luôn dòm ngó kỹ đám anten có lảng vảng
gầnđó không. Các Thiên Nga đi lượn lờ gần hàng rào nhà kỷ luật, chia xẻ
những câu vu vơ, hứa hẹn 1 ngày mai trời lại sáng... Tất cả những điều đó
là một nét son của tình người,nó vượt xa cái tình huynh đệ chi binh, nó gắn
bó, chân phương vô cùng. Có lẽ đó là cái thật nhất trong muôn ngàn tráo trở
luôn xuất hiện trong các trại tù.
Một đêm nằm gác chân trên cùm thép, tôi nghe giọng hát nho nhỏ của một
kiều nữ bên nhà 7 vọng sang. Bài “Tình Nhớ”, tiếng hát nghe như tức tưởi,
tiếng hát xoáy trong đêm Rừng Lá, giọng hát không điêu luyện, nhưng thời
khắc đó nó tuyệt vời làm sao. Tôi thả hồn theo cho đến khi vệt đèn pin quét
sáng một vùng và giọng Sáu la vang lên như hét:
– Có im không, còn ở đó mà lòng lạnh lùng, lạnh lẽo hả, đúng là thứ văn h
óa đồi trụy.
Tôi rớt xuống, đau và thương một đời tù của chúng tôi.
Ngày tôi ra khỏi cùm, đàn chị Lệ Hải gởi cho một túi to đùng qua tay tên
trực sinh của đội khi hắn xuống bếp gánh cơm, đàn chị khéo léo nhét trong
đó nào là bột, sữa, thuốc bổ linh tinh, lại có cả thuốc hút và diêm quẹt,
cứ như là đi thăm nuôi. Tôi biết chứ, đàn chị Lệ Hải ít khi có người nhà đi
thăm,ba cái vụ này chắc là các kiều nữ em út của bà, nhờ bà chị của chàng
đưa sang, dĩ nhiên Quỳnh Như không thể thiếu trong danh sách đó.
Tôi cứ tà tà ở trong trại nửa tháng, khai bệnh không đi làm. Sáng ra
bệnh xá, hết tiêu chảy thì tới đau đầu, hết sốt rồi mệt, mặc thằng an ninh
trại có ghi thêm vào hồ sơ rằng thì là, tiếp tục biểu hiện chống đối sau
khi kỷ luật hay đọc thêm 1 lệnh cùm tiếp. Thấy tôi lì quá thằng y tá ngang
xương đành tạm thời cho nghỉ dưỡng sức.
Mỗi chiều, trước lúc điểm danh tôi cùng dăm tay nữa, đứng ở cổng khu
nhìn sang bên kia, Quỳnh Như, Lan tếu cũng ở cổng nhà 7, các nàng khác cũng
thường theo cung cách đó, chúng tôi cách nhau một cái sân rộng, ngôn ngữ
tình làm bằng dấu đôi tay, hoặc từng lời nói qua đôi môi mấp máy, ngôn ngữ
của cặp nào thì cặp ấy nhận, dứt khoát không thể lầm lẫn. Rồi một cái vẫy
tay từ biệt, xếp hàng, vô chuồng.
Những ngày mưa xuống thì buồn lắm. Mưa ở Hàm Tân thường ào ào, nằm dọc
Trường Sơn dù gần quốc lộ nhưng nó cũng thuộc dạng thung lũng, nước bốn bề
đổ về và rút rất chậm. Có khi con suối Lạnh tràn lên vào tận sân tập họp,
toàn trại chìm trong nước, ngập luôn con đường dẫn vào trại trên đất cát,
nên cùng lắm qua đêm là khô ráo, dù có để lại rác rưởi, rong rêu đủ làm đám
trực sinh mướt mồ hôi dọn dẹp.
Cái trại Hàm Tâm Z30D, có quá nhiều thứ để làm tôi nhớ. Đau, buồn, tủi,
chất chứa như một rừng lá buông.
Đội quân nữ tù nhà 7, bị tống lên xe vào nửa đêm. Chúng tôi nhìn theo từ
trong buồng giam qua khe hở, qua vách phên. Dưới bóng đèn chạy bằng máy
phát điện không đủ sáng, những nữ tù, những con Thiên Nga, đang tay xách,
nách mang đồ cá nhân, tập hợp trước sân nhà, nghe đọc tên và lên xe. Hình
ảnh chị Thanh Thủy chống tay leo lên phía sau xe còn cố quay lại nhìn căn
nhà giam số 7 ngùi ngùi làm sao. Đàn chị Lệ Hải giả bộ vướng víu hành
trang, hình như đang mong ai đó vẫy tay chào biệt.
Dưới màn đêm đen kịt của rừng lá, tôi nằm sát đầu nhà, nhìn qua khe hở
cho tới lúc cái đèn sau của chiếc xe bít bùng mất hút. Tự nhiên lòng mình
thấy như mất mát cái gì đó, không phải là cảm giác bâng quơ. Nó giống như
một điều rất lớn, gần gũi vô cùng vừa tuột khỏi tay mình, con tim thắt lại.
Đời đi tù có những cảnh chia tay là thường. Đất nước này có biết bao nhiêu
trại tù. Người đến, người đi. Cái thứ chia ly không có cơ hội bịn rịn, chỉ
có con mắt nhìn có đuôi cùng một chút khôn nguôi trong lòng. Những cánh
Thiên Nga rồi cũng bay đi, bỏ lại giữa Rừng Lá biết bao tình nghĩa khó
phai. Ở đó có nhiều người buông tiếng thở dài đưa tiễn.
Ôi! những chiều trời quang mây tạnh, lúc đợi tập hợp điểm danh vô
chuồng. Khoảng cách từ cổng vào nhà 4, nhìn sang bên kia cổng nhà 7, nơi
những kiều nữ của đội Thiên Nga bị giam hãm. Chiếc áo tù trắng bạc màu như
nhan sắc theo thời gian tù tội, sau bao đòn thù trên da thịt, trong chịu
đựng đầy ấp tang thương. Nhưng những khuôn mặt vẫn ngời ngời. Chẳng biết
thứ tình cảm đó là chi. Đứng ở đó, hai bên nhìn nhau, nói với nhau qua ánh
mắt trong 1 khoảng cách không thể nhận rõ. Tội nghiệp cho cảnh tù, tội cho
lớp người cùng khổ.
Thương cho cái nghiệt ngã khi đi làm về, hai đội gần nhau, xếp hàng chờ
nhập trại, len lén trao nhau một cái nhìn, dưới ánh mắt cú vọ của đám vệ
binh súng kè bên hông. Quỳnh Như, Hồng Đào, Lan Hương... Những người con
gái của đội Thiên Nga tội nghiệp ơi, bây giờ đã về đâu? Hỡi những cánh
Thiên Nga từng đậu lại một đỗi trong khu Rừng Lá, Hàm Tân.
Rồi tất cả qua đi, lặng lẽ trong hoàn cảnh nghiệt ngã của đời đi tù,
giữa bối cảnh nước mất nhà tan chỉ để lại trong tim một mớ ký ức lộn xộn
làm hành trang cho một đời người mang theo về đất.
Mưa qua rừng Lá
Tháng tám đem về đây cơn bão rớt
Mưa trên nguồn làm úng cả trại giam
Ta co ro nhìn nước đổ trên ngàn
Con Suối Lạnh lấn sâu vào sân trại
Mưa làm ta nhớ ngày này năm trước
Mỗi chiều về đứng ngó phía bên kia
Có bóng em gởi nụ hôn sớt chia
Trong hoạn nạn một đời tù bất khuất
Đội Thiên Nga bây giờ bay tan tác
Em của ta chắc đâu đó giữa rừng
Ta thương em có đôi mắt dửng dưng
Cười khinh bỉ vào biệt giam lần đó
Con Thiên Nga mà đời như quên bỏ
Đã kiên cường trong sắc áo tù nhân
Em ném vào ta một chút bâng khuâng
Trên Suối Lạnh hôm đội về rất trễ
Một ánh mắt trao tình đâu phải dễ
Dưới cái chăm chăm của lũ cai tù
Ta thương em có mái tóc mùa thu
Cái răng khểnh luôn cười trên gánh nạn
Con Thiên Nga mà giặc thù ngao ngán
Đã bao lần cùm kẹp vẫn đứng trơ
Đã khạc nhổ vào niềm tin ngu ngơ
Của đám giặc khù khờ đi theo đảng
Cánh chim xưa, kỷ niệm có còn mang
Khi bay khỏi trại thù khu Rừng Lá
Bầy Thiên Nga cái tên không còn lạ
Ríu rít nơi nầy, một lúc rồi đi.
nguyễn thanh khiết
5Z30D, 1978)
(viết cho đội Cảnh Sát Đặc Nhiệm Thiên Nga).
Những trận đánh không cân sức:
Đối diện nhà kỷ luật băng qua khoảng trống đó là trạm xá. Khi tôi mới
đến trại Z30D cái “bệnh viện tối tân” này do 1 trung sĩ quân y tù nhân của
phe chiến thắng trông coi, loại y sĩ không trường lớp chỉ chữa cho tất cả
các loại bệnh bằng mỗi một thứ thuốc “xuyên tâm liên”. Đến khi loạt sĩ quan
quân đội về trại này, quyền điều hành được trao lại cho đại tá Phạm Văn
Hạt, ông từng là cục trưởng Cục Quân Y Việt Nam Cộng Hòa từ 1958-1963. Ông
là 1 y sĩ lão thành, bên trong vóc dáng nhỏ người, hom hem đó là một trái
tim nhân hậu và là một cuốn tự điển y học sống. Nghe đâu về sau ông giải
ngũ và phụ trách làm Bộ Trưởng Ngoại Giao thời đệ nhị Cộng Hòa. Ông đã cứu
hàng trăm ca thập tử nhất sinhvà ông cũng là người cho tôi miễn lao động
nhiều lần do “đau bao tử”, sau ca nằm kỷ luật hết 15 ngày lần nữa vì tội
chống đối lao động, xách động trại viên chống chính sách cải tạo của nhà
nước. Một cái bệnh mà ông bảo nhỏ:
– Thằng điên quá, cậu cứ khai bệnh cảm sốt thì phải đo thân nhiệt. Sao
không khai đau bao tử cho nó chắc ăn?
Ôi! một chiến binh đầy tình nghĩa, luôn tìm cách giúp đỡ bên thua trận.
Tôi thuộc đội 9, đội trưởng là 1 gã Miên rặc ri tên Đào So, thư ký của
đội này là Nguyễn Hữu Phú, 1 thầy giáo làng bị tình nghi dính tới Phục Quốc
Quân và vô hộp từ năm 1976.Nhà 4 nơi tôi ở còn có thêm đội 20 và đội 13.
Tất cả nhà giam được thiết kế theo thời tiền sử. Những khúc gỗ rừng cong
queo,gánh những thanh đòn ngang, thường là những cây non ngoài rừng đủ loại
hơi thẳng một chút. Trên đó, lồ ô đập dẹp và bện khít lại làm chỗ ngủ và nó
được làm hai tầng và làm thành hai dãy, mỗi nhà có một phi đạo chính giữa,
cuối phi đạo là chỗ đi vệ sinh ban đêm, trong đó có 2 cái thùng gỗ chứa
phân và nước tiểu, văn minh một chút, nó có cánh cửa dĩ nhiên cũng làm bằng
lồ ô. Nhưng cửa ra vào nhà thì phải bằng gỗ, do một đội chuyên nghề làm mộc
làm với thiết kế khóa bên ngoài thật chắc chắn.
Đội 20 do Nguyễn Văn Nghị, một đảng viên hủ hóa làm đội trưởng, 1 số
trong đội này là các cán binh Bắc Việt can tội tham ô, hay lem nhem các vụ
liên quan chính trị, cộng vào đó là một số các lực lượng nổi dậy sau 1975.
Đội 13 Vũ Văn Lộ là đội trưởng, hình như anh là một SVSQ khóa cuối của
Võ Bị. Về sau này Lộ cùng tôi lên một chuyến xe ra trại Xuân Phước. Tay này
có căn nhà gần phởTàu Bay đối diện Tiểu Đoàn 5 Quân Cảnh,ngày nay nó là
bệnh viện Nhi Đồng.Chỗ đó, lúc học năm thứ 2 trường Luật tôi hay đến thăm
ông dượng rể là thượng sĩ nhất Quân Cảnh dữ dằn số 1 của TĐ5, và cũng có
nhiều lần ngồi trước tô phở bốc khói, có tiếng nhất nhì của Sài Gòn ngày
đó, bây giờ thì nó cũng tiêu tùng rồi.
Tôi ở tầng trên đối diện với Lộ, giữa là phi đạo, hắn sợ nóng nên chen
nằm tầng dưới, bao vây hắn là những tay nổi dậy ở miền Tây, dính dáng tới
Lực Lượng Liên Tôn, con cháu những tay tướng tá Bình Xuyên còn sót lại. Sau
cú điểm danh vào buổi tối, chúng tôi có một khoảng thời gian ngồi với
nhau. Nhà 4 này giam chính trị phạm. Họ là những người của các mặt trận
chống lại nhà cầm quyền hiện hành, trong số đó có cả những quân nhân, sĩ
quan cấp úy, cấp tá, không trình diện, theo các đoàn thể dấy lên một lực
lượng đối kháng và lực lượng này ở khắp nơi.
Đội 20 có kỹ sư Phan Thành Trường, có tổng thư ký hội Dịch Lý Việt Nam
Cao Thế Nhân, có trung úy quân y dược sĩ Vũ Văn Quang là em ruột của nhà
truyền thông Vũ Văn Ánh,một anh chàng luôn có nụ cười trên môi và trầm ngâm
rất chi đạo mạo khi tâm sự với những anh em trẻ khác về 1 vấn đề nào đó. Kỹ
sư Trường gốc dân Tây làm 1 cặp bài trùng với Cao Thế Nhân, hai lão này rất
tâm đắc và luôn tặc tặc trên tay quẻ dịch hay minh định 1 danh từ qua lăng
kính toàn một mùi dịch lý học. Kỹ sư Vương Đình Bách một trong những bậc
thầycủa trường Phú Thọ cũng góp mặt vào cộng đồng chống cộng tới chết này.
Bùi Mạnh Bái, Nguyễn Thành Công là một cặp khác nữa, nằm ở tầng trên kế bên
Vũ Văn Quang. Khu vực này là trung tâm cà kê dê ngỗng, nếu không trúng vào
đêm phải họp nhà, họp đội, sàn dưới có Ngô Bá Nhương nằm sát với Trần
Tương, người từng tham gia cuộc đảo chánh hụt thời Đệ Nhất Cộng Hòa, và lên
đường ra Côn Sơn trên tàu Hàn Giang 401.
Đội 9 của tôi đa số là trẻ, nhiều nhất là anh em từ Long Xuyên hay xuất
xứ từ cái nôi của Phật Giáo Hòa Hảo nổi tiếng là chống cộng quyết liệt. Lê
Hữu Ích, Châu Văn Tài, Nguyễn Huỳnh Danh Vũ dân Hòa Hảo nòi. Lại có cả Cao
Hữu Vốn, 1 đại úy của sư đoàn 9, trốn trình diện vô rừng U Minh lập căn cứ,
bị vây bắt trên đường qua Long Xuyên.
Lúc ở đây tôi hay la cà với những anh em Hòa Hảo, chí ít tôi từng có
giao tình và nhiều phen làm chung với họ ở một góc cạnh nào đó, trong cuộc
bùng dậy của Miền Tây trước lúc tôi bị bắt, từ giao tình này tôi gặp lại
một người anh em từng có mặt trong hàng ngũ ngày nào, khi tôi lặn hụp vùng
Đồng Bà Chiêu khắc khổ.
Ở trại Z30D, Dũng với cái tên dõm khi bị bắt là Nguyễn Văn Đát, hắn là
con của hổ tướng Bảy Viễn dòng thứ.
Tình cờ chúng tôi gặp nhau trong trại tù, tại cái nhà 4 thổ tả này. Nó ở
đội 13, nằm đối diện tôi, qua mấy điếu thuốc lào tâm sự linh tinh, chúng
tôi nhận được nhau, người cùng một nhà. Một khuôn mặt mà tôi vẫn không quên
mỗi khi nhớ tới thời lẫm liệt, coi cái chết bằng không của mình. Việc tôi
thua hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến anh em ở Thốt Nốt, Dũng kể:
– Anh Điệp cho anh em rút vào Đồng Bà Chiêu một thời gian, nghe ngóng và
tiếp tục công việc dang dở. Lúc này đã có rất nhiều mặt trận, lực lượng nổi
dậy ở khắp nơi. Dù rằng con số bị bắt và âm mưu lật đổ chính quyền đã
nhiều, nhưng không làm nản lòng anh em.
6 tháng sau khi tôi thua, anh Điệp tập hợp được một số đông anh em từ
những đơn vị lẻ tẻ. Anh cho đào một đường hầm từ trong nhà ra tận bờ sông
Hậu. Anh đưa về gần 10 anh em thường trực tại đó. Căn nhà này là bộ chỉ huy
của liên đoàn. Sư Đoàn Tây Đô 3 đã đánh hơi từ những cuộc chạm trán của du
kích địa phương với lực lượng. Anh bị chúng theo đuôi.
Một đêm giặc đem 1 tiểu đoàn vây kín khu Ngả Ba Lộ Tẻ, chúng pháo sập
căn nhà và tràn lên tấn công, cố tình bắt sống anh Điệp. Dũng đang nằm
trong hầm với anh, sau mấy loạt đạn đầu, anh Thành bị bắn trúng ngực, Dũng
kéo anh theo đường hầm chạy ra bờ sông, anh chết trên tay nó, bỏ xác anh
cạnh bụi chuối sau nhà, nó nhảy xuống sông thả nổi theo đám lục bình trôi
về bến đò Vàm Cống. Tất cả anh em còn lại đều bị thương và bị bắt. Nó bơi
theo con nước cho tới sáng, vào nhà bà cô của nó cách đó gần 5 cây số. Thay
bộ đồ nó lên xích lô đạp quay trở lại, trà trộn trong đám dân hiếu kỳ đứng
hai bên lộ. Dũng đứng nhìn, căn nhà sập gần hết vì đạn cối. Xác anh Điệp
nằm nghiêng phơi trên lề đường, vết thương ở ngực phá một lỗ lớn ra phía
sau lưng, mắt anh vẫn mở lớn. Dũng cắn răng nhìn một hồi lâu rồi lủi vào
đám đông chuồn qua biên giới theo đường về Tịnh Biên. Anh Điệp chết. Liên
đoàn trưởng Liên đoàn A Lực Lượng Dân Quân Phục Quốc – Trần Chánh Thành tử
trận.
Có lẽ cho đến ngày tháng này, anh Điệp là chiến binh phục quốc đầu tiên
tử trận ở Thốt Nốt Hậu Giang, miền Tây Nam bộ. Người chiến binh Hòa Hảo đầu
tiên, hiên ngang chết trên chính địa bàn chiến đấu của mình.
Dũng nghe người ta kể lại, bọn khốn nạn phơi xác anh 3 ngày trên quốc lộ
để thị uy và trả thù, sau đó chúng cho gia đình an táng sơ sài tại chỗ.
Dũng với ánh mắt còn đầy thù hận, nó nói:
– Anh Sáu, anh em mình, mất thêm mấy anh em rơi vào tay tụi nó, sau cú
càn quét của sư đoàn Tây Đô 3.
Có lần Dũng hỏi tôi:
– Sao anh né được, khi tụi nó hỏi anh về những anh em liên quan?
Tôi kể cho Dũng nghe đại khái những đương đầu với tụi tra án của việt
cộng, cách tránh né để không làm anh em ở Thốt Nốt tổn thương.
– Dũng! Lần thoát sau cái chết của anh Điệp, Dũng đi về đâu? Rồi sao bị
“tó” lại?
– Chôn cây P38 ở sau nhà, em mò xuống Châu Đốc, tính qua biên giới thì
một thằng trong nhóm cũ gặp em giữa đường, ân oán giang hồ từ trước, nó tố
với công an. Vô công an điều tra lòi ra cái vụ chung với anh Điệp, tụi nó
lôi em về Thốt Nốt, xác minh trước dân địa phương. Một thằng chỉ vào mặt em:
– Thằng này nè tui thấy nó đi chung với cái ông bị bắn chết mấy lần...
Hết đỡ, em thua.
Tôi ngùi ngùi, tuổi trẻ mà, sau ngày sập trời, tôi cũng vậy có những cái
thua lãng xẹt.
– Anh Điệp nhắc anh hoài, em chỉ biết anh là anh Sáu Sài Gòn thôi. Đến
khi anh hỏi em ở miền Tây có quen ai ở Thốt Nốt không, em nghi là trúng
phóc, qua hình dáng của anh mà anh Điệp thường nhắc với em. Không có anh,
anh Điệp cực lắm, lo ăn cho mấy đứa, kiếm đồ chơi cũng khó, rồi trong Đồng
Bà Chiêu từ từ thua sạch mãi sau này lấy được chút vốn thì anh Điệp tử trận.
Tôi thở dài:
– Cũng phải vậy thôi mày ơi. Đầu tiên hai ba chục, lớp bệnh đau không
thuốc, lớp bị theo sát nút, lớp chết, lớp bỏ đồng về. Chờ đợi lâu ngày
không ai tiếp trợ, vậy thì còn chi mà mong mỏi như anh em mình từng muốn.
May mà anh không có ở đó chứ nếu không chắc mày thấy cả anh phơi xác chung
với anh Điệp rồi.
Vậy đó, cái tuổi trẻ hừng hừng như lửa, húc vào chỗ chết coi như không.
Tội thiệt, vậy mà cũng gọi là chiến đấu. Chiến đấu cái con khỉ! Cú ra đi bỏ
thành chẳng phải để làm anh hùng, chẳng phải là chuyện đội đá vá trời, chỉ
là một thứ tuổi trẻ, hào khí đó có từ ông cha, trong máu xương không chung
cùng cộng sản.
Bỏ đi cái danh gọi chính nghĩa. Nó đơn giản là không sống chung với
giặc, vậy thì sống ở đâu? Chỗ nào trên quê hương này không có giặc, ngoại
trừ rừng cao núi thẳm, nơi hang ổ mà chúng đã bỏ lại khi vinh quang ra
thành. Cú đi không tấc sắt trên tay được mô tả bằng một câu lạnh lùng “Đi
cho có đi, dù là nơi để chết”.
Hai anh em nắm tay nhau thật chặt, cú nắm tay ly biệt. Vì sau đó, chẳng
bao lâu tôi bị đày đi ra trại mới.
Cái xã hội chó chết hôm nay cũng có 2 loại người, một thắng, một thua.
Thắng thì được gì? Oán hận dày thêm chút nữa,dân chúng lánh xa sợ hãi thêm
chút nữa.Thua thì mất gì? Cái giang san này đã tả tơi hơn 20 năm, mỗi tấc
đất, mỗi tấc đường có bao nhiêu bom đạn, có bao nhiêu máu xương chảy trên
đó và bây giờ chỉ còn vỏn vẹn hai chữ “mất nước”. Những đêm dài khó ngủ,
tôi cũng có khi vắt tay lên trán nghĩ tới nghĩ lui, lâu ngày mình trở thành
ông cụ non, bày đặt triết lý sống, bày đặt tư tưởng bậy bạ và bậy bạ nhất
là vẫn còn ở trong tù...
Dã man, tàn nhẫn mà thượng đế sinh ra để trừng phạt con người. Ngoài
giống muỗi rừng mang vi trùng sốt rét nổi tiếng của châu Á, có mặt ở đây là
1 đoàn hùng binh rệp. Lũ chúng nó sinh sôi nảy nở đến chóng mặt, rệp từ
trên mái lá, rệp từ đầu kèo, rệp giữa những thân lồ ô đập dẹp dưới lưng,
rệp chui trong những lỗ mọt của cái thang làm bằng một đoạn gỗ, trên đó dát
vài hõm sâu để leo lên tầng trên. Rệp trên nóc nhà, từ trong mái lá rơi
xuống. Rệp diễn binh giữa ban ngày dưới lớp lồ ô của tầng trên. Rệp di hành
dưới bóng đèn mờ mờ để ở cửa ra vào gần khu vệ sinh. Một vệt đen như đội
quân ào ào tiến, lùng sục mùi máu và mồ hôi người. Nhà 4 của chúng tôi,
trăm con người chui rúc, chịu đựng sự tấn công gần như vô phương kháng cự.
Một ý lạ đề ra, như trong một trận đánh, mỗi con người phải tự tìm cho mình
cái thích nghi nhất để chạy khỏi lưỡi hái tử thần, dùng tất cả cái thông
minh của từng cá nhân mà tạo lớp bảo vệ, cho dù chỉ tạm thời hay có còn hơn
không hoặc biết chẳng được bao nhiêu nhưng vẫn phải làm và làm trong tuyệt
vọng. Chúng tôi giăng mùng ngược, chân mùng quay lên trời, nóc mùng lót
dưới lưng.
Con muỗi có khuynh hướng bay ngang chứ hiếm khi từ trên tấn công
xuống.Lũ rệp lại khác nó từ dưới chui lên, bò dọc thành mùng, châm chít
dưới lưng. Cuộc chiến tưởng đâu thắng lợi, sau khi kèm thêm những trận càng
quét vào mỗi ngày chủ nhật không đi “lao động xã hội chủ nghĩa”.Tất cả sân,
trước sau, trái phải của mỗi nhà, anh em đem quần áo phơi nắng diệt rệp.
Chúng tôi dùng tới chiêu bom lửa để tấn công chúng. Thật cẩn thận, dưới sự
kiểm soát an toàn tối đa, 1 bó đuốc nhỏ, quơ dọc ngang trên chỗ nằm từ đầu
nhà tới cuối nhà, trên, dưới và thật cẩn thận phía gần mái lá, lá buông có
độ bén lửa như tranh, sơ ý là thê thảm. Dĩ nhiên trại thì cấm lửa,muốn hành
quân kiểu này phải có tiền sát viên, đứng hàng dọc từ ngoài cổng khu cho
tới trong nhà, một báo động là lập tức tất cả phải bình thường, khó biết.
Phải để ý những thằng trật tự và đám chó săn đắc lực của trực trại, cẩn
thận đề phòng thằng Tâm mập, một cán binh vc bị giam mà lý do không rõ
ràng, ông già Mạnh, 1 hạ sĩ quan an ninh quân đội bị bắt tại mặt trận khi
chạy từ vùng 2 thì không ngại, ông ta hiền và nhát.
Thua! chúng tôi dù thắng trận đầu, quân rệp chết như rạ, hàng ngàn, hàng
triệu con. Dưới trận bom lửa, lũ rệp cháy khét lẹt bốc một mùi khó chịu,
mùi cháy của máu người, kèm theo mùi đặc thù khi bị đốt của giống rệp. Chết
la liệt, chết từng đống, xác bọn chúng được quét gom lại, nhìn thấy mà lạnh
mình. Nhưng nó sinh sản cực kỳ nhanh, tuần sau thì đâu vào đó, hình như
không bớt chút nào. Lại bom lửa, lại càn quét. Tới nước này, chúng tôi bó
tay. Rệp không di chuyển theo cách thông thường nữa, hình như biết chúng
tôi căng mùng ngược, lũ khốn nạn chơi trò “nhảy dù”. Từ trên nóc, hay trên
tầng trên, trên những cây đòn tay,kèo,chúng buông mình rơi xuống. Cú đáp
tuyệt vời, cú đáp mà những chiến binh của Nhảy Dù thua xa lắc. Cú đáp chính
xác, không gây tiếng động, không mất thời gian cuốn dù, chúng tấn công liền
tức thì, sau đó núp dưới góc mùng hay một chỗ an toàn cho đêm mai, đêm sau
nữa, không cần mất công cho một “sô” nhảy. Thứ rệp chó chết này, chỉ cần
cắn một nhát là cả một vùng da nổi một dề mẩn đỏ ngứa, nhức và lâu tiêu cái
mẩn đó hơn là lũ muỗi.
Ôi! Một trận chiến kinh hoàng, xem ra bên ta chết hết, địch vô sự. Tự do
trên chiến trường với những cú hút máu từ những thân thể ốm o thiếu ăn và
kiệt lực.... Tháng 9/1979, khi những con Thiên Nga đã bay đi, chúng tôi gần
trăm mạng, bị lọc lựa ra từ nhiều đội, lùa sang trám chỗ nhà 7. Toàn là
thành phần bất hảo dưới con mắt của bộ chỉ huy trại. Bọn chúng tôi bị cách
ly hoàn toàn, cửa nhà đóng lại 24/24, trừ khi lấy cơm, nước và đi tắm suối,
vệ binh, trật tự án ngữ bên ngoài, mỗi một động tác đều bị rình rập.
Sẽ đi về đâu? Biết chi cho mệt, đi đâu thì cũng là ở tù, có khổ thêm
chút cũng rứa, bận tâm chi cho nó phiền.
Đó là câu nói của Hải Quân trung úy Nguyễn Hưng Đạo. Anh là người nghiêm
trang, chậm rãi, cẩn trọng từng lời nói, luôn nhẹ nhàng và hình như suốt
nhiều năm trời ở chung với anh, tôi chưa hề thấy anh giận ai hay lớn tiếng.
Cha này quả là tuyệt.
Hai mai sư đoàn 18 Hoàng Ngọc Thủy vỗ đùi:
– Tớ đoan chắc, tụi nó đưa mình đi xa, ngó cái kiểu chuẩn bị của tụi nó
là biết, mình nằm đây 10 ngày rồi, cao lắm là một hai hôm nữa sẽ lên đường.
Phan Thành Trường rất đạo mạo:
– Theo dịch động, lần này tụi mình về hướng đông, biến quái sẽ thê thảm
hơn, mà nói chung không có gì ầm ĩ, cơ cực thêm một chút thì đã sao!
Xem ra đại úy Cao Hữu Vốn không vui,anh chen ngang:
– Mong sao nửa đường sinh chút chuyện là a lê hấp... dọt.
Bùi Mạnh Bái nãy giờ ngồi im cũng bật dậy:
– Bàn chi cho mệt, đâu phải lần đầu mà rối lên vậy các cha? Tỉnh bơ đi,
tới đâu thì tới.
Vi Công Minh, người bạn cùng học Trung Học Tây Ninh với tôi 7 năm, hắn
là phân chi khu trưởng sau khi vào lính, kéo tôi ra góc nhà nói nhỏ:
– Mày cố báo tin cho anh mày, ké cái địa chỉ tao, để gia đình biết.
– Ừ, nhưng mà tụi “chèo” canh như vầy làm sao tao liên lạc, tao sẽ cố.
Minh vốn ốm yếu từ nhỏ, hắn có cái bệnh viêm mũi kinh niên, lúc nào cũng
sụt sịt dù nắng hay mưa. Minh về trại này và gặp lại tôi từ 1 trại Phước
Long trong đội sĩ quan cảnh sát bị bắt,cùng màu áo với hắn còn có LâmPhước
Xoàn, tay này học ở Nông Lâm Súc nhưng lại cùng thời với tụi tôi. Xứ Tây
Ninh nhỏ xíu nên đi loanh quanh ra đường là gặp, nhất là mấy tên có máu mặt
ở tỉnh. Xoàn không có mặt trong danh sách định mệnh này.
Lúc tôi tới trại này chưa có thành phần sĩ quan trình diện ở đây. Cho
đến khi bọn quân đội bàn giao những người trình diện học tập cho công an
quản lý. Chúng làm một phát xào tung các trại, lọc lựa theo từng thành
phần, tiêu chuẩn chi đó từ Long Giao,Long Khánh, Suối Máu, miền Bắc, Nam
Hà, Nam Định. Chúng chuyển tất cả các đối tượng mà chúng cho là nguy hiểm
về một trại đặc biệt do chính bộ công an theo dõi sát nút.
Anh rể tôi, một đại úy Hải Quân cũng từ Phước Long về Z30D, anh em gặp
nhau chung một trại tù. Tôi có cơ hội nhờ anh nhắn gởi dăm ba câu cho ba má
tôi, bởi nhiều tháng rồi tôi bị cấm viết thư do cái tật chống đối của mình.
Trước khi anh đến đây, tôi lại từ xà lim ra mới được 1 tháng. Có một điều
an lòng, tôi đã nhờ anh thay tôi săn sóc ba má tôi,anh nhận lời bằng một cú
gật đầu:
– Mầy yên tâm đi.
Tôi và anh ấy như vậy, anh coi gia đình tôi là ruột thịt, đối xử với em
vợ như em ruột của mình, trật dây nịt là chửi tắt bếp, anh em chúng tôi
nhìn anh ấy như 1 ông anh ruột. Trước khi lấy chị tôi được một năm, anh
từng sang Mỹ thụ huấn khóa 1 OCS, dân đi biển chính tông.
Ngày chuyển về Hải Đội 2 Duyên Phòng, anh kéo tôi ra đó, như một món quà
cho cái bằng tú tài 1 của tôi. Chuyến hải hành đầu tiên của tôi trên chiếc
PCF, anh làm thuyền trưởng, anh dạy tôi các thứ. Giữa biển mênh mông tha hồ
tập bắn, P38 là sở trường của tôi, M16 cũng thuộc loại có cựa, sau một
tháng trời lênh đênh trên sóng nước. Vì thế, ở Quang Trung trừ cái vụ bò
trườn linh tinh chứ trên bãi tác xạ thì khỏi lo. Tôi còn được các sĩ quan,
bạn bè của anh dạy cho đủ thứ, lái tàu như một thủy thủ, cặp bến, tách bến,
sóng ngang, sóng dọc tôi rành như tay chuyên nghiệp. Tôi từng lái thay anh
giữa bão miền Trung, như một giám lộ có tay nghề trên hải bàn chi chít số.
Trung tá Pháp là chỉ huy trưởng của hải đội lại khoái và hay rủ tôi theo
ông tung hoành ở Qui Nhơn một dạo. Cho nên cái thuở đi học tôi học về lính
nhiều hơn sách vở.
Anh em chúng tôi biết là phải chia tay nhau nhưng vô phương tiếp xúc hay
gặp mặt. Chuẩn bị cho tôi lên đường, anh đã canh tụi chèo. Xuống nhà bếp
lấy cơm cho đội cùng lúc với tôi để chuyển cho tôi vài thứ cần thiết, một
chia ly thật là có hậu. Anh Đạo và anh Thủy cùng một số anh em sĩ quan về
trại này trong đợt đó, tiếc là ông anh rể của tôi không cùng một chuyến.
Một chuyến đi có nhiều thứ gai góc, đòi hỏi có nhiều can đảm và chịu đựng
hơn.
Bỏ lại Rừng Lá, bỏ lại 3 năm với nhiều thứ kỷ niệm tù, bỏ lại con Suối
Lạnh, chúng tôi lên 1 đoàn xe bít bùng, như những cánh chim ra khỏi tai
ương của một cánh rừng, sẵn sàng đến với một tai ương khác. Nói là đi, vẫn
thấy bâng khuâng, nói là hận chỗ đã giam mình như con thú tật nguyền nhưng
lòng vẫn se lại. Đời đi tù, qua một trại chắc gì quay lại, ai muốn quay lại
làm chi. Nhớ một câu văng vẳng bên tai “Đừng tắm hai lần trên một dòng
chảy”. Ừ thì đi, tôi và Vũ Văn Lộ ngồi chung một xe, nhưng tôi bị còng tay
với một tay khác cũng dân nhà binh. Tôi nói với anh ấy:
– Tụi mình uýnh trận khác và cầm chắc cái thua.
– Ừ, không thua mới lạ, dẫu sao cũng thua lâu rồi.
Đoàn xe của những chiến binh thua trận lần hai lên đường trước khi trời
sáng. Rừng Lá im re, không gió, không chiếc lá nào lay động tiễn đưa.
Thung Lũng Tử Thần:
1- Ngược dòng Trà Bương:
Đoàn xe pha đèn, quét một vùng sáng, xóa tan cái yên tỉnh của Rừng Lá.
Ra quốc lộ, quẹo phải hướng về miền Trung, đã có những tiếng xì xào vang
lên trong chiếc xe bít bùng.
– Ra Bắc?
– Ra Trung, trại Củng Sơn?
Những người tù bắt đầu tiên đoán vận mệnh sắp tới của mình. Tôi qua rồi
chí ít hai lần dời đổi vậy mà cũng có chút hoang mang.
Quả thật tôi chẳng thể đoán mình sẽ bị đày về đâu, nhưng căn cứ vào một
ngày ăn đi đường mà tất cả được lãnh trước khi lên xe, thì cũng có thể biết
rằng chuyến đi không quá một ngày, cùng lắm là đêm nay sẽ tới cái nơi phải
đến. Dù biết rằng có suy nghĩ đến điều này cũng vô ích, nhưng rồi cũng phải
nghĩ tới. Dựa vào thành xe cho đỡ mỏi, nhìn những người bạn đồng cảnh như
những con cá hộp trong chuyến xe đêm, thấy thương cho thân tù tội.
Tôi chợt nhớ một truyện viết về thời Do Thái bị tàn sát, Erich Maria
Remarque đã mô tả kiếp đi tù nghiệt ngã trong “A Time to Love and A Time to
Die” những chia ly tức tưởi ngàn năm không gặp lại, quyển sách đã được đọc
thời đi học. Rồi “Mùa Hè Đỏ Lửa” của Phan Nhật Nam viết năm 1972. Lúc đó ba
tôi phục vụ ở Phòng 5 Tâm Lý Chiến, nơi có tất cả sách báo của quân đội như
tờ Tiền Phong cùng tất cả những gì có trên chiếu văn chương của người lính
trận, ông thường mang về cho tôi đọc và dĩ nhiên đó là những quyển sách,
báo, gối đầu của đơn vị ông. Thuở đó đã có những chuyến 1 đi không quay
lại, huống chi bây giờ, trước ngực chúng tôi là bản án tù của chế độ, chế
độ còn thì thiên thu không thể mong ngày về. Tôi chợt nhớ đến những truyện
kể về Tây Bá Lợi Á, nơi dập vùi những kẻ đối nghịch với chủ nghĩa cộng sản,
mình từng đọc qua. Thế giới đã bao lần chứng minh rồi, huống hồ Việt Nam,
thứ cộng sản ác hơn tất cả loại cộng sản có mặt trên trái đất.
Lần lấy cung sau cùng, tay trung tá chấp pháp của sở công an thẳng thừng
nói với tôi khi kết thúc hồ sơ:
– Đúng ra chúng tôi truy tố anh ra tòa và chắc chắn anh sẽ nhận tối
thiểu cái án chung thân với việc anh tổ chức chống cách mạng, âm mưu lật đổ
chính quyền. Nhưng không thể được, với những tang chứng, vật chứng của một
tập thể đông người, dù anh cố tình quanh co không khai sự thật. Sở công an
quyết định chọn cho anh án “Tập trung cải tạo”. Anh là người có trình độ,
anh đọc sách báo nhiều, chắc anh phải biết về mức án này trong luật pháp
của xã hội chủ nghĩa.
Tôi đã nhếch môi cười, dù hắn không nói tôi cũng thừa biết và chấp nhận
nó đến với mình một cách thản nhiên. Tôi đã nhiều lần tự hỏi và tự xác nhận
tôi phải đứng bên ngoài cái xã hội cộng sản từ những ngày về Mõ Cày, Hậu
Nghĩa, hay lên núi Bà Đen hoặc đội mưa chống xuồng qua Đồng Bà Chiêu. Tôi
chợt mong sao đoàn xe như đang đi trên “Đại Lộ Kinh Hoàng” hay như đang đi
trên “Đường 13 Nhuộm Máu”. Ầm một cái, tan tành từng mảnh vụn, ầm một cái,
những nhức nhối đè nặng lên những tù nhân đang có mặt trên những chuyến xe
chó chết như vầy, sẽ không có gì để nói hay nó sẽ lăn long lóc xuống một
triền dốc nào đó tan nát là xong. Chứ cái kiểu như dăm ba người bàn tán
nhau trên xe, mơ mộng sẽ có một đội quân,một lực lượng tàn binh nào đó,
chận đường giải cứu tù nhân. Chuyện khó tin chết mẹ mà cũng mơ cũng mộng.
Thói thường cứu rỗi sẽ được kinh cầu khi người ta đã cạn cùng không còn gì
vịn níu, sự sống còn của tôn giáo chắc cũng dựa vào cái này. Mà cũng lạ, 1
lực lượng sót lại của VNCH đã tan hàng vẫn còn có nhiều người tin tưởng gần
như tuyệt đối, dù bây giờ là năm 1979, đã 4 năm sau ngày miền Nam bị bức
tử, ngoài cái hoài vọng một màu cờ, ngoài cái tiếc nhớ khôn nguôi một quân
đội miền Nam, sau mấy năm bị cộng sản bắc Việt cai trị bằng những đòn thù
không khoan nhượng. Thêm vào niềm tin đó được nhân rộng từ cái tin tướng Lê
Minh Đảo về khu Hàm Tân cùng một số chiến binh sư đoàn 18, tướng Lý Tòng Bá
kéo sư đoàn TQLC đóng dọc biên giới. Những hot news mà tôi từng nghe từ vài
tháng sau ngày Sài Gòn thất thủ, nó lan đi, lan đi trong đợi chờ mòn mỏi
tội nghiệp cùng những chiến binh từng một thời lửa đạn. Bây giờ, vứt chiến
bào mang phận tù đày ở Rừng Lá, nơi mà về địa hình với núi non trùng điệp
của Trường Sơn như vầy, niềm tin đó càng được củng cố hơn. Mà suy cho cùng,
rất cần thiết để có một cái tin, để tồn tại. Tôi không tham gia những trao
đổi rất chi là chiến thuật, chiến lược đó.Còn nữa, nào là dựa bài vè, câu
sấm “Mỹ đi rồi Mỹ lại về”, hay “Thân Dậu niên lai kiến thái bình” hoặc “Núp
lưng đảng cộng phục hưng nước nhà”. Những cái phao trên biển từ chiếc tàu
đã chìm cũng được quăng ra, lũ người sắp chết cố bám vào, bám vào để kiếm
sống dù biết có một chút gì đó tự dối gạt chính mình,thà cócòn hơn
không.Xem ra cái mặt trận tôn giáo cũng chẳng vừa trong cuộc chiến đấu của
người lính.
Ngày ra cái trại lao động, tức là bắt đầu cái án tập trung được tính
tới. Mỗi mốc là 3 năm, hết thì ký tiếp. Khởi từ những ngày đầu tiên đó, tôi
đã thấy rõ ràng 1 hành lang nho nhỏ trong cộng đồng tù mà tôi đang sống,
thứ biên giới chẳng biết có tự bao giờ. Một bên là quân đội trình diện,một
bên là tù chính trị. 2 loại “giai cấp” này là một mối đe dọa khiếp đảm
cho tình đoàn kết giữa những người đang cùng phận số tù tội. Ai cũng biết,
ai cũng thấy nhưng không ai dám nói ra cái tàn nhẫn đó.Những hot news đó
cũng được 2 bên giai cấp tù trong trại nhận định theo kiểu riêng của
mình.Mà thôi, dù sao cũng nên có 1 niềm tin để cầm, dù nó như cái bong bóng
tự khắc nổ tung,khi thời gian để tồn tại của chính nó không còn.
Trời chưa sáng, qua khe hở của thành xe, anh em nhận ra từng vùng, từng
thành phố mình đi qua, Phan Thiết, Cà Ná. Mỗi người mang mang một tâm sự,
chuyến xe trĩu nặng tình cảm đó cứ lao đi trong đêm trường.
Bỗng nhiên, đoàn xe ngừng lại một chỗ vắng bên đường. Ngoài tên vệ binh
trang bị súng dài, còn một số cán ngố súng ngắn trên cabin mỗi xe, với cặp
mắt cú vọ quan sát ngược sau thùng xe, qua tấm kính có lưới an toàn, còn có
một xe áp tải với cả chục tên lăm lăm họng súng đi sau. Bọn này nhảy xuống
xe, túa ra hai bên súng lăm lăm cầm tay, kéo khóa cơ bẩm lách cách ra vẻ
thị uy. Một tên chỉ huy ra lệnh cho chúng tôi từng cặp một xuống xe đi tiểu
ngay bên lề đường, kèm theo một lệnh giới hạn 10m trong tầm bắn.
Bằng một tay tuột cái quần tù xuống, tôi kéo dài thời gian để nhìn
quanh. Trong ánh sáng mờ mờ, có những hàng dừa khuất xa rất xa. Ba Ngòi!
Mất gần nửa tiếng cho cái việc dừng bên đường bất đắc dĩ đó, đoàn xe lại
lên đường. Tôi bị dồn ra phía sau sát cái bửng có tấm bạt dầy che tầm mắt,
may mắn là chỗ tôi ngồi có một miếng rách nhỏ đủ để ghé mắt ra quan sát một
phần bên phải con đường.
Xe đi ngang vùng Cam Ranh làm tôi nhớ, chỗ này “Cây số 9”. Ngày xưa, nói
là xưa chứ chỉ mới chưa đầy chục năm, tôi có thằng bạn học trên tôi một
lớp, Phạm Văn Hoàng hắn là thủy thủ, mỗi lần về phép hắn thường đón tôi ở
trường, hắn dẫn tôi đi chơi. Cái thuở tập tành tôi theo hắn nhiều lần bạt
mạng. Có khi hắn kéo tôi về Sài Gòn dung dăng dung dẻ nhân lúc tàu hắn Đại
Kỳ (sửa chữa toàn bộ) ở Bạch Đằng. Những trận đi tá lả đó tôi học từ hắn
nhiều thứ của đời sống lang bạt. Về sau tôi và hắn lại dính với nhau hơn,
khi chị tôi trở thành chị dâu của hắn. Năm tôi thi tú tài 1, môn chót, vừa
bước ra khỏi phòng thi, tôi thấy hắn ngồi gác chân trên xe gắn máy đợi tôi
ngoài cổng, chỉ kịp về ngang nhà báo tin là hắn đã lôi tôi ra đây. Cam
Ranh! Căn cứ hải quân ở nơi này lúc chiến tranh là nơi mà quân đồng minh
trú đóng với một cảng chiến lược, những chàng GI gần như tràn ngập ở đây.
Tôi và Hoàng ở một căn nhà thuê nằm giữa Cây số 9 với cổng Mỹ Ca. Ban ngày
hắn tà tà mặc cái áo thủy thủ,cái quần Jean màu xanh bạc thếch, đón
chuyến xe lam xuống cổng Mỹ Ca vào căn cứ. Tôi ở nhà lang thang đâu đó,
trưa về nhà trọ một mình với gạo sấy, thịt hộp. Tối nào 2 thằng cũng ra Cây
số 9, khu này kéo dài gần cây số, 2 bên là một dãy các quán Bar, đèn xanh
đèn đỏ, cộng với đủ loại gái móng đỏ, móng xanh. Bọn tôi ăn chơi bạt mạng,
những trận uống say li bì, có khi ngủ đại một hàng hiên nào đó hay tấp vào
với mấy em trong quán. Một chuyến giang hồ biến tôi thành thằng học trò lưu
linh lưu địa, cái kiểu chơi bất cần thân thể đó kéo dài hàng tháng trời.
Tôi bỏ mặc, quên hết các cái, quên luôn cái thông báo kết quả kỳ thi, quên
luôn cái thẻ động viên tại chỗ gần tới ngày hết hạn.
Hoàng là tay lãng tử, rất chí tình với bạn bè, tôi cũng không biết với
đồng lương thủy thủ hắn lấy đâu ra nhiều tiền thế, nhưng có điều, tôi biết
qua các đàn anh đi trước tôi, trong quân đội Hải Quân coi vậy mà phẻ re, có
nhiều cách kiếm tiền hơn. Kệ, tôi cũng có lần hỏi thì Hoàng gạt ngang:
– Mày lo mẹ gì, chừng nào hết tiền, tao đuổi mày về cùng cái vé xe đò.
– Trời! tao ra đây ở với mày cả tháng rồi, kết quả thi còn đéo biết,
không khéo phải vào quân trường mang cánh gà quá.
Nhưng tôi không đợi hắn đuổi, tôi phải về chứ, cú đi này tôi bị chị tôi
chửi nhiều nhất, mà cũng phải thôi, bà chị sợ tôi thi rớt đi lính nên ở nhà
lặn lội chạy xem thông báo trúng tuyển. Khi tôi biết kết quả kỳ thi, thì ở
nhà đã biết trước đó hàng tháng rồi. Coi, tôi bậy bạ hết chỗ nói, ham chơi
tới bến như vậy may mà còn thân thể trở về và cú này Hoàng bị bà chị dâu
mắng một trận tơi bời hoa lá.
Đứt phim, Hoàng về Tây Ninh, mở 1 quán café tại nhà chờ thời. Cuối cùng
thì hắn cũng theo gia đình đóng một chiếc ghe gỗ, mua bãi vượt biên, trong
chuyến đi đó anh rể tôi mới được thả từ trại tù về, làm thuyền trưởng, dù
là dân Hải Quân thứ thiệt cũng không thể lên bên kia bờ đại dương. Ghe nhỏ,
taxi ra ghe lớn thì gãy mái chèo, chiếc lớn đợi mãi đành nhổ neo, bỏ lại.
Nghe tin này tôi chỉ biết cười, đúng là cái số, một sĩ quan Hải Quân chính
thống bị biển từ chối.
Qua đèo Cả,nhìn phía biển xa xa dưới đường xe ngoằn ngoèo, biển xanh một
màu trong nắng, với chút sương mù che một phần tầm nhìn, cái khe hở quá nhỏ
không thấy hết cái hùng vĩ của núi sông. Nhưng, khi xe bò lên dốc, gió biển
thổi tạt vào làm vơi đi cái ngột ngạt của suốt một đêm dài bó tay, bó chân
thêm cây còng vướng víu. Chúng tôi trong cái im lặng giữa chiếc xe bít bùng
và chỉ nhìn được bên ngoài khi cái bạt tuột dây, phất phơ sau chấn song sắt
lòng vẫn thấy nao nao.
Anh em lại bàn tán:
– Qua đèo Cả là về vùng Tuy Hòa có trại Củng Sơn, qua nữa là chúng nó
đưa mình đi Bắc, chứ ngoài đó ra đâu có trại nào nổi tiếng và lớn.
Vậy đó,chỗ nào cũng là trại tù cũng bàn cho có cái bàn, bàn rồi chút
nữa, chiều hay mai, cái nơi đến cũng rõ ràng, cũng trại tù. Hình như trong
cộng đồng tù tội, chỉ có mỗi chuyện quanh quẩn như vậy để giết thời gian.
Điều thú vị là những tay kinh nghiệm qua nhiều lần chuyển trại, đã thủ
những miếng giấy viết sẵn, bắt đầu chuyền tay ra phía ngoài xe để bỏ lại
một khu chợ, một tiệm tạp hóa bên đường, một câu ngắn báo tin và dòng
chữ nhờ ai đó nhặt được gởi về theo địa chỉ đã ghi. Biết những lá thư cầu
may đó có đến tay thân nhân không? Cái hy vọng mong manh thấy mà thương.
Mặc dù với kinh nghiệm cai tù, bọn cộng sản theo áp tải đã cảnh giác và ra
lệnh cấm, nhưng những lá thư báo đó cũng được thả xuống, thả xuống với sự
nguyện cầu của người tù, báo tin cho người thân về chuyến đi chưa biết sẽ
về đâu của mình.
Qua Tuy Hòa, xe rẻ trái chạy dọc thiết lộ. Trong xe của tôi có những anh
trong quân đội từng hành quân hay trú đóng vùng này. Câu hỏi sau hơn nửa
ngày và một đêm đã có: Trại A20 Đồng Xuân, Phú Khánh!
Đúng là miền Trung, dọc cái thiết lộ có từ thời Pháp là những đồng ruộng
khô cằn, những đồn trại nằm bơ vơ, sau chiến tranh dấu vết còn đó, con trâu
không có chỗ đứng trên đất đá cằn cỗi ở vùng này. La Hai với cái ga xép lẻ
loi là trung tâm của vùng chết chóc, một vùng gần như hết 70% dân là việt
cộng, những mái tranh thấp lè tè dưới nắng, quạnh quẽ nghèo nàn biết bao.
Xe chạy dọc con sông Trà Bương,một bên là đường rầy xe lửa, khắp chung
quanh trong tầm mắt nhìn ngược phía sau xe, tôi đang quan sát thật kỹ nơi
dẫn vào chỗ của mình phải đến, cái khó khăn đã lờ mờ ẩn hiện.
Qua La Hai, thêm một đoạn đường toàn đá, xe nhảy chồm lên thụp xuống,tù
trong xe té nhào nghiêng ngửa. Trên đoạn đường hơn 10 cây số dọc theo triền
núi, xe chạy chậm hơn, chúng tôi đang tiến vào một thung lũng chết giữa
Trường Sơn Đông và Trường Sơn Tây. Nó chính là “Thung Lũng Tử Thần” như
danh gọi.
Trại A20, hay trại Xuân Phước, hoặc Thung Lũng Tử Thần, Trại Kiên Giam,
hoặc Trại Trừng Giới. Gọi cách nào thì cũng là cái trại kinh hoàng nhất của
miền Trung, có lẽ nó cũng ngang ngửa trại Cổng Trời hay những trại khét
tiếng có chế độ giam cầm kinh khủng ở Việt Nam. Nó, Trại A20 được đặt dưới
sự giám sát và điều khiển bởi trung ương. Thay mặt cho bộ công an, điều
hành chính sách trả thù là những cán binh cộng sản toàn là gốc Liên Khu 5,
loại cán binh có tuổi đảng lâu năm và một lòng trung thành tuyệt đối. Tất
cả họ, dĩ nhiên là thành phần có trình độ nhận thức kém, dễ dụ hoặc, việc
này được nhìn thấy rõ qua những lời phát biểu của mấy đời trưởng trại,
thường là cấp bậc trung tá, từng câu, từng chữ của bọn họ cho thấy cái dốt
đặc cán mai, như một con vẹt tập nói không hơn.
Trại có 4 phân trại A, B, C, D. Khi chúng tôi đến, 1 phân trại thứ 5
được thành lập để chia mỏng số tù, ngoài ra còn để phân loại một thành
phần. Với bọn chúng, là loại chống đối không thể nào cải tạo được.Nói như
Lê Động Vũ, phân trại trưởng phân trại E, mà anh em đặt cho hắn cái tên Lê
Văn Nhừ, bởi cái mặt trẹt, vừa ngu và kèm theo giọng nói lè nhè không ra
thể thống chi, hắn là thẳng thừng không cần giấu diếm ngay buổi tập họp đầu
tiên tại hội trường:
– Chúng mày đến đây là để bỏ xác ở trại này.
Cũng cần phải nói rõ về cái phân trại E khốn kiếp này. Con tàu Việt Nam
Thương Tín quay lại Việt Nam từ Guam. Dù trước khi nó khởi hành quay lại
đất chết này, đã có biết bao người, tổ chức khuyên bảo, van xin họ đừng về.
Nhưng, chẳng biết vì tình yêu quê hương, vì gia đình hay vì cái gì đó, 1600
con người đã đặt chân lên bờ tự do, họ chọn lựa quay lại. Trung tá Trần
Đình Trụ là hạm trưởng, thiếu tá Mai Văn Trị là một trong các hạm phó đã
đưa con tàu cập cảng Vũng Tàu ngày 27-10-1975, 6 tháng sau ngày nó rời Việt
Nam trong cơn đại hồng thủy. Khi Việt Nam Thương Tín bị trúng đạn pháo
trên dòng sông Lòng Tàu trong ngày vượt chết, nhà văn Chu Tử tử thương,
người ta đã thủy táng ông ngay cửa sông Cần Giờ. Con tàu tiếp tục sang
Subic Bay để sửa chữa, sau đó tới Guam. Những tưởng về Việt Nam sẽ được an
toàn và đoàn tụ gia đình, xuống Vũng Tàu thì họ bị lọc lựa theo từng thành
phần rồi đưa đi giam giữ nhiều nơi. Một số quân nhân từ VNTT bị giam ở phân
trại A và xây dựng phân trại E.
Một tuần sau, lục đục vào trại là mấy mươi tù nhân từ trại giam Z30C,
rồi tiếp theo là Suối Máu. Nghe đâu tại Suối Máu sau cú nổi dậy của những
sĩ quan quân đội trong dịp giáng sinh 1978, những chóp bu của lực lượng nổi
dậy bị gom về Chí Hòa rồi chuyển lên đây. Tham dự vào tổng số của phân trại
E này còn có một số đông từ Nam Hà, Hà Nam Ninh.
Trung tá Nguyễn Văn Ngân thẩm phán tòa quân sự mặt trận vùng 3 chiến
thuật, người có chiều cao thấp nhất trong dàn trung tá có mặt ở nhà 3 phát
một câu:
– Tụi nó gom toàn tay thứ dữ từ các trại, chuyến này tụi nó nhốt anh em
mình mút mùa lệ thủy rồi.
Không sót em nào, từ những thành phần nổi dậy ở Suối Máu, từ Trần Đình
Ngọc của Nhảy Dù, Nguyễn Ngọc Tiên khóa 23 VBQG, một số đông khóa 25 Võ Bị,
không thiếu một ai trong những tay ngoại hạng ở Z30D, Z30C và bọn chúng
cũng không quên mấy ông Tổng Bộ Trưởng, ngoài ra còn có thêm một số linh
mục, giáo sĩ, chức sắc của các tôn giáo. Trong đó người ta thấy linh mục
Nguyễn Văn Vàng, thiếu tướng Lê Văn Tất của Cao Đài, chưởng môn Vovinam Lê
Sáng, những thành phần thượng hạng, ngoại hạng của 2 nền Cộng Hòa có mặt ở
đây.Đại tá LýThành Cầu của Quốc dân đảng, các thượng nghị sĩ và dân
biểuTrầnQuí Phong,HuỳnhThành Vị. Thêm mấy ông cấp trung tá có tiếng 1 thời
Duy Lam Nguyễn Kim Tuấn, tham mưu trưởng Biệt Cách Dù Vũ Xuân Thông, trung
tá Pháo Binh Nguyễn Văn Hồng... cùng một số các đại tá, lon lá cỡ thiếu tá
trở xuống thì đếm không hết. Toàn những tai to mặt lớn không hay chưa kịp
trốn ra nước ngoài sau biến cố 30-4-75.
Thung Lũng Tử Thần, nằm giữa hai dãy Trường Sơn, chung quanh toàn là
những cao độ chết chóc. Gió mùa Lào như cái chảo trên lò lửa, cái nóng kinh
hoàng đó như nướng cả trại tù, cây cỏ khô khốc, cái thung lũng như co lại
chịu đựng, những người tù cũng co lại, nhìn thấy chút năng lượng cuối cùng
của mình chảy theo những giọt mồ hôi trên sườn đồi đất đá cằn cỗi.
“Phân trại E, Đồng Xuân-Phú Khánh, hòm thơ 1870” là địa chỉ trên thư tín
của trại này. Phân trại E năm 1980, có vài đội hình sự, đa số là những đội
lâm sản.
Nhà 1 và 2 là hai nhà chứa đội trọng án, từ 10 năm đến chung thân, toàn
là chính trị phạm, ra tòa và bị kết án, trong đó có vài thiếu tá, mấy chục
ông đại úy như Biệt Kích Lôi Hổ Nguyễn Văn Xuân gốc Tây Ninh, trung úy
pilot Nguyễn Văn Hương... Những sĩ quan này toàn là không trình diện, theo
các lực lượng nổi dậy sau 75, thậm chí bên hành chánh có cả Y Nuh Buôn
Krông Trưởng Ty Sắc Tộc Ban Mê Thuột. Có thêm Tám Trọng, Võ Hiếu Nghĩa của
Cao Đài cùng những chức sắc của các mặt trận và các tổ chức nổi dậy.
Nhà 3 gồm 4 đội, 2 đội sĩ quan trình diện, 2 đội vừa dân sự vừa quân đội
có án chính trị. Nhưng, mẫu số chung vẫn là Tập trung cải tạo.
Nhà 4 cũng 4 đội, 1 đội Văn Nghệ của phân trại, đội này xem ra là tạp
nhạp nhất, vừa có hình sự, quân đội, dân sự và có án, ở chung. Luật sư ca
sĩ Khuất Duy Trác ở đội 16, thiếu tá Lê Phi Ô của đội văn nghệ cũng ở nhà
này. Đây là căn nhà đặc biệt. Đội 14 là đội có 7 anh hùng cướp súng vượt
trại lúc 15g chiều ngày 13-11-1980. Ngoài ra có một nhà riêng trên lối vào
phân trại, dành giam 17 linh mục, tu sĩ, anh em thường coi đó là đội hoàng
gia theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
2- Đáy địa ngục:
Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp, Thung Lũng Tử Thần của Vũ Ánh hay
Cuối Tầng Địa Ngục của Đỗ Văn Phúc đã mô tả tỉ mỉ về cảnh quan cùng những
dã man đàng sau nó đến vài ngàn trang giấy rồi. Tất cả bao nhiêu tốn hao và
trí nhớ đó, bây giờ chẳng cần phải nhắc thêm lần nữa làm đau cho những vết
thương cũ. Trại Trừng Giới suy cho cùng là tất cả những gì đã được, đã từng
nhắc đến. Ngày đầu tiên thành lập phân trại E, khi anh em chính trị phạm từ
Z30A, Z30C, Z30D và một số quân đội từ Suối Máu, sau cú nổi dậy đêm Giáng
Sinh về đây, danh gọi “Trại Trừng Giới” hiện dần chân dung của nó. Dĩ
nhiên, bọn trấn áp ra chiêu đầu tiên là chiên xào trong danh sách có đính
kèm hồ sơ cá nhân từng người, nhất là thành phần chủ chốt từ các cuộc chống
đối ở các trại trước.
Tôi thuộc đội 8, nhà 3 ở chung với đội 12 và đội 20. Gọi tên sắp hàng
theo đội xong, thằng nhóc Nguyễn Lâm Tri, an ninh trại đi một vòng quanh
đội 8, hắn chỉ ngay tôi, dế chó nhất, cái mặt trông ngu nhất:
– Anh, làm đội trưởng đội này. Anh tên gì, can tội?
– Tôi, Nguyễn Thanh Khiết, phản động.
Hắn lườm tôi một cái rồi bước sang hai hàng khác giở lại chiêu chỉ định
đội trưởng, hắn làm bộ rẹt rẹt chồng hồ sơ, lôi Phạm Văn Tường làm đội
trưởng đội 20. Nguyễn Thành Phương làm đội trưởng đội 12.
Vào nhà xong, phân chia chỗ nằm, tôi bèn chạy lại vấn kế Tăng Xuân Bá,
một tay từ Z30C lên và “ông đại sứ” trung tá Vũ Bội Ngọc, mấy ông tướng này
chung với tôi cả chục ngày, dù mới gặp nhưng tướng tá rất khả tin:
– Trời! Làm sao bây giờ, trời đất, tui nhỏ nhất trong anh em, làm đội
trưởng hả? Bỏ mẹ rồi.
Tăng Xuân Bá trấn an tôi:
– Cậu không làm thì thằng khác làm, lỡ gặp thằng trời ơi đất hỡi thì
tiêu anh em.
Vũ đại sứ chêm thêm một câu:
– Bề gì cũng có thằng làm đội trưởng, cậu xem đi, tụi nó chơi chiêu tất
cả các chính trị phạm làm đội trưởng, trong khi đội nào cũng hầu hết là anh
em quân đội, toàn thứ máu mặt không, chuyện xãy ra trong nay mai thì ông em
biết rồi, cậu xem ra là candidate của tụi tui rồi. Ông lại vuốt tôi bằng
tiếng Tây nữa chứ.
Công tác vĩ đại nhất đầu tiên của toàn phân trại E là đào ao bác hồ. Mấy
thằng thống kê, thiết kế và đám văn hóa của trại, đã cắm cọc xây mô hình
cho cái ao chó chết đó lâu rồi. Cả trại gồm 12 đội trong đó một số chính
trị có án ở nhà 2 cũng tham gia. Gần 300 con người trên diện tích 5.000 m2
của cái ao, bắt đầu cuốc, chuyển, đắp đất lên thành ao, tất cả dụng cụ thô
sơ bày trên những đống bùn nhão là cuốc, khiêng, xẻng thấm những giọt mồ
hôi tù. Dưới cái nắng như lửa đốt, thành ao càng ngày càng cao, dưới đáy ao
càng ngày càng sâu, không một chút gió. 3 tháng trời đám tù phơi lưng dưới
đó. Trên thành ao, đám cai tù lấy lá dừa che những cái chòi tránh nắng,
chúng hò hét chỉ trỏ, lên đạn lách cách mở khóa an toàn thị uy mỗi khi có
một tên tù trong một đội nào đó vô tình hay cố ý ngất xỉu.
Thê thảm cho đội 8 của tôi, trúng phải thằng quản giáo Ninh gốc liên khu
5 ác ôn có tiếng của trại. Hắn cứ lải nhải bên tai tôi:
– Anh Khiết cho đội làm đi, khẩn trương lên, ghi đúng năng xuất từng
người, từng tổ, báo cáo cho tôi.
Hoặc:
– Ơ hay sao anh để đội làm làng nhàng thế, chống đối lao động hả? Anh
kêu anh Tùng lên gặp tôi.
ĐM nó, có chịu nổi không, thằng cắc ké, tôi hậm hực đi gọi Nguyễn Thanh
Tùng. Tùng là sinh viên Văn Khoa, nó học sau tôi một năm thì phải, cũng
từng ghi vào Luật, từng theo dấu xưa mò lên Phương Lâm, rồi theo Sinh Viên
Á Châu chống cộng, một lực lượng rất đông của các sinh viên sau 1975, chẳng
biết xuất xứ từ đâu, nhưng sau đó lực lượng này bị bắt khá đông, không
chừng nó do tụi việt cộng gài cũng nên. Tùng bị nhốt ở Tân Bình, rồi trôi
ra Z30C và hôm nay nhập vào đội tôi, tôi và hắn cùng một thời nên sau này
rất thân với nhau, vả lại hắn và tôi ở cái trại chó chết này 6 năm, từ E vô
B rồi về cùng một ngày.
Bị bắt buộc làm thằng đội trưởng, một đội gồm 30 nhân mạng hết 75% là
đàn anh, đàn chú của mình, quả thực khó cho tôi vô cùng. Nếu chỉ là thằng
tào lao nào đó thì cũng cho là được đi, đàng này tôi là thằng chống cộng
thuộc loại nhà nòi, bị ép vào ca này tức chết được. Tôi mang tâm sự thỏ thẻ
với mấy bô lão trong đội, vài bạn trẻ chịu chơi một chút, bọn họ cứ đùn tôi:
– Kệ mẹ nó, ông cứ thế mà làm, đỡ cho anh em được bao nhiêu thì hay bấy
nhiêu.
Vũ đại sứ gật gù:
– Tôi nghĩ ông em sắp tiêu rồi, nó sẽ lấy bạn tế thần, dằn mặt một số
đội trưởng khác, dằn mặt luôn anh em. Nhìn thì biết, cả tháng nay nó hành
tụi mình thê thảm, đội thì đi sớm về trễ nhất trại, thằng Ninh quản giáo cứ
kè kè hối thúc, làm bạn phải đôn đốc anh em theo lệnh của nó, bạn làm thì
anh em ghét, không làm thì nó chơi bạn là thiếu trách nhiệm,nói chung đàng
nào cũng chết.
Cũng phải, khi đội xuống ao tôi thường đi ngang anh em nói nhỏ:
– Tui nói gì thì nói các cha chớ có để ý nghen, làm từ từ thôi giữ sức
khỏe chờ ngày về.
Vậy là tôi cứ ào ào:
– Làm đi, không nghe lệnh cán bộ hả, làm đi.
Hình như thằng Ninh cũng thấy rõ tôi thuộc loại nào tại cái ao khốn nạn
này, chắc nó rình tôi kỷ lắm, đến nỗi Lâm Sơn Hải con trai của tướng Lâm
Thành Nguyên từng nhắc tôi:
– Coi chừng nghen Khiết, bữa nay thằng Ninh xuống tới đáy ao canh tụi
mình.
Hai mai Bùi Đạt Trung của BĐQ, dân K25 VBQGVN, đang nhích từng bước
khiêng ki đất với luật sư Vũ Hùng Cương nói nhỏ với tôi:
– Mày coi chừng thằng Ninh, tao thấy nó chịu hết nỗi, chắc nó đang kiếm
cớ chơi mày đó.
– Kệ mẹ nó, còn anh ráng chịu khó chút, anh Cương sức yếu quá e không
trụ nỗi... Cám ơn đại ca nghen.
Có khi tôi quan sát, thấy cả đội gần như kiệt sức trong cái ao chó chết
này, nghĩ thương cho thân phận tù đày của mình, một thằng nhóc nhi vừa ngu
vừa dốt, đứng đó chấp tay sau đít thúc giục ra oai với những con người tuổi
đời đáng cha đáng chú nó.
Phải nói là đào ao đó tụi tôi lề mề đếch chịu được, nếu ai đứng trên cao
cũng phải ngứa mắt, tụi tôi giơ cây cuốc lên thì chim đậu, bổ xuống thì mối
xông, đủng đỉnh khiêng cái ki trên đó chừng hai xẻng đất nặng chưa quá 5
kí, cả hai người khiêng như khiêng thây ma, lê từng chút từ đáy ao lên
thành ao, đổ xuống rồi lừng khừng đi theo triền dốc của thành ao, những
bước chân nối sát nhau như đang diễn tuồng hát bộ, tụi cán bộ càng bực
thì nhịp diễn càng chậm hơn. Thêm nữa ao đào khi có nước, bùn bên này đẩy
sang bên kia theo vạch chia làm mức lao động hàng ngày của mỗi tổ, tụi cán
bộ gọi đó là trò “đánh bùn sang ao”.Tụi tôi muốn làm thế, trong tù lúc
nào cũng phải làm thế, khoái đi ngược bất cứ cái gì mà chúng bày ra để hành
tụi tôi. Nguyễn Tú Cường dân TQLC là tay tổ chiêu này, thêm sự góp sức của
Lê Hữu Ích. Các anh đối với tôi chí tình như vậy, các anh biết tôi đứng
giữa hai gọng kìm nhưng lúc nào cũng một lòng với phe ta, nên hết sức lo sợ
cho tôi. Mà lo thì có được gì. Một bữa, thằng Ninh kêu ông già Huỳnh Phát
Đạt, một tu sĩ tại gia của Hòa Hảo lên, chửi như tát nước, qui trách tá lả
tội trạng, nào là chây lười lao động, không biết đấu tranh, âm mưu phá hoại
kế hoạch lao động của đảng đã đề ra..v..v...Tôi nổi điên, khi bị gọi lên
đứng song song với anh Đạt:
– Cán bộ, anh này tuổi đã cao, sức yếu, không thể làm những việc nặng
như thế, vả lại anh ấy luôn bị đau bao tử, tôi nghĩ anh ấy không có ý đồ gì
đâu.
Thằng Ninh biết tôi chống chế cho anh Đạt, nó nhân cơ hội ngàn năm 1
thuở này quay sang đớp tôi một phát:
– Anh là đội trưởng mà xưng hô với cán bộ vậy hả? Phải “thưa cán bộ”
đàng hoàng, lại không đôn đốc đội viên còn bao che, xách động chống đối lao
động, bộ anh tưởng chúng tôi không biết thành tích phá hoại của anh ở trại
cũ chắc?
Nó đứng giữa ao tuyên bố:
– Cho đội về, anh Khiết tối nay làm kiểm điểm, ngày mai ở nhà làm việc
với cán bộ.
He he! Vậy là xong, trút nợ, hôm sau tôi tà tà lên gặp thằng Nguyễn Lâm
Tri an ninh. Đúng như các đấng tiên liệu, tụi nó chơi tôi một phát vì thiếu
trách nhiệm, xách động trại viên chống lao động, thậm tệ hơn là phá hoại kế
hoạch sản xuất lao động của trại, tào lao hơn nữa là xưng hô với cán bộ
không đúng qui định. Tôi tà tà vô cùm sau khi đứng trước toàn trại nghe
lệnh kỷ luật. Và đây là lần đầu tiên tôi bị cùm ở Trại Trừng Giới.
Một tháng sau, tôi ra khỏi biệt giam, bị đưa về đội 13 nhà 3. Trong lúc
tôi bị cùm, có thêm một số các anh từ miền bắc về thẳng trại này, con số tù
nhân ở phân trại bây giờ đã sắp sỉ 3 ngàn.
Thung Lũng Tử Thần:
Trời mưa tầm tả, mưa như trút hết tất cả nước mà cả bầu trời có được,
tích tụ được. Những hạt đập vào khung kính, vỡ tan, tạo ra những âm thanh
cuồng nộ, thứ âm thanh ghê rợn theo những tia chớp sáng rực ngoằn ngoèo
chạy đến từ một góc trời. Nước, nước tràn xuống, nước dâng lên, nước ào ào
chảy trên đường, cuốn phăng rác rưởi, nước ầm ầm như muốn nhấn chìm cả
thành phố. Một cơn gió đập vào cửa sổ khép nửa làm tôi thấy lạnh. Cơn mưa
giữa mùa ở Sài Gòn thật đáng sợ.
Đã lâu lắm rồi, có hơn mấy mươi năm, tôi vẫn nhớ...
Mùa mưa và cái lạnh của năm 1981. Cái lạnh dọc xương sống, lan ra lớp
xương sườn khi nằm nghiêng, co quắp trên sàn tù loang lỗ, cái lạnh run cằm
cặp, hai hàm răng đánh vào nhau. Tự dưng hôm nay lại vùng dậy nổi cộm trong
đầu, nó phình to dần như một quái thú, từng góc cạnh của nó đâm tan nát
những cố gắng tưởng như theo tháng ngày đã quên đi. Cái cố gắng quên làm
thêm nhớ, nhớ tàn bạo.
Khu chúng tôi ở là dãy nhà 4 căn có nhiều lớp dây thép gai chắn ngang
dọc.Lối vào khu khoảng 1 mét nằm gọn trong hàng rào thép gai đó. Mưa kéo
dài hơn nửa tháng làm cánh cổng khu làm bằng những đoạn cây rừng bện những
mắt thép gai chi chít, nằm ngả trên đất. Cái cổng bị quên từ hơn nửa tháng
dưới những cơn mưa liên tục hết ngày rồi đêm, hết to rồi nhỏ, tưởng như
không bao giờ dứt hạt. Ngồi co ro trên sàn nhìn qua cửa sổ, cả một trời
trắng phau. Trại A20 nằm giữa Trường Sơn đông và tây, một lòng chảo chết
tiệt, hứng hết nước trên trời xuống, nước từ hang hóc đổ về, mặt sân trại
có khi nước chồm lên rồi rút xuống theo nhịp mưa.
Hơn nửa tháng cả trại tê liệt, ngoài hai lần điểm danh trong ngày. Sáng
thức dậy, chiều vào phòng. Chỉ có những người có nhiệm vụ trực, dầm mưa
mang cơm nước từ bếp trại, chúng tôi co ro trong nhà chống chọi cái lạnh
thấu xương. Tất cả những thứ có thể đều được tận dụng chống rét, cái rét
lúc đói quả là dã man, sức người như rũ liệt,tay chân chẳng còn muốn nhúc
nhích. Những tay nghiện thuốc thật là bi thảm, chúng tôi chia nhau,có khi 3
người hút vỏn vẹn một bi thuốc lào, thuốc lá là thứ quí hiếm trong trại tù
nhất là trong mùa rét mướt như thế này. Dưới tận cùng cái thống khổ của mùa
mưa là đói. Đói cồn cào gan ruột, đói bủn rủn tay chân, có lẽ lần đầu tiên
tôi mới cảm nhận được cái đói “đói mờ mắt”. Những lát sắn khô dự trữ trong
kho có lẽ cũng cạn rồi, thứ thức ăn gần như phế thải,cả heo cũng phải chê
đó được cắt lát từ loại khoai mì gốc Ấn Độ H34, để nguyên cả vỏ phơi khô.
Nhà bếp trại rửa sơ qua rồi đem ninh trong chảo lớn, sau đó mang phân phối
xuống từng đội, những lát khoai luộc đó là những lát bầy nhầy một thứ nhựa
màu xám bám chung quanh như lớp keo, lũ ruồi khoái nhất mùi vị này nên
trong trại chúng tôi, những cư dân không mời mà tới từng đàn đen nghẹt. Một
phần ăn là mấy lát khoai đong đếm bằng cái chén nhựa nhỏ cùng với hơn nửa
chén cơm nấu bằng gạo mục. Thỉnh thoảng trong đợt gạo mới nào đó thì khá
nhất cũng chỉ là những hạt cơm vẫn còn mùi mốc, thứ mùi của gạo tồn kho
nhiều năm. Thức ăn là một thau nước muối, thứ muối biển pha nước nấu đó thì
tha hồ không cần chia chác.
Năng lượng nuôi sống cơ thể tụt xuống kinh hoàng có thể nhận biết rõ
ràng sau đợt mưa, cái lạnh làm tiêu hao năng lượng nhanh chóng và đám tù
sụp xuống nhanh chóng. Dưới những cơn mưa trút nước đó đã có người ra đi
vĩnh viễn. Những chuyến đi về đồi Vĩnh Biệt dưới cơn mưa dầm buồn chết
được, chuyến đi thê thảm của một con người da bọc xương, tong teo nằm trong
mấy miếng ván hòm cưa cắt vội vàng. Chỉ một manh chiếu nát, vâng, chỉ mỗi
manh chiếu nát, tất cả những quần áo đã tặng lại cho bạn bè, những thân tù
đang tiếp tục chống chọi cái rét miền Trung. 128 con người trong nhà 3 của
phân trại E nằm nghe tiếng mưa dỗ vào giấc ngủ, cái ngủ chỉ là phút giây
mắt nhắm, chập chờn trong cái đói, lạnh và nỗi đau chiến bại của kiếp đi
tù. Mưa ầm ầm hay mưa từng giọt, mỗi giọt là một cơn buốt lạnh chạy tràn
thân thể. Cái thân thể tong teo qua nhiều năm lê từ nhà giam này tới nhà
giam khác. Trại A20 cũng đâu phải là nơi họ dừng lại cuối cùng, cái lạnh
này, cái đói đó cũng đâu phải là giới hạn sau chót, biết đâu được những
ngày tới sẽ đói hơn, lạnh hơn. Bây giờ, nằm đây nghe tiếng mưa rơi tàn nhẫn
rót xuống đời, có thể sáng ngày mai không còn thức dậy, lịm dần và ra đi
trong cái đói, cái lạnh không chịu nổi đó. Bản thân họ cũng không biết mình
đã chết, chỉ có bè bạn nằm bên là biết khi chạm vào cái xác cứng đơ đã chết
thật tội nghiệp đêm qua. Mà cũng chưa chắc là bất hạnh, có thể trong cái
lịm đi đó, kẻ chết đang mơ với một bàn ăn, có cơm trắng, cá tươi hay một
món ăn nào đó mà họ thèm đến độ bọt nước miếng trào ra khi đang chết.
Thấy tôi co ro trong cái lạnh, Nguyễn Thanh Bình, đại úy người gốc Huế
khéo tay có biệt tài may vá, anh đã cắt từ một cái mền màu cứt ngựa, may
cho tôi một cái áo kiểu trấn thủ hai lớp, thêm một cái võng nylon cắt khít
khao lót phía trong và một cái khăn quàng cổ bằng mền len, vải bọc là cái
võng đó. Những đường may tay, cây kim bằng sợi thép gai mài nhỏ đục một cái
lỗ xỏ vừa sợi chỉ bằng bao nylon dệt sợi loại đựng thức ăn gia súc, cây kéo
là con dao làm từ một miếng sắt. Đồ nghề của anh, của chúng tôi trong việc
may vá quần áo là thế. Thiếu vải, đại úy Lê Hoàng Ân giảng viên trường Sinh
Ngữ Quân Đội tặng cho một khúc vải bố. Thiếu chỉ, lựa thằng bạn tù nào đó
từng được thăm nuôi mà xin, quà cáp gia đình thường dùng thứ bao này.
Bộ giáp ra trận của tôi được hoàn tất trong 2 ngày dưới tiếng mưa rơi.
Ân tình đó, nó theo tôi suốt chặng đường còn lại. Cho tới hôm nay, mùi
nylon khó chịu của cái khăn quàng cổ lấm tấm dấu thâm kim, hơi ấm của cái
áo trấn thủ vẫn như đâu đây, mùi cáu bẩn trong nhà giam vẫn như ngày nào,
lất phất bay trong mưa. Thứ tình nặng như nợ núi sông ngày trước còn nguyên
đó. Những chiến binh một thời lẫm liệt sau buổi tan hàng trong Thung Lũng
Tử Thần. Kẻ còn, người mất, hay trôi nổi tận phương trời nào. Đâu ai biết,
có 1 người tuổi trẻ năm xưa, se sợi tóc bạc, trong lúc xế chiều ngồi nhớ,
những bàn tay đã dìu nhau trên gông cùm thuở đó.
Một giọt nước mắt lặng lẽ rơi xuống, chẳng biết để tiếc, để thương hay
chỉ là phút giây thoáng nhớ tình xưa nghĩa cũ. Tôi là ai, làm gì với những
dòng chữ không chở được hết 1 đời ly biệt này. Sao vẫn còn trên những bông
hoa đã héo úa của phận người. Ôi! nhớ ơi là nhớ! Chiều xuống vội vàng,hơn
trăm con người xếp hàng hai bên cửa phòng dọc theo hàng hiên, mưa bụi hắt
vào làm cóng lạnh.Điểm danh vào chuồng,chúng tôi gọi thế, gã trực trại mặc
áo đi mưa với thằng trật tự, tới từng nhà điểm danh và khóa cửa. Từng
cặp một bước vào trong đi qua làn ranh vô hình, như đi qua hai thế giới
sống và chết. Cái thực tế, trong ngoài định rõ bằng một bước chân. Vào
chuồng là khoảng thời gian có thể cho riêng mình, một thế nằm, một chỗ
ngồi, tựa lưng vào tường vôi bong tróc cũng có thể mang lại giây phút rất
bình yên, la cà chỗ này hay sang chỗ khác với những ai hiếu động cũng là
một thú vui của một ngày tù, nếu không phải xếp hàng theo đội để họp tổ,
họp nhà. Câu “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” hình như không đúng
vào thời đi đày của chúng tôi, bởi vì ai cũng phải quên ngày tháng. Thứ
nhất, nó không phải là 5 hay 3 năm, mà nó là 15, 20 năm hoặc cả đời. Thứ
hai, ai mà quỡn nghĩ tới thời gian. Có chăng là lúc nào đó, một mình nhớ
lung tung, nhớ chuyện xưa, nhớ nhà, nhớ vợ, thương con, giật mình mới biết
là mình mang phận tù đày đã lâu lắm rồi. Một ngày có 24 tiếng, sáng thức
dậy nghe tiếng kẻng là bắt đầu vội vàng đánh răng qua loa, ăn sáng, đi lao
động khổ sai. Tiếng kẻng báo thức đó là âm thanh báo cho một ngày đương đầu
với giặc,đương đầu với đói rét, với trăm thứ nặng nhọc đè trên cái xác héo
mòn, cạn kiệt. Phải luôn trong tình trạng chiến đấu trong đầu, dự liệu
những tình huống bất ngờ xãy ra cho mình từng tích tắc.Chủ trương của trại
là tù nhân không có thời gian để suy nghĩ, mà tù nhân thì luôn nghĩ suy.
Nghĩ đến làm cái gì bất lợi, phải phá hoại cái gì đó của giặc nếu có thể
được. Nó không phải do lòng tham mà là một mặt trận luôn diễn ra để chống
đối, để kháng cự lại kẻ thù. Như 1 tên gác rừng mất hết vũ khí trước bầy hổ
báo, bản thân hắn phải can đảm với hai tay không.
Rất khó lầm lẫn khi đối diện với một người. Trong xã hội thu nhỏ này,
nhân tướng học là công cụ thích hợp để kiểm tra lại tính chính xác. Cung
cách của mỗi cá nhân trong từng ngày cũng đóng vai trò đặc biệt trong việc
nhận chân một con người, chưa nói đến cái đạo đức là nét rõ nhất. Càng khốn
khó con người càng lộ rõ bản chất của mình, tiếc thay cái gì cũng phải có
thời gian, cái thua thường xảy ra trong thời gian chờ đợi. Trước khi nhận
rõ mặt kẻ gian, mình đã thua trắng tay, thua sạch sành sanh.Cái thứ xãhội
hổ lốn đó làm người ta luôn trong tư thế thủ, có khi phải “nín thở qua
sông”. Giữ được trong sáng thật không phải làchuyện dễ dàng trong tình
huống nghiệt ngã như thế này. Mỗi người tù phải tự trang bị cho mình một sự
hiểu biết cần thiết để sống còn. Cái chết non thường đến với người trẻ
tuổi. Tôi rất trẻ trong cái xã hội thu gọn này, với số vốn học lóm từ ba
tôi, những cuốn sách về tướng học của ông nội tôi mà may mắn tôi đọc được
giúp tôi rất nhiều.
Mùa mưa 1981 ở Thung Lũng Tử Thần này, tôi co ro một góc, im lặng quan
sát, cố ghi nhận tất cả những gì tôi cho là đúng, là sai. Gom chúng lại rồi
thở dài khi biết chắc mẫm rằng mình sinh ra trong một giai đoạn có cái xấu
nhiều hơn tốt. Sống chung với nhiều kẻ đáng khinh hơn những người đáng kính.
Gốc cây vông già trên đường vào sân trại mất dần lá, lá non được coi là
thứ chống đói, lá già phơi gió hay nắng, khô một chút đủ có thể bắt lửa là
đem thay thuốc hút. Những cơn lạnh chết người ở đây, người ta phải làm thế
để sống còn, cái gì có thể bỏ vào mồm để đánh lừa bao tử đều được tận dụng,
cây cỏ dại, cọng rau sam, đọt cỏ kiểng. Phải thành thật cám ơn trời đất còn
cho những giống vô tri này tồn tại để giúp đám tù xác xơ, loài động vật có
ý thức trước trăm ngàn thiếu thốn đó có cái mà ăn, ăn để lừa dối chính mình
rằng: Đã có ăn!
Nước trên ngàn tuôn xuống làm hư nát những con đường trong thung lũng,có
đoạn bị sạt lở lấp ngang một khoảng dài. Trại A20 nằm gọn trong vùng nước
mênh mông của Phú Yên, nó bị cách ly hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Suốt
cả tháng trời đơn độc như vậy. Cái đơn độc đó kéo theo mấy ngàn tù nhân
sống dở chết dở.
Có những đêm không cách gì ngủ được, tôi cố xoay người nằm nghiêng nhìn
ra cửa sổ, he hé tấm bạt nylon chắn gió cố nhìn thật xa. Trường Sơn như
những nấm mồ nhấp nhô dưới trời sấm chớp, xa xa bên kia là đồi Vĩnh Biệt,
gió hú từ góc rừng bọc ra sau trại thổi qua hàng rào kẽm gai, những cái lon
sữa bò làm thứ bẩy chống vượt rào rung lên từng tiếng kêu tuyệt vọng. Đêm
mưa rừng buồn chết được, tiếng thở dài khe khẽ của ai đó ở sàn dưới, cũng
có người thức với mưa đêm cùng với tôi, cũng có kẻ trăn trở như tôi trong
đêm mưa bão đầy trời. Biết đâu, chốn quê nhà ở mãi tận chân trời cũng có
mưa rơi, cũng có người thân đang sống, nhớ đến những người đang chờ
chết...Thỉnh thoảng tôi cũng nhớ nhà, nhớ tuổi thơ, nhớ những nơi mình từng
qua. Cây cầu, con suối, nhớ từng khuôn mặt người thân, nhớ chồng sách cũ,
cả một trời để nhớ! Tôi cũng mơ ước nhiều thứ, mơ được đi trên hè phố một
chiều mây tạnh, mơ ly café đen bốc khói từ một cái quán nào đó, mơ chén cơm
gạo mới, chén nước mắm có vài lát ớt cắt nhỏ thơm mùi cá cơm, thèm chén
canh rau tập tàng có cả lá mồng tơi nấu tôm khô, mơ một bữa ăn đạm bạc. Cơn
thèm ăn như vậy có khi dỗ được giấc ngủ muộn màng, trong tiếng mưa khuya và
gió gào như bước chân của dãy Trường Sơn đang tiến qua thung lũng. Ôi tháng
mười mưa lũ!
Tại nhà 3, phân trại E, trại A20, tôi nằm tầng trên, bên phải sát góc
nhà phía cầu tiêu, ở vị trí này tôi có thể nhìn thấy tất cả trong căn nhà
đó, 128 con người vào thời cao điểm, chen chúc nhau vai gối vai khi nằm
xuống. Trong trại tù có những cảnh thật sự khó chịu khi nhìn thấy, cái chỗ
nằm cũng phải đặt cây thước chia ra thật đều, nói chung ăn ngủ làm việc thứ
chi cũng phải chia, thậm chí cái không gian ở tù cũng phải chia, chỗ nằm đã
đành, với cái vách mùng căng lên cũng phải theo ranh giới. Sát vách tường,
trên cũng như dưới đều có một tấm xi măng rộng 40cm chạy dài suốt căn nhà,
trừ cánh cửa cho tù nhân chứa đồ cá nhân, chỗ này cũng phải chia ra. Nói
tóm lại, chúng tôi mỗi người có một khối thể tích được tạm gọi là của mình,
bề ngang nửa mét, dài 2m, cao đụng nóc nhà hay đụng sàn trên, bất cứ thứ gì
trong phạm vi này thì người đó phải chịu trách nhiệm, kể cả cái lưỡi lam
cạo râu, 1 cây kim may của ai đó đã đánh rơi... 1 hoặc 2 tháng thì tụi chèo
lại xáo trộn một lần, chuyển nhà, chuyển đội, thậm chí chuyển phân trại.
Chúng cố tạo bất an mọi mặt, chúng làm đủ mọi chiêu trò để gây bất hòa giữa
chúng tôi, chúng giam thành phần chính trị chung đội, chung phòng với anh
em quân đội, cài cắm anten vào từng đội để moi tin tức. Với những kinh
nghiệm của những tù nhân mới tới trại này, ba cái vặt vãnh đó chúng tôi xem
như trẻ con. Tuy nhiên, đời đi tù đâu có dễ sống như vậy. Nhà 3 chúng tôi
chứa 3 ông Tổng Trưởng, Ngô Khắc Tỉnh, Tổng Trưởng Giáo Dục, Ngô Khắc Tịnh
là ông em phụ trách Tư Pháp, Hồ Văn Châm, Dân Vận và Chiêu Hồi, người thứ
tư Nay Luette, Tổng Trưởng Sắc Tộc thì ở phân trại B. Nghĩ mà xem, dàn tổng
trưởng là cấp cao gần đụng la phông rồi, vậy đời thường các ông ấy thể hiện
cung cách làm việc của từng cá nhân như thế nào? Biểu hiện trong tù là tất
cả từ nhân cách tới tư tưởng, nó là cây thước cân đo chính xác nhất của nỗi
vinh nhục đời người. Cái gì cũng có thể che giấu, nhưng trong hoàn cảnh một
xã hội thu nhỏ, va chạm nhau 24/24, còn hơn cả vợ chồng thì không thể giấu
được, kể cả cái chi li nhất.
Ông Tỉnh thì đằm thắm, rất chi là từ tốn, ông không vội vàng, đối xử với
mọi người rất bình đẳng, nhưng với đám cán ngố thì dứt khoát, ông xử
đúng vai trò 1 tổng trưởng, không bao giờ mang ra khoe khoang những công
việc ông từng làm trong 2 thời Cộng Hòa mà ông đã sống. Ông em, Ngô Khắc
Tịnh, nóng tính hơn một chút, nhưng với anh em phe ta thì hòa nhã, với giặc
thì không. Ông Tịnh ít nói có thể do hai chân ông gần như bị liệt, rất yếu,
khi di chuyển ông phải dùng gậy, là người rất được đám anh em trẻ bu theo
học hỏi. Duy có Hồ Văn Châm, nhiều khi cách cư xử của ông ta làm tuổi trẻ
chúng tôi bực dọc, thậm chí có lần trong một buổi họp nhà, tôi thẳng thừng
chửi ông ta trước cả trăm con người đến nỗi ông thầy tôi Ngô Khắc Tịnh phải
kéo tay tôi ngồi xuống:
– Anh nóng quá, thôi kệ đi dù sao ổng cũng lớn tuổi rồi.
Tôi quay lại nẹt luôn ông thầy của mình:
– Dù cho ông Châm lớn tuổi, có phần lú lẫn, nhưng không thể trước 1 cán
bộ nhóc nhí, bản thân ông đứng đầu một bộ mà phải cung kính sợ hãi đến
như vậy.
Rồi tôi phang luôn:
– Các bác, các chú, các đàn anh phải nhớ tại trại này, hay bất cứ nhà tù
nào, các người trẻ chúng tôi vẫn luôn nhìn về quí vị, xin quí vị sống làm
sao để làm gương cho lớp trẻ chúng tôi. Quí vị có biết cái tan tành ngày
xưa làm cho lũ trẻ tụi tôi khốn khổ thế nào không? Nếu tôi và những người
trẻ có mặt nơi đây đều hèn như vậy, thì chúng ta sẽ ra sao? Đúng ra chúng
tôi đâu phải bước chân vào tù tội thế này? Đó là trách nhiệm của các anh,
đã để chúng tôi dấn thân dọn dẹp đống đổ nát đó, có hiểu không?
Tôi dịu giọng xuống:
– Tôi phát biểu xong, muốn ghi vào biên bản buổi họp, xin cứ tự nhiên.
Dĩ nhiên là cả nhà im re. Vụ này xảy ra là do Hồ Văn Châm, trong lúc cả
đội xếp hàng nhập trại, một cán bộ nhóc nhi kêu lại dặn dò chi đó. Ông ta,
tướng đã lùn, lại khom lưng xuống cúi rạp người như bái tế:
– Dạ dạ... thưa cán bộ tôi nghe, dạ dạ... thưa cán bộ tôi sẽ làm.
Ông cứ dạ miết và cúi đầu miết, làm chúng tôi tức điên lên, sĩ khí của
những người tù từng máu mặt ở các trại giam cũ, nhìn thấy cảnh bị lăng nhục
giữa bá quan văn võ như vậy làm sao chịu thấu. Cho nên vì thế, mà ra cái vụ
kiểm điểm trước nhà. Thói thường thì chúng tôi làm cho qua chuyện, cho có
cái gọi là họp hành, nhưng lần này là mổ HồVăn Châm với tư cách cựu tổng
trưởng đã làm nhơ danhVNCH,làm nhục cơ quan hành chánh cao cấp ngày trước,
mấy đàn anh thì tính đại khái dằn mặt ông ta thôi, tới phiên tôi có ý kiến
ý cò,tôi đi 1 phát văng miểng tá lả. Sau ca này các lão tướng rầy tôi một
trận:
– Có đáng không? Lỡ tụi nó đòi ghi biên bản thì mày chắc chết, cái thân
ốm nhom nó biệt giam chừng 6 tháng là tiêu đời.
Tôi gân cổ cãi lại:
– Mấy đại ca chịu nổi, đám trẻ tụi tôi tức ói máu mà còn kêu đừng đụng
hắn.
– Bởi vậy tụi bây phải nhẫn, bình tỉnh, thiếu cha gì cơ hội, sao lại
giữa lúc họp nhà mà kê tán hắn?
– Ờ hén.
Danh sách của Trại Trừng Giới có hơn chục Đại Tá, từ những bậc lão thành
thời Đệ Nhất Cộng Hòa tới những ông thứ dữ sau này, bậc Trung Tá đâu chừng
20 vị, mỗi người mỗi vẻ, gồm tất cả quân, binh chủng, dàn Thiếu Tá thì
đếmcũng đủ xỉu nóichi là cấp thấp nữa.Tuy nhiên cái quan trọng theo nhận
định của hầu hết anh em từ chính trị phạm hay có án hoặc quân đội tập trung
là sĩ khí 1 tù nhân đã mất nước,danh dự 1 chiến binh từng cầm súng, trách
nhiệm của 1 người dân miền Nam sau ngày tan hàng. Đó là thước đo cho anh em
sống còn trong trại giặc. Bởi thế cho nên tại phân trại E, trại A20 có
nhiều ca rớt nước mắt, nhiều ca đau thấu trời xanh.
Buồn vui kiếp đi đày:
Một chiều chủ nhật cuối đông, sau một ngày thoải mái nằm không, không có
cái vụ lao động xã hội chủ nghĩa, anh em lang thang trước cửa nhà, có thể
ra sân bóng chuyền trước hội trường xem đội Văn Hóa Thể Thao (gọi tắt là
Văn Thể) đánh bóng. Thường sẽ chia hai đội, một bên là mấy tên cán bộ trại
rỗi rảnh, một bên là trại viên.Góp mặt trên sân là một số tay của nhà 3, Vũ
Xuân Thông, Phạm Văn Tường, Lưu kim Long, nhà 4 là một số anh em trong đội
văn thể. Hôm nay đội tù thiếu mất hai tay, nên Luật, cán bộ trực trại và
đội trưởng nhà bếp thay thế. Chuyện đánh bóng chuyền chẳng có chi lạ, có
điều hôm nay phân trại E chứng kiến một cảnh không chịu nổi khiến có lắm
tiếng chửi thề vang lên từ đám khán giả, một loại khán giả có tuổi tù chí
ít cũng 3 năm trở lên và có những người từng một đời chiến đấu.
Vũ Xuân Thông là tham mưu trưởng Biệt Cách 81, một binh chủng khét tiếng
nhất của quân đội, ông ta cũng từng là tài tử phụ trong phim “Người tình
không chân dung”, là một trong những người mà đám tù trẻ kỳ vọng dựa vào
tiếng tăm của một binh chủng kiêu hãnh. Chí ít ra ông cũng là một trong
những con chim đầu đàn của Biệt Cách Dù. Nếu cứ nâng bóng pass 2 hay 3 gì
đó cho thằng khác đập, hoặc đăng lưới cản bóng bình thường thì ai nói, đàng
này ông trung tá:
– Đập đi cán bộ.
– Banh nè cán bộ.
Một câu bình thường chết mẹ, có gì đâu? Nhưng mà nó có. Qua cái nhìn của
đám tù trẻ, ông ta không nên có những câu hạ mình trước một thằng trực trại
như vậy, tư cách là một tham mưu trưởng Biệt Cách, không cho phép Vũ Xuân
Thông bất kỳ một câu nào, một thái độ nào xâm phạm tính kiêu hùng của một
đơn vị mà ông là sĩ quan tham mưu. Đó là một sự sỉ nhục không thể tha thứ.
Tôi thì không đơn giản như vậy mà quyết liệt hơn, thậm chí không cho phép
ông ta chơi chung với thằng trực trại nữa là khác, bất kỳ một sự gần gũi
nào với đám cán đều không thể chấp nhận. Câu hỏi đặt ra là:
– Bộ muốn lấy điểm chăng?
Ở tù, ngay cả lũ chúng tôi trẻ nhất, dế chó nhất, chẳng có một trách
nhiệm gì cho cái ngày sập trời, còn giữ gìn từng chút một, không để mình
lạc lòng trước kẻ thù, thì các vị lớn hơn, địa vị xã hội cao hơn phải biết
mình là ai chứ? Nhưng, quả thiệt sống trong tù cực kỳ khó. Khó nhất là phải
sống thế nào cho trọn vẹn đúng nhân cách một người từng phục vụ một chế độ
bị cưỡng chiếm một cách đau đớn như vậy, cấp càng cao, trách nhiệm càng
lớn. Hình như, có khi trong cái quá khổ này, Họ, một vài người đã quên nó
rồi. Trong lớp đàn anh của tôi tại trại này, TQLC trung úy Nguyễn Ngọc Bửu
là dân K25 Võ Bị gốc Thanh Điền,Tây Ninh, anh là bạn của chị tôi thời trung
học. Vào đây hai anh em nhận ra nhau, anh coi tôi như em trai, anh ở đội 14
nhà 4, tôi đội 13 nhà 3. Trưa trưa lúc bỏ ngủ chờ đi lao động buổi chiều,
tôi và anh hay chạy sang thăm nhau, kể chuyện quê mình, nhắc những kỷ niệm
ngày tôi còn bé xíu chở chị tôi đi học trường Dân Trí ở cửa số 6 ngoại ô
Tòa Thánh và hàng tá chuyện ở Tây Ninh. Một ngày, trước giờ đi làm trưa,
anh chạy sang tôi hỏi thăm các cái, tào lao vài câu rồi bỗng dưng len lén
đưa cho tôi một túi vải:
– Em đã coi anh Bửu là anh của em thì phải nghe anh, giữ cái này và nhớ
lời anh dặn, em phải sống còn về với ba má, không được nóng tính làm bậy.
Tôi chưng hửng chưa kịp trả lời trả vốn thì tiếng kẻng đi làm vang lên.
2 hôm sau 13/11/1980 khoảng 3g chiều, có tiếng súng báo động, tất cả các
đội dụng cụ lao động bỏ tại chỗ khẩn cấp về nhập trại. Đội 14 có 7 người
cướp súng, đánh gục cán bộ trốn trại, đó là thông tin đầu tiên nghe được.
Ông anh tôi Nguyễn Ngọc Bửu đã âm thầm chôn giấu đồ chơi tại bãi lao động
cùng mấy sĩ quan khác,với kinh nghiệm của 1 đại đội trưởng tiểu đoàn 7
TQLC,dân Võ Bị, anh làm thủ lãnh cuộc vượt trại vô tiền khoáng hậu tại Trại
Trừng Giới, một trại mà trung tá trưởng trại Thân Di Yên đã tuyên bố thẳng
thừng “Trại Xuân Phước là trại một con kiến cũng không thể nào qua lọt”.
Liên tục 10 ngày toàn trại án binh bất động, không xuất trại đi làm,khám
trại từng ngóc ngách.May mắn thay cái túi vải anh Bửu đưa cho tôi,trong đó
là một cái mền nhà binh, một ít thuốc cảm, một ít bột và sữa,một cái muỗng
bằng nhôm có hàng chữQLVNCH cùng 1 gà-men nhôm của lính,tất cả không có 1
chứng tích nào là củaNguyễn Ngọc Bửu.Tôi đã giữ những di vật của anh cho
tới ngày hôm nay, trừ cái mền đã mục rã sau mấy mươi năm.
Ngày thứ 9 chúng tôi biết tin từ Quí đen (một trật tự có gốc Mỹ da đen),
hắn nghe được từ đám cán bộ. Lần theo dấu vết của 7 anh hùng vừa vượt
thoát, 6 người trong số các anh bị bắn chết bên giòng suối tại buôn Ma Hóa,
Phú Bổn, sau khi các anh đã cướp thêm mấy cây súng và giết chết mấy tên du
kích trên đường đi. Chỉ duy nhất một người sống sót và bị bắt lại là đại
úy Lê Thái Chân, một tiền sát của tiểu đoàn Pháo Binh Dù.
Cả trại chỉ cúi đầu thở dài. Riêng tôi có nhiều đêm ứa nước mắt nhớ anh
Bửu âm thầm một mình trong trại A20. Duy nhất chỉ có Bùi Đạt Trung người
cùng khóa 25 với anh là biết quan hệ của tôi với anh Bửu, nghe đâu lúc ở
trường Võ Bị hai ông là một cặp bài trùng. Sau cú vượt trại thần kỳ ngày
13-11-1980, phân trại E mang về một hung thần từ phân trại C, nhằm trấn
áp những mưu đồ và dập tắt những nổi dậy nhất là sau tết 1982.
Những ngày hát tù ca vang vang trong trại vào 3 ngày tết. Những người
trẻ, đông nhất là các sĩ quan của khóa 25 Võ Bị, Bùi Đạt Trung, Long (bô),
Hùng (mù), Phạm Văn Hải (Hải cà), cùng những tay bán trời không mời thiên
lôi, Nguyễn Tú Cường, Trần Kim Hải, Phạm Đức Nhì, Nguyễn Quang Trình, Vũ
Mạnh Dũng (sinh viên Văn Khoa) dưới sự dẫn dắt của Vũ Trọng Khải, quan 3
Cảnh Sát Đà Lạt, kéo nhau qua nhà 4 ráp với Khuất Duy Trác, bày trận pha
trà rước tết theo ban nhạc lưu dân bất đắc dĩ trong tù, chỉ với cây đàn tự
đóng trong trại, tiếp liệu thì có hàng tá trưởng lão, đại úy Nguyễn Đại
Thuật, ông phó tỉnh trưởng Quảng Nam Đà Nẵng Nguyễn Chí Thiệp... Trên chiếu
âm nhạc hôm đó còn có nguyên cặp đại đội trưởng 73 Nhảy Dù, đại úy Đoàn Bá
Phụ và người kế nhiệm của anh là đại úy Mai Đức Phi. Nhà 2 gởi lời mời và
trải chiếu sẵn cho ban tù ca, anh em phải thay vệ binh lót đường từ nhà văn
hóa vô tận nhà 4. Sau buổi hát tù ca, lần lượt bọn anten cũng mò ra tất cả
nhân vật từ chủ chốt tới ngoại vi lần lượt vào biệt giam nghỉ dưỡng sức. Dĩ
nhiên Khuất Duy Trác không thể né, cú biệt giam này kéo dài lê thê, vì nó
dính tới tờ Hợp Đoàn, một tờ báo chui mà anh em thực hiện, dù Vũ Văn Ánh
đứng ra nhận trách nhiệm và bị biệt giam từ 6 tháng trước. Nhưng thằng an
ninh trại Lý lé không hài lòng,nó biết tờ báo do rất nhiều người viết trong
đó có cả luật sư Trần Danh San chủ tịch Ủy Ban Nhân Quyền Việt Nam, Nguyễn
Chí Thiệp, luật sư Nguyễn Hữu Giao và Vũ Hùng Cương. Lý lé còn nghi dàn sĩ
quan trẻ là mấu chốt luân chuyển tờ báo trong trại tù, thằng các đảng này
đã tìm mọi cách hạ lệnh biệt giam không cần công bố trước trại cùng một lúc
50 người, thành tích này anh em về sau nghi là có dính dáng đến thiếu úy
Ngô Văn Ly, một người mà trước đó anh em rất e dè khi tiếp xúc.
Từ Bùi Đạt Trung, Tú Cường, Nguyễn văn Hải (Hải cà) cho đến Trần Bửu
Ngọc (Ngọc đen), Nguyễn Quang Trình (Cô ba) Trần Kim Hải (Hải Bầu), Phạm
Chí Thành (con trai của sử gia quân đội Phạm Văn Sơn) đều nằm ấp. Lúc đó
Huỳnh Cự, trung tá hồi chánh cũng từ B ra làm nhà trưởng nhà 3.
Cú đánh của Lý lé không phải là ngẫu nhiên, những bằng chứng hỏi cung
các anh em cho thấy nó đã chuẩn bị từ lâu lắm rồi, nhân lúc anh em hát tù
ca dịp tết nó dọn cỗ luôn một thể. Phải nói là Lý lé, theo chỉ thị của
trưởng trại Thân Di Yên, đã làm nổi danh thêm cái địa ngục vốn có của Trại
Trừng Giới. Tụi lưu manh chơi đúng cách lưu manh của chúng, cao điểm nhất
là thằng Lý an ninh nhìn thấy ai không vừa mắt là tìm cách hốt vô biệt giam
khỏi cần biên bản làm việc, và chỉ cần nghi là nhốt. Biệt giam khu E không
còn chỗ chứa, tụi chèo đành gởi ké vào B và C.
Hung thần Dương Đức Mai là trung tá liên đoàn trưởng 22 BĐQ, trình diện
học tập và bị giam ở trại C. Chẳng biết nịnh hót, làm anten hay gốc gác thế
nào với việt cộng, Dương Đức Mai được cho làm “Trưởng Ban Thi Đua”, một
danh phận trên tù, dưới cán bộ, quyền hành thì cũng chỉ trong giới hạn một
thằng tù, nhưng Mai được lòng cả cán bộ lãnh đạo trại nhờ vào khả năng
chuyên môn của hắn. Khi Mai về phân trại E nhận chức trưởng ban thi đua,
thì tụi tôi mệt với hắn.
– Tôi đến đây để ổn định phân trại này, theo lệnh ban lãnh đạo sẽ không
để bất cứ một vi phạm nào xảy ra.
Dương Dức Mai đã thẳng thừng tuyên bố như vậy. Mai vẽ ra chiêu họp nhà,
sau khi họp đội vào mỗi tối thứ sáu hàng tuần, mỗi tối sinh hoạt tổ, rồi
sinh hoạt đội, có ghi biên bản trình cho cán bộ giáo dục phê duyệt đàng
hoàng, căn cứ phê bình trong các cuộc họp đánh giá các mức ăn hằng tháng.
Mấy thứ này chẳng mới mẻ gì, trại nào cũng có nhưng chúng tôi chỉ làm chiếu
lệ. Khi Mai vác bản mặt hắn về trại E, thì lúc sinh hoạt đấu tố, bình bầu,
họ Dương có mặt bên ngoài từng nhà, hắn và bọn an ninh trại rình từng tối.
Việc quà cáp do người nhà gởi qua bưu biện cũng chính Mai đề nghị. Sau khi
phát cho tù nhân có quà, họ kiểm lại số lượng rồi bỏ vào một cái kho chung
của phân trại, cái kho này là kho gạo cũ của bếp trại.Những ngày được phép
nấu nướng theo lịch xen kẽ nhà 1 và nhà 3, hoặc nhà 2 và 4 sẽ theo đó mà
lên kho, có Mai thay mặt cán bộ mở kho cho lấy đồ vừa đủ nấu cho ngày đó,
còn dư phải bỏ lại kho, ban thi đua giữ dùm.
– Đ.M coi có bực không, thằng chó chết cùng là nhà binh một thuở với
nhau mà nó đâm anh em sau lưng, không có con mẹ gì gọi là tình chiến hữu,
bây giờ vô tù còn phát sinh cái tình đồng chí, đồng rận với tụi chó đẻ,
chắc nó sợ anh em dùng đồ gia đình gởi cho, tích cóp âm mưu vượt trại.
Chính hắn đã dâng nạp chiêu này lên tụi an ninh trại, chứ từ trước tới lúc
hắn về đây làm gì có cái vụ giữ đồ dùm này. Có ứa gan không?
Một ngày tôi và mấy cụ trưởng lão đứng chơi khơi khơi trên sân, lão
trung tá hồi chánh Huỳnh Cự chỉ cho trung tá BĐQ Lương Văn Ngọ xem cái cảnh
Dương Đức Mai đang tấu trình chi đó với thằng Luật trực trại ở góc hội
trường, nhìn cái cung cách khúm núm của Mai bất giác họ Huỳnh phán một câu,
làm tôi và anh trung tá Nguyễn Tấn Thọ cùng vài anh em khác đang đứng phía
sau nghe mà đau.
– Xét ra Huỳnh Cự này còn chút ân tình với anh em hơn là Dương Đức Mai
hén?
Có lần họ Dương theo đám trật tự vào trại vô xét nhà 3, tôi cố nhích lại
nhìn cho rõ lúc hắn đang lục tung đống xà bần chăn chiếu của tôi ở giữa
sân, tôi muốn coi hai chữ SÁT CỘNG trên tay hắn. Vết xăm bây giờ chỉ là dấu
của những nét gạch ngang dọc, hình như phá bằng vôi và lưỡi lam,nghe đâu
hắn làm cái này lúc vào trại C.
Bên cạnh những đáng tiếc khó chấp nhận này thì cũng có những ca cười bò
càng khó mà quên.
Món ăn bổ dưỡng giúp tù quên đi một thoáng giây phút nào đó cho phận đời
nghiệt ngã là phê thuốc Lào. Phê là cung cách của kiếm sĩ sau khi ve tròn
bi thuốc Lào trên điếu cày, thường làm bằng ống tre hay lồ ồ, có khoét một
lỗ cách 1/3 tính từ đáy, làm một cái nõ điếu thường là đá mềm, gỗ, trong
điếu có một ít nước, kiếm sĩ dùng một que lửa bằng tre chuốt mỏng ngâm nước
rồi phơi khô, thắp lửa đốt bi thuốc, kê mỏ vào điếu rít một hơi cạn tàu ráo
máng, buông cái điếu ra, kiếm sĩ sẽ chìm trong thú say bất kể sống chết
đó.Phê là một trạng thái không kiểm soát, nó rần rần toàn thân giựt giựt
từng cơn, tim thắt lại chìm trong cảm giác đã đời đó, tùy theo phẩm chất
của thuốc nó sẽ phê lâu hay mau.
Thiếu tá Nguyễn Thái Sang được gia đình thăm nuôi vào đúng lúc anh em cả
nhà đang thiếu thuốc, sau một trận quà cáp cho các đồng môn,anh cắt nửa
bánh thuốc lào 888, loại thượng hạng, chia mỗi người một ít. Sáng sớm vừa
nghe kẻng báo thức, ngồi trên tầng trên, Thái Sang nhà ta cẩn thận vê bi
thuốc đầu ngày cho vào điếu cày, đốt đóm kéo 1 phát, cái điếu chưa kịp rời
tay, kiếm sĩ té cái rầm xuống đất,tay chân co quắp, giựt giựt mấy cái rồi
nằm im, anh em xúm lại người xoa người bóp, một hồi sau, thiếu tá nhà ta lờ
quờ tỉnh dậy hỏi:
– Bộ tao té xuống hả, sao không thấy trầy trụa gì hết vậy?
Với cái lò nấu hỏa tốc và cái lon guigoz,dụng cụ này lúc tôi ở Z30D nó
chưa thịnh hành lắm, lên trại A20 thấy công cụ này được chế biến và nâng
cấp thêm một bực. 1 cái lon thịt hộp lớn vừa phải để bỏ cái lon guigoz vô,
đục 4 cái lỗ xỏ hai cây kẽm gai ngang qua giữ cho cái lon guigoz không rớt
xuống đáy, cắt 1 lỗ vuông trên hộp thịt phía dưới 4 cái lỗ, sao cho cách
đáy một phân, cách 4 cái lỗ 3 phân, lỗ vuông này chỉ rạch 3 đường khoảng 3
phân, phải chừa phần trên, chỉ cần hạ miếng cắt còn dính lại là lửa sẽ
giảm, một vài bao nylon se tròn thật chặt đốt lửa, cho thêm một mảnh giẻ
rách để nylon lâu tàn. Với thiết bị tân kỳ này có thể nấu chín bất cứ thứ
gì kể cả cơm, chơi chín một con chuột cống nếu hên mà bắt được, rắn rít,
ếch nhái các cái là đồ bỏ. Trời tối, ánh sáng phát từ cái lò tân kỳ này sẽ
rất dễ bị phát hiện,phải dùng đồ cá nhân che chắn lại,chỉ có khói và mùi
hỏa tốc bay lên nhẹ nhàng thôi, chuyện này anh em có biết thì cũng làm ngơ,
bởi ai cũng nấu, ai cũng chơi kiểu này.
Một ngày, Nguyễn Đại Thuật được thăm nuôi,anh mang cho tôi một ít mì sợi
và thịt kho chống đói, tôi bèn chơi một “gô” vào lúc sau buổi họp nhà, lu
bu nói chuyện với Nguyễn Thanh Tùng tôi quên phức cái lò hỏa tốc, lửa bén
ra bộ đồ trại để sát cái lò, thế là bốc hỏa. Mai Hòa Rết từ cầu tiêu đi ra
ngó lên hét lớn:
– Khiết! Cháy nhà!
Tôi hốt hoảng chơi nguyên ca nước uống dập lửa, thứ nylon cháy không tắt
ngay kêu xèo xèo, còn bốc khói trắng lên nữa chứ. Hú hồn! chung quanh cái
lò toàn là thứ bắt lửa, may mà cha nhà trưởng Huỳnh Cự đi ngủ rồi, nếu
không chắc chắn sẽ bị ra tòa án quân sự mặt trận trong đêm họp nhà lần sau,
dù cha nội này có bao che cỡ nào cũng đành phải chịu.
Ở ngoài đời, nghĩa là lúc còn rất trẻ chưa đi tù, tôi nghe nhiều huyền
thoại về những cái khó tin, cho đến khi vào trại A20 tôi mới biết nó là
thật.Số là lúc tôi ở nhà 3 phân trại E, căn nhà này đặc biệt có hai cái
giếng nước, một lớn và một nhỏ, cái nhỏ ít khi dùng đến. Phùng Văn Triển là
một trung úy, ốm nhom, lưng đi cong cong, anh ta rất hiền, ăn nói điềm đạm,
tôi cũng hay la cà để học lóm từ anh, tìm hiểu cái công phu có một không
hai, lần đầu tôi thấy trong đời. “Khả năng sinh học” mà người ta gọi nôm na
là nhân điện hay một cái tên gì đó cho khả năng tuyệt vời này. Công phu đó
là thời gian cả chục năm anh ngồi thiền, nghe đâu anh từng với 2 tay mang 2
thùng nước, mỗi thùng 20 lít leo lên lầu 4. Ban đầu tôi bán tin bán nghi,
cho tới mùa mưa năm đầu tiên đến Trại Trừng Giới. Anh em chưa mấy ai được
thăm nuôi, đói khát giữa cái lạnh chết người của Thung Lũng Tử Thần. Tôi
chơi một cái áo trần thủ, quấn cái khăn cổ, hai đôi vớ tròng vào nhau, chơi
thêm cái mềm len dầy cui của trại phát mà vẫn còn run lập cập. Triển đại
ca làm cả nhà thất kinh hồn vía, anh đang ngồi giữa mưa lạnh, trên thành
giếng mà nước cao gần ngập, hơi nước lạnh bốc lên như sương, anh lấy cái
thùng nhựa múc nước từ giếng xối ào ào trên đầu, mà đâu phải chỉ một thùng
nước, Triển sư phụ làm liền tù tì gần 20 phút, mới tà tà bước vô hàng hiên
để nguyên con với quần đùi, ở trần trùng trục đếch thèm lấy khăn lau nữa
chứ. Sau này anh tâm sự với tôi, lúc anh ngồi tập vận hành khí lực, anh đi
một lần ba vòng châu thiên, tới lúc lên huyệt bách hội nó đứt ngang, một
nửa tuột xuống nằm ở luân xa 3, một nửa nằm nguyên trên luân xa 7, anh cho
tôi đưa tay rờ thử, một cục dài nổi cộm dưới da từ chân tóc ở trán kéo tới
gần sau gáy. Thật là dễ sợ! Rồi anh khuyên tôi nếu có tập ngồi thì nhớ chớ
có tham, lấy anh làm bài học. Đâu phải chuyện có thế thôi, cái răng hàm của
tôi bị sâu thủng một lỗ to tổ bố, trong trại tù lấy chi mà chữa, thức ăn
nhét vào đau thấu trời, tôi chỉ biết dùng nước muối ngậm triền miên. Pilot
Nguyễn Văn Hương là dân Tây Ninh nghe tôi than đau, bèn đề nghị tôi nhổ cha
nó cho xong, nhưng lấy chi mà bứng cái răng ra, anh Hương lấy cọng thép gai
chặt làm hai khúc, một mài nhọn để cạy, một đập dẹp đầu làm cây rạch nướu,
dụng cụ nha khoa tối tân này được đốt trên lửa để khử trùng. Triển sư phụ
hứa sẽ dùng nội công giúp tôi giảm đau. Một trưa chủ nhật anh Hương mang đồ
nghề từ nhà 2 sang nhà 3 phối hợp với Triển sư phụ, đè tôi xuống, anh Hương
lo lấy cái răng ra, anh Triển cầm hai bàn tay tôi, tôi cảm thấy một luồng
khí nóng chạy ào vào và lan đi, một lúc sau nó tụ lại vùng mặt, cho tới lúc
Pilot Hương lấy cái răng ra, sau một hồi trầy trật, tôi hoàn toàn không một
chút cảm giác đau đớn nào ở hàm răng của mình, quả là kỳ diệu!
Kể ra thì có nhiều chuyện trời ơi đất hỡi nghe khó tin chết mẹ. Nhưng
những nhân chứng còn sờ sờ Phùng văn Triển, Phan Thành Lương ở Mỹ, Nguyễn
Hữu Trí ở Việt Nam thì không thể nói dóc được.
Nguyễn Hữu Trí có biệt danh anh em đặt cho là “Trí ghẻ”, không biết khi
đi tù anh từng bị ghẻ ở trại nào, chứ khi gặp và ăn cơm chung với anh
một mâm ở Trại Trừng Giới, chưa bao giờ tôi thấy anh có ghẻ, anh lớn hơn
tôi mấy tuổi, một tay giang hồ thứ thiệt ở vùng Cầu Tre. Ở đội 20 có Lai
Lương Tinh, một tay cũng thuộc hàng du đảng có túi của ngày xưa, gốc người
Hoa, dân Chợ Lớn chính hiệu con nai. Chẳng biết 2 ông có hiềm khích chi mà
thách nhau quyết đấu, dự định sẽ phân tài cao thấp trên hội trường vào lúc
vắng khách, chưa tới ngày hẹn thì một buổi trưa hai ông đụng chạm nhau vì
một chuyện vớ vẩn chi đó. Bất thần Lai Lương Tinh đứng trên sàn trên nhà 3,
cầu thần múa hầu quyền lung tung. Trí ghẻ nổi cơn điên, chấp tay cầu thần
bạch hổ, hắn gầm lên một tiếng từ mặt đất bay một phát lên sàn trên. Một
khỉ, một cọp uýnh nhau một trận. Đại ca Phan Thành Lương cũng thuộc loại võ
công thượng thừa, anh em, nhất là các đấng Suối Máu rất nể nang, xăn quần
tà lỏn nhào vô can:
– Hai thằng bây, ngon thì ra giữa sân mà chơi, bể đổ đồ đạc tùm lum.
Trí ghẻ nhảy xuống bước ra sân, Lai Lương Tinh đuổi theo, bất ngờ Trí
quay lại, lúc này khuôn mặt của anh hoàn toàn khác, một khuôn mặt không
phải là Trí ghẻ nữa, tiếng gầm gừ phát ra từ cổ họng như hổ như báo, Lai
lương Tinh cũng đâu có vừa, miệng kêu chí chóe, hai tay quần nhau một trận
long trời lở đất. Trí ghẻ đá một phát, Tinh bay luôn xuống cái giếng nhỏ,
cả nhà nhào vô ôm Trí lại, nhưng sức của Trí lúc này quá mạnh, 7, 8 người
không làm gì nổi, may sao có một anh chắc cũng thuộc loại võ thần, đập trên
đỉnh đầu Trí một phát, anh ta mới chịu ngả xuống, Phan Thành Lương nhào
xuống kéo tay Lai Lương Tinh lên. Lúc đó Phạm Văn Tường làm nhà trưởng, lão
chấp tay sau đít đi tới đi lui trên hàng hiên:
– Lần đầu tiên mới thấy võ thần của dân chơi miền Nam, mấy cha coi xong
chớ có báo cáo bậy bạ nghen.
Trận đánh võ thần, với tiếng gầm gừ của hai tay dân chơi thứ thiệt làm
nhà 2 và nhà 4 tràn qua xem đông nghẹt. May mà đó là trưa chủ nhật, nếu
không chắc chắn hai ông tướng sẽ vô cùm là cái chắc.
Trần Hữu Phước (Phước chột) anh ta có tật một bên mắt, ở chung với tôi
một đội, Phước chắc khoảng 30 gì đó, hay lu bu làm mấy chuyện không ra chi,
được cái anh rất chung tình với anh em. Chỉ có cái tội là trình độ chăn vịt
đẻ của anh,nên bị thằng Ngà quản giáo của đội tôi dụ khị, hỏi chận đầu chận
đuôi một chập là Phước đẻ ra một lô vịt con ngay, dù anh không báo cáo mấy
chuyện lớn lao gì nhưng mấy cái nhỏ nhặt cũng làm anh em trong đội bực
mình. Chẳng biết anh nói chi với thằng Ngà, hắn gọi tôi lên nhà lô lúc đội
đi làm hỏi tôi đủ thứ. Phước vừa mới bị thằng Ngà mời lên buổi sáng thì
ngay buổi chiều đó tôi bị thằng cán truy hỏi lung tung từ chuyện cá nhân
gia đình, nhất là quan hệ với anh em miền Tây. Về trại tôi nổi cơn điên,
vào lúc chia cơm chiều, tôi nựng Phước (chột) một cái ngay giữa sân:
– ĐM ông thưa gì với quản giáo hả?
Phước chột đổ quạu, hắn chạy vô chỗ nằm rút cây dao nhỏ chơi tôi một
phát, may mà tôi né kịp, mũi dao sớt ngang cánh mũi đi đứt một đường, ngay
lúc đó mấy anh em Hòa Hảo nhào ra theo kiểu bênh vực gà nhà đòi ăn thua đủ
với tôi. Trí ghẻ từ nhà ăn bước ra đứng chống nạnh:
– Thằng nào đụng tới thằng Khiết bước lên coi.
Cả đám im re, anh em thấy máu mũi tôi xịt ra ướt cả mặt bèn kéo tôi lên
trạm xá. Thiếu tá y sĩ Nhảy Dù Trần Quý Nhiếp đang làm trưởng trạm y tế đè
tôi xuống, cha nội lấy kim may sống ba mũi, cả tuần sau vết thương mới
lành, cú đấm hết sức đó làm ngón tay áp út của tôi gãy xương kín, nhưng nó
hoàn toàn không đau đớn gì cả. Sau này mỗi lần nắm bàn tay lại, nhìn vết
hõm trên ngón tay tôi vẫn ngùi ngùi nhớ lại cái chuyện bậy bạ của mình
trong thời đi tù và cũng đã hàng triệu lần âm thầm xin lỗi Phước (chột),
một người anh em tù, mà đúng ra dù có giận cỡ nào mình cũng không nên để có
chuyện đáng tiếc đó xảy ra. Và may mắn hơn anh em giấu nhẹm vụ này, tôi và
Phước (chột) không bị tụi chèo hỏi han chi, chắc tụi nó coi như chuyện va
chạm nhỏ trong trại tù. Có lần tôi liên lạc với anh Nhiếp sau mấy mươi năm,
nhắc chuyện cũ anh cười ngất:
– Biết vậy hồi đó tao không may lại, để mày có cái lỗ mũi bị chẻ hai coi
cho đã, còn bày đặt trách tao may sống nữa hả?
Thật ra trong trại làm gì có thuốc tê, mà sao lúc đó tôi lại quên tuốt
cha nội Phùng Văn Triển chứ?
Mửa máu:
Những ai đã từng đi tù tại trại A20 chắc hẳn sẽ không quên giai đoạn lao
phổi tràn lan khắp trại. Những chuyến đi đau đến không còn nước mắt để nhỏ
xuống cho người bạn tù vừa chết. Những chuyến đi đơn độc không một ai đưa
tiễn giữa mưa khuya miền Trung, ngoại trừ đội lâm sản cử 4 tên hình sự, bỏ
cái quan tài đóng sơ sài trên xe cải tiến, cùng một manh chiếu nát quấn cái
thi thể ốm tong teo, người chết đi về “Đồi Vĩnh Biệt” sau nhiều tháng ho ra
máu.
Từ đầu năm 1982, lác đác có vài anh em bắt đầu ho khúc khắc, vài anh em
chợt thấy nóng sốt nhè nhẹ vào buổi chiều. Rồi chẳng mấy chốc bệnh lao phổi
được nhận dạng, nó lan đi đến chóng mặt, ban đầu vài chục người trại buộc
phải cách ly những người bệnh lao, nhưng chỉ cách ly ban ngày, những con
bệnh không đi lao động bị nhốt tại trại. Bọn cán bộ chọn nhà 2 của phân
trại làm nơi cách ly. Ban ngày, tất cả con bệnh bị lùa vào đó đóng cửa lại,
cho tới khi đội đi làm về thì cho về đội của mình nhận thức ăn và sinh hoạt
bình thường, buổi chiều cũng thế. Nhưng ban đêm thì đội nào về đội đó, nhà
nào về nhà đó. Để chống lại lũ vi trùng, mỗi nhà ngăn một khúc, thường là
phía cuối nhà, dành riêng cho các con bệnh.
Cái thứ lao đã hoành hành trại Xuân Phước này rất đáng sợ, thông thường
để tới giai đoạn lao, nói như mấy ông bác sĩ, căn bệnh sẽ có dấu hiệu lâm
sàng, có những cơn sốt nhẹ kéo dài nhất là về chiều, rồi dần dà sang ho.
Đàng này, có khi chỉ sốt nhẹ hai ba hôm thì sau đó, một sáng khạc một cái
văng ra cục đờm lợn cợn máu, vậy là xong coi như tiêu đời.
Nhà giam thì luôn luôn chật, khoảng không khí có được là bao để hít thở,
con bệnh mỗi ngày mỗi nhiều, những mảnh vải cắt xé làm khăn lau vết máu
trên khóe miệng, chùi đờm rãi của con bệnh, dù có cẩn thận thì cũng nằm
trong thùng chứa rác, thùng chứa phân hay nước tiểu gần như lộ thiên trong
cái không gian chật chội đó mà thôi. Vi trùng lao, dù không thấy, nhưng cả
trại hầu như nhận biết được nó, rùng mình khi thấy người bạn tù ho khan một
tiếng bên cạnh, nhưng làm gì được? Ngủ thì vai kề vai, ăn thì chung một
nồi, một thau, ly chén làm sao khử trùng, làm sao riêng tư cho được trong
cái điều kiện như vậy? Thân nhân gởi thuốc lên cho bệnh nhân thì lớp bị
chận lại, lớp bị ăn cắp trắng trợn, nhất là vào mùa nước lên, mùa bão lũ
miền Trung.
Làm sao có thể quên, những chuyến quà trong mùa lũ. Trại Đồng Xuân chìm
trong nước hàng tháng trời. Thân nhân không đi thăm được đành gởi quà qua
bưu điện, ga La Hai nhận quà từ xe lửa, nhưng không thể chuyển qua sông Trà
Bương, quà cáp phải đợi khi mưa tạnh, chất hàng đống bên bờ, trại dùng ghe
xuồng trung chuyển qua sông, rồi đưa về phân trại bằng xe cải tiến. Đâu
phải là ít, mỗi chuyến đi nhận quà tại mỗi phân trại E thôi đã lên đến hàng
ngàn gói. Tính sơ sơ mỗi gói trọng lượng là 5 kgs, con số sẽ lên mấy tấn,
cái xe cải tiến cao lắm nhét 50 gói quà là quá mức. Hàng chục xe thì mới có
một tên cán bộ đi kèm, qua một hóc núi, một khúc quanh là hàng đống quà bay
vô bên đường, khuất dưới lùm cây bụi gai, sau đó chúng nó quay lại lấy làm
của riêng thì ai mà biết. Cán bộ giáo dục cùng đám trật tự thi đua phụ
trách việc kiểm quà ghi số lượng đủ mệt rồi. Động trời cái nữa thay vì kiểm
quà trước khi chất lên xe cải tiến, tụi chó đẻ lại chỉ kiểm tra khi về tới
phân trại. Chúng viện lý do là quà để ngay bên bờ sông phải vội vàng đưa về
trại sợ thời tiết ảnh hưởng, mưa bão bất thường không thể làm ướt quà hư
hao thực phẩm của trại viên. Quà do đám lâm sản hình sự kéo về, làm sao
kiểm soát trên chặng đường hàng chục cây số đó. Thế cho nên sau mỗi chuyến
quà thì chợ La Hai, chợ Đồng Xuân tràn ngập hàng hóa, những thứ hàng hóa mà
xứ khỉ ho cò gáy này nằm mơ cũng không thể nào có. Đồ hộp mang mác Tây, Mỹ,
thuốc tây thì khỏi nói, toàn là thứ đắc tiền, một lọ thuốc bổ vài trăm viên
có giá ngang một con bò, thì hỏi sao nó không mất tích cho được. Nói là tù
nhân trại A20 đã từng nuôi béo dân La Hai - Đồng Xuân quả không ngoa.
Thiếu ăn thiếu mặc, thêm cái lao động vắt kiệt sức, bị dày vò từng ngày
bằng nhiều thứ công cụ, người tù hoàn toàn vô phương kháng cự, cái chết từ
từ tới, không do lao phổi thì cũng tàn tạ từng ngày rồi ra đi.
Anh Lương Thiện, một giáo sư trung học bị bắt về tội âm mưu lật đổ chính
quyền, có lẽ là người chết vì lao đầu tiên ở phân trại E. Trong số bạn bè,
anh em tù tội tôi từng ở chung còn có một số các sĩ quan đã đặt chân tới Mỹ
theo diện H.O, như những Trần Bửu Ngọc (Ngọc đen), Vũ Văn Lộ, Trương Văn
Tám (Tám Chùa), Phạm Văn Hải (Hải cà), Nguyễn Hạnh v..v... là những tù nhân
từng bị dính con vi trùng này tại trại Xuân Phước trong khoảng thời gian
đó, họ từng nằm nhà cách ly và từng may mắn thoát chết vì lao. Chứng kiến
nhiều cái chết vì lao,thấy mà thương. Cú ho tắt nghẽn phổi làm con bệnh co
rúm người ngạt thở, miệng trào máu, hai con mắt trắng dã ngước nhìn bè bạn
chung quanh như van xin, như trăn trối. Thật là đau, cái chết đau chưa từng
thấy của một đời đi tù, nó nghẹn ngào làm mình tê dại, nhìn trân trân vào
người tù chỉ còn da bọc xương, hai tay nắm lại, như nắm cái kiếp tù để về
đất. Trời hỡi là trời!
Tù thuộc loại mồ côi, con bà phước như tôi thì lấy đâu ra thuốc chống
lao để chữa bệnh, cái ăn qua ngày còn không có, nói chi. Nhưng rồi cũng có
cái may đến, bệnh lao chẳng biết làm sao mà nó chấm dứt vào cuối năm 1985.
Nhớ lúc đó, có nhiều anh viết thư cho gia đình đến các bệnh viện xin hay
mua những lọ Streptomycine đã dùng và còn lại chút cặn đọng ở đáy lọ, gởi
vào để con bệnh pha nước sôi làm thuốc uống. May cho tôi, bà phước nuôi kỷ
nên không vướng vào cái bệnh này. Nhưng có lần, trong thời gian đó tôi bị
bệnh kiết lỵ, bệnh này ở trại không có thuốc chữa, anh Phan Vĩnh Thánh đưa
tôi mấy lọ Streptomycine, chỉ còn đọng vài giọt dưới đáy, tôi pha nước uống
vậy mà mấy hôm sau tôi hết bệnh. Nhắc tới bệnh trong tù, tôi có một kỷ niệm
nhớ hoài. Trại chỉ có mỗi một cây tía tô làm giống, trồng trong vườn thuốc
Nam của phân trại E do bác sĩ Lịch trông coi, tôi bị cảm mà uống thuốc hoài
cả tháng hổng hết, mấy ông tướng gốc miền Tây chỉ cho một cách, kiếm cây
tía tô ăn sẽ khỏi. Vậy là tôi rình rình lúc ban trưa leo rào, vượt qua hội
trường, sang vườn thuốc Nam nhổ nguyên gốc cây tía tô giống chùi sơ sơ cho
hết đất bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến. Cha nội bác sĩ và y tá khám phá mất
cha cây giống tía tô ngay buổi chiều, chuyện tới tai trực trại, cán bộ Luật
bèn dẫn toàn bộ thi đua, trật tự vào từng nhà lục tung từng ngóc ngách, tìm
cho bằng được dấu vết hay tên nào đã bạo gan chơi cây giống tía tô mà
trưởng trại đã khệ nệ mang về từ Đồng Xuân. Tôi tỉnh bơ cười trong bụng:
– Tao nuốt cha nó từ gốc tới ngọn, trước khi bước qua hàng rào nhà này
rồi, cho tụi bây kiếm tới lòi con mắt cũng chưa ra.
Vài hôm sau, mô phật nhờ cây tía tô giống tôi hết cảm.
Mưu sinh trong tù:
Chế độ ăn uống ở trại tù thì khỏi phải bàn tới, cũng như các trại khác
khoai mì là món chính, cõng theo vài hạt cơm theo tiêu chuẩn. Trại Xuân
Phước trồng khoai mì H34 giống từ Ấn Độ, thứ khoai độc chưa từng thấy. Về
sau khi ra tù, tra cứu thứ chó chết này, mới biết H34 có lượng Cyacitric,
Cyanua cực cao, cho nên khi ở tù tôi từng thấy với khoảng 2 kg thôi nó có
thể làm một người bình thường ngả gục nếu chỉ luộc lên và ăn ngay sau khi
vừa thu hoạch.
Chúng tôi ăn theo mức trung bình là 15kg lương thực hàng tháng trong đó
tính luôn khoai mì lát H34 phơi khô để cả vỏ, loại lao động làng nhàng gọi
là kém thì 13,5kg một tháng, loại vô cùm ở biệt giam thì 9kg một tháng. Tay
nào hưởng mức ăn 18kgs, thì chính là phần ăn của đám 13,5kg đem sang, còn
gã nào đặc biệt có mức ăn 21kg hàng tháng thì đó là từ phần ăn của mấy
thằng bị cùm ăn 9kg mà có. Cuộc chiến không khoan nhượng trong trại tù
thường căn cứ vào cái ăn trong điều kiện thiếu dã man này là thứ chiến
tranh nói hoài không hết. Lúc thiếu khoai cả nước ăn bột của Trung Cộng và
Liên Xô, tụi chèo cho làm một cái bánh bằng bột, vuông vức 1 tấc và dầy 1
phân. Sáng 1 cái mà thôi, trưa và chiều 1 cái cùng với nửa chén cơm gạo
mục. Dĩ nhiên bột đó là loại bột quá hạn, cầm miếng bánh khó chọn chỗ nào
không có xác con mọt chết mà cắn, cái bánh lấm tấm đen. Tay nào ăn 13,5kg,
nghĩa là lao động kém sẽ mất đi ¼ cái bánh, ¼ này sẽ có mặt trong phần ăn
của những tên ăn 18kgs. Vậy cho nên chúng tôi muốn phá cái khoảng cách mà
tụi chèo cố tạo ra, bằng cách mang ¼ đó kín đáo gởi lại cho mấy tên bị mất
đi, ¾ cái bánh trông giống như khẩu súng lục. Trao tay ¼ cái bánh, chúng
tôi gọi hành động chia sớt này là “ráp băng đạn”.
Tôi là con bà phước, là thằng khoái chống lao động, chống nhiều thứ cho
nên nếu khôngvô biệt giam thì mỗi bữa ăn bị lãnh phần ít nhất. Đại ca
Nguyễn Đại Thuật (dù khác đội), ông già Tăng Khánh Niên hay trung tá Nguyễn
Văn Hồng thường xuyên ráp cho băng đạn. Nghĩ thấy thương những băng đạn
thời tù ngục khó mà quên. Buổi tối, trời chuyển mưa và thường có lũ mối
theo ánh đèn néon chui vào nhà, anh em cứ để 1 chén nước lưng lưng, con mối
nào lỡ dại đáp vào chén nước là tiêu tùng, mối có thể ăn sống, nếu siêng
thì bắt vài con bỏ vào cái muỗng nhôm kê lên hỏa tốc nướng sơ sơ là vừa
thơm vừa béo. Nói chung bất cứ con chi trừ con dòi, con ruồi tôi chưa từng
rớ, chứ dế nhủi, thằn lằn, rắn rết, không tha con nào.
Có một lần đội cuốc đất trên một sườn đồi sau mấy ngày mưa, tôi thấy mấy
đám nấm dại mọc tràn lan một góc. Với kinh nghiệm học lóm tôi thừa biết nấm
nào có màu rực rỡ chắc chắn là nấm độc, càng ngả sang màu vàng và màu đỏ
càng độc hơn. Mấy tai nấm ở đây đỏ chóe, nuốt vô có thể tiêu đời trong tích
tắc.
Nhớ lúc má tôi sinh con em út, tôi mới có 15 tuổi, tôi đi chợ nấu ăn cho
cả nhà, nuôi đẻ tôi rành từ đó.Một ngày tôi hái mớ hoa thiên lý trên giàn
trước sân xào cho má tôi ăn, chừng 1 tiếng đồng hồ sau bà không thở được,
thời chưa có điện nông thôn, tôi đốt đèn măng xông la làng ỏm tỏi. Gần nhà
có đại úy Nguyễn Văn Phi, ông là người theo giáo chủ Phạm Công Tắc trốn
sang Miên, cũng là bạn bè của ba tôi, ông trở về Việt Nam sau khi Phạm Công
Tắc chết. Nghe tôi la làng ông ba chân bốn cẳng chạy sang nhà, hỏi tôi
những món mà hồi chiều tôi đã cho má tôi ăn trên giường hậu sản,nghe tôi kể
xong, ông bảo tôi quạt bếp than cháy cho to, lấy bông thiên lý đốt cho
thành than, quậy trong ly nước mang cho má tôi uống, thật tuyệt vời, 5 phút
sau bà thở bình thường. Bác hai Phi giải thích, đó là trúng thực, trúng
độc. Cứ lấy cái món gì đó mà mình nghi là tác nhân đem đốt thành than hòa
trong nước uống là khỏi. Ông học chiêu này từ một hòa thượng Miên. Tôi vẫn
nhớ bài học lóm đó, hôm nay tôi quyết chí chơi thằng nấm màu đỏ này. Tôi
thử tính nửa lon Guigoz nấm chí ít cũng 100grs vị chi cũng cả ngàn
calories, mình mà trúng độc uống than đã đốt của nó chắc bị hành một trận
mất mẹ 500 calories, vậy còn lời chán. Tôi lấy mấy tai nấm cho vào lon
guigoz kê lên bếp lửa nấu nước uống của đội, khều than ra nướng một tai nấm
để riêng. Ông già Nguyễn Văn Nghĩa nấu nước cho đội cứ rề rề theo hỏi, tôi
nói:
– Vụ này ông đừng có chơi, tui mới thử lần đầu, nó là nấm độc đó nghen,
lỡ mà tui làm không kịp, ông làm ơn bỏ cái than này vô nước đổ vô miệng tui
nghen.
Cha Nghĩa cứ há hốc nhìn. Chờ nấm luộc vừa nguội một chút, tôi nhân lúc
nghỉ giải lao, chơi sạch sành sanh và chiêu liền ngụm nước hòa với chút
than đã đốt sẵn. Tôi ngồi im xem nó ép phê ra sao, ông già Nghĩa cứ cầm cái
điếu cày đi qua đi lại vừa nhìn vừa lo, chắc là gần 10 phút khi thằng quản
giáo cho đội đi làm lại, tôi nghe tăng tăng một chút, hơi nhức đầu, mắt hơi
mờ chút, tôi chơi luôn phần than còn lại chiêu thêm ngụm nước, vừa cuốc đất
vừa lắng nghe xem có chi lạ trong bụng không, cái lăn tăn từ từ dịu xuống
rồi im re. Đó là kỷ niệm ăn bậy trong lúc đói ở trại tù, lẽ tất nhiên trừ
ông Nghĩa già tôi giấu chuyện này không dám nói với ai. Sau này tôi quyết
chí không ăn nấm nữa, nếu có chăng là nấm hộp mà thôi. Có lần, tôi giấu con
rắn lục nhỏ bằng ngón tay út, nướng chín, trong tay áo lúc đội đi vào cổng
trại, thằng Quí đen trật tự hôm nay không ra xét tù vô trại mà thằng Trực
ra xét thay, thằng này tôi không ưa nó từ khi mới vào trại, thấy cái tướng
lất cất của nó là nổi nóng, nó lại rất ác với anh em, nó mà thấy chỗ nằm
nào có cái lon guigoz cháy nám đen bóng là nó lục tá lả kiếm cho ra cái lò
hỏa tốc. Cái này những tay từng nấu như vậy mới biết. Khói bám màu đen
quanh lớp ngoài cái lon guigoz rất dễ nhận, trên hỏa tốc nó sẽ đen bóng như
bám một lớp dầu rất khó cạo rửa, trên lửa thường thì không. Tôi đứng trong
hàng mà thằng Trực xăm xăm đi lại bắt tôi giơ hai tay lên, nó mò từ chân
tới ngực. Hên một cái, con rắn được cột bằng sợi dây thun nằm ở cánh tay nó
hổng thấy, tôi qua tuốt và chễm chệ bỏ con rắn vô nước muối, chờ một chút
cho nó ra mỡ, tôi chén bữa cơm chiều và cười một mình khi nhớ thằng cắc ké
Trực xét tôi.
Trại tù mà có cung cấp rau tươi thì cùng lắm là rau muống trồng tại chỗ,
vừa dai vừa cứng, nhưng còn đỡ hơn loại rau muống mà tôi ăn đến phải sợ là
thứ rau muống ngâm muối, mấy tay nhà bếp chặt khúc quăng vô hầm xi măng, đổ
muối lên, vài tháng hay một năm sau, mang ra rửa sơ sơ luộc lên, phát cho
mỗi đội nửa thau nhôm đường kính 25cm. Trời hỡi! nó mặn đắng và dai nhách,
riết rồi không ai nhận, tụi tôi gọi nó là kẽm gai. Cọng cải trong tù cũng
rứa, củ cải trắng sẽ xuất hiện lúc gần tết, thứ cải nhổ trước khi ra củ,
trời ạ nó vừa đắng, vừa nồng, vừa dai, ăn như giẽ rách. Vì vậy phải kiếm
rau dại mà ăn. Đội nào đi làm ngoài trại, may gặp thằng quản giáo từng bị
đói ở Trường Sơn,hay nhà nó thuộc loại mạt tới nỗi phải ăn rau độn quanh
năm, nó mới có chút thông cảm.Gần cuối buổi làm chiều, nó cho đội “cải
thiện”, tay đội trưởng cắt ra 2 hoặc 3 mạng đi hái rau dại mọc quanh chỗ
đội làm việc, nấu một thùng canh đại dương đem về phát cho anh em ăn chống
đói. Dĩ nhiên “chỉ tiêu” làm việc của mấy tên đi cải thiện, đội phải làm
bù.Rau dại thì thường là rau dền gai, rau sam, chuối cây chặt ra luộc lên.
Những hàng hiếm không nhiều như tàu bay, đọt rau lang, đọt rau muống, thứ
này để sống, bỏ vô thùng nước uống của đội đóng nắp lại, nhập trại, khi
thằng trật tự xét ngoài cổng thì bảo là quản giáo cho cả đội. Mùa nắng thì
tiêu, rau cỏ chết hết, trong trại có loại cỏ kiểng là thứ người ta trồng
làm cảnh hai bên lối đi trong sân, thứ này cũng không sống nỗi với đám tù
đói kinh niên, cứ cắt ngang rồi cho vào lon guigoz luộc lên, nó cũng được
kể là rau tươi vì nó hoàn toàn tươi, mới cắt.
Bên này vực thẳm:
Vũ khúc lên đồi:
Đội 15 đi theo hàng hai bò lên đồi giữa trưa gió Lào bốc khói. Lưu Kim
Long, tên đội trưởng có gốc bất định khi thì là Cảnh Sát lúc là TQLC, đang
thỏ thẻ gì đó với tên cán bộ quản giáo phía cuối hàng. Đồi dốc dựng này
chúng tôi phải ngày 4 lượt đi và về, cái đồi chó chết toàn đá sỏi, đội 15
là đội nông nghiệp, chúng tôi trồng nơi đây, từ chân lên đỉnh là khoai mì
H34 giống của Ấn Độ. Cái thứ khoai chi mà lạ, trên đất đá khô cằn như vậy
mà nó cứ cho ra củ có khi nặng 3 đến 4 kg, mỗi bụi khoai phải còng lưng mà
nhổ lên khi thu hoạch.
Hôm nay đội 15 bắt đầu đào hộc trồng khoai, mỗi hố cách nhau 1m và sâu
đến 40 cm, sau đó lấy lá rừng hay cây cỏ vớ vẩn bỏ vào lấp một lớp đất mỏng
đợi khi mùa mưa thì bỏ hom xuống. Hom là những cây khoai mì sau khi thu
hoạch dựng đứng hàng đống, lấy cây cỏ phủ lên chống nắng, chặt ra từng khúc
20cm, bỏ xuống cái hố tào lao đó, rồi cứ để vậy cho trời sinh trời diệt.
Vậy mà nó sống nhăn răng. Nó, là lương thực chính ở cái trại chết tiệt A20.
“Long điếm” là nick name của hắn và hắn đang chui vô nhà lô báo cáo chi
đó. Gọi là nhà lô thực ra nó là một cái chòi che lên cho cán bộ quản giáo
và vệ binh súng dài núp nắng. Nghe đâu Long điếm là trung úy, vào tù hắn
khai là trung tá, điều này bị phát giác khi đoàn tù từ Suối Máu, Nam Hà và
Hà Nam Ninh bị đưa về đây nhốt chung chúng tôi từ khi còn ở phân trại E. Ở
phân trại E, Long điếm chơi thân với tham mưu trưởng biệt kích 81 trung tá
Vũ Xuân Thông, Trần Quí Phong, Phạm Văn Tường, mấy tay này thường tổ chức
ăn cơm chung nhau ngày chủ nhật nếu không đi lao động xã hội chủ nghĩa.
Đúng như nick name anh em đặt cho hắn. Mặt trẹt, môi mỏng, đếch có sợi râu
làm thuốc, cái tướng đó theo kinh nghiệm ngàn năm, thứ thiệt là điếm, điếm
rặc ri, suốt thời ở chung một nhà, một đội, tôi luôn né hắn.
Tất nhiên là hắn biết tôi không ưa hắn, từ cái ngày “ông đại sứ” danh
gọi của trung tá Vũ Bội Ngọc tùy viên quân sự một tòa đại sứ thời đệ nhị
Cộng Hòa bị tụi chèo kỷ luật. Anh Ngọc là cây đinh của đám trẻ chúng tôi.
Anh luôn tươm tất,đi lao động với giày bata trắng, con người đủ tác phong
một sĩ quan cấp tá, cái nón vải tự may rất chi là kiêu ngạo. Chủ trương của
trại thì không cho mang giày lúc đi làm, trung tá đại sứ nhà ta tỉnh bơ.
Thằng trực trại chận anh lại không cho xuất cổng theo đội, mấy thằng trật
tự kè anh vào để cán bộ an ninh làm việc, chuyện nổ ra ầm ĩ, anh em quân
đội phản đối, hiên ngang bảo vệ ông đại sứ, chống đối không chịu đi làm. Hạ
sĩ Nguyễn Văn Đèn phanh ngực áo thách thằng trực trại:
– Ngon thì bắn đi.
Hạ sĩ Đèn, người từng chơi một trò làm thất kinh ban lãnh đạo trại. (Tôi
không nhớ nổi, anh Đèn làm sao lại lọt vào nhà 3 và ở đội 20)? Đó là, một
tối, nhân lúc vắng người, chàng hạ sĩ tuổi đời 40 có 20 năm cầm súng đó
nhảy vô cầu tiêu, chơi một mũi tên bằng than, anh tô thật đậm và hướng mũi
nhọn vào cái lỗ của thùng cầu, ghi hàng chữ “Lăng HCM”, sáng ra rất nhiều
người đã thấy, nhưng đều im re, đến khi nhà trưởng Huỳnh Cự vào cầu tiêu
phát giác, chuyện dậy sóng làm cả nhà khỏi đi lao động một ngày, tất cả đồ
cá nhân mang ra khám xét, tụi chèo cố tìm một dấu vết, một mảnh than vụn
còn lại. Vô phương, chỉ có mấy cái lon guizgo bị thua vì cháy đen, vài lò
hỏa tốc không kịp giấu và cả nhà từng người phải viết kiểm điểm, phải khai
thiệt cho bác và đảng biết ai là họa sĩ. Có trời mới tìm ra trừ phi hạ sĩ
nhà ta kề tai nói nhỏ:
– Tao chơi đó.
Trận xét nhà này tôi bị thua mất mấy trang tự điển Anh ngữ nhỏ của Lê Bá
Kông, từ vần K đến vần M, tôi chôn dưới cát phủ cái chiếu và đống đồ xà bần
của mình lúc bị xét. Xét xong, tụi trực trại còn tại chỗ tôi không kịp lấy
bảo bối, thằng Quý đen vô tình vấp phải cái đống đồ quý. Thua! Nhưng không
ai chịu cha ăn cướp.
Sau này,tôi nghe bạn bè nói tụi nó thả anh Đèn về Vũng Tàu đâu được
chừng 2 tháng thì anh bệnh mà chết.
Cái vụ anh Ngọc bị chèo đàn áp, Long điếm là đội trưởng được mời lên báo
cáo, nhận xét về thành tích của Vũ Bội Ngọc. Dĩ nhiên là hắn đã khai rằng
Vũ đại sứ làm việc lề mề, không có tinh thần học tập, có vẻ quan liêu, do
bản thân từng ở nước ngoài, từng làm tùy viên quân sự vv và vv. Biết là hắn
với tư thế đội trưởng thì phải có ý kiến ý cò, nhưng cái ý kiến chết người
của hắn đã phụ một tay làm đám cai tù đẩy Vũ đại sứ đi một phát vô biệt
giam. Tụi tôi căm hận hắn đâm sau lưng chiến sĩ. Cuối cùng cái thắng nằm
trong tay thằng có súng... Ông đại sứ hết phép đi cùm, về đội nằm kế tôi.
Tôi phải chạy vạy nhiều chỗ để lui cui tẩm bổ cho ngài sau cú nằm ấp 15 hôm
trong cùm, Long điếm ấm ức nhìn tôi và đám trẻ bu quanh ngài đại sứ kiên
cường, thêm cú châm dầu vào lửa của Tăng Xuân Bá, trung tá Duy Lam Nguyễn
Kim Tuấn gởi sang một đống thuốc bổ, vỗ béo ông đại sứ làm Long điếm tức ứa
máu.
Trung tá Vũ Bội Ngọc được thả về hình như từ 1984 và nghe đâu anh ấy bị
bệnh chết, nhất quyết không lên đường theo diện HO.
Trung tá hồi chánh Huỳnh Cự cũng được thả sau đó, nghe đâu là vào năm
1990 và anh theo diện H.O định cư sang Mỹ. Nhưng tôi chưa kịp lên thăm anh
và uống ly café ngoài đời với anh thì nghe anh bị ám sát, bằng một chiếc xe
Jeep. Tụi nó tông anh ngả xuống trước một quán café tại khu Hàng Xanh trước
sự chứng kiến của anh Mai Đình Tạo, cựu trưởng ty Chiêu Hồi Bình Dương năm
1991, xong chúng de xe lại cán qua một lần nữa để chắc chắn rằng anh thực
sự đã chết. Con người ngày xưa từng phản bội chúng, chúng không giết anh
trong tù mà chờ thả anh ra, cho anh hít thở vài ngày không khí tự do trong
nhà tù lớn, xong thì thịt.
Căn cứ vào câu chuyện cho đi tàu suốt một trung tá hồi chánh Huỳnh Cự
mới thấy cái tính toán lâu dài, hèn hạ của phe thắng trận.
Tôi nhớ có lần, tôi hỏi anh về cái án tập trung cải tạo dưới con mắt nhà
cầm quyền, Huỳnh Cự cười:
– Ê, mày có biết Tây Bá Lợi Á không? Ở đó bây giờ vẫn còn nhiều người bị
giam mút mùa lệ thủy vì cái án Tập Trung Cải Tạo, anh nói mày đừng có run,
yên chí đó là bản án tù chế độ.
Nói xong anh đứng dậy bước ra sân, cái tướng to con, gân tay nổi cuồn
cuộn của anh in rõ trong màu nắng. Hôm nay cái tướng đó chắc khi chết đã
bẹp dí dưới sức nặng của chiếc xe Jeep hai lần cán qua.
-----
Tháng 6/1983 chúng tôi, gần 300 con người bị đưa vào phân trại B, cách
phân trại E ba cây số đường mòn. Cả đám bị chia nhiều đội. Dưới con mắt của
đám cán bộ phân trại B, đội 17 là đáng để ý nhất. Đó là một đội lao động
nhẹ, canh tác mấy luống rau nằm ngoài trại, trước cổng trại, đội trưởng
được cắt cử là cựu tổng trưởng dân vận và chiêu hồi Hồ Văn Châm, dưới tay
ông gồm gần 20 tu sĩ, linh mục, và cớm cội của các giáo phái, thiếu tướng
Lê Văn Tất của Cao Đài, ông này từng có thời làm tỉnh trưởng Tây Ninh, nhân
khi chính quyền muốn trấn an lòng dân và cho hợp thức hóa các tướng tá
sau đợt truy quét Bình Xuyên thời Đệ Nhất Cộng Hòa, chưởng môn Cửu Long Võ
Đạo Huỳnh Văn Công, là người thượng đài ở Chợ Lớn khi chưởng môn Vovinam Lê
Sáng mới tập võ, Thừa sử Cao Đài Lê Quang Tấn, Linh mục nhạc sĩ Huyền
Linh.v..v...
Phân trại B, cũng y chang trại E, chia nhiều khu, ngăn nhiều nhà, chỉ có
mỗi cái khác là bếp trại nằm bên phải cổng vào, rồi kế tiếp là đội 17.
Nhà bếp ở trại B gồm toàn các anh sĩ quan trình diện, trừ đội trưởng là
dân ba ke. TQLC đại úy Kiều Công Cự có nhiệm vụ phân phát cơm cho từng đội.
Tôi nhớ, lúc đó tôi chơi chung với Khổng Hữu Diệu, anh đau bao tử kinh
niên, luôn được miễn lao động của đội 15. Anh Cự mỗi ngày nén cho anh Diệu
một bo cơm nấu nhão, trong tâm ý có chút nhiều hơn để nuôi cái bao tử sắp
tiêu tùng của anh Diệu, khi nào anh có thăm nuôi hay quà cáp thì kèm theo
bo cơm nhão đó là túi quà, đa số là những thứ cần cho con bệnh. Cái tình
huynh đệ chi binh trong khốn cùng chỉ chút xíu đó thôi, nhưng nó là một sự
san sẻ không thể có được ở ngoài đời.
Đội 15 trấn tại nhà 4, sát hàng rào trại, cách đội 17 một khoảng sân tập
hợp thật rộng, cuối sân có cái chòi văn hóa cất theo kiểu mái lục giác
toàn bằng gỗ rừng, gối đầu với hội trường dài ngoằn có sức chứa hơn ngàn
mạng.Cặp bên hông hội trường là nhà kỷ luật, đó là nơi những chúa ngục bị
kiên giam nhiều ngàytháng cư ngụ.
Là đội nông nghiệp, nên ngày hai buổi chúng tôi trấn trên đồi cao, đầu
đội nắng Hạ Lào, chân đạp sỏi đá Trường Sơn. Nói là tù như kiểu khổ sai, kỳ
thật chúng tôi mà đi lao động ai mà nhìn thấy là phát ghét. Cuốc giơ lên
trời thì chim đậu, bổ xuống thì mối xông. Nói chung làm tất cả thứ gì có
thể đi ngược lại cái qui định chó chết dán chần dần ở cổng hội trường hay
đọc như vẹt trong các buổi họp nhà, họp tổ thì chúng tôi làm. Châm ngôn
phải học thuộc lòng là “phá được cứ phá”, nhưng phải an toàn và cẩn thận.
Đội 15 có diện tích trồng tỉa là 3 ngọn đồi, tôi ở trại B hơn 3 năm,
tính tròm trèm đã đi lên và đi xuống những ngọn đồi đó hằng triệu triệu
bước chân, mà mỗi bước chân là một vết thù khắc sâu trong tim.
Là đội chuyên về nhà nông nên khi trại có kế hoạch trồng dừa che nắng
trên đường dẫn vào phân trại. Dừa giống do đội lâm sản chuyển về đặt dọc
hai bên lề. Đội 15 vác cuốc ra đào hố trồng, cả đám rỉ tai nhau, chọc thủng
cái ngọn, lấy cơm dừa rồi cắm trở lại bỏ xuống hố. Dừa là loại chịu đựng
khá lâu, 10 ngày sau một số cây bị héo dần, bọn cán ngố cho đội khác ra
thay, moi lên thì thấy, bên dưới là cơm dừa, mộng dừa có cái còn dấu răng
cắn dở. Cú này cả đội phải làm kiểm điểm suốt một tuần, bọn cán ngố truy
tìm thủ phạm nhưng ai cũng lắc đầu không biết. Rốt cuộc thì huề vốn,
phần thiệt hại duy nhất là cả đội bị phạt ăn ở mức ăn thấp nhất, 13.5kg
nguyên 1 tháng, riêng tôi từ ngày đi tù chưa bao giờ tôi ngoi lên được mức
ăn trung bình nên chuyện đó không ăn nhậu gì tới tôi.
Mấy mươi năm sau, có lần trong chuyến về thăm trại cũ, khi vào phân trại
B để lên Đồi Vĩnh Biệt, tôi còn nhận ra hàng dừa xưa nhưng nó đã cao lêu
khêu giữa rừng chồi, con đường bị hẹp lại, toàn bộ các phân trại B,C,D chìm
dưới hồ thủy lợi Phú Xuân được xây vào thập niên 2000-2010. Tôi đi dọc
hàng dừa, có một chút bùi ngùi khi nhớ lại, pha thêm một chút tiếc, sao nó
không chết sạch hết cho rồi để hôm nay khỏi nhớ.
Từ năm 1982, khi tôi còn ở phân trại E thì có một đợt tù được thả về đầu
tiên, rồi qua năm 1983, lai rai cũng có vài con nhạn ra về. Lúc đó tin tức
khá tin tưởng từ bên ngoài chuyển vào trại qua đường thăm nuôi. Đại khái là
Mỹ đã can thiệp để việt cộng thả hết những quân dân cán chính bị giam giữ,
một vài trại giam ở miền Nam có phái đoàn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc tới
viếng. Ban đầu thì nó cũng bị xếp vào những bản tin cà giựt ru ngủ và nuôi
bệnh tù như kiểu ở Z30D. Đến lúc có người về, mà chắc mẫm không do chạy
chọt hay gốc cớm ké việt cộng gì đó, niềm tin mới dần dà có lại. Điều này
làm dậy lên tinh thần chống đối trong cộng đồng tù A20.
Khi vào phân trại B, đường xa hơn, gia đình đi thăm phải qua một khoảng
rừng chồi 3 cây số vắng và nguy hiểm. Mùa mưa là khỏi đi, con đường chìm
hoàn toàn trong nước hàng tháng trời. Địa hình ở phân trại B khó hơn nhiều
so với phân trại E.
Có lần đội 15 đi làm bên kia sông Trà Bương, khoảng sông này ngày xưa
trước trại là đoạn rộng nhất, khi lũ về, nước ầm ầm đổ xuống, chúng tôi
chẳng kịp thu dọn dụng cụ, đội đến bờ sông thì nước đã lênh láng, tên quản
giáo đội đành cho dùng tất cả dây có được trong nhà lô, nối với dây rừng,
tìm chỗ hẹp nhất căng dây cho anh em níu qua sông. Đây là lần đầu tiên tôi
ở trại lao động, đi làm về tới cổng trại là 7 giờ tối.
Xa mặt trời nên sinh hoạt của tù cũng dễ thở hơn. Phân trại B có mấy đội
hình sự, chuyên phụ trách lâm sản, mang củi rừng về bếp trại. Đám này chính
là mối liên lạc để mở ra thị trường trao đổi, mua bán, giữa tù và dân sống
quanh khu vực. Tôi nhớ lúc 1985-86, cứ mỗi bộ đồ trại mới phát có giá 10
lon guizgo gạo đầy, một cái mền bông loại lớn giá 30 lon guizgo gạo, nhưng
một bộ đồ lính bằng vải nylon lên tới 50 lon guizgo. Dĩ nhiên trong cái đói
thì mặt hàng chiến lược là gạo. Một thứ không kém phần quan trọng là thuốc
hút.
Ở phân trại B, dân chung quanh trồng thuốc lá loại thơm và vàng như
thuốc lá từng thấy ở miền Nam, dân Thượng là đa số, họ dùng phương pháp xỏ
xâu lá thuốc đến hạn thu hoạch bằng nang tre rồi phơi trong mát cho đến khi
nó khô, nhưng không dòn, không làm bể vụn lá thuốc. Mỗi xâu thuốc lá như
vậy tương đương 5 lon guizgo gạo. Thị trường này dù có cay đắng qua mấy đợt
ăn chận, ăn lời, nhưng nó có 1 bảo đảm tương đối dựa vào uy tín của những
tên tù trong đội lâm sản, hàng hóa từ trong trại đưa ra tất nhiên phải theo
đường dây có ăn chia của trật tự và trực trại. Một thằng trực trại, coi hết
một phân trại có một lối ra vào duy nhất, làm sao không biết những gì có
trong trại, rượu thịt, cá khô, gạo trắng, thuốc lá, trà... những thứ đa số
là cấm nhận lúc thăm nuôi, nó xuất hiện tràn lan trong trại thì do từ đâu?
Chuyện mua bán bằng cách đổi hàng xem ra khó khăn, sau đó thị trường này
giải quyết gọn gàng hơn, có thể nhận tiền mặt, khi nào cần mua chi thì cứ
báo giá và đưa tiền mặt cho tụi lâm sản, nó dễ giấu hơn, mua bán gọn, nhanh
hơn, từ đó vài thứ xa xỉ bắt đầu xuất hiện, rượu đế, rượu cần, thịt rừng
bắt đầu có trong phân trại B. Dĩ nhiên đời sống thăng hoa hơn chỉ dành cho
kẻ lắm tiền, nhiều của, những quan to ngày xưa thường và luôn được đãi ngộ.
Đội 17 vẫn là cái đinh của trại, những ông linh mục, tu sĩ, đa số là béo
mập nhất, con chiên thường sợ cha xứ đạo bị đói, thầy chùa có nhiều chỗ đễ
gởi thư xin tín đồ món này món nọ. Những thứ quí hiếm cho đời sống trong
tù, tại đội này có sẵn. Buồn một nỗi, người tù đau bệnh cần một viên
thuốc kháng sinh, kiếm cả trại không có, hỏi mấy cha, cha lắc đầu, hỏi thầy
chùa, thầy chùa bảo không có, nhưng thằng cán bộ nào đó bị bệnh cúm sơ
sơ,nói trực trại 1 tiếng,vào đội 17 xin thuốc thì ôi thôi các đấng mang cả
túi nylon to đựng toàn tân dược quí:
– Cán bộ lấy thứ này, tốt lắm nè, lấy thêm mấy viên kháng sinh uống cho
mau hết bệnh... Dạ dạ cán bộ nếu cần thêm thì vào đây nói tôi một tiếng,
tôi không có, sẽ hỏi anh em khác chắc là có.
Tôi biết được mấy cái mắc ma mắc ếch này là do thiếu tướng Cao Đài Lê
Văn Tất kể cho nghe và dặn:
– Chớ có nói cùng ai, nguy hiểm chết người, đó nghen.
Biết ông vào trại này, thỉnh thoảng tôi cũng thay mặt ba tôi tới vấn an
người chỉ huy của ông thuở trước, như một lời cám ơn ông đã có ít nhất 2
lần tới nhà thăm gia đình tôi khi ông còn ngồi ghế tỉnh trưởng. Có lần tôi
hỏi ông về Thừa Sử Cao Đài Lê QuangTấn,chú Ba lắc đầu:
– Cái ông Tấn này mới tệ, hôm trước ông ấy hỏi chú Ba, địa chỉ của thánh
thất Trảng Bàng. Con biết sao ông ấy hỏi như vậy không?
Tôi lắc đầu.
– Ông Tấn thì thường thư về thánh thất, nhất là thánh thất Đô Thành ở
Sài Gòn, xin các chức sắc tại đó gởi đồ tiếp tế cho ông ta.
– Trời! sao tệ quá vậy?
– Con không biết đâu, ở chung với ông Tấn chú Ba quá mệt khi nghe ông kể
hoài chuyện ông ấy đi dự hội nghị tôn giáo ở Ấn Độ, ông ấy kể đến nỗi chú
Ba thuộc lòng luôn, mà đâu phải chỉ có chú, mấy linh mục trong đội bị ông
ấy kể nghe riết khùng luôn.
Ở chung với ông một phân trại, tôi hay gặp ông ở góc hội trường khi rảnh
rỗi vào chủ nhật hay ngày không đi lao động. Có lẽ chỉ có những người thân
với ông mới biết ít nhiều về đời tư của một cựu tỉnh trưởng Tây Ninh lừng
lẫy của giáo phái Cao Đài.
Cựu tỉnh trưởng Lê Văn Tất sống độc thân cho đến khi nằm xuống, bên cạnh
cuộc đời xem như thánh tử đạo của ông còn có bóng một kiều nữ mang tên Mộng
Điệp, ông nói với tôi chỉ là tình bạn, nhưng trong ánh mắt của ông, tôi
hiểu từ sâu thẳm đó là mối tình vừa bạn vừa tình chung, có từ thời Tây,
uýnh Pháp, lúc ông còn đóng binh ở Gò Kén, Tây Ninh và quí bà cố cựu này là
người duy nhất, lâu lâu đi thăm nuôi ông trong suốt thời ông đi tù. Khi làm
giấy đi thăm nuôi, chắc chắn quí bà này phải khai là em gái, chứ không lẽ
khai là vợ?
Sau năm 1975, tụi băng đỏ giam lỏng ông một thời gian ở Tây Ninh, rồi
đưa về Chí Hòa, sau cùng bốc một phát giam ông ở trại này. Ở đội 17 thiếu
tướng Tất chơi chung với chưởng môn Cửu Long Võ Đạo Huỳnh Văn Công, tuổi
hai ông cùng xấp xỉ, nên cái thời ông Công thượng đài ở Chợ Lớn ông Tất
từng thấy, những người cố cựu thường khoái chơi chung, hình như ở họ có một
chút gì đó thâm tình như thể cùng nhìn về một món đồ cổ. Ở phân trại E có
lúc Huỳnh chưởng môn cùng đội với tôi, thấy tôi mồ côi và trực tính ông
thương nên dạy tôi khí công của phái ông, chỉ tiếc là tôi tập mãi chẳng
thành, không phải như ông đặt một miếng thịt bò trên tay có thể làm tái nó.
Năm 1987 tôi được thả ra, tới thánh thất Đô Thành tìm hỏi thăm cựu tỉnh
Tây Ninh, mới biết là ông đã chết 1 năm rồi. Một người đơn độc đã chết
trong đơn độc.
Những cái đồi đá tôi leo lên leo xuống mỗi ngày, hình như nó càng lúc
càng cao hơn, bước chân càng về lâu càng chậm và mỏi hơn. Hơn 3 năm tôi ở
đây ngày ngày cuốc cạch cạch trên lớp sỏi đá, những viên sỏi có khi bất
thần cắn vào chân để lại vết sẹo, hết lớp sẹo này tới lớp sẹo khác, nó phai
chầm chậm như cuộc đời đi tù của mình, như kỷ niệm dần dà phai đi.
Tôi ít khi nhớ nhà, vì không dám nhớ tới...
Ở phân trại E có một lần em gái út tôi tới thăm, con bé đi theo người
hàng xóm, vợ anh Bùi Tấn Sĩ, lúc đó anh Sĩ làm bếp phó ở khu E, gần 7 năm
gặp lại, con bé đã thành thiếu nữ, nó nắm tay tôi và chỉ biết khóc.
Vào trại B, vợ tôi lên thăm một lần trong mùa mưa bão, nàng già đi nhiều
lắm, cái chịu đựng của người đàn bà nghèo khó nuôi chồng đi tù mà ngày về
không biết quả thật là đau, nàng mang theo tấm hình con gái tôi chụp khi nó
lên 3, tội nghiệp con tôi chưa có cơ hội nhận ra cha, ngày tôi đi nó mới có
10 tháng tuổi. Lúc ở Z30D nàng cũng tới thăm, đúng vào lúc tôi nằm biệt
giam, tụi chèo đuổi về không cho nhận quà cáp chi cả, nàng nói, nàng lủi
thủi theo con đường cát trắng, đi cho tới chiều mới đón được xe về Sài Gòn,
nhìn gói quà mang theo thăm chồng mà khóc.
Cuộc chơi dang dở nửa chừng:
Phân trại B không có giếng nước trong trại, từ cổng trại nhìn thẳng ra
là nhà trực trại, trước mặt là một diện tích canh tác rau do đội 17 phụ
trách, qua khỏi nó là sông Trà Bương. Con đường từ phân trại E vào phân
trại C và D phải đi ngang cổng này, sinh hoạt tắm giặt đều phải xuất cổng
quẹo trái về phía phân trại E 100m, có một bãi cát thật rộng, đó cũng là
nơi đội bếp lấy nước uống cho trại, qua khỏi bãi tắm 500m thì đến Đồi Vĩnh
Biệt của phân trại. Nhà bếp trại B nằm đối diện cái ao khá lớn, khác với E,
ao cá này nằm trong hàng rào trại, đại tá Lý Thành Cầu được cắt cử trông
coi ao cá này, suốt mấy năm ở B tôi chưa từng được ăn con cá nào từ cái ao
đó, dù là thực phẩm nuôi chúng bị trích ra từ lương thực của chúng tôi. Mỗi
lần bắt cá lên là một đám các cán bu quanh, thằng lớn ăn con lớn chút,
thằng nhỏ ăn con nhỏ và ăn ít một chút. Cái ao có hàng rào chống trộm, có
khi tôi thấy ông Cầu lui cui mở cổng, cái dáng già nua nhẫn nại cho cá ăn
buồn như cảnh sống của ông ta, ngày tôi rời trại A20 ông Cầu vẫn còn ở đó,
khi ấy tôi thấy ông đã hom hem lắm rồi, e rằng khó có cơ hội cho ông rời
cái ao trước khi tắt nghỉ.
Tôi nhớ có một ngày tôi khai bệnh ở nhà, các đội xuất trại đi lao động
thì Quách Văn Trung thiếu tá Cảnh Sát quay vào chuẩn bị đi thăm nuôi. Theo
sau anh là thằng Tiến trật tự, anh Trung nằm ngay tầng trên ở cửa ra vào,
anh leo lên và với tay lấy mấy cái giỏ đệm đựng đồ thăm nuôi trên kệ, tự
nhiên anh nói:
– Sao tôi chóng mặt quá!
Anh ngả xuống sàn và chết ngay tức khắc, cái chết do cơn đột quỵ chóng
vánh vô cùng, bệnh xá cho người xuống khiêng anh đi. Thông thường một tù
nhân chết bọn cán bộ sẽ cho chôn ngay trong ngày. Chúng để anh Trung nằm
lại dù đã bỏ anh vào trong hòm. Bên ngoài, gia đình anh đợi mãi không thấy
anh ra thăm, cả nhà sinh nghi, quyết chí ở lại yêu cầu cho gặp mặt. Chẳng
biết trại đã vụng về giải quyết thế nào, tối hôm sau nữa khi chiếc xe cải
tiến mang anh Trung ra Đồi Vĩnh Biệt, gia đình đã theo ánh đuốc của đám lâm
sản tới tận huyệt mộ. Một trận chửi bới vang lên một góc rừng, dù vậy gia
đình vẫn không được phép nhìn mặt anh lần cuối. Mẹ anh Trung dập đầu lạy
như tế sao, xin cho mang xác anh Trung về quê mai táng, trưởng trại Thân Di
Yên vào tận nơi, hắn phán một câu:
– Tên này có tội ác với nhân dân, chết ở trong trại thì theo chính sách
phải chôn tại trại, căn cứ vào chính sách nhà nước dành cho phạm nhân của
bộ công an, Quách Văn Trung phải chôn tại phân trại E, trại Xuân Phước,
không được phép mang xác về nhà.
Và hắn ra lệnh lấp đất.
Một cái chết đau, người nằm xuống trong ngày gặp gia đình, chỉ một gang
tay, một tấc khoảng cách tới cái nắp quan tài, mà thiên thu không thể nhìn
nhau. Vợ và mẹ anh Trung ôm nhau khóc vang cả con đường lên Đồi Vĩnh Biệt,
rồi cuối cùng đành quay về. Tội nghiệp bà mẹ già lết trên đường rời khỏi
trại, đám lâm sản còn nghe bà than một câu “đảng cộng sản đã cướp con của
mẹ rồi”.Cái chết của Quách Văn Trung để lại trong lòng anh em một vết hằn
trong những năm 1981 tại phân trại E.
Trại Xuân Phước này từng có những cái chết đau như vậy:
Năm 1983, vào thời cao điểm của bệnh lao, tại phân trại E các tù nhân có
mặt ở đó, từng chứng kiến cái đau không thể nào quên khi Võ Văn Thắng chết.
Gia đình họ Võ, gồm Võ Hiếu Nghĩa, em trai ông là Võ Văn Thắng, con trai
lớn của ông là Võ Hiếu Trinh. Cả 3 bị bắt vì tội âm mưu lật đổ chính quyền,
ra tòa mỗi người nhận một bản án, ít nhất là 15 năm, qua nhiều trại giam
sau cùng cả 3 người bị giam chung một đội, một nhà tại phân trại E.
Tháng 6/1983, Võ Văn Thắng bệnh lao và qua đời, Võ Hiếu Trinh cũng bệnh
lao nhưng nhẹ hơn. Ông Thắng chết, xác nằm trên bệnh xá, bên cạnh là anh
trai và cháu gọi người chết là chú, chỉ biết vuốt mắt tiễn đưa. Khi đội lâm
sản mang anh Thắng đi chôn, lúc đó Võ Hiếu Nghĩa, Võ Hiếu Trinh phải vào
phòng sau buổi điểm danh chiều. Người thân ruột thịt chết trên tay mình mà
không thể theo cái xe cải tiến ra khỏi cổng trại để đưa tang, đừng nói là
thắp nhang vĩnh biệt trên mộ chí.
Võ Hiếu Nghĩa qua đời năm 2008, sau khi chung đủ cái án 18 năm và chết
do kiệt sức sau thời gian dài tù tội dưới một chế độ ăn uống thê thảm cùng
những đòn tra tấn dã man trong tù.
Võ Hiếu Trinh cũng chung đủ cái án 20 năm, anh chết sau cơn bạo bệnh vào
năm 2015 tại Tây Ninh.
Võ Hiếu Nghĩa là đại úy cựu sĩ quan Cao Đài cùng một khóa với ba tôi. Có
lẽ vì thế tôi không thể nào quên gia đình họ Võ.
Vả lại, sau 1975 những gia đình có 2, 3 thậm chí là 5 người đi tù là
chuyện bình thường, một gia đình có 3 hay 5 anh em là sĩ quan, không rời
khỏi Việt Nam sau ngày thua trận, buộc phải trình diện đi tù thì có chứ.
Nhưng, không dễ gì có cả 1 gia đình lên đường đi giành lại núi sông sau
ngày tan trận,mà cả 3 người thân thuộc cùng bị tù đày. Bên cạnh những cái
chết đau đó, còn có những cái chết bình thường nhưng anh em khó quên.
Khúc Thừa Văn, Tỉnh Ủy Việt Nam Quốc Dân đảng của xứ Quảng Nam, ông
chung một đội với tôi từ E tới B, tôi vẫn luôn nhớ cái dáng gầy gò của ông,
khuôn mặt xương xương, cương nghị phong thái của một nhà giáo thật rõ nét
khi ông nói với Lâm Sơn Hải:
– Hải là con tướng Lâm Thành Nguyên, vậy anh phải làm người dẫn đầu cho
anh em Long Xuyên tại đây, nói với họ, đừng quá khích mà thiệt thân lúc
này, phải nhẫn nhịn, ráng mà nhịn, không được cũng phải nhịn để còn về, còn
nhiều chuyện phải làm, đừng coi đây là nơi cuối cùng.
Lâm Sơn Hải học chưa thuộc lòng câu đó của Khúc Thừa Văn, họ Khúc bất
thần trở bệnh, ông nằm ở bệnh xá gần nửa tháng, anh em kẻ lui người tới,
nhìn ông càng ngày càng cạn kiệt dần, rồi một trưa trong gió Lào nắng cháy
ông đi khuất, tụi chèo đóng vội mấy miếng ván làm quan tài đưa ông về Đồi
Vĩnh Biệt, khi đội đi làm về, chúng tôi ghé thăm, bác sĩ Lịch nói nhỏ:
– Thầy Văn đi rồi và đã chôn hồi chiều.
Khúc Thừa Văn, một người trầm lặng nhất trong những người lớn tuổi của
đội. Giọng miền Trung nhỏ nhẹ của ông, cái dáng cầm cái điếu cày từ tốn
ngồi trên bục xi măng chỗ ông nằm, lấy tay rút cây đóm dưới chiếu, châm
lửa, rồi chờ một lúc cho lửa cháy hết phân nửa cây que mới chầm chậm rít
một hơi, nhẹ nhàng đặt cái điếu xuống, ngước mặt lên thở hơi khói dài. Đó
là chân dung của một lão tù đáng kính trong đội tôi, đến nỗi Nguyễn Huỳnh
Danh Vũ, tay chơi chung với đại úy Cao Hữu Vốn, dân Long Xuyên chính gốc,
thuộc người giang hồ trên sông nước miền Tây cũng bùi ngùi:
– Những người tốt sao chết vội vậy không biết?
Ngày về thăm trại cũ, tôi đến mộ ông, nghe anh Vũ Ngọc Tạm nói, ông đã
được gia đình cải táng về quê nhà rồi. Tôi đã đứng tần ngần ở đó nhớ cái
dáng vẻ của người đồng tù xưa, lòng buồn vô cùng. Phải nhớ chứ, ngày tôi bị
bắt làm đội trưởng đội 8, ông nói với tôi:
– Thế trên đe dưới búa này, anh không có quyền lựa chọn, trừ phi anh
chạy khỏi nó.
Làm việc với thằng an ninh trại về, tôi cười cười nói với ông:
– Ngày mai hay mốt tụi nó sẽ nhốt tôi, lão đại à, ông mừng cho tôi thoát
nợ đi.
Khúc Thừa Văn cười:
– Vậy là xong, một lựa chọn hợp lý, nếu nó không nhốt anh, nó cũng kiếm
thằng khác thay anh, anh thoát thiệt rồi, nè phê một điếu đi.
Cuối 1983, 1984 là năm mà Đồi Vĩnh Biệt nhận nhiều, rất nhiều chiến binh
bỏ cuộc chơi nửa chừng. Trong một danh sách dài lê thê của các cựu tù ở
Trại Trừng giới, đã có:
– Võ Văn Hải, chánh văn phòng cố tổng thống Ngô Đình Diệm.
– Bùi Ngọc Phương ứng cử viên tổng thống đệ I Cộng Hòa.
– Thiếu tá Lê Danh Chấp, gốc Đại Việt ra đi ngày 3-7-1984.
– Thiếu tá Bùi Hữu Nghĩa, truyền tin, chết trong kiên giam B.
– Lê Kiên Bùi Lượng, tổng thư ký Công Đoàn Tự Do.
– Thiếu tá Lê Minh Chiêu, sĩ quan thanh tra tỉnh Bạc Liêu.
– Thiếu tá TQLC Nguyễn Văn Châu (Châu Campuchia).
– Linh Mục Nguyễn Văn Luân chết trong kiên giam.
– Linh mục Nguyễn Văn Vàng chết trong kiên giam.
Tên tuổi này, còn dài lắm, ở đây chỉ gọi tên dăm người lỡ bỏ cuộc chơi,
gươm đao để lại trên Đồi Vĩnh Biệt khu B. Đó không phải là nén nhang cho
người đã nằm xuống, mà trong ký ức của người từng sống sót trở về từ Thung
Lũng Tử Thần ngày xưa, chợt một chiều mắt đã ráo lệ, tim không còn cách gì
rung động được nữa, rớt vào đám quá khứ rối mù, chợt thấy hình như anh em,
bè bạn xưa còn đứng đó trong hiu quạnh với nỗi buồn bên chiến bại.
Đi qua đồi vĩnh biệt
Chiều đi ngang chân đồi vĩnh biệt
Sương rừng treo mờ mịt lối qua
Thằng chết rồi như đứng ngó ta
Đang khập khểnh bước về phía trại
Đồi vĩnh biệt hàng bia xiêu vẹo
Bóng thời gian phủ xuống mộ người
Gió Trường Sơn như tiếng ma hời
Đau đớn thổi ru đời tù tội
Mưa xói mòn đá rơi, cát chảy
Phơi áo quan cũ mục ven sườn
Cái chết trong tù đã thảm thương
Vùi trong đất, đất không thèm chứa
Đồi vĩnh biệt mùa đông gió rét
Lạnh căm căm dưới bóng rừng già
Đám dây leo trải thảm từ xa
Nuốt dần di vết người quá cố
Nhớ hôm đi phát cỏ bên rừng
Trong lau sậy còn bia Lương-Thiện
Áo quan rã, xương còn dăm miếng
Gom chưa đầy một vốc trên tay
Võ văn Thắng mới chết nằm đây
Bia đã gãy ngả nghiêng dưới hố
Bạn bè ta chiến chinh mấy độ
Giờ chết đau, ôi! một kiếp tù
Chiều đi ngang qua đồi vĩnh biệt
Ngơ ngác nhìn quanh chọn chỗ nằm
Mai đây lỡ ta chết âm thầm
Chắc cỏ dại xanh thêm chút nữa
Chín năm tù có gì dám hứa
Chết như vầy quả xót đời ta
Một màu cờ đợi chín năm qua
Chưa thấy lại trước giờ nhắm mắt.
nguyễn thanh khiết
A 20/1986 mùa thanh minh
(một nén nhang cho những người tù đã nằm xuống).
Ở những trại giam khác, những trường hợp bị cùm thì lâu nhất là 1 tháng.
Trại A20 như đã nói từ cửa miệng của Lê Động Vũ, một đại úy cai tù gốc liên
khu 5, trại này dành nhốt tù cho tới chết, vì thế một lệnh biệt giam 15
ngày có thể kéo 6 tháng hay một năm, có khi nhiều hơn thế nữa. Vũ Văn Ánh,
Linh mục Nguyễn Văn Vàng là thí dụ điển hình. Linh mục Vàng ở trong kiên
giam cho tới chết, Vũ Văn Ánh sơ sơ vài đợt, mỗi đợt 1 năm hơn. Khi đã vào
biệt giam, tù nhân không được mang bất cứ thứ gì, mỗi ngày 2 bữa ăn, mỗi
bữa là 2 hoặc 3 muỗng cơm tùy theo thái độ trong thời giam bị cùm, nước
uống cũng 2 hoặc 3 muỗng. Bọn cai ngục gốc liên khu 5 dã man hơn, chúng lấy
3 muỗng nước muối làm thức ăn đổ chung trong 3 muỗng cơm, khi ăn tù nhân
biệt giam phải gạn bỏ nước muối, nhưng khoảng 50 đến 100 hạt cơm đó đã mặn
chát. Người tù chỉ sau 20 ngày hay 1 tháng là toàn thân sưng phù, cái cùm
trở thành quá chật, nó sẽ ăn sâu vào da, nếu người nào bị cùm bằng cùm nhỏ
từ lúc đầu thì thê thảm. Ai từng ở Trại Trừng Giới thì phải biết tới đòn
thù này, đó là một trong những trò có một không hai trong các trại tù trên
khắp đất nước sau 1975. Có thể nói dưới chế độ hung hiểm đó, con người chỉ
là một khối thịt xương cho bọn chúng tập luyện kỹ năng coi tù. Còng tay
theo thế rút kiếm ở Chí Hòa, cùm tréo chân ở T20, vừa cùm, vừa còng ở Z30D
chỉ là đồ bỏ so với A20. Những phương thức cổ điển, chỉ dùng trong một thời
gian nhất định, như còng rút kiếm, cao lắm 4 giờ sau tù nhân sẽ nghẹt tim
mà chết.Trại A20 không cho tù nhân chết liền,chúng bắt tù phải chết từ
từ. Thử xem cây sắt xỏ cái cùm làm bằng sắt gân 18 tới 20 ly nó bén cỡ nào,
cái cùm không tròn trịa mà dập theo kiểu vừa tròn vừa vuông. Mấy món đồ
chơi này nghiến vào da thịt, cổ chân mỗi ngày mỗi sưng lên trong hàng năm
trời thì sẽ ra sao?
Vinh nhục đời người:
1- Ranh giới sống còn:
Chiến đấu trong tù là một điều không dễ chút nào, bên cạnh người tù còn
có bè bạn, có danh dự, có trách nhiệm, nói gì thì nói mấy thứ này không thể
quên được. Hàng tá người đã rớt đài trong tù, chỉ trong một tích tắc mềm
lòng. Bạn muốn viết thư về nhà ư, bạn đang bị kỷ luật cấm hết thư từ, vậy
bạn phải nghe theo lời dụ khị của thằng nhóc cán bộ quản giáo hay an ninh.
Cứ báo cáo những gì bạn thấy được, biết được chung quanh, nhất là anh A anh
C, thái độ thành thật của bạn sẽ được đền đáp. Cán bộ X hay Y đi phép lần
này, thư của bạn sẽ được trao tận tay gia đình. Thề có chân dung Hồ chủ
tịch cán bộ đây sẽ không nói dối. Vậy bạn có tin không? Có muốn vợ gởi cho
ít thuốc kiết lỵ hay tiêu chảy trong vòng 1 tuần là có không? Cứ thành thật
khai báo.
Đang bị cùm mà cán bộ an ninh xuống tận phòng giam, khuyên bạn khai hết
những tên đồng lõa, cán bộ sẽ lập tức tháo cùm cho bạn về đội, sẽ không ghi
vào hồ sơ tù của bạn, ban có khai không?
Ngày mai bạn sẽ ra nhà thăm nuôi hay nhà hạnh phúc hoặc danh gọi con mẹ
chi đó là cái chỗ bạn ngồi cách vợ bạn một cái bàn to tổ bố, nắm tay nhau
cũng không được chứ đừng nói ôm hôn. Và bây giờ, ngay lúc này vợ bạn đã có
mặt ở đó. Bạn có muốn ngày mai bạn sẽ có một ngày một đêm ở chung với vợ
bạn trong nhà hạnh phúc không? 3 hay 5 năm rồi bạn chưa hôn vợ, nói chi
ngày mai vợ bạn sẽ nằm trong vòng tay, bạn muốn làm gì thì làm, muốn không?
Viết báo cáo đi, rồi ngày mai bạn sẽ có 24 tiếng ngủ với vợ.
Chiêu đó, trò này xưa như trái đất, ở trại A20 mấy thứ này không gạt
được ai nhất là những anh em trẻ, nhưng nhiều khi nó vẫn có tác dụng.
Tôi nhớ khi ở trại E, lúc đội văn nghệ thành lập. Văn nghệ tại trại E dĩ
nhiên toàn là đực rựa, những vở diễn có con gái thì làm sao, may thay có 2
nhận vật chuyên giả gái là Nguyễn Văn Nghiêm, thằng nhóc này cùng quê Tây
Ninh với tôi, nó can tội âm mưu lật cha cái chính quyền này, lãnh án 10
niên, thứ hai là Lâm Mỹ Thuận gốc ở Sa Đéc, chắc đâu cũng 12 niên. Giàn
trống kèn thì đủ, Nguyễn Hoàng Phương án đâu chừng hơn 10 niên chuyên đờn
vọng cổ, guitar có Vũ Mạnh Dũng dân Văn Khoa lãnh án tập trung, hắn nhỏ hơn
tôi một tuổi, trống thì có Hùng (rống) một sĩ quan tập trung cải tạo. Đ
ội văn nghệ được ưu ái ít nhiều, đầu tiên là không đi lao động cái đã,
còn ba cái lợi thế tắm giặt, ăn uống là thứ linh tinh.Có vậy thôi mà cũng ì
xèo một dạo.
Số là đội trưởng đội văn nghệ René Nguyễn Viết Hanh (René Móp) hắn bị
tai nạn cái đầu, bị cắt miếng xương sọ móp vô một miếng. Thằng quản giáo
đội văn nghệ không ưa cái tật ba xạo của Hanh, nó muốn thay đội trưởng. Xét
ra toàn phân trại chỉ có 2 tay ứng viên sáng giá là luật sư trung úy ca sĩ
Khuất Duy Trác đang ở nhà 4. Nhà 3 có trung tá nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm, người
từng được biết tới qua bài “Gọi người yêu dấu”.
Thằng cán gọi Khuất Duy Trác lên chầu, trung úy luật sư nhà ta chấp tay
sau đít, tà tà đi lên hội trường trình diện buổi chầu thăng cấp. Theo đám
anh em trong đội văn nghệ núp sau cánh gà sân khấu nghe lén thì rằng:
Thằng cán:
– Anh Trác à, bây giờ cán bộ cho anh làm đội trưởng đội văn nghệ, anh
phải ráng làm tốt chức vụ này, đó là cơ sở cho anh mau chóng nhận được sự
khoan hồng của nhà nước, sớm đoàn tụ với gia đình.
Khuất gia lắc đầu lia lịa:
– Hổng được đâu cán bộ, tui có biết nhạc nhòi gì đâu mà làm đội trưởng,
cái đó tui làm hổng được đâu, cán bộ tìm ai khác đi.
– Láo khoét! anh là ca sĩ mà anh nói anh không biết nhạc, anh muốn chống
đối hả?
Duy Trác gãi đầu làm ra cái vẻ ngu ngu:
– Cán bộ nghe tui trình bày,tui hát thì cũng được nhưng mà tui chỉ hát
nhái thôi, tui đâu biết nốt nhạc là gì, ai hát sao tui hát vậy, với lại mấy
năm nay cổ họng tui bị hư rồi cán bộ thấy không, khi tui nói nó còn khè khè
như vầy làm sao tui làm đội trưởng được, làm sao hát được.
Khuất gia phang thêm cái nữa:
– Để cho đội văn nghệ tốt hơn, hay hơn phải có một đội trưởng biết rành
về âm nhạc như anh là đội trưởng hiện nay, tui còn phải học ở anh ấy, làm
sao làm đội trưởng cho được.
– Anh không hát được thì hướng dẫn đội viên trong chức năng đội trưởng.
– Hổng được đâu cán bộ, tui bệnh dạ dày kinh niên, bấy lâu nay đau nặng
thêm tui xin nghỉ bệnh không đi lao động hoài, làm sao quản được cả một đội
văn nghệ, tui gánh hổng nổi đâu.
Thằng cán hậm hực đuổi cổ Khuất Duy Trác về, anh em xúm lại hỏi han, anh
chỉ cười:
– Tui mà biết phải làm sao là chết liền, bất thần nghĩ cách vậy thôi,
nhưng chắc không hề chi, tui bề gì cũng không làm, dứt khoát là không.
Thấy chưa, ngay cả chức sắc trong hàng ca sĩ, Khuất Duy Trác thuộc loại
cái bang hạng gộc còn có cách né, để giữ cho mình trong sáng, chắc anh cũng
nghĩ, khi làm đội trưởng, nó mà bắt ra làm nhạc trưởng cho cái bài đồng ca
“Như có bác Hồ...” là bỏ mẹ. Chuyện chưa hết, cái ghế đội trưởng Hanh René
móp đó còn treo lơ lửng ở đó. Trước tết 1982, trại ra thông báo làm báo
tường rồi sáng tác văn nghệ, thơ nhạc đủ thứ. Tin tình báo cho biết qua đợt
sáng tác này sẽ bình chọn tài năng, lựa mầm non văn nghệ thay cái ghế của
Nguyễn Viết Hanh và bổ sung quân số để thành lập đội Văn Thể, gồm thể thao
và văn nghệ. Tờ báo đã dán trên hội trường, dĩ nhiên anh em cũng viết cho
có viết, tào lao thiên binh thiên địa cho qua truông. Phần tôi thì vụ này
tôi nín khe, suốt thời gian đi tù tôi chưa hề hở môi là tôi biết ba cái
này,cũng như chuyện tôi có mặt ở khóa 3/73 Thủ Đức, ngu sao tự khai mấy cái
đó. Nhưng mà, một tác phẩm ra đời vào thời điểm này do chính nhạc sĩ trung
táVũ Đức Nghiêm sáng tác,nhạc phẩm được đem lên hội trường là nơi đội văn
nghệ luyện tập. Cũng cần nói là đích thân nhạc sĩ tập cho toàn đội văn
nghệ, để cống hiến vào dịp thành lập độiVăn Thể,bản nhạc được dợt tới, dợt
lui muốn nhão nhẹt dù ở nhà 3 cách hội trường 100m nghe lồng lộng đến nỗi
bây giờ sau mấy chục năm tôi còn nhớ, đại khái tựa và lời của nó là:
“Đây tiếng nói Trại E
Đây tiếng nói trại E, cùng cất cao bài ca hát mới
Kính chúc ban giám thị,hội đồng cán bộ 1 mùaxuân mới
Chúc các anh trại viên giành thắng lợi mới...”
Ôi trời đất ơi! 1 nhạc sĩ tài hoa,bỗng dưng tích tắc té cái rầm trên nỗi
vinh nhục thời đi tù, vậy có chịu nổi không chứ? Ai bắt ép ông phải viết,
ai đè ông xuống hay cắm cây viết vô đít ông để ông cho ra đời mấy lời nhạc
bưng bô đó, làm nhục những con người có mặt ở trại này.
“Kính chúc ban giám thị...” Đ.M không bắn nát đầu nó là may, còn chúc
với tụng. Đám trẻ một phen giận sôi máu mắt, nhưng làm gì hơn. Sau tết dù
không được nâng cấp làm đội trưởng thì Vũ nhạc sĩ cũng được ban giám thị
chiếu cố “điều” vào đội văn nghệ, rời khỏi đội đi cuốc 14, trong đó có Duy
Lam Nguyễn Kim Tuấn, trung tá văn sĩ, giọt máu cuối của Tự Lực Văn Đoàn,
thề chết bỏ không viết một chữ vào tờ báo tường.
Nỗi vinh nhục trong trại tù còn thấy được vào năm 1984 tại phân trại B:
Huỳnh Cự trong đợt di tản theo chiến thuật của từ E trở lại B. Anh là nhà
trưởng nhà 4, thật ra tụi chèo ghét anh cay đắng qua hồ sơ đi tù của anh,
nhưng không có chó thì bắt mèo ăn cứt, để Huỳnh Cự coi nhà 4, dẫu sao cũng
dễ tin tưởng hơn đám tù luôn âm mưu lật mẹ cái trại này.
Một ngày đẹp trời xét phòng, xét đồ cá nhân cả trại, thằng quản giáo
Nghệ (Nghệ mặt tròn) vào nhà 4 hắn tới chỗ Huỳnh Cự:
– Anh Cự, bấy lâu nay anh khỏe không, học tập có tiến bộ không, anh làm
nhà trưởng, đội trưởng có gì cần đề xuất để cán bộ giải quyết cho không?
Thằng Nghệ mặt tròn đi một đường bi da 3 băng, nó ngó Huỳnh Cự bằng nửa
con mắt.
– Báo cáo cán bộ không có gì cả.
– Không có là sao,anh chưa an tâm cải tạo hả anh Cự?
– Không cán bộ.
Thằng chó chết gây chuyện:
– Không cán bộ, nghĩa là không có ai là cán bộ hả anh Cự, trung tá Huỳnh
Cự.
Huỳnh Cự đứng ngay cửa ra vào, thằng cán đứng ngoài sân, đội 15 và 16
đang sắp hàng hai chờ mấy thằng trật tự xét đồ, xét nhà. Tôi đứng gần Huỳnh
Cự thấy nét mặt anh đanh lại:
– Cán bộ, tôi là trung tá hồi chánh, hồ sơ của tôi đã khai rõ ràng rồi.
Thằng Nghệ mặt tròn chơi một cú reverse:
– Anh có biết khi anh đầu hàng địch, anh giết biết bao nhiêu bộ đội,
biết bao nhiêu chiến sĩ con cháu của bác ở khu không?
Tới lúc này có lẽ Huỳnh Cự đã điên lên vì câu xấc xược của nhóc Nghệ,
anh bước tới sát mặt hắn gằn giọng:
– Ngày tôi là trung tá, cán bộ chưa ra đời nữa kìa, tuổi như cán bộ còn
phải học nhiều lắm, xin lỗi cán bộ nghen, tôi không có trách nhiệm nói
những cái này với cán bộ. Nếu muốn, tôi sẽ trực tiếp với ban lãnh đạo trại
hoặc cấp cao hơn.
Cán Nghệ mặt đỏ lên, ngay lúc đó thằng Thám trực trại đi vào, hắn đứng ở
ngoài vòng rào nhà, hối thúc tụi trật tự xét đồ nhanh lên kẻo không lại
trời mưa.
Xém chút nữa là thêm một trận phong ba. Nhưng sau đó Huỳnh Cự cũng bị đi
làm việc mấy bữa, với lý do chưa thông suốt đường lối học tập của đảng và
nhà nước, chắc anh phải viết 1001 tờ kiểm điểm.
Sau cú này anh em lại càng khoái Huỳnh Cự hơn, vốn dĩ anh rất chí tình
với anh em quân đội, thương đám nhỏ can đảm đi lấy lại quê hương anh tâm sự:
– Tui bây biết hôn, anh Cự chưa từng xử tệ với tụi bây, dù trong mắt mấy
đứa, anh vẫn chưa được tụi bây tin trọn vẹn, trong trại anh sống với tụi
bây một lòng là anh em, bỏ cha cái cộng sản, quốc gia đừng nói tới, chỉ với
tình cùng tù. Tụi bây từng thấy anh Cự báo cáo ba cái chuyện tụi bây làm
chưa? Bộ tụi bây tưởng anh hổng biết hả? Nhưng anh Cự hứa che cho tụi bây
được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Anh Cự chỉ xin tụi bây, cái gì thì cái, muốn
làm gì ra khỏi đây trước đã.
Đó là tâm sự của một trung tá hồi chánh Huỳnh Cự, trước nhà 4 phân trại
B năm 1984. Một câu chí tình, và cái hiên ngang của “Một cựu cộng sản ở tù
vì hồi chánh” và hiên ngang trước một cai tù cộng sản.
Kể ra Huỳnh Cự coi tụi cai tù ở trại này không ra chi, đâu phải lần đầu
anh đớp chát với tụi nó, mấy đời trực trại toàn là nhóc nhi, đâu có cửa
ngồi ngang với Huỳnh Cự, cho dù bây giờ là tù nhân chế độ, với án tập trung
cải tạo, anh cũng còn 7 hay 8 thành công lực để đương đầu với bọn tép riu,
sanh sau đẻ muộn này.
Trong hàng ngũ cũ, Huỳnh Cự từng là trung tá Trưởng Phòng Quân Huấn của
liên khu 5, lúc đó Thân Di Yên là lính của anh. Đến khi anh ra hồi chánh,
được chính phủ VNCH giữ cấp bậc trung tá và là cố vấn cho bộ Dân Vận và
Chiêu Hồi.Sau ngày 30-4-75 anh trình diện cũng như những sĩ quan khác,
nhưng hồ sơ đi tù của anh lại thuộc loại đặc biệt dù anh vẫn mang án tập
trung cải tạo. Huỳnh Cự dưới con mắt của cai tù là “phản bội”, là “đầu hàng
giặc”. Những ngày tháng đi tù cộng sản anh Cự luôn bị nghi kỵ, anh buộc
phải sống giữa 2 làn ranh quốc cộng dưới cả 2 chế độ, thật là tội cho anh.
Tôi là thằng được xem là nhóc nhi, con bà phước, vừa ngu vừa dốt, cho
nên tôi thường lặn sát đáy quần chúng, chỉ lâu lâu ngoi lên thở một cái,
nhân lúc đó liếc ngang liếc dọc xem cách các đấng tiền bối cư xử trong tù
để học hỏi. Những cảnh lu bu lom khom xin thằng trật tự chạy xuống bếp ké
cái lon guigoz vào bếp trại, mè nheo xin xỏ một thằng nhóc, chỉ là chó săn
của đám cán, thấy mà đau.Hình như cái tự hào áo trận giày đinh, một thuở
trèo đèo vượt suối,chinh chiến dọc ngang hay quên mình vì nước bay mất mẹ
nó trong điều kiện ăn đói mặc rách này rồi, chưa kể đến thân phận bị sỉ
nhục là tù hay hàng binh. Đau hơn nữa là khi xong việc, tay cầm guigoz nóng
hổi, vẻ mặt hân hoan pha chút hãnh diện vì đã được thằng trật tự “cho phép”
đi nấu linh tinh trong giờ cấm, có vẻ như đặc ân đó là một thứ chứng tỏ cá
nhân mình “sáng chói” hơn những người khác.
Thêm nữa mấy tay có chút của ăn của để, vào tù còn bày đặt kẻ hầu người
hạ hay đóm điếu cho mình. Ba cái thứ đó trong tù kể sao cho hết. Đó là
chuyện nhỏ như con thỏ, nhưng xét trên yếu tố đức hạnh hay bèo nhất trên tư
cách một sĩ quan QLVNCH, quả thật đám trẻ tụi tôi khó chịu và khó chịu ra
mặt.
Các anh có cấp bậc tàng tàng cỡ trung úy trở xuống, thường thì nghèo là
cái vốn. Ở Trại A20 căn bản là thứ trại trừng giới theo đúng nghĩa của nó.
Dù vậy, các anh đôi khi cũng bị cái hệ thống “quần dài” đuổi theo, chẳng
những sau ngày vất súng mà bị đuổi tận nhà tù, một loại nhà tù kiên giam.
Mỗi quan kha khá tài lực sẽ cố kiếm một tên tà lọt cho mình. Trong trại
giam từ E tới B, lấy đâu ra hình sự phạm nhốt chung một đội, đám chính trị
phạm tập trung cải tạo thì bản chất họ có chút sĩ khí, vài ba tên lọt sổ
thì có người chiếm hữu rồi, vậy thì còn lại là những con tương cận trong hệ
thống, quan đại tá, trung tá thì kiếm một thiếu úy nào đó. Chỉ cần điều
kiện hắn phải là dân mồ côi, dễ dạy dễ sai vặt, ngày xưa thay vì mang văn
thư cho sếp hoặc chăn mền chiếu gối cho quan lúc đi hành quân như mấy tên
tà lọt của ông thầy, bây giờ thì đi nấu cho quan lớn guigoz mì, guigoz
cơm,quan lớn sẽ trả công bằng 1 phần ít thức ăn đã nấu, kèm theo dăm bi
thuốc Lào, không có lính thì quan lớn đành dùng tới quan bé. Những điều kể
ra chắc chắn sẽ có người nhột, nhưng không nói thì bực, chỉ tiếc là không
thể nêu đích danh tên tuổi những người mà tôi cho là biến chất trong hoàn
cảnh. Cũng có nhiều người biết mà đành phải im lặng,có thể vì sợ đám hậu
bối sau này sẽ buồn,rất buồn khi biết ông cha mình đã xử sự quá tào lao như
vậy.
Tôi nhớ không lầm, về sau này chắc có 20 năm, khi tôi gặp lại và liên
lạc một số anh em. Lúc nạp hồ sơ đi diện HO, có người biết tỏng tòng tong
một cá nhân nào đó, làm chuyện bậy bạ trong tù, hay khai gian hồ sơ...
Các anh vẫn im lặng bỏ qua, không phải họ tha thứ mà vì tương lai lũ
nhỏ. Có người từng vượt biên với những con cháu của những kẻ từng gây ân
oán, từng làm anten trong trại, họ vẫn im lặng, lũ nhỏ hỏi về ba nó thì các
anh vẫn cứ bảo “À, ba con tốt, ba con rất tốt với các chú các bác”. Tính
nhân đạo và vị tha của người lính Cộng Hòa vẫn còn trong họ, dù họ đã từng
bị bầm dập trong tù nhiều năm, mà nguyên nhân chính là kẻ đó, thằng đó. Cái
thói giàu bắt nạt nghèo, quan lớn ăn hiếp quan bé xảy ra trong trại là
chuyện thường ngày ở huyện. Chỉ tội cho đám nhóc tụi tôi, nhìn thấy những
thứ này phải chắc lưỡi hít hà: “Như vậy mà không mất nước mới là lạ”. Những
nghịch cảnh đã thượng dẫn, không những gây một phẫn nộ trong hàng ngũ trẻ
tuổi mà nó còn ảnh hưởng đến cả cơ đồ tương lai, đối với những ai còn một
chút tấm lòng trong thời thế đảo điên. Thôi đành mắt nhắm,mắt mở để tồn tại
bên cạnh những ruồi nhặng đang tranh nhau bu quanh cái xác chết mới đem
chôn của một nền Cộng Hòa có nhiều bất trắc, dù nó còn được một cái nhìn
một cách rất trân trọng và nuối tiếc của dăm người yêu nước.
Thói đời đã vậy, nhưng còn rất nhiều người sống một đời kiêu hãnh giữa
muôn ngàn thứ cám dỗ. Chung đội với tôi có vài nhân vật làm tôi phải nhớ.
Trương Ấn là dân Võ Bị Khóa 25, bạn bè cùng khóa ở chung với anh đếm
không hết, nhưng tôi chưa hề thấy anh nhờ ai bất cứ thứ gì, không nhận quà
cáp biếu xén từ bất cứ bè bạn nào, anh sống cô đơn và đầy hãnh diện. 6 năm
ở chung với tôi, anh chính gốc là con bà phước, chưa lần nhận quà của gia
đình, và hình như chưa hề thư từ cho ai. Các anh cùng trường lớp với anh
cho là anh kỳ khôi, không hòa với anh em... Thôi kệ nó. Có lần tôi hỏi anh:
– Nói thiệt nghen anh Ấn, tôi thấy anh cô đơn quá, trong lúc ngay trong
đội mình nhiều anh em cùng khóa với anh, sao anh không gần gũi với các anh
ấy chút nào hết vậy?
– Mày nghĩ xem, tao mồ côi, tao sống một cách trọn vẹn là thằng Trương
Ấn, vậy không được sao? Mày ngó kỹ đi, trong hoàn cảnh này tao không giữ
được mình trước vật chất thì chúng ta sẽ ra sao?
Anh quơ quào cây cỏ để chống đói thì người ta cho là anh lu bu, mất tư
cách làm ảnh hưởng đến màu cờ sắc áo, khi đau anh cắn răng chịu đựng, không
than thở với ai, thì bảo thằng này quái đản.
Hồ Hoàng Khánh, một võ sư, một kiếm sĩ Nhật có tầm cỡ, anh cũng như anh
Trương Ấn, khép kín và chịu đựng, ít tâm sự với ai, đến nỗi cả đội hầu như
quên hẳn anh, dù anh vẫn sờ sờ đó 24/24 chung nhà, chung đội. Đúng là quái
kiệt.
Cùng tuổi với tôi có Vũ Văn Chữ, tay này mang án chính trị tập trung,
cũng cổ quái hàng 7, 8 túi chớ chẳng vừa, hắn có bệnh viêm mũi khẹt khẹt
suốt ngày, con bà phước, mức chịu đựng cũng thuộc loại hạng thượng thừa.
Tôi và hắn về cùng ngày, cùng một chuyến xe. Chưa bao giờ tôi thấy hắn có
ý kiến ý cò gì, thái độ im lặng như một tượng đất, kể cả sau này anh ruột
của Chữ, một trung úy về trại này dù khác đội nhưng chung nhà, thái độ của
Vũ Văn Chữ cũng thế.
Thêm một ông động trời khác nữa Đặng Quang Khải hình như thuộc “Lực
Lượng Dân Tộc Tự Quyết”, lập dị đúng nghĩa, khoái làm cái gì ngược ngạo,
can đảm nhận chịu thử thách bản thân, cắn răng nén nhục và có một ý chí
cứng như thép.
Tôi may mắn được sống trong cái xã hội thu gọn này đúng là cơ hội để suy
gẫm tình người, tình đời.
Những ngày trong các trại tù, tôi thường lân la tìm đến các anh em trong
quân đội học thêm ít nhiều kinh nghiệm cho đời mình. Thật không như niềm
tin và mong muốn, có chút gì đó làm tôi chán nản.
– Bộ cậu tưởng đi lính là đánh đấm sao hả?
3 mai Cao Hữu Vốn của Sư Đoàn 9 bộ binh nói với tôi lúc ở Z30D:
– Mày nhìn kỹ xem tổng số một sư đoàn tác chiến dù ở bất kỳ chiến trường
nào, miền Tây hay miền Trung. Trong đó bao nhiêu trung đoàn, mỗi trung đoàn
có bao nhiêu tiểu đoàn, rồi xuống đại đội, thường là cấp số tác chiến tiêu
chuẩn. Nghĩ đi, có bao nhiêu phòng ban, mỗi cấp đơn vị như vậy có chung một
hệ thống như nhau, những phòng ban đó có bao nhiêu người? Vậy con số tác
chiến thật sự là bao nhiêu?
– Ờ... văn phòng các ban đủ cỡ thì chỉ chiếm 1/3 quân số, còn lại là dân
tác chiến.
– Sai, thực sự con số tác chiến chỉ có 1/3. Tao nói mày nghe. Trong một
đơn vị tác chiến, những hạ sĩ quan mới là chủ lực, lính là vũ khí thật sự.
– Gì kỳ vậy cha nội?
– Này nhé, lấy đại đội làm chuẩn. Thằng đại đội trưởng như tao hiếm khi
trực tiếp tham dự trận đánh, thường là đại đội phó, mà đại đội phó có đụng
trận thì dàn trung đội phải ủi trước. Thằng trung đội trưởng thường là
chuẩn úy mới ra trường hay thiếu úy, cũng sữa hoặc vừa dứt sữa, xua quân đi
thì tiểu đội 1, 2, 3 gì đó đi đầu. Hạ sĩ quan và binh sĩ mới thật sự là cày
tan nát đời hoa, chứ quan thì mày thấy đó. Người ta nói “nhất tướng công
thành vạn cốt khô”, câu này áp dụng cho cả đơn vị cấp đại đội. Thôi đi
thằng em ơi! lính VNCH đánh giặc theo hệ thống quân giai. Tao nè, 3 mai
trên cổ áo, tao làm chết biết bao nhiêu lính biết không? Ý là tao có tướng
không sát quân đó nghen.
Cao Hữu Vốn chơi một bi thuốc Lào, chiêu ngụm nước khề khà:
– Bây giờ, nhìn hết cái nhà 4 này, xem có bao nhiêu sĩ quan, có bao
nhiêu thằng tác chiến, xong rồi hén, càng tò mò mày càng nản. Ngắn và gọn
với mày 1 triệu quân là tính từ cao xuống thấp, kiếm 300 ngàn thằng cầm
súng là đỏ con mắt rồi, còn lại câu này nói nhiều người nhột “lính mà đéo
phải lính”. Còn nữa nghen, lon lá, huy chương hả, thứ thiệt thì ít, thứ lèo
thì nhiều.
Tôi cũng định hỏi anh nhiều thứ, nhưng chưa có cơ hội thì tụi tôi bị đày
lên A20, dù chung một nhà nhưng hoàn cảnh ở trại này không cho chúng tôi có
dịp tà tà nói chuyện nhà binh. Tôi là thằng khoái nhà binh nhà biếc này
nhưng tiếc một nỗi, ngày tôi bị đẻ ra, ông nội tôi chơi một lá tử vi, phán
một câu lạnh xương sống: “Thằng này, Vũ Khúc hãm địa ngộ Tuần, không nên
dính líu tới quan trường, số không trận mạc”.
Coi có chết không, có lẽ câu này theo ám cả đời tôi như một lời nguyền,
thiệt là bực bội.
Thật ra hồi trẻ, rất trẻ, ý là tôi chừng 17, 18 tuổi chi đó tôi khoái
đọc sách có dính dáng tới chiến tranh, sử ký. Vô tù, những đêm mưa miền
Trung, tối tối tù thường có màn kể chuyện, chuyện chưởng, chuyện tình,
chuyện giang hồ các cái. Thằng ngồi kể thì các đấng nghe cũng phải biết
điều trà nước, điếu đóm, gọi là lấy lễ đối với nhau. Tôi cũng có lần ngồi
giữa đàn tràng kể “Bố Già” theo bản dịch của Ngọc Thứ Lang, dĩ nhiên là
quên đầu quên đuôi gọi là cho có tụ, có người điếu đóm dâng lễ.
Một hôm tôi rù rì với mấy tay nằm kế, trong đó có “ông đại sứ” trung tá
Vũ Bội Ngọc, Lâm Sơn Hải, Ngô Bá Nhương về quyển sách “Tôi giết Nguyễn
Bình” của tham mưu trưởng trung đoàn 25 Bình Xuyên Trần Kim Trúc. Câu
chuyện xoay quanh thời kháng Pháp của các lực lượng yêu nước. Khi Nguyễn
Bình hay chính danh là Nguyễn Thông Thảo hoặc Nguyễn Phương Thảo, theo lệnh
từ Bắc bộ vào Nam, ông đã nhận chức vụ Khu Trưởng Khu 7, khu phó là Bảy
Viễn. Từ những đụng chạm trong hành vi với những kháng chiến quân Nam Bộ,
tới ảnh hưởng của đệ tam quốc tế cộng sản, lấn sân vào phía Nam, Việt Minh
đã dần dà hiện hình giữa những tháng năm lực lượng Bình Xuyên kháng Pháp.
Mâu thuẫn nãy sinh từ việc tham quyền cố vị, thanh toán, ám sát Bùi Hữu
Phiệt trung đoàn trưởng trung đoàn 25 Bình Xuyên. Nguyễn Bình đã mua cái
đầu của Bùi Hữu Phiệt với giá 20.000 tiền ĐôngDương, lực lượng Bình
Xuyên phối hợp với tướng Trình Minh Thế của Cao Đài tương kế tựu kế phục
kích Nguyễn Bình bằng 6 phát đạn, Nguyễn Bình được các cận vệ đưa xuống ghe
tháo chạy, nể anh hùng nên Bùi Hữu Phiệt đã không cho bắn bồi khi ghe của
Nguyễn Bình lọt vào ổ phục kích ở bến Lò Đường. Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, bộ
trưởng y tế của Khu Ủy Nam Bộ đã giải phẩu cứu sống Nguyễn Bình. Ân oán này
làm Nguyễn Bình căm hận thề phải tiêu diệt Bình Xuyên. Cho đến khi quân đội
Nhật bị giải giáp, Việt Minh cho ra đời danh sách trung ương đảng. Với chức
vụ Khu trưởng nắm toàn bộ cuộc kháng chiến Nam bộ mà cuối cùng, danh sách
này không có tên trung tướng Nguyễn Bình. Để diệt Nguyễn Bình,Lê Duẫn gởi
mật thư triệu hồi Nguyễn Bình về Bắc theo hành lang biên giới để gia nhập
đảng, nhưng cùng lúc lại thông báo hành trình về Bắc của Nguyễn Bình.Phòng
nhì Pháp, Đặc Cảnh Miền Đông và tất cả những ai có ân oán với Nguyễn Bình
đều biết rõ ông ta sẽ tới đâu, đang ở đâu.Âm mưu của Việt Minh rõ ràng là
muốn Nguyễn Bình với danh nghĩa Khu trưởng Khu 7, thống lĩnh toàn phần lực
lượng miền Nam phải chết. Tham mưu trưởng trung đoàn 25 Bình Xuyên Trần
KimTrúc đã bí mật theo chân Nguyễn Bình và mở phiên tòa dưới gốc cây đa tại
Phum Sre Pock. Ngày 27-10-1951, giết Nguyễn Bình rửa hận cho tất cả những
chiến binh Bình Xuyên nhất là toàn bộ ban tham mưu của Trung đoàn 25 đã bị
Nguyễn Bình tiêu diệt, trong cuộc trả thù đẫm máu nhiều hào kiệt Bình
Xuyên. Giai đoạn nhiễu nhương nhất của tình trạng đa sứ quân ở miền Nam.
Nhưng tin tức trên báo và đài thì Nguyễn Bình bị bắn do lực lượng biên
phòng của Pháp ngộ nhận.
Tôi đọc quyển sách này hàng trăm lần nên nhớ từng chi tiết của nó, dĩ
nhiên tôi có chủ đích riêng khi kể chuyện cho đồng bào ta nghe, chắc chắn
một điều lúc đó tôi hoàn toàn không nằm gác chân chữ ngủ mà hỏi “đồng bào
có nghe rõ không?”
Động trời cái nữa là tôi phải câu giờ cho nó dài như xe lửa để đồng bào
quanh khu vực cơm cháo, chè chén cung phụng, xứng đáng với một kẻ sĩ cùng
đường đang bị khai thác trí tuệ chứ. Khi tôi cù cưa xong câu chuyện thì Lâm
Sơn Hải con trai tướng Lâm Thành Nguyên ý kiến ý cò đầu tiên:
– Xét ra ông Bảy Viễn là khu phó, vẫn một mực theo tinh thần giang hồ
của dân miền Tây khi cư xử với ông Mười Trí. Cái tinh thần đó vẫn tồn tại
sau 1975. Biết bao người của giáo phái Hòa Hảo một lòng sống chết theo di
nguyện của giáo chủ mà hy sinh.
Tôi biết là họ Lâm đã kính cẩn nghiêng mình trước cái vụ: Khi Bảy Viễn
đăng quang làm khu phó, Mười Trí là chỗ anh em sống chết có nhau tới nhà
Bảy Viễn chúc mừng. Ra đón Mười Trí là cô vợ bé xinh như mộng của chú Bảy.
Mười Trí chào bằng câu:
– Thưa chị, có thằng Bảy ở nhà không?
Khu phó phu nhân hất hàm rất ư là bề trên:
– Chú là ai mà dám hỗn láo gọi khu phó như vậy?
Mười Trí không nói câu gì từ biệt đi về khi biết Bảy Viễn chẳng có ở
nhà. Khi thầy Bảy về nghe câu chuyện mới hết hồn chạy đi tìm anh Mười phân
bua.Mười Trí chẳng những không trả lời trả vốn mà còn sai lâu la, bắt khu
phó phu nhân đem ra bờ kinh bắn bỏ. Thầy Bảy im re, không dám hở môi khi
nghe anh Mười phán một câu:
– Đàn bà xách mé sẽ mất lòng anh em, anh em đã không thuận thì chuyện
lớn không xong.
Buổi tối 2 anh em Mười Trí và Bảy Viễn nằm trên phản gỗ, thầy Bảy vắt
tay trên trán thở dài não nuột, tiếc cho cái của hiếm vừa mất đi. Mười Trí
quay sang hỏi:
– Bảy, bộ mày tiếc lắm sao hả?
Bảy Viễn xem ra nhịn hết nổi chơi một câu rất chi là tính khí anh hùng
Bình Xuyên:
– ĐM. mày đem nó đi bắn, tao không nói một tiếng, bây giờ thở dài mày
cũng hổng cho.
Cao Hữu Vốn nằm trên tầng trên xem ra không chịu nổi nên tuột xuống:
– Tao tức cái là sao không bắn Nguyễn Bình cho chết mẹ nó luôn tại bến
Lò Đường năm1947 khi biết Nguyễn Bình muốn lấy đầu Bùi Hữu Phiệt với giá
20.000 bạc Đông Dương. Tại cái tật anh hùng đối anh hùng mà ra nông nỗi.
Tụi mày có biết sau 1975 đầu năm 78 gì đó, một tay có tiếng ở Thốt Nốt bị
sư đoàn Tây Đô phơi xác trên lộ 3 ngày không? Dân Hòa Hảo thứ thiệt đó.
Cũng kiểu anh hùng nên thiệt thân, không chịu vô cha nó trong Thất Sơn hay
Đồng Bà Chiêu, chết oan uổng, cha này là thủ lĩnh đầu tiên của Hòa Hảo
tử trận đó, tao nghe cái vụ này khi nằm ở khám lớn Long Xuyên.
Nghe tới đây tôi nín khe, chuyện này chỉ có tôi và Dũng, con trai của
ông Bảy Viễn biết, làm sao cha nội này rành như vậy? Huỳnh Phát Đạt chen
vào một câu:
– Cuộc chiến hồi đó đâu có như bây giờ, tao nhớ lúc đó tao cũng đủ trí
khôn đi theo ông Mười Trí hành quân vùng An Điền, Rạch Rít. Cái cách cư xử c
ủa các tướng lãnh ngày trước đâu có như ngày nay.
Ông thở dài:
– Tá với tướng vô tù còn hống hách, ăn trên mặc trước, còn bày đặt có
người hầu nữa.
Vừa nói ông vừa hất hàm chỉ về phía đại tá Cao Văn Khanh đang nhờ người
nằm kế bên giăng mùng dùm.
Từ sau câu chuyện kể cho đồng bào ta nghe, tôi được anh em Hòa Hảo nhìn
dưới ánh mắt thân thiện hơn. Tôi thăm hỏi bằng nhiều ngóc ngách để tìm biết
ngày xưa tôi lang thang trước làn tên mũi đạn đi ‘cứu lấy quê hương” đó, có
thực là danh chính ngôn thuận không.Và tôi có 1 đáp số, đủ mỉm cười 1 mình
không cho ai biết.
Có những tương phản trong vài khuôn mặt của cái xã hội bé con con, nhưng
qui tụ toàn thành phần mà nhà nước quyết tâm giam cho tới chết. Nhiều khi
tôi cũng có chút ngạc nhiên, chắc do một nhận định sai lầm nào chăng? Hoặc
giả theo kiểu bắt lầm hơn tha lầm mà đám công an từng coi như là châm ngôn.
Ở đây, dĩ nhiên nhiều lắm những quan to, nhưng nhìn chung, chẳng có tầm
vóc để mang cái cấp đó, cái bậc đó. Mà không chừng nền Đệ Nhị Cộng Hòa cũng
tìm hết rồi, đành phải chấp nhận một sự lựa chọn tương đối trong guồng máy
nhân sự vốn đã bị trà trộn nhiều thành phần từ tôn giáo, đảng phái chính
trị và thậm chí cả nội gián từ cao xuống thấp. Cho dù không quan tâm điều
đó gì lắm, nhưng nó cũng làm đám trẻ chúng tôi nhất là những thằng cả tin
vào các đàn anh của mình, mà trót bỏ một tuổi xuân vô tù chỉ vì muốn gom
đống tàn tro cũ, làm 1 chút chuyện cho vong hồn tuổi trẻ khi mất nước.
Chẳng phải để tranh giành quyền bính, chẳng phải nhằm tìm một cơ hội để
mang lon mang lá ngạo với đời. Tội nghiệp cho người trẻ, ngây thơ dễ dụ, bị
bắt sống chung trong một hoàn cảnh đáng thương, bỗng một ngày nhận ra, mình
không nên đặt hết niềm tin vào quá khứ để dấn thân. Rất nhiều những anh ba,
anh tư chỉ là 1 chiếnbinh bình thường từ hàng ngũ địa phương quân, nghĩa
quân. Sau 1975, họ chiêu mộ, qui tập vài anh em cùng chí hướng đứng lên
thành lập lực lượng xưng danh ông này ông nọ. Trong cộng đồng này họ bị
miệt thị là hám danh, là đầu cơ chính trị, cái nhìn khó chịu từ các sĩ quan
sống chung nhà, chung đội, làm họ bị vây bủa trong cô đơn. Đâu ai thèm biết
họ nghĩ gì, cứ căn cứ vào lý lịch cá nhân của họ mà phán xét. Tại đây không
thấy bóng dáng dù là mờ mờ của câu “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu
trách”, thứ này không có chỗ đứng trong cái nhìn gần như khinh miệt của
những người từng có lúc vất súng quăng gươm, sau khi đã “một đời đi giữ
nước”. Mâu thuẫn sinh ra từ đó, tụi chèo khai thác triệt để mấy thứ này,
chúng tìm cách đào sâu cái hố đó. Chỉ cần một tay nào bất kể là ai, bị đám
cán gọi lên làm việc là hàng trăm con mắt dò xét nhìn khi họ về nhà về đội,
một lần thì chả sao, nhưng nếu 2 hoặc 3 lần thì chắc chắn nhân vật tế thần
đó bị dán cho cái nhãn anten. Chuyện như vầy đâu chỉ xảy ra cho vài người
mà hình như trại nào cũng có. Nhân vật bị tế thần thường là những tay máu
mặt một chút, trình độ một chút, mục tiêu đã được chấm thì chắc chắn lễ tế
không sớm thì muộn sẽ bắt đầu.
Lúc ở Z30D, đại úy Cao Hữu Vốn là cây đinh của anh em Hòa Hảo. Khi tới
A20, anh cũng bị làm vật tế thần, tụi cán cứ mời anh lên vài lần thì cây
đinh Cao Hữu Vốn trở thành cây đinh sét, tụi chèo biết chiêu này chúng sẽ
hạ bệ bất cứ ai, đối với cái cộng đồng tù luôn nghi ngờ bất kể trắng hay
đen. Thương thay ai cũng biết vậy, mà nó vẫn có hiệu lực nhất là về lâu về
dài, thiệt là đòn thù đáng sợ.Tai nạn kiểu này cũng đổ xuống đại úy Nguyễn
Khắc Quang (Quang què) của Nhảy Dù, hình như anh bị thương ở An Lộc rồi ra
khỏi con Diều Hâu. Quang cũng bị tụi chèo ra tay để anh em nghi ngờ đến nỗi
vài tay trẻ ở nhà 3 phân trại E có lần thượng cẳng tay hạ cẳng chân với
anh. Chỉ có một cái tội là giọng nói của anh không rõ ràng thường hay bị
vấp chữ, do thương tật anh đi hơi khập khiễng, với cái dáng đi chấm phết,
một bàn tay của anh không nắm lại được, do một mảnh pháo còn nguyên phía
dưới ngón cái, qua nhân tướng đó anh dễ bị hiểu lầm. Về cá nhân của Quang
què tôi không rõ lắm, dù anh ở chung với tôi mấy năm từ E vào B. Mà hình
như cái hiểu lầm cố ý này, có từ khi có cái trại tập trung và bành trướng
lan từ trại này sang trại khác, chưa chắc A20 là chỗ chấm dứt của nó, cho
dù là thời điểm người sĩ quan án tập trung cải tạo cuối cùng đã ra về. Mà
biết đâu, đó là sự thật chứ không phải là một sự hiểu lầm, bởi tù tội
thường khó phán xét qua hành động của 1 cá nhân trừ phi mình có thiên lý
nhãn.Ngô Văn Ly thì hình như có nhiều ân oán với anh em nhất là lúc ở biệt
giam, tôi cũng không rõ ràng lắm, những ca thiếu úy Ngô Văn Ly đánh sau
lưng người nhà. Nhưng Hải Bầu, Ngọc Đen từng nhắc nhở tôi “Mày nên né tay
này”, Vũ Mạnh Dũng cũng từng nhắn nhủ với tôi như vậy, nhiều người quan tâm
quá nên tôi e dè khi tiếp xúc Ly, vả lại cái tướng mặt thỏ, tai chuột, nước
da xám ngoét của anh cũng dễ làm người khác tránh né. Ly bị thằng Lý lé an
ninh kết dính như keo, cứ vài tuần là nó mời anh lên nếu anh không ở trong
biệt giam và đeo cái cùm, chẳng biết là uống café đen không đường hay café
sữa, nhưng hậu quả thì khỏi chê. Tôi cho là tụi chèo đem anh tế sống, phe
ta nghi ngờ, khoảng cách dần dần xa ra, chính thái độ cư xử của phe ta đẩy
Ly đi càng xa dần đến độ hết thuốc chữa. Dĩ nhiên, chắc chắn thằng Lý lé sẽ
mĩm cười, bởi trong đời công an của nó, nó có biết làm gì hơn ngoài chiêu
này. Nghe đâu về sau này, Lý lé lem nhem gì đó bị văng ra khỏi ngành, có
anh em ở trại cũ gặp nó lang thang làm thuê ở chợ cầu Ông Lãnh.
Hành trang theo mãi phận người:
Những anh em bè bạn của tôi ơi! Một ngày nóng toát mồ hôi giữa Sài Gòn,
nhìn bóng nắng chầm chậm bước xuống hàng hiên, chợt nhớ đến những khuôn mặt
từng cùng mình đi qua nhục vinh trong hoạn nạn, biết bây giờ người còn là
mấy, kẻ chết là bao?
Mấy mươi năm qua còn ai nhớ ai? Tự dưng thấy mắt cay cay, tự dưng thèm
có ai đó kề bên để thăm hỏi, để nhắc lại ngày nào giữa đồi đá sỏi, tiếng
cuốc gõ vang vang giữa rừng núi, giữa cái nắng nóng hạ Lào bừng bừng trên
thịt da. Có phải chỉ có những người từng đi qua địa ngục mới biết nhớ và
đau, như vết cùm vẫn để sẹo một đời không? Mong một cơn mưa xuống, xua đi
những ký ức thập thò làm buồn thêm trong tuổi về chiều, mong một ai đó ngồi
với mình trong im lặng nhìn về phía thật xa có những cái không thể nào quên
trong phận làm người lỡ đi qua tận cùng địa ngục.
Làm sao không nhớ cho được, khi còn ở trại E, trong mùa mưa bão thê
lương, Đại úy Nguyễn Thanh Bình may cho tôi cái áo trấn thủ, đại úy BĐQ
Nguyễn Văn Học đứng nhìn tôi mặc cái áo lần đầu tiên, anh bảo tôi xoay một
vòng cho anh xem tài nghệ của anh Bình Huế, tôi quờ quạng xỏ đôi dép mòn
như lưỡi cạo vá bằng dây kẽm, dây bao cát chằng chịt, anh buột miệng:
“Trời! đôi dép của mày đó hả?”Rồi một hôm, anh kéo tôi ra nhà ăn đưa cho
tôi đôi guốc gỗ do anh đích thân lén đóng trong trại mộc, anh đã lựa loại
gỗ nhẹ và bền, đôi quai anh may bằng vải áo giáp gấp đôi, anh cẩn thận chơi
thêm cái đế bằng cao su bánh xe. Thứ tình cảm đó làm sao quên cho được, tôi
mang đôi guốc tới ngày ra về, thằng Phóng giáo dục bắt tôi phải bỏ lại khi
hắn trao giấy ra trại cho tôi. Mấy mươi năm sau, anh em liên lạc với nhau,
tôi nhắc đôi guốc gỗ anh làm cho, anh chỉ cười. Bây giờ anh Học đã ra đi.
Ngày anh mất, tôi cách anh nửa vòng trái đất, tôi chỉ biết gọi tên anh và
thở dài. Nếu quay lại sống trong cái tình xưa của mấy mươi năm về trước
trong tận cùng khó khăn, chắc tình anh em chúng tôi cũng như ngày cũ.
Phó tỉnh trưởng Quảng Nam Đà Nẵng Nguyễn Chí Thiệp, vác bị từ Z30A ra
trại Xuân Phước trước tôi mấy ngày, anh nằm ở nhà 3 phân trại E, chung với
tôi. Lúc đó tôi nhóc nhi nhưng có đàn anh Vũ Hùng Cương nằm kế bên anh
Thiệp, tôi biết và hay lân la học hỏi ở anh từ đó. Nguyễn Chí Thiệp trong
cái nhìn của tôi là 1 người rất đặc biệt, một bộ nhớ kinh thiên động địa,
anh có thể nhớ từng ngày, từng tháng của 1 vấn đề mà anh đang đề cập tới dù
nó rất lâu có khi cả hàng chục năm, như vụ Võ Văn Hải chánh văn phòng của
Tổng Thống Ngô Đình Diệm, anh còn biết tường tận, thân sinh ông Hải là bạn
đồng liêu với ông Diệm, từ lúc ông Diệm ở Mỹ thì ông Võ Văn Hải ở Pháp và
tốt nghiệp kinh tế, cho nên khi cả hai về Việt Nam ông Diệm xem ông Hải như
người trong nhà. Tôi học ở anh rất nhiều thứ, từ con người, lịch sử đến cả
địa lý, tôi đâm ra sợ cái đầu của cha nội này. Có lần nghe đại úy Nguyễn
Văn Mùi nói về cái xứ chó ăn đá gà ăn muối này, đại úy nhà ta thao thao bất
tuyệt từ La Hai, Đồng Tre, Chí Thạnh có bao nhiêu ngóc ngách, anh có thể vẽ
bản đồ như 1 chuyên viên đồ bản thứ thiệt, hóa ra đại úy nhà ta là dân tác
chiến 3 niên tại cái xứ trời ơi đất hỡi này, anh ngó sang anh Thiệp:
– Cha nội này nè, hồi đó là Phó Quận Đồng Xuân lúc tui đem quân càn quét
khu này, chính anh Thiệp yểm trợ tối đa cho đơn vị tui đó.
Ở chung một nhà với anh được chẳng bao lâu thì ì xèo vụ tờ báo “Hợp
Đoàn”. Lý lé đưa anh và một số các đấng máu mặt vào phân trại C, cùng đi
với anh nào là Vũ Văn Ánh, Phạm Chí Thành, Linh mục Nguyễn Văn Vàng của vụ
Vinh Sơn mà em ông là thiếu tá Nguyễn Văn Viên bị kết án tử hình và một lô
văn võ bá quan của nhà 3 lên đường, khiến cho nhà 3 bỗng chốc vắng vẻ từ
con số 128 chỉ còn mỗi 80 mạng.
Cho đến năm 1983 tôi từ E vào B thì mấy ông tướng này lại từ C trồi
ngược ra B.
Trần Quí Phong, ông chủ Hotel Catinat nằm tầng trên, thứ kế là luật sư
Trần Danh San, rồi luật sư Nguyễn Hữu Giao, anh Thiệp lại nằm ở sàn dưới,
kế anh là tay bệnh kinh niên ốm như con ma Đoàn Phan Trí, Khổng Hữu Diệu
(vua bao tử khìa), kế nữa là Vũ Hùng Cương (Cương Còm). Tôi thấy anh nặng
tình bạn bè với họ Đoàn và họ Khổng hơn là với hai ông luật sư và dân biểu
ở trên. Trần Danh San khi đọc bản tuyên ngôn nhân quyền trước nhà thờ Đức
Bà và bị bắt, vụ này dính dáng ít nhiều tới anh Thiệp, xém chút xíu là anh
Thiệp bị còng chung anh San lúc đó rồi. Lúc đầu tôi vẫn tưởng bản tuyên
ngôn này là do luật sư Triệu Bá Thiệp nắn nót viết ra, ai có ngờ đâu cha
nội Nguyễn Chí Thiệp mới là tác giả phác thảo đầu tiên rồi sau đó anh San
mới san định lại. Suốt thời gian sống chung ở trại theo tôi biết con người
anh là vậy không so bì với ai và cũng chẳng tâng bốc tên nào hay đè đầu
cưỡi cổ một ai. Anh luôn tìm cách hướng dẫn đám trẻ tụi tôi qua những câu
chuyện của một thời Đệ Nhị Cộng Hòa mà anh từng giữ những chức vụ khả dĩ có
một chút hiểu biết tường tận. Đặc biệt với đám trẻ anh luôn san sẻ những gì
anh có, từ 1 cái bánh, 1 viên kẹo dù đó là lúc cực kỳ đói khát.
Mấy mươi năm sau ngày chia tay ở A20, tôi liên lạc được với anh, anh lại
như ông giáo của ngày xưa, dạy tôi từng chút một. Anh trách tôi đã mất công
bỏ 6 năm trên thế giới mạng tìm anh em ở chung những trại cũ, rồi lu bu tâm
sự cà kê dê ngỗng với tay này tay nọ, mà không chịu dành thời gian viết
lách, dù không cho ai thì cũng cho riêng mình. Anh gửi cho tôi cuốn “Trại
Kiên Giam”, nhờ một người bạn cầm về trao tận tay tôi, cùng mấy tác phẩm
khác, cha nội còn ký tên ghi rõ “bản của em”. Phải nói là Nguyễn Chí Thiệp
đối với tôi như ông anh ruột. Nhớ năm 2010, sau mấy lần bị từ chối visa về
Việt Nam, anh được cho phép về một lần thăm cha anh đang đau nặng gần chết.
Dĩ nhiên ai cũng biết khi anh viết cuốn “Trại Kiên Giam” một bản án dầy 400
trang là đủ cho việt cộng cắt đường về của anh rồi. Xuống đến Tân Sơn Nhất
anh gọi tôi. Nghe tiếng anh, tôi hí hửng:
– Em ra đón anh nghen, có anh Trần Mạnh Tôn mới về nữa.
– Em có khùng không vậy? Lần này tụi nó cấp visa cho anh chắc là có gì
đây, không biết chừng nó theo anh khi xuống máy bay rồi, thôi hai đứa tìm
cách ra Đà Nẵng gặp anh thì an toàn hơn.
Tôi và lão trung úy Tôn kéo nhau ra Đà Nẵng thăm anh. Nhìn cách anh đón
làm tụi tôi ứa nước mắt, nhất là khi nghe tôi và anh Tôn bàn nhau lên đỉnh
Bà Nà 1 chuyến.
– Hai đứa có đi thì... cho anh theo với.
Trời, đàn anh của tụi tôi lại đi xin xỏ đám em, năn nỉ xin theo như một
em bé ngay trên chính quê nhà của mình. Rồi anh cứ bộ đồ đang mặc trong nhà
như vậy mà đi với bọn tôi, đến nỗi anh Tôn phải năn nỉ anh chờ tụi tôi ghé
chợ mua cho anh đôi dép coi cho được một chút, anh chỉ cười:
– Tụi bây làm gì dữ vậy, có sao đâu!
Trần Mạnh Tôn kéo tay tôi ra nói nhỏ:
– Trời đất, cha Thiệp này bình dân đến nỗi tao lạy chả luôn, ở đất địa
này ai hổng biết ổng từng là phó tỉnh, chả mà ăn bận như vầy cùng đi ra
đường chắc tao đội vải quá.
– Kệ, tính anh Thiệp là vậy, anh đừng có làm anh ấy khó chịu.
Nghe tôi bàn ra, Trần Mạnh Tôn đành lắc đầu.
Với anh Thiệp, kính anh là người hiểu biết, tôi nể anh thêm khi biết lúc
Phật Giáo khiêng bàn thờ xuống đường ở Quảng Nam Đà Nẵng năm 1966, lúc đó
anh là phụ tá tỉnh trưởng, quan đầu tỉnh bị nhóm nổi loạn bắt giữ, phó tỉnh
thì theo phe nổi loạn. Cả tỉnh như rắn mất đầu, một mình anh gánh trách
nhiệm cho toàn cái xứ Quảng Nam, anh phải đơn thương độc mã dàn xếp với phe
làm loạn, để ổn định cho Đà Nẵng. Sau khi tướng Nguyễn Ngọc Loan dẹp xong
hỗn loạn Miền Trung, chiến công của người tuổi trẻ mới hơn 30, lọt vào mắt
xanh của “phủ đầu rồng”.Từ 1973-75 anh là Chánh Văn Phòng của Bộ Nội Vụ,
tất cả các tờ trình về An Ninh Nội Chính một tay anh soạn thảo, qua phê
duyệt của Tổng Trưởng Bộ Nội Vụ trước khi trình lên Tổng Thống. Một bộ quan
trọng gần như nắm tất cả quyền lực về nhân sự cả nước đâu phải là chuyện
đơn giản, nhất là trong giai đoạn đất nước lâm nguy. Vậy mà, chuyện này các
cha ở tù chung thời với anh không ông nào biết, bởi Nguyễn Chí Thiệp lúc
còn trong trại không bao giờ nói về mình, anh là loại người không khoái
khoe thành tích.
Lần lên Bà Nà tôi vàTrần Mạnh Tôn mới thấy hoàn toàn một Nguyễn Chí
Thiệp xương thịt ngoài đời và đầy tình nghĩa. Cái tình nghĩa mà tôi nghĩ
chắc anh em bè bạn ở tù chung khó ai bì được. Thiếu tá Koksorl Biên là bạn
tù nằm kế anh, khi rời trại anh Biên không đi định cư, anh Thiệp phải nhờ
Lê Hữu Ích, người mà anh Biên coi như em trai trong tù, liên lạc với anh
Biên, khi biết thiếu tá nhà ta đang ở trong một cái chòi tại một đảo nhỏ ở
vùng Rạch Giá, anh Thiệp gởi tiền kêu Lê Hữu Ích ra đảo gấp và bằng cách
nào đó cất ngay một căn nhà cho anh Biên, rồi thuốc men các cái gởi về qua
họ Lê. Bởi cha nội Biên không muốn liên lạc với ai, anh này sống ẩn cư từ
ngày rời trại. Đùng một cái, anh Thiệp mất liên lạc với Lê Hữu Ích, anh lại
nhờ tôi đi một phát xuống Long Xuyên kiếm cho ra thằng Ích, tôi bỏ cả hai
năm trời mà thằng dịch vật này không thấy tăm hơi đâu. Có chút xíu tình
nghĩa bạn tù mà anh còn như vậy hà huống chi tôi, ngày liên lạc được với
tôi qua điện thoại, tôi nghe giọng anh như muốn khóc. Đúng là cha Nguyễn
Chí Thiệp.
Mấy năm sau này sức khỏe anh xuống, tai không nghe rõ, trăm thứ bệnh dồn
dập, anh bảo tôi thư cho anh thường để anh đọc, và đừng bắt anh hồi âm, cho
đến gõ bàn phím cũng là một trở ngại với sức khỏe của anh. Anh nói với tôi
đừng giận anh nếu thấy anh chỉ trả lời dăm chữ ngắn gọn.
Động trời không? Ông anh của tôi nằm ở vạch 80, may mà tôi còn ngó thấy
anh, còn nghe được dăm câu từ anh là quí rồi. Tôi cũng không biết ân tình
của anh tôi làm cách chi mà trả nữa, tôi mà dám giận anh thì trời sập mẹ
xuống rồi.
Trần Mạnh Tôn, cha này có một cái nick name nghe oải chè đậu, cái tên
này có từ Suối Máu, khi anh vác balô về A20 thì nó đã dán chần dần trên túi
áo của anh rồi. Tôn (Lò).Nhưng anh ấy là ông nhà binh mà tôi quí nhất. Ngày
đầu tiên gặp lại các anh cựu binh Trại Trừng Giới tại nhà anh sau 20 năm
lạc nhau, anh ép tôi uống rượu viễn liên, rồi hai anh em cà kê dê ngỗng
miết cho tới ngày anh về Việt Nam, anh gom bi từ các đấng đưa tôi một xấp
quà và rề rề một câu:
– Tụi anh bàn với nhau cả buổi, mà không biết phải mua gì cho thằng ÚT,
cha thì nói thôi mua cái chi đặc biệt làm quà cho nó, cha thì kêu hỏi út
thích chi thì mua cho nó, bắt tao phải đích thân mang về, mấy cha còn nói
nếu thằng út muốn mang mấy chai rượu thì tao cũng cõng về cho bằng được.
Rồi sau cùng các cha bảo tao, thôi về đi với nó, nó thích mua gì thì nó
chọn. Vậy thằng út mày nhớ nghen, sứ mạng cao cả của tao là thay mặt cả gia
đình A20 họ ngoại, về đây mang quà của các anh cho mày. Đó là ân tình của
mấy anh luôn nghĩ đến mày đã bỏ mấy năm trời chạy đôn chạy đáo đi kiếm anh
em, lại còn cất cái Quán Lá cho anh em có chỗ cà kê nữa.
Đùng một cái anh Nguyễn Chí Thiệp về, sau anh mấy bữa. Anh em tụi tôi ra
Đà Nẵng gặp nhau. Kéo qua Lăng Cô cho ông Phó Quảng Nam nhìn biển, rồi trèo
lên Bà Nà. Những bức hình kỷ niệm đó cha Tôn còn bắt thằng cháu đóng dĩa
DVD làm của hồi môn nữa chứ. Nhưng thật sự những thứ đó quá quí hiếm. Bây
giờ anh Thiệp, anh Tôn, các anh ông nào cũng già chát, đến tôi còn phải
chống gậy huống hồ chi mấy đấng đàn anh.
Với Trần Mạnh Tôn, anh em tụi tôi nằm chung từ nhà 3 trại E, đó là những
kỷ niệm không phai, những buổi trưa lúc chờ đi làm, anh em thường thức sớm,
Tống Phước Hiến (Hiến Huế) là tay nấu nước cho đội 21, đội trưởng là Trung
Tá Lương Văn Ngọ của BĐQ, anh Hiến thường lấy cái lò than từ bếp trại, chứa
trong phần đầu cái vỏ đạn 105 cắt ra, cột 3 sợi dây kẽm có quai xách đàng
hoàng và treo tòn ten theo thùng nước uống của đội khi ra trại, bởi khi đi
lao động không ai được mang theo hộp quẹt. Công việc hằng ngày này thiếu úy
Cảnh Sát Tống Phước Hiến rất chu đáo, anh xách cái lò than đó bỏ ngay bên
cửa ra vào, cho anh em điếu đóm trước buổi đi làm chiều. Cha Tôn là tay pha
trò thuộc hạng có cựa nhất, Đỗ Trọng Thư (Thư béo) nằm ở tầng trên ngay cửa
ra vào, Thư (béo) này cũng là một đội trưởng. Một trưa, Thư (béo) làm biếng
nằm thò cái đầu xuống cửa ra vào gọi cha Tôn:
– Ê Lò mang tới quan cái đóm coi.
Tôn nhà ta vác luôn cái bếp di động của lão Hiến bỏ cái rầm lên chỗ Thư
(béo), phát một câu:
– Lò đây thưa quan.
Cái nick name của anh bị Thư béo gọi, anh bèn chơi nguyên lò lửa lên chỗ
nằm của chàng béo xém chút xíu cháy cha nó chiếc chiếu.Phải nói là các anh
ở Suối Máu về trụ tại nhà 3 làm căn nhà sinh động hơn, Từ Đỗ Văn Trình,
Nguyễn Văn Học, Nguyễn Ngọc Tiên (Tư rè), Phạm Khắc Hiện (Cu Tý) cho tới
Bùi Đạt Trung (Trung điên), Đỗ Đình Hoàng (Xi Cà Que) Nguyễn Sĩ Trí (Sáu
Vãnh).. v..v... là những nhân vật làm cho cái nhà này có những trận cười bể
bụng.
Liên tục mấy năm trời lần nào về VN anh cũng bắt tôi phải đi với anh chỗ
này, chỗ nọ, hết café tới bia, gọi cho mấy lão cựu A20tới nhà hay ra đâuđó
ngồi nhắc chuyện xưa. Nghe thiếu tá Bửu Chí, hay Cái Trọng Ty về, anh cũng
đòi mò tới, kéo Trần Ngọc Ánh (Ánh Huế), hú Trí Ghẻ tới nhà anh. Nhiều khi
tôi ngồi yên nhìn cha nội đón tiếp anh em bè bạn xưa mà ngạc nhiên. Chả
sinh hoạt với anh em bình dân giáo dục như chưa hề thay đổi, áo thun, quần
tà lỏn, ngồi chồm hổm uống rượu với anh em,chơi tay khỏi cần đũa y chang
hồi còn ở trại cũ.
Cho tới hôm nay, nguyên bộ “bản sao hồ sơ binh nghiệp” của anh tôi còn
giữ, từ những bức ảnh khi anh khi mới mang lon trung úy, tới những tài liệu
vàng ố đóng trong tập hồ sơ anh đưa hết cho tôi.
– Út à, đây là cuộc đời của anh Tôn, anh gởi mày giữ dùm anh.
Cha nội làm như sắp đi luôn không về nữa. Đã vậy cha Tôn còn chơi một
câu làm tôi thấy thẹn:
– Mỗi khi thấy ai ghi cái tên mà trước đó có con chữ A20 là anh nhớ tới
út, mày là thằng khai sinh cái này, mày là thằng tạo một sân qui tụ các anh
lại. Không có thằng út, tụi anh khó tìm gặp anh em đang khắp nơi trên thế
giới. Anh Tôn nói thiệt, tao trân trọng cám ơn mày, đã chơi hết tình với
các anh.
Thiệt là hết nói nổi cha nội này. Mấy năm nay chắc anh Tôn mệt mỏi lắm
rồi, bôn ba quá nhiều rồi, anh lại là tay xông xáo luôn lo cho anh em.
Nhớ ngày phu nhân của A20 Trần Kim Hải qua đời. Cả đại gia đình của Trại
Trừng Giới tổ chức tang lễ. Trần Mạnh Tôn lại tới ngày lên phi cơ về Việt
Nam. Anh gọi tôi trước khi ra phi trường:
– Út à, trước khi đi, anh đã liên lạc với mấy tên bè bạn của anh, tụi nó
sẽ thay mặt một số đông các anh, đến nhang khói tiễn đưa vợ Hải Bầu, em
giúp anh vụ này nghen, rồi báo cho anh kết quả khi anh tới Việt Nam.
Đúng là thằng cha lo cái gì cũng tới nơi tới chốn. Xuống tới Tân Sơn
Nhất anh gọi tôi tới nhà anh ngay, mang báo cáo tình hình tang lễ của vợ
Hải Bầu cho anh xem.
Trời! tôi ở Việt Nam, cái đám tang tuốt mẹ bên Mỹ, tôi chỉ online ghi
nhận các cái, mà chả tưởng như tôi là tang chủ không bằng.
Tôi với anh Trần Mạnh Tôn có quá nhiều thứ để nhớ. Những ngày ở Sa Huỳnh
ngồi với anh trên biển, nhắc Cái Trọng Ty, đêm trên Mỹ Khê dầm mưa uống
café trong cái lạnh. Rồi gặp lại Trương Văn Giàu là dân kinh 5 mới từ
Seattle xách gói về, Anh Giàu lên Trại Trừng Giới năm 1984 trong đợt 112
con nhạn, cuốn chiếu từ vườn khóm kinh 5 lên A20, đi chung toán của anh còn
có cả Nguyễn Nhung, người tù thế kỷ 32 năm chưa ra khỏi ngục, từ thời Đệ
Nhất Cộng Hòa, trong vụ cướp ở Caric năm 1952, cho tới ngày tôi rời A20, Tư
Nhung vẫn còn ở đó. Anh Tôn, tôi, cha Giàu, có thêm Nguyễn Toại Chí, Nguyễn
Văn Trung (Trung lai) từ xóm rẫy Daksong mới về, cả đám anh em đi “kinh lý”
khu Bình Thạnh. Đó là những kỷ niệm không sao quên trong những tháng năm
sau ngày tù tội với những cựu tù A20, như một tình cờ, như chiêm bao.
Ngày tôi và anh với Toại Chí tới thăm thiếu tá Trịnh Tùng. Anh ngồi kể
từng cái tên có mặt ở nhà 3 phân trại E, làm quan tư (bà già trầu) chưng
hửng:
– Trời mày ăn thứ gì mà nhớ dai dữ vậy Tôn?
– Quan tư à, tui còn nhớ thằng Khiết nó nằm chỗ nào trong căn nhà đó.
Cái nón vải của anh rách chỗ nào tui vẫn còn nhớ nữa, đừng tưởng bở, tui
được đẻ ra để ghi lại những ngày tháng sống chung với các cha mà.
Tôi quá sợ cha nội này, anh Phùng Văn Triển cũng công nhận “Tôn là cái
máy thu số một”.
------
Vũ Văn Ánh như con chuột bạch mỏng dính, đứng dựa tường nhà 3 phân trại
B, anh mới về từ biệt giam sau một thời gian dài hết biết và bị cùm dã man
trong trận đánh không cân sức để bảo vệ anh em qua vụ tờ báo “Hợp Đoàn”.
Tụi tôi, mấy tên khai bệnh nằm ở nhà, chạy ra đỡ anh vào, Alpha (danh gọi
dành cho anh) ngồi bệt xuống nền xi măng của nhà 4, anh kiệt sức hoàn toàn,
nhưng vẫn cố cười trấn an bọn tôi:
– Anh không sao, thiệt tình anh không sao, các cậu yên chí đi.
Đoàn Bá Phụ leo xuống cầu thang, chạy lại sờ nắn chân anh:
– Trời, tụi nó chơi mày te tua như vầy sao Ánh?
Alpha cười:
– Mày mà không ra cái biệt giam đó trước tao thì cũng te tua như vậy
thôi.
Hai cha nội này là những tay bị Lý lé cùm không cần văn bản từ nhiều
tháng. Đoàn Bá Phụ ra biệt giam trước. Nhưng, theo Vũ Văn Ánh thì tương lai
sẽ có một loạt anh em nữa ra khỏi biệt giam, vì anh khăng khăng trước Lý lé
tờ “Hợp Đoàn” chỉ mình anh làm, không liên quan tới ai, từ A tới Z, chỉ có
mình anh viết bài. Thằng Lý biết anh xạo, Ngô Văn Ly đã khai gì đó nên nó
mới hốt một loạt vô biệt giam. Nhưng hết cách rồi, tụi nó cùm anh gần 2 năm
mà không thêm bớt được lời khai nào nữa. Tôi không có cơ hội để gần Alpha
nhiều, bởi anh cứ ra vô biệt giam như cơm bữa, mỗi lần như vậy thì đơn vị
tính là vài tháng chứ không phải như mấy cha khác tính bằng tuần. Tôi biết
anh rất dữ dằn trong tranh đấu. Là trung úy quân đội, biệt phái sang ngành
truyền thông, anh từng là chủ sự phòng phát thanh và đài truyền hình số 9,
chuyên trách bản tin nước ngoài, đi học nhảy dù, làm phóng viên lăn lộn
biết bao chiến trường. Cả Tổng Thống Thiệu cũng cắt cử anh phải có mặt
trong phái đoàn cùng ông qua Mỹ năm 1974.
Tôi quí anh vì sự can trường cá nhân của 1 người lính không cầm súng.
Anh là người sai phái những chuyên viên mang xe của đài tới Dinh Độc Lập,
thu hình bản tuyên bố cuối cùng của chính quyền Miền Nam qua lệnh buông
súng của Dương Văn Minh. Anh là người rời đài phát thanh sau cùng với chị
Yến Tuyết, sau khi thiêu hủy một số tài liệu quan trọng. Sự can đảm của
người chiến binh không tấc sắt trong tay vào giờ phút mà quan to quan bé đổ
xô tìm đường bỏ chạy, đã cho thấy tính cách của anh, trong khi anh có đủ
thứ phương tiện của một người cầm nắm vận mệnh một đài phát thanh, một đài
truyền hình quốc gia, anh có hàng tỷ cách để ra đi. Những khi anh có mặt ở
đội, tôi thường ngồi nghe anh kể chuyện,những ngày anh theo anh em vào
rừng, anh lặn lội tìm chỗ này chỗ nọ quyết chí làm lại, chứ dứt khoát không
ra trình diện. Anh đối với tụi trẻ tụi tôi như anh em ruột và cư xử rất chi
là người lớn.
20 năm sau ngày chia tay tại A20, lúc tìm nhau trên thế giới mạng tôi
liên lạc được với anh, nghĩ là với vị trí của nhà truyền thông như vậy anh
có thể giúp chúng tôi tạo một góc nhỏ trên mạng làm nơi qui tụ anh em đã
thất lạc sau mấy chục năm, anh thư cho tôi:
“Tao mà làm được, thì có gì phải nói, ba cái vụ internet mấy cậu gánh
đi, anh lu bu chết mẹ, thằng nào làm, anh hứa sẽ hoan hô hai tay hai chân”.
Anh gởi cho tôi một lô số điện thoại của anh em mà anh gặp ở xứ người.
Cha nội Thiết Giáp Trần Kim Hải (Hải bầu) là ông ở gần anh Ánh nhất, mấy
ông bắt đầu ò í e với tôi. Mấy mươi năm rồi, anh vẫn y chang như hồi trong
trại giam, vẫn cái kiểu cư xử chí tình với anh em, không màu mè hoa lá
cành, luôn thẳng thắn, chơi tới bến với đám trẻ tụi tôi. Hải bầu, có lần
mắng vốn tôi:
– Mày coi cha nội Ánh, gặp tao giữa đường, Alpha hỏi tao lúc này ra sao
rồi,tao tình thiệt nói đang thất nghiệp. Alpha móc trong túi còn được đâu
70 bạc, cha nội cho tao 50 rồi nói, tao hết tiền rồi, gặp mày cứ rách hoài,
lần này thôi nghen, đừng có xin tao nữa. Mày coi tao có xin chả đâu,tại chả
thấy tao đói mới móc túi cho,còn làm bộ làm tịch nói là cho lần cuối. Mấy
tuần sau gặp tao, cũng y chang vậy, cho tiền rồi dặn tao, lần này thôi
nghen.
Lúc đó Vũ Ánh phụ trách tờ Việt Herald, anh ghi lại mấy bài thơ tôi viết
cho anh em đăng trên tờ báo đó, còn ca cẩm mùi mẫn nữa chứ. Tôi biết anh
thương tôi, không như mấy cha khác, anh ấy gọi tôi là “Khiết ròm” như ngày
còn trong trại. Đó là lúc Vũ Trọng Khải từ Úc sang Mỹ rồi bày trận nhậu ở
nhà Trần Mạnh Tôn (Tôn lò). Anh em tụi tôi nâng ly viễn liên một trận. Ai
ngờ mấy ông biết tôi online nên kêu cha Tôn gọi đâu gần 20 mạng cựu A20 kéo
về chật cứng nhà anh, nào là Trung tá Lương Văn Ngọ, Nguyễn Ngọc Tiên (Tư
rè), Trương Văn Tám (Tám chùa),L19 Ngô Quốc Việt, Bùi Đạt Trung (Trung
điên), ông quận Đôn Luân Đặng Vũ Khoái, khóa 14 BB Hoàng Vũ Duyên, còn đèo
thêm ông bệnh kinh niên Đoàn Phan Trí nữa chứ. Mấy cha ép tôi uống cho tới
khi các ông xỉn hết, còn tôi tỉnh bơ, bởi ở Việt Nam chỉ cầm ly trà thay
rượu.
Alpha vẫn nặng tình nặng nghĩa, nhớ những thằng em từng đi với anh qua
đỗi đường cùng khổ. Anh giải thích với các bạn anh, cái hình tôi đứng chụp
trên Hải Vân Quan bên cạnh cái tháp canh xưa, mà một tay phóng lớn cho anh
xem.
– Thằng em tao đó, tụi mày coi nó đếch thèm giải ngũ, dù chưa tốt nghiệp
trường bộ binh, mấy chục năm mà nó còn đứng như vầy có đáng nể không? Cái
thằng nhỏ nhất trong đám anh em tù của tao, nó là thằng Khiết ròm đó.
Tháng 10/1986, Alpha, Nguyễn Chí Thiệp, Trần Danh San, Trần Bửu Ngọc,
Ngô Văn Ly, Nguyễn Tú Cường, cùng vài đấng máu mặt bị quăng lên xe đưa về
trại T20 (Thành Gia Định). Bọn chèo dứt khoát muốn đào tận gốc rễ tờ báo
“Hợp Đoàn”. Chính vì thế tại trại giam này, một số các anh được thả ra từ
năm 1981-82 cũng bị hốt lại, trong đó có những hào kiệt từng làm điêu đứng
bọn cai tù ở A20, Phạm Đức Nhì, Trần Đức Long, Bùi Đạt Trung, Nguyễn Văn
Hiếu, Phạm Chí Thành...
Biệt giam khu C1, khu C2 là nơi các đấng bước trên can đảm nhận chịu
những đòn thù dã man nhất, và nhất quyết không khai, dù Ngô Văn Ly đã phản
phé tìm đủ mọi cách hạ gục những anh em từng cùng hắn bao năm ở Thung Lũng
Tử Thần. Tại đây, Vũ Ánh đã chứng tỏ sự can đảm và trách nhiệm trước anh em
của mình lúc đương đầu với tụi chấp pháp điều tra tại trại này. Đó là
chuyện hậu A20, mà chắc chắn nếu còn sống sót và có cơ may, tôi phải viết
từng chi tiết qua “khẩu cung” của Trần Kim Hải, người từng một đao một kiếm
vào tù lần thứ nhì, sau khi rời khỏi Thung Lũng Tử Thần. Anh bị Ngô Văn Ly
gài một cú nữa để nằm ấp hơn hai niên, chính vụ này ông già Nguyễn Văn Của,
một chiến binh Hòa Hảo phải bỏ mạng tại trại T20 do bàn tay nhuộm máu của
Ngô Văn Ly. Cua sắt Trần Kim Hải (Hải Bầu) gặp lại Alpha tại trại T20,
chính anh đã chứng kiến cái lẫm liệt của người tù Vũ Ánh trên gông cùm....
Ngày Alpha ra đi, tôi nhận tin trên báo Người Việt, tôi buồn lắm, biết
bao thăng trầm đã qua, cái tình anh em như cũ, mỗi khi tôi gặp một vấn nạn
gì trong quan hệ với anh em bạn tù A20 tôi đều thư vấn kế anh và lão Nguyễn
Chí Thiệp, tôi biết Alpha rất quí lão Thiệp, hai cha cùng lứa tuổi nhau,
cùng nằm biệt giam C rồi ra B, chung nhau một thanh thép xỏ cùm, và hai ông
đều coi tôi là “thằng út” còn lạc loài nơi cố xứ.
Vĩnh biệt Vũ Ánh:
Anh từng hứa về thăm trại cũ
Lên đồi vĩnh biệt đốt một nén nhang
Sao đành đi lúc chiều chưa tàn
Mà khăn gói vẫn đầy nguyên kiếp nạn
Nhớ xưa
Dưới cái nóng hạ Lào cháy khô thung lũng
Cùm chữ U máu mủ ứa cổ chân
Anh hiên ngang gõ sắt mà ca
Trên xiềng xích đọc vang bài Bắc Tiến
Sáu năm biệt giam
Ba muỗng nước, ba muỗng cơm
Chưa lần lung lay ý chí
Một đời anh – một đời sĩ khí
Bước thấp, bước cao, cắn nhục mà đi
Ngọn bút hiên ngang
Thay làn tên mũi đạn
Giữa trại thù nét mực chưa phai
Bây giờ
Tờ Hợp Đoàn để lại cho ai?
Vũ Ánh ơi!
Trên sàn tù lạnh lẽo
Áo lính sờn vai
Hơi thuốc thổi bay qua đồi vĩnh biệt
Anh khóc cho thằng nằm lại bơ vơ
Đã lỡ không được chết dưới cờ
Lủi thủi như anh – lên đường ra trận
Mười ba năm – nằm gai nếm mật
Bây giờ – thôi đã trắng tay thua.
Tiễn anh đi
– Mười ba năm tù
– Sáu năm biệt giam
– Ba lát khoai khô
– Cõng mấy hạt cơm gạo mốc
Một thời lẫm liệt
Trước gông cùm kìm kẹp
Còn ai ngồi nhắc, có ai thương?
Vũ Ánh ơi!
Con tằm già chết ở cuối đường tơ
Chí Hòa, T20, Z30A, A20
Những trại thù anh từng qua
Lổn ngổn sau lưng
Vẫn còn đây bầy xiềng xích
Ôi! Trường Sơn có nghe chăng
Giữa khuya đau lòng tiếng anh than
Chí cả năm xưa – theo tới ngày tàn
Trong thiên hạ ai chia bùi xẻ ngọt?
Và lớp lớp người đi – người đi trước
Nợ nần gom đầy – chỉ một anh mang
Lũ bọ dòi rút rỉa tan hoang
Anh vẫn lồm cồm
Một thân đứng dậy
Mà thôi
Hãy quên đi những gì không đáng nhớ
Cầm trên tay thanh kiếm gãy năm nào
Về lại đây – trở lại đèo cao
Đồi vĩnh biệt bạn bè vẫn đợi
Cứ múa bút
– Cho ngày đang tới
– Cho Trường Sơn rung lá như xưa
– Cho Trà Bương lúc mưa là mưa
– Cho bút pháp đi vào thiên cổ
Nhớ mà chi
Một lần qua sông Dịch
Lưỡi gươm cùn bỏ lại dưới trăng tan
Vũ Ánh ơi!
Bài thơ xưa gởi anh ngày bóng xế
Còn trên tay dù đã ố vàng
Cứ cầm như – như một nén nhang
Tiễn anh đi – dù xa ngàn dặm.
A20 nguyễn thanh khiết
15/3/2014
(ngày A20 Vũ Văn Ánh ra đi).
Alpha chết rồi, vậy mà anh vẫn nặng lòng với anh em một thời ở A20. Anh
di chúc cho chị Yến Tuyết, (người cộng sự 40 năm trước đã nắm tay anh rời
đài phát Thanh cuối cùng, sau này là vợ anh). Xuất bản quyển “Thung Lũng Tử
Thần”, tác phẩm cuối anh viết lúc sinh tiền, làm quỹ giúp cho mấy thằng em
của anh còn lận đận tại quê nhà. Vũ Ánh đã lấy đi biết bao nước mắt của anh
em cựu tù A20, Vũ Ánh chính là:
“Thằng Chết lo cho thằng Sống”.
Luật sư Vũ Hùng Cương nữa, anh Cương còm của tôi nhận cái trách nhiệm
động trời này từ chị Yến Tuyết, lo thu thập tên tuổi mấy thằng te tua, em
út của Vũ Ánh và anh,làm cáichuyện thay người chết cúng tế thằng sống, và
cứ mỗi năm vào ngày mất của Vũ Ánh, anh lại tới trước chân dung Alpha cùng
tôi thắp nén nhang online.
Hành trang theo mãi phận người:
Cha nội Vũ Trọng Khải thì khỏi nói, ông này ở chung với tôi từ ngày đầu
ra trại Xuân Phước, rồi cùng tôi vác bao, khiêng bị vô phân trại B năm
1983. Anh là người đầu tiên tôi liên lạc được trong số các anh em bè bạn
cựu tù. Trên một trang mạng nào đó tôi thấy một bức thư của anh gởi trong
một diễn đàn và ghi email của anh. Tôi tức tốc thư cho anh, 3 phút sau ông
tướng đăng đàn lên Skype gọi tôi, anh em tôi từ ngày đó hết ca cẩm chuyện
xưa tích cũ, ôn và tập những liệu pháp để sống còn ở Thung Lũng Tử Thần,
tới ba cái linh tinh lang tang của đời sống. Ở trại cũ anh là tay năng nổ
trong đám người khả dĩ gọi là lớn tuổi, nhưng tinh thần thì khỏi chê. Ngày
đi với Nguyễn Quang Trình vác đàn hát tù ca trong trại, anh ở tuyến đầu,
đốp chát với mấy thằng chèo anh đếch biết sợ là gì, anh có cái nick name mà
cựu tù A20 nhắc đến ai cũng nhớ kể cả mấy tay bên đội có án: “Khải Ống Vố”.
Luôn chơi cái pipe thở khói như khói tàu, vậy mà giọng hát của anh thật là
tuyệt vời, mấy chục năm sau vẫn truyền cảm không thay đổi, thậm chí còn hay
hơn lúc ở tù.Anh có thằng em kề cận, Lâm Tấn Hoàng, thằng này chung đội với
tôi, nó nhỏ hơn tôi và luôn được cha Khải nhắc tới, kể cả lúc anh sống ở
Úc, thằng Hoàng nhóc này lại không biết gì về internet, nên mọi thượng vàng
hạ cám anh đều sai tôi đi hành quân tới nó. Có lần anh hỏi tôi cặn kẻ về
đời sống của Lâm Tấn Hoàng, tôi đành thưa thiệt:
– Cùng ra trại với em một ngày, 6 tháng sau nó chơi một trận vô rừng
nữa, bị hốt thêm 2 năm.
Khải nghe xong chỉ nói một câu:
– Tụi bây đó, cứ cái tật không nhịn được, bộ tui bây tưởng tụi bây còn
đủ sức như xưa sao, làm ơn giữ cái thân cho tao nhờ.
Vài ba hôm thì cha Khải lại réo tôi, tôi nhỏ hơn anh ấy mười mấy tuổi mà
chả cứ sợ tôi đi trước nên canh kỷ lắm. Khác với Khải ống vố, Nguyễn Đại
Thuật là tay an ninh quân đội mang tới cấp đại úy mà thằng chả vẫn bị anh
em gọi là “bà Đầm”. Qua cái tính nhỏ nhẹ rất chi là “Đầm”, lịch sự từng
chút, anh ở đội 20 lúc nằm nhà 3 phân trại E, kế bên ông là lão Đoàn Bá
Phụ, hai tay sống với nhau như huynh đệ. Cặp ba Khải, Phụ, Thuật còn có
Trình nhào vô, thêm thằng Nguyễn Văn Tuấn (Tuấn sún), bộ 5 nhân sự này cũng
là một trong những trung tâm bài trừ thẳng tay những thứ phát nguồn từ đám
chèo, là một trong những trung tâm vấn kế của đám trẻ tụi tôi, nhất là
những thời điểm sóng gió. Trận càn quét của Lý lé làm anh Thuật nằm ấp một
dạo, rách như cái mềm, và “bà Đầm” vẫn tỉnh rụi.
Rồi tan hàng ở A20, anh qua Pháp sống cu ki một mình và làm việc thiện
nguyện của Red Cross hay mấy cơ quan quốc tế gì đó, anh đi khắp mọi miền
thế giới và chuyên đổ quân những chỗ khỉ ho cò gáy nhất.
Vũ Trọng Khải cùng Nguyễn Hưng Đạo, Hoàng Ngọc Thủy (ông tướng này đến
Úc đổi tên Hoàng Lập Chí và hiện nay là 1 trong số những luật sư có tiếng ở
Sydney và tham gia nhiều trong cộng đồng người Việt) về Úc định cư. Vậy mà
ngày anh Phụ qua đời, anh Thuật kéo ông Khải từ Úc sang Mỹ dự đám tang, cái
chân tình anh em cựu tù với nhau của mấy cha làm đám nhỏ quá nể.
Lúc tôi viết bài thơ “Chia tay giang hồ”, anh thư cho tôi: “Đây là lần
đầu tiên trong đời anh Thuật khóc. Trên xe lửa đi về Paris, khi anh đọc bài
thơ của em lúc em rời quán lá”.
Tôi biết “bà Đầm” rất thương tôi, cái chi tôi cũng nói với anh, anh là
một trong những lão đại mà tôi quí, cái tình của anh dành cho tôi thể hiện
qua những săn sóc nhỏ nhặt nhất, hình như anh vẫn luôn coi tôi bé tí xíu
như ngày nào. Coi, cha nội đi qua Trung Đông thư cho tôi: “Anh Thuật biết
em thích uống café, ở đây anh thấy có cái lọc café rất đẹp, anh đã mua cho
em rồi, mai mốt anh về Pháp, anh sẽ tìm cách gởi cho em”. Động trời cái nữa
anh từng nhờ cô cháu đóng chai rượu vang thượng hạng xách tay từ Tây về đây
cho tôi, kèm theo mấy hộp kẹo thượng đẳng. Ai mà hổng biết thà vác tiền mua
mắc một chút chứ qưỡn đâu cầm tay ba thứ này vừa nặng vừa không an toàn,
nhưng tôi biết anh thương tôi đến nỗi chính tay anh mua đồ cho tôi,rồi
phải có người cầm tay mang tới cho tôi anh mới vừa lòng. Vậy có chịu nổi
không, thiệt là “bà Đầm”. Nói tới cái vụ quà cáp, cha Khải cũng rứa. Chị
Lan vợ anh về Việt Nam, ông tướng đi kiếm đâu chục hộp xì gà cho tôi, còn
dặn bà vợ cất kỹ đưa cho thằng Út, hành lý hết chỗ chứa mà còn bắt bà phải
bỏ trong xách tay nữa chứ. Tôi thiệt tình chào thua mấy lão già lẩm cẩm này
rồi.
Đâu phải “bà Đầm” chỉ thương mình tôi, mấy tên cựu binh Trại Trừng Giới
còn ở lại xứ sở này có bất cứ chuyện chi gay cấn mà “bà Đầm” biết được dứt
khoát phải để “bà Đầm” giải quyết. Cách đây mấy năm Trí ghẻ chán đời đen
bạc, sau khi làm một phát nữa vì nổi máu giang hồ nựng một thằng công an
gốc bự, nướng thêm 2 năm nằm ấp.Trí nhà ta hết ly tới chén rồi cầm cả chai,
uống bất kể sống chết, bất kể hồn thiêng sông núi đang vẫy gọi, uống đến
nổi banh ta lông bộ ruột. Ngày tôi lên thăm hắn, Trí ốm nhom như con tép,
hắn được cho về mấy bữa thì vết thương bị nhiễm trùng sau khi mổ, máu mủ
tèm lem, thấy tình hình bệnh nhân te tua quá đỗi bệnh viện yêu cầu mổ lại
lần thứ hai. Tôi điếng hồn gọi cho “bà Đầm”, Thuật đại ca đăng đàn gọi viện
binh và bảo tôi tức tốc chở Trí vô bệnh viện. Mấy cựu binh đàn em được “bà
Đầm” lo lắng nhiều lắm làm sao nhớ hết, từ những tên mang án tập trung hay
trọng án ở nhà 1, nhà 2 phân trại E, nhắc tới tên anh Thuật thì còn bóp
trán cố nhớ, nhưng danh gọi “bà Đầm” thì dứt khoát là một hình bóng không
thể quên.
“Bà Đầm”từng kêu tôi quaTây ở với anh vài tháng, nghe xong tôi lạnh cả
ót. Cha nội, thằng em khoái đi giang hồ vặt, qua Tây mà đi với “Bà Đầm” mấy
tháng thì tiêu đời thằng nhỏ, mấy đứa bồ bịch của em đâu để em đi xa vậy.
Anh giận tôi khi tôi cứ cù cưa không chịu để anh đưa sang Mỹ dự đại hội thế
giới của cựu tù A20, rồi lại hứa với hẹn sang Tây. Thử nghĩ mà xem, tôi dế
chó nhất, khi cùng các anh sống trong những trại tù thê thảm như vậy, cho
tới cuối đời mình,đã già muốn chống gậy mà tình các anh vẫn thương và coi
tôi như con nít của ngày nào. Làm sao tôi không nhớ, không tiếc, không trân
trọng những ngày tháng đã qua cho được.
Mà cũng lạ, những lão tướng đàn anh của tôi, đa số là sĩ quan, nhưng mấy
cha đều là những tay từ chối không trình diện sau ngày 30-4-75, cha nào
cũng lội vô rừng, đi tiếp con đường mới một nửa của ngày xưa. Có lẽ vì vậy
mà mấy anh thương tôi, “Thằng nhóc, dế chó nhất, cũng bày đặt vô rừng theo
tụi tao”.
Cộng đồng tù nhân ở A20 có đủ binh chủng, có đủ những lực lượng chuyên
biệt từ Biệt Cách 81 cho tới Lực Lượng Đặc Biệt, có các B trưởng từng hét
ra lửa, một trong những khuôn mặt đó là thiếu tá Trịnh Tùng, B trưởng B15.
Trịnh Tùng (Bà Già Trầu) nhỏ con nhất trong những sĩ quan mang cấp thiếu tá
tại trại này, nhưng nghe các ông bạn vàng của lão Tùng thì con người chút
xíu đó thường mang súng trước ngực và móc nhanh như cắt, từng lẫy cò bắn
vào chân cố vấn Mỹ, khi hắn tỏ vẻ coi thường lính trong B của ông. Nghe đâu
gốc gác Trịnh Tùng chẳng phải vừa, nhưng ông vẫn không đi diện H.O sau ngày
ra khỏi trại. Trịnh Tùng sống cà tàng ở quận 3 gần bản doanh Vovinam. Khi
Lê Sáng chưởng môn qua đời, ông là người đại diện cho Trại Trừng Giới đến
viếng tang chưởng môn Lê Sáng. Lúc quan tư nhà ta cùng mấy đàn em tới đó,
các môn sinh của chưởng môn vừa tạ thế hỏi Trịnh Tùng:
– Xin cho biết các ngài đại diện đơn vị nào của nhà nước đến viếng tang?
Trịnh Tùng ngó quanh thấy nguyên dàn công an sắp hàng trên lối vào,
trước mặt là bàn ghi danh các đoàn thể đến viếng tang, Thiếu tá nhà ta tỉnh
như không, xoay qua mấy tên đồng hành:
– Mấy đứa viết dùm anh vào thiệp viếng tang như vầy:
“Trại Trừng Giới A20 – đại diện: cựu Thiếu Tá Trịnh Tùng, B trưởng B15 –
đến chào vĩnh biệt A20 Lê Sáng”.
Nghe xong cả quần thần bu quanh trố mắt nhìn quan tư. Có lẽ đám nhóc có
mặt ở đây cũng chẳng biết A20 là cái chi, Trại Trừng Giới là chỗ nào, Lê
Sáng chưởng môn dính dáng gì cái danh gọi A20 đó. Cả bọn cứ nhìn tràng hoa
đi điếu ghi mấy chữ chần dần “Gia Đình A20 – Vô Cùng Thương Tiếc” do chính
quan tư trịnh trọng mang vào chính điện. Đốt nhang, bái tế xong, quan tư
cùng mấy thằng em của quan là những cựu binh của Trại Trừng Giới tà tà đi
ra dưới con mắt dò xét của một bầy âm binh trá hình.
Nguyễn Quang Trình “cô Ba”. Chẳng biết ai đặt cái nick name này cho
Trình nhưng quả là đúng y chang. Trình lớn hơn tôi một tuổi, hắn nhỏ nhẹ
như giọng con gái, chưa hề mích lòng ai, là Tây Ban Cầm thủ của những lần
hát tù ca, Trình không cho tôi gần Ngô Văn Ly, tôi hỏi tại sao, hắn chỉ
cười “để mày khỏi bị cùm như tao”.
Từ trong con người nhỏ nhẹ đó là một ý chí sắt đá, bị cùm te tua, khi về
đội hắn như con chuột bạch mà vẫn nụ cười y chang con gái. Nhưng nếu ai
biết về hắn sẽ rất ngạc nhiên, với dáng người như “cô Ba” đó, Trình là võ
sư Không Thủ Đạo lừng danh ở Đông Nam Á. Tôi quí hắn với cái tình của những
thằng trẻ bất chấp hiểm nguy. Định cư ở Úc, Trình mở võ đường cùng vợ, nghe
đâu vợ Trình cũng là bậc cao thủ không cònđai nào nữa để lên cấp.Cả 2 vợ
chồng là giám khảo cho những cuộc thi lên đai bậc cao ở khu vực Châu Á. Vì
thế, Trình có mấy lần nhân chuyến đi làm ông lớn đó,hắn ghé về Việt Nam,
lần nào cũng vậy, xuống phi trường là hắn gọi tôi. Những ngày tôi chống gậy
xuống đường, hắn từ Úc gọi điện thoại cho tôi dặn dò các thứ.
– Trời! mày tưởng tao nhóc nhi vậy sao Trình?
– À... tại tao vẫn nhớ mày nhỏ xíu như hồi đó nên quên, nhưng làm ơn giữ
cái mạng mày dùm tao.
Sau này Trình bệnh rất nặng, vậy mà hắn cứ đi đi, về về, những lần như
thế hắn ghé tôi, hẹn hò với mấy anh em cựu tù ra cái quán nào đó nhắc
chuyện xưa. Tôi ở tầng 1 vừa là phòng ngủ, vừa làm việc, vừa tiếp bè bạn
năm châu bốn biển, tôi nhớ Trình phải đứng nghỉ thở dốc khi leo mới nửa cầu
thang. Hắn mệt và đưa tay để tôi dìu lên, hình ảnh nó như sắp ngất đi đã
làm tôi sợ, tôi sợ mất nó. Lần cuối, hắn hẹn tụi tôi lên thăm người bạn,
chưa kịp thực hiện thì hắn trở bệnh lập tức quay về Úc. Nửa tháng sau, anh
Vũ Trọng Khải báo tin cho tôi “Trình vào bệnh viện, tình trạng nguy cấp”.
Hai hôm trước lúc Trình mất, tôi còn liên lạc nhờ anh ấy đến thăm Trình,
online cho tôi nhìn hắn lần cuối. Bạn bè tôi như vậy bảo sao không nhớ,
không thương. Nó là bạn tù, rồi về đời lại là thứ bạn cùng tiếp tục chinh
chiến dù đã chống gậy. Nguyễn Quang Trình chết, tôi buồn rơi lệ, một thứ
quí hiếm vuột khỏi tầm tay.
Với tất cả cựu tù A20 đã ra đi, tôi có buồn, có nhớ. Nhưng với Trình thì
khác, có lẽ trong đời đây là lần đầu tôi rơi nước mắt cho một thằng bạn.
Khi chết, Trình còn nợ tôi một lời hứa, phổ nhạc bài thơ tháng tư của tôi
mà hắn thích. Tôi không dám đòi món nợ thiên thu đó, tôi coi như đó là một
nén nhang kèm theo bài thơ vĩnh biệt, tôi tiễn Trình đi.
Vĩnh biệt “Cô Ba”:
Bỏ hết mày đi! mày đã đi!
Chưa nói câu nào đã biệt ly
Cà phê hẹn hò! mình tao uống!
Tiếc thương mày tao biết nói chi?
Lứa tụi mình đâu còn mấy mạng?
Mày tha hương vẫn muốn về đây
Gánh sơn hà – cái nợ gió sương
Trả hết, trong một lần đứng dậy
Hôm tao xuống đường – từ xa xôi
Mày gọi về dặn dò trăm thứ
Lâm trận – đã có mày nung chí
Tao hiên ngang giữa đám giặc thù
Mày mong một lần cùng tuổi trẻ
Chống gậy với tao đi biểu tình
Hát vang bài ca ngợi quê hương
Bằng trái tim thằng từng ở lính
Mày mong đi thăm nom bằng hữu
Một lần để trút hết tình xưa
Mày về chi tháng tư – trời nắng?
Sao lại đi tháng năm – ngày mưa?
Trình ơi! làm sao quên tù ngục
Phú Khánh nóng ran giữa xà lim
Đồng Xuân lũ về, đêm ướt mưa
Cây đàn vỡ – còn ai so phím?
Chỗ này, mày ngồi đọc thơ tao
Bàn tay gõ cố tìm cung bậc
Trình ơi! nhắc chi làm thêm nhớ
Âm điệu đau mang theo vào đất?
Vĩnh biệt “Cô Ba”! thôi vĩnh biệt!
Ngủ yên đi chí cả bằng không
Nhục vinh, thân thế mày đâu cần
Cứ coi như vừa qua giấc mộng
Trình hỡi! Trình ơi! thôi vĩnh biệt
Đường trần, thui thủi một mình tao
Hận nước, thù nhà đợi kiếp sau
Tao, mày lại cùng nhau một dạo
“Cô Ba” ơi! lệ lăn trên má
Tiễn mày đi! tao tiễn mày đi!
A20 nguyễn thanh khiết
Đêm 6/5/2017
(ngày Nguyễn Quang Trình ra đi).
Ngày tôi ra khỏi trại giam, Vũ Mạnh Dũng đang nằm liệt giường trong bệnh
viện chấn thương chỉnh hình ở Sài Gòn. Tôi tới thăm Dũng, nó cầm tay tôi:
– Tao tiêu rồi, thật sự tiêu rồi.
– Tao chẳng biết phải nói thế nào ngoài một câu, dù gì mày cũng giữ sức
khỏe.
Nó khóc, những giọt nước mắt tiếc một thời son trẻ đã cùng tôi qua những
trại giam, cùng gánh một thứ nạn, cùng mang tuổi xuân dập vùi, nó nhỏ hơn
tôi một tuổi, mà sau lần tai nạn ở trại, nó già đi không thể ngờ. Lúc nó
làm đội trưởng một đội xây dựng, cái nhà vách đất mà đội nó đang phá bỏ,
còn một mảng tường đứng chơ vơ, lúc nó lùa cả đội chạy ra, cái tường bắt
đầu nghiêng xuống, cây xà ngang đập vào cột sống, nó tàn phế nửa người.
Trại phát lệnh tha nó về, chấm dứt một đời hảo hán từng vươn vai đứng cùng
anh em suốt bao năm hoạn nạn. Tôi nắm tay nó, chỉ biết nắm tay nó không nói
được câu nào hơn. Khi tôi về lại Tây Ninh, nó chết, nghe tin tôi chỉ biết
cúi đầu.
Tôi có quá nhiều cái để nhớ, nỗi nhớ lộn xộn không theo một thứ tự nào,
có khi trời nắng nhớ ngày đứng giữa đồi, đội cái nắng nóng hạ Lào chín đỏ
hai vai, có lúc ngày mưa thương những khuôn mặt chết bụi chết bờ từng cùng
mình chịu cái rét căm căm, đói mờ con mắt. Những hình ảnh thoáng mất thoáng
còn cứ lượn lờ qua năm này tháng nọ. Tôi cũng biết, trong anh em, bè bạn có
thể, có người cũng rớt vào cái nhớ khốn nạn đó, nó đi theo những vết sẹo ở
cổ chân, như một thứ chứng nhận từng bị cùm kẹp, từng bị sĩ nhục, từng cắn
răng nuốt hận để sống còn.
Tôi căm thù cái nhớ dai của mình, nó làm tôi khó chịu, thậm chí trong
giấc ngủ nó cũng mò tới, tiếng cái cùm nghiến trên thanh thép, cơn đau buốt
tới đầu khi cái cùm cứa trên vết thương mưng mủ, cái khát chết người trong
biệt giam, cả cái tiếng mớ ngủ của thằng bạn nào đó dưới cơn mưa triền miên
đói lả giữa Trường Sơn.
Tôi hận mình nhớ chi những thằng quá tệ, từng sống chung nhiều năm và
sống dai như đĩa,nó chiếm ít nhiều khoảng trống trong đầu,lý ra phải
dành cho nhữngthằng bè bạn trang lứa ngạo mạn với đời như tôi, dám vất cha
cái tuổi trẻ làm một cú trái khoái cho mình sau buổi tan quân. Cái nhớ khốn
nạn đó hành tôi chắc hết cả đời.
Những dòng cuối:
Từ năm 1985 trở đi, sau nhiều đợt thả tù, qua sự can thiệp của các lực
lượng nhân quyền trên thế giới đã gây áp lực quá lớn cho cộng sản Việt Nam.
Kinh tế xuống trầm trọng, với 10 năm sống chung, dân Việt Nam đặc biệt là
miền Nam đã thấy rõ bộ mặt cộng sản, chuyện ngoài đời làm ảnh hưởng cực lớn
trong tù, dù cai ngục cố gắng bằng mọi cách ngăn chận tin tức, nhưng nó vẫn
lọt vào bằng trăm vạn cách, trong khó khăn người ta sẽ tìm ra cách đưa tin,
có khi thấy nó cực kỳ đơn giản mà hiệu quả không ngờ.
Một ngày, luật sư Trần Danh San được thăm nuôi, anh bất ngờ nhận được
một cục xà bông Camay, thời này loại xà bông như vầy là hàng hiếm rồi, gia
đình nói “À thằng Tintin gởi cho ông cục xà bông tắm”.
Luật sư nhà ta mang đồ vô trại, cứ lục trong đầu cái tên lạ hoắc trong
họ hàng, người quen, cũng không thể nhớ hắn là ai. Sau cùng anh hiểu ra vấn
đề, cắt cục xà bông ra,một lá thư của gia đình cuộn thật nhỏ, mỏng dính đặt
sát phần đầu cục xà bông. Lá thư ghi thật tường tận:
“Chính phủ Mỹ can thiệp đưa các Quân Cán Chính của VNCH ra khỏi Việt
Nam, có hai chọn lựa. Thả tất cả Tù Chính Trị thì quá nhiều trong số đó
nhiều nhất là người ra tòa và có án. Phía Việt Nam sẽ lựa chọn án Tập Trung
Cải Tạo”.
Vậy là Trần Danh San cùng anh em phe ta xúm lại phần tích bức thư: Tại
Miền Nam con số người bị kết án có thể lên hàng triệu, trong đó chỉ số ít
quân, cán, chính tham gia và bị ra tòa có án 5, 10 hay 15 năm, tất cả sĩ
quan trình diện, kể cả sĩ quan tham gia vào các lực lượng nổi dậy đều mang
án tập trung cải tạo, con số dân sự vướng cái án Tập Trung Cải Tạo không
bao nhiêu. Bứng cái án tập trung cải tạo khỏi “khung hình phạt” tại Việt
nam thì sẽ giải quyết vấn đề.
Với mấy chục triệu dân, cộng sản coi như là cải tổ tư pháp, hủy bỏ án
tập trung. Với thế giới, cộng sản Việt Nam tiến bộ, nhân đạo. Về bang giao
với Mỹ. Bỏ án Tập Trung thì tự khắc ai mang án này coi như đương nhiên chấm
dứt hình phạt. Mỹ sẽ đạt được ý nguyện cứu tất cả quân dân cán chính VNCH
ra khỏi tù. Việc phân loại thì hạ hồi phân giải. Một mũi tên trúng hai con
nhạn, một quyết định đạt hai điều kiện.
Từ những năm 1983-87 có những đợt tha ra khỏi trại, càng về khuya danh
sách càng nhiều. Và chỉ thả những người bị kết án Tập Trung Cải Tạo.
Vậy là xong, tôi là chính trị phạm bị kết án tập trung cải tạo, sớm hay
muộn tôi cũng sẽ ra khỏi tù. Nhưng buồn một nỗi tôi lại không muốn BỊ THẢ
lúc này.
Về sau này, phía chính quyền Mỹ đưa ra một khung lọc lựa, những quân cán
chính, đưa đi định cư tại Mỹ hay một nước thứ ba phải có đủ các điều kiện:
– Quân nhân phải là sĩ quan đang tại nhiệm.
– Viên chức hành chánh từ cấp quận trở lên và đang tại nhiệm cho tới
30-4-75.
– Dân chính phải tốt nghiệp hay đang thụ huấn một lớp hoặc một chương
trình do chính phủ Mỹ tài trợ.
– Tất cả phải có thời gian bị việt cộng giam cầm tối thiểu 3 năm.
Về sau nữa, Mỹ còn bổ sung nhận hồ sơ đi định cư cho gia đình quân cán
chính đã chết trong trại tù, miễn có 3 năm bị giam tính tới ngày chết và
đương nhiên phải có giấy xác nhận tử vong của trại giam.
Diện H.O (Humanitarian Operation) như đã biết, nếu không hội đủ điều
kiện đã nêu thì dứt khoát hồ sơ bị loại. Bạn bè tôi biết bao tay mang cấp
bậc chuẩn úy, Khóa 3/73 ra trường Thủ Đức 1974, chưa đủ 18 tháng để tự động
lên thiếu úy. Chuẩn úy thì đi tù không quá 2 năm, đa số tại các thành phố
lớn ở miền Nam là 7 ngày hay 15 ngày. Vài tỉnh ở xa, do thời đó chính quyền
cộng sản chưa quản lý hết, mỗi vùng 1 vua. Thí dụ ở Quảng Trị bạn cùng khóa
tôi có chục anh em bị tù từ 2 năm, Tây Ninh thì 10 ngày. Đối với thế giới,
cấp chuẩn úy chỉ là “Hạ sĩ quan cao cấp”, tụi việt cộng cũng coi như vậy.
Bên cạnh đó một số anh em cán bộ Xây Dựng Nông Thôn, Nghĩa quân, không được
xếp vào phân loại này.
Cú này tôi được đu dây ra khỏi tù vì mang án tập trung. Nhưng về các mặt
khác thì không dính dáng gì tới tôi.
Anh em bắt đầu bàn kế hoạch riêng khi ra khỏi tù,chuẩn bị tinh thần đón
nhận một ngày mai tươi sáng của mình, đó là cuộc vượt thoát chính thức lần
thứ nhì của quân cán chính VNCH, sau hơn 10 năm mất nước.
Riêng phần tôi, ở đây là nhà tù nhỏ, bên ngoài là nhà tù lớn, cái chuyện
bỏ Án Tập Trung chỉ là chúng đối phó với Mỹ, trong kế hoạch MUA lại những
quân cán chính bị giam giữ, về phương diện an ninh tôi vẫn là tù của chế
độ, ở tù nhỏ hay tù lớn cũng rứa. Tôi không quan tâm đến tiền đồ tương lai,
mà tính chuyện ra đây, mình có cơ hội nào nữa không? Hổng lẽ khơi khơi nằm
ấp 10 niên rồi về sao?
Ngày 10/10/1987 trại A20, phân trại B, bất ngờ công bố một danh sách
phóng thích khỏi trại gần 200 người, gồm 150 sĩ quan trình diện và gần 50
chính trị phạm.
Toàn bộ trong cái danh sách đó đều mang án Tập Trung Cải Tạo, tôi có tên
trong bảng phong thần này.
Tất cả thu dọn hành trang, đi bộ ra phân trại A, vào trung tâm quản lý
trại, nhận cái “Giấy Ra Trại”. Trại phát cho mỗi em 40 đồng làm lộ phí,
cùng hoàn trả tất cả tư trang vật dụng đã giữ lúc đương sự bị bắt giam.
Tôi và một số anh em lần mò ra ga Chí Thạnh đón chuyến xe lửa Bắc Nam về
Sài Gòn.
Mà trời đất, chuyện trong tù là nơi dễ làm người ta hư hao nhất. Là con
bà phước mà tôi giữ 10 niên không phạm một sai lầm, với tư cách một thằng
tù chính trị, vậy là quá ngon lành rồi. Cái này phải ngẩng cao mặt cám ơn
ba hồn chín vía những anh em đã bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm trong thời
gian ở tù chung với tôi, họ đã giúp tôi vượt trên khó khăn tột cùng đó. Để
bây giờ, mấy mươi năm sau ngày tan hàng ở T20, Z30D hay A20, tôi vẫn còn
được anh em thương và gọi cái tên “Út Khiết”, thằng em nhỏ nhất trong gia
đình các cựu tù của hơn 40 năm trước. Còn gì bằng nữa, trong khi có biết
bao người đã thân bại danh liệt trong những ngày đi tù, khi về đời gặp lại
anh em bị coi như cùi hủi, hoặc không bao giờ dám ló mặt ra, trong những
lần có cơ hội nhìn nhau trước khi về đất. Tôi cũng cám ơn tôi đã biết nhẫn
nhịn, học được cái hay cái dở của đàn anh, giúp mình ngoi lên và tự hứa với
mình. Dù không làm được trò trống chi, nhưng tôi đã có những ngày sống rất
hào khí và tự hứa sẽ giữ hào khí đó tới phút cuối đời.
A20 Nguyễn Thanh Khiết




Bữa tiệc Tết kỳ lạ của Từ Hi Thái Hậu

[image: image002.jpg]

Trước sức mạnh quân sự hùng hậu của tám nước phương Tây cùng liên minh đánh
Trung Quốc,Từ Hi Thái Hậu nhà

Thanh (Trung Quốc) tự hiểu rằng, con đường tốt nhất là dùng ngoại giao để
giải quyết.


[image: image003.jpg]

Thái thú Lý Hồng Chương được giao sứ mệnh gặp gỡ các sứ thần phương Tây. Mở
đầu cho mối giao hảo này, một tiệc yến linh đình nhất đời Thanh được tổ
chức vào Tết Nguyên đán năm 1874, có mời các sứ thần Tây tham dự tại Duy An
Cung.


[image: image004.jpg]

Thực khách gồm 400 người, thực đơn 140 món, tiệc khai đúng vào 12 giờ đêm
giao thừa năm 1874, kéo dài cho đến giờ Tý đêm mồng 7 tết, chi phí 98 triệu
hoa viên Trung Quốc, tương đương 374 ngàn lượng vàng và có đến 1750 người
phục dịch.

Quan khách nhận được thiếp mời ngay từ hôm 23 tháng chạp năm Quý Dậu
(1873) gồm 212 vị trong phái đoàn 8 nước và 188 công thần của triều đình
Mãn Thanh.
Đêm 30 Tết, tất cả khách mời tề tựu về Duy An Cung, cùng lúc ấy Từ Hi
Thái Hậu dự lễ trừ tịch ở miếu Tôn Long. Sau ba hồi chiêng trống long phụng
vang lên là hồi khánh ngọc báo tin Thái Hậu xuất cung.
Quan khách đồng loạt đứng dậy hướng về long kiệu có 8 vệ sĩ lực lưỡng
khiêng. Thái Hậu khẽ vén màn bước ra chào quan khách. Ba hồi chiêng trống
vang lên, thay mặt triều đình và Thái Hậu, Thái thú Lý Hồng Chương phát
biểu ý kiến về ý nghĩa buổi tiệc này nhằm thắt chặt tình hữu nghị giữa nhà
Thanh và các nước phương Tây.
Thay mặt tám nước, sứ thần Anh quốc đáp từ. Rồi tiếp theo ba tiếng ngọc
khánh báo hiệu đại yến bắt đầu. Quan khách ngồi cách nhau khoảng một mét,
sau lưng có hai nô tỳ nam và nữ phục dịch.
Món ăn thứ nhất được dọn lên. Cứ ăn hết một món, nhạc lại tấu lên một
bản. Dùng đúng năm món, thực khách được uống một chén nước có tác dụng tiêu
thực. Rượu đãi khách là rượu đại bổ. Nhà bếp dọn lên mỗi ngày 20 món, trong
đó có một món rất đặc biệt, tiệc kéo dài 7 hôm phải có 7 món vô cùng đặc
biệt đặc biệt trong tổng số 140 món.

Bảy món kỳ lạ đó là:

+ Cỏ phương chi(Linh chi) :
Loại cỏ này mọc trên đá ở núi Thái Hàng. Cỏ này chỉ có những năm nhuận mới
mọc, mọc một lần trong năm ấy đúng vào ngày trung thu và sống rất ngắn
ngày, nếu gặp phải ngọn gió Bắc là khô héo liền. Muốn lấy cỏ, trước đó một
ngày phải dắt lên núi một con ngựa bạch đực. Mặt trời vừa mọc, dẫn ngựa tới
phiến đá có cỏ, đợi ngựa ăn xong, chém ngựa chết ngay, sau đó mổ bụng lấy
dạ dày đem về chế thuốc, phơi khô. Tương truyền cỏ này rất mát, trừ bách
bệnh. Trong bữa tiệc đãi khách, cỏ phương chi được nấu với long tu, người
ăn vào sảng khoái tinh thần, chẳng thấy mệt mỏi.

+ Chuột bao tử :
Chuột đồng bắt về nuôi cho ăn toàn gạo trộn với trứng gà và các vị thuốc
bổ, uống nước sâm và lê ép.. Mỗi ngày được tắm rửa hai lần bằng nước trầm
thơm và dầu hương liệu hảo hạng. Món chuột bao tử lấy từ lứa con, cháu các
con chuột trên. Đầu bếp phải khéo tay, bọc chuột bên ngoài một lớp bột bánh
bao. Thực khách đưa bánh lên miệng nghe được tiếng kêu của chuột còn sống ở
bên trong. Món này bổ tì vị và bổ mắt.

+ Trứng công :
Công làm nem là món quý, món trứng chim công lại càng quý hơn nữa vì trứng
công rất khó lấy. Muốn đãi khách, cần 100 con khỉ được huấn luyện kỹ để lấy
trộm trứng công. Kết quả thu được 500 trứng để đãi khách.

+ Tinh tượng :
Nhà bếp chọn lựa những tai yến to, tốt ở biển phương Nam, đem nấu với nhân
sâm và đường cao ly. Sau đó nhồi bột phấn vào lò nung chín. Người ta khoét
trên lưng các con voi ấy một lỗ nhỏ rồi cho vào bên trong một bong bóng cá
đã ngâm thuốc bắc phơi khô.
Bên trong bong bóng cá có chứa tinh tượng (khí voi) đem đi hấp.. Trong
bữa tiệc, thượng khách lấy cây kim vàng chọc thủng rồi cho chất ấy chảy vào
chén bạc mà uống. Món này bổ lục phủ ngũ tạng, trị dứt các chứng nhức mỏi.

+ óc khỉ :
ở Sơn Đông có rừng lê Ngọc Căn trị được bệnh cam, thận, nhiệt uất, ho kinh
niên. Rừng lê này bị đàn khỉ chén sạch vì vậy mà thịt khỉ ở đây thơm ngon,
đại bổ, ăn vào trị được bệnh bán thân bất toại. Tương truyền óc khỉ này bổ
hơn cả. Số khỉ bắt đem đãi khách là 80 con, toàn loại choai choai chưa thay
lông, cứ năm người ăn một bộ óc khỉ. Tám mươi con khỉ được tẩm bổ hàng
ngày. Trước giờ đãi khách, khỉ được đặt vào chiếc lồng nhỏ trông tựa chiếc
trống con, có thể mở khép dễ dàng.

[image: image005.jpg]

Trên đầu lồng có chừa trống một lỗ nhỏ để đầu khỉ ló lên được, và chiếc
gông đặc biệt giữ chặt khỉ lại. Khi ăn, người phục dịch cầm chiếc chày ngà
giáng xuống đầu khỉ, cái đập này đã được luyện tập kỹ đủ cho khỉ chết ngay
mà không kịp kêu la. Sau đó rưới nước sâm nóng lên đầu khỉ để cho óc khỉ
tái đi. Quan khách dùng chiếc thìa bạc múc óc khỉ ra ăn.

+ Heo sữa Phúc Châu :
ở vùng Phúc Châu (Trung Quốc) có giống heo quý, thịt thơm ngon, chuyên ăn
một loại củ mọc ở đồi Châu Tích Xương (củ này giống như củ hoàng tinh). Bữa
tiệc đãi khách gần 100 con heo sữa, là giống heo hai tháng của xứ Phúc Châu
này. Những con heo đó được đập chết (không chọc tiết, làm lông) thui qua
một lượt cho cháy hết lớp lông. Xong mổ bụng, bỏ hết ruột gan rồi ướp các
loại thuốc quý trong ba hôm, đem chưng cách thuỷ. Lúc ấy thịt heo vô cùng
thơm ngon, bộ xương rất mềm.

[image: image001.gif]

+ Sơn dương trùng :
Được lệnh của Từ Hi Thái Hậu, các thợ săn Hồ Bắc lặn lội vào rừng sâu núi
thẳm bắt được sáu con dê núi đang có chửa tại cánh rừng Thiên Tân. Đàn dê
này được chăm sóc cẩn thận, hàng ngày cho ăn toàn cỏ Vân Nam và Quảng Tây
chở về. Đây là loại cỏ “đông trùng hạ thảo”, loại cỏ quý, là vị thuốc bổ
can thận. Ăn cỏ quý này lại thêm các loại lá cây thuốc bổ khác, sáu con dê
núi này ngày càng mập mạp, đẻ ra lứa con cũng mạnh khoẻ, to lớn hơn đồng
loại. Dê con này vừa đúng hai tháng tuổi, được chọn 14 con giao cho nhà bếp
làm lông, moi ruột.
Sau đó chúng được ngâm trong thùng gỗ có chứa nước gừng và rượu quý. Sau
hai hôm, dê được vớt ra bỏ vào chậu sứ có chứa sữa dê tươi và nước sâm
nhung. Tiếp hai hôm nữa, người ta lấy hoa sen trắng (đã tách nhánh hoa và
ghim kim vàng xuyên từ hương sen đến cuống hoa), cắm đầy mình dê. Để vậy,
ngâm đến ngày thứ 10 (đúng hôm mồng 7 tiệc tàn), xuất hiện những con trùng
trắng muốt đầy trong hoa sen. Đầu bếp nhặt lấy con trùng sơn dương này đem
chế biến thành món ăn có tác dụng bổ khoẻ, trị các bệnh lao phổi, tê bại,
bán thân bất toại







[image: image002.jpg]
[image: image003.jpg]
[image: image004.jpg]
[image: image005.jpg]
[image: image001.gif]




*Bạn Không Phải Yêu Nước Mỹ*

*[image: 5535 1 TTTrump]*

*A / Bạn đến nước Mỹ* vì bất cứ một lý do nào đó. Tỵ nạn CS.
Vượt biên. HO. Đoàn tụ gia đình. Anh chị em bảo lãnh vv...và
vv...và ngay cả giả chồng giả vợ nữa, bạn đều được nước Mỹ đối
xử nhân đạo và hào phóng với bạn. Đúng không? Nhưng bạn không
phải yêu nước Mỹ.

*B / Sống ở nước Mỹ*, bạn được giúp đỡ theo nhu cầu: Cần nhà,
bạn có housing. Đau ốm, sinh nở bạn được nhà thương trị liệu. Cần
thức ăn bạn có foodstamp. Nếu bạn có con nhỏ mà không đi làm được
thì mỗi tháng, ngoài food stamps, bạn còn được nhận một số tiền
gọi là Welfare. (nhiều người gọi là tiền phước thiện.) Tiền này
tuy không nhiều nhưng cộng với housing và những sự trợ giúp quan
trọng khác, giúp bạn đủ sống trong giai đoạn cần thiết để vượt
qua những khó khăn (ở đây, người viết không nói đến trường hợp
những người không bao giờ đi làm, hay đi làm thì chỉ lấy tiền mặt
và nhiều chục năm dài sống bằng welfare.) Nếu nhà bạn có cha mẹ
già đau yếu hay chẳng may có người tàn tật, chính phủ sẽ trả
tiền cho người đến săn sóc, tắm rửa nấu ăn, mỗi ngày ít nhất là
4 giờ hay nhiều hơn, tùy tình trạng. Mỗi tháng nếu bạn không có
tiền trả tiền điện, tiền máy ấm, máy lạnh, bạn sẽ được giúp
trả. Bạn hay con cái bạn cần học thì được đến trường, không có
tiền đóng học phí, nước Mỹ đóng cho bạn và còn cho thêm tiền
bạn mua sách vở, tiêu xài từng học kỳ. Và ngay cả khi chết, nếu
không có tiền lo hậu sự, chính phủ Mỹ cũng giúp bạn chu toàn.
Đúng không? Nhưng bạn không phải yêu nước Mỹ.

*C / Bạn ở nhà với cha mẹ,* lúc còn bé và nếu cha mẹ bạn khá
giả, bạn mới được học hành, chu cấp đầy đủ. Nếu cha mẹ nghèo,
bạn không được đi học mà còn phải đi làm để góp vào với gia
đình mà sống. Đúng không? Nhưng khi bạn vào nước Mỹ rồi thì dù
bạn chưa đóng góp được chút gì cho sự hưng thịnh của nước Mỹ,
bạn cũng vẫn được hưởng mọi dịch vụ và phúc lợi, công bằng như
mọi người công dân Mỹ đã từng đóng góp mà người viết đã nói ở
phần trên. Đúng không? Nhưng bạn không phải yêu nước Mỹ.

*D / Bạn có biết những khoản tiền đó từ đâu mà có không?* Là từ
những người đến đây trước bạn, họ ý thức được lòng nhân đạo và
sự hào phóng của những người đến trước họ, đã giúp họ cơ hội
để họ được là họ hôm nay và họ tri ân bằng cách làm việc không
lãnh lương chui, họ sẵn sàng và vui vẻ đóng thuế để góp công xây
dựng nước Mỹ được giàu mạnh, cho nước Mỹ có đủ ngân khoản mà
tiếp tục giữ được truyền thống tốt đẹp này để lúc bạn đến,
chính phủ Mỹ sẽ chu cấp cho bạn và cho gia đình bạn. Đúng
không? Nhưng bạn không phải yêu nước Mỹ.

*E / Khi bạn đi làm,* dù bất cứ hãng xưởng nào và bất cứ tiểu
bang nào trên toàn quốc, tùy theo khả năng, chuyên môn và nhu
cầu công việc, không kể màu da, tiếng nói, bạn được lãnh lương như
đồng nghiệp và được đối xử công bằng như đồng nghiệp. Nếu bạn
bị bức hiếp, bạn được pháp luật che chở để lấy lại công bằng
cho bạn. Không có tiền trả luật sư, bạn được quan toà chỉ định
luật sư bào chữa miễn phí. Và ngay cả những tội phạm đang bị
giam cầm cũng được luật pháp Mỹ che chở. Như thế, nước Mỹ tốt
đẹp và tình người cao cả quá. Đúng không? Nhưng bạn không phải
yêu nước Mỹ.

*G / Còn nhiều chuyện khác nữa cho lợi ích của bạn* nhưng người
viết chỉ kể ra đây những điều căn bản cần thiết. Qua những điều
vừa kể ra, bạn có đồng ý với tôi là không nhiều nơi trên thế
giới, chính quyền lại đối xử với người nhập cư tốt như nước Mỹ
và bạn đã may mắn được nhập cư vào Mỹ và sống trên nước Mỹ.
Đúng không? Nhưng bạn không phải yêu nước Mỹ.

*H / Người viết nhắc nhiều lần câu: "Nhưng bạn không phải yêu nước
Mỹ."* bởi vì, dù sai hay đúng, tốt hay xấu, tình cảm của con
người là những cảm nghĩ rất riêng, rất độc lập, bất khả xâm
phạm và xuất phát tự trái tim của họ. Nhất là với tình yêu
thiêng liêng mỗi người dành cho nơi họ sanh hay nơi họ sống. *Đó
là MỘT TÌNH YÊU TỰ HIẾN VÀ TỰ NGUYỆN DO BẢN CHẤT, DO Ý THỨC, DO
SỰ TRƯỞNG THÀNH, DO LÒNG BIẾT ƠN, DO LƯƠNG TÂM, DO ĐẠO ĐỨC, GIÁO
DỤC VÀ LIÊM SỈ CỦA MỖI CON NGƯỜI, KHÔNG AI CÓ THỂ YÊU NƯỚC
GIÚP AI HAY BẮT BUỘC AI YÊU NƯỚC CẢ*. Vì thế, dù bạn sống ở Mỹ,
hưởng mọi phúc lợi của công dân Mỹ, Nhưng bạn không phải yêu nước
Mỹ, *TRỪ KHI BẠN TỰ NGUYỆN VÀ TỰ HIẾN.*

*Tình Yêu là gì?* Không ai nhìn thấy *TÌNH YÊU* nó hình thể
gì, màu sắc gì nhưng người ta lại dễ dàng nhận ra Tình Yêu khi
nó được thể hiện bằng hành động. Người mẹ nuôi nấng, dạy
dỗ, săn sóc con cái chu đáo, hy sinh cả đời mình cho con vì bà
* YÊU CON* bà. Người Lính can đảm xông lên trước mũi súng quân thù,
dù biết rằng đó là phút giây sinh tử nhưng để bảo vệ từng tấc
đất quê hương, người lính ấy đã không ngần ngại vì Người
Lính đó *YÊU QUÊ
HƯƠNG*. Lại có những người hy sinh mạng sống mình trên đất nước
của dân tộc khác để ngăn chặn những tai họa, những chết chóc,
bất công cho người không cùng chủng tộc. Vì một mục đích nhân bản
hay lý tưởng tốt đẹp, họ đã làm thế và gọi chung là *TÌNH YÊU
NHÂN LOẠI. * Như *Mẹ TERESA, Mẹ đã đem TÌNH YÊU THIÊN CHÚA VÀ TÌNH
YÊU GIỮA CON NGƯỜI VÀ CON NGƯỜI* đến những căn nhà ổ chuột, những
nơi nghèo hèn dơ dáy, đã dùng bàn tay bác ái của Mẹ an
ủi, thương yêu săn sóc bao nhiêu người ốm đau thương tật, thân thể
đã bốc mùi hôi thúi mà ai cũng sợ nhìn vào. Những TÌNH YÊU ấy
không ai bắt buộc hay xin xỏ mà chỉ được thể hiện bằng *TÌNH YÊU
TỰ NGUYỆN VÀ TỰ HIẾN.*

Ở đây, mục đích của bài viết này, người viết chỉ mong
rằng, bạn không cần phải yêu nước Mỹ nhưng xin bạn đừng vô tình
hay cố ý làm tổn thương nước Mỹ, một đất nước đã cưu mang bạn,
giúp cho bạn mọi phương tiện, mọi cơ hội để bạn vươn lên sống
cuộc đời tươi đẹp mà nhiều người trong nhiều quốc gia trên thế
giới ước ao.

*Thế nào là làm nước Mỹ tổn thương. Ví dụ vài trường hợp điển
hình:*

*1 / Đi làm lấy tiền mặt, trốn thuế.* Chỉ cách cho những người
khác cách làm giống bạn, kể cả việc bắt chước người khác khai
gian các chương trình phúc lợi của chính phủ để nhận những giúp
đỡ mà bạn chưa thực sự cần hay không cần đến.

*2 / Móc nối, tiếp tay đưa những ca sĩ gốc VC từ VN qua mở "phòng
trà" *tại nhà bạn, xong, giới thiệu ca sĩ này với bạn bè của
bạn để cứ như dây chuyền, cả hơn chục năm nay, những ca sĩ đỏ đó
lần lượt chui từ nhà này đến nhà khác, từ tiểu bang này đến
tiểu bang kia nơi có người việt cư ngụ để hát hò. Các ca sĩ đỏ
này đã gom nhiều ngàn dollars xanh của Mỹ ngon ơ, không đóng
thuế. Về VN, những ca sĩ này tiếp tục hát Mừng Ngày Giải
Phóng. (Mai Khôi là một trường hợp, xin xem trong link dưới đây)

Hoá kiếp cô đơn - chào mừng ngày giải phóng. Ban nhạc The Mai Khôi sẽ hát
tại Yoko cafe lúc 8:30pm ngày 6/5. | By Do Nguyen Mai Khoi | Facebook
<https://www.facebook.com/mai.khoi.official/videos/1703447143243248/?fallback=1>

41K views · 377 reactions | Hoá kiếp cô đơn - chào mừng ngày giải phóng....

Hoá kiếp cô đơn - chào mừng ngày giải phóng. Ban nhạc The Mai Khôi sẽ hát
tại Yoko cafe lúc 8:30pm ngày 6/5..
<https://www.facebook.com/mai.khoi.official/videos/1703447143243248/?fallback=1>


[image: 5535 2 MaiKhoiSCDNN]


*3 / Môi giới, tiếp tay che đậy cho những việc làm trái luật
pháp *quy định như du lịch rồi trốn ở lại, lấy chồng lấy vợ
giả, du học giả (chạy xin giấy du học nhưng sang Mỹ đi làm nail,
bồi bàn tại các tiệm, các nhà hàng ăn chủ là người Việt) .
Chuyển tiền chui nhiều chục ngàn về VN (người ở đây đưa tiền cho
người sang du lịch và gia đình người du lịch ở VN giao tiền cho
người nhà của người ở đây tại VN với hoa hồng đáng kể....)
Một hai người làm như vậy, tưởng chẳng can hệ nhiều nhưng
chục người, trăm người và nhiều trăm người làm như vậy thì sự
thiệt hại của nước Mỹ sẽ ra sao? Ấy là chưa nói đến việc làm
thế là lợi cho VC.

*4 / Nếu bạn có căn nhà đẹp,* có khoảng sân cỏ mướt khang trang,
một ngày có một nhóm người từ nơi khác đến, bất chấp luật lệ,
tài sản của ai, họ nhảy qua hàng rào vào trong sân nhà bạn.
Quậy phá đã, đám người đó lại phá cửa nhà bạn, tràn vào trong
nhà, đập phá bàn thờ, đồ đạc của bạn, hành hung người nhà
của bạn. Bạn sẽ phản ứng thế nào? Hãy thành thật mà trả lời
rằng bạn sẽ làm tiệc hoan hỉ đãi họ, mời họ ở lại trong nhà
để họ tiếp tục đập phá và hành hung cha mẹ vợ con bạn và ngay
cả bạn nữa hay bạn đuổi họ ra, để bảo vệ an ninh cho bản thân và
gia đình bạn ?

*5 / Nếu bạn nói rằng bạn vì tình nhân loại*, vì lòng nhân
ái mà bạn mời nhóm người này ở lại trong nhà bạn để họ tiếp
tục hành hung người của gia đình bạn và đập phá mọi thứ trong
nhà bạn thì một là bạn nói dối, hai là đầu óc bạn có vấn đề,
không biết phân biệt tốt, xấu, đúng sai. Nếu thế, nơi bạn cần
đến ở là bịnh viện tâm thần, không phải là căn nhà bình thường
với một gia đình bình thường như thế nữa.

*6 / Còn nếu bạn nhất quyết phải đuổi những kẻ dữ tợn vô kỷ
luật* và hung ác này ra khỏi nhà bạn để bảo vệ an ninh cho gia
đình bạn được sống bình yên thì *Tổng Thống Donald* Trump, người
đã vào tòa Bạch Ốc bằng những phiếu bầu theo đúng hiến pháp
và luật pháp Hoa Kỳ và sự chọn lựa của dân chúng, đang
làm nhiệm vụ cao cả ấy để giữ an ninh cho mọi người công dân nước
Mỹ, trong đó có bạn và tôi. Bạn không cần phải yêu nước Mỹ nhưng
bạn nên yêu chính bạn và gia đình bạn bằng cách là không a tòng
với kẻ bịnh hoạn, ích kỷ, thiếu tự chế, tự trọng mà làm loạn
thêm nữa. Hãy để yên cho ông Trump làm nhiệm vụ, làm bổn phận *MỘT
NGƯỜI CHỦ NHÀ BIẾT BẢO VỆ GIA ĐÌNH, CHÒM XÓM. MỘT TỔNG THỐNG
BIẾT BẢO VỆ NỀN AN NINH QUỐC GIA, BIẾT YÊU NƯỚC MỸ, YÊU NHÂN DÂN
MỸ* của ông.

*7/ Bạn không cần phải yêu nước Mỹ nhưng bạn chỉ cần yêu gia đình
bạn*, yêu bản thân bạn như người viết đã trình bày. *Được thế,
những người Mỹ Yêu Nước Mỹ và người viết, sẽ cảm ơn bạn vô
cùng.*

*Song Châu Diễm Ngọc Nhân *


*Ngày nào vẫn còn đoàn quân mũ Đỏ...*

-
[image: Image en ligne]

[image: Image en ligne]
Thân gởi anh em hình ảnh thân thương của một thời chinh chiến, hầm chiến
đấu, nón sắt, súng M16, dây đạn, ống sạc đựng nước...
[image: Image en ligne]
Đương sự trên chốt đóng quân, vùng suối Ô Lâu, bắc Thừa Thiên, năm 1974.
------
Như một nén hương tưởng nhớ về trung úy Quách Giang, đại đội trưởng đại
đội 84, tiểu đoàn 8 Nhảy Dù. Sau khi trở về từ trại tù "cải tạo", trung úy
Quách Giang đã bị bắt lại khi chuyến vượt biên bị bại lộ. Và khi thực hiện
cú vượt trại không thành công, cánh đại bàng đã tự kết thúc cuộc đời của
mình ngay trong trại giam tù vượt biên.
------
Vào những ngày chớm xuân của năm 1975, tiểu đoàn 8 Nhảy Dù rút ra khỏi
vùng chạm tuyến sông Bồ, về đóng quân trên đèo Phú Gia.Phú Gia là một ngọn
đèo thấp, nằm ngay dưới chân đèo Hải Vân,hướng về phía cố đô, thuộc quận
Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên. Đại đội 84 giữ nhiệm vụ bảo vệ cho BCH tiểu đoàn,
từng trung đội rải chốt trên các đỉnh đồi, đào hầm hố củng cố hệ thống
phòng thủ. Anh em vươn vai thoải mái hít thở bầu không khí trong lành của
những ngày cận Tết, tạm quên đi những năm tháng chật vật nhọc nhằn trong
vùng chạm tuyến.
Đại úy Đồng văn Minh, đại đội trưởng đại đội 84 lên giữ chức vụ trưởng
ban 3 tiểu đoàn. Trung úy Quách Giang, một trung đội trưởng kỳ cựu của đại
đội 81, gốc Thiếu sinh quân, về nắm quyền chỉ huy đại đội 84.
Trung úy Quách Giang quê quán ở Buôn mê Thuột, người tầm thước, dáng vẻ
nhanh nhẹn, trong đêm tối anh em vẫn nhận ngay ra được trung úy Quách Giang
nhờ giọng nói khàn khàn đặc biệt. Trước đó vào dạo cuối năm 1974 trong trận
đánh ác liệt ở Thường Đức, Quảng Nam, các sĩ quan trung đội trưởng của tiểu
đoàn 8 Nhảy Dù không 1 người nào còn sống sót mà không lãnh mảnh đạn vào ng
ười. Trung úy Quách Giang được tải thương từ mặt trận về tổng y viện
Cộng Hòa điều trị vết thương, trại tổng quát 7 của tổng y viện Cộng Hòa
ngày ấy chật ních các thương binh của sư đoàn Nhảy Dù chuyển về từ mặt
trận Thường Đức.
Trung úy Quách Giang về nắm quyền đại đội trưởng đại đội 84, dưới trướng
là các trung đội:
- Trung đội 1: Thiếu úy Vũ đình Hải, tức Hải râu hoặc Hải đen, trung đội
trưởng.
- Chuẩn úy Phạm văn Hải, tức Hải nhỏ, phụ tá trung đội trưởng, từ tiểu
đoàn 11 ND bổ xung về tiểu đoàn 8 ND sau trận Thường Đức.
- Trung sĩ 1 Lê viết Hưng, trung đội phó.
- Trung đội 2: Thiếu úy Thanh, trung đội trưởng, từ tiểu đoàn 7 ND bổ
xung về tiểu đoàn 8 ND trong trận Thường Đức.
- Trung sĩ 1 Thao, trung đội phó.
- Trung đội 3: Thiếu úy Nguyễn minh Trung, trung đội trưởng.
- Chuẩn úy Lê văn Nam, phụ tá trung đội trưởng, từ tiểu đoàn 11 ND bổ
xung về tiểu đoàn 8 ND sau trận Thường Đức.
- Trung sĩ 1 Trần phục Quốc, trung đội phó.
-----
Chuẩn úy Phạm văn Hải dừng bước chân, lấy ra điếu thuốc châm lửa đốt:
- Hay là tụi mình vào quán kiếm chút gì ăn đi.
- Ừ, tôi cũng thấy đói bụng lắm rồi.
Cả 3 người băng qua bên kia đường. Ngay phía đầu của khu chợ Thừa Lưu là
một quán giải khát, phía bên ngoài treo một tấm biển đã ố vàng ghi dòng
chữ: có bán mì, hủ tiếu. Quán khá rộng, bên trong bày biện vài bộ bàn ghế,
trên vách tường treo vài bức tranh sơn thủy, mọi thứ có vẻ ngăn nắp, sạch
sẽ. Thấy có khách vào, người con gái đang lim dim trên chiếc ghế bố bỗng
choàng tỉnh dậy, cô ngượng ngùng đưa tay vuốt vội mái tóc, xốc lại vạt áo,
cô e ngại không biết lúc mình đang nằm ngủ, người khác có nhìn thấy điều gì
xấu xí trên thân thể của mình không.
- Chào thiếu úy, các thiếu úy cần dùng chi ạ?
Chuẩn úy Phạm văn Hải ngước mắt nhìn cô với vẻ không hài lòng:
- Ờ! ờ!... Tôi chỉ mới là chuẩn úy thôi. Cô đừng thăng cho tôi lên cố
thiếu úy như vậy chứ.
Cô gái hoảng hồn ấp úng:
- Xin lỗi, xin lỗi...
Phạm văn Hải cố tình làm cho lớn chuyện:
- Cô biết không, nhà binh có những điều kiêng kỵ mà đã là người lính thì
phải biết để tránh. Khi đi hành quân, người nào mà ăn thịt kỳ đà thì coi
như đã tới ngày tận số. Hoặc là những người mới cưới vợ nếu đi trận thì
phần lớn sẽ không có ngày trở về. Tôi cũng chẳng muốn lên cố thiếu úy đâu
cô ạ.
Cô gái lại càng hoảng sợ như mình vừa phạm phải tội sát sanh, giọng cô
như nài nỉ:
- Em, em... xin lỗi... anh.
Tiếng “anh” cô thốt ra thật nhỏ, chỉ loáng thoáng nhận ra. Phạm văn Hải
cười ha hả trong lòng khi thấy cá đã cắn câu, cứ ghép đại một tội lỗi nào
đó vào một người thì sẽ dễ dàng nắm phần chủ động. Cô gái xinh xắn quá, cô
có đôi mắt to của một con búp bê, làn da trắng mịn màng, vài nốt tàn nhang
nghịch ngợm trên đôi má, chiếc mũi cao đài các, thân hình cao ráo thon thả.
Cô gái cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng khi thấy chuẩn úy Phạm văn Hải nở
một nụ cười thật tươi:
- Cô ơi, quán có nhạc nghe cho đỡ buồn không vậy hở cô?
- Dạ có ạ, nhưng mà thiếu...
Cô kịp thời dừng lại, rồi nhanh nhẹn sửa chữa:
- Nhưng mà anh muốn nghe bản nhạc nào ạ?
Phạm văn Hải dùng những ngón tay gõ lên mặt bàn thành một điệu Rumba rồi
cất tiếng hát nho nhỏ:
- Qua một rừng hoang, gió núi theo sang giũ bụi đường trên vai...
Một thoáng mến phục hiện lên khuôn mặt của người con gái, nàng nhanh
nhẹn gật đầu:
- Có, bản “Hoa trinh nữ” này em thích lắm, để em mở các anh nghe. Nhưng
các anh uống gì cho em biết.
- Cô cho chúng tôi 3 tô mì trước nhé.
- Vâng, xin các anh chờ một lát.
Nàng quay vào bên trong, vài phút sau đã nghe tiếng hát Thanh Lan ngọt
ngào trong bản Hoa trinh nữ phát ra từ chiếc máy cassette.
Chuẩn úy Lê văn Nam nheo mắt cười:
- Thằng Hải nhỏ này chỉ thích... trinh nữ thôi.
Bỗng có tiếng nói từ bên trong nhà vọng ra:
- Hương ơi, lát nữa đi chợ nhớ mua thêm đường cát nghe con.
- Dạ mệ, con nhớ rồi.
Cô gái trở ra, đặt lên bàn 3 tô mì nóng hổi bốc khói.
Hải nhỏ ngước mắt lên nhìn cô:
- Hương ơi, có ớt cho tôi xin vài trái nha.
Hương giật mình kinh ngạc, luống cuống làm rớt chiếc thìa xuống đất:
- Trời, sao lại biết tên em...
Nàng cúi xuống nhặt chiếc thìa, từ trong cổ áo thoáng hiện ra một cõi
thiên thai, mềm mại một màu trắng trinh nguyên của phấn hoa với chút nụ
hồng, tròn trịa mịn màng, khiến người ta cảm thấy xao xuyến cả tâm can.
Bầu ngực no tròn tràn đầy sức sống ấy gợi lên cái đẹp đẽ nhiệm mầu nhất của
một đời con gái, như báu vật đặt ở chốn trang nghiêm trong tử cấm thành, tự
dưng cái tà ý vừa mới trỗi dậy đã biến mất ngay, người ta lặng lẽ chiêm
ngưỡng vẻ đẹp huyền diệu của tặng vật ấy một cách trang trọng hơn cả mớ
triết lý vụn có trên cõi đời này. Hương cầm chiếc thìa lên:
- Chờ em một lát, em đi lấy cái thìa khác.
Chính cái hồn nhiên vô tư, chẳng biết sự gì của Hương khiến cho người ta
có cảm giác đã phạm phải 1 tội lỗi, cái tội nhìn trộm 1 người con gái trong
trắng ngây thơ.
Sau khi đã dằn bụng bằng tô mì thơm phức, mọi người cảm thấy tỉnh táo
hẳn ra. Một hớp café đá vào buổi trưa trời đổ nắng sao mà thơm ngon đến
thế, lại 1 hơi thuốc Capstan khiến cho cuộc đời lâng lâng nhẹ bớt nỗi ưu
phiền. Một bà bác, mái tóc đã điểm sương, từ trong nhà bước ra. Bà bác tiến
đến gần khiến 3 người vội vã cất tiếng chào:
- Chào bác!
Bà bác vội xua tay:
- Các cậu cứ tự nhiên cho. À, buổi ăn uống hôm nay là tôi đãi các cậu đó
nghe, đừng e ngại gì cả.
Hắn cảm thấy không được an lòng nên cất tiếng:
- Thưa bác, bác cứ để chúng cháu trả tiền, nếu không lần sau chúng cháu
sẽ chẳng dám ghé vào đây nữa đâu.
Bà bác nhìn lên cổ áo của hắn, cười cười:
- Thì ra cậu là thiếu úy, cậu là cấp chỉ huy của hai cậu chuẩn úy này
phải không?
Hắn vội vã thanh minh thanh nga:
- Dạ không phải như thế, tụi cháu đều là bạn bè cùng chung một đại đội,
cấp chỉ huy của chúng cháu là một ông trung úy cơ ạ.
Bà bác kéo một chiếc ghế, chậm rãi ngồi xuống, bà nhìn 3 người lính với
ánh mắt thật dịu dàng:
- Đã lâu lắm rồi tôi mới được nhìn lại màu áo hoa dù này. Các cậu biết
không, tôi rất quí mến những người lính Nhảy Dù như các cậu.
3 anh em cảm thấy bỡ ngỡ trong lòng. Ánh mắt bà bác đăm chiêu hồi lâu,
và rồi như lui dần vào quá khứ:
- Hồi tết Mậu Thân, tôi về Huế chúc tết gia đình và kẹt lại ở đó giữa
lúc chiến trận xảy ra ngay bên trong thành phố. Tôi cứ đinh ninh rằng phố
Huế đã lọt vào tay địch quân và sẽ không bao giờ lấy lại được nữa, vì địch
đã làm chủ thành phố hơn một tuần lễ, họ đông lắm, vác súng đi ngờ ngờ trên
đường phố, lúc ấy tôi không biết quân của mình ở đâu, tôi không thấy ai cả.
Thật là đau đớn, thật là tuyệt vọng. Nhưng rồi được tin Nhảy Dù đang về cứu
lấy Huế thân yêu của chúng tôi ra khỏi tay địch quân, nghe tin ấy chúng tôi
mừng đến chảy nước mắt. Chúng tôi nắm chặt tay nhau như truyền hơi ấm, chắc
chắn một điều là Nhảy Dù sẽ chiếm lại Huế cho chúng tôi, thật là cám ơn
trời phật chúng ta vẫn còn có một đạo quân tinh nhuệ, thiện chiến vô song.
Buổi sáng hôm ấy tôi đã chứng kiến tận mắt những người lính Nhảy Dù, họ
chia làm nhiều toán nhỏ và xung phong vượt qua cây cầu. Địch quân bắn ra dữ
dội lắm, nhưng hình như những người lính Nhảy Dù không màng đến chuyện tử
sinh, họ vừa bắn vừa xung phong, người này ngã xuống người kia tiếp tục
xông lên. Chúng tôi khóc rống lên khi thấy những người lính Nhảy Dù trúng
đạn ngã xuống không đứng dậy được nữa, chúng tôi chấn động cả tâm can khi
chứng kiến những người lính Mũ Đỏ vô cùng dũng cảm, họ xông lên kiên cường
như không có gì cản nổi. Cuối cùng những người lính Nhảy Dù hào hùng ấy đã
chiến thắng, họ đã quét sạch địch quân ra khỏi thành phố, họ đã dành lại
được Huế thân yêu cho chúng tôi. Từ đó chúng tôi nhận rõ ra được một điều,
ngày nào vẫn còn đoàn quân Mũ Đỏ thì Huế của chúng tôi sẽ không bao giờ bị
mất.
Câu chuyện dường như ngủ yên đã lâu trong lòng bà bác nay mới có dịp thổ
lộ ra ngoài. Những người lính Nhảy Dù năm xưa đã vô tình viết lên những cảm
tình sâu sắc vào trái tim của người dân xứ Huế, nét mực như vẫn còn mới
nguyên trong tâm khảm của bà bác.
Hương ngồi xa xa trên một chiếc ghế cao, nàng lắng nghe câu chuyện mẹ kể
mà thấy xuyến xao trong lòng, tự dưng ánh mắt của nàng ngập ngừng như muốn
đi tìm ai, và nàng bỗng cảm thấy hai má hồng lên khi chạm phải đôi mắt của
chuẩn úy Phạm văn Hải cũng đang say sưa nhìn nàng không chớp mắt.
Tiếng nói cười rộn rã của hai người con gái trước thềm nhà khiến bà bác
ngừng câu chuyện, nghiêng người nhìn ra cửa:
- Thủy đã về rồi hở con?
Thủy vừa bước vào nhà vừa trả lời mẹ:
- Dạ mệ, con rủ Diệu sang nhà mình ăn cơm cho vui đó mệ.
Chợt thấy 3 người lính đang ngồi bên trong, Thủy ngạc nhiên một thoáng
rồi vui vẻ cất tiếng chào hỏi ngay:
- Chào các anh.
3 anh em nhìn Thủy biết ngay là chị của Hương, cũng sống mũi cao, những
nốt tàn nhang trên khuôn mặt, và cũng dáng người thon cao.
- Chào hai cô.
Diệu mắc cở hơi cúi đầu, mắt không dám nhìn thẳng, nàng đi tuốt vào nhà
trong. Diệu nhút nhát và hiền lành lắm, khuôn mặt đẹp phúc hậu với đôi mắt
buồn bâng quơ. Huế là của Diệu với giòng Hương Giang mãi mãi trôi êm đềm
trong ký ức, Diệu là của Huế với âm vang thánh thót như tiếng chim non líu
lo, đã nghe con gái Huế trò chuyện một lần thì suốt đời sẽ chẳng bao giờ
quên được.
Sau lần ấy, chuẩn úy Phạm văn Hải thường hay vắng mặt ở vị trí đóng
quân. Hôm nay hắn nhận được lệnh của trung úy đại đội trưởng Quách Giang,
trung đội sẽ đi lục soát từ đèo Phú Gia ra đến tận bờ biển. Trung sĩ 1
trung đội phó Lê viết Hưng đã thông báo cho các tiểu đội chuẩn bị cơm nước
sớm sủa, súng đạn sẵn sàng.
Chuẩn úy Phạm văn Hải móc gói thuốc ra mời với nụ cười gượng gạo:
- Hải ơi, hôm nay tôi lỡ hẹn với cô Hương đi ra Huế xem phim, có gì nhờ
ông che dùm cho nhé.
- Bạn cứ tự nhiên, không có gì phải lo lắng. Nếu không gấp thì làm một
hớp café rồi hẵng đi.
Hắn vói tay lấy thêm một cái ly rồi chia phần café cho bạn, hớp café đầu
tiên của buổi sớm mai bao giờ cũng tuyệt vời nhất.
Điểm danh quân số xong, anh em súng đạn gọn gàng, xếp hàng dọc bắt đầu
tuột xuống chân đèo. Trần minh Hồng gọi máy về đại đội, thông báo trung đội
đã bắt đầu di chuyển. Trung đội di chuyển dọc theo quốc lộ 1 về hướng bắc
khoảng vài cây số thì rẽ phải, anh em trải rộng đội hình ra hai bên con
đường đất, đi vòng cung dưới chân đồi của một căn cứ pháo binh. Những nòng
súng đen ngòm thấp thoáng sau những ụ súng chất đầy bao cát. Bụi đỏ vui
mừng tung bay trùm lên đoàn quân khi một chiếc GMC chạy qua, rồi hể hả nhìn
theo đoàn quân đang cau có lầm lũi bước đi. Địa thế nơi đây thật trống
trải, một giải đất mênh mông bằng phẳng trải dài mãi ra tới bờ biển, thỉnh
thoảng mới thấy một vài khóm nhà thưa thớt. Suốt lộ trình lục soát không
thấy có dấu hiệu nào khả nghi. Đến buổi xế chiều trên đường trở về, trung
đội dừng chân nghỉ ngơi gần một khóm dân cư chỉ độ chừng dăm bảy căn nhà
mái lá. Hắn nhìn vào thấy dưới mái hiên có 2 em bé đang tươi cười nhìn ra
đầu ngõ. Đôi mắt của trẻ thơ lóng lánh tròn trịa như 2 viên bi ve khiến hắn
nhớ đến các em của hắn đang ở nhà, giờ này đã vào những ngày cận tết, có lẽ
trường lớp cũng đã đóng cửa để chuẩn bị đón Xuân. Hắn bước vào trước thềm
nhà, đưa tay ra dấu thân thiện, hai chị em cũng ngước mắt tươi cười nhìn
lên. Hắn thấy bàn tay nhỏ bé của đứa chị có 6 ngón tay, bên cạnh ngón tay
út lại mọc thêm một ngón tay nho nhỏ nữa. Hắn hỏi thăm, trò chuyện một lát
rồi móc túi lấy ra ít tiền lì xì cho hai đứa, hắn chẳng bao giờ quên được
ánh mắt mừng rỡ sáng ngời của hai đứa bé, bởi vì còn có cả một trời ngạc
nhiên trong ánh mắt thơ ngây ấy.
Trung đội về đến vị trí đóng quân trên đèo Phú Gia thì trời đã nhá nhem
tối, anh em nhóm lửa chuẩn bị cho bữa cơm tối. Ráng chiều tắt lịm dần trên
vùng đồi núi mênh mông, tiếng chim gọi đàn tan tác trong rừng cây mà vẫn
chưa thấy chuẩn úy Phạm văn Hải trở về. Đã sắp đến giờ lên máy báo cáo quân
số về BCH đại đội, hắn thấy thấp thỏm trong lòng, đứng trên mỏm đồi cao
dóng mắt nhìn xuống chân đèo, con đường nhựa đã lờ mờ không còn nhìn thấy
rõ. Bỗng hắn thấy thấp thoáng một bóng người đang len lỏi qua những lùm
cây, hắn chợt thấy nhẹ cả người khi nhận ra chiếc mũ lưỡi trai.
Hải nhỏ ngồi phịch xuống chiếc thùng đạn đại liên, lột nón, đưa tay quệt
mồ hôi trên trán:
- Mệt quá, cũng may còn đón kịp chuyến xe chót, ở nhà có gì lạ không vậy?
- Bình thường thôi.
- Trung đội đi lục soát có thấy gì không?
- Như 1 buổi đi du ngoạn,bạn đi Huế chơi có vui không?
Hải nhỏ tươi tắn buột miệng:
- Vui lắm, cặp đùi của Hương thật là tuyệt vời.
Hắn im lặng nhìn lên khuôn mặt của Hải nhỏ, rồi nhìn ra ngoài căn lều,
trời đã tối đen như mực.

****
Thời gian tiểu đoàn 8 Nhảy Dù đóng quân trên vùng đèo Phú Gia tuy ngắn
ngủi nhưng cũng kịp để se duyên cho một đôi uyên ương. Binh 1 Trần Thành,
xạ thủ đại liên của trung đội 3, đại đội 84, đã không còn giữ trọn vẹn được
trái tim xa quê hương nhớ mẹ hiền.
Bây giờ thì ngày cũng như đêm, lúc nào chàng cũng nhớ nhung đến một
người con gái xứ Huế có giọng nói thánh thót ríu rít như tiếng chim non.
Giọng nói ấy tuy mềm mại nhưng đằm thắm và mạnh mẽ hơn bất cứ loại rượu
mạnh nào. Trần Thành đã say khướt men tình, chàng khật khưỡng leo lên đồi
đóng quân của BCH tiểu đoàn, nộp đơn xin cưới vợ.
Ban 3 tiểu đoàn từ xưa tới nay chỉ chuyên vạch ra các kế hoạch hành
quân,bỗng lúng túng khi nhận được một tờ đơn xin cưới vợ kỳ cục như thế
này, thôi thì đành phải họp tham mưu giúp cho em út một phen. Trung úy Hà
mai Trường, người cao ráo đẹp trai lại ăn nói có duyên, được đề cử đại diện
cho đơn vị, hướng dẫn một phái đoàn đến nhà gái xin cầu hôn. Ngày hôm ấy đã
đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trong cuộc đời lãng tử của Trần Thành.
Người chiến binh Nhảy Dù khi bước lên máy bay bao giờ cũng phải mang đủ
một cặp dù trên người, một dù bụng, một dù lưng. Nay Trần Thành chỉ còn giữ
lại cho mình một chiếc dù lưng, chiếc dù bụng chàng đã thân ái chia lại cho
người bạn đời của mình. Từ nay đôi bạn sẽ sống chết nương tựa vào nhau, nếu
có nhảy dù thì cũng phải ôm chặt lấy nhau mà nhảy.
Đầu năm 1975, sư đoàn Nhảy Dù thành lập thêm lữ đoàn 4. Cũng như các
tiểu đoàn bạn, tiểu đoàn 8 Nhảy Dù lấy ra một số quân nhân đưa về Sài Gòn
đóng góp cho lữ đoàn tân lập. Lữ đoàn 4 tân lập gồm toàn các chiến binh kỳ
cựu, từ sĩ quan chỉ huy cho tới các tay súng trong từng tiểu đội đều được
tuyển chọn về từ các tiểu đoàn tác chiến.
Hắn được lệnh lấy ra 5 quân nhân trong trung đội để đưa về đơn vị mới,
hôm ấy ngồi trên chốt trung đội, cầm tờ giấy trên tay mà hắn cứ phân vân
mãi, biết chọn ai vào danh sách để gởi đi, anh em sống chung trong một
trung đội đã lâu, tình chiến hữu theo ngày tháng đã gắn bó thân tình. Thiếu
úy Nguyễn minh Trung, trung đội trưởng trung đội 3, cũng có tên trong danh
sách về lữ đoàn 4, chuẩn úy Lê văn Nam lên thay thế giữ quyền chỉ huy trung
đội. Buổi chiều hôm ấy đứng bên lề quốc lộ 1 trên đèo Phú Gia, thiếu úy
Nguyễn minh Trung cởi chiếc áo field jacket của mình trao lại cho chuẩn úy
Phạm văn Hải:
- Bạn ở lại đây cần chiếc áo này hơn tôi, nắng Sài Gòn bao giờ cũng ấm
áp, tạm thời tôi không cần dùng đến nữa.
Vào thời điểm ấy, BCH tiểu đoàn 8 Nhảy Dù có nhiều thay đổi:
- Trung tá Đào thiện Tuyển vẫn giữ quyền chỉ huy tiểu đoàn 8 ND.
- Thiếu tá Nguyễn văn Phương, tiểu đoàn phó, đã phục vụ tại tiểu đoàn 8
ND một thời gian ngắn, nay thuyên chuyển về tiểu đoàn 2 ND giữ chức vụ tiểu
đoàn phó.
- Thiếu tá Nguyễn viết Thanh, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn khóa sinh Vương
mộng Hồng về giữ chức vụ tiểu đoàn phó tiểu đoàn 8 ND.
- Thiếu tá Trần cao Khoan,trưởng ban 3, thuyên chuyển về tiểu đoàn 15 ND
để giữ chức vụ tiểu đoàn phó.
- Đại úy Đồng văn Minh, đại đội trưởng đại đội 84 lên giữ chức vụ trưởng
ban 3 tiểu đoàn.
- Trung úy Quách Giang, trung đội trưởng thâm niên của đại đội 81 về nắm
quyền đại đội trưởng đại đội 84.
- Trung úy Hà mai Trường, đại đội trưởng đại đội 80.
- Trung úy Ngô Huệ, đại đội trưởng đại đội 81.
- Trung úy Trần đình Ngọc, đại đội trưởng đại đội 82.
- Đại úy Phạm văn Hiệu, đại đội trưởng đại đội 83.
Đoàn quân bổ sung về lữ đoàn 4 đã ra đi được hơn một tuần lễ, bất ngờ
vào một buổi trưa có lệnh từ BCH tiểu đoàn, chuẩn úy Phạm văn Hải mang ba
lô súng đạn trình diện ban 3 tiểu đoàn gấp. Sau đó có tin Phạm văn Hải đã
rời khỏi tiểu đoàn 8 ND, Hải nhỏ ra đi thật bất ngờ, không kịp nói lời từ
giã với anh em trong trung đội.
Cái tết năm 1975 thoáng qua thật nhanh, không để lại một dấu vết nào
trên vùng đèo Phú Gia, hắn có cảm giác năm 1975 vắng hẳn một mùa xuân. Sau
tết, tiểu đoàn 8 Nhảy Dù về trung tâm huấn luyện Đống Đa thao dợt lại khả
năng chiến đấu. Ban ngày các đại đội di chuyển ra bãi tập tham dự các buổi
huấn luyện do các huấn luyện viên của trung tâm huấn luyện Đống Đa phụ
trách. Vào một buổi chiều, khi thực tập bài học di chuyển dưới hỏa lực, anh
em Nhảy Dù đang bò sát dưới đất, ngay trên đầu là những loạt đạn đại liên
bắn liên tục không ngừng. Bỗng dưng anh em Nhảy Dù rủ nhau đứng dậy, thả bộ
tà tà đi tới phía trước họng súng. Tiếng súng đột nhiên ngưng bặt, từ trên
ụ bắn có tiếng hoảng hốt chửi bới om sòm:
- Trời ơi! Đ.m. muốn chết hay sao chớ?
Viên sĩ quan huấn luyện viên mặt tái xanh không còn một giọt máu, vừa
sợ, vừa tức, khi nhìn những khuôn mặt đang híp mắt lên cười hềnh hệch.
- Trời ơi, các anh làm cái gì vậy hả? May mà không có ai trúng đạn.
- Bảo đảm hổng có sao đâu Trung úy.Tụi tui thấy hướng đạn bắn ra từ một
góc cố định, tụi tui bước né qua một bên thì hổng có sao hết trơn.
Sau cơn hoảng vía, viên trung úy định thần lại và chợt hiểu ra, các ổ
súng đại liên trên đài tác xạ đã được gắn chết vào một vị trí, tầm và hướng
không thay đổi được.
Những buổi huấn luyện trong TTHL Đống Đa thật ra rất thoải mái, khoẻ
khoắn như những buổi đi cắm trại ngoài trời. Làm sao so sánh được với những
ngày tháng khổ nhục còn hơn con chó, thời tiểu đoàn còn đóng quân ở vùng
núiYên Bầu,hàng ngày anh em phải chui vào rừng chặt tranh tre tràm đem về
nộp cho tiểu đoàn trưởng.
Buổi tối về đến doanh trại, tắm rửa sạch sẽ thơm tho, ăn cơm nhà bàn no
bụng, chẳng lẽ lại nằm chèo queo, thật là uổng phí đời trai. Trước cổng
TTHL Đống Đa lúc nào cũng có 2 ông kẹ của ban 2 tiểu đoàn ứng trực, dù ra
ngoài bằng phía bên hông chắc ăn hơn. Mấy lớp hàng rào chung quanh TTHL có
nhằm nhò gì, anh em kiếm đâu ra được một tấm ván dài, thả lên trên lớp kẽm
gai rồi bước lên, thiệt là êm hết biết, tới lớp hàng rào cọc sắt cao hơn
đầu người, anh em đào trốc gốc thành một cái vòm, con voi chui qua cũng lọt.
Chạy dọc theo lớp hàng rào là một giải đất trống có cắm những tấm biển
sơn chữ “mìn”, anh em đi tới đi lui muốn trụi lủi mà có thấy trái mìn nào
nổ đâu. Ra tới quốc lộ 1, rẽ sang bên phải vài trăm thước là đã thấy nhấp
nháy ánh đèn xanh xanh đỏ đỏ của thị trấn Phú Lương, café bia rượu thôi thì
không thiếu một thứ nào. Ăn uống đã no say thì tìm đường rút về láng trại,
làm một giấc tới sáng để ngày mai còn đi bãi, sáng ngày mai điểm danh mà
vắng mặt thì e rằng đầu sẽ không còn sợi tóc nào để mà chải.
Trong thời gian hâm nóng ở TTHL Đống Đa, tiểu đoàn 8 Nhảy Dù tiếp nhận 1
số quân nhân từ quân lao bổ sung về. Trung đội 1 của đại đội 84 nhận 7
người, có 2 người đã lớn tuổi, đó là Diên và Ưu, những người còn lại đều
trẻ tuổi, trong đó có Sơn, Lộc, Nghĩa và Thương. Những ngày đầu mới về
trung đội, anh em chưa quen với nề nếp sinh hoạt của Nhảy Dù nên lè phè
lắm. Thổi còi tập họp 10 phút sau mới thấy chạy ra, quần ống cao ống
thấp,dây giày chưa cột,áo còn chưa cài hết nút, mà vẫn cười nói ồn ào như
cái chợ. Anh em bỗng khựng lại khi nhìn thấy trung đội đã hàng ngũ chỉnh tề
từ lúc nào, 4 hàng ngang bênphải làm chuẩn,im phăng phắc không một tiếng
sột soạt. Trung sĩ 1 trung đội phó gầm lên:
- Đ.m, thằng nào ra trễ bước qua một bên cho tao.
Anh em riu ríu đứng xích ra một bên, hồi hộp lo âu, nhìn những khuôn mặt
lầm lì khó chịu của anh em cựu binh đã thấy ớn, rồi chạm phải tia mắt dữ
dội của trung đội phó thì tự dưng thấy muốn nghẹt thở.
- Tao không cần biết tụi bây trước kia ở đơn vị nào, hễ đã tình nguyện
về Nhảy Dù thì phải khép mình vào kỷ luật của Nhảy Dù, thằng nào không chịu
nổi thì đào ngũ đi, giờ này vẫn còn kịp.Tụi bây phải nhìn những anh em cũ,
người ta sinh hoạt như thế nào thì bắt chước theo...
Anh em tiu nghỉu buồn so khi bị trung sĩ 1 trung đội phó sỉ vả cho một
trận tơi bời. Thời gian sau, những con ngựa hoang từ khắp xứ đổ về đã dần
dần gò mình vào cái vòng kim cô, đã được thuần hóa để trở thành những con
ngựa chiến, sẵn sàng yên cương cho những trận giáp chiến sống mái với địch
quân trên chiến trường.
Tinh thần tự nguyện về Nhảy Dù và kỷ luật của binh chủng đã là xi măng
và cốt sắt, hai thứ vật liệu này trộn chung với nhau thành một khối bê tông
vô cùng vững chắc, khó có gì xô ngã nổi. Nhờ đó người lính Nhảy Dù đã sở
hữu được một tinh thần chiến đấu ngoan cường, cho dù có mất liên lạc với
cấp chỉ huy, đơn vị vẫn chiến đấu độc lập một cách vững vàng.
Hôm nay các đại đội di chuyển ra bãi tập như thường lệ. Huấn luyện viên
vừa chấm dứt bài học, anh em đứng dậy vươn vai, ưỡn lưng cho dãn xương
sống, những tia lửa Zippo rộn ràng nhấp nháy mồi vào đầu điếu thuốc. Bỗng
có tiếng đạn đại bác nổ dữ dội, những cụm khói bốc lên ngay trong bãi tập,
địch pháo kích vào trung tâm huấn luyện Đống Đa. Đạn pháo rơi rải rác trên
một diện tích rộng mênh mông của bãi huấn luyện, anh em thoải mái đứng nhìn
những cụm khói lẫn với đất đá bắn tung lên trông thật vui mắt. Một lát sau,
toàn bộ tiểu đoàn được lệnh trở về doanh trại trong TTHL Đống Đa, anh em
dùng cơm trưa trong lúc các đại đội trưởng cầm bản đồ lên BCH tiểu đoàn họp
hành quân.
Tin hành lang cho biết đangcó giao tranh trên núi Bông, núi Nghệ, núi Mỏ
Tàu, là những cao điểm nằm trên vòng đai bảo vệ an toàn cho thành phố Huế,
được trấn giữ bởi các đơn vị thiện chiến của sư đoàn 1 Bộ Binh. Trung
úy đại đội trưởng Quách Giang trở về đại đội với lệnh hành quân khẩn cấp,
địch quân đã xâm nhập về quận Hương Thủy, đài phát thanh Thanh Lam đang bị
đe dọa, tình hình khá nguy ngập vì địch đã tiến rất gần, chỉ còn cách đài
phát thanh vài cây số. Một đoàn quân xa của đơn vị bạn trên đường di chuyển
đã lọt vào ổ phục kích của địch.
Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù nhận lãnh trách nhiệm quét sạch địch quân ra khỏi
quận Hương Thủy. Ba lô súng đạn đã giá thành hàng trên sân cờ,đoàn xe quân
vận vừa dừng bánh thì trong chớp mắt anh em đã nhảy gọn gàng lên xe, họng
súng chỉa ra hai bên đường, khẩu đại liên M60 đặt lên mui xe chồm ra phía
trước, đạn đã lên nòng. Đoàn xe quân vận mở ga phóng nhanh trên quốc lộ 1
hướng về quận Hương Thủy, phải chạy đua với thời gian để ngăn chặn địch
trước khi họ kịp tấn chiếm đài phát thanh Thanh Lam.
Đoàn xe rẽ vào một con đường nhỏ, chạy qua khỏi đài phát thanh một đoạn
rồi dừng lại, đổ quân xuống ven đường.Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù nhanh chóng dàn
thế trận, địch quân đang im lìm chờ đợi từ phía bên kia con sông Lợi Nông.
Bộ chỉ huy tiểu đoàn nằm lại bên này sông. 4 đại đội tác chiến đã vào vị
trí xuất phát. Đại đội 84 do trung úy Quách Giang chỉ huy được lệnh di
chuyển cặp theo bờ sông về phía bên phải, sau đó sẽ vượt sông đánh vào cạnh
sườn. Các trung đội của đại đội 84 án ngữ bên này bờ sông chờ đợi, anh em
ẩn mình vào những lùm cây dọc theo con đường mòn. Ngay khi nhận được lệnh
vượt sông, những người lính của đại đội 84 vừa băng xuống dòng sông thì
địch bắt đầu khai hỏa, đạn AK bắn ra từ phía sau một chiếc xe máy cày, và
từ những căn nhà sau lũy tre làng.
Trung đội còn ở trên bờ sông lập tức bắn xối xả sang bên kia ngăn không
cho địch ngóc đầu lên, trung đội đã chạm nước thì cố gắng lội nhanh sang
bên kia sông, nước sâu đến đầu gối, có chỗ ngập lên tới ngực. Khi anh em
bám được vào giải đất bên kia sông và bắt đầu xung phong thì địch quân bỏ
chạy, trung đội bung ra giữ vững vị trí đầu cầu để toàn bộ đại đội sang
sông an toàn. Trung úy Quách Giang điều động các trung đội thọc sâu vào
làng. Khi trung đội 1 vượt qua khỏi xóm nhà thì một cánh đồng trống hiện ra
trước mắt, bên kia cánh đồng thấp thoáng những mái nhà sau lũy tre xanh,
bầu không khí im ắng ngột ngạt. Ẩn náu sâu trong tình thôn xóm ấy, địch
đang kín đáo dàn quân chờ đợi. Hắn nhận được lệnh áp sát vào làng, trung
đội di chuyển dọc theo bờ ruộng, giữ khoảng cách rất thưa vì địa thế trống
trải của một cánh đồng. Dĩ nhiên từ phía sau những cánh cửa, những bụi tre
xanh, địch đang theo dõi không sót một cử động nào của anh em. Tiếng đạn AK
rít lên khi trung đội đã lội qua được gần một nửa đoạn đường, anh em nằm
sát xuống mặt đất, men theo bờ ruộng tiếp tục bò lên. Tiếng đạn AK vẫn nổ
ròn rã, cày lên mặt ruộng, hất tung lên những nắm đất. Bỗng hắn nghe có
tiếng lao xao ở phía sau đoàn quân:
- Thằng Tốt bị thương rồi.
Theo phản xạ, hắn chồm người lên nhìn về phía sau, Nguyễn văn Tốt trúng
đạn vào mông, mông của Tốt đã bự mà còn lổm nhổm nhô lên cao nên dễ lãnh
đạn, địa thế chung quanh trống trơn không có vật gì để che chắn ngoại trừ
bờ ruộng thấp lè tè.
- KéoTốt về phía sau băng bó,tất cả bò thật sát mặt đất.
Người khinh binh đi đầu vội vã nhoài người kéo hắn ngã xuống mặt ruộng:
- Thiếu úy, coi chừng.
Vừa lúc ấy một loạt đạn AK bắn rát ngay trên đầu, cả hai người lăn sát
vào mép bờ ruộng, đạn bắn không trúng người trở nên giận dữ tát xuống mặt
ruộng, văng đất lên tung toé. Hắn lặng lẽ đưa tay sờ lên vành nón sắt, lại
thêm một lần chết hụt trong gang tấc. Mảnh đạn súng cối từ trận Thường Đức
vẫn nằm im trong đầu hắn, giá mà nó nhích sâu vào một chút nữa thì cuộc đời
của hắn đã chấm dứt từ lâu.
- Thiếu úy, có trung úy đầu máy.
Trần minh Hồng xốc lại chiếc máy truyền tin trên vai, bò sát lại bên
hắn. Hắn cầm ống liên hợp áp sát vào tai:
- Giang Nam, đây 161 tôi nghe.
- Anh dẫn con cái trở ngược về vị trí cũ, dặn anh em bò sát mặt đất,
đừng để như thằng Tốt.
- Giang Nam, tôi nghe rõ 5/5.
Trung đội quay lưng bò dần về khu làng cũ, tổ chức phòng thủ qua đêm.
Sáng hôm sau, hắn nhận lệnh lên gặp trung úy đại đội trưởng Quách Giang.
Trung úy Quách Giang trải tấm bản đồ lên mặt đất, rút cây viết mỡ trong túi
ra:
- Đây là chỗ mình đang đứng, anh dẫn trung đội ra điểm này, đánh theo
hướng mũi tên vào bìa làng.
Trung úy Quách Giang vạch một mũi tên lên tấm bản đồ rồi nói tiếp:
- Nội trong buổi sáng hôm nay phải thanh toán xong mục tiêu.
Hắn mở tấm bản đồ của hắn ra và chép lại những dữ kiện. Trung úy Quách
Giang vói tay lấy ly café đã pha sẵn đưa cho hắn:
- Hải này, uống ly café rồi hãy về trung đội.
Hắn đưa tay đỡ lấy ly café, rồi lấy gói thuốc ra mời đại đội trưởng. Khi
hắn trở về trung đội thì anh em đã cơm nước xong xuôi, súng đạn đã chuẩn bị
sẵn sàng. Trung đội lên đường tiến về điểm xuất phát.
Địa thế ở đây thuận lợi hơn nhiều, quãng đồng trống ngắn hơn, một con
đường mòn nối liền bên này sang bên kia làng, vấp phải một cái miếu nhỏ rồi
tới ngay căn nhà gạch mái ngói đầu tiên. Phía bên kia, trung đội 2 cũng đã
sẵn sàng vượt tuyến xung phong, tiến chiếm bìa bên trái của khu làng. Trung
đội căng thành 1 hàng ngang, hắn ra hiệu, anh em vừa tiến lên vừa bắn cầm
chừng. Bỗng dưng hắn khựng lại, tròn mắt kinh ngạc, một đám dân làng toàn
là đàn bà con nít chạy ùa ra ngay trước mắt trung đội, hắn hết hồn gào lên:
- Ngưng bắn! ngưng bắn!
Anh em cũng hoảng vía không kém gì hắn, cả trung đội lơi cò súng đứng
chết trân giữa khu đồng trống. Anh em đưa tay chỉ sang hướng bìa làng, bà
con hiểu ý vội vã chạy thoát thân ra cánh đồng. Ngay lập tức, từ những ổ
kháng cự được che giấu kín đáo trong làng, địch quân bắt đầu tác xạ ngăn
chặn vào đoàn quân mũ đỏ. Địch quân đã lộ diện nên trận đấu trở nên hào
hứng, tổ khinh binh nhanh như chớp xông lên chiếm lĩnh ngôi miếu, toàn bộ
trung đội ào lên, binh 1 Thuận hai tay kềm chặt khẩu đại liên M60, vừa chạy
lên vừa bắn như giông bão, dây đạn đại liên vắt chéo trên hai vai của Thuận
khiến cho hình ảnh của người chiến binh trở nên hào hùng, dũng mãnh hơn bao
giờ hết. Tổ khinh binh chiếm xong ngôi miếu, hứng chí không chờ lệnh, đã
băng qua khoảng sân rộng xông ngay vào căn nhà đầu tiên. Binh nhì Sơn,
người quân phạm trẻ tuổi mới tăng cường về trung đội, dùng báng súng đập vỡ
cánh cửa sổ, nép người sang một bên rồi rút chốt lựu đạn ném vào. Lựu đạn
vừa nổ, nhanh như chớp Sơn quăng mình nhảy vào bên trong, tổ khinh binh đã
chiếm xong đầu cầu trong chớp mắt. Trung đội xông lên nhanh và mạnh như con
nước vỡ bờ, địch quân kinh hoàng bỏ chạy, chỉ trong khoảng 15 phút ngắn
ngủi, trung đội đã hoàn toàn kiểm soát trọn vẹn mục tiêu. Trung đội bắn hạ
tại chỗ 2 cán binh cộng sản, bắt sống 2 người khác, tịch thu toàn bộ vũ
khí. Thật là may mắn khi anh em trong trung đội không có người nào bị xây
xát, trầy xước.
Hai người tù binh ngồi bệt dưới đất, ánh mắt thất thần không giấu được
nỗi lo âu. Hắn nhờ anh em nhóm lửa nấu nước, một lát sau 2 tô mì bốc khói
được bưng đến mời 2 người tù binh, họ không khách sáo, nhận ngay tô mì và
ăn rất ngon lành. Chờ họ ăn xong, hắn rút trong túi ra gói thuốc lá
Capstan, mời mỗi người một điếu, khói thuốc ấm áp chui vào buồng phổi khiến
họ dần dần tỉnh táo lại. Hắn vui vẻ cất tiếng hỏi một người tù binh:
- Quê quán của anh ở đâu vậy?
- Dạ, quê tôi ở Quảng Bình.
Anh em đưa cho hắn một xấp giấy tờ tìm được trong ba lô của người bộ
đội, hắn nhìn thấy tấm hình chụp một người tây phương, đội mũ casquette,
đang đứng trên bờ của một giòng sông. Hắn đưa tấm hình cho người tù binh
nhìn thấy và hỏi:
- Anh có biết người này là ai không?
- Đấy là đồng chí Stalin vĩ đại.
Thì ra đây là thủ lãnh nổi tiếng một thời của đảng cộng sản Liên Xô. Hắn
tò mò chọn lấy một lá thư và mở ra xem. Lá thư tình viết dở dang cho người
yêu đang ở hậu phương bên kia giòng sông Bến Hải. Những dòng chữ khô khốc
đã đốt rụi những nét tình tứ mượt mà, lẽ ra phải được chuyên chở trong một
lá thư tình. Chẳng thấy được một chút ít rung động nào của đôi tim khi
trong lá thư đầy rẫy những câu “em ở nhà cố gắng tăng gia sản xuất cho đạt
chỉ tiêu nhé, rồi lại có đoạn “vươn lên xốc tới quyết tâm giành thắng
lợi”.Những từ ngữ trật búa kiểu này đã bóp cổ bẻ họng tình yêu đến nghẹt
thở, còn hơi sức nào để mà tình với tự, để mà thương với nhớ.Lại có những
từ ngữ hắn không thể nào hiểu được, "hồ hởi".Không hiểu nghĩa hồ hởi thì
làm sao mà hồ hởi cho được. Hắn trả lại xấp giấy tờ cho người tù binh rồi
cắt cử một số anh em đưa họ về BCH đại đội. Trung đội bung ra, lục soát tỉ
mỉ toàn bộ khu làng, đến xế chiều thì lại tìm thấy thi hài của một bắc quân
nằm chết ngoài bờ ruộng. Trung đội đào hầm hố tổ chức phòng thủ qua đêm
trước khi trời tối. Hôm nay tiểu đoàn 8 Nhảy Dù đã hoàn thành nhiệm vụ một
cách tốt đẹp, các đại đội đều gặt hái đuợc chiến công, tiêu diệt, bắt sống
và tịch thu vũ khí,trong số vũ khí do đại đội 81 tịch thu có một khẩu K59
mới cáu cạnh.
Nhưng địch quân vẫn chưa hoàn toàn chấp nhận kết quả của trận đấu. Giữa
đêm khuya hôm ấy, bỗng nhiên có tiếng lựu đạn nổ, tiếp theo là tiếng súng
vang cả một góc trời ở phía bên kia sông, nơi đóng quân của BCH tiểu
đoàn.Tiếng súng thi nhau nổ ròn rã trong tiếng đệm của lựu đạn, của bê ta,
địch quân sử dụng 1 lực lượng đặc công luồn theo giòng sông Lợi Nông áp sát
lên bờ, toan tính đánh úp vào bộ chỉ huy tiểu đoàn 8 Nhảy Dù.
Đoàn quân mũ đỏ đã giỏi về công mà thủ cũng không đến nỗi tệ, địch mới
xâm nhập vào tới bên ngoài vòng đai phòng thủ của tiểu đoàn đã bị phát giác
ngay, lập tức những trái lựu đạn được tung ra từ trong chiến hào khiến địch
choáng váng, họ hoảng hốt ném lựu đạn và bê ta một cách bừa bãi.
Đêm hôm ấy dù đã cố gắng hết sức nhưng địch quân vẫn không cách nào chọc
thủng được phòng tuyến của BCH tiểu đoàn, họ đành phải nương theo bóng tối
rút đi. Sáng hôm sau quân ta bung ra lục soát tìm thấy một số tử thi của
địch quân, lại còn bắt sống thêm được mấy chú đặc công đang rét run dưới
nước, người nào cũng chỉ mặc có mỗi một chiếc quần đùi, chất nổ quấn đầy
trên người, lại còn đeo dính thêm cả mấy chục con đỉa đã hút máu no tròn
căng cứng. Đêm hôm ấy tiểu đoàn 8 Nhảy Dù mất đi một người khinh binh, binh
nhì Ngàn của đại đội 84 tăng cường về tiểu đoàn, Ngàn nhảy xuống nước và đã
chết vì sức ép của chất nổ.
Sau khi đã quét sạch địch quân ra khỏi quận Hương Thủy, tiểu đoàn 8 Nhảy
Dù bàn giao lãnh thổ cho đơn vị bạn rồi di chuyển về vùng Văn Thánh. Các
tiểu đoàn ND về đây thường được dùng như 1 lực lượng trừ bị, khu vực này
yên tĩnh, không có lực lượng chính qui của địch, chỉ có du kích lén lút
hoạt động mà thôi.Trước đây khi tiểu đoàn 3 ND về nghỉ ngơi ở vùng này đã
bắn hạ được 1 toán du kích khi họ đang di chuyển trong đêm.
Từ Văn Thánh ra đến chùa Thiên Mụ không xa lắm, anh em có dịp dù ra Huế
ngắm cảnh sông Hương núi Ngự, nhìn ráng chiều nhè nhẹ buông lơi trên cầu
Trường Tiền, và nhất là bâng khuâng nhìn theo những tà áo trắng Đồng Khánh
thướt tha, lính xa nhà thường hay mơ ước viễn vông. Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù
đang thoải mái đóng quân ở Văn Thánh thì bất ngờ có lệnh toàn bộ sư đoàn
Nhảy Dù chuyển quân về Sài Gòn, bỏ lại sau lưng một khoảng trống chiến
thuật vô cùng nguy hiểm, lúc ấy là tháng 3 năm 1975.
Anh em đã thức giấc khi gà chưa kịp buông tiếng gáy, nổi lửa nấu cơm,
chuẩn bị hành trang lên đường. Trời vừa hừng sáng thì trung đội được lệnh
nhổ trại, tập trung về BCH đại đội, sau đó toàn bộ đại đội di chuyển về BCH
tiểu đoàn. Đoàn xe quân vận im lìm xếp thành một hàng dọc bên lề đường,
đoàn xe sẽ một lần cuối ân cần tiễn đưa tiểu đoàn 8 Nhảy Dù ra đến phi
trường Đà Nẵng, lên xe tiễn anh đi chưa bao giờ buồn thế!!!
Đoàn xe xuôi nam trên quốc lộ 1, ngồi trên xe, hắn rất ngạc nhiên khi có
những đoàn người, nam phụ lão ấu, già trẻ lớn bé, gồng gánh đồ đạc, cũng
đang xuôi theo đoàn quân. Nhân lúc đoàn xe kẹt lại trên đường, hắn bước
xuống xe và hỏi thăm cớ sự:
- Bác ơi, bà con đi đâu mà đông như thế này hở bác?
Ông cụ ngước mắt lên nhìn hắn, rồi nhìn vào bộ quân phục hắn mặc trên
người với vẻ trìu mến:
- Thiếu úy không biết sao? Nhảy Dù rút đi thì chúng tôi ở lại đây làm gì
nữa, chúng tôi phải tự tìm đường thoát đi mà thôi.
Hắn chấn động cả tâm can, thật vậy hay sao! Hắn ngỡ ngàng không thể
tưởng tượng được rằng người lính Nhảy Dù lại là 1 điểm tựa quá ư to tát
trong tâm khảm người dân xứ Huế, kể từ khi đoàn quân mũ đỏ về đây trấn đóng
biên cương, dành lại văn miếu từ trong tay địch quân. Hắn đưa tay nắm chặt
vào cửa xe, chiếc GMC bắt đầu lăn bánh vào một đoạn đường xấu, cái cảm giác
hỗn độn nặng trĩu của sững sờ lẫn xót xa trong đầu hắn hình như cũng đang
lắc lư nhảy múa.
Đoàn xe đã vượt qua đèo Phước Tường, từ đây đến cầu Thừa Lưu sẽ không
còn bao xa nữa. Hắn thấp thỏm dõi mắt nhìn sang bên kia đường, ừ sắp tới
Thừa Lưu rồi, mà tới Thừa Lưu thì đã sao? ở đó có gì để mà mong với
đợi?Hình như có một điều hắn đã cố tâm nén chặt xuống tận đáy lòng. Giờ đây
trong phút chia ly hình bóng ấy bỗng vụt bừng lên rạng rỡ ngay trước mắt,
hắn mong muốn được nhìn lại người con gái ấy.Kỳ lắm, sao hắn lại cứ nhớ đến
Diệu mãi thôi,nhớ đến cái dáng hiền lành nết na thùy mị của Diệu. Càng nghĩ
đến Diệu, hắn lại càng không muốn cuộc đời của Diệu sẽ mãi mãi vời vợi,
ngóng trông theo dấu chân chinh chiến hiếm có ngày về thăm.Diệu làm sao
hiểu được trong lửa đạn sự sống và cái chết giáp mí với nhau như thế nào.
Sớm muộn gì cái ngày hắn gục ngã trên chiến trường sẽ phải tới,hắn không
nỡ đểDiệu sẽ phải khổ đau dang dở. Thôi nhé Diệu ơi, trả Diệu lại cho Huế
đó, chỉ ước mong được nhìn thấy Diệu một lần cuối để nhớ hoài mà thôi.
Đoàn xe chạy ngang qua khu chợ Thừa Lưu, cái quán café hiện dần ra trong
tầm mắt với tấm biển ố vàng ghi dòng chữ: có bán mì, hủ tiếu. Một người con
gái từ trong quán bước ra, Hương, đúng là Hương rồi, hắn nhận ra khuôn mặt
xinh xắn với chiếc mũi cao kiêu kỳ. Hương sửng sốt khi nhìn thấy đoàn xe
đầy ắp những người lính Nhảy Dù,nàng kiễng chân cố nhìn lên những chiếc huy
hiệu trên cầu vai người lính, hình chiếc dù với con ngựa bay, đúng là tiểu
đoàn 8 Nhảy Dù rồi. Hương hoảng hốt chạy theo đoàn xe, nhưng chậm mất rồi,
chiếc quân xa cuối cùng đã lăn bánh qua khỏi khu chợ Thừa Lưu. Hắn thò đầu
ra cửa xe ngoái cổ nhìn lại, Hương đang đứng chết rũ bên đường, nàng đưa
tay chậm những giọt nước mắt khóc cho mối tình đầu đã sớm phôi pha. Có lẽ
Hương vẫn chưa biết chuẩn úy Phạm văn Hải đã thuyên chuyển về lữ đoàn.
Đoàn xe bắt đầu gài số nhỏ để leo lên đèo Phú Gia hướng về phi trường Đà
Nẵng, anh em nhìn lại cảnh cũ trên đèo Phú Gia một lần cuối truớc khi về
Sài Gòn để dấn thân vào một chiến trường xa lạ, có thể là Phước Long hay
Buôn mê Thuột không chừng. Hắn lại nhìn thấy vài nhóm người đang khăn gói
vượt đèo xuôi về nam, họ đứng tránh vào một bên đường và vẫy tay chào. Tự
dưng hắn cảm thấy áy náy trong lòng như một kẻ phạm tội thất tín, và hắn
chợt nghĩ đến bà bác... “Ngày nào vẫn còn đoàn quân mũ đỏ thì Huế của chúng
tôi sẽ không bao giờ bị mất”.
Vũ đình Hải
KBC 3119
Mến tặng các đồng đội thân thương của tôi thuộc tiểu đoàn 8 Nhảy Dù

--



*NGƯỜI XƯA GIẤU MẶT*

-
Trước khi từ giã nhau, Ngân Khánh nói với Yên Chi:
- Về bên đó gặp bồ sau. Nhớ đừng nói lại với ai về việc “cha cà chớn”,
có vợ đẹp, con ngoan mà còn đi “tù ti tú tí”, nha.
Yên Chi cười “Okay”. Quay lại, Yên Chi chưa kịp hỏi hai cháu nội – Paul
và Diana – xem hai cháu đã chọn được món quà nào ưng ý chưa thì Luân, con
trai của Yên Chi, học trường Bà Sơ từ nhỏ, hỏi:
- Măng! Đi “tù ti tú tí” là đi đâu?
Paul và Diana đến bên Yên Chi vừa khi Yên Chi đáp lời Luân:
- Là đi “có bồ có bịch” đó mà.
Paul và Diana chỉ nghe được “lỏm bỏm” tiếng Việt chứ không hiểu. Paul
hỏi Yên Chi bằng tiếng Anh:
- “Ba Noi”! Đi “co bo co bit” là đi đâu?
Yên Chi đáp bằng tiếng Anh:
- Con còn con nít, đừng hỏi.
Paul nắm tay Diana, kéo đi:
- Đi, Diana! “Ba Noi” không nói thì anh em mình đi “co bo co bit”...
Paul chưa dứt câu, cả Yên Chi và Luân cùng phát âm một lúc “No!” Hai đứa
bé đều tròn mắt, hết nhìn “Ba Noi” lại nhìn Daddy. Yên Chi dịu dàng:
- Bà Nội nói rồi, người lớn mới được “có bồ có bịch”, hiểu chưa?
Paul kéo tay Luân:
- Đi, Daddy! Daddy đi với chúng con thì chúng ta có thể “co bo co bit”.
Luân cười lớn:
- Your Mommy không cho Daddy có bồ có bịch đâu.
Hai đứa bé đưa tay lên Trời, lắc đầu:
- Chịu thua tiếng Việt!
Thấy bốn người Việt mà đối thoại nửa Tây nửa Ta, khách qua đường hơi
chậm bước, cùng với mấy người bán hàng đều cười. Ngại nhiều người để ý, Yên
Chi nói nhỏ với Luân:
- Mình đi chỗ khác, con.
Vừa đi được một khoảng ngắn, Yên Chi chợt nghe thoang thoảng trong không
gian tiếng Guitar văng vẳng một tình khúc mà Yên Chi rất thích. Yên Chi
dừng bước, nhíu mày, lắng nghe. Yên Chi nhận ra tiếng Acoustic Guitar không
phải từ radio. Chỉ vài giây sau, tiếng hát vang lên nho nhỏ, khàn khàn:
“Some say love it is a river that drowns the tender reed. Some say love it
is a razor that leaves your soul to bleed...”(1) Yên Chi dừng bước. Theo
tiếng hát, Yên Chi cảm thấy nặng lòng vì niềm thương nhớ người xưa cuồn
cuộn trở về. Yên Chi bước chầm chậm về hướng phát ra tiếng hát. Vừa lúc đó
vợ của Luân xuất hiện, phát ngôn bằng tiếng Anh, vì tiếng Việt rất kém:
- Măng đi đâu vậy? Con xong chuyện rồi. Măng đi ăn trưa với chúng con.
- Măng chưa đói. Hai con với các cháu đi ăn đi; ăn xong trở lại đây đón
Măng.
- Con sẽ điện thoại cho Măng khi chúng con ăn xong. Okay?
Yên Chi chưa kịp đáp “Okay” thì nghe tiếng Paul:
- “Ba Noi’! “Ba Noi” đi “co bo co bit” phải không?
Yên Chi lắc đầu, cười, khoát tay ra hiệu cho con cháu lên chiếc xe thuê.
Yên Chi chỉ qua khỏi vài gian hàng thì thấy vài người ngoại quốc đang đứng
quanh một người đàn ông. Tiếng hát và tiếng đàn phát xuất từ nơi này:
“..Some say love, it is a hunger,an endless aching need. I say love, it
is a flower, and you it's only seed...”(2)
Khi còn cách mấy người ngoại quốc vài bước, Yên Chi thấy một người Á
Đông, tóc thưa và bạc phơ, ngồi trên chiếc ghế xếp. Ông mặc áo thun, quần
ngắn. Cạnh Ông là chiếc nạn gỗ. Đến gần, Yên Chi thấy đôi chân và gương mặt
của Ông đầy sẹo. Vết sẹo nơi môi của Ông giải thích cho Yên Chi vì sao có
vài chữ Ông phát âm không chuẩn. Trước mặt Ông là một ghế nhựa; trên ghế để
chiếc mũ cũ, xấp vé số và một tấm bìa dày, ghi: “Xin vui lòng tự chọn vé số
và cho tiền vào chiếc mũ này. Please select the ticket(s) of your choice
and put the payment into this hat”. Ông ôm chiếc Guitar cũ, say sưa theo
tiếng hát xót xa của chính Ông: “... And the night has been too lonely. And
the road has been too long. And you think that love is only for the lucky
and the strong...”(3) Vài người ngoại quốc và nhiều người Việt trông như du
khách, khom xuống bỏ tiền vào chiếc mũ nhưng không lấy vé số.
Theo tiếng hát của ông bán vé số, Yên Chi tưởng như Yên Chi có thể thấy
lại được hình ảnh Tuấn và Yên Chi bước chầm chậm trên bờ cát mịn trong
những chiều Hè lộng gió bên bờ biển xưa. Những lúc đi bên nhau, “hai đứa”
thường im lặng. Thỉnh thoảng “hai đứa” nhìn nhau, cười. Khi nào mỏi chân,
“hai đứa” ngồi bên gốc dừa và Tuấn thường “ngân nga”: “Some say love, it is
a river, that drowns, the tender reed. Some say love, it is a razor, that
leaves, your soul to bleed...” Yên Chi nũng nịu: “Sao anh cứ hát bài này
hoài, nghe buồn quá!” Tuấn chỉ im lặng, thở dài.
Không thể nào Yên Chi hiểu được tiếng thở dài của Tuấn. Đã nhiều lần,
tại nhà Yên Chi, Tuấn gặp những “cây đại thụ” đang cố chinh phục tình cảm
Yên Chi. Thời gian đầu, khi mới quen Yên Chi tại nhà người Chú, Tuấn đã
được Tuyết – con người Chú – cho biết rằng gia đình Yên Chi rất khó và Yên
Chi là một cô gái rất khó chinh phục. Tuyết lại bảo, những “cây đại thụ”
đang cố chinh phục Yên Chi đều theo học tại các đại học ở Saigon. Tuấn tự
nhủ chàng phải cố chinh phục Yên Chi trong mùa Hè này; nếu không, hết Hè,
Yên Chi sẽ trở vào Saigon học, Tuấn không an tâm.
Dù đã mấy mươi năm qua, Yên Chi cũng vẫn chưa quên được buổi chiều thứ
Bảy, lúc gia đình sửa soạn cúng Ông Ngoại của Yên Chi thì Khánh đến thăm.
Trong số những người theo đuổi Yên Chi, Bà Ngoại và Ba Má của Yên Chi đều
biết Khánh là người ít nói và hiền nhất. Yên Chi cũng hiền và ít nói. Gia
đình thầm mong Yên Chi “chịu” Khánh thì sau này vợ chồng Khánh Chi sẽ thuận
hòa, hạnh phúc.
Khánh và Yên Chi cùng ngồi vào xa-lông trong khi Bà Ngoại, Ba Má và anh
em của Yên Chi đều phụ với bà giúp việc chưng dọn hoa quả và thức ăn lên
bàn để cúng ông Ngoại của Yên Chi. Yên Chi nhận thấy Khánh tỏ ra hơi lúng
túng, không ngờ chàng đến không đúng lúc. Khánh và Yên Chi vừa thăm hỏi
được vài câu thì một chàng mặc quân phục trắng xuất hiện.
Yên chi giới thiệu:
- Thưa anh Khánh, đây là anh Tuấn, sinh viên sĩ quan Hải Quân.
Xoay sang Tuấn, Yên Chi tiếp:
- Thưa anh Tuấn, đây là anh Khánh, sinh viên Y Khoa. Vừa bắt tay Tuấn,
Khánh vừa tỏ thái độ thân thiện:
- Hay quá! Anh cả của tôi cũng là Hải Quân. Tôi vào Saigon học, ở nhờ
nhà anh ấy đó.
Tuấn cười:
- Anh của anh tòng sự tại đâu ạ?
Khánh đáp:
- Tại Bộ Tư Lệnh.
Tuấn cảm thấy không an tâm, vì nghĩ rằng “gốc” của Khánh rất “bự”! Tuấn
để mũ “kết” lên bàn, xin lỗi Khánh để ra nhà sau chào Bà Ngoại, Ba Má và
anh em của Yên Chi. Thấy anh em của Yên Chi phụ bưng thức ăn lên bàn để
cúng, Tuấn cũng vui vẻ bưng thức ăn, phụ với mọi người.Đợi Bà Ngoại, Ba Má
và anh em của Yên Chi và Yên Chi thắp nhang, khấn vái xong, Tuấn nói:
- Thưa Ngoại, thưa hai Bác, cho phép con thắp nhang cúng Ông Ngoại với.
Khánh và Yên Chi đều bất ngờ, nhìn nhau và Yên Chi thấy tội nghiệp Khánh
vô cùng; vì Khánh không thể che giấu được sự lúng túng của chàng! Nhận ba
cây nhang từ tay Má của Yên Chi, Tuấn đứng nghiêm, lâm râm khấn nguyện.
Sau khi gia đình cúng xong, Khánh nghĩ rằng – và hy vọng rằng – thế nào
Ba Má của Yên Chi cũng sẽ mời Tuấn và chàng dùng cơm. Nhưng, vừa khi đó,
Tuấn nói một cách rất chân thành:
- Thưa Ngoại, thưa hai Bác, tháng này con chưa lãnh lương; Ngoại với hai
Bác cho con ăn cơm với.
Khánh không thể ngồi nán lại được giây phút nào nữa!
Hành động của Tuấn hôm đám giỗ ông Ngoại chiếm ngay cảm tình của gia
đình Yên Chi; nhưng cũng vẫn chưa chinh phục được Yên Chi.
Vài tuần sau, không biết có phải do sự sắp đặt của Tuyết hay không, Yên
Chi được mời đến nhà Tuyết tham dự văn nghệ “bỏ túi”. Trong số sinh viên và
học sinh tham dự văn nghệ “bỏ túi” tại nhà Tuyết dường như ai cũng để ý đến
bộ quân phục tiểu lễ của Tuấn. Nhiều nam sinh viên và học sinh còn hỏi thăm
Tuấn về thể lệ và điều kiện để được thi vào Hải Quân. Đến phần văn nghệ,
mọi người đều “xung phong” ca hát. Tuấn vẫn ngồi lặng yên cho nên Yên Chi
không biết Tuấn có khả năng văn nghệ hay không. Bất ngờ một anh nói vào
micro: “Từ nãy giờ học trò tụi mình ‘hét’ đủ rồi. Bây giờ mời ‘ông nhà
binh’. Các bạn đồng ý không?” Mọi người vỗ tay. Tuấn từ từ đến bên Piano,
mở nắp đàn rồi xoay lại nói với mọi người: “Thưa các bạn, tôi xin hát tình
khúc La Fontaine Des Amours của John William để tặng các bạn và riêng tặng
một người đã cho tôi diễm phúc được chia xẻ những giờ phút đầm ấm trong bữa
cơm giỗ ông Ngoại.” Yên Chi ngạc nhiên, nhìn Tuyết. Tuyết giả vờ: “Ảnh ăn
giỗ ở đâu tao đâu biết.”
Vừa nghe Tuấn dạo phân đoạn đầu, Yên Chi nhận ra Tuấn có ngón đàn piano
rất tuyệt. Tuấn bắt vào:
Près de la fontaine
La fontaine des amours
Si ton cœur est en peine
Tu vas te pencher un jour...
Yên Chi ngỡ ngàng, nhận ra giọng ca của Tuấn rất thiết tha, rất ngọt
ngào. Tuấn vẫn say sưa theo tiếng hát, vờ như chẳng để ý đến Yên Chi:
... Je l'aime et qu'elle m'aime aussi
Et dans l'eau qui chante
Tu vois danser un beau jour
Une image charmante...
Vừa hồi tưởng đến đây, Yên Chi nhận ra ông bán vé số chuyển sang tình
khúc Việt Nam: “Chiều nay một mình đi trên đường cũ. Nhìn mây lặng lờ trôi
theo làn gió. Tôi nhớ chiều nào đã xa xôi, hai đứa mình thường bước song
đôi khi nắng giăng tơ vàng khắp lối...”(4)
Yên Chi tự hỏi, làm thế nào một ông bán vé số lại có ngón đàn Tây Ban
Cầm “nhuyển” và lại chọn những tình khúc tuyệt vời đến như vậy? Bất ngờ
điện thoại cầm tay của Yên Chi “rung”.Yên Chi “Allo”. Giọng Luân:
- Chúng con ăn rồi. Măng đang ở đâu?
- Sao ăn nhanh vậy? Măng đang đứng nơi gốc cây bàng, cách chỗ hồi nãy
khoảng ba bốn gian hàng.
- Dạ, hai đứa nhỏ đòi ăn McDonald’s cho nên chúng con mua đem theo. Con
thấy cây bàng rồi. Chúng con tới ngay. Có bác Ngân Khánh tìm Măng nữa đó.
Yên Chi “Okay”, cúp điện thoại. Vừa bước về ông bán vé số Yên Chi vừa mở
ví, có ý lấy tiền cho vào mũ của ông bán vé số, thì chiếc xe thuê dừng lại.
Yên Chi cầm ít tiền lẽ, chưa kịp biếu ông bán vé số thì Ngân Khánh vội vàng
mở cửa xe, reo vui:
- Yên Chi! Bồ biết tui mới gặp ai không?
Yên Chi lắc đầu. Ngân Khánh tiếp:
- Tui gặp Tuyết hồi đó cùng học ở Văn Khoa với bồ đó.
- Rồi sao? Có tin gì về Tuấn không?
- Có. Tuyết nói Tuấn bây giờ cơ cực lắm...
Yên Chi chụp vai Ngân Khánh:
- Bồ biết, mấy mươi năm qua tôi liên lạc với hầu như tất cả các Hội Hải
Quân ở ngoại quốc để hỏi về Tuấn mà không ai biết cả!
- Làm sao người ta biết được mà nhờ! Tuấn “của bồ” vẫn còn ở Việt Nam!
- Tại sao Tuấn không xin đi diện H.O?
- Tôi quên hỏi Tuyết chuyện đó. Có thể số năm Tuấn bị ở tù không đúng
tiêu chuẩn của Mỹ. Ai biết được. Nè, địa chỉ của “chàng”, tìm gặp “chàng”
mà hỏi. Tui đi nhen. Về bển gặp.
- Tại sao bồ không rủ Tuyết đến gặp tôi?
- Tuyết phải trở về kinh tế mới ngay, vì đó là chuyến xe chót.
- Cảm ơn bồ nhiếu lắm, nha.
Cầm mảnh giấy do Ngân Khánh trao, Yên Chi run tay, mở cửa xe không được.
Chú tài vói tay mở cửa giùm. Yên Chi ngồi vào ghế bên phải của chú tài xế,
lòng rộn ràng, quên bẳng tiếng hát và hình ảnh của ông bán vé số. Xe chạy
được một khoảng ngắn, Yên Chi nhận ra mấy tờ bạc còn trong tay,vội thốt
lên: “Oh, no!”Luân hỏi:
- Măng bị gì vậy?
- Măng quên cho tiền ông bán vé số.
Từ ngày Bố Mẹ ly dị rồi Bố về Việt Nam lấy vợ trẻ, lúc nào Luân cũng
chăm lo cho Yên Chi và cố gắng làm vui lòng Mẹ. Luân bảo tài xế quay lại
gốc cây bàng. Xe quay trở lại. Gốc cây bàng còn đó nhưng ông bán vé số
không còn!
-----
Trên đường lần mò trở về “nhà!” Tuấn lờ mờ thấy vài người mặc quân phục
rằn ri, mũ xanh, mũ nâu, mũ đỏ, vừa từ con hẽm nhỏ đi ra. Tuấn dừng bước,
hỏi:
- Các anh chắc là Lính Cộng Hòa?
- Chi vậy? Hỏi để báo công an hả?
- Đâu có. Vì tôi thấy lờ mờ các anh mặc quân phục của lính mình.
Nghe hai tiếng “lính mình”, một anh đáp:
- Bộ “cha” cũng... lính mình, hả?
- Vâng. Mấy anh đi đâu mà vui vậy?
- Dui gì! Hôm nay là ngày giỗ của Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh “dùng”
4 đó, cha.
Chợt nhớ ngôi chùa nhỏ trong hẽm là nơi thờ Hương Linh của Tướng Nguyễn
Khoa Nam, Tuấn bảo:
- Vậy là các anh làm lễ Tưởng Niệm Tướng Nam xong rồi, phải không? Thôi,
chào các anh. Tôi vào chùa thắp cho Ổng nén nhang.
- Không được đâu. Tụi nó đuổi mọi người đi hết rồi.
Giữa khi Tuấn bàng hoàng, chưa biết phải nói gì thì một anh Mũ Đỏ lầm
bầm:
- Mẹ, chiến thắng cái giống gì mà bất cứ thứ gì của “bên thua cuộc” tụi
nó cũng sợ hết vậy? Sợ từ âm nhạc, sợ sách báo cho đến sợ Thương Phế Binh,
sợ nghĩa trang và “Ngụy” chết rồi mà tụi nó cũng còn sợ! Vậy mà kêu gọi hòa
hợp hòa giải!
Nói xong, mấy người “lính cũ” kéo nhau đi, lưu lại trong lòng Tuấn nỗi
xót xa vô vàn!
Nhìn quân phục rằn ri và những chiếc mũ đỏ khi ẩn khi hiện trong dòng
người lao động của xóm nghèo, Tuấn tưởng như chàng có thể thấy lại hình ảnh
bi hùng năm nào trên bờ biển Nha Trang khi Dương Vận Hạm Qui Nhơn,HQ504, ủi
bãi ngay trước Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang. Cửa đổ bộ vừa hạ
xuống, từng đoàn quân Mũ Đỏ, bước ra trong tiếng reo hò vang dội của đồng
bào chạy loạn từ miền Trung vào; vì những người này – cũng như Tuấn và tất
cả sinh viên sĩ quan Hải Quân – đều nghĩ rằng “đỗ” quân Dù xuống Nha Trang
là chính quyền VNCH muốn giữ Nha Trang. (5) Tuấn mừng thầm và nghĩ chàng sẽ
được cơ hội “đi bờ”, đến nhà Yên Chi, tìm hiểu xem tình trạng của nàng và
gia đình nàng như thế nào!
Niềm hy vọng của Tuấn vừa nhen nhúm thì, hôm sau, tất cả sinh viên sĩ
quan được lệnh tập họp tại sân cờ. Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn sinh viên sĩ
quan điều động tất cả sinh viên chạy bộ xuống Cầu Đá để được Hải Vận Hạm
Hậu Giang, HQ406, di tản vào Saigon.
Suốt đoạn hải hành đầu đời, Tuấn bị sóng nhồi thì ít mà lo lắng, xót xa
và thương nhớ Yên Chi thì nhiều!
Về đến Saigon, phân đội của Tuấn được lệnh cùng với đơn vị Thủy Quân Lục
Chiến án ngữ tại Thảo Cầm Viên, bên này cầu Thị Nghè để chận bước tiến của
địch quân, nếu địch quân phá vỡ vòng đai tại Hàng Xanh do Thủy Quân Lục
Chiến án ngữ.
Sáng 30 tháng Tư, địch quân, có xe tăng yểm trợ, phá vỡ vòng đai Hàng
Xanh! Thủy Quân Lục Chiến tại Hàng Xanh, một số hết đạn, tự tử tập thể; một
số bị đẩy dạt về Thảo Cầm Viên được đơn vị sinh viên sĩ quan Hải Quân và
Thủy Quân Lục Chiến án ngữ nơi đây tiếp sức. Tất cả đều chống trả mãnh
liệt. Nhưng, nhiều quân nhân... hết đạn! Trong khi các đơn vị Thủy Quân Lục
Chiến và sinh viên sĩ quan Hải Quân án ngữ tại Thảo Cầm Viên chiến đấu
trong điều kiện cạn kiệt đạn dược thì xe tăng Việt Cộng lừng lững tiến qua
cầu Thị Nghè. Quá tuyệt vọng,vài nhóm Thủy Quân Lục Chiến choàng vai nhau,
tự tử tập thể! Tiếng lựu đạn của Thủy Quân Lục Chiến tự tử tập thể khiến
Việt Cộng nghĩ rằng quân VNCH đang kháng cự. Xe tăng hạ nòng súng, bắn trực
xạ.... Sau khi đoàn thiết giáp và quân Việt Cộng đi xa, đồng bào túa ra
đường. Kẻ quàng khăn đỏ “hồ hởi” reo hò. Người dân thầm lặng nhặt xác quân
nhân tử trận để vào nơi cao ráo. Quân nhân bị thương được giúp đỡ tạm.
Trong khi khiêng quân nhân bị thương, vài người thầm thì: “Xem chỗ nào kín
đáo một tý để giấu mấy ông bị thương; nếu không, tụi Việt Cộng thấy được là
tụi nó ‘thịt’ mấy ổng liền chứ tụi nó không tha đâu!” Nhìn quanh, thấy bên
kia đường là cư xá sĩ quan Hải Quân, nhiều người đề nghị nên đưa quân nhân
bị thương sang đó để được giúp đỡ và che chở.
Trong cư xá sĩ quan Hải Quân, Khánh đang lo âu, theo dõi tin tức đài
BBC. Từ khung cửa sổ lầu hai nhìn sang Thảo Cầm Viên, chị dâu của Khánh
bảo: “Chú Khánh ơi! Hình như người ta khiêng người chết hay người bị thương
vào cư xá kìa.” Khánh đến bên cửa sổ, nhìn. Sau khi nhận biết tình hình,
Khánh bảo Khánh phải xuống tầng dưới xem có ai cần giúp đỡ hay không. Khánh
cũng khuyên chị dâu và các cháu chuẩn bị sẵn sàng, đến tối mà vẫn không
thấy anh của Khánh về thì Khánh sẽ tìm cách đưa gia đình di tản. Khánh đã
nhờ người mướn ghe rồi.
Xuống tầng dưới, thấy nhiều quân nhân bị thương được để nơi hành lang,
Khánh chạy ngược lên, lấy tủ thuốc nhỏ đựng những thứ thuốc cấp cứu, đem
xuống. Trong khi cùng vài người băng bó cho thương binh, Khánh thấy người
mặc quân phục Hải Quân mang bảng tên Tuấn. Khánh hỏi thăm và Tuấn cũng nhận
ra Khánh. Với trình độ hiểu biết của một sinh viên Y Khoa, Khánh cho Tuấn
biết tình trạng của Tuấn không nguy hiểm đến tính mạng; tuy nhiên, vì nhiều
vết thương ở mặt và bắp chân, Khánh ngại rằng gương mặt của Tuấn sẽ biến
dạng và bắp thịt chân có thể tạo ảnh hưởng khó khăn cho Tuấn khi đi chuyển.
Tuấn chỉ biết im lặng, thở dài!
Khuya 30-4-75, trước khi cùng gia đình kín đáo rời cư xá, lên ghe di
tản, Khánh vào những căn nhà mà chủ nhà đã di tản, tìm những hộp thuốc cấp
cứu và đem xuống tặng cho các thương binh. Khánh cũng không quên đem theo
quần áo dân sự để tặng thương binh. Khánh dùng kéo cắt quân phục và giúp
thương binh mặc thường phục. Trước khi từ giã thương binh để đem tất cả
quân phục vất xuống sông, Khánh bắt tay Tuấn. Tuấn nắm tay Khánh thật lâu:
“Anh Khánh! Tôi có một yêu cầu nhỏ, mong anh giúp tôi.” Khánh đáp: “Anh
cứ nói. Tôi sẽ hết lòng giúp anh trong khả năng của tôi.”
Tuấn cúi đầu ngần ngừ chốc lát rồi bảo: “Nếu anh gặp Yên Chi,xin anh
đừng cho Yên Chi biết rằng anh đã gặp tôi trong tình huống này!” Giọng
Khánh đượm nhiều xót xa: “Vâng. Tôi hiểu. Nhưng, thưa anh, cho đến giờ phút
này tôi cũng chưa biết tình trạng của Yên Chi, gia đình của Yên Chi cũng
như gia đình tôi ngoài đó có thể di tản được hay không!” Tuấn thở dài: “Tôi
bị cấm trại từ khi quân mình rút khỏi cao nguyên cho nên tôi cũng chẳng
biết gì!” Khánh im lặng. Thật lòng Khánh không nỡ để những người Lính đã
chống trả đến viên đạn cuối cùng phải nằm đây, trong tình trạng này; nhưng
nghĩ lại, Khánh thấy rằng chàng cũng không có điều kiện và phương tiện để
giúp những thương binh này! Khánh chỉ biết thở dài, quay gót...
-----
Cảm thấy áy náy trong lòng, Tuấn cầm tay Lụa, tha thiết nói với Lụa mà
cũng như tự dặn lòng hãy cố quên bóng dáng xưa:
- Lúc nào anh cũng biết ơn và thương yêu em. Nếu không có tình thương
yêu của em, anh nghĩ không thể nào anh có thể vượt qua được nghịch cảnh.
Lụa nguýt yêu Tuấn:
- Thôi đi! “Dợ” chồng bao nhiêu năm rồi mà anh cứ nói cái giọng đó
“woài”, nghe “ghét” “wá” hà!
Hai vợ chồng cùng cười. Lụa tiếp:
- Anh coi “diết” thơ ra nước ngoài, tìm mấy ông Hải Quân xin giúp đỡ để
có tiền mổ cườm mắt; anh để lâu “wá” coi chừng bị mù đó.
- Anh thuộc vào lứa con muộn màng của đại gia đình Hải Quân cho nên
chẳng quen biết ai. Những thằng cùng khóa đa số kẹt lại; những thằng đã
vượt biên thì anh không biết địa chỉ. Nhưng, em à! Anh còn đi khập khểnh,
còn thấy lờ mờ, còn bán vé số kiếm lời phụ với em thì anh còn may mắn hơn
nhiều thương phế binh bị tàn phế nặng nề. Anh nghĩ như vậy để tự cảm thấy
mình còn “may mắn!”
Đã quen với tính tự lập và an phận của Tuấn, Lụa lắc đầu:
- Bởi “dậy”, sinh hai thằng con có khác anh chút nào đâu!
- Khác chứ.
- Khác gì, nói coi.
- Anh thích âm nhạc; hai đứa nó không thích.
-Thời buổi này bươn chải đầu ngược đầu xuôi còn không đủ sống mà anh đòi
dạy tụi nó đờn ca, ích lợi gì?
- Ích lợi chứ sao không?
- Ích lợi gì?
- Nhờ anh đàn hát mà em thương anh. Em đem hạnh phúc đến cho anh và em
cho anh hai thằng con “ngon lành”.
- Còn anh cho em hai đứa con cao, to, đẹp trai giống anh.
- Mặt anh như vầy mà đẹp trai nỗi gì nữa, em!
- “Xời”, mặt anh mà “hỏng” như “dậy”, anh đâu thèm lấy em!
- Nói bậy rồi! Anh lấy em vì anh thương em mà em cũng thương anh nữa,
phải không?
Lụa cảm thấy bồng bột yêu chồng, giọng nũng nịu:
- Ai nói “dới” anh tui thương anh “dậy”?
- Em chứ ai. Đừng làm bộ quên, cô nương. Thôi, anh vô nghỉ một chút.
Trong khi Tuấn đi vào sau tấm màn, ngả lưng lên manh chiếu, Lụa cảm thấy
lòng bồi hồi nhớ lại thời mới lớn, ra chợ phụ Mẹ bán cháo lòng để nuôi em
trai đi học; vì Ba đã tử trận. Khi đi ngang ông bán vé số – nhiều người đồn
Ông là sĩ quan “Ngụy” – nghe giọng hát nghẹn ngào của Ông, Lụa cảm thấy
“buồn muốn chết”! Thỉnh thoảng, nếu cháo bán không hết, Mẹ của Lụa dừng
lại, múc cho ông bán vé số một tô. Mấy lần đầu, ăn xong, ông bán vé số đưa
tập vé số, bảo Mẹ con của Lụa lấy vé số “trừ” tiền tô cháo. Mẹ từ chối. Ông
ấy bảo nếu Mẹ không lấy vé số thì Ông sẽ không dám ăn cháo nữa. Từ đó, Mẹ
đành lấy một vé số mỗi khi múc cháo cho ông. Và cũng từ đó Ông mới cho biết
Ông tên Tuấn.
Đôi khi nghe Tuấn hát tiếng gì chứ không phải tiếng Việt, Lụa hỏi. Tuấn
bảo tiếng Anh, nếu lời ca bằng tiếng Anh; nếu lời ca bằng tiếng Pháp, Tuấn
đáp đó là nhạc Pháp. Nghe như vậy, Mẹ hỏi dò về hoàn cảnh gia đình của
Tuấn. Tuấn bảo chỉ còn ông chú bị tù, nhà cửa, tài sản của chú bị “cách
mạng” tịch thu và gia đình bị đuổi đi kinh tế mới.Hiện tại,ban ngày Tuấn
bán vé số, tối ngủ ở ga xe lửa. Mẹ mời Tuấn về ở chung trong căn nhà ọp ẹp,
mỗi tối dạy cho Lụa và đứa con trai học. Từ đó, tình cảm nảy sinh trong
lòng Tuấn và trong lòng Lụa...
Lụa chưa kịp hồi tưởng lại những lời văn hoa khi Tuấn ngõ lời yêu thương
thì chiếc xe xích lô dừng gần cửa. Một thiếu phụ trông rất quý phái, khuôn
mặt phúc hậu, bước xuống, quay lui, dặn bác xích-lô chờ. Thiếu phụ đi về
hướng Lụa. Đến cửa, thiếu phụ nhìn Lụa, mĩm cười, gật đầu chào. Lụa chào
lại. Thiếu phụ hỏi:
- Thưa, có phải đây là nhà của ông Tuấn không ạ?
Đã được Tuấn dặn trước, Lụa đáp:
- Tuấn nào, tui “hỏng” biết.
Thiếu phụ mở ví, nhìn lại địa chỉ trên mảnh giấy mà Ngân Khánh đã đưa
lúc xế trưa rồi hỏi:
- Dạ, có phải địa chỉ nhà này là 701/15/34/96 hay không, thưa bà?
Nhận ra giọng “Huế lai” của Yên Chi, Tuấn ngồi dậy, lắng nghe, lòng nát
tan! Trong những mảnh vụn của trái tim tan vỡ, Tuấn nhận ra có nhiều mảnh
sậm màu vì hằn rõ niềm ăn năn Tuấn dành cho Lụa – người vợ mộc mạc đã hết
lòng thương yêu chàng!
Lụa đáp:
- Phải. Nhưng “hỏng” có ai tên Tuấn ở đây hết.
Nghĩ có thể,vì hoàn cảnh,Tuấn phải đổi tên,Yên Chi hỏi:
- Nếu không có người tên Tuấn, bà làm ơn cho tôi gặp người đàn ông ngụ
tại địa chỉ này, được không ạ?
- Ảnh đi làm chưa “dìa”.
- Bà vui lòng cho biết bao giờ ông về để tôi trở lại?
- Trời Đất! Tui nói ở đây “hỏng” có ai tên Tuấn mà bà “hỏng” tin tui sao?
- Dạ, không phải tôi không tin bà; nhưng tôi xin được gặp người đàn ông
ngụ tại địa chỉ này, may ra ông ấy biết tin ông Tuấn.
Vì đã được Tuấn căn dặn và cũng vì ngại sẽ khó đối đáp với thiếu phụ
này, Lụa phải nói cứng:
- Ông chồng tui lo làm ăn đầu tắt mặt tối, không quen biết ai đâu, bà
đừng mất công. Xin lỗi, tui phải đi nấu cơm chiều để ảnh “dìa” ảnh ăn.
Nói xong, Lụa đóng cửa lại trước ánh mắt thất vọng của Yên Chi.
Bác xích-lô đạp chầm chậm dọc bờ biển. Mặt trời khuất dần trên đỉnh núi
xa. Khi xích-lô chạy ngang Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân, Yên Chi cúi mặt,
thở dài, lòng chĩu nặng xót xa!
Xích-lô đến gần cuối đường Trần Phú, Yên Chi ra dấu cho bác xích-lô dừng
lại. Yên Chi trả tiền rồi chầm chậm đi xuống bờ cát. Gần đến mé nước, Yên
Chi cúi xuống xách đôi dày và đếm từng bước dọc bờ biển xưa. Đi được một
đoạn ngắn, Yên Chi dừng bước, nhìn ra khơi. Biển lặng. Quanh nàng, ngoài
tiếng sóng òa vỡ lao xao, không còn một âm thanh nào khác. Trong bóng chiều
cô tịch, Yên Chi tưởng như thấy được hình bóng Tuấn, mặc quân phục tiểu lễ
trắng, chờn vờn trong những tia nắng hắt hiu cuối trời. Trong thinh lặng,
Yên Chi tưởng như có thể nghe được tiếng hát nồng nàn của Tuấn vang vọng
trong không gian: “Tôi đi giữa hoàng hôn, khi ánh chiều buông, khi nắng còn
vương... Tôi thương nhớ ngày qua trên bến hoàng hoa hay những đường xa.
Thường thường hai đứa dắt nhau tươi cười, mắt say sưa thắm mộng đời... Nhớ,
nhớ đêm nào trên bến hoàng hoa hai đứa kề nhau,không nói một câu, như thầm
mơ ước, ước mơ dạt dào, như thầm hẹn nhau mùa sau. Tôi vẫn đi, lòng thương
nhớ...” (6) Chữ “nhớ” cuối bài được Tuấn hát cao hẳn một bát trình – octave
– và ngân dài như bất tận, như xoáy sâu vào tâm thức u hoài của Yên Chi.
Xa thật xa, cuối tầm mắt không còn thơ dại của Bà, Yên Chi thấy hình ảnh
Tuấn nhạt dần, nhạt dần trong khi bóng hoàng hôn len lén trở về, phủ kín
khung trời thân yêu!

ĐIỆP MỸ LINH

1-2 và 3: The Rose của Bette Midler
4- Người Đi Chưa Về của Hoàng Trọng
5- Hải Quân VNCH Ra Khơi của Điệp Mỹ Linh
6- Tôi Đi Giữa Hoàng Hôn của Văn Phụng
-


*Các Thuật Ngữ Văn Chương và Một Số Kinh Nghiệm Viết Văn*

-

I - CÁC THUẬT NGỮ VĂN CHƯƠNG (*)

*A*m tường những thuật ngữ của văn chương tức là hiểu được những yếu
tính của văn chương để rồi từ đó ứng dụng vào tác phẩm của mình hầu làm cho
tác phẩm trở nên hay- đẹp, đúng ý mong muốn.

Chúng ta phải công nhận rằng về bộ môn này, Tây Phương đã phát triển lên
tới đỉnh cao cho nên không có điều chi xấu hổ nếu chúng ta phải học hỏi nơi
họ. Có thể những tác phẩm hay của tổ tiên chúng ta cũng đạt tới đỉnh cao
này nhưng vì tổ tiên chúng ta không chịu phân tích, không hệ thống hóa mà
chỉ ngầm hiểu hoặc hiểu theo linh tính cho nên con cháu đời sau muốn tìm
hiểu những thành tố của văn chương không biết nương tựa vào đâu. Trong khi
đó, vì chuộng tinh thần khoa học cho nên Tây Phương đã phân tích và liệt kê
ra. Sau đây là một số những thuật ngữ văn chương - giống như những dụng cụ
quý báu trợ lực cho người làm thơ, viết văn:



*Alliteration*: Lập lại phụ âm đầu.

Thí dụ: *Ðó là anh chàng **ngờ nghệch**, **ngốc nghếch**.*

* Cô ta vừa **dịu dàng** vừa **duyên dáng**.*

*Allusion**: *Nói bóng nói gió, ám chỉ.

Chẳng hạn người con trai muốn cưới người con gái khâu giúp mình cái áo
trong bài ca dao “*Tát Nước Đầu Đình*” nhưng lại nói bóng nói gió như
sau:

*Mai mốt lấy chồng anh sẽ giúp cho.*

*Giúp em một thúng xôi vò.*

*Một con lợn béo một vò rượu tăm*.

*Giúp em đôi chiếu em nằm*.”

*Anecdote:* Giai thoại

Là một đoạn văn ngắn được chen vào để mua vui hoặc phóng phú hóa câu
chuyện.

*Aphorism*: Cách ngôn

Là câu nói dường như có giá trị muôn đòi. Thí dụ: Ăn quả nhớ kẻ trồng
cây. Ăn mặn khát nước v.v..

*Characterization*: Xây dựng nhân vật (sao cho độc đáo)

*Climax*: Cực điểm của câu truyện, là chỗ phăng ra manh mối và từ đó
căng thẳng giảm dần và câu truyện đi vào kết thúc.

*Conflict**:* Xung đột, mâu thuẫn (để đẩy truyện đi tới)

*Connotation/denotation*: Nghĩa rộng, sự bao hàm

*Description*: Sự mô tả, miêu tả

Đó là cách mà người viết văn vẽ nên một hình ảnh, một khủng cảnh, một
con người, một biến cố, một tình huống qua việc chọn chữ, nhất là các tính
từ (adjectives) phải hết sức cẩn thận. Mọi sự cường điệu, làm dáng, buông
thả sẽ làm hư tác phẩm.

*Dramatic irony*: Tình huống trớ trêu. Một thí dụ của tình hưống trớ
trêu là khi Romeo tưởng Juliet đã chết cho nên lấy dao tự sát trong khi
khán giả hay người đọc biết chắc rằng Juliet vẫn còn sống.

*Event*: Diễn biến của câu truyện.

*Exposition*: Sự phơi bày

Là đoạn văn quan trọng trong bố cục để giới thiệu bối cảnh, nhân vật cốt
lõi của câu chuyện. Thí dụ, tác giả có thể mở đầu câu chuyện “Sơn Tinh,
Thủy Tinh” như sau, “Cuộc chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh là cuộc tranh
giành Công Chúa Mỵ Nương con Hùng Vương, kéo dài đã hơn 5000 năm nay.”

*Falling action*: Xung đột / căng thẳng giảm dần (sau cực điểm của câu
truyện).

*Figurative language*: Dùng ngôn ngữ bóng bẩy.

Thiếu ngôn ngữ bóng bẩy thì không phải là tác phẩm văn chương. Sau đây
là một đoạn văn sử dụng ngôn ngữ vừa hiện thực vừa bóng bẩy *của** Margaret
Mitchell* khi mô tả Scarlett trong tác phẩm “Cuốn Theo Chiều Gió” (
Gone With The Wind)

“*Vào buổi chiều rực nắng của Tháng Tư năm 1861, tại đồn điền của cha
nàng, Scarlett nổi bật như một bức tranh tuyệt đẹp khi nàng ngồi ở dưới
hàng lan can dâm mát cùng với Stuart Tarleton và Brent Tarleton. Chiếc váy
màu xanh trang điểm hoa hồi trải dài mười một bộ trên chiếc giá đỡ thật hợp
với đôi dép da dê mà cha nàn**g mới mua cho nàng ở Atlanta**. Chiếc váy
làm tăng thêm vẻ tuyệt mỹ của chiếc eo thon nhỏ và bộ ngực nảy nở của lứa
tuổi mười sáu được nâng bởi chiếc nịt bó sát lấy thân hình*. *Cho dù
dưới chiếc váy trải dài nề nếp, mái tóc được búi trong lưới, đôi bàn tay
trắng nhỏ để yên trên lòng, nàng vẫn không thể nào giấu được con người thực
của nàng. Trên khuôn mặt khả ái, đôi mắt ấy thật hiếu động, phá phách và
tràn đầy nhựa sống, hoàn toàn khác hẳn với vóc dáng đoan trang, thùy mị của
nàng. Phong thái đó là do mẹ nàng đặt để lên nàng bằng những lời khuyên răn
nhẹ nhàng và bằng kỷ luật khắt khe của bà vú – nhưng còn đôi mắt thì kia
thì là cái gì riêng tư của nàng.*” (Bản dịch của tác giả)

*Flashback*: Hồi tưởng, hồi ức

Thí dụ, nhà văn có thể đang đi trên con đường ngày hôm nay nhưng nhớ lại
những kỷ niệm đã có trên con đường này thuở ấu thơ.

*Foil*: Nhân vật tương phản, phản diện, cũng còn gọi là *antagonist*

*Foreshadowing*: Báo hiệu, báo trước, điềm báo trước (để dẫn dắt độc giả)

Chẳng hạn đôi tình nhân đang đứng tâm sự bên cầu, người con gái khẽ thở
dài, vân vê tà áo nói, “ *Em không biết cuộc tình chúng mình rồi đây sẽ
ra sao*! ” Câu văn này chính là điềm báo trước cho một cơn dông bão sẽ
xảy đến. Nhưng nếu sau này chẳng có biến cố gì xảy ra cả thì đoạn văn trên
là một đoạn văn thừa. Chẳng hạn đoạn Kiều nghe Vương Quan kể chuyện Ðạm
Tiên “ *Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa* “ rồi sau đó nàng thắp hương
khấn vái, rút trâm trên đầu, vạch da cây mà “*Vịnh bốn câu ba vần* “ rồi
“*Lại càng mê mẩn tâm thần*” chính là điềm báo trước cuộc đời cô sau này
cũng sẽ “đoạn trường” như Ðạm Tiên.

*Hyperbole*: Ngoa ngôn, cường điệu (để nhấn mạnh và gây ấn tượng)

Thí dụ: *Tây Thi **mất vía** Hằng Nga **giật mình*.

*Chìm đáy nước **cá lờ đờ lặn**.*

* Ngửng da trời **nhạn ngẩn ngơ sa* (Nguyễn Gia Thiều)

*Thân hình bà ấy to như cái **bồ sứt cạp**.*

* Lưng bà ấy **rộng như cái cánh phản** cho nên*

* thiên hạ gọi bà ấy là Bà Phán Cảnh.*

*Imagery*: Giàu hình ảnh/ tượng hình. Một tác phẩm giàu hình ảnh sau này
quay thành phim sẽ hấp dẫn khán giả.

*Inference*: Ðể người đọc có thể suy luận, suy diễn ra

*Inversion*: Sự đảo ngược thứ tự của chữ trong một câu để tạo nên chất
thơ:

Thí dụ: Hai câu sau đây nếu để nguyên thì không giầu chất thơ:

*Em đến chơi chiều thu*

*Lá vàng rơi lác đác*

Nhưng nếu đảo ngược thì lại có nhiều chất thơ:

*Chiều thu em đến chơi*

*Lác đác lá vàng rơi*

Và ta có thể thêm hai câu nữa để kết thúc bài thơ này:

*Mắt em chìm trong mộng*

*Tình anh đã chín rồi**.*

*Irony*: Mỉa mai, cay đắng.

*Main character*: Nhân vật chính là nhân vật được nhắc nhở nhiều nhất và
sẽ xuất hiện từ đầu tới cuối, qua đó nhà văn xây dựng đề tài của mình. Mọi
diễn tiến, mọi tình huống phải xoay quanh nhân vật chính. Tôi đã
đọc một “*truyện
ngắn*” đăng trên một nhật báo lớn nhất ở San Jose năm 1995 với đoạn nhập
đề như sau: “*Hôm đó **Nga** tình tờ gặp **Trí**. Trí có người chị tên *
*Bích** và Bích có người anh rể tên **Hoàng* .” Ngay phần nhập đề, tác
giả đã “quay” độc giả chóng cả mặt bằng cách giới thiệu một lúc bốn nhân
vật mà không biết ai là nhân vật chính ! Có lẽ học trò Lớp Năm ngày xưa
cũng không viết một đoạn văn kỳ lạ đến như vậy. Rất may cho chúng ta là tác
giả không viết tiếp:*“Hoàng có đứa con gái tên **Lisa Nguyễn **và bạn nó
là **Catherin Lê** mới vừa thi hoa hậu áo dài và nó có thằng bồ tên *
*Tony**. ”* Ðọc một đoạn văn dẫn nhập như thế chắc độc giả sẽ ngã ra bất
tỉnh nhân sự ! Thế nhưng khuyết điểm này tôi thường gặp ở khắp mọi nơi nhất
là trong thể loại truyện ngắn hiện đang có khuynh hướng phổ biến ở hải
ngoại.

*Main idea*: Ý chính

Ý chính đây là ý chính của một đoạn văn. Một truyện được nối kết bằng
nhiều đoạn văn. Mỗi đoạn văn có một ý chính. Nếu đọc một đoạn văn mà độc
giả hoặc nhà phê bình không thể đúc kết được ý chính thì đoạn văn đó trở
nên vô giá trị dù tác giả có trổ hết tài văn chương như thế nào đi nữa. Như
chúng ta đã biết một tác phẩm hay sau này có thể được viết rút gọn lại để
cho phù hợp với nhiều trình độ khác nhau. Nếu các nhà biên soạn không sao
hiểu được ý chính của một đoạn văn chắc chắn họ sẽ xếp tác phẩm ấy sang một
bên. Sự kết thúc ý chính của một đoạn văn thường được nhận thấy bằng dấu
chấm xuống hàng và thụt lui đầu dòng.

*Metaphor*: Phép ẩn dụ, so sánh gián tiếp hai vật khác nhau nhưng lại có
những nét chung.

Thí dụ:

*Sao** là những **ngọn nến** lung linh trên trời.*

*Mẹ già như chuối ba hương*

*Như sôi nếp một như đường mía lau ** (Ca Dao)*

*Em** là dòng dõi **Nàng Tô Th**ị *(*Cung Trầm Tưởng*)

*Mood*: Tâm trạng tức trạng thái tâm lý do tác giả tạo ra trong truyện.

*Motif*: Yếu tố chủ yếu, mấu chốt trong chuyện. Chẳng hạn cô gái kết hôn
với hoàng tử trong các câu truyện thần tiên. Cô gái hóa thành chồn tinh
trong truyện Liêu Trai Chí Dị.

*Motivation*: Ðộng lực, lý do thầm kín.

*Onomatopoetic**: *Xử dụng những chữ tượng thanh.

Thí dụ: *Ðì đẹt** ngoài sân tràng pháo chuột*

*Om sòm** bên vách bức tranh gà*

*Chí cha chí chát** khua giày dép*

(Trần Tế Xương )

*Tiếng suối chảy **róc rách**.*

*Súng nổ **ầm ầm**.*

*Tiếng pháo nổ **đì đùng*

*Tiếng trẻ nhỏ nói **bí bô**.*

*Ông Tây **xí xô xí xào**.*

*Tiếng mau **sầm sập** như trời đổ mưa (Kiều)*

*Tiếng lá rơi **xào xạc**.*

*Những chiếc lá **khô khố**c lăn **lông lốc** trên đường.*

*Personification*: Nhân cách hóa

Gán cho đồ vật, con vật một ý nghĩ, cảm xúc như con người.

Thí dụ:

-*Chiếc xe lửa nặng nề, mệt nhọc, **thở dài** một tiếng rồi dừng lại
trên sân ga.*

*- Từng đợt sóng vỗ bờ rì rào thong thả chạy vào bờ, trào bọt trắng như
muốn **vỗ về** xóm chài nhỏ bé đang chìm đắm trong giấc ngủ về
đêm.(Trích truyện dài Chọn Lựa) *

* - Giấc mơ đó cứ **thì thầm** bên gối nàng biết bao đêm như
vậy.*

*Plot*: Bố cục

Cách sắp xếp các diễn biến sao cho hợp lý, hấp dẫn.

*Point of view*: Quan điểm của tác giả.

*Pun*: Lối chơi chữ

Với mục đích khôi hài, mỉa mai, châm biếm. Điều này có thể thấy rất
nhiều trong văn chương bình dân Việt Nam, chẳng hạn như “*lớn lại*” là “*lái
lợn*”, “*tượng lo*” là “*lọ tương*”.

*Realism: *Hiện thực - tức mô tả sự kiện đúng như trong cuộc sống, không
lý tưởng hóa, lãng mạn hóa hoặc cường điệu.

*Resolusion*: Kết cuộc, kết thúc.

*Rhyme and Rhythm*: Xử dụng vần điệu, nhạc điệu của ngôn ngữ để tạo tính
trầm bổng cho bài văn, bài thơ.

Thí dụ: Trong Quê Mẹ của Thanh Tịnh, đoạn văn sau đây rất trầm bổng và
đầy nhạc điệu:

“*Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều, trên không có
những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức, hoang mang của buổi tựu
trường. Buổi mai hôm ấy, buổi mai đầy sương thu và đầy giá lạnh*…”

*Rising action*: Xung đột mỗi lúc mỗi trở nên căng thẳng.

*Satire*: Tính trào phúng, tính trào lộng.

*Setting*: Bối cảnh, khung cảnh mà câu truyện xảy ra thường bao gồm thời
gian và không gian/địa điểm. Nếu không nói rõ không gian và thời gian, sau
này các nhà đạo diễn sẽ vô cùng bối rối nếu tác phẩm được quay thành phim.

*Simile*: Ví von

Dùng những chữ như: Như thể, giống như, chẳng khác nào.

Thí dụ:

- *Sương **như** búa bổ mòn gốc liễu. (Cung Oán Ngâm Khúc)*

*- Nàng vũ nữ có thân hình uyển chuyển **như** một con mèo.*

*- Nó nói dối **như** cuội.*

*Stereotype*: Rập lại khuôn mẫu có giá trị bất di bất dịch. Thí dụ:

- *Mai cốt cách, tuyết tinh thần. (*Kiều)

(Tuyết tượng trưng cho sự trong trắng, Mai tượng trưng cho sự thanh cao)

*- Chẳng hạn như bà mẹ ghẻ trong các câu truyện thần tiên *(Tấm Cám,
Cinderella, Cô Bé Lọ Lem)

- *Gian ngoan như Tào Tháo*

*Style:* Lối hành văn – chẳng hạn như Hemingway nổi tiếng vì đã dùng
những câu văn ngắn gọn và dễ hiểu.

*Supporting details*: Những chi tiết, tình tiết để dẫn chứng cho một
hình ảnh mà tác giả đưa ra. Chẳng hạn khi tác giả nói hắn là một gã lưu
manh thì phải có những chi tiết dẫn chứng xem gã lưu manh như thế nào.

*Symbol*: Tượng trưng, tiêu biểu

*Theme*: Chủ đề (tình yêu, chiến tranh, xã hội, tù đày…)

*Tone*: Văn phong

Văn phong là nét độc đáo của từng tác giả. Có tác giả thích lối văn cầu
kỳ, có tác giả thích lối văn châm biếm cay độc hoặc hài hước hoặc lãng mạn,
bình dị.

*Voice*: Tính độc đáo – Không thể tìm thấy nơi tác giả khác. Nếu nhà văn
không tạo được tính độc đáo thì tác phẩm của mình sẽ chết trong đám loạn
quân.



II- CÁC THỂ LOẠI VĂN CHƯƠNG (*)

Nền văn chương của Tây Phương đã phát triển tới đỉnh cao cho nên hết sức
đa dạng và phong phú. Sau đây là một số thể loại văn chương:

- Truyện Ngụ Ngôn ( Allegory)

- Tự Truyện (Autobiography) viết về cuộc đời của mình

- Tiểu Sử ( Biography) viết về cuộc đời của người khác

- Thơ Trào Phúng (Burlesque)

- Bình luận (Criticism)

- Truyện Trinh Thám (Detective Story)

- Nhật Ký (Diary)

- Kịch (Drama)

- Thiên Sử Thi, Thiên Anh Hùng Ca (Epic)

- Thơ viết dưới dạng thư gửi cho ai (Epistle)

- Tiểu Luận ( Essay)

- Truyện Cổ Tích (Fable)

- Truyện Quái Ðản, Hoang Ðường (Fantasy) chẳng hạn trong đó có
những con thú, cái máy biết nói tiếng

người. Tây Du Ký thuộc thể loại vừa Dã Sử , Huyền Thoại
(Legend) vừa hoang đường (Fantasy).

- Tiểu Thuyết (Fiction)

- Truyện Dân Gian (Folklore)

- Truyện Ma (Ghost Story)

- Huyền Thoại, Dã Sử (Legend) truyện thêm thắt dựa vào một nhân
vật lịch sử có thật.

- Truyện Thiếu Nhi (Literature for Children)

- Bài Hát Ru Con (Nursery Rhyme)

- Thơ Nhại (Parody) nhại một bài thơ khác

- Thơ (Poetry)

- Tiểu Thuyết Diễm Tình (Romance)

- Trường Thiên Tiểu Thuyết (Saga)

- Hài Kịch (Satire)

- Truyện Ngắn (Short Story)

- Truyện Kinh Dị (Suspense Story) không phải truyện ma, trong đó
tạo ra những tình huống kinh hoàng khi

con người phải đối đầu với cái chết. Tây Phương phát triển
rộng rãi bộ môn này và lan qua kịch kinh dị,

phim kinh dị “*toát mồ hôi lạnh*”như loại phim Hitchkok cuối
thập niên 1960. Còn văn chương Việt Nam

ít thấy truyện kinh dị, có lẽ do tâm tính, văn hóa và ảnh hưởng
tôn giáo chăng?

- Truyện Phóng Ðại (Tall Tell) như đấm một cái chết con voi, búng
một cái chết con cọp, nhảy một cái qua

ngọn núi.

II- MỘT SỐ KINH NGHIỆM VIẾT VĂN

*T*ôi nghĩ rằng bất cứ nhà văn nào sau một thời gian cũng sẽ rút ra được
một số kinh nghiệm. Ðối với tôi, giai đoạn từ 1986 tới 1995 là giai đoạn
say sưa viết và chưa rút ra kinh nghiệm hoặc chỉ kinh nghiệm chút ít. Dĩ
nhiên kinh nghiệm của mỗi nhà văn đều khác nhau nhưng cùng chung một mục
đích sao cho tác phẩm hoàn thiện, tránh những khuyết điểm nhỏ nhặt đáng
tiếc làm hư tác phẩm.

*Thứ nhất*: Phải viết bằng cả khối chân tình và rung động. Không ai buộc
nhà văn phải trải qua những tình huống đề cập trong truyện bởi không một ai
có thể có đủ mọi thứ kinh nghiệm trên cõi đời. Do đó nhà văn có thể tưởng
tượng hoặc hư cấu. Nhưng dù hư cấu, tưởng tượng như thế nào đi nữa, nhà văn
phải rung động hoặc thích thú với những gì mình viết ra. Bất kỳ một sự làm
dáng, cường điệu nào cũng sẽ làm hỏng tác phẩm. Ngoài ra, viết theo mệnh
lệnh, viết theo thiên kiến, viết theo thị hiếu của quần chúng, xu thời cũng
sẽ hỏng tác phẩm.

*Thứ hai*: Không có một luật lệ nào buộc nhà văn phải viết thế này, phải
viết thế kia. Trong khi viết văn, nhà văn là Ông Trời. Ông ta có thể cho
người chết đã ngàn năm, sống dậy và nói chuyện khơi khơi với chúng ta. Ông
ta cũng có thể cho một cô công chúa cành vàng lá ngọc lấy một tên vô loại
xấu xa. Ông ta có thể cho một bà mệnh phụ lấy ngay người đầy tớ của mình.
Nhưng cho dù hư cấu như thế nào đi nữa nhà văn vẫn phải thuyết phục được
độc giả chấp nhận câu chuyện mà ông ta bịa đặt, rồi vui buồn, phẫn nộ,
thống khoái, kinh hoàng với những gì ông ta viết. Ðó chính là thiên tài của
nhà văn làm cho câu truyện sống động, hợp lý.

*Thứ ba*: Nhà văn không phải đơn thuần diễn tả sự kiện vì tác phẩm còn
bao gồm tư tưởng và xúc cảm do chứng kiến, do hồi ức hay do tưởng tượng.
Nếu muốn tìm hiểu sự kiện không thôi thì nên đọc báo. Nhà văn có thể dùng
ngôn ngữ rất bóng bẩy hoặc lối văn hàm ngụ hoặc ẩn dụ cho nên một đoạn văn
có thể tối nghĩa với người này nhưng lại gây thích thú cho người khác. Do
đó muốn thưởng thức văn chương cũng cần phải làm quen với văn chương, phải
đọc nhiều, phải suy nghĩ nhiều. Người đọc không cần phải từng trải việc đời
nhưng cần có đầu óc bén nhạy để hiểu được và cảm được những gì người khác
đã trải, đã cảm nghiệm, đã suy nghĩ.

Nói vậy không có nghĩa nhà văn muốn viết thế nào thì viết. Dù dùng nhiều
ẩn dụ, dù dùng ngôn ngữ bóng bẩy, dù dùng lối văn hàm ngụ - vẫn có một giới
hạn - đó là người đọc phải hiểu nhà văn viết cái gì. Muốn người đọc hiểu
mình viết gì, nhà văn phải dùng những câu văn trong sáng. Có điều luẩn quẩn
là, muốn tạo một đoạn văn trong sáng chỉ cần tránh một đoạn văn tối nghĩa.
Ðoạn văn tối nghĩa là đoạn văn mà người đọc không hiểu tác giả muốn nói gì.
Khi chính nhà văn còn chưa rõ ý nghĩa của câu văn mình viết ra thì nên bỏ
câu văn hoặc đoạn văn đó, đừng tiếc. Muốn có một đoạn văn trong sáng thì
nhà văn phải dùng chữ cho chính xác. Một đoạn văn dùng chữ không chính xác
có khi chưa hẳn là đoạn văn tối nghĩa nhưng khiến người đọc *hiểu lầm* ý
của mình. Sau đây là một vài thí dụ về cách xử dụng chữ cho chính xác:

*1. **Dù quen nhau đã lâu mà chàng không dám **tâm sự** cùng nàng.*

*2. **Dù quen nhau đã lâu mà chàng không dám **ngỏ ý** cùng nàng.*

Câu 1: Chàng không dám tâm tình với nàng chuyện gì đó.

Câu 2: Chàng không dám nói rằng (ngỏ ý rằng) chàng đã yêu nàng.

*3. **Chàng ta hùng hổ tiến tới.*

4. *Chàng ta hùng dũng tiến tới*.

Câu 3: Chàng ta tiến tới với thái độ gây hấn.

Câu 4: Chàng ta tiến tới với thái độ tự tin.

Nói tóm lại, phải chọn chữ và câu văn thích hợp để trình bày, diễn tả
một không khí thống nhất, thích hợp với một tình thế nào đó. Chẳng hạn
không thể có một chữ, một câu văn bỡn cợt trong đoạn văn đang mô tả một
không khí trang nghiêm - nếu không phải là truyện hài hước. Tôi còn nhớ kỷ
niệm “tập làm văn” năm 1955 khi còn học Đệ Thất (Lớp 6 bây giờ). Trong một
bài luận văn, để diễn tả nỗi vui của trẻ thơ, học sinh tôi đã dùng
danh từ “*khoái
tỉ* “. Sau khi chấm bài xong, giáo sư gọi tôi lên nói “*Chữ “khoái tỉ”
không được đứng đắn em không nên dùng trong văn chương*.” Nghe thầy dạy
thế, tôi hiểu ngay. Hai chữ “*khóa tỉ*” tức vui sướng- là ngôn ngữ đường
phố của bọn trẻ con chúng tôi. Trải qua 57 năm tức hơn nửa thế kỷ mà tôi
vẫn còn nhớ bài học văn chương quý giá này. Ngoài ra, chúng ta phải chọn
chữ thật dịu dàng, dễ thương, thật nhẹ và thật thơ mộng để mô tả buổi gặp
gỡ đầu tiên của mối tình đầu. Chúng ta hãy đọc một đoạn văn mô tả một cảnh
vượt thác dưới đây để xem khả năng chọn chữ của tác giả: “ *Chiếc phao
nổi chở bốn người **chồm lên**, **nhảy xuống** theo dòng nước cuộn chảy.
Nước từ trên cao **đổ xuống ầm ầm** làm cho người ta có cảm tưởng họ
đang **vật lộn với con thủy quái** hung dữ đang **vùng vẫylàm bắn tung
bọt nước trắng xóa**.” (Trích trong Reading Literature của nxb McDougal,
Littell)*

*Thứ tư*: Phải tránh những đoạn văn thừa thãi. Ðoạn văn thừa thãi làm sự
tập trung của độc giả bị gián đoạn và đôi khi gây phản ứng bực bội. Mỗi câu
văn viết ra đều có ý tứ, không ngoài mục đích dẫn dắt độc giả đi tới. Do
đọc nhiều, tôi nhận thấy những đoạn văn thừa thãi phát xuất từ tính dễ dãi
của người viết hoặc người viết muốn khoe kiến thức của mình. Do có những
đoạn văn thừa thãi mà tác phẩm trở nên nhạt nhẽo khiến không hấp dẫn người
đọc.

Chúng ta nên nhớ rằng một tác phẩm văn chương không phải là một tài liệu
phô diễn kiến thức. Muốn tìm hiểu kiến thức người ta sẽ không tìm đến sách
văn chương. Khi nhà văn đang mô tả đôi tình nhân trong một quán nhỏ ngồi
bên nhau với ly ruợu, má người đàn bà ửng hồng vì men rượu song cũng vì men
tình mà tác giả lại chuyển sang bàn về hằng trăm thứ rượu chát (rượu vang)
có trên cõi đời này để khoe kiến thức thì đúng là tiểu thuyết kiếm hiệp câu
giờ của Kim Dung. Những chi tiết thừa thãi này sẽ làm hỏng tác phẩm.

Một tác phẩm có giá trị là một tác phẩm cô đọng. Cô đọng không có nghĩa
là thiếu, nhưng chắc chắn không thừa. Sau hai mươi năm viết văn, giả thử
bây giờ cho tôi viết lại tất cả các tác phẩm mà tôi đã xuất bản, thì tất cả
những tác phẩm đó chỉ còn lại hai phần ba số trang là cùng. Nói khác đi,
mới khởi đầu viết người ta có khuynh hướng viết cho thật nhiều, viết tràng
giang đại hải. Nhưng khi đã viết nhiều rồi thì lại muốn viết ngắn, viết cô
đọng. Cái khác biệt giữa nhà văn mới vào nghề và nhà văn trưởng thành ở chỗ
đó.

*Thứ năm*: Thời gian và không gian của tác phẩm cần phải nêu rõ và chính
xác. Không nên viết về những gì mà mình không chắc chắn. Những gì không
chắc chắn nên coi lại các tài liệu lưu trữ. Cách trang phục, ăn nói của mỗi
thời đại, mỗi nơi đều khác nhau. Trí nhớ và đầu óc tưởng tượng của con
người dù sao cũng có giới hạn. Ngoài ra nhiều hình ảnh cũng đã phai mờ theo
thời gian và lầm lẫn niên hiệu, ngày, tháng. Leon Tolstoi khi viết bộ Chiến
Tranh và Hoà Bình đã phải đi đến tận nơi quan sát địa thế để viết về những
trận đánh. Khi viết truyện ngắn “Songkhla Dậy Sóng” tôi đã phải mở sách
tham khảo để nghiên cứu về Thái Lan, Thị Trấn Songklha cùng một số bờ biển
Thái Lan cũng như các tên gọi như Surat, Thom, U Thai, Khamphaeng đều lấy
ra từ những tài liệu này. Nhờ đã từng đi qua các nơi như Phan Thiết, Vũng
Tàu và một vài bến cảng ở Hoa Kỳ cùng đọc những truyện về cướp biển– chính
những kinh nghiệm đó đã giúp tôi tìm ra được những cái tên như Quán Biển
Xanh, Quán Giang Hồ, Con Tàu Lươn Biển, Con Tàu Sóng Thần làm cho câu
truyện vừa thơ mộng, vừa có tính trinh thám.

*Thứ sáu*: Nên viết truyện ngay trên máy điện tử. Trước đây ở vào những
năm đầu của thập niên 1990 khi máy điện tử đã trở nên cực kỳ phổ thông và
giá đã hạ, một số người khuyên tôi nên dùng máy điện tử để viết văn, tôi
một mực từ chối. Lý do thứ nhất là viết văn trên máy điện tử đòi hỏi phải
học đánh máy là điều tôi ghét thậm vì khó và phải đánh máy cả mười ngón
tay. Thứ hai viết văn bằng máy điện tử làm mất cả hứng. Nhà văn với cây bút
đã trở thành thói quen cả mấy trăm năm nay rồi. Nay buộc ngồi trước chiếc
máy điện tử coi bộ gò bó quá. Nhà văn cần phải lang thang vớ vẩn, có khi
phải nằm dài ra để suy nghĩ, có khi phải nhâm nhi cà-phê, phì phèo thuốc
lá. Cho nên tôi nhất định không chịu viết văn trên máy điện tử. Thế nhưng
do nhu cầu đọc và viết điện thư cho nên dù muốn dù không tôi cũng phải ngồi
trước chiếc máy điện tử đánh máy lai rai. Lâu rồi cũng thành thói quen và
từ năm 1997 đến nay tôi đã chính thức viết văn bằng máy điện tử mà không
thấy trở ngại và cũng chẳng thấy gì gọi là mất hứng. Ðiều này giúp tôi giải
quyết một vấn nạn đã làm tôi khổ tâm trong bao năm nay là phải chép lại vài
trăm trang của bản thảo – một công tác mà tôi coi như lao động khổ sai. Dĩ
nhiên khi đi xa không thể đem theo máy điện tử, tôi có thói quen đem theo
một xấp giấy bỏ trước túi áo. Tưởng tượng ra điều gì hoặc sáng tác được bài
thơ nào tôi ghi ra ngay và khi về thì đánh máy lại. Viết văn bằng máy điện
tử quen rồi cũng thấy thú vị và trở nên ghiền và nhất là tiết kiệm được vài
trăm đô-la nếu sau này chúng ta có ý định xuất bản tác phẩm. Ngoài ra lại
còn tránh được tai nạn *hỏi – ngã* đang là một vấn nạn lớn ở hải ngoại
bây giờ. Nếu mình nhờ người ta đáng máy, phần lớn những người đánh máy thuê
ăn tiền trình độ học vấn thấp cho nên thường lẫn lộn giữa dấu hỏi và dấu
ngã làm cho người đọc hết sức bực mình và làm giảm giá trị của bài văn, bài
thơ, và có thể di hại đến nhiều thế hệ sau này nhất là thế hệ trẻ ở hải
ngoại không được học cũng như không được dạy Việt Ngữ đúng mức.

Vào ngày 11 Tháng 9, năm 2001 khi khủng bố tấn công vào Trung Tâm Thương
Mại Thế Giới ở New York và Hoa Kỳ đã mở cuộc tấn công vào hang ổ của nhóm
khủng bố Taliban và từ đó cái tên A Phú Hãn xuất hiện trên mặt báo chí
không thiếu một ngày nào. Thế nhưng ở San Jose và Westminster không thiếu
gì những tờ báo lớn đã nhiều lần đi những hàng chữ lớn *A Phú Hản* (dấu
hỏi) thay vì *A Phú Hãn* (dấu ngã). Nếu sai sót này cứ kéo dài mãi thì
chẳng bao lâu nữa sẽ xuất hiện một thứ “*Việt Ngữ* “ quái đản ở hải
ngoại với Hoàng Xuân Hãn, Trần Nguyên Hãn sẽ biến thành Hoàng Xuân Hản và
Trần Nguyên Hản và những câu thơ trác tuyệt trong Kiều hay Chinh Phụ Ngâm
hoặc Cung Oán Ngâm Khúc cũng sẽ lộn tùng phèo như sau:

*Dưới cầu nước **chãy** trong veo*

*Bên cầu tơ **liểu** bóng chiều thướt tha* (Kiều)



*Lò cừ nung nấu sự đời*

*Bức tranh vân **cẫu vẻ** người tang thương *(Cung Oán)



*Vầng trăng ai **xẽ** làm đôi*

*Nữa** in gối chiếc **nữa** soi dặm trường* ( Chinh Phụ Ngâm)

Không phải chỉ hải ngoại mới có “thảm họa hỏi- ngã “ mà ngay
trong nước cũng vậy. Tình cờ vào một siêu thị tôi thấy trên chai nước chấm
sản xuất ở Việt Nam ghi *Nước Mắm Pha Sẳn *thay vì phải ghi *Nước Mắm
Pha Sẵn.*

Sau hết, viết văn trên máy điện tử dù tiện lợi song có điều ai cũng phải
công nhận là đối với những nhà văn có tài, người đời sau muốn mua lại các
bản thảo thì đành chịu thua. Viết văn trên máy điện tử người ta có khuynh
hướng sửa chữa ngay cho nên không thể nào có bản thảo - ngoại trừ các tác
phẩm viết dở dang đã được lưu trữ vào đĩa và có thể coi đó như bản thảo.

*Đào Văn Bình*

*(Trích sách 20 Năm Viết Văn xb năm2004)*

(*) *Sách Literature của **McDougal** , **Littell*



--





*Giáo sư Trần Ngọc Ninh (1923 – 2025) và ước vọng duy tân*

-

*Ngô Thế Vinh*

16-8-2025

* Giáo sư Trần Ngọc Ninh đã ra đi thanh thản ở tuổi 103 vào ngày 16
tháng 7 năm 2025 tại Bệnh viện Hoag, thành phố Newport Beach, miền Nam
California. Tin** tức** về sự qua đời của **g**iáo** sư** chỉ được gia
đình thông báo hai tuần sau đó, theo đúng nguyện vọng của thầy về một tang
lễ Phật giáo vô cùng đơn giản,* *được** tổ chức **riêng tư trong** phạm
vi** gia đình. Không có cáo phó, không có điếu văn, và gia đình đã thực
hiện đúng những gì thầy mong muốn. Thầy được an táng tại nghĩa trang Loma
Vista Memorial Park**,** thành phố Fullerton, cách Little Saigon khoảng
20 km, bên cạnh phần mộ của người vợ quá cố, mất vào năm 20**2**0 trong
thời kỳ đại dịch Covid-19. Bia mộ của thầy rất giản dị, không ghi học hàm
hay danh hiệu – chỉ khắc tên thầy v**à** pháp danh “Orgyen Karma, biểu
tượng cho hoạt động giác ngộ”.*

*******

“*Tôi mơ về một nước Việt Nam hòa bình, tân tiến trên nền tảng của những
giá trị tinh thần mà lịch sử đã nhồi vào nền văn hiến của nước ta. Cả cuộc
đời xã hội của tôi là để đóng góp vào sự ước mong ấy*” – Trần Ngọc Ninh,
Ước Vọng Duy Tân, 2012

*Hình** 1:* *(Trái) Đến thăm Gs Trần Ngọc Ninh, Huntington Beach ngày 21
và 29.6.2018. Ở tuổi 95 mà Thầy vẫn còn rất minh mẫn và sắc bén; trên bàn
là những số báo Tình Thương (1963-1967) có các bài viết của Thầy. Hình
phải, Gs Trần Ngọc Ninh đang ký tặng Ngô Thế Vinh cuốn Làm Gì**?** (1979),
bên cạnh là tác phẩm Nuôi Sẹo của Thư Quán Bản Thảo do nhà văn Trần Hoài
Thư tặng Gs Trần Ngọc Ninh. Nguồn: Tư liệu Ngô Thế Vinh*

TIỂU SỬ

Trần Ngọc Ninh, tên thật, còn có bút hiệu Kỳ Ngọc, Trần Ngọc, Trần Lê
sinh ngày 6 tháng 11 năm 1923 tại Hà Nội, nguyên quán Ninh Bình Bắc Việt.
Thân phụ là giáo viên nghèo, đôi khi nhà không đủ ăn; vừa đi học vừa viết
báo phổ thông y học như tờ Vui Sống để kiếm sống với bút hiệu Kỳ Ngọc; một
số bài báo còn sưu tập được đã đăng lại trong Tuyết Xưa [2].

• 1939 học sinh trường Bưởi, sinh viên Khoa học ban Toán cùng với Triều
Sơn, rồi chuyển sang học Y khoa

• 1946-1948 nội trú các bệnh viện Hà Nội

• 1948 thi đỗ Tiến sĩ Y khoa và trình luận án: “Contribution à la
Physiopathologie des Traumatismes Thoraciques”

• 1949 Diplôme de Docteur en Médecine, France

• 1948-1950 bác sĩ thường trú bệnh viện Yersin / Phủ Doãn Hà Nội

• 1952-1954 sang Pháp du học với Gs Robert Merle d’Aubigné ở bệnh viện
Cochin về ngành giải phẫu chỉnh trực và với Gs Pierre Petit về ngành giải
phẫu tiểu nhi ở bệnh viện St Vincent de Paul; qua Anh tu nghiệp về giải
phẫu thần kinh ngoại vi và xương sống với Sir Herbert Seddon / London

• 1954 về nước, di cư vào Nam sau Hiệp định Genève. Các giáo sư Phạm
Biểu Tâm, Nguyễn Hữu, Đào Đức Hoành, Ngô Gia Hy, Nguyễn Đình Cát đều từ Hà
Nội vào Sài Gòn… và trở thành ban giảng huấn cốt cán của Đại học Y Khoa Sài
Gòn sau khi người Pháp rút đi.

• 1961 Thạc Sĩ Y khoa Pháp / Agrégation des Facultés Françaises de
Médecine (Section Chirurgie Orthopédique).

• 1962-1975 giáo sư và trưởng khoa phẫu khoa chỉnh trực và phẫu nhi
khoa, Đại học Y khoa Sài Gòn, Việt Nam

• 1965-1966 Tổng trưởng Văn hóa Xã hội đặc trách Giáo dục Việt Nam Cộng
Hòa, chủ trương phát triển phong trào thanh niên, đưa Hướng đạo vào sinh
hoạt học đường.

• 1962-1975 trưởng khoa phẫu thuật chỉnh trực, Bệnh viện Bình Dân Sài Gòn

• 1966-1975 giáo sư Văn minh Đại cương và Văn Hóa Việt Nam, Đại học Vạn
Hạnh Sài Gòn, Việt Nam

• 1965 thành viên sáng lập Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng Giáo dục Đông Nam
Á (SEAMEO / Southeast Asian Ministers of Education Organization) Bangkok &
Singapore

• 1966-1975 hội viên Hội đồng Soạn thảo Danh từ Chuyên môn, Sài Gòn,
Việt Nam

• 1969-1975 hội viên Hội đồng Quốc Gia Giáo dục, Sài Gòn Việt Nam

• 1977 ngày 6 tháng 6, cùng gia đình vượt biển tới đảo Pulau Besar Mã
Lai, chọn định cư tại Hoa Kỳ

• 1978-1980 thi ECFMG & FLEX như một bác sĩ ngoại quốc, vẫn phải qua hai
năm thực tập tại các bệnh viện ở Denver, Colorado; rồi Pittsburg với các Gs
James S. Miles và Gs William B. Kiesewetter

Giữa thời gian đèn sách, ông vẫn hoàn tất một tập luận đề chính trị “Làm
Gì” trên 300 trang, với ghi chú nơi cuối sách: “Viết xong lúc giữa trưa
ngày 24 tháng 3 năm 1979 tại Trường Sơn của Mỹ Châu”. (Rocky Mountains
Ranges Denver, Colorado / ghi chú của người viết)

• 1980 trở lại hành nghề Y khoa tại Nam California, nhưng chủ yếu vẫn là
các hoạt động văn hóa giáo dục; viết bài cho các báo Tập San Y Sĩ, Thế Kỷ
21, Khởi Hành…

• 2000 tham gia Ban Cố vấn Viện Việt Học (Westminster, California) do Gs
Nguyễn Đình Hoà sáng lập

• 2003-2008 Viện trưởng Viện Việt Học, giáo sư giảng dạy lớp Ngữ pháp
Việt ngữ tại Viện Việt Học

• 2018 Ông vẫn minh mẫn ở tuổi 95, hiện cư ngụ tại thành phố Huntington
Beach, miền Nam California.

*TÁC PHẨM*

Văn Hóa

1- Những Vấn đề Văn hóa Giáo dục và Xã hội [Sưu tập Diễn Văn của Gs Trần
Ngọc Ninh, Tổng trưởng Văn hóa Xã hội

đặc trách Giáo dục Việt Nam Cộng Hoà]. Sài Gòn Việt Nam 1966

2- Văn hóa Dân tộc trước những Nhu cầu của Đất nước. Nxb Vovinam, Sài
Gòn Việt Nam 1969

3- Đức Phật Giữa Chúng Ta. Nxb Lá Bối, Sài Gòn Việt Nam 1972

4- Làm Gì? Tập Luận đề Tháng Chín. Với bút hiệu Trần Lê.

Nxb Việt Nam Hải Ngoại, California 1979

5- Tuyết Xưa; Tuyển tập các Vấn đề Văn hóa Việt Nam. Nxb Khởi Hành
California Hoa Kỳ 2000

6- Tố Như và Đoạn Trường Tân Thanh với những giả thuyết mới về Nguyễn Du
và Đoạn Trường Tân Thanh, cũng như mối liên hệ giữa Nguyễn Du và Hồ Xuân
Hương. Nxb Khởi Hành

& Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2004

7- Cơ Cấu Việt Ngữ, Nxb Lửa Thiêng Sài Gòn Việt Nam 1973; Viện Việt Học
California Hoa Kỳ tái bản 2009

8- Dạy Đọc Dạy Viết Tiếng Việt. Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2010

9- Ước Vọng Duy Tân. Văn Hóa, Huyền Thoại, Văn Học Sử. Tuyển tập Trần
Ngọc Ninh. Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2012

10- Ngữ Pháp Việt Nam. Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2017

11- Ngữ Pháp Tiếng Việt Đầu Tiên, Cho Tuổi 5 Năm – 15 Năm.

Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2017

*Y Học*

1- Nhà Thương, Phóng sự, Nxb Văn Hóa Hà Nội, Việt Nam 1946

2- Thượng Kinh Ký Sự / Éthique Médicale de la Médecine Traditionnelle du
Vietnam, d’ après les Mémoires d’un Voyage à la Capitale de Hải Thượng Lãn
Ông (18e siècle), Isis, Bruxelles, Belgique 1950

3- Những Bệnh Cần Cấp Cứu, Gió Việt, Sài Gòn Việt Nam 1956

4- Một Chút Lịch sử Y khoa Đại học đường Sài Gòn. Tập San Y Sĩ, Montréal
Canada 2000

5- Lịch sử hình thành hai Chuyên khoa Y Học: Phẫu khoa Chỉnh trực và
Phẫu Nhi khoa ở Việt Nam. Tập San Y Sĩ, Montréal Canada 2000

6- Hơn 200 bài khảo cứu chuyên khoa được in trong các Tạp chí Y khoa
xuất bản tại Việt Nam, Pháp và Mỹ.

*Hình** 2: **Bìa một số những cuốn sách của GS Trần Ngọc Ninh. Nguồn: Tư
liệu Ngô Thế Vinh*

THƯ TỊCH BÁO CHÍ

Ngoài những tác phẩm đã in thành sách, và các bài khảo cứu chuyên khoa
được in trong các tạp chí Y khoa Việt Nam và quốc tế, Giáo sư Trần Ngọc
Ninh còn viết nhiều bài báo liên quan tới các đề tài văn hóa. Sau đây là
phần Thư Tịch trên ba tạp chí đã được số hóa/ digitized: Tình Thương, Bách
Khoa, Thế Kỷ 21 do thủ thư Phạm Lệ Hương, Viện Việt Học sưu tập. Cũng phải
kể thêm những bài báo trên tạp chí Khởi Hành (1996-2018), chưa có trong
phần thư tịch này.

*TÌNH THƯƠNG*

https://vietecologypress.blogspot.com/p/tinh-thuong.html
<https://vietecologypress.blogspot.com/p/tinh-thuong.html>

• Y tế và chính trị. / Trần Ngọc Ninh. Tình Thương, số 1 (tháng 1-1964),
tr. 9-10.

• Mười lăm năm ấy, kỷ niệm về Triều Sơn. / Trần Ngọc [pseud. Trần Ngọc
Ninh]. Tình Thương, số 1, (tháng 1-1964.), tr. 46-50.

• Những vấn đề hiện tại của giáo dục Việt Nam. / Trần Ngọc Ninh. Tình
Thương, số 3-4 (tháng 3 & 4-1964), tr. 9-11.

• Tinh thần đại học; hay là phiếm luận chung quanh vấn đề đại học. /
Trần Ngọc Ninh. Tình Thương, số 5 (tháng 5-1964), tr. 6-12.

• Ngô Thế Vinh & Nguyễn Hữu Ân: Phỏng vấn giới giáo sư đại học về vấn
đề sinh viên – GS. Trần Ngọc Ninh/ Tình Thương, số 12 (tháng 12-1964),
tr.6-7.

• Ngày mai của nền đại học y khoa Việt Nam/ Trần Ngọc Ninh. Tình Thương,
số 14 (Xuân Ất Tỵ, tháng 1-1965), tr. IV-VI.

• Các vấn đề thanh viên và sinh viên trong thời đại. / Trần Ngọc Ninh.
Tình Thương, số 20 (tháng 8-1965), tr. 17-20.

*BÁCH KHOA*

https://www.nguoi-viet.com/ThuVienNguoiViet/BachKhoa.php?thuvien=1-30
- Xã hội và văn hóa thái cổ Việt Nam. (pt.1) / Trần Ngọc Ninh.

Bách Khoa, số 343, tr. 5-14.
- Xã hội và văn hóa thái cổ Việt Nam. (pt.2) / Trần Ngọc Ninh.

Bách Khoa, số 344, tr. 29-37.
- Đức Phật và sự cải tạo xã hội. (pt.1) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số
345, tr. 9-16.
- Đức Phật và sự cải tạo xã hội. (pt.2) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa,
số 346, tr. 31-39.
- Đức Phật và sự cải tạo xã hội. (pt.3) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa,
số 347, tr. 33-41.
- Tương lai chúng ta. / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 348, tr. 9-12;
71-77.
- Viết về xã hội và văn hóa thái cổ Việt Nam. / Trần Ngọc Ninh. Bách
Khoa, số 349, tr. 39-45.
- Sự kết thúc của chiến tranh Đông Dương II. / Trần Ngọc Ninh. Bách
Khoa, số 351, tr. 9-11.
- Ánh sáng của đạo Phật trong đời sống cộng đồng. (pt.1) / Trần Ngọc
Ninh. Bách Khoa, số 351, tr. 23-30.
- Ánh sáng của đạo Phật trong đời sống cộng đồng. (pt.2) / Trần Ngọc
Ninh. Bách Khoa, số 352, tr. 23-27.
- Ánh sáng của đạo Phật trong đời sống cộng đồng. (pt.3) / Trần Ngọc
Ninh. Bách Khoa, số 353, tr. 31-40.
- Giáo dục là một sự đầu tư cần được quản trị và kế hoạch hóa: Căn
bản kinh tế học của giáo dục. (pt.1 – Viết cho ngày mai của dân
tộc) / Trần
Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 368, tr. 31-38.
- Giáo dục là một sự đầu tư cần được quản trị và kế hoạch hóa: Căn
bản kinh tế học của giáo dục. (pt.2 – Viết cho ngày mai của dân
tộc) / Trần
Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 369, tr. 23-31.
- Giáo dục là một sự đầu tư cần được quản trị và kế hoạch hóa: Căn
bản kinh tế học của giáo dục. (pt.3 – Viết cho ngày mai của dân
tộc) / Trần
Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 370, tr. 23-29.
- Thương thảo về từ-nguyên của hai tiếng “Cái” và “Con” [với ông Bình
Nguyên Lộc] (pt.1) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 373, tr. 19-26.
- Thương thảo về từ-nguyên của hai tiếng “Cái” và “Con” [với ông Bình
Nguyên Lộc] (pt.2) / Trần Ngọc Ninh, Bách Khoa, số 374, tr. 29-37.
- Văn hóa và y khoa. / Trần Ngọc Ninh. Bách khoa, số 374, tr. 43-50.
- Thương thảo về từ-nguyên của hai tiếng”Cái” và “Con” [với ông Bình
Nguyên Lộc] (pt.3) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 375, tr.19-22,
- Thương thảo về từ-nguyên của hai tiếng “Cái” và “Con” [với ông Bình
Nguyên Lộc] (pt.4) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 376, tr. 23-30.
- Ý nghĩa của Truyện Kiều trong dân gian. (pt.1) / Trần Ngọc Ninh.
Bách Khoa, số 381, tr. 13-22.
- Ý nghĩa của Truyện Kiều trong dân gian. (pt.2) / Trần Ngọc Ninh.
Bách Khoa, số 382, tr. 23-31.
- Nguyễn Trãi, huyễn thực và sắc không. / Trần Ngọc Ninh.

Bách Khoa, số 390, tr. 9-15; tr. 82-85.
- Sống với ý thức hệ. (pt.1) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 394, tr.
9-17.
- Ngữ lý học và cơ cấu Việt ngữ. / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 395,
tr. 21-28.
- Sống với ý thức hệ: Các hệ phái sa môn và Bà La Môn qua lăng kính
Phật giáo. (pt.2) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 395, tr. 29-34.
- Sống với ý thức hệ: Các hệ phái sa môn và Bà La Môn qua lăng kính
Phật giáo. (pt.3)/ Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 396, tr. 39-42.
- Sống với ý thức hệ: Các hệ phái sa môn và Bà La Môn qua lăng kính
Phật giáo. (pt. 4) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 397, tr. 33-40.
- Huyền thoại học và huyền thoại lý học trong sự đi tìm nguồn gốc dân
tộc. / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 413, tr. 39-46.
- Y khoa và văn chương. / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 413, tr.
73-79.
- Tư tưởng Việt Nam. (pt.1) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 421-422,
tr. 49-54; 113-117.
- Tư tưởng Việt Nam. (pt.2) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 423, tr.
29-33.
- Tư tưởng Việt Nam. (pt.3) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 424, tr.
31-37.
- Bàn luận về cơ cấu và ngôn ngữ. / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số
425, tr. 39-44.

*THẾ KỶ 21*

https://www.nguoi-viet.com/ThuVienNguoiViet/TheKy21.php
<http://www.nguoi-viet.com/ThuVienNguoiViet/TheKy21.php>

Thư viện Người Việt - Thế Kỷ 21

<http://www.nguoi-viet.com/ThuVienNguoiViet/TheKy21.php>


- Tuởng nhớ ký giả Trần Việt Sơn. / bài nói chuyện của Bác sĩ Trần Ngọc
Ninh, Bích Hằng ghi. Thế Kỷ 21, số 111 (7-1998), tr. 24-31.
- Vấn đề trọng đại nhất của nghìn năm tới: nguy cơ và hứa hẹn. (pt.
1) / Thế Kỷ 21, số 132 (4-2000), tr. 26-34.
- Vấn đề trọng đại nhất của nghìn năm tới: nguy cơ và hứa hẹn. (pt.
2) / Thế Kỷ 21, số 133 (5-2000), tr. 39-44.
- Vấn đề trọng đại nhất của nghìn năm tới: nguy cơ và hứa hẹn. (pt.
3) / Thế Kỷ 21, số 134 (6-2000), tr. 35-38.
- Vấn đề trọng đại nhất của nghìn năm tới: nguy cơ và hứa hẹn. (pt.
4) / Thế Kỷ 21, số 135 (7-2000), tr. 43-48.
- Vấn đề trọng đại nhất của nghìn năm tới: nguy cơ và hứa hẹn. (pt.
5) / Thế Kỷ 21, số 136 (7-2000), tr. 43-47.
- Vấn đề trọng đại nhất của nghìn năm tới: Đặt vấn đề. (pt. 6) / Thế Kỷ
21, số 137 (9-2000), tr. 73-80.
- Những người rỗng (The Hollow men: một bài thơ của T.S. Elliot
(1888-1965). Trần Ngọc Ninh. Thế Kỷ 21, số 148 (8- 2001), tr. 38-44. [Thơ
dịch sang Việt ngữ được tác giả chép tay trang 44]
- Tưởng nhớ nhà văn Phạm Duy Tốn. / Trần Ngọc Ninh. Thế Kỷ 21, số 174
(10-2003), tr. 38-41 & 17.
- Bốn mươi năm sau. / Trần Ngọc Ninh. Thế Kỷ 21, số 175 (11- 2003),
tr. 15-19.
- Hồ Xuân Hương và Đoạn Trường Tân Thanh. [Pt.1] / Trần Ngọc Ninh.
Thế Kỷ 21, số 193 (5-2005), tr. 31-37.
- Hồ Xuân Hương và Đoạn Trường Tân Thanh. [Pt. 2] / Trần Ngọc Ninh.
Thế Kỷ 21, số 196 (8-2005), tr. 36-40.
- Những vấn đề và thách thức của thời đại. / Trần Ngọc Ninh. Thế Kỷ
21, số 207 (7-2006), tr. 18-23.
- Tuyên dương một nhà trí thức Việt Nam. / Trần Ngọc Ninh. Thế Kỷ 21, số
215 (3-2007), tr. 23-24.

*GIÁO SƯ Y KHOA LỖI LẠC*

Nguyễn Lương Tuyền là một trong số môn sinh hiếm hoi của GS Trần Ngọc
Ninh, đã nhận viết về phần sự nghiệp Y khoa của Thầy Ninh. Nguyễn Lương
Tuyền, sinh năm 1945 tại Hải Dương, lớn lên ở Hà Nội. 1954 di cư vào Nam,
học sinh Chu Văn An, 1963 sinh viên Y khoa Sài Gòn, 1968 thủ khoa kỳ thi
Nội trú các Bệnh viện. Làm nội trú rồi thường trú Khu Giải phẫu Trẻ em Bệnh
viện Nhi Đồng với GS Trần Ngọc Ninh là Trưởng khoa. Năm 1975 tỵ nạn Canada,
đã đậu 2 Boards về General Surgery và Pediatric Surgery. Năm 1980 Associate
Professor in Pediatric Surgery tại The Montreal Children’s Hospital, McGill
University.

Nguyễn Lương Tuyền viết:

Những dòng sau đây là phác họa một phần Y nghiệp của vị Thầy của nhiều
thế hệ bác sĩ Việt Nam. Năm nay 2021, Thầy Ninh sắp tròn 100 tuổi.

Bài viết của Thầy Ninh gần đây nhất, liên quan đến Y Học, mà Thầy
gọi là *“Bài
Giảng cuối cùng”,* được đăng trong một số Tập San Y Sĩ tại Canada, Thầy
đã kết thúc bài viết: “Tôi rời Sài Gòn năm 1977 và chế độ Xã hội Chủ nghĩa
bóp méo nền Y Khoa nhân dân, chủ trương kết hợp một Y Khoa khoa học phôi
thai và Nghề thuốc Dân tộc. Trái tim của tôi vẫn hướng về đất nước và nhân
dân Việt Nam. Kí ức của tôi vẫn đầy những hình ảnh yêu thương những cuộc
đời, những hi vọng không thành của con người Việt Nam. Tôi nhìn nhận sự
chịu đựng và can đảm của các anh, các chị khi đổi đời, sự hội nhập rất rực
rỡ của các anh, các chị là một chứng minh rằng nền Giáo dục Y khoa ở Sài
Gòn của nước Cộng Hòa Việt Nam không phải là dở… bài giảng cuối cùng của
đời tôi mong rằng sẽ đem lại cho các anh, các chị một niềm tự tin và tự hào
xứng đáng. Xin chào các anh và các chị – cựu sinh viên của Y khoa Đại học
Sài Gòn”.

GS Trần Ngọc Ninh sinh năm 1923 trong một gia đình có truyền thống làm
nghề dạy học. Năm 1941, Thầy vào học Y Khoa Hà Nội. Thầy kể lại trong tập
sách Một chút Lịch sử Y khoa Đại học đường Sài Gòn [6]: Sự học thuốc ngày
xưa là chuyện thiên nan vạn nan. Anh của Thầy bị lao hạch, một người em 5
tuổi chết vì lao phổi và khi thấy Mẹ của Thầy than khóc: Phải chi gia đình
có một người làm thầy thuốc! Thầy quyết định vào học Y Khoa. Trong nhiều
năm, Thầy vừa đi học vừa viết báo Văn Hóa để kiếm thêm tiền giúp gia đình.
Một gia đình thanh bạch của một nhà giáo.

*Hình** 3: (**Từ phải) Gs May, Gs Trần Ngọc Ninh, Gs Nguyễn Hữu, Gs Phạm
Biểu Tâm, Gs Trịnh Văn Tuất. Nguồn: Album gia đình Gs Phạm Biểu Tâm*

*Hình** 4: **Một buổi họp Hội Đồng Khoa Đại học Y Khoa Sài Gòn. Từ trái,
Gs Trần Ngọc Ninh, Gs Trịnh Văn Tuất, Gs Trần Vỹ, Gs Caubet, Gs Phạm Biểu
Tâm, Gs Huard, Gs Trần Đình Đệ, Gs Nguyễn Đình Cát, Gs Nguyễn Hữu, Gs Ngô
Gia Hy. Nguồn: Album gia đình Gs Phạm Biểu Tâm*

Việc học thuốc của Thầy, vào lúc đó, hoàn toàn bên người bệnh tại nhà
thương. Còn sách vở thì phải vào thư viện gần như mỗi ngày, từ chiều đến
tối, cho đến khi thư viện đóng cửa. Thiết tưởng cũng nên biết trường Y Khoa
được thành lập từ năm 1902 là trường duy nhất dành cho ba nước Đông Dương
(Việt, Miên, Lào). Cho tới khi Thầy Ninh vào học 40 năm sau, trường vẫn
không có nhiều cải thiện vì do tình trạng chiến tranh. Cuộc chiến tranh mà
người cộng sản gọi là giải phóng, giành độc lập, chống lại quân Pháp xâm
lược, bùng nổ ngày 19 tháng 12 năm 1946.

Trường Y Khoa Hà Nội được chia làm hai: Một số theo BS Tôn Thất Tùng vào
bưng biền chiến đấu dưới ngọn cờ chống Pháp do Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
xách động, một số bác sĩ và nhân viên Y Tế đã ở lại Hà Nội, trong số này có
các BS Phạm Biểu Tâm và Trần Ngọc Ninh. Ông cùng một số đồng nghiệp đã từng
bị Pháp bắt vào tù ở Hà Nội. Ít lâu sau, tất cả được trả tự do khi vị Khoa
trưởng Y khoa lúc đó là GS Pierre Huard đã can thiệp với quân Pháp để các
BS và nhân viên Y tế về làm việc tại các Bệnh viện ở Hà Nội.

Từ năm 1946 đến năm 1948, nội trú các Bệnh viện Hà Nội.

Năm 1949, tốt nghiệp Y khoa Bác sĩ với luận án Pathophysiologie des
traumatismes thoraciques.

Từ năm 1948 tới năm 1950, BS thường trú các Bệnh viện Hà Nội. Năm 1952,
sang Pháp du học, Thầy bắt đầu học ở Lyon với GS Guilleminet theo thư giới
thiệu của GS Pierre Huard, Khoa trưởng Đại học Y khoa Hà Nội. Guilleminet
là một GS nổi tiếng bên Pháp về Giải phẫu Chỉnh trực (Chirurgies
Orthopédiques) và Giải phẫu Trẻ em (Chirurgies Infantiles). Ông đã học được
từ GS Guilleminet rất nhiều kỹ thuật, thí dụ như mổ môi bị sứt và chẻ hàm
(bec de lièvre et division palatine), bệnh giả khớp bẩm sinh (pseudarthrose
congénitale). Sau một thời gian học ở Lyon, ông được GS Guilleminet gửi lên
Paris, tiếp tục học Giải phẫu Chỉnh trực với GS rất nổi tiếng tại nhà
thương Cochin là GS Robert Merle d’Aubigné. Đi học với các GS nổi tiếng ở
Pháp là một hành trình đầy gian nan.

*Hình** 5: **Nguyễn Lương Tuyền tới thăm Thầy, GS Trần Ngọc Ninh tại
Huntington Beach, California 2018. Nguồn: Tư liệu Nguyễn Lương Tuyền*

Chúng ta hãy nghe GS Ninh kể lại thời gian đầu của GS trong Service của
GS Merle d’Aubigné:

“Tôi từ Lyon lên Paris để vào làm việc trong Khu Trực Nhi (Service
d’Orthopédie Infantile) của Bệnh viện Cochin, cát bụi tôi lại trở về với
cát bụi. Bốn tháng đầu, tôi lang thang ở hành lang, không được mó tới bệnh
nhân. Muốn xem một tấm X-ray cũng phải xin phép bà Y tá trưởng. Thân phận
của một anh phụ tá ngoại quốc là thân phận của một kẻ lạc loài. Buổi sáng ở
nhà thương, ngồi chồm hổm, mỗi tuần hai lần vào lớp nghe giảng về các bệnh
trong tuần, thu hình một xó như con chó tiền rưỡi… ở cửa ngõ, có khi lên
lầu để ngó qua cửa kính xem Thầy mổ. Buổi chiều ra thư viện hoặc vào phòng
thí nghiệm Mô học/ Histologie xem những slides mà chẳng ai thèm xem. Chán
nản quá, một bữa tôi xin với Thầy để được đi xem những sưu khảo tài liệu
của GS Leucène, đồng thời tôi xin Thầy một đề tài để khảo sát. Hôm sau, Ông
cho gọi tôi lên và bảo tôi thử xem có thể rút tỉa ra được một cái gì từ
“Hội chứng Volkmann đã thành tật”. Ông còn dặn tôi “nếu không làm được thì
hãy nói sớm, Ông sẽ cho một đề tài khác. Từ hôm đó, mỗi buổi sáng, nếu
không theo Thầy, tôi lại đi tìm hồ sơ các bệnh nhân cũ và lần lượt gọi bệnh
nhân trở lại để khám.

Buổi chiều, tôi ra khảo sát ở thư viện, nhưng trong 10 năm sau cùng cũng
chỉ tìm được dăm bài mà không bài nào có thực chất. Tôi đã hơi nản thì thấy
một bài của Sterling Bunnell nói về bệnh của các cơ nhỏ ở bàn tay, không
dính líu gì đến đề tài của tôi nhưng nhờ nó mà tôi có được một ý kiến mới.
Sau khi đã kiểm chứng là ý kiến của mình đúng. Tôi khởi sự viết luận văn và
hoàn thành sau một tuần để trình Thầy.

Hai ngày sau, tôi được nhắn vào gặp Thầy khi Thầy mổ xong. Ca mổ lớn,
gần 3 giờ chiều mới xong. Bà thư ký mời tôi vào gặp Thầy. Ông hỏi tôi: “Ai
dạy anh trình bầy bài khảo luận?” Tôi trả lời là tự tôi. Thầy nói: Tôi
thích cách anh trình bày, tôi đọc bài anh viết tối qua, đọc một mạch. Anh
có ý kiến mới. Từ lâu lắm rồi, tôi không được đọc một bài lý thú như bài
anh viết”.

Bài viết của BS Ninh được GS Merle d’Aubigné gửi đăng ở Revue de
Chirurgie Orthopédique et de Traumatologie – một Revue rất có uy tín ở Pháp
với tác giả là R. Merle d’Aubigné et Trần Ngọc Ninh. Sau “biến cố” đó, GS
Ninh, một cách gián tiếp, được thế giới phẫu khoa về xương công nhận Ông
xuất thân từ “Trường phái Merle d’Aubigné, BV Cochin ở Paris”. Bài viết đã
được phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới. GS Ninh đã được tham dự vào mọi
hoạt động của Khoa / Service. GS R. Merle d’Aubigné còn để GS Ninh được
giảng dạy tại đại giảng đường. GS Ninh nói “sự học của tôi được bảo đảm ở
Paris cũng như ở bất cứ nơi nào trên thế giới”.

*Học Giải phẫu Trẻ em với GS Pierre Petit*

GS Merle d’ Aubigné giới thiệu Thầy Ninh với GS Pierre Petit, một GS nổi
tiếng về Giải phẫu Trẻ em, đang làm Trưởng Khu Giải phẫu Trẻ em tại nhà
thương St Vincent de Paul ở Paris. Hai người rất “tâm đầu ý hiệp”. Thầy vẫn
giữ liên lạc mật thiết với GS Pierre Petit sau khi rời Pháp để trở về VN
năm 1954. Mỗi năm, GS Ninh đều qua Pháp, làm việc với GS Petit ở BV St
Vincent de Paul để “update” về Giải Phẫu Trẻ em trong một tháng.

GS Petit có sang VN vào khoảng năm 1965 để giảng dạy sinh viên Y Khoa
Sài Gòn tại BV Nhi Đồng trong suốt một năm ở Khu Giải Phẫu Trẻ em của GS
Ninh.

Hiệp Định Genève 20/7/1954, GS Ninh về nước.

Sau nhiều tháng bị vây hãm, Điện Biên Phủ thất thủ, Pháp phải ký Hiệp
định đình chiến tại Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954. Đất nước bị “chia đôi”
tại vĩ tuyến 17, miền Bắc cộng sản còn miền Nam là người Việt quốc gia.
Hiệp định cũng dự trù sau 2 năm sẽ có một cuộc tổng tuyển cử để thống nhất
đất nước. Cuộc tổng tuyển cử đã không diễn ra. CSVN đã chuẩn bị chiếm miền
Nam bằng võ lực. Đó là chuyện xảy ra sau này.

Sau khi Hiệp định Genève được ký kết, chánh phủ quốc gia vừa mới thành
lập, ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh ngày 7 tháng 7 năm 1954 với gánh
nặng phải định cư gần 1 triệu người Bắc chạy trốn chế độ cộng sản, di cư
vào Nam. GS Ninh từ biệt các GS Petit, Merle d’Aubigné, để trở về miền Nam,
cùng lúc các bác sĩ, nhân viên y tế từ miền Bắc, nhất là từ các BV Phủ
Doãn, Bạch Mai, di cư vào miền Nam.

GS Phạm Biểu Tâm và một số đông đảo các BS của miền Bắc đã “di chuyển”
trường Y Hà Nội vào miền Nam sáp nhập với chi nhánh Y Khoa ở Sài Gòn để
thành lập Đại học Y khoa Sài Gòn, cùng với các BS thuộc Section de Saigon
như các GS Trần Quang Đệ, Đặng Văn Chiếu, Thái Minh Bạch, Trần Lữ Y, Nguyễn
Phước Đại… Các GS hai miền đã cùng nhau xây dựng một Trường Y Khoa tiên
tiến, đã đào tạo ra những người thầy thuốc có đầy đủ khả năng vững vàng với
trình độ không thua kém các bác sĩ xuất thân từ những trường Y khoa của các
nước tân tiến trên thế giới. GS Trần Ngọc Ninh đã sáng lập và điều hành hai
Khu thiết yếu: Khu Giải phẫu Chỉnh trực, điều trị các bệnh về xương
(Orthopédies) tại BV Bình Dân và Khu Ngoại Khoa Trẻ em (Chirurgie
Infantile) tại BV Nhi Đồng Sài Gòn.

*GS Trần Ngọc Ninh và kỳ thi Thạc sĩ Pháp Quốc*

GS Ninh đã viết, cũng trong Tập sách “Một chút Lịch Sử Y khoa Đại học
Sài Gòn” [6] do Hội Y Sĩ VN Canada ấn hành 2002: “Với chức vụ phụ trách
lớp hay giảng sư, tôi chỉ là con số không: không được vào Hội đồng Khoa để
chính thức dự bàn vào công việc của trường Y Khoa. Tôi quyết định lấy bằng
Agrégé / bằng Thạc sĩ Pháp. Trên thực tế chỉ là bằng để dạy học.

Năm 1962, tôi được các GS Guilleminet, Merle d’Aubigné cho biết các ông
sẽ về hưu và một kỳ thi Thạc sĩ sẽ được tổ chức, tuyển Thạc sĩ cho 2 môn
này. Sau khi hỏi rõ về ngày giờ thi, tôi xin phép ông Khoa Trưởng để đi thi
và được phép xuất ngoại.

Đến Paris, tôi mới biết rằng có 12 người dự thi cho 8 chỗ: Paris 2, Lyon
1, Bordeaux 1 nhưng không có chỗ nào do Sài Gòn xin và tôi không có tên
trong danh sách các thí sinh dự thi. Tôi là đứa con côi, vô thừa nhận. Còn
có 7 ngày thì kỳ thi bắt đầu, tôi lên Văn phòng Khoa Trưởng Y Khoa thì được
trả lời là việc thi cử đó không phải là việc của Khoa Trưởng. Tôi lên hỏi
Bộ Giáo Dục. Bộ Giáo dục trả lời là quyết định về kỳ thi là do Hội đồng
Giáo dục cao cấp, 6 tháng nữa mới họp lại. Vả lại Sài Gòn không có chỗ
trống thì thi rồi sẽ về đâu?

Trước cái viễn tượng khăn gói trở về, tay trắng lại hoàn tay trắng, tôi
quyết định một quân bài chót, viết một lá thư gửi cho Tổng thống Pháp
Charles de Gaulle, xin được đặc cách đi thi, không phải để lấy chỗ nào cả.
Lá thư được gửi bằng ống hơi / pneumatique đến Điện Élysée. Điều lạ lùng là
sáng ngày hôm sau, tôi nhận được một lá thư bằng pneumatique từ văn phòng
của TT gửi ra, cho biết TT sẽ tiếp tôi vào ngày mai lúc 10 giờ sáng. Cuộc
tiếp xúc diễn ra ở phòng đợi và rất ngắn. TT bước ra với một ông béo, lùn
và chỉ nói: “Tôi xin lỗi, tôi không nghe ông được. Ông nói với Cố vấn Giáo
Dục của tôi” rồi đi vào.

Sau khi nghe tôi trình bày, Ông Cố vấn nói: “Tôi sẽ trình TT, tôi không
hứa gì cả. Ông sẽ nhận được tin vào lúc thuận tiện”. Và tôi ra về.

Hai hôm sau, tôi nhận được lá thư bằng pneumatique. Giấy của Bộ Giáo dục
nói rằng tôi được phép dự kỳ thi Agrégation des Facultés Françaises de
Médecine, Section de Chirurgie Orthopédique. Tôi chỉ cần có thế, đúng in
như thế. Tôi đã đến, đã thi và đã đỗ. Sau khi thi, GS Guilleminet, đến từ
Lyon đã đón tôi. Ông dẫn tôi vào một restaurant để ăn món ốc bourgogne. Tôi
mời ông sang VN. Ông đã nhận lời. Khoa Giải phẫu trẻ em được thành lập từ
đó, trong vinh quang”.

GS Trần Ngọc Ninh đã xây dựng lên hai chuyên khoa quan trọng của Đại học
Y khoa Sài Gòn. Ông điều hành hai chuyên khoa này, và không ngừng phát
triển, tiến bộ không thua bất kỳ nơi nào trên thế giới. Công trình vun đắp
của ông đã bị những người CS miền Bắc phá vỡ, đưa Y khoa của miền Nam giật
lùi hàng ba, bốn chục năm. [Nguyễn Lương Tuyền, MD, FRCSc]

*VỚI BÁO** SINH VIÊN Y KHOA** TÌNH THƯƠNG*

Học Y khoa, tôi không phải là học trò theo cái nghĩa là đệ tử ruột của
Gs Trần Ngọc Ninh: Học trò của Thầy Ninh ở trường Y có thể đếm trên mười
đầu ngón tay. Rất sớm có Bùi Duy Tâm, Phạm Văn Biểu, cả hai đều dở dang,
rồi Vũ Văn Nguyên mất sớm khi du học Mỹ, và sau này là Trần Xuân Ninh (Ninh
Con, để phân biệt với Ninh Bố là Thầy Ninh), Võ Thành Phụng, Nguyễn Văn
Quang, Nguyễn Lương Tuyền… Khác với Gs Phạm Biểu Tâm được sinh viên Y khoa
yêu mến; với Gs Trần Ngọc Ninh, sinh viên có thể nể phục tài năng kiến thức
và cả cái uy của ông nhưng một số không thích ông vì quá nghiêm khắc.

Tôi gần gũi với Gs Trần Ngọc Ninh không phải bên giường bệnh hay trong
phòng mổ nơi các bệnh viện, mà chủ yếu qua những hoạt động sinh viên với tờ
báo Tình Thương trong khoảng thời gian 1963- 1967. Các bài viết của Thầy
Ninh trên báo SVYK Tình Thương đều với một tầm nhìn chiến lược đặt ra những
vấn đề lớn của nền Y tế, Giáo dục và Văn hóa Việt Nam, cho đến nay vẫn còn
nguyên tính thời sự.

*TRẦN NGỌC NINH VÀ NUÔI SẸO*

Ngay từ số Tình Thương ra mắt, qua Gs Trần Ngọc Ninh, toà soạn đã nhận
được bản thảo truyện dài Nuôi Sẹo của Triều Sơn và bắt đầu cho đăng từng kỳ
trên báo với lời giới thiệu trang trọng: “Nuôi Sẹo là một tác phẩm mà nhiều
nhà văn tìm đọc từ hơn 10 năm nay [thời điểm 1964, ghi chú của người viết].
Cuốn truyện đã không thể xuất bản được ở miền Bắc, cộng sản. Nó cũng không
thể ra đời được ở miền Nam, dưới chế độ cũ. Tác giả là Triều Sơn, một sinh
viên đã rời mái trường để đi làm cách mạng, đã làm đủ nghề, đã đặt chân tới
nhiều nơi trên thế giới. Và Triều Sơn đã chết ở Paris khi Nuôi Sẹo sửa được
gần xong tập đầu, mà chúng tôi hân hạnh giới thiệu ở đây. Nhưng vài dòng
ngắn ngủi này không thể đủ để các bạn, nhất là các bạn trẻ biết rõ Triều
Sơn và Nuôi Sẹo. Bởi vậy chúng tôi xin nhường chỗ cho Trần Ngọc [bút hiệu
của Gs Trần Ngọc Ninh], một người bạn thiết của Triều Sơn viết “Kỷ niệm về
Triều Sơn”. Trần Ngọc đã gặp lại Triều Sơn sau 15 năm xa cách và đã làm
quen với Nuôi Sẹo ở đó. Triều Sơn đã sống những ngày sau cùng với Trần
Ngọc. Cuộc tao ngộ đó là cái nhân cho sự ra mắt của Nuôi Sẹo ở đây. Và
chúng tôi xin ghi đậm một nét chân thành cám ơn Trần Ngọc, người đã cho
chúng tôi cái hân hạnh đón chào Nuôi Sẹo”. [Trích dẫn Tình Thương số 1,
tháng 1/1964].

Bài viết giới thiệu Nuôi Sẹo của GS Trần Ngọc Ninh, một tài liệu hiếm
quý tưởng đã bị thất lạc mà nay tìm lại được. Tuy là viết về Triều Sơn
nhưng cũng là tấm gương phản chiếu một chân dung khác thời trai trẻ của
Trần Ngọc Ninh nên chúng tôi chủ ý cho trích đăng trong bài viết này.

*“Mười Lăm Năm Ấy, Kỷ Niệm về Triều Sơn”* *của Trần Ngọc*

Tôi không biết làm thế nào để nhìn thấy trong một người trẻ tuổi cái mầm
của tài năng. Tôi bắt đầu quen Triều Sơn khi vào lớp Toán Chuyên khoa năm
1939. Tôi còn nhớ Triều Sơn nói với tôi, khi hai người vào ngồi cùng một
ghế:

– Có anh em cũ thì học cả Toán cho vui, nhưng tôi học Triết cũng thích.

“Anh em cũ” là hai anh bạn khác, cùng học với Triều Sơn những năm về
trước ở trường Bưởi; nhưng ngay từ buổi đầu ấy, tôi cũng đã là “anh em cũ”
của Triều Sơn. Năm ấy Triều Sơn 18 tuổi, người to lớn, má đầy, mặt trắng
nổi lốm đốm những mụn nhỏ của thiếu niên, tóc thưa và chải lật về đằng sau,
mình đóng một cái áo the đen. Cả lớp chỉ có hai chúng tôi mặc ta, nhưng có
lẽ đấy là hai điểm độc nhất giống nhau.

Triều Sơn thích đọc Triết hơn Toán, và tôi thích học Toán hơn Triết.

Thực ra Triều Sơn đã tiến sâu vào Triết học từ khá lâu rồi; khi mới học
năm thứ ba Trung học phổ thông, anh đã đọc hết Kant, Fichte và Hegel; ảnh
hưởng của Triết học Đức sau này còn sâu xa hơn nữa vào anh, qua Marx, qua
Husserl, nhưng Triều Sơn không phải là người của một dòng tư tưởng, và anh
đã học cả Triết lý cận đại của Âu châu lẫn triết lý cổ Phật-Lão của Á Đông.
Hơn nữa, Triều Sơn ngay từ lúc ấy đã có một cái công phu suy nghĩ sau này
sẽ đưa tư tưởng của anh vượt lên trên những lý thuyết vụn vặt của các môn
phái. Tuy vậy mà trong lớp, không có dấu hiệu gì tỏ ra rằng Triều Sơn đã
hiểu biết nhiều như thế; số điểm của anh chỉ vào hạng trung bình, kể cả về
triết học; có lẽ cái mầm vẫn còn thu hình trong hạt, hoặc giả những ý nghĩ
đã có chút đặc sắc của Triều Sơn không hợp với cách học trọng hư văn trong
các trường chăng?

Sau khi đậu Trung học, mỗi người chúng tôi theo một ngả đường. Triều
Sơn, người không thích Toán, lại vào lớp Toán học đại cương. Nhưng Triều
Sơn không học Toán vì Toán; suốt ngày tôi gặp anh ở thư viện đọc về triết
lý của toán học; những sách của Whitehead, của Bertrand Russell, của
Hamilton được giũ bụi thời gian và ăn sâu vào óc người sinh viên trẻ tuổi.
Hồi ấy anh chỉ nói chuyện về “vô cùng”, về “số giả”, về cách lý luận trong
toán học, về căn bản của sự hiểu biết… Kết quả là cuối năm, sau khi thi
hỏng, Triều Sơn bỏ học nhưng hài lòng vì đã lấp được một lỗ hổng trong tư
tưởng.

Trong ít lâu, tôi không gặp Triều Sơn nữa. Thời kỳ này mới chính là thời
kỳ nảy nở của tài năng. Cái gì đã làm cho cái mầm nảy lá, đục đất và vươn
lên trời xanh? Sau này khi Triều Sơn viết Con đường văn nghệ mới, anh sẽ
nhấn mạnh về điểm phải gần dân chúng; văn nghệ sĩ nào xa dân chúng sẽ cằn
cỗi, hoặc truỵ lạc tinh thần; đi vào quần chúng, sống với đại chúng, hoà
nhịp sống của mình vào đời sống chung, phải là phương châm của văn nghệ sĩ
tiền phong. Đấy là một lời khuyên sống: quần chúng đã rèn luyện tài năng
của Triều Sơn, đã nuôi tinh thần Triều Sơn, đã nung đúc tư tưởng của Triều
Sơn. Anh lăn mình vào cách mạng, làm thợ ở mỏ than Hòn Gay, làm hành chính
ở Hải Dương, dạy học ở Phú Thọ, làm phu ở dưới tàu, lưu lạc qua Quảng Đông
để chung đụng với người dân Trung Hoa mới, ở Hồng Kông, Tích Lan, đi Phi
châu làm thợ nguội, rồi về Pháp, sống với anh em lính thợ ở Marseille,
Bordeaux và Ba Lê.

Và tôi gặp lại Triều Sơn ở Ba Lê.

Thực ra giữa quãng, tôi còn gặp Triều Sơn vài ba lần khác, thời gian vội
vàng của một cuộc lên bộ, nhưng cũng không có gì đáng kể. Một bữa thì anh
mới ở ngoài Khu vào, và nói chuyện về những thắc mắc tinh thần mà duy vật
lịch sử không giải quyết nổi; một bữa khác anh bàn luận về quan niệm của
Trang Tử về tự do; một bữa nữa, phê bình văn nghệ, và nói chuyện về sự truỵ
lạc của người trí thức bị khoa cử đưa đến một con đường danh lợi dễ dàng xa
cách hẳn với đời sống của người dân cần lao.

Rồi Triều Sơn vào Sài Gòn làm báo, giũa ngòi bút trong những truyện
ngắn, trong những bài thơ tự do (dưới tên là Ninh Huy), hay thơ trào lộng
(dưới tên Thang Thang), hoặc tranh luận về Nghệ thuật, về Triết lý hay về
những vấn đề xã hội. Trong khoảng này, anh viết bản kịch thơ Triều Sơn đã
khéo phù hợp cách dệt những bi kịch Hy Lạp kể sự thức tỉnh của một tâm hồn
thấm nhuần Phật học trước sự đau khổ hiện tại của cả dân tộc. Giặc Cờ đen
có một cấu tạo rất cổ điển; Triều Sơn đã khéo phù hợp cách dệt những bi
kịch Hy Lạp vào xã hội của Việt Nam và dùng lời thơ cổ phong, khi âm u, khi
thâm trầm, khi dồn dập, để tả tâm tình của các nhân vật. Tuy thế sau này,
Triều Sơn có nói rằng về phương diện thơ thì Giặc Cờ đen chỉ được có vài
câu là anh vừa ý; về phương diện kịch thì sự thành công chắc chắn hơn, nếu
anh có thì giờ để thực hiện sự ra mắt của vở kịch trên sân khấu.

Nhưng lúc ấy Triều Sơn còn ôm trong người cái mộng lớn về Nuôi Sẹo.

Nuôi Sẹo là gì? Tôi gặp lại Triều Sơn trong một căn phòng nhỏ hẹp, méo
mó, chật sách, than và giấy ở phố Bièvre, quận Năm, Ba Lê, và cũng làm quen
với Nuôi Sẹo ở đó.

Nuôi Sẹo là nhân vật chính của một tiểu thuyết dài về xã hội Việt Nam
trong buổi cuối cùng của thời thuộc Pháp. Làm mõ làng, chuyên nghề đòi nợ
thuê và chôn người. Nuôi Sẹo là một con sâu bọ trong cái xã hội có tôn ti
trật tự của một làng Bắc Việt. Triều Sơn đã muốn nhờ con mắt của Nuôi Sẹo
để tả cái xã hội phong kiến ấy, rồi lại nhờ con người của Nuôi Sẹo để mở hé
một cái quan niệm về cuộc đời.

Đây không phải là một chuyện dễ. Một bức hoạ đồ sộ đòi hỏi công phu và
thì giờ rất nhiều: Triều Sơn để vào đó năm, sáu năm của anh, lúc nào cũng
cặp chặt tập bản thảo trong người, từ Khu ra Hà Nội, và trong tất cả những
chặng đường luân lạc của anh; xúc than nuôi lò cả ngày, buổi chiều tối lại
trút bộ áo xanh của người phu tàu ra để chữa một hai câu văn; hoặc là nằm ở
Yễm Yễm thư trang, sửa lại vài đoạn chưa được vừa ý. Lúc nào trong đầu óc
anh cũng có Nuôi Sẹo; Nuôi Sẹo chưa ra đời mà làng văn Việt Nam đã biết cả
hình dáng của gã, các nhà xuất bản đã tranh nhau đỡ đầu cho gã, đã có nhà
văn Pháp hẹn với tác giả để dịch chuyện gã sang tiếng Pháp, đã có hoạ sĩ đi
tìm tài liệu để vẽ lại vài cảnh trong cuộc đời gã. Triều Sơn cứ đắn đo, sửa
chữa, xoá bỏ, thêm thắt, và để vào đây tất cả sức khoẻ của anh, cho đến
ngày không cầm được bút nữa.

Nhưng bức hoạ xã hội không phải là cái khổ tâm chính của Triều Sơn. Cái
khổ tâm chính của Triều Sơn là Nuôi Sẹo, là con người Nuôi Sẹo, là tâm lý
Nuôi Sẹo…

Thỉnh thoảng tôi đi uống nước với Triều Sơn. Ở khu
Saint-Germain-des-Prés, khu văn nghệ của Ba Lê, có một quán café, cửa sơn
màu đỏ hung, nhỏ nhắn và ấm áp, lúc nào cũng đông khách; khi nào vào đấy
thì Triều Sơn ngồi hàng giờ không đứng dậy, với một chén suc-cu-la bốn mươi
lăm quan. Tại sao Triều Sơn thích cái quán ấy, tôi không biết. Ở Ba Lê, anh
có giao thiệp với các văn sĩ Pháp Vercors, Marcel Aymé, Jean- Paul Sartre;
có lẽ vì sự gặp gỡ của anh với những nhà văn ấy thường dùng cái khung cảnh
của quán này. Cũng có lẽ rằng Triều Sơn hay tới họp ở hội Triết học cũng ở
khu ấy, đã có lần anh tới diễn giảng ở hội và khi ra về quen rẽ vào quán
đó. Ngồi đấy với Triều Sơn, tôi đã được nghe anh nói cho nghe về những vấn
đề trong Nuôi Sẹo…

*Hình** 6: **Chân dung Triều Sơn Bùi Văn Sinh 1921-1954. Nguồn: Báo Văn
15.05.1965, số Đặc biệt, Truy Niệm Triều Sơn*

Tôi biết Triều Sơn đã xét lại tất cả văn phạm Việt Nam và có những ý
nghĩ rất đặc sắc về văn phạm. Anh không lùi khi thấy những điểm cần phải bổ
khuyết cho nghề được tinh vi. Khi dùng một chữ không chắc chắn về chính tả,
Triều Sơn lại xem lại các tự điển, và tuy đã cẩn thận, nhưng vẫn lo là bỏ
sót nhiều chữ viết sai. Thích triết học như anh, mà phải nhịn không giở một
cuốn triết lý trong hằng tháng, để khỏi tiêm nhiễm cách viết trừu tượng của
các triết gia…

Triều Sơn sửa đi chữa lại Nuôi Sẹo năm sáu lần, vẫn chưa chịu cho in.
Tập đầu, lúc mới viết xong dài 900 trang, đúc lại còn 400 trang. Triều Sơn
vẫn chưa cho là đủ, “Còn dài quá, 300 trang thôi”, anh nói. Các bạn thì sợ
rằng rút quá sẽ thành khô. Nhưng Triều Sơn chỉ hứa lần này chữa nữa là “lần
cuối cùng”, rồi sẽ đưa cho tất cả các bạn xem lại và phê bình, và rồi chữa
theo những lời phê bình ấy thôi, trước khi in. Anh nói: “Xong đây, tôi sẽ
ghi lại những kinh nghiệm học nghề của tôi thành một quyển Tôi tập viết
văn”. Nhưng Nuôi Sẹo cũng chưa xong hẳn, công việc còn dở dang thì bệnh
nặng phát ra và anh phải bỏ dở mãi mãi.

Triều Sơn còn để lại một tập truyện dài bằng thơ lục bát, vài truyện
ngắn, mấy bài thơ, một cuốn triết học nhập môn viết nửa chừng, và bản thảo
của những thư từ bàn luận về triết học và xã hội học với mấy giáo sư ở
Collège de France và Sorbonne (Jean Wahl, Aron Gurwitsch). Nuôi Sẹo đã sửa
gần xong tập đầu, tập thứ hai còn là một đống bản thảo hỗn độn. Còn tất cả
những hẹn hò khác, anh mang đi, chôn sâu dưới mảnh đất của Ba Lê… [Hết
trích dẫn, Tình Thương Số 1,1-1964] (6)

Và để rồi, chẳng thể ngờ được hơn nửa thế kỷ sau [1963-2018], tôi có dịp
gặp lại Thầy Ninh, trao lại Thầy những trang sách của truyện dài Nuôi Sẹo
ngày nào, một Nuôi Sẹo Phục Sinh, tuy không toàn vẹn nhưng với rất nhiều
công lao của nhà văn Trần Hoài Thư và anh em Thư Quán Bản Thảo [5].

Và cũng trong dịp này, tôi được biết thêm Triều Sơn có một người con
trai còn sống ở Việt Nam. Cô Minh Chân con gái của anh ấy gọi Triều Sơn Bùi
Văn Sinh là “Ông Nội”, thì hiện sống ở Nam California, cách đây bốn năm, có
lần tìm tới thăm Thầy Ninh. Qua giới thiệu của Thầy Ninh, tôi được nói
chuyện với Minh Chân, được biết thêm tên bố cô là Nguyễn Vân Sơn sinh, ngày
7 tháng 10 năm 1951 [bố cô mang họ mẹ, là nữ sĩ Nguyễn Thị Lan Phương, sinh
năm 1921, nay cũng đã mất].

Rất mong rồi ra, khi liên lạc được với người con trai của Triều Sơn, sẽ
có một ấn bản đặc biệt truyện dài Nuôi Sẹo từ Thư Quán Bản Thảo gửi tới
anh, như người thừa kế phần gia tài tinh thần của thân phụ mà có lẽ chính
anh cũng chưa được biết mặt và chỉ được nghe Mẹ kể lại những năm về sau
này. Triều Sơn Bùi Văn Sinh mất ở Paris năm 1954, do bệnh xơ gan /
cirrhosis, lúc đó Triều Sơn chỉ mới 34 tuổi.

*Hình **7: **(Phải) Một trang Nuôi Sẹo, đăng từng kỳ trên báo Sinh viên
Y khoa Tình Thương số 14 với mẫu bìa Nghiêu Đề, tháng 2 Xuân Ất Tỵ 1965.
Nguồn: Tư liệu Ngô Thế Vinh*

*VỚI BÁO BÁCH KHOA MỘT CHÂN DUNG VĂN HÓA*

Không chỉ qua báo SV Tình Thương, tôi gần gũi với Gs Trần Ngọc Ninh hơn
qua tờ Bách Khoa của anh Lê Ngộ Châu, địa chỉ 160 Phan Đình Phùng, Sài
Gòn
<https://www.google.com/maps/search/160+Phan+%C4%90%C3%ACnh+Ph%C3%B9ng,+S%C3%A0i+G%C3%B2n?entry=gmail&source=g>.
Đó là một chân dung Trần Ngọc Ninh khác, trong lãnh vực văn hóa.

Google Maps

Find local businesses, view maps and get driving directions in Google
Maps.

<https://www.google.com/maps/search/160+Phan+%C4%90%C3%ACnh+Ph%C3%B9ng,+S%C3%A0i+G%C3%B2n?entry=gmail&source=g>


Được đọc những bài viết của Gs Trần Ngọc Ninh trên báo Bách Khoa [7],
tiếp cận với con người văn hóa rất đa dạng của Thầy Ninh qua những bài viết
với nhiều thể loại: Tôn giáo như Đức Phật giữa chúng ta, Đức Phật và sự Cải
tạo Xã hội, nhân chủng học với Claude Lévi – Strauss, dân tộc học qua những
huyền thoại và huyền thoại lý học và cả về ngữ học, như bàn luận về cơ cấu
và ngôn ngữ, ông đã rất sớm giới thiệu Noam Chomsky với những phát kiến về
Ngữ học Cơ Cấu/ Structural Linguistics, với lý thuyết về một Ngữ pháp Hoàn
vũ / Universal Grammar và để rồi ông không ngừng theo đuổi và tìm cách ứng
dụng để soạn bộ Ngữ Pháp Việt Nam sau này (8).

*Hình** 8: **Truyện dài Nuôi Sẹo của Triều Sơn. Một Nuôi Sẹo Phục Sinh,
do Trần Hoài Thư thực hiện. Thư Quán Bản Thảo, Tạp chí VHNT Số 77 Tháng
11.2017. Nguồn: Tư liệu Ngô Thế Vinh*

Gs Trần Ngọc Ninh không chỉ là một giáo sư Y khoa lỗi lạc, ông còn là
một nhà văn hóa kiến thức rộng, trải rộng trên nhiều lãnh vực, một mẫu mực
đào tạo trí thức theo quan niệm giáo dục cổ điển Âu châu. Là giáo sư Y
khoa, ông còn được mời đảm trách giảng dạy môn Văn minh Đại cương và Văn
Hóa Việt Nam cho Đại học Vạn Hạnh của Thích Minh Châu, và có bài viết trên
Tập san Tư Tưởng.

*MỘT TRÍ THỨC THUYỀN NHÂN*

Biến cố 1975, một cuộc đổi đời lần thứ hai kể từ sau ngày phân chia đất
nước với Hiệp định Genève 1954.

Sau 1975, vẫn các giáo sư gốc di cư từ miền Bắc vào Nam còn ở lại như Gs
Phạm Biểu Tâm, Gs Trần Ngọc Ninh, Gs Hoàng Tiến Bảo, Gs Nguyễn Đình Cát…
Các Thầy nay tuổi đã cao, mỗi ngày phải đi làm bằng xe đạp tới bệnh viện
hay xa hơn tới trường Y khoa trên đường Hồng Bàng, Chợ Lớn. Cũng vẫn các
Thầy ngoài việc chăm sóc bệnh nhân và giảng dạy cho sinh viên, từ nay còn
phải làm thêm việc của y công như lau quét các phòng vệ sinh và cả đổ rác.
Không làm sao quên được cảnh tượng một Gs Phạm Biểu Tâm phải lau chùi cầu
tiêu bị té ngã bầm dập ở bệnh viện Bình Dân. Thầy Tâm rất sợ Cô lo, nên dặn
dò không báo tin cho Cô biết.

Như từ bao giờ, trong mọi hoàn cảnh các Thầy vẫn luôn giữ được nhân cách
cao trọng của người trí thức, không phát biểu những lời xưng tụng chế độ
mới. Các Thầy cũng không thể không não lòng khi hàng ngày phải chứng kiến
trình độ dốt nát của nền y tế nhân dân qua những buổi hội chẩn hay giao ban
cùng với các ông y sĩ cách mạng phần đông chưa qua hết bậc trung học, “chỉ
có hồng mà không chuyên” nhưng rất huênh hoang từ ngoài Bắc vào hay từ
trong rừng ra.

Điển hình là trong một buổi sáng giao ban tại bệnh viện Bình Dân sau
1975, bác sĩ Lê Quang Dũng, một cựu nội trú bệnh viện lâu năm kể lại, là
khi anh Dũng báo cáo về một trường hợp mổ áp xe vú, thì bị một bác sĩ quân
quản Việt cộng vặn hỏi: “Tại sao anh lại cho mổ áp xe vú?” Bs Dũng đáp:
“Tại vì áp xe vú có mủ nên phải mổ dẫn lưu”. Dũng đã bị họ mắng: “Anh dốt
quá, ở chiến khu tôi nhai lá sống đời xong rồi đắp lên vú thì 5 phút sau áp
xe biến mất, không phải mổ gì cả”. Các Giáo sư Phạm Biểu Tâm, Trần Ngọc
Ninh, Hoàng Tiến Bảo cùng có mặt trong buổi giao ban, chỉ biết ngao ngán
lắc đầu (3).

*Hình** 9: **Tại nhà Võ Phiến ngày 30.07.1994. Từ phải: Gs Trần Ngọc
Ninh, Chủ nhiệm Bách Khoa Lê Ngộ Châu, anh chị Võ Phiến, vợ chồng nhà văn
Lê Tất Điều. Nguồn: Tư liệu Viễn Phố*

*H**ì**nh** 10: **Tại nhà Gs Trần Ngọc Ninh 1994. Từ trái: Nhà văn Võ
Phiến, Gs Trần Ngọc Ninh, Gs Nguyễn Văn Trung từ Montréal Canada, Ngô Thế
Vinh. Nguồn: Tư liệu Ngô Thế Vinh.*

Phải sống trong nghịch cảnh và chứng kiến những ngày ảm đạm như thế, Gs
Trần Ngọc Ninh đã có lần phát biểu với các sinh viên giọng chua chát và
khinh mạn: “Hội chẩn với mười con số không cộng lại thì vẫn là zéro”.

Giáo sư Vũ Quí Đài, vị khoa trưởng cuối cùng của Y khoa Sài Gòn, còn nhớ
là khi ban Quân quản Việt cộng đến tiếp thu trường Y khoa, họ triệu tập một
buổi họp gồm sinh viên và cả ban Giảng huấn nơi đại giảng đường gọi là để
trấn an nhưng với giọng điệu đầy huênh hoang và cả hăm dọa. Gs Vũ Quí Đài
kể: “Lúc ấy Gs Trần Ngọc Ninh ghé tai tôi nói nhỏ một câu lẩy Kiều: *Hàng
thần lơ láo phận mình ra đâu*” (3).

*Hình** 11: ** Bìa tác phẩm Ước Vọng Duy Tân. Văn Hóa, Huyền Thoại, Văn
Học Sử. Tuyển tập Trần Ngọc Ninh; chủ biên Trần Uyên Thi; Viện Việt Học,
California Hoa Kỳ 2012**.*

*Hình 12: **t**hủ bút của GS Trần Ngọc Ninh gửi Ngô Thế Vinh khi ra mắt
cuốn sách Ước Vọng Duy Tân 2012. Nguồn: Tư liệu Ngô Thế Vinh.*

Hãy nghe giáo sư Trần Ngọc Ninh tâm sự:

“Trên bình diện khoa học, sau khi Bắc Việt đã chiến thắng được miền Nam
rồi, cuộc đấu tranh mới bắt đầu giữa Y khoa khoa học của miền Nam và Y khoa
nhân dân của miền Bắc. Trong cuộc đấu tranh này, nhân dân là nạn nhân,
nhưng cũng là tòa án, tòa án nhân dân. Giải thưởng là tương lai sức khỏe
của Việt Nam. Sức khỏe cùng nghĩa với sức lao động. Chủ nghĩa không che lấp
được sự thật…

Năm 1977, sau khi nghe được lệnh của các vị lãnh đạo y học miền Bắc rằng
từ nay không được dạy y lý nào “cao” không thể áp dụng ở Việt Nam như biến
hóa của nước và các chất điện giải hoặc Pháp dùng thuốc kháng sinh với
những kháng sinh sau đời penicillin, hoặc những phẫu thuật quá cầu kỳ khó
khăn, tôi mạn phép nói ra ở đầu lớp bệnh lý phẫu khoa của tôi: “Đây là lần
cuối cùng và các anh chị em là những sinh viên cuối cùng mà tôi giảng Y
khoa khoa học. Từ sang năm tôi sẽ chỉ giảng Y khoa nhân dân. Và anh chị em
cố gắng mà theo. Đừng quên rằng mình là những người thừa tự chót của Y khoa
khoa học”.

Sinh viên Nguyễn Chí Công [trước 1975 là sinh viên cộng sản nằm vùng, bị
bắt giam ở Chí Hòa, đã được chính Gs Ninh vào thăm can thiệp và được trả tự
do, năm 1976 Công trở lại trường Y phụ trách cai quản sinh viên], khi nghe
được những lời nói ấy, Công dự định lập “Tòa án Nhân dân” để hạch tội tôi.
Không phải vì thế mà tôi rời Việt Nam”.

Gs Ninh nhận định tiếp: “Do nhận thức được toàn bộ chính sách của đảng
Cộng sản Việt Nam chỉ là sự mạo danh xã hội chủ nghĩa, đưa nhân dân Việt
Nam vào một kiếp đau khổ ngàn đời. Và điều tệ hại hơn nữa là ‘Đảng và Nhà
Nước muốn cưỡng chiếm Y khoa khoa học để dành riêng cho cán bộ, còn Y khoa
nhân dân là để cho nhân dân’.” (6)

Và rồi rất sớm, chỉ hai năm sau ngày 30/4/1975, vào ngày 6 tháng 6 năm
1977, Gs Trần Ngọc Ninh đã cùng gia đình xuống thuyền vượt biển tìm tự do,
giữa lúc ông được chúc mừng là một trong số bốn người được Hội Đồng Chính
Phủ giữ lại ở chức vụ Giáo sư, với lương bổng cao nhất.

*H**ì**nh** 13: **Bìa Một chút lịch sử Y khoa Đại học đường Sài Gòn
1954-1975. Trần Ngọc Ninh, Hội Y Sĩ Việt Nam tại Canada xuất bản 2002. (tr.
38-39, đề cập tới hai nền Y Khoa từ sau 1975: Y Khoa Khoa Học của miền Nam
& Y Khoa Nhân Dân của miền Bắc). Nguồn: Tư liệu Ngô Thế Vinh]* (6)

Cuối cùng ông và gia đình tới được đảo Pulau Besar, Mã Lai, và ông chọn
đi định cư tại Hoa Kỳ để phải bắt đầu lại từ đầu, thay vì đi Pháp là nơi mà
ông đã được đào tạo và thành danh.

Sự bỏ đất nước ra đi rất sớm của một khuôn mặt trí thức lớn như ông lúc
đó đã gây ra một chấn động nơi giới lãnh đạo Hà Nội và trên toàn trí thức
miền Nam thời bấy giờ.

*Hình** 14: **Làm Gì? Một cuốn sách viết về chính trị (1979) mà Gs Trần
Ngọc Ninh không muốn được nhắc tới. Là một giáo y khoa với tiếng tăm quốc
tế nhưng khi tới Mỹ như một bác sĩ ngoại quốc, ông vẫn phải khởi nghiệp từ
đầu. Giữa thời gian đèn sách, ông vẫn có hùng tâm hoàn tất một tập luận đề
chính trị trên 300 trang, với ghi chú nơi cuối sách: “Viết xong lúc giữa
trưa ngày 24 tháng 3 năm 1979 tại Trường Sơn của Mỹ Châu” (Rocky Mountains
Ranges Denver, Colorado). Nguồn: Tư liệu Ngô Thế Vinh*

*DẬT SỰ BÌNH TRÀ NGUYỄN TUÂN*

Tôi tới Mỹ sau Thầy Ninh hơn 6 năm, nhưng rồi cả hai thầy trò sau một
thời gian đèn sách, trước sau cũng trở lại nghề cũ. Từ New York, tôi về làm
việc trong một bệnh viện VA ở vùng nam California, tuy bận rộn nhưng thỉnh
thoảng vào mấy ngày cuối tuần tôi vẫn có dịp được gặp Thầy.

Trong một buổi gặp ở nhà anh Võ Phiến, cây tùy bút nổi tiếng của miền
Nam từ trước 1975, lúc ấy anh Võ Phiến còn ở trên Los Angeles; anh thú vị
đem ra khoe chiếc bình trà của Nguyễn Tuân. Võ Phiến rất quý Nguyễn Tuân.
Đặng Tiến đã được Nguyễn Tuân tặng chiếc bình trà sau bao năm quen dùng.
Sau đó cũng Đặng Tiến tặng lại Võ Phiến trong một chuyến anh chị sang Pháp
năm 1987, cùng năm Nguyễn Tuân mất ở Hà Nội.

Chiếc bình trà nhỏ giản dị bằng sứ tráng men xanh, nơi mặt đáy có in chữ
Tonkin như vậy đã khá lâu năm, trông rất tầm thường nhưng là của Nguyễn
Tuân. Một Nguyễn Tuân với những trang tùy bút mượt mà của Vang Bóng Một
Thời, của Chén trà trong sương sớm với nhân vật cụ Ấm, có phong cách uống
trà gần như một thứ trà đạo.

Giữa hai chén trà nước đầu, cụ Ấm nói với người con trưởng:

“Cả ạ, thầy cho nước pha trà không gì thơm lành bằng cái thứ nước đọng
trên lá sen. Mỗi lá chỉ có ít thôi. Phải gạn vét ở nhiều lá mới đủ một ấm.
Hồi thầy còn ít tuổi, mỗi lúc được quan Đốc truyền cho đi thuyền thúng vớt
những giọt thủy ngân ấy ở lá sen mặt đầm, thầy cho là kỳ thú nhất trong đời
một người học trò được thầy học yêu như con…

Rồi cụ Ấm liền than tiếc đến cái mùa thu đã đi qua mất rồi, để sen hồ
rách hết tàn rũ hết lá”. (Hết trích dẫn – Vang Bóng Một Thời).

Đó là văn phong Nguyễn Tuân thời tiền chiến, của một thời vang bóng.

*Hình** 15: **Thăm nhà văn Võ Phiến trên Los Angeles. Từ* *trái: Gs Trần
Ngọc Ninh, nhà văn Võ Phiến,* *Ngô Thế Vinh; phải: Trần Ngọc Ninh cầm
trên tay ấm trà nhỏ của Nguyễn Tuân mà Võ Phiến đem khoe. Nguồn: Tư liệu
Viễn Phố*

Để rồi tới kháng chiến, là một Nguyễn Tuân hóa thân; rất biết sợ bạo
quyền để tồn tại, mau chóng xu thời để được vào đảng, rồi leo lên tới chức
Tổng thư ký hội Văn nghệ Việt Nam. Chưa dừng ở đó, trong đợt chỉnh huấn cải
cách ruộng đất, Nguyễn Tuân còn hăng hái viết bài tự kiểm thảo “Nhìn rõ sai
lầm” quyết tâm đoạn tuyệt với quá khứ lãng mạn tiểu tư sản, dứt khoát chối
bỏ đứa con tinh thần Vang Bóng Một Thời, đã làm nên tên tuổi Nguyễn Tuân.
Sau đó là một Nguyễn Tuân đã biết vận dụng văn tài để hết lời ca ngợi thiên
đường xã hội chủ nghĩa.

Nếu với Vang Bóng Một Thời, Nguyễn Tuân được ca ngợi như một bậc thầy
của thể văn tuỳ bút trong văn học Việt Nam, thì sau này với những bút ký
hết lòng phục vụ Đảng và chủ nghĩa xã hội, Nguyễn Tuân cũng chỉ đáng được
xếp là một cây bút tuyên huấn hạng hai. Nguyễn Tuân còn được nhớ và nhắc
tới với câu nói: “Tôi còn sống được đến hôm nay là nhờ biết sợ…”

Người bạn tấm cám Nghiêu Đề kể lại, sau 1975 khi Nguyễn Tuân vào Sài
Gòn, tới Hội Văn Nghệ Thành Phố, khi thấy Vang Bóng Một Thời được Nxb Cảo
Thơm 1962 in tuyệt đẹp với những tranh minh hoạ của Nghiêu Đề, thì đó là
một Nguyễn Tuân hả hê về cuộc hội ngộ với đứa con tinh thần mà ông ta đã
hơn một lần dứt khoát chối từ.

Bình trà nhỏ mà Gs Trần Ngọc Ninh đang cầm trên tay ngắm nghía kia,
không phải của cụ Ấm với Chén trà trong sương sớm, mà là của một Nguyễn
Tuân theo kháng chiến, mỗi ngày đã rót ra những chén đắng trong suốt hành
trình bi kịch của hơn nửa đời người.

*MỘT CHÚT RIÊNG TƯ*

Năm 2004, khi bản tiếng Anh the Green Belt của cuốn Vòng Đai Xanh do Nxb
Ivy House xuất bản, Gs Trần Ngọc Ninh đã viết:

*“Ngô Thế Vinh bắt đầu viết văn khi đang còn là một sinh viên. Từ 1963,
cùng với các bạn trong đại học Y khoa làm báo Tình Thương như một diễn đàn
cho những ý tưởng nhân bản, hướng tới một xã hội lý tưởng và không mang
nặng tính “chủ nghĩa”. Ngay khi còn là một nhà báo sinh viên, từ rất sớm,
Ngô Thế Vinh đã quan tâm tới vấn đề người Thượng.*

*Sau khi tốt nghiệp Y khoa, là bác sĩ Mũ Xanh của một đơn vị Biệt Cách
Dù chủ yếu hoạt động trong vùng núi rừng Cao nguyên Trung phần. Vòng Đai
Xanh là bối cảnh về cuộc chiến tranh Việt Nam trên vùng cao nguyên với cảnh
thật, người thật, và “thật hơn nữa” là nỗi thống khổ của các sắc dân Thượng
giữa cuộc chiến tranh và ngay sau cuộc chiến. Và chúng ta không thể nào
quên là hòa bình bi thảm ra sao đối với phe bại trận tiếp theo sau một cuộc
chiến tranh ý thức hệ. Vòng Đai Xanh là một công trình của lương tâm và dấn
thân can đảm. Ngay khi xuất bản lần đầu tiên, cuốn sách đã được giới trí
thức miền Nam đón nhận rộng rãi và tán thưởng nhưng đồng thời cũng bị chính
quyền miền Nam lên án là phá hoại.*

*Bây giờ đã 30 năm sau cuộc chiến tranh chấm dứt, một ấn bản tiếng Anh
rất tuyệt của Nha Trang và Pensinger chắc chắn sẽ lại được đón nhận rộng
rãi, bởi vì vấn đề sống còn của các sắc dân Thượng trên Cao nguyên Trung
phần được đề cập tới trong Vòng Đai Xanh vẫn còn nguyên tính thời sự của
hôm nay.*

*Đối với người Việt, thì thảm kịch của thời đại chúng ta là mọi cuộc
chiến tranh hôm nay và cả trong tương lai đều mang mầm mống hủy hoại mà
Vòng Đai Xanh như một điển hình đa diện và ở nhiều mức độ khác nhau. Những
sắc dân Thượng ấy đã không có tiếng nói. Đến bao giờ thì “tiếng nói thầm
lặng” của họ mới thực sự được lắng nghe?” *[Trần Ngọc Ninh, Viện Việt
Học, tác giả Tuyết Xưa]

*Hình** 16: **Hình trái, bìa The Green Belt, bản tiếng Anh cuốn Vòng Đai
Xanh do Ivy House, USA xuất bản 2004; giữa, bìa Vòng Đai Xanh, Nxb Thái Độ
Sài Gòn 1970; phải, bìa sách song ngữ Vòng Đai Xanh / The Green Belt, Nxb
Văn Học Press & Việt Ecology Press 2020. Nguồn: Tư liệu Ngô Thế Vinh*

Sau này, khi có một tác phẩm mới sắp ra mắt, tôi đều có gửi biếu Thầy
Ninh và xin một nhận xét, Thầy đã thẳng thắn từ chối với một câu trả lời:
“Vinh bây giờ đã thành danh và không cần thêm lời giới thiệu của tôi nữa”.
Tôi lãnh hội ý Thầy với tất cả sự khiêm cung và biết ơn.

*MỘT ĐỊNH MỆNH SINH HỌC*

Khác với thời tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, dấn thân vào chính trị và cả
đảng phái, nay sắp bước vào tuổi bách niên, tôi ngỏ ý viết về Gs Trần Ngọc
Ninh và có cảm tưởng với Thầy Ninh, chính trị nay như một giai đoạn đã vượt
qua và *Thầy chỉ muốn được nhắc tới như một “chân dung văn hóa”.*

Nói về văn hóa, Gs Trần Ngọc Ninh đã chọn một trích đoạn trong Tuyết Xưa
[tr.100]: “Đối với các cộng đồng người, văn hóa vừa là một dấu hiệu để nhận
nhau và phân biệt ‘kẻ-kia’ vừa là một dụng cụ để giảng giải và hướng dẫn sự
sống của đoàn thể trong cái phong cảnh thiên nhiên mà họ đã làm chủ” (2).

Viết về Gs Trần Ngọc Ninh chắc phải cần tới hơn một cuốn sách. Cũng nhân
đây gợi ý với các bạn trẻ trong và ngoài nước, đang chuẩn bị luận án tiến
sĩ, thì chân dung văn hóa của Gs Trần Ngọc Ninh là một đề tài rất phong phú
và hấp dẫn để các bạn khám phá, dấn thân vào.

Như một tâm sự cuối đời, khi trả lời Trần Uyên Thi, một môn sinh rất trẻ
sau này ở Viện Việt Học, Gs Trần Ngọc Ninh phát biểu:

*“Đến nay tuổi đã lớn rồi [89 tuổi, ở thời điểm 2012], lại càng thấy
rằng sự hiểu biết, sự biết, và cả sự thấy của mình chỉ ở bề mặt nông cạn
của các hiện tượng (trong đó có lịch sử, khoa học), và đó là cái thân phận
sinh học của con người trên mặt đất này**”* (1).

*SỰ RA ĐI CỦA MỘT NHÂN VẬT CÔNG CHÚNG ĐÁNG KÍNH*

*Giáo sư Trần Ngọc Ninh đã ra đi thanh thản ở tuổi 103 vào ngày 16 tháng
7 năm 2025 tại Bệnh viện Hoag, thành phố Newport Beach, miền Nam
California. Tin** tức** về sự qua đời của **g**iáo** sư** chỉ được gia
đình thông báo hai tuần sau đó, theo đúng nguyện vọng của thầy về một tang
lễ Phật giáo vô cùng đơn giản,* *được** tổ chức **riêng tư trong** phạm
vi** gia đình. Không có cáo phó, không có điếu văn, và gia đình đã thực
hiện đúng những gì thầy mong muốn. Thầy được an táng tại nghĩa trang Loma
Vista Memorial Park**,** thành phố Fullerton, cách Little Saigon khoảng
20 km, bên cạnh phần mộ của người vợ quá cố, mất vào năm 20**2**0 trong
thời kỳ đại dịch Covid-19. Bia mộ của thầy rất giản dị, không ghi học hàm
hay danh hiệu – chỉ khắc tên thầy v**à** pháp danh “Orgyen Karma, biểu
tượng cho hoạt động giác ngộ”.*

*Hình 1**7**: Bia mộ của Giáo sư Trần Ngọc Ninh. [Phot**o by Dr.** Nghiêm
Đạo Đại**,** thứ Hai, ngày 11 tháng 8 năm 2025, tư** liệu** của Việt
Nguyên]*

NGÔ THẾ VINH

Hà Nội 1954 – Sài Gòn 1975

California, July 11, 2018 – August 16, 2025

[CREATIVE WORLD OF SOUTH VIETNAM & OVERSEAS TO THE PRESENT VOL.2]

__________

*Tham Khảo:*

1/ Ước Vọng Duy Tân / A Dream for Vietnam. Tuyển Tập Trần Ngọc Ninh.
[Chủ biên Trần Uyên Thi]; Viện Việt Học xuất bản 2012

2/ Tuyết Xưa; Tuyển tập các Vấn đề Văn hóa Việt Nam, Nxb Khởi Hành
California Hoa Kỳ 2000

3/ Giáo sư Bác sĩ Phạm Biểu Tâm, Biểu tượng của Y đạo Y học Y thuật. Tập
San Y Sĩ Canada 201, tháng 5/2014

4/ Mười lăm năm ấy, Kỷ niệm về Triều Sơn [Trần Ngọc Ninh, với bút hiệu
Trần Ngọc], Nguyệt san Tình Thương, số 1, tháng 1/1964.

5/ Nhà Văn Triều Sơn (1921-1954). Trần Hoài Thư, Thư Quán Bản thảo, số.
77, tháng 11/2017

6/ Một Chút Lịch sử Y khoa Đại học đường Sài Gòn. Trần Ngọc Ninh, et al.
Hội Y Sĩ Việt Nam tại Canada 2002

7/ Tạp chí Bách Khoa: Thư Viện Người Việt Online

8/ Thư tịch của GS Trần Ngọc Ninh. Phạm Lệ Hương, Ban Thư viện Viện Việt
Học 18/04/2020









--
====================================================================
Trên Facebook :
http://www.facebook.com/DaiHocKhoaHocSaiGon
====================================================================

Bạn đã nhận được bài viết này vì bạn đã đăng ký vào Nhóm "KhoaHocSG" của
Google Groups.
* Để đăng bài lên nhóm này, hãy gửi email đến "khoa...@googlegroups.com"
* Để RÚT TÊN ra khỏi nhóm này, gửi email đến "
khoahocSG+...@googlegroups.com"
* Để có thêm tuỳ chọn (preference set up), hãy truy cập vào nhóm này tại:
http://groups.google.com/group/khoahocSG?hl=vi
---
Bạn nhận được thư này vì bạn đã đăng ký vào nhóm Google Groups "KhoaHocSG".
Để hủy đăng ký khỏi nhóm này và ngừng nhận email từ nhóm, hãy gửi email đến
khoahocsg+...@googlegroups.com.
Để xem cuộc thảo luận này, hãy truy cập vào
https://groups.google.com/d/msgid/khoahocsg/MN2PR02MB65923820625FC478702FFCBCFC31A%40MN2PR02MB6592.namprd02.prod.outlook.com
<https://groups.google.com/d/msgid/khoahocsg/MN2PR02MB65923820625FC478702FFCBCFC31A%40MN2PR02MB6592.namprd02.prod.outlook.com?utm_medium=email&utm_source=footer>
.
Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages