Fwd: ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 03-09-2025 (SỐ 235-2025)

6 views
Skip to first unread message

Giu Tran

unread,
Sep 3, 2025, 12:51:31 PM (7 days ago) Sep 3
to


---------- Forwarded message ---------
From: soan....@hotmail.com <soan....@hotmail.com>
Date: Wed, Sep 3, 2025 at 3:50 AM
Subject: ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 03-09-2025 (SỐ 235-2025)
To:




GOOD MORNING VIET NAM - CANADA - USA

ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 03-09-2025  (SỐ 235-2025)

Image insérée

Image insérée




MỤC LỤC

  1. MÙA HÈ CŨNG HẾT
  2. NGUYỄN BÍNH, Nhà thơ nhiều vợ nhất Việt Nam
  3. Ở Trại Cổng Trời
  4. GIÓ CŨNG BIẾT BUỒN
  5. Người Lính Kỹ Thuật
  6. NHÀ THỜ KI TÔ COPT THẾ KỶ V CHÔN VÙI Ở AI CẬP
  7. Elon Musk làm chủ một startup mà hiện cả nước Mỹ đang phải phụ thuộc, quyền lực hơn cả Tesla
  8. Cười cho vui !
  9. "7 Khu Ổ Chuột LỚN NHẤT Việt Nam, Những Bí Mật Kinh Hoàng Chưa Từng Được Tiết Lộ"
  10. MẶC THẾ NHÂN - NGƯỜI KỂ CHUYỆN TÌNH BẰNG ÂM NHẠC (Đ.Văn)






MÙA HÈ CŨNG HẾT

  • Image en ligne
    Màu Nước Trời Hè – Tranh Cẩm Tâm

    Chẳng biết học trò ở Cali có để ý không, khi những cây jacaranda bắt đầu nở rộ những chùm hoa mặn mà, đằm thắm, đó là dấu hiệu của mùa thi cuối khóa ở các trường học Mỹ, và một mùa hè rực rỡ đang đón chờ chúng phía trước. Một người Việt nào đó đã gọi tên loài cây này là phượng tím, nghe hay hay và gần gũi, gợi nhớ đến loài phượng đỏ của chúng ta ở quê nhà. Vốn là người ưa để ý đến chữ nghĩa, tôi lẩn thẩn tra cứu xem cây phượng vĩ trong tiếng Anh nói làm sao. Hóa ra, ngoài những tên khoa học khó nhớ, hoa phượng còn có nhiều tên bình dân như flamboyant flower, royal poinciana, peacock flower, flame of the forest, phoenix flower (tên này nghe giống như trong tiếng Việt)!
    Cali không có phượng đỏ, nhưng cũng có ai đó mang được ở đâu về trồng. Tôi nhớ có lần đi ngang một căn nhà, hình như là trên đường Lampson, thành phố Garden Grove, thấy trước sân có một cây phượng vĩ, thích thật là thích. Mười mấy năm về trước, trong một dịp qua Florida chơi, ba tôi nâng niu mang về được một cây phượng vĩ non, cao chừng vài tấc. Ông trồng nó trước sân nhà chị tôi. Khi đã cao bằng một người lớn tầm thước, cây phượng hiếm có này bỗng dưng khô héo đi rồi chết, mặc dầu vẫn được tưới nước hằng ngày. Ba tôi, chị tôi và tôi, ai cũng buồn và tiếc không thể tả.
    Trong những lần đi chơi vào mùa hè ở Honolulu, Hawaii, lần nào tôi cũng rưng rưng xúc động khi thấy thành phố tràn ngập loài hoa đỏ thân quen này. Những ngày có mưa nhỏ, thành phố thơm nồng mùi hơi đất bốc lên dưới ánh nắng hè, trong cái nóng oi bức, ẩm thấp của miền nhiệt đới. Và những bông hoa phượng đỏ trong các tàng lá xanh mướt hai bên đường càng làm tôi bâng khuâng, thổn thức nhớ thành phố của tôi ở quê nhà năm cũ.
    Và tôi nhớ lại mùa hè năm ấy...
    Mùa hè ở quê nhà, bên cạnh những bông hoa phượng vĩ đỏ chói chang, còn kèm theo tiếng ve sầu râm ran không dứt. Cũng là mùa hè, nhưng không phải ai cũng có tâm trạng giống nhau. Có kẻ thốt lên sung sướng “Ôi tất cả mùa xuân trong mùa hạ!” (1) Ngược lại, chắc cũng không thiếu người rên rỉ “Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn...” (2) Tôi cũng có một nỗi buồn mùa hè đáng nhớ... Mùa hè của tôi năm ấy là tổng hợp của một công thức... phi toán học của tôi như sau: Vui > Buồn > Vui > Buồn = Buồn.
    Năm đó, tôi học xong đại học, bắt đầu một mùa hè bất tuyệt, bởi sẽ không còn cắp sách đến trường, sẽ không còn chờ đợi mùa hè, niềm mong đợi hồn nhiên của tuổi học trò. Tuy vậy, vẫn còn cảnh bạn bè bùi ngùi chia tay nhau, mỗi đứa sẽ thật sự bước vào cuộc sống của người lớn, với công việc, với trách nhiệm trên bước đường đời trước mặt. Năm học đó, tôi tìm thấy được một niềm vui, nhỏ thôi, mong manh thôi, vì đó chỉ mới là một tình cảm đầu đời, hết sức nhẹ nhàng, với Bình, anh chàng học cùng ngành tiếng Anh với tôi suốt 4 năm đại học. Trong buổi liên hoan cuối khóa, sau lễ phát bằng tốt nghiệp, tôi chỉ thoáng buồn một chút, vì nghĩ rằng còn thiếu gì dịp để Bình và tôi gặp nhau, tuy không còn đi học nữa.
    Suốt 2 năm cuối ở đại học, Bình và tôi, ngoài những lúc gặp nhau trong lớp, còn hẹn nhau đi ăn chè hay uống cà phê, lúc thì trong khuôn viên đại học, khi thì trong những quán nhỏ, thơ mộng trong thành phố. Những lúc không gặp nhau thì lại đem những mẩu giấy nhỏ đã chuồi vào tay cho nhau lúc gặp mặt, đọc và cười một mình ở nhà với những lời lẽ bóng gió, ỡm ờ viết cho nhau trên giấy. Những lúc khác, chúng tôi lại thường đạp xe sóng đôi bên nhau dọc theo con đường biển lộng gió, vừa hít hà mùi đại dương ngào ngạt, vừa khúc khích nói cho nhau nghe những little nothings, một trong những từ ngữ dễ thương mà chúng tôi học được từ các lớp tiếng Anh của mình.
    Phải định nghĩa tình cảm của Bình và tôi làm sao đây? Tuy không nói ra, chắc cả hai chúng tôi cùng nghĩ rằng chúng tôi đã đi quá tình bạn một chút, nhưng cũng chưa phải đã đến tình yêu. Hay nói theo định nghĩa của Byron, thi sĩ trữ tình người Anh, “Tình bạn là tình yêu không có cánh” (3), có lẽ là chúng tôi đang ở chỗ lập lờ đó. Tuy vậy, chắc tôi là người lãng mạn hơn Bình, đã thầm cho cảm xúc của mình đi xa hơn thế nữa. Chẳng vậy mà những khi ngồi mơ màng nghe nhạc ở quán Chiều Tím, tôi vẫn thường ngất ngây với mấy câu hát thật tình tứ từ trong cassette vang ra “C’est un beau roman/ C’est une belle histoire/ C’est une romance d’aujourd’hui... (4) Tôi nghĩ, nếu Bình mà biết được những ý nghĩ thầm kín này của mình thì xấu hổ đến chết đi được.
    Những ngày đầu của mùa hè đặc biệt này, có lẽ người nào cũng có những cảm xúc lẫn lộn, vừa thấy thoải mái sau mấy năm dài học tập, vừa thấy trống trải với ý nghĩ, “Rồi kế tiếp là gì đây?” Không biết bạn bè tôi thì sao, nhưng tôi thì tự cho mình được nghỉ ngơi một thời gian trước khi bắt đầu chạy khắp nơi để xin việc làm. Cả tuần nay Bình và tôi không gặp nhau, tôi cũng không thấy thiếu vắng, vì nghĩ anh cũng đang bận rộn trải qua một giai đoạn mới mẻ trong cuộc sống như mình.
    Nhưng qua đến tuần thứ nhì, tôi cũng không nghe tăm hơi gì của Bình. Sáng thứ Ba, Ngọc Mai chạy đến nhà tôi như một cơn lốc, báo tin:
    - Ái Liên, bồ biết gì chưa? Cả nhà anh chàng Bình vượt biên hết rồi!
    Tôi sững sờ. Ngọc Mai líu lo nói thêm một thôi một hồi, nhưng tôi không còn nghe và hiểu gì nữa. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là sao Bình ra đi mà không nói cho tôi biết, nhưng một lúc sau bình tĩnh lại, tôi thấy thông cảm cho anh, vì chuyện hệ trọng như vậy làm sao có thể tiết lộ cho người ngoài được. Nhà Ngọc Mai ở cùng xóm với Bình nên cô biết là phải.
    Nhiều phút im lặng nặng nề trôi qua, cuối cùng tôi mới thẫn thờ lên tiếng:
    - Thêm một người bạn của tụi mình đã bỏ lại đất nước tội nghiệp này, Ngọc Mai ơi!”
    Lúc nói câu đó, chắc tôi nhìn thiểu não lắm, có lẽ Ngọc Mai nghĩ người “tội nghiệp” mới là tôi chứ không ai khác. Cô biết rõ tình bạn thân mật giữa Bình và tôi nên mới báo cho tôi là người đầu tiên biết cái tin nóng hổi và..buồn da diết này. Để tôi khuây khỏa, Ngọc Mai rủ tôi ra chợ ăn chè. Trời đang nóng bức, người lại đang buồn, thưởng thức ly chè đá mát rượi với 1 người bạn, hy vọng có thể được chút gì an ủi, tôi nghĩ vậy. Hai đứa im lặng đạp xe bên nhau qua những con đường khá vắng vẻ. Tiếng ve sầu râm ran, vốn đã buồn, hôm nay tôi nghe càng thêm nẫu ruột. Nhìn những hàng phượng vĩ lá xanh ngát và hoa đỏ thắm hai bên đường, tôi ngỡ như mỗi bông hoa là một giọt nước mắt mùa hè, khóc cho một người vừa ra đi không biết bao giờ trở lại.
    Sau hôm ấy, ngày nào tôi cũng thơ thẩn đạp xe một mình trên con đường biển quen thuộc mà trước đây Bình và tôi vẫn đi qua. Tôi tưởng tượng Bình vẫn im lặng đạp xe bên cạnh tôi, chỉ vì tôi chẳng ngoảnh qua nhìn nên không thấy Bình đó thôi. Tôi mỉm một nụ cười buồn, cố giữ trong đầu hình ảnh Bình đang chậm rãi đạp xe, cố nhìn thẳng trước mặt, nhất định không quay qua nhìn để khỏi phải... không thấy ai cả.
    Tôi đạp xe một mình dạo đường biển như vậy cũng đã được cả tuần nay. Một buổi chiều, trời tương đối mát sau mấy hôm nóng bức, đang đạp những vòng xe không hồn, tôi chợt giật mình nghe có tiếng người đi bên cạnh nói:
    - Chào Ái Liên! Nghỉ hè vui không?
    - Dạ, thầy Ngữ! Chào thầy! 
    Tôi lúng túng quá, không nói thêm được gì nữa. Thầy Ngữ là thầy dạy tiếng Đức của tôi ở đại học. Thầy trò chúng tôi tiếp tục đạp xe sóng đôi với nhau, và thầy Ngữ hỏi tôi nhiều thứ mà tôi không còn nhớ là những gì. Tôi chỉ nhớ là mình cứ, “dạ”, rồi “dạ, không”, rồi “dạ, đúng”, rồi “dạ, đâu có”... sau từng câu hỏi của thầy. Lúc đi ngang một quán cà phê, thầy Ngữ bảo:
    - Trời nóng quá, tôi mời Ái Liên ghé vào đây uống cái gì cho mát nhé!
    Tôi lại giật mình một lần nữa. Đoán được ý nghĩ của tôi, thầy Ngữ cười nói:
    - Em ra trường rồi, tôi không phải là giáo sư của em nữa đâu! Đừng ngại, ở đây không có nhân viên nào trong Khoa Ngoại Ngữ cả.
    - Dạ! 
    Tôi lí nhí nói, loay hoay dựng xe bên cạnh chiếc xe của thầy. Quán vắng vẻ, chỉ có một đôi tình nhân ngồi trong góc, rủ rỉ, cười nho nhỏ với nhau, trông thật tâm đắc. Thầy Ngữ kéo ghế mời tôi ngồi. Tôi lại lí nhí cám ơn thầy. Thầy Ngữ cười thật tươi:
    - Bitte schön! Sei nicht schüchtern! (5)
    - Oh mein Gott! 
    Bao nhiêu chữ nghĩa thầy dạy cho tôi chắc tôi trả hết lại cho thầy rồi. Tôi chẳng hiểu thầy nói gì, chỉ còn biết kêu trời... bằng tiếng Đức mà thôi. Tôi học thầy đến 5 lớp tiếng Đức, mà tôi chọn làm sinh ngữ phụ cho chương trình cử nhân tiếng Anh của mình. Thầy Ngữ nổi tiếng trong khoa ngoại ngữ vì... đẹp trai, tài hoa, bặt thiệp. Thầy tốt nghiệp vănchương Đức với văn bằng Magister Artium ở Leipzig bên Đông Đức. Nghe thầy nói tiếng Đức mà không nhìn thầy, ai cũng nghĩ là... Nietzsche đang giảng bài! Thầy còn trẻ, chỉ hơn đám sinh viên chúng tôi khoảng 6, 7 tuổi, nhưng lúc đó đã có gia đình. Chẳng may, chỉ ít lâu sau đó, vợ thầy bị một cơn bạo bệnh rồi qua đời. Hai người chưa kịp có con cái gì cả. Chắc thầy giấu cảm xúc hay lắm, vì người nào mới gặp thầy, thấy lúc nào thầy cũng vui vẻ, tươi cười, không thể nào biết bên trong thầy có một nỗi buồn sâu lắng.
    Ngồi xuống bàn, tôi đã định thần lại đôi chút. Thấy từ nãy giờ mình chỉ nói từng tiếng một, tôi bắt đầu cố gắng tỏ ra bình tĩnh và mạnh dạn hơn một chút. Tôi ngó thầy:
    - Thầy biết không? Mới đây mà em như đã quên hết tiếng Đức thầy dạy tụi em. Nghe thầy nói có mấy câu ngắn thôi mà em tá hỏa tam tinh, không hiểu gì cả! Bây giờ em mới hoàn hồn lại.
    Thầy Ngữ nheo mắt cười:
    - Em làm như tôi là một Zauberer (6) trong truyện cổ tích của anh em nhà Grimm vậy.
    Tôi cười theo thầy, vui vẻ thêm:
    - Giờ thì em bắt đầu nhớ lại một ít tiếng Đức của thầy dạy rồi. Em nhớ có một lần, cả lớp biết thầy còn biết nhiều thứ tiếng khác như tiếng Pháp, tiếng Hòa Lan, tiếng Thụy Điển và cả tiếng Vlaams (7) nữa, nên mới hỏi thầy làm sao mà thầy học hết được từng ấy thứ tiếng hay vậy. Thầy đã trả lời, “Das Sprachenlernen ist mir ein Zeitvertreib und nicht eine Arbeit. (8).
    Thầy Ngữ có vẻ vui khi nghe tôi nhắc đến chuyện này. Thầy gọi cho mỗi người một ly nước dừa tươi ướp đá lạnh, uống đến đâu mát cả người đến đó. Vừa thưởng thức món giải khát, thầy vừa ân cần hỏi thăm tôi về những điều mà suốt những năm tháng trong giảng đường, thầy không có dịp để hỏi. Tôi trả lời hết những câu hỏi của thầy, nhưng không dám hỏi lại thầy nhiều, e chạm đến những gì thầy không muốn nói.
    Khi thầy trò chia tay ra về, tôi cám ơn thầy, đánh bạo chúc thầy một mùa hè tươi đẹp, bằng tiếng Đức:
    - Vielen Dank, Herr Professor. Ich wünsche Ihnen einen schönen Sommer!”
    Thầy Ngữ gật gù và đáp lại... bằng tiếng Việt:
    - Không có chi! Cám ơn em đã dành chút thì giờ cho ông thầy học cũ. Hôm nào tôi mời em lại nhà chơi nhé. Nhớ rủ cô bạn thân của em theo cho vui, tên... gì há?
    - Dạ, Ngọc Mai, thầy!
    Thầy Ngữ đọc cho tôi nghe địa chỉ của thầy. Tôi giả bộ như đang cố ghi nhớ, nhưng kỳ thực học trò đứa nào chẳng biết thầy ở đâu! Tôi vui vẻ đạp xe về nhà, tâm trạng khác hẳn lúc ở nhà dắt xe ra, buồn thiu, không biết sẽ đạp đến đâu, bao giờ mới về...

    ******
    Nghe tiếng chó sủa vang và thấy tôi cùng Ngọc Mai đang đứng lấp ló trước cổng, thầy Ngữ từ trong bước ra, xua con vật vào trong và cất tiếng chào mời:
    - A, Ái Liên và Ngọc Mai! Vào đi hai em!
    Hai đứa tôi cúi đầu chào thầy rồi líu ríu đi theo thầy vào bên trong. Thầy không đưa chúng tôi vào gian nhà chính mà lại hướng chúng tôi về phía căn nhà khách nằm bên tay phải. Toàn bộ khu nhà của thầy, kể cả sân trước rộng rãi, nằm trông ra mặt biển xanh ngắt bên kia đường, y như trong một cảnh phim Âu châu nào tôi đã từng xem. Ở nhà, thầy Ngữ mặc một cái quần jeans xanh nước biển đậm và một cái áo thun xám có in hàng chữ “Alles hat ein Ende, nur die Wurst hat zwei” (9). Trông thầy trẻ trung hẳn ra, khác với lúc thầy oai nghi, mô phạm đứng trên giảng đường, mặc áo sơ-mi và quần tây, thỉnh thoảng lại mang cà-vạt hay khoác thêm một cái áo vét bên ngoài.
    Nhà khách không rộng lắm, nhưng cũng đầy đủ như một căn nhà chính hiệu, tuy tất cả đều dồn chung vào một không gian, không có tường ngăn cách. Chỗ để tiếp khách nằm bên phải từ ngoài cửa bước vào, có cửa sổ nhìn ra biển. Bên cạnh bộ xô-pha là một chiếc dương cầm loại upright, đặt kế bên kệ chất đầy sách. Bên trái là một cái sofa bed và trong góc là một gian bếp nhỏ. Cánh cửa phía bên trái chắc là dẫn vào một phòng tắm mini, tôi thầm đoán vậy.
    - Mời hai em ngồi đây, tôi làm chút gì để uống nhé, Tee? Kaffee? Wasser? 
    Thầy Ngữ chỉ tay về hướng có chiếc bàn bên trên có một bình hoa hướng dương vàng ruộm, rực rỡ trong ánh nắng hè đang chiếu vào căn nhà nhỏ. Ngọc Mai, hình như giỏi tiếng Đức hơn tôi, tinh nghịch hỏi:
    - Kann ich bitte Wein haben, Herr Professor? (10)
    - Es ist noch nicht fünf Uhr. (11) 
    Thầy Ngữ nheo mắt cười. Bây giờ tôi mới để ý là thầy thích vừa cười vừa nheo mắt, làm câu thầy đang nói thêm phần ý nhị. Ngọc Mai cũng lém lỉnh đối đáp lại:
    - Irgendwo ist es fünf Uhr! (12) 
    Nhưng con nhỏ vội nói thêm: 
    - Xin lỗi thầy, em đùa chút cho vui, để ôn lại tiếng Đức với thầy đó mà. Thầy cho tụi em xin nước lọc là được rồi.
    Lúc hai đứa tôi xin phép thầy Ngữ cầm ly nước lên để uống, thầy khẽ gật đầu và nói:
    - Tôi mời hai em vào nhà khách này thay vì nhà chính vì sau khi vợ tôi mất, tôi ở đây phần lớn thời gian, lâu lâu mới qua bên kia để lau chùi. Ở bên đó buồn lắm, nhìn đâu cũng thấy kỷ niệm.
    Hai đứa chúng tôi ngồi im, không biết nói gì. Lần đầu tiên thấy thầy Ngữ mở lòng ra như vậy, tôi thấy ngùi ngùi xúc động. Chợt thầy đứng lên, tiến về cái piano hiệu Sauter, bảo:
    - Để tôi đàn tặng hai em một bài nhé!
    Thầy Ngữ biết đàn! Hồi giờ chúng tôi đâu có biết. Thầy ngồi xuống thẳng người trước cây đàn, bắt đầu cho hai bàn tay với các ngon thuôn dài nhảy múa trên các phím đàn. Sau vài nốt nhạc réo rắt đầu tiên, tôi nhận ra đây là bài “Für Elise” nổi tiếng.Thầy Ngữ như hóa thành một người khác, không phải là ông thầy thường giảng văn phạm trên bục, mà giờ đây trông thầy như Beethoven đang say sưa trong một thế giới khác, thế giới của âm thanh và nhịp điệu. Thầy như quên hẳn có Ngọc Mai và tôi đang ngồi ngẩn người nghe những cung bậc đầy cảm xúc, tuồng như người chơi đàn đang trút hết bao nhiêu nỗi niềm vào trong đó. Sau bản nhạc, chúng tôi ngồi nói chuyện thêm một chút rồi xin phép thầy Ngữ ra về. Không biết Ngọc Mai cảm thấy sao trong lòng, còn tôi thì người cứ lâng lâng, không biết vui hay buồn, thấy cuộc sống này rộng lớn hơn là những gì chung quanh mình từ bấy lâu nay.
    Những ngày sau đó, âm điệu của bài “Für Elise” cứ ám ảnh trong đầu tôi. Tôi biết, tuy nói là đàn bài này cho Ngọc Mai và tôi nghe, chắc thầy Ngữ dành cho vợ thầy thì đúng hơn. Tôi được biết rằng người vợ mất sớm của thầy tên là Elsa, gọi thân mật từ tên Elisabeth. Cô là người Đức, gặp thầy trong trường đại học trong thời gian thầy du học. Sau khi hai người lấy nhau ở Leipzig, cô theo thầy về Việt Nam, rồi mãi mãi gọi nơi này là quê hương khi nằm xuống.
    Für Elise, hay Für Elsa gì cũng thế, phải không thầy? Tôi nghe mình thổn thức nói thầm trong lòng như thế. Chắc sẽ không bao giờ là Für Ái Liên đâu! Chỉ gặp thầy có hai lần từ hôm trước tới giờ, mà tôi thấy hình ảnh, giọng nói, tiếng cười của thầy Ngữ sao mà thân ái, gần gũi, dịu êm là thế...
    Một hôm, tôi chợt nảy ra ý đạp xe ngang trước nhà thầy Ngữ, mong tình cờ nghe được tiếng dương cầm của thầy từ trong đó bay ra, biết đâu được. Thế là tôi lên xe, đạp một mạch đến nhà thầy. Dừng xe lại trước ngôi nhà lộng gió biển, tôi tần ngần ngó vào nhà, lòng thầm mong con chó của thầy không thấy, kẻo nó lại sủa vang lên thì phiền lắm. Đúng là thầy Ngữ đang chơi đàn bên trong. Thầy đang chơi bài “Tristesse” quen thuộc của Chopin. Bỗng con chó ở đâu cất tiếng sủa liên hồi. Tôi hoảng hồn, chưa biết làm sao thì thầy Ngữ từ trong căn nhà khách đã chạy vội ra. Thấy tôi, thầy cười chào:
    - Ủa, Ái Liên! Em ghé chơi à?
    Thầy vẫn mặc quần jeans, hôm nay là màu đen, và trên cái áo pull cũng màu đen của thầy là câu “Was mich nicht umbringt, macht mich stärker” (13). Nhưng thầy không ra một mình, theo sau thầy là một phụ nữ người Âu, tóc vàng, hai mắt xanh như biển. Cô nhìn tôi với một nụ cười nửa vui nửa buồn. Tôi lắp bắp:
    - Ơ, em định đến nhờ thầy cắt nghĩa giùm mấy câu khó hiểu trong bài “Du bist die Ruh” (14) mà..thôi, thầy đang có khách! Bữa khác em đến cũng được. Chào thầy!
    Vừa nói, tôi vừa hối hả leo lên xe, đạp đi mất, không kịp nghe giọng ngạc nhiên của thầy Ngữ đuổi theo:
    - Ái Liên, quay lại đây! Khách khứa gì đâu? Tôi ở nhà một mình mà.
    Hai tai tôi ù đi, không biết vì xúc động mạnh hay vì gió biển đang thổi thật rát hai bên thái dương. Tôi đạp những vòng xe mải miết, hai mắt cay xè, cũng không biết là mình đang khóc hay vì hơi muối mặn nồng từ đại dương bay đến. Mùa hè mới bắt đầu, mà sao tôi thấy như nó vừa kết thúc.
    Chú thích:
    1) Nghỉ Hè (1941) – Xuân Tâm
    2) Nỗi Buồn Hoa Phượng (1966) – Thanh Sơn
    3) Nguyên văn tiếng Anh “Friendship is Love without his wings”, trích trong vở kịch nhan đề The Deformed Transformed (1824) của Lord Byron (1788-1824).
    4) Une belle histoire (1972), nhạc của Michel Fugain, lời của Pierre Delanoë, do ban Le Big Bazar trình bày.
    5) “Không có chi. Em đừng ngại.”
    6) Ông phù thuỷ
    7) Tiếng Flemish là một phương ngữ của tiếng Hòa Lan, dùng ở miền nam Hòa Lan và ở Bỉ.
    8) “Học ngôn ngữ đối với tôi là một thú vui chứ không phải là một công việc.”
    9) “Cái gì rồi cũng có một đoạn kết, chỉ khúc dồi mới có đến hai”, câu này chơi chữ, dùng danh từ Ende với hai nghĩa, nghĩa thứ nhất là “đoạn kết” và nghĩa thứ hai là “đầu cùng”.
    10) “Cho em uống rượu vang được không thầy?”
    11) “Chưa tới 5 giờ mà.”
    12) “Ở đâu đó đã 5 giờ rồi!”
    13) “Điều gì không tiêu diệt được tôi sẽ làm cho tôi mạnh mẽ hơn” – Friedrich Nietzsche (1844-1900)
    14) “Em Là Nỗi Bình Yên”, thơ của Friedrich Rückert (1788-1866), do Franz Schubert (1797-1828) phổ thành nhạc,có những lời như sau..“Treib’andern Schmerz/aus dieser Brust!/Voll sei dies Herz/von deiner Lust” (tạm dịch: “Hãy xua đuổi niềm đau kia/ ra khỏi lồng ngực này/ Trái tim tôi hãy tràn trề/ với niềm vui em...”).
    Trần C. Trí
    Tranh: Cẩm Tâm



NGUYỄN BÍNH, Nhà thơ nhiều vợ nhất Việt Nam

  • BI KỊCH SAY RƯỢU MẤT CON & CUỘC ĐỜI GẮN LIỀN VỚI CON SỐ 4 BÍ ẨN


    Nếu phải chọn ra một thi sĩ có cuộc đời lận đận, gặp nhiều bi kịch bậc nhất Việt Nam, ông chắc chắn sẽ được nhớ đến. Không hiểu vì sao, số phận của người đàn ông này luôn gắn chặt với con số 4.

    Nhà thơ nhiều vợ nhất Việt Nam: Bi kịch say rượu lạc mất con, cuộc đời gắn liền với con số 4 bí ẩn


    Trong làng thơ văn Việt Nam, nhắc đến Nguyễn Bính là nhắc đến “nhà thơ của làng quê Việt”. Những câu từ đậm chất dân gian, lãng mạn, bay bổng nhưng cũng không kém phần chân chất thôn quê của ông đã quá nổi tiếng. Nhưng còn nhiều điều về nhà thơ này mà có lẽ bạn chưa biết.

    Nguyễn Bính rất đào hoa. Ông có đến 4 người vợ, với mỗi người lại có một người con. Có lẽ trong làng văn học nghệ thuật Việt Nam, hiếm nhà thơ nào lại nhiều vợ như Nguyễn Bính. Người vợ đầu tiên của nhà thơ này là bà Nguyễn Hồng Châu, một cán bộ cách mạng, có trình độ học vấn. Cuộc hôn nhân của họ thực chất do là sắp xếp của tổ chức chứ không hề có tình cảm. Họ có một người con chung tên Nguyễn Bính Hồng Cầu. Sau này, 3 người vợ còn lại của Nguyễn Bính lần lượt có tên là : Mai Thị Mới, Phạm Vân Thanh, Trần Thị Lai.



    Năm 1957, tờ báo Trăm Hoa mà Nguyễn Bính là Chủ bút rơi vào cảnh lỗ vốn nặng, tự giải thể. Bà vợ thứ ba của ông khi đó là Phạm Vân Thanh cũng là nữ thư ký của báo. Tình hình lao dốc, thi sĩ này tìm đến men rượu giải sầu. Điều đó khiến gia đình ông xảy ra mâu thuẫn khó giải quyết.

    Một đêm nọ Nguyễn Bính say rượu, về nhà lại gây gổ với vợ. Vân Thanh tức giận bỏ về nhà mẹ đẻ, để cho người chồng này làm “gà trống nuôi con”. Nguyễn Bính đã nghèo khổ, lại còn phải đảm nhận nhiệm vụ nuôi con. Hàng ngày ông cõng theo cậu con trai trên lưng và tiếp tục đi uống rượu.

    Một chiều cuối năm, Nguyễn Bính uống rượu say mèm. Trong cơn mê man, không hiểu vì sao ông lại nhờ một ông già bán củi giữ con hộ để mình đi vệ sinh. Cuối cùng đi xong, Nguyễn Bính nằm ngủ luôn bên thềm chợ. Khi ông tỉnh dậy, bàng hoàng đi tìm con thì chợ đã vắng tanh, không ai thấy ông già bán củi hay đứa bé đâu nữa. Đó cũng là lần cuối nhà thơ này được nhìn thấy cậu con trai nhỏ.



    Hàng chục năm sau, Nguyễn Bính cùng gia đình nỗ lực tìm kiếm khắp nơi nhưng không thể tìm thấy người con này. Đó mãi mãi là nỗi day dứt của vị thi sĩ.

    Nói cuộc đời Nguyễn Bính bi kịch là còn bởi dù ông có đến 4 người vợ, 4 người con, nhưng cuối đời lại ra đi ở nhà một người quen chứ không phải gia đình mình. Hôm đó là 29 tháng Chạp nhưng vì năm đó chỉ có 29 ngày, nên nó cũng là ngày cuối cùng của năm. Nguyễn Bính sau khi ăn uống xong với bạn, ra cầu ao rửa mặt thì bị trượt chân ngã xuống ao,trúng lạnh rồi ói ra máu và ra đi.Vị thi sĩ này trút hơi thở cuối cùng ở tuổi 49,khi mà người vợ thứ tư đang ở cữ sinh hạ cho ông cậu con trai Nguyễn Mạnh Hùng.



    Cuộc đời của Nguyễn Bính không hiểu vì sao luôn gắn liền với con số 4. Từ 4 người vợ, 4 người con, đến 4 lần di chuyển mộ phần. Chứng kiến cuộc đời long đong đến tận khi qua đời vẫn chẳng yên của người bạn này, Nguyễn Thế Vinh đã phải thốt lên:

    “Long đong kiếp sống đã đành
        Gian nan cả lúc đã thành người xưa”.

    S.H (Theo Sở Hữu Trí Tuệ và Sáng Tạo)
                        

Ở Trại Cổng Trời

  • Đã có nhiều cuốn hồi ký về chế độ lao tù ở miền Bắc. Nhưng hầu như chưa có ai viết về Trại Cổng Trời. Đọc hồi ký của K. Vĩnh chúng ta biết Nguyễn Hữu Đang đã bị giam ở Cổng Trời, nhưng trong bài viết của cố Thi sĩ Phùng Quán về Nguyễn Hữu Đang không hề nhắc đến chi tiết đó. Trong cuốn hồi ký của Vũ Thư Hiên, ông nhắc đến Nguyễn Hữu Đang, nhưng cũng không kể chuyện cụ Đang đã bị giam ở Cổng Trời.
    Trong cuốn “Đêm Giữa Ban Ngày" Vũ Thư Hiên viết về Trại Cổng Trời như sau: Cổng Trời là một trại giam ở xa tít mù tắp mãi tận Hà Giang, bên kia Mù Cang Chải, giáp giới Trung Quốc. Cổng Trời đi vào huyền thoại, là nỗi kinh hoàng của tù. Những người đã từng sống ở Cổng Trời thậm chí không muốn kể về nó, không phải vì sợ bị công an trừng phạt (nghiêm cấm nói đến bí mật của các trại), mà còn vì sợ người nghe nghĩ mình bịa đặt. Hình như Tôn Thất Tần đã ở cái trại kinh khủng đó, nhưng ông ngậm tăm.
    Những người tù nói rằng ai đã lên Cổng Trời mà còn về được coi như sống lần thứ hai....Chế độ giam giữ ở đây rất khe khắt. Hơi một tí là bị khóa cánh tiên, bị hạ huyệt, còn nếu bị cùm hộp thì coi như đời đi đong. Vũ Thư Hiên đã mô tả 3 lối hành hạ Khóa cánh tiên, Hạ huyệt và Cùm hộp trong cuốn hồi ký của ông, mà thú nhận chỉ mới được thấy cảnh người bị "khóa cánh tiên" (có người chỉ chịu được vài phút là ngất xỉu, có người chịu được hàng giờ trong đó có thi sĩ Nguyễn Chí Thiện) còn hai lối giết người kinh khủng kia ông chưa được thấy, chỉ nghe kể lại.
    ------
    Tôi xin nhắc lại: Tôi không theo đạo Thiên Chúa, và điều ấy có thể đã làm cho tôi sống được đến hôm nay, năm 1994. Vì những người Cộng Sản căm những người theo đạo Thiên Chúa nhất nên tất cả mũi nhọn của nền chuyên chính đều chĩa vào họ. Thứ nhất là các đấng bậc trong Giáo Hội, rồi đến các tu sĩ cả nam lẫn nữ. (Tôi đã gặp hai bà sơ bị bắt vào xà lim), rồi đến các chánh trưng, trùm trưởng, cả đến hội trống hội kèn cũng bị bắt đi tù hàng loạt.
    Tôi trông họ hiền lành, ngơ ngơ nói năng... chẳng rõ họ mắc tội gì mà bị hành hạ đến như vậy: Họ có mỗi một tội là tin vào Chúa Jésus.Thế thôi.
    Còn tôi, chả hiểu làm sao, tôi thiếu đức tin đó, và điều đó đã cứu tôi sống. Nói thế không có nghĩa là tất cả mọi người công giáo đi tù đều chết hết đâu. Còn chứ, còn anh Thi, anh Thọ, chị Diệp, những người trong vụ nổi loạn ở Ba Làng Thanh Hóa năm 1954, còn Nguyễn Công "Cửa" tức Môn, ngư dân vượt biển, còn Nguyễn Hữu Bổn người thôn Vạn Lộc, Nam Lộc,  Nam Đàn...
    Tôi có nghe nói lại là khi đọc lệnh tha anh Thi, anh không chịu ra khỏi tù, họ phải lôi anh ra, anh mới chịu ra. Ngay cả giáo dân họ cũng kiên cường như vậy, thảo nào mà những người Cộng Sản đặt họ lại hàng đầu để tàn sát họ, tiêu diệt họ.
    Cho đến hôm nay năm 1994, tôi vẫn mong mỏi gặp lại vài người còn sót lại trong số 72 người đầu tiên lên Cổng Trời mà vẫn chưa gặp lại ai, ngoài một người Cộng Sản là anh Nguyễn Hữu Đang.
    Khi ở khu A còn thưa thớt người thì tù ở các trại dưới được dồn lên để lấp vào các chỗ trống, nên có sự sắp xếp lại. Tôi được chuyển sang khu B dưới quyền quản giáo mới tên là Duật người Nam Hà
    Khu B nhẹ hơn khu A, chế độ ăn uống có hơn đôi chút, được đi lao động nhẹ ở sân trại. Ba tháng được viết thư một lần và được phép nhận thư.
    Tôi vừa chuyển sang khu B, chưa được viết thư về nhà thì đã nhận được thư của mẹ tôi gửi lên với địa chỉ:
    Công trường 75A Hà Nội C65 HE. Mọi người đều ngạc nhiên, cả tôi nữa. Lúc đó nhà tôi ở số nhà 7 phố Thi Sách gần ngay đằng sau Chợ Hôm, Hà Nội.
    Tính từ khi lên Cổng Trời , đã được hơn 3 năm có lẽ tôi chưa được viết thư về nhà lần nào, thế mà tại sao mẹ tôi lại biết được địa chỉ này mà viết thơ cho tôi và mẹ tôi có biết là tôi đang ở Cổng Trời Hà Giang không?
    Mãi đến khi được tha tù lần thứ nhất (1970) tôi về gặp lại mẹ tôi, tôi mới rõ. Thì ra sau khi tôi được chuyển lên Cổng Trời, 1960, thế là mất hết tin tức về tôi. Tất nhiên là mẹ tôi không chịu để mất. Mẹ tôi lên trại cũ ở Bất Bạt Sơn Tây để hỏi. Chánh giám thị trại là thiếu tá Thanh trả lời là ông ta không rõ! Quay về Hà Nội mẹ tôi đến bộ Công An ở Phố Trần Bình Trọng hỏi. Họ không cho vào gặp. Nhưng từ nhà tôi ở chợ hôm ra đến hồ Thiền Quang chưa đến 1Km nên hầu như liên tục khi nào mẹ tôi dắt cháu đi chơi là mẹ tôi lại tạt vào quấy rầy họ. Đến nỗi người thường trực cứ trông thấy mẹ tôi là tránh mặt không tiếp. Mẹ tôi cứ đi. Kiên trì dắt cháu đi hỏi. Hỏi mãi. Riết rồi họ đành phải trả lời. Nhưng cũng mất 1 quãng thời gian là hơn 3 năm họ mới cho mẹ tôi cái địa chỉ đó: "Công Trường 75A Hà Nội." Mẹ tôi lại hỏi tiếp:
    - Thế cái Công trường này nó ở chỗ nào ở cái đất Hà Nội này?
    Họ bảo họ cũng không biết. Mẹ tôi đời nào chịu. Và cuối cùng họ đành phải trả lời là tôi đang ở Cổng Trời Hà Giang. Thế là mẹ tôi đi Hà Giang. Đi với 2 bàn tay trắng: Không có mảnh giấy đi tiếp tế cho tù. Quy định đi thăm tù phải có giấy giới thiệu của địa phương cấp, mà địa phương được lệnh không cấp giấy cho mẹ tôi vì thành phần gia đình tôi là địa chủ cường hào đại gian đại ác. Bố thì bị bắn chết trong cải cách ruộng đất, còn tôi thì đi tù nên gia đình tôi là đối tượng của cách mạng cần phải chuyên chính. Mặc, không có giấy giới thiệu mẹ tôi vẫn cứ đi. Nhưng lên được đến Hà Giang, chưa qua được đèo Quyết Tiến thì bị Công An theo dõi và bắt quay về Hà Nội. Mẹ tôi đành viết thơ cho tôi theo địa chỉ trên. Thế là tôi nhận được thư. Thế ra mẹ tôi vẫn còn sống và tôi, tôi vẫn còn sống. Cũng có 1 phần do mẹ tôi không chịu mất dấu vết của tôi, làm phiền họ, quấy rầy họ, mà trên bộ Công An chưa bật đèn xanh cho Ban giám thị trại xóa tên tôi trong danh sách tù nhân ở Cổng Trời này. Đã có lần họ cho người giả làm tù ở cùng trại với tôi về báo tin là tôi đã chết. Nhưng mẹ tôi khăng khăng không tin. Mẹ tôi cứ làm tới, sấn tới, và điều đó phần nào đã cứu sống tôi. Vả lại ở trên Cổng Trời này, đối với các bậc như Cha Vinh, cha Quế, tu sĩ Đỗ Bá Lang, tu sĩ Nguyễn Trung Chính tức Nhẫn, tôi là hạng bét so với các đấng bậc ấy nên mũi nhọn của cuộc tàn sát không chĩa vào tôi. Ban giám thị trại đem so tôi với các bậc thánh đó thấy rằng tôi là một phần tử tiến bộ trong số này. Này nhé: Tôi không cầu kinh, không làm dấu thánh, không ăn chay trước lễ phục sinh. Không cần nghi lễ Giáng Sinh, thế là tôi chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của Ban Giám thị rồi còn gì nữa.
    Còn với các đấng bậc kia, cấm cầu kinh, cứ cầu, cấm làm dấu thánh trước khi ăn, cứ làm. Ngày lễ Giáng Sinh cứ nghỉ không chịu đi làm. Và nhất là chuyện tôi cứ ăn không chịu tuyệt thực cùng các vị đó khi có lệnh cấm làm dấu thánh trước khi ăn.
    Câu chuyện tuyệt thực xảy ra như sau:
    - ... Đây là nhà tù, chứ không phải là nhà thờ của các anh, nên cấm mọi hành vi tôn giáo và tịch thu mọi thứ: thánh giá, kinh bổn, tràng hạt.
    Tịch thu thì được. Còn cấm thì hơi khó hơn, nếu không nói là không cấm được.
    Cấm cầu kinh các vị ấy cứ cầu, vì làm thế nào mà biết các vị đang cầu kinh?
    Ăn xong, rồi ngồi chơi nhìn nhau. Im lặng không nói chuyện, không đi lại, thế là cầu kinh đấy.
    Chỉ có đêm đến, lệnh cấm ngồi là có hiệu lực, chứ ban ngày chả nhẽ lại cấm ngồi bắt nằm mãi sao?
    Ban Giam Thị uất lắm!
    Sau chuyện tu sĩ Đỗ Bá Lang, Chánh giám thị Nguyễn Quang Sáng tỏ ra quyết liệt hơn, cứng rắn hơn, dấn tới một bước nữa.
    Cấm triệt để làm dấu thánh trước khi ăn cơm. Nhưng lần này thì Nguyễn Quang Sáng phải chịu thua.
    - Ai cho các anh ăn? Chúng tôi. Chúng tôi cho các anh ăn chứ không có Chúa nào cho các anh ăn cả. Cấm cầu kinh, các anh vẫn lén lút cầu kinh vậy bây giờ trước khi ăn, tôi cấm các anh làm dấu. Các anh phải cảm ơn người cho các anh ăn. Đúng lắm, nhưng đó là chúng tôi đây chứ không có chúa nào hết. Không có con mẹ Maria, thằng Jésus nào cả. Biết chưa?
    (Nguyên văn như vậy, tôi xin lỗi các vị phải viết đúng, không dám xuyên tạc, bịa đặt, báng bổ gì).
    Và đến bữa ăn. Quản giáo đứng đó. Mọi lần thì cửa mở, chúng tôi bê cơm vào trong phòng. Đóng cửa lại. Chúng tôi chia nhỏ từng xuất một và ăn. Không có sự hiện diện của ai cả. Nhưng hôm ấy, bê cơm vào, cửa vẫn mở, Quản Giáo đứng đó kiểm soát và nhắc lại lệnh cấm của Ban Giám Thị.
    Tất cả, cả tôi, không ai phải bảo ai, không chia cơm ra ăn. Đứng mãi chán, Quản Giáo đóng cửa lại đi về.
    Đến chiều, tù nhà bếp đến lấy thùng. Cơm canh vẫn nguyên. Cơm canh đều chia vào hai cái thùng gỗ to, chứ không chia thành một phần như ở xà lim.
    Buổi chiều, đích thân Chánh Giám Thị xuống, mọi việc lại diễn ra đúng như buổi sáng. Mặt tái vì giận dữ. Nhưng làm thế nào mà bắt họ ăn cho được?
    Không có khí thế hừng hực đấu tranh như những người Cộng Sản ở Sơn La, Côn Đảo tuyệt thực, không có hô khẩu hiệu, tất cả đều lặng lẽ ngồi im. Không thể dùng lưỡi lê và sức mạnh để nhét cơm vào mồm họ được.
    Họ không ăn, thế thôi. Không hò reo, không gõ bát, gõ đĩa, không ai diễn thuyết, kích động, yêu sách điều gì.
    Im lặng, ai ngồi chỗ ấy. Giám thị Sáng đứng đó, không một ai thèm nhìn vào mặt ông ta cả. Tất cả đều quay mặt đi chỗ khác. Giám thị Sáng đành phải ra về.
    Đêm đến: Tôi đói không thể nào ngủ được.Đã một ngày trôi qua, và hai bữa không ăn. Suốt 10 năm tù đầu tiên, tôi không bỏ một bữa cơm nào, ngoài hai bữa hôm ấy.
    Chỉ có khi nào đến ngày giỗ người sinh ra tôi bị bắn chết, là tôi lặng lẽ khai ốm và báo cáo, vì tôi nghĩ: Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết.
    Dạ dầy tôi là dạ dày thép, nó ngốn và nghiền nát tất cả mọi thứ mà đối với người khác bình thường, cùng tù với tôi cũng không kham nổi.Sắn sống, khoai sống, ngô sống, om on sống, cả cây ngô non tôi cũng ăn được, khoai hà chỉ có ngỗng mới ăn, tôi cũng ăn được, khoai sọ tôi ăn cả vỏ, rong diềng ăn cả vỏ, có lần đi làm tôi lẩn vào ruộng trồng đỗ Mèo ních một bụng quả đỗ sống, chiều về say gần chết. Ra suối tắm, quả vả mọc hoang tôi bứt ăn, cũng say gần chết. Chỉ gần chết thôi chứ chưa chết hẳn. Ngất ngư lảo đảo thôi. Sắn ăn say, ngày nào mà tôi chả say sắn, mà theo cái đầu óc ngu dốt của tôi chính có lẽ do say sắn triền miên mà tôi vẫn còn sống đến hôm nay. Chả là rét quá, tôi bị sưng phổi. Cứ thấy ho, sốt, rồi tôi không dám nói láo cứ cúi xuống ngẩng lên là nghe trong phổi có tiếng óc ách...
    Ở Cổng Trời không phải khai ốm, vì có còn khai với ai được. Ốm mặc, không có thuốc men gì hết. Quản Giáo trực thấy tôi nằm ốm, hỏi làm sao. Hỏi để mà hỏi. Rồi thôi. Để đấy. Tôi cứ ăn sắn, say sắn. Và rồi khỏi. Mọi người đều coi chuyện đó là chuyện thường tình.
    Mãi đến khi về, năm 1970 tôi đi khám ở Bệnh viện A để kiểm tra phổi. Sau khi chụp X quang, kết luận: dầy dính màng phổi. Bác sĩ Kim hỏi tôi là tôi bị sưng phổi bao giờ và ở đâu hút cho. Tôi trả lời là quên mất thời gian và chưa ai hút ra bao giờ. Bác sĩ Kim rất ngạc nhiên.
    Qua chuyện trên, tôi đi đến kết luận là Acide Cyavidrique, nghĩ thế, theo đầu óc ngu dốt của tôi thôi.
    Ở Cổng Trời, khu nọ cách biệt với khu kia bằng 1 hàng rào bao quanh khu. Cấm liên lạc nhưng khi trả thùng cơm canh, thì đem đến 1 cái sân chung để nhà bếp tiện lên lấy. Có lần khu C: họ được mua sắn cải thiện để ăn thêm. Chả hiểu sao cả khu say và chết đâu mất 5 người. Sáng ra, quản giáo trực vào thấy chết vì say sắn bèn ra lệnh tịch thu số sắn còn lại, cấm không cho ăn, và đem ra tập trung ở chỗ trả thùng cơm. Hôm ấy đến lượt tôi bưng thùng ra trả. Tôi thủ ngay gối 1 thùng sắn luộc rồi giấu vào bụng đem về buồng ăn. Các vị tu sĩ bảo tôi: Họ ăn chết hàng loạt kia kìa, lấy về làm gì?
    Tôi bảo: Họ có nhiều họ ăn mới chết! Chứ mình cứ củ một ăn, chết thế nào được. Và tôi ăn. Ăn củ một, thấy đắng quá thì thôi. Hơi say một chút chẳng sao cả. Và những chất say ở sắn đã làm tôi khỏi bệnh phổi, làm tôi no, và có thêm một hiện tượng là hai bên quai hàm tôi to bạnh ra. Say sắn có khổ nhưng không khổ bằng đói: tôi chọn cái ít khổ hơn. Điều này là sự thật 100%, cứ ăn sắn nhiều là hai bên quai hàm to bạnh ra. Xin các nhà khoa học giải thích hộ cho. Kể lại với quý vị như thế, để quý vị biết tôi đói đến thế nào. Tôi đói lắm ấy! 12 kg cả gạo cả sắn 1 tháng, với sức tôi cao 1m 76 nặng 78kg và 30 tuổi thì các vị chắc cũng hiểu cho được.
    Lại quay trở về với câu chuyện tuyệt thực. Thế là qua một ngày và hai bữa không ăn.
    Tôi xin phép được nhắc lại, 10 năm tù đầu tôi không nhịn bữa nào ngoài hai bữa cơm tuyệt thực đó, và tất nhiên là tôi đói lắm.
    Ở trong Mein Kamp (Cuộc Chiến Đấu Của Tôi) Hitler viết: "Cái đói nó theo tôi như một cái bóng..." tôi xin thêm: Nó hành hạ tôi khổ sở nữa.
    Tối hôm đó, đã hơn 9 giờ mà tôi không thể nào ngủ được, cứ dở mình trằn trọc. Tu sĩ Chính tức Nhẫn ở xứ Trung đồng Thái Bình, nằm cạnh tôi hỏi khẽ:
    - Đói không ngủ được à?
    - Vâng, đói lắm không ngủ được.
    - Vậy, có lẽ mai Vĩnh cứ ăn đi. Tôi sẽ đứng ra chia cơm để Vĩnh ăn nhé.
    Tôi, xin thưa rằng, phần xác tôi nặng, nặng lắm nhưng cơ thể tôi lúc đó thì rất nhẹ. Tôi cân nặng 49kg. Tôi gầy đến "lõ đít" ra. Tôi xin phép được dùng từ này, vì đúng là tôi gầy đến như vậy. Những lúc ngồi chơi, hoặc luyện yoga tôi nhìn xuống đùi, đầu gối ống chân đều trơ xương ra khẳng khiu khô khắc.
    Trước đó ít hôm ra khênh cơm vào, có một anh bạn ở nhà bếp nhìn thấy tôi ra hiệu bằng cách lấy hai bàn tay vuốt vào hai má, chúm cái miệng lại ra cái điều là gầy quá má hóp, vêu miệng. Tôi cũng biết vậy, tôi yếu lắm rồi, tay nắm không chặt, hai bàn tay xoa vào nhau như sự cọ sát của hai thanh củi khô, không có cái mềm mại của da thịt. Ở Cổng Trời này không có gương để soi, xem mặt mũi hình hài của mình nó ra sao. Mỗi lần cắt tóc, quản giáo đưa cho một cái tông đơ, cắt cả tóc lẫn râu thế thôi không có gương lược, dao kéo gì. Có lần muốn nhìn cái bản mặt mình, tôi đã bắt chước Nguyễn Tuân đái một bãi xuống đất rồi soi mặt mình vào đó. Nào có thấy rõ chó gì đâu mà cái nhà ông Nguyễn chỉ nói ngoa ngôn, phóng đại xui dại anh em thôi.
    Vì gầy thế, nên hai cái mông teo lại, cái xương cùng nó thò dài ra, khi đi ngoài, chùi nó chạm đâm vào tay mình.
    Chính lúc ấy tôi mới cảm nhận thấy hết cái từ gầy lõ đít.
    10 năm tù lúc nào tôi cũng ước ao có một bữa no, thèm muốn làm sao mà được ngồi trước nồi cơm nóng bốc hơi nghi ngút, muốn ăn bao nhiêu thì đơm bấy nhiêu, và có đầy 1 bát muối để ăn cho mặn. Cả muối tôi cũng thèm. Chỉ có 1 ước muốn đơn sơ ấy, thế mà suốt trong 10 năm tù lần thứ nhất ngay cả ở các trại dưới tôi cũng không đạt được nói chi nữa là ở trại Cổng Trời này.
    Tất cả các nhà tù của Cộng Sản miền Bắc mà tôi đã đi qua và sống ở đó đều đói và có thể chết đói được.
    Khi còn ở trại Bất Bạt Sơn Tây, tôi ở toán kiên giam, biệt lập: phải xay lúa giã gạo ở khu biệt lập kiên giam này, tôi nhớ tới phim "Samson và Dalila", anh chàng Samson mù quay cối xay. Chúng tôi cũng vậy. Rào kín và hẹp chả nhìn thấy gì ở ngoài cả. Chế độ ở kiên giam Bất Bạt cũng học đòi cách quản lý và đối xử với tù của Cổng Trời, nhưng mà là học trò hạng bét. Cũng tù hình sự đem cơm đến để đấy rồi chạy. Cũng không được ra khỏi khu cấm! Nhưng vẫn còn được viết thư về nhà và còn được gặp và nhận đồ tiếp tế của người nhà đi thăm nuôi.Chứ ở trại CổngTrời Cắn Tỷ không 1 ai được thăm nuôi. Không 1 ai trong suốt thời gian 7 năm tôi ở đó. 
    Khi đói, tôi kêu. Tôi kêu đến nỗi Quản Giáo phụ trách Giáo dục tên là Kích người liên khu 5 Bình Định đi tua nghe thấy, gọi tôi ra ngoài lục vấn, lên lớp và đe dọa tôi:
    - Anh Vĩnh, anh định kích động mọi người, phải không? Cẩn thận. Không có lại đi suốt đấy.
    - Thưa ông, tôi đói thật, ông ạ. Phàm cái gì uất ức, đau khổ quá cũng phát ra thành tiếng. Có thế thôi. Thứ tôi mà đi kích động hở ông. Vả lại tôi là một sĩ quan chiến đấu, võ biền. Ông xét xem, tôi sẽ kích động được ai trong số những tu sĩ ở cùng với tôi trong buồng. Tôi nói rất thật, để chứng minh điều đó ông làm ơn xúc cho tôi một bát cám lợn kia tôi sẽ ăn hết ngay trước mặt ông cho ông xem. (Chả là chỗ nói chuyện gần chỗ nuôi lợn của nhà bếp mà).
    Chừng quản giáo Kích cũng hiểu ra, nên không trấn áp tôi thêm nữa cho tôi trở về buồng. Trên đường về đi qua dàn su su, quả mới bé bằng ngón tay cái, tôi vốn cao, nên với tay vặt ngay lấy dăm bẩy quả đút túi về ăn sống. Trần Liệu bảo tôi:
    - Được ra khỏi buồng, bất cứ cái gì động đậy đều vồ lấy ăn hết, chỉ trừ khi vồ nó mà nó kêu "Ối giời ôi" thì chịu không ăn mà thôi.
    Hắn ăn giun, ăn dế, ăn gián, ăn cả trứng con bọ hung nữa... Chúng tôi cười với nhau. Trần Liệu cũng đói lắm. Hắn to con gần bằng tôi và vốn là đồ tể Quỳnh Lưu Cầu Giát, rất thích ăn tiết canh "me" (bê non). Nhưng tôi cũng phải phục hắn; thế mà hắn cũng chịu được 2 ngày liền theo các đấng bậc tu sĩ đấy. Hắn là con chiên cực kỳ ngoan đạo. 
    Ông Chính bảo tôi:
    - Mai tôi sẽ chia cơm để Vĩnh ăn. Vĩnh cứ ăn đi. Không sao cả. Có gì tôi sẽ nói với anh em trong phòng để họ cảm thông trường hợp của Vĩnh.
    Tu sĩ Chính là người có uy tín nhất ở trong số tu sĩ còn lại đó. Tôi im lặng. Đối với ông, tôi có một món nợ lớn lắm! Lớn lắm mà không bao giờ có thể trả được. Tôi vốn có duyên nợ nhiều với đất Thái Bình và ông, ông là người sinh ra ở đó và tu ở đó. Tôi và ông có rất nhiều điểm tương đồng. Ông hay nói chuyện với tôi lắm.
    Tôi ở với ông từ ngày đầu đi tù, từ trại Bất Bạt Sơn Tây lên ở khu A Cổng Trời, ở cho đến lúc ông bị gọi đi chết.
    Những năm 50, ở Thái Bình, tôi có may mắn gặp Đức Giám mục nguời Tây Ban Nha coi sóc địa phận, cha Chính, cha Trụ ở thị xã, rồi các cha ở Sa Cát, Phương Xá, Bái Bồ Trung, Phù Lưu (ngã ba Đọ) Cao Mái. Tôi hành quân giải vây cho các nhà thờ bị vây hãm.
    Tóm lại tôi có nhiều kỷ niệm đẹp về các xứ đạo ở đó lắm. Tôi nói chuyện vói tu sĩ Chính về các kỷ niệm xưa đó, hai ngươi rất tâm đầu ý hợp.
    Thấy tôi kêu la nhiều. Có một hôm, tu sĩ Chính ốm, ốm ở đây ít ai bỏ ăn. Ở Cổng Trời, ốm phải không?Tốt lắm! Nếu ốm chết thì hay quá: Khỏi phải giết! Đỡ mệt hơn. Hôm ấy tu sĩ Chính bỏ ăn. Ông rất ít khi ốm, từ Bất Bạt tôi thấy ông không ốm bao giờ tuy rằng ông rất gầy và xanh. Nhưng sự chịu đựng gian khổ, đày đọa của ông thì tôi phải ngã mũ kính cẩn vái chào. Lúc nào cũng ôn tồn, nhỏ nhẹ, điềm tĩnh cười nói như không cho dù có điều gì xảy ra.
    Tôi còn mấy viên thuốc cảm, đưa ông dùng, ông bảo không sao đâu. Chỉ có miệng ông đắng và bụng ông nó không ổn, thế thôi. Buổi chiều qua đi ông cũng bỏ cơm. Chúng tôi thường ăn vào độ 3, 4 giờ chiều. Cm mọi hình thức nấu nước đun lại. Với chúng tôi 9 giờ đêm là khuya ri. Tu sĩ Chính lay tôi dậy và bảo:
    - Vĩnh ăn hộ tôi đi, chứ để mai thiu, bỏ đi. Phí của lắm.
    Tại sao tôi lại có thể ăn xuất cơm của tu sĩ Chính như thế được chứ. Tôi từ chối:
    - Tu sĩ cố ăn đi chứ!
    - Thật tình tôi đắng miệng lắm, và bụng tôi nó nóng như lửa, quặn đau lắm, không thể ăn được.Vĩnh ăn hộ tôi đi.
    Không để đến mai thì phải đổ đi mất! Họ có cho đun đâu mà bảo nấu lại được. Ăn đi. Ăn hộ tôi, khỏi phí, Vĩnh ạ. Nếu Vĩnh không ăn, sáng mai nhà bếp nó lên nó lấy đồ cho lợn thì uổng lắm Vĩnh ạ.
    Tôi nghĩ thấy đúng như ông nói. Ở các trại dưới, cơm có thể phơi khô để dành. Chứ còn ở đây, thì chỉ còn có đổ xuống nhà bếp cho lợn ăn mà thôi. Thế thì tại sao lại cho lợn ăn nhỉ? Trong khi ấy tôi đói, tôi đói lắm, tôi thèm lắm. Tôi thấy thế và nghĩ đúng như thế. Lúc đó đã là 10 giờ đêm rồi. Thế là tôi ăn 2 xuất cơm đó, các vị đọc tới đây, tất có vị sẽ chửi rủa tôi. Xin các vị cố hiểu mà đánh chữ đại xá cho. Tôi ăn, ăn cả hai xuất cơm canh trong nháy mắt và nằm ngủ. Ngủ yên và say cho đến sáng. Lâu lắm tôi mới được "sín đề" và được một bữa tương đối. Cám ơn tu sĩ Chính tức Nhẫn. Cám ơn nhiều.
    Sáng hôm sau, như thường lệ, mọi người và cả tu sĩ Chính dậy sớm cầu kinh và ông bảo tôi ông thấy đỡ nhiều. Chỉ đến chiều hôm ấy, tôi đã hiểu ra là tu sĩ đã nhịn cho tôi ăn. Cám ơn ông. 
    Cho đến tận hôm nay 30 năm trôi qua tôi vẫn còn món nợ đối với ông mà không thể nào trả được. Chỉ còn biết cầu Chúa, để Chúa biết đến sự hy sinh cao cả của ông, đến sự vất vả nhọc nhằn của ông khi ông vác cây thánh giá của Chúa theo Chúa đến chết. Cầu sao cho linh hồn ông được tới thiên đàng.
    Sáng hôm thứ hai của sự tuyệt thực, tù lại khênh cơm lên. Quản giáo lại đứng đấy để giám sát. Không ai nhúc nhích gì. Không ai ăn cả, kể cả tôi. Lúc ấy tu sĩ Chính đứng dậy cầm bát chia cơm canh của tôi ra cái thùng gỗ của nhóm 5 người (tôi vẫn ăn cùng với tu sĩ). Tu sĩ Chính xúc vào bát của tôi, cơm canh đầy đặn và lặng lẽ bê đến trước mặt tôi:
    - Đây phần của anh,anh ăn đi và về ngồi lại ở chỗ mình.
    Một lần nữa tôi lại xin các vị cố hiểu cho tôi và bỏ qua cho tôi. Tôi không theo đạo Thiên Chúa và không làm dấu thánh bao giờ. Tôi ăn. Hà tất gì tôi lại nhịn không ăn. Không có điều gì thúc đẩy buộc tôi bắt tôi không ăn cả. Tôi nghĩ đúng như vậy. 
    Nhân cơ hội ấy, Quản Giáo bèn lên tiếng:
    - Đấy các anh thấy không? Anh Vĩnh, anh ấy ăn cơm không cần làm dấu thánh. Có sao đâu nào. Anh ấy vẫn ăn được một cách ngon lành, thế thì tại sao các anh lại không ăn? Các anh là đồ ngu dốt, cuồng trí, dại dột dám chống lại Đảng và Chính phủ. Rồi các anh sẽ biết.
    Không một tu sĩ nào trả lời đáp lại. Có tôi lên tiếng:
    - Xin lỗi ông, chắc ông đọc lý lịch của tôi thì ông đã rõ, tôi không theo đạo nào cả. Phật không, Chúa cũng không, mà lệnh của các ông thì chỉ có cấm làm dấu thánh trước khi ăn mà thôi. Tôi, tôi từ thuở cha sinh mẹ đẻ chưa làmdấu thánh bao giờ.Vì vậy tôi ăn có thế thôi.
    Đứng cho đến lúc tôi ăn xong, Quản giáo thấy trơ trẽn quá, quay gót khóa cửa ra về. Đến buổi chiều không thấy mặt ai cả. Cả Giám thị, cả Quản giáo cả lính coi tù. Tu sĩ Chính đứng dậy chia cơm cho một mình tôi. Tôi ăn. Các đấng bậc và kể cả T.H Liệu cũng không ăn.
    2 ngày trôi qua.... Sáng hôm thứ ba tù khênh các thùng cơm canh nguội lạnh còn nguyên xuống nhà bếp và rồi lại khênh lên với cơm canh mới hãy còn nóng. Không có ai đi kèm. Ban Giám thị không. Quản giáo không.
    Khênh cơm canh vào buồng. Khóa cửa lại. Chia đều.
    Và các đấng bậc tu sĩ lại làm dấu thánh trước khi ăn.
    Chẳng ai cười cợt, nói năng, hát hò, reo vui gì trước cuộc đấu tranh đã giành được thắng lợi lẫy lừng và vang dội đó của họ cả. (Như các bài báo của Cộng Sản mà tôi đã đọc riết về các cuộc tuyệt thực).
    Và cuộc sống của chúng tôi lại lặng lẽ trôi như thế cho đến khi tôi được về và "các vị còn lại chết hết".
    Hồi ký của K.Vĩnh   



GIÓ CŨNG BIẾT BUỒN

  • Trước năm 1975. Họ là những người từng được sanh ra và lớn lên ở nơi này. Họ thuộc về nơi họ đã từng sống với những niềm vui, nỗi buồn cùng những lo toan thường nhật của những con người bình thường.
    Họ được ăn học tùy vào điều kiện và hoàn cảnh của mỗi người. Thậm chí, có người không được học hành do những điều kiện khách quan về hoàn cảnh xã hội và thời cuộc. Nhưng thành phố này là của họ, để họ gọi đó là quê hương.
    Sau 1975, họ bị bứng khỏi nơi họ từng ở. Họ được đưa tới những nơi không thuộc về mình trên những chiếc xe chở nặng nỗi buồn và đầy ắp sự âu lo.
    Họ đi xây dựng một thứ mơ hồ không thể nắm bắt. Nó được tung hô với mỹ từ "Kinh Tế Mới". Nó không rõ ràng hay cụ thể gì ngoài câu khẳng định được ai đó viết nguệch ngoạc trên những tấm bìa gỗ treo trên những thân cây xiêu vẹo: "Bàn tay ta làm nên tất cả. Có sức người sỏi đá cũng thành cơm".
    Một vài năm sau...
    Khi không thể biến sỏi đá thành cơm mà muôn đời đá sỏi chỉ mãi là đá sỏi và là thứ không thể ăn được thay cơm. Họ lại lén lút quay về nơi họ từng ở của những ngày xưa thân ái. Nhưng nay nó đã không còn thân thiết như những ngày tháng cũ.
    Họ sống lưu vong ngay trên chính nơi họ từng được sanh ra. Họ sống lẩn lút, tạm bợ đâu đó ngay trên quê hương cũ. Họ làm đủ thứ nghề không ra nghề chỉ để tồn tại qua ngày. Tương lai chỉ như những chiếc lá rơi trong đêm khuya khoắt u buồn và ngày mai là những tiếng thở dài đứt ruột...
    Rồi một hôm nào đó, dưới cái nắng gay gắt của mùa hè, hay dưới những cơn mưa tầm tã đầu mùa, họ lại bị thu gom như người ta thu gom những thứ không còn cần thiết, để đem đổ bỏ đi. Họ lại bị ném lên những vùng xa xôi hơn với hy vọng do khoảng cách về địa lý, họ sẽ không còn có thể quay về chốn cũ.
    Những cột đèn đường đứng chôn chân nhìn những đoàn xe nặng nề trườn ra khỏi thành phố. Không ai tiễn đưa, không mt cái nắm tay bịn rịn, luyến lưu...
    Những ngọn gió sợ hãi cũng trốn biệt trên trời cao. Trời không tiễn, đất không đưa, và gió, chỉ có tiếng gió thở dài não nùng, u uất trên những tàn cây cao. Rồi chúng lặng im biến mất. Hay có lẽ, đến gió cũng sợ bị đưa ra khỏi thành phố, nơi chúng có thể tự do lang thang quẩn quanh mỗi ngày. Hay gió sợ bị nhốt trên núi rừng thâm u, ngày ngày đau đớn thổi qua trên những đôi vai gầy guộc và trên những tấm lưng gầy của những người thua cả cuộc chiến, mất cả cuộc đời và mất luôn cả.... quê hương. Rồi đêm đêm, gió lại thở dài như họ trong từng giấc chiêm bao buồn như số kiếp con người.
    Họ ra đi và gió ở lại để thổi những nỗi buồn lên mây trắng, lên những tàn cây xác xơ, nghiêng ngả. Rồi gió lang thang qua những phố phường hoang lạnh với những tường vôi loang lổ rêu phong.
    Thời gian cúi đầu mặc niệm nghe tiếng gió xa dần... xa dần... Và rồi từ đó, gió... cũng... biết... buồn.

    Cao Hoàng



Người Lính Kỹ Thuật

  • Tưởng Nhớ Vị Anh Hùng Khu Trục Cố Tr/Tá Phạm Đăng Cường

    Image en ligne
    (Bên phải đứng) cố Tr/Tá khu trục Phạm Đăng Cường)

    Lời giới thiệu (KhongQuan2): 
    Nhân ngày 11 tháng 3 là ngày giỗ của vị Anh Hùng Khu Trục cố Tr/Tá Phạm Đăng Cường, sinh năm 1940 tại Gò Công. 
    NT Phạm Đăng Cường thuộc dòng dõi Phạm Đăng Hưng, một quan đại thần nhà Nguyễn. Quê NT Cường ở Gò Công là nơi có nhiều nhạn hiếm quí. Bởi thế, ông lấy bút hiệu “Người Nhạn Trắng”, là một trong những cây bút trụ cột của đặc san Lý Tưởng của Hội Ái Hữu Không Quân Việt Nam tại Houston.
    NT Phạm Đăng Cường gia nhập Không Quân Khóa 61 SVSQKQ, NT Cường theo học các khóa hoa tiêu tại Naval Air Station Pensacola, Florida. Sau khi mãn khóa NT Cường về phục vụ PD514, KD23CT dưới quyền chỉ huy của Th/Tá Võ Xuân Lành CHT/PD514. Sau đó NT Cường về phục vụ tại Khối Đặc Trách Khu Trục/BTLKQ, lúc đó Trưởng Khối DTKT là Tr/Tá Lê Như Hoàn. Năm 1974 NT Cường được biệt phái về Bộ Quốc Phòng để nhận nhiệm vụ Sĩ Quan Tùy Viên Quân Lực của VNCH. Sau đây tôi xin post bài “Người Lính Kỹ Thuật – Người Nhạn Trắng” và hình ảnh của NT Phạm Đăng Cường để nhớ đến vị anh hùng Khu Trục của Không Quân VNCH.
    -------
    Người Lính Kỹ Thuật
    Một toán sinh viên sĩ quan, trong đó có tôi, vui mừng, hớn hở đi làm thủ tục xuất ngoại du học. Người thì hãnh diện ra mặt bằng lời nói; người thì bằng ánh mắt sáng ngời, riêng tôi cũng thích thú lắm nhưng không dám tỏ vẻ quá vui, vì một số bạn thân chưa được xuất ngoại, hoặc phải học tại Việt Nam. Cầm tờ I.T.O trên tay là cầm chắc định mệnh và lẽ sống của cả cuộc đời. Được lựa chọn một cách may rủi, đi thụ huấn ngành nào như quan sát, trực thăng hay vận tải...là sẽ gắn liền mãi mãi với loại phi cơ đó.
    Đọc tên trường bay trong I.T.O là US Naval Air Training Command (NAS Pensacola, FL.), chúng tôi sững sốt. Có mấy anh học trường Tây còn gọi là Air Naval, nghe thật là quí phái. Nhưng, lại chữ nhưng quái ác, khi sang đến Florida, làm thủ tục nhập trường, thì không phải trường bay, mà là trường quân sự với mấy anh Thủy Quân Lục Chiến, cứ làm như đã từng đổ bộ lên bờ biển Normandie vậy. Sau khi quan sát tận mắt, không phải cái Air Naval như trong mơ tưởng, mà thực tế là Indotrination với “menu” sơ khởi 10 ngày huấn nhục, làm các nhà quí phái “choáng váng” mặt mày. Sau huấn nhục tới phần quân sự thật nặng nề, riêng phần ăn chơi nào là đoạn đường chiến binh, bơi lội đủ kiểu, an sinh thoát hiểm ba ngày tự túc trong rừng... Tất cả vị chi 4 tháng mới được chuyển qua trường bay vỡ lòng, với loại phi cơ T-34 sơn đỏ trắng thật đẹp mắt.
    Image en ligne
    T-34C NAS Corpus Christi, Texas

    Giờ đây mới được sờ vào thân phi cơ, ngửi mùi thủy điều và chạm trán với người lính kỹ thuật. Người đầu tiên là cơ trưởng (Crew Chief), họ có vẻ tự tin và chuyên nghiệp. Họ không sửa chữa nhưng họ hiểu biết tổng quát về phi cơ rất tường tận. Họ ăn nói rất lễ phép và rất có kỷ luật.
    Trong lần đơn phi đầu tiên, người cơ trưởng đã sẵn sàng từ phòng kỹ thuật, trước bảng ghi số phi cơ, để đón tiếp người sinh viên sĩ quan phi công. Anh ta thuyết trình đầy đủ về chiếc phi cơ do anh chịu trách nhiệm. Sau khi sinh viên ký xong mẫu kỹ thuật, anh ta vội ôm hộ cái nón bay, trong khi người sinh viên đeo dù và cùng nhau bước ra bãi đậu. Anh theo sát bên người sinh viên, để cùng tiền kiểm soát xung quanh phi cơ, và anh vui mừng khiđược sinh viên ghi điểm khen thưởng. Anh đứng ngoài phòng lái, nghiêng người giúp chàng phi công đội nón bay, cài dây nịt an toàn. Cử chỉ không những chu đáo, mà còn như muốn bày tỏ mối dây liên hệ tình cảm vô hình giữa hai người. Xong đâu đấy, anh xuống đứng đàng trước phi cơ, phía bên cánh trái, ra hiệu cho người sinh viên quay máy. Sau khi liên lạc vô tuyến với đài kiểm soát, người sinh viên phi công ra hiệu di chuyển. Phi cơ vừa lăn bánh, anh cơ trưởng liền đứng nghiêm và chào kính. Hai tay đều bận điều khiển cần ga và cần lái, người sinh viên phi công chỉ gật đầu rất nhẹ để chào lại. 
    Đời người lính tàu bay và người lính kỹ thuật dính liền từ dạo ấy. Đặc biệt ở VT-30, NAS Corpus Christi, ngoài người lính kỹ thuật, phi công còn khắng khít với người lính cứu hỏa.
    Về Việt Nam, bay phi vụ đầu tiên trên sân nhà, phi cơ sơn màu cờ Vit Nam, đuôi sơn màu đơn vị, người phi công chợt cảm thấy bồi hồi xúc động. Anh cơ trưởng gầy ốm xanh xao, nhưng nụ cười luôn nở trên môi và cái chào xã giao thông lệ làm người phi công không mấy yên tâm... Phi cơ thì bị vá nhiều chỗ, phòng lái thì ướt cả thủy điều, bụng phi cơ dính đầy dầu. Hai bánh đáp một bên vừa mới thay, một bên mòn tới 50% làm người phi công vừa bay vừa lo ngại. Tiếng động cơ nổ nghe khác lạ, phòng lái thì xông lên mùi bất thường, nhưng ngày này qua ngày khác, vẫn không có điều bất trắc kỹ thuật xảy ra. Người phi công dần dần thu hoạch nhiều kinh nghiệm, với số giờ bay chồng chất theo năm tháng. Người phi công giờ đã thấy an tâm.
    Những phi vụ yểm trợ tiếp cận quân bạn chở đầy bom đạn đủ loại, từ bom nổ, bom xăng đặc, hỏa tiễn trĩu nặng đôi cánh, nhưng hàng ngày hai, ba phi vụ vẫn an toàn. Phi cơ có bị hư hại, bể ống dầu, ống thủy điều, lủng cánh bể đuôi là do súng phòng không địch gây ra.
    Người phi công bắt đầu chú ý và cảm phục người cơ trưởng nhỏ con, xanh xao từ đó. Tuy họ không chào kính mình như những người lính kỹ thuật Hoa Kỳ, nhưng trong ánh mắt họ hiện rõ nét lo âu trìu mến cho số phận người phi công và con tàu của họ. Họ tài tình, khéo léo, rất có khiếu về kỹ thuật. Họ sửa chữa, thay động cơ và khung phòng rất nhanh chóng, dù phương tiện kỹ thuật cơ hữu thô sơ. Kiểm kỳ 1 rồi kiểm kỳ 2, họ làm việc liên miên, nhưng không bao giờ phàn nàn, hay xao lãng công việc một cách vô trách nhiệm, để gây nguy hại đến sinh mạng người phi công.
    Tôi nhớ mãi một lần được biệt phái, làm biệt đội trưởng ở Tân Sơn Nht cho Không Đoàn 33, thời Trung Tá Lưu Kim Cương làm Tư Lệnh, tôi rất quan tâm đến số khả dụng hành quân của 6 chiếc A-1 tăng phái. Mới hoạt động không bao lâu thì có 1 chiếc phi cơ bị hư hỏng, không biết nguyên do vì đâu mà cứ bị nằm ụ mãi. Tôi bèn phái 1 chiếc AD-5 về Biên Hòa, rước một ông Thượng sĩ già kỹ thuật xuống giám định. Đến nơi, vừa mới vào phòng hành quân biệt đội, ông bắt gặp các phi công đang ngồi “binh” xập xám chướng, ông liền sà vào ngay và còn xin được chơi một cửa. Tôi hết sức bực mình liền hỏi:
    – Sao lại ngồi xuống đây xếp?
    Ông trả lời:
    – Tôi đã bảo thằng nhỏ quay máy ngoài ấy rồi!
    Nghe ông già kỹ thuật trả lời khơi khơi như vậy, tôi hơi khó chịu bèn bỏ đi ra ngoài bãi đậu xem người cơ khí làm ăn ra sao. Anh cơ khí viên loay hoay sửa tới, sửa lui một hồi vẫn không được. Chợt tôi nhìn thấy ông Thượng sĩ già chậm rãi tiến về phía phi cơ. Ông đến ra hiệu cho người cơ khí thử đủ các cơ chế, để ông nghe tiếng động cơ nổ. Chừng 5 phút, ông ta đưa tay lên cứa cứa vào cổ ra hiệu cho người cơ khí tắt máy, xong ông tới nói lí nhí gì đó với người cơ khí mà tôi không nghe rõ. Rồi ông lại lững thững đi vào xây sòng. Tôi hết kiên nhẫn hỏi gằn ông ta:
    – Tôi rước ông xuống đây sửa phi cơ chớ bộ tôi rước ông xuống đây đánh bài à?
    Ông cười có vẻ thản nhiên như không:
    – Tôi đã chỉ cách cho nó chữa rồi, Trung úy cứ yên trí vào nghỉ cho khỏe. 
    Nghe ông ta trả lời với vẻ tự tin, tôi cũng hơi an tâm. Tôi theo ông ta vào ngồi chờ. Ông già còn mặn canh bạc lắm. Chốc chốc ông lại đứng lên, đi ra chỉ bảo cho người cơ khí sửa chữa. Một lát sau, người cơ trưởng nhễ nhại mồ hôi vào báo cáo:
    – Thưa Trung úy, tàu sửa xong rồi. Nhờ Trung úy ra bay thử.
    Tôi kinh ngạc hỏi lại:
    – Giỡn hoài sao cha, cả tuần nay anh sửa không được, ông Thượng sĩ này mãi ngồi sòng bài, chưa đụng tay vào động cơ mà sao tàu đã tốt được?
    Anh ta trả lời:
    – Tốt thực sự rồi Trung úy, ông già nghe máy cũng đủ biết phi cơ hư ở đâu, thay “bu-gi” thử máy, không cần đọc phi kế phi cụ gì cả. 
    Tôi đáp “OK”. Nhưng trong bụng tự nhủ thầm rằng nếu tôi bay thử mà vẫn thấy phi cơ hư như cũ thì đừng có trách tôi sao làm báo cáo quá đáng. Nhưng lạ thay, tôi bay thử trong tất cả cơ chế, cao độ, các phi kế đều chỉ trong giới hạn an toàn. Về đáp, tôi đưa hai tay bắt tay ông già và ngỏ lời thán phục sát đất. Tôi muốn đích thân lái máy bay đưa ông về Biên Hòa nhưng ông từ chối. Ông còn nán lại binh xập xám với mấy anh phi công trẻ và chiều về Biên Hòa bằng xe đò.
    Về sau, tôi là chuyên viên bay thử kiểm kỳ 2 cho công xưởng. Phi cơ A-1, sau khi bay một số ngàn giờ, phải đem vào công xưởng tháo tung ra để rọi X-ray để tìm chổ rạn nứt hay hư hại, sửa chữa rồi ráp lại. Ngoài ra, những phi cơ đáp khẩn cấp hay tai nạn nặng, cũng phải đem vào công xưởng sửa chữa cẩn thận, rồi sơn lại như mới. Mỗi lần bay thử, những người lính kỹ thuật đưa tôi ra tận phi cơ, xem tôi mở máy, di chuyển và cất cánh được an toàn, rồi họ mới trở vào phần sở của họ. Họ thương yêu người phi công bay thử các tác phẩm của họ. Người lính già, người lính trẻ lo âu cho người phi công lúc cất cánh, giống như chính họ đang ngồi trong thân tàu. Họ thở phào nhẹ nhõm khi tác phẩm của họ mang người phi công trở về an toàn. Họ vui mừng và ghi nhận những điều còn thiếu sót của họ. Họ gầy ốm, người xanh xao, người xạm nắng, chịu nhiều thiệt thòi và lắm khi bị bỏ quên, nhưng họ vẫn cố gắng, nhiệt tâm, chịu đựng, không bao giờ than vãn, có lẽ nhờ tấm lòng yêu Không Quân và Tổ Quốc.
    Hồi mới mãn khóa bay thử và sang bay cho công xưởng, tôi đã biết người lính kỹ thuật Không Quân Việt Nam rất giỏi, có trình độ hiểu biết kỹ thuật rất cao và họ đã chứng minh điều đó trong bao nhiêu năm trời nhưng tôi hơi ái ngại vì sự làm việc quá độ của họ. Biết đâu vì kiệt lực mà họ vô ý bỏ sót, không vặn kỷ một vài con ốc. May mắn thay điều lo nghĩ của tôi không bao giờ xảy ra. Họ vẫn chu toàn công tác một cách tốt đẹp. Khi viết những dòng này, tôi vẫn thấy thấp thoáng hình ảnh người kỹ thuật Không Quân Việt Nam thân yêu của tôi đâu đó trong từng ngăn ký ức.
    Không Quân trên đà bành trướng, tổng số phi cơ tăng vọt quá nhiều, mà sự đào luyện không thể cấp bách được. Thế mà họ vẫn nhẫn nại, vừa sửa chữa phi cơ, vừa dìu dắt những người trẻ mới bước chân vào ngưỡng cửa đơn vị. Công xưởng Biên Hòa về sau càng đông khách hàng. Nào phi cơ khu trục, phi cơ quan sát, trực thăng..v..v... Càng làm việc lâu với nhau, tình thân thuộc càng nẩy nở ví như anh em sinh trưởng trong một gia đình. Tôi tin tưởng nơi người lính kỹ thuật và thích thú bay những phi vụ bay thử, giống như bay du hành hay bay hành quân vậy.
    Nói đến khu trục, tôi không quên nhắc đến các anh vũ khí. Các anh hùng hục làm việc dưới nắng mưa không sờn lòng. Xem các anh vận chuyển, gắn bom nổ, bom xăng đặc hay hỏa tiễn vào phi cơ mau lẹ, chính xác không chê vào đâu được. Tuy thân thể, sức vóc, điều kiện sinh sống không bằng người lính Mỹ, các anh vũ khí dãi dầu sương gió, nắng mưa của vùng nhiệt đới, mà vẫn tươi cười, ngày này qua tháng nọ giỡn mặt với tử thần “chất nổ”. Đặc biệt toán tháo gỡ đạn dược, mìn nổ chậm mới khủng khiếp. Chỉ một phút sơ sẩy là đời các anh tan tành như xác pháo đêm giao thừa. Các anh đã xem sinh mạng của mình nhẹ như lông hồng, để mưu cầu sự an toàn sinh mạng của đồng đội.
    Các anh cao cả quá! Dầu đất nước ngày nay đã mất vào tay kẻ thù nhưng sao ai quên được các anh? Những người con yêu âm thầm của xứ sở! Hỡi những người lính kỹ thuật Không Quân Việt Nam! Chúng tôi, những người tung mây lướt gió ngoài ngàn dm, được hưởng những hào nhoáng thế gian, nhưng trong thâm tâm, chúng tôi không bao giờ quên được những người bạn, người anh em, đã hằng chuyên tâm lo lắng cho sự an lành của chúng tôi, bao nhiêu năm trường nơi chiến địa. Đặc biệt là những người bay những phi cơ quá cũ kỹ từ thời đệ nhị thế chiến như A-1, C-47, đầy những đắp vá khắp thân tàu, ngay cả kim loại cũng đã phải mỏi mòn!
    Giờ đây, sau mười mấy năm lưu lạc, viết vài kỷ niệm gởi đến các anh, những người kỹ thuật Không Quân ưu tú của đất nước, như những lời tri ân chân thành nhất.
    Người Nhạn Trắng
    -----
    Phượng Hoàng Kim Cương viết:
    “khôngquân2 lấy đâu ra di tích bất hủ này của Người Anh Hùng Nhạn Trắng Gò Công vậy? Thật là hay, hay vô cùng. Bài này nói lên được cái tình đồng đội của người phi công khu trục, trong những lúc lâm nguy, cái tình cảm gắn bó giữa Khu trục và FAC trên chiến trận, tình thương của người khu trục chỉ huy đoàn kỹ thuật yểm trợ, cũng như cái trách nhiệm cao cả đối với quân bạn dưới đất, nhất là khi trực đêm và mục tiêu rất xa xôi. Phượng Hoàng Kim Cương xin dựa hơi vào đây cái hình chụp chung với người Anh Hùng Phượng Hoàng Kaki Phạm Đăng Cường, Phượng Hoàng Rosa Lê Như Hoàn, ở bãi biển Pensacola, FL hồi 1962, trong đó người đứng giữa là Anh Hùng Phạm Đăng Cường, qua phải là Tr/tá Lê Như Hoàn, kế đến là tôi.”


    Image en ligne

    (Từ phải) NT Dan Hoài Bữu, NT Lê Như Hoàn, NT Phạm Đăng Cường, NT Vũ Hiệp, NT Nguyễn Văn Phong.



NHÀ THỜ KI TÔ COPT THẾ KỶ V CHÔN VÙI Ở AI CẬP
  • Image 8-31-25 at 10.02 PM.jpg
    1. Phát hiện khảo cổ ở Ai Cập
     
    Phát hiện nhà thờ 1.600 năm tuổi và bức bích họa Chúa Giê-su tại sa mạc Ai Cập
     
    Mudbrick settlement at excavation site
     
    Necropolis of El-Bagawat
     
    Western Desert around Kharga Oasis
     
    Ain al-Kharab (Ai Cập) – Một nhóm khảo cổ quốc tế vừa công bố phát hiện chấn động tại vùng sa mạc phía Tây Ai Cập: di tích hai nhà thờ có niên đại khoảng 1.600 năm cùng với một bức bích họa quý hiếm khắc họa Chúa Giê-su đang thực hiện phép chữa bệnh. Đây được xem là một trong những bằng chứng quan trọng nhất cho đời sống Kitô giáo sơ kỳ tại vùng đất Copt.
     
    Vị trí phát hiện
     
    Các nhà nghiên cứu tìm thấy di tích tại Ain al-Kharab, một khu định cư Copt cổ đã biến mất nhiều thế kỷ, nằm gần ốc đảo Kharga, cách thủ đô Cairo khoảng 560 km về phía tây nam. Nơi đây vốn có mạch nước ngầm dồi dào, từng là trung tâm sinh hoạt tôn giáo và tinh thần khi Kitô giáo mới du nhập vào Ai Cập.
     
    Những công trình được khai quật
     
    Nhà thờ basilica lớn: gian giữa rộng, hai lối đi bên, hàng cột vuông kiên cố.
     
    Nhà thờ nhỏ hình chữ nhật: bao quanh bởi bảy cột đá.
    Ngoài ra còn có khu dân cư và công trình phụ trợ (kho lương, bếp nấu, phòng sinh hoạt), phản ánh một cộng đồng tự cung tự cấp.
     
    Hiện vật và bức bích họa quý hiếm
     
    Lò nướng, chum gốm, mảnh khắc chữ, đồ thủy tinh, mộ táng.
     
    Đặc biệt: bức bích họa Chúa Giê-su chữa bệnh, vẽ theo phong cách Ai Cập cổ (nét viền đậm, màu đất nung), kết hợp biểu tượng Kitô giáo sơ khai → minh chứng cho sự giao thoa văn hóa.
     
    Ý nghĩa lịch sử – tôn giáo
     
    Bằng chứng về sự hiện diện Kitô giáo sâu rộng trong sa mạc Ai Cập.
     
    Phản ánh thời kỳ chuyển tiếp từ đa thần sang Kitô giáo.
     
    Cho thấy đời sống tinh thần, văn hóa, xã hội của cộng đồng Copt sơ kỳ.
     
    Bị cát vùi lấp suốt nghìn năm
     
    Niên đại: thế kỷ V sau Công nguyên.
     
    Nguyên nhân vùi lấp: bão cát và sự rời bỏ của cư dân.
     
    Khai quật: nhờ lớp cát bảo tồn tương đối nguyên vẹn.
     
    Ý nghĩa: chứng minh Kitô giáo lan tỏa không chỉ ở Alexandria mà cả vùng sa mạc xa xôi.
     
    2. Kitô giáo Copt
     
    Nguồn gốc
     
    Thế kỷ I SCN: Thánh Mác đến Alexandria, khai sinh cộng đồng Copt.
     
    Thế kỷ II–III: phát triển mạnh, Trường Thần học Alexandria nổi tiếng.
     
    Năm 313: Sắc lệnh Milan, Copt thoát khỏi bách hại.
     
    Thế kỷ IV–V: thời kỳ vàng son với tu viện sa mạc (Anthony, Pachomius).
     
    Năm 451: Công đồng Chalcedon → Copt tách ra, lập Giáo hội Chính thống Copt.
     
    Ngày nay: chiếm 10–15% dân số Ai Cập, trung tâm tại Alexandria, có Giáo hoàng Copt.
     
    Vì sao Copt chọn sa mạc?
     
    Bị bách hại trong Đế chế La Mã (ép thờ hoàng đế, thần Hy-La).
     
    Truyền thống ẩn tu: Thánh Anthony khai sáng đời sống tu viện.
     
    Sau Chalcedon (451): Copt trở thành thiểu số, tìm nơi ẩn dật để giữ đức tin.
     
    Ốc đảo có mạch nước ngầm: điều kiện sinh tồn vừa đủ, cho phép lập cộng đồng tự cung tự cấp.

    Các nhà thờ thế kỷ V ở Ain al-Kharab chính là minh chứng cho giai đoạn Copt vừa trốn chạy, vừa phát triển mạnh trong sa mạc.
     
    3. Bối cảnh Kitô giáo rộng hơn
     
    Kitô giáo La Mã và Thánh Phê-rô
     
    Truyền thống tin rằng Thánh Phê-rô, một trong 12 Tông đồ, đến Roma (khoảng 60–64 SCN), làm Giám mục đầu tiên.
     
    Giáo hoàng La Mã được coi là người kế vị Phê-rô.
     
    Constantinople và Kitô giáo Đông phương
     
    Năm 330, Constantine dời đô về Byzantium → Constantinople.
     
    Hình thành Tòa Thượng phụ, cạnh tranh ngầm với Roma.
     
    Chính Thống giáo (Orthodox)
     
    451: Chalcedon → Copt, Armenia, Syria không chấp nhận → tách ra.
     
    1054: Đại Ly giáo → tách thành:
     
    Tây: Công giáo La Mã.
     
    Đông: Chính thống giáo Đông phương.
     
    Thánh Phê-rô
     
    Đến Roma: khoảng 60 SCN.
     
    Chết: 64–67 SCN, bị đóng đinh ngược, chôn gần Circus Nero (nay là Vatican).
     
    Ẩn náu: nhiều năm trong hầm catacomb cùng Kitô hữu sơ kỳ.
     
    Tuổi thọ: sinh khoảng 1 TCN–1 SCN, mất khi 65–70 (có thể gần 75).
     
    So với Chúa Giê-su
     
    Giê-su sinh khoảng 4–6 TCN, mất ~30–33 SCN khi 33 tuổi.
     
    Phê-rô xấp xỉ tuổi Giê-su, có thể bằng hoặc lớn hơn vài năm.
     
    Khi tử đạo, Phê-rô đã “lão niên”, nhưng không đến 90 tuổi như truyền thuyết sau này.
     
     


Elon Musk làm chủ một startup mà hiện cả nước Mỹ đang phải phụ thuộc, quyền lực hơn cả Tesla 
  • Ngành công nghiệp vũ trụ Mỹ đang phụ thuộc 
    ngày càng sâu sắc vào công ty này.
     
    Elon Musk sở hữu một startup mà hiện cả nước Mỹ đang phải phụ thuộc, quyền lực hơn cả Tesla- Ảnh 1.
     
    Ngành công nghiệp vũ trụ Mỹ đang phụ thuộc ngày
    càng nhiều vào SpaceX, công ty do tỷ phú Elon
    Musk sáng lập.
     
    Từ một cái tên bị hoài nghi trong những năm đầu
    tiên, SpaceX đã và đang trở thành trụ cột không
    thể thay thế của nước này trong mọi lĩnh vực liên
    quan đến không gian – từ vận tải thương mại,
    nghiên cứu khoa học, cho tới an ninh quốc gia.
     
    Thực tế, trong năm 2024, SpaceX đảm nhận tới
    hơn 80% số vụ phóng quỹ đạo của Mỹ.
     
    Con số này cho thấy phần lớn vệ tinh, phi hành
    đoàn và các nhiệm vụ quân sự đều phụ thuộc
    vào Falcon 9 hay Falcon Heavy.
     
    Nếu SpaceX dừng hoạt động chỉ một tháng, lịch
    trình của NASA, Ngũ Giác Đài và các công ty
    công nghệ Mỹ sẽ bị đảo lộn nghiêm trọng.
     
    Thành công lớn nhất giúp SpaceX nắm quyền
    chi phối chính là công nghệ tái sử dụng tên lửa –
    thứ mà suốt nhiều thập kỷ, các tập đoàn quốc
    phòng truyền thống không làm được.
     
    Việc hạ cánh an toàn tầng đẩy và phóng trở lại
    trong vòng vài ngày đã giúp công ty này giảm
    mạnh chi phí, tăng tần suất phóng lên mức chưa
    từng có và nhanh chóng vượt xa các đối thủ.
     
    SpaceX phóng thử tên lửa Starship lần thứ 9, thất bại sau 30 phút cất cánh - Ảnh 1.
     
    Tàu vũ trụ Starship thế hệ mới của Công ty SpaceX
    được gắn tên lửa đẩy Super Heavy  Ảnh: REUTERS
     
     
    Không chỉ vận chuyển vệ tinh thương mại,
    SpaceX còn giữ vai trò chủ lực trong an ninh
    quốc phòng Mỹ.
     
    Từ năm 2019, công ty này đã thực hiện khoảng
    70% số vụ phóng phục vụ mục tiêu an ninh
    quốc gia, bao gồm vệ tinh quân sự, hệ thống
    cảnh báo tên lửa và các hợp đồng chiến lược
    với Lực lượng Vũ trụ Mỹ.
     
    Hơn thế nữa, mạng lưới vệ tinh Starlink với hơn
    7.000 thiết bị hoạt động trên quỹ đạo đã trở
    thành một công cụ không chỉ để kết nối internet
    toàn cầu mà còn phục vụ tác chiến hiện đại.
     
    NASA không thể đứng ngoài vòng xoáy phụ
    thuộc. Từ khi chương trình tàu con thoi ngừng
    hoạt động, Mỹ từng phải nhờ đến tên lửa Soyuz
    của Nga để đưa phi hành gia lên Trạm Vũ trụ
    Quốc tế.
     
    SpaceX với Crew Dragon đã giải quyết triệt để
    tình trạng này, trở thành phương tiện vận
    chuyển phi hành gia duy nhất của Mỹ suốt nhiều
    năm.
     
    Được biết, NASA đã trao hợp đồng trị giá 1,6 tỷ
    đô la, được gọi là Dịch vụ Tiếp tế Thương mại,
    cho SpaceX vào năm 2008, chỉ vài tháng sau
    chuyến bay thành công đầu tiên của Falcon 1.
     
    Hợp đồng yêu cầu SpaceX sử dụng tên lửa mới
    Falcon 9 cùng với tàu vũ trụ Dragon để vận
    chuyển hàng hóa và vật tư lên Trạm Vũ trụ
    Quốc tế (ISS) trong suốt 12 năm nhiệm vụ.
     
    Năm 2014, SpaceX đã giành được một hợp
    đồng khác của NASA trị giá 2,6 tỷ đô la để
    phát triển và vận hành các phương tiện đưa
    đón phi hành gia đến và đi từ Trạm Vũ trụ
    Quốc tế.
     
    Tuy nhiên, sự phụ thuộc tuyệt đối đặt ra câu
    hỏi lớn về quyền lực. Không ít lần Elon Musk
    vướng vào mâu thuẫn với giới chính trị Mỹ.
     
    Khi xung đột giữa ông và Tổng thống Donald
    Trump leo thang, nguy cơ các hợp đồng hàng
    chục tỷ đô la với Ngũ Giác Đài bị ảnh hưởng
    đã trở thành đề tài nóng.
     
    Báo chí quốc tế nhận định, việc một cá nhân có
    thể ảnh hưởng tới an ninh không gian quốc gia
    là điều chưa từng xảy ra trong lịch sử và có
    thể coi là lời cảnh báo cho chính phủ Mỹ.
     
    “Hệ sinh thái không gian đang thay đổi, thực
    sự là nhờ SpaceX,” chuyên gia Garver nói.
     
    “Chi phí tiếp cận không gian thấp hơn đang
    hiện thực hóa điều chúng ta hằng mơ ước.
     
    Nó đã xây dựng nên một cộng đồng các công
    ty trên toàn thế giới giờ đây có thể tiếp cận
    không gian”.
     
    Elon Musk sở hữu một startup mà hiện cả nước Mỹ đang phải phụ thuộc, quyền lực hơn cả Tesla- Ảnh 2.
     
    Điều làm SpaceX trở nên đặc biệt chính là khả năng
    tạo ra sự chênh lệch rõ rệt so với các đối thủ cùng
    lĩnh vực.
     
    Nếu so với Blue Origin, công ty do Jeff Bezos sáng
    lập, sự khác biệt dễ thấy nhất chính là tiến độ và
    tính thực tiễn. Blue Origin đã nhiều năm hứa hẹn
    về tên lửa New Glenn – dự án được kỳ vọng cạnh
    tranh trực tiếp với Falcon 9 và Falcon Heavy –
    nhưng liên tục bị trì hoãn.
     
    tên lửa Spacex - Ảnh 1.
     
    Tên lửa đẩy SpaceX Super Heavy mang theo tàu
    vũ trụ Starship cất cánh trong chuyến bay thử
    nghiệm thứ 10 tại Starbase, Texas, ngày 26-8 -
    Ảnh: REUTERS
     
    Trong khi đó, SpaceX đã thực hiện hàng trăm lần
    phóng an toàn, tái sử dụng tên lửa hàng chục lần
    và duy trì nhịp độ gần như hàng tuần.
     
    Boeing, một trong những tên tuổi kỳ cựu của ngành
    hàng không vũ trụ, lại cho thấy một sự tương phản
    khác.
     
    Dự án tàu vũ trụ Starliner được kỳ vọng sẽ trở thành
    đối kháng của Crew Dragon trong việc đưa phi hành
    gia Mỹ lên Trạm Vũ trụ Quốc tế, nhưng những trục
    trặc kỹ thuật, chi phí phát sinh và các lần trì hoãn
    khiến chương trình rơi vào khủng hoảng niềm tin.
     
    Trong khi Crew Dragon của SpaceX đều đặn vận
    chuyển phi hành gia lên quỹ đạo từ năm 2020,
    trong khi Starliner chỉ mới có chuyến bay có người
    lái đầu tiên vào năm 2024 và vẫn còn hạn chế
    về độ tin cậy.
     
    SpaceX của Elon Musk lập kỳ tích tái sử dụng tên lửa đẩy - Ảnh 1.
     
    Tầng đẩy khổng lồ của tên lửa Starship được cánh tay
    robot giữ lại thành công trong buổi phóng thử nghiệm
    hôm 13-10-2024 - Ảnh: AFP/Getty Images
     
     
    Tuy nhiên, không thể phủ nhận, chính SpaceX
    đã đưa Mỹ quay trở lại vị trí dẫn đầu cuộc đua
    không gian. 
     
    Tần suất phóng của công ty đạt mức kỷ lục, đồng
    thời mở ra kỷ nguyên mới với dự án Starship –
    hệ thống tên lửa lọai lớn có khả năng đưa con
    người lên Mặt Trăng, sao Hỏa.
     
    Những gì mà cơ quan vũ trụ quốc gia phải mất
    hàng chục năm nghiên cứu và hàng trăm tỉ đô la
    ngân sách mới có thể hình dung, thì một công
    ty tư nhân của Elon Musk  đã biến thành hiện
    thực trong vòng chưa đầy hai thập kỷ.
     
     
    Điều đáng lo ngại là khi SpaceX chiếm ưu thế
    gần như tuyệt đối, thị trường lại thiếu sự cạnh
    tranh.
     
    Các công ty như Blue Origin hay United Launch
    Alliance vẫn chưa thể tạo ra đột phá tương xứng,
    trong khi Boeing chật vật với các vấn đề kỹ thuật.
     
    Ngũ Giác Đài và Quốc hội Mỹ nhiều lần thảo luận
    về việc cần đa dạng hóa nhà thầu, nhưng thực
    tế cho thấy hiện không ai có thể thay thế
    SpaceX.
     
    SpaceX phóng tàu Crew Dragon, thực hiện sứ mệnh 'mạo hiểm nhất' - Ảnh 1.
     
    SpaceX phóng tàu Crew Dragon, thực hiện sứ mệnh
    'mạo hiểm nhất' tại Trung tâm Vũ trụ Kennedy ở
    Cape Canaveral, Florida ngày 10-9-2024 -
    Ảnh: Reuters
     
     
    Chuyên gia từ các viện nghiên cứu nhận định,
    sự thống trị của SpaceX vừa là sức mạnh, vừa
    là điểm yếu của nước Mỹ.
     
    Trong kỷ nguyên cạnh tranh không gian ngày
    càng khốc liệt với sự trỗi dậy của Trung Quốc,
    việc có SpaceX là lợi thế rõ rệt.
     
    Song chính lợi thế ấy lại khiến Mỹ rơi vào thế
    lưỡng nan: vừa tận dụng sức mạnh của SpaceX
    để dẫn đầu, vừa phải tìm cách hạn chế nguy cơ
    bị một cá nhân hoặc một doanh nghiệp
    “giữ chìa khóa”.
     
    Nhiều chuyên gia cảnh báo, Mỹ cần gấp rút
    đầu tư trở lại cho các đối thủ khác, xây dựng
    cơ chế giám sát hợp lý, đồng thời phát triển
    chương trình vũ trụ quốc gia đủ mạnh để
    không bị động nếu SpaceX gặp trục trặc.
     
    Theo: CNBC, WSJ
     
     



Cười cho vui !
  • Mẹ VN đẻ các con dứt ruột.
    Thấy thằng con Miền Bắc ngu, Mẹ càng đứt ruột thêm ...


    Đoàn thanh tra do Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ làm Trưởng đoàn, đến một trường phổ thông trung học nổi tiếng có nhiều học sinh giỏi đạt danh hiệu “cháu ngoan bác Hồ” và thầy cô dạy giỏi cấp quận ở Thủ đô. 
    Sau khi vào thăm ban Giám hiệu nhà trường, tới một lớp học đang trong giờ địa lý, Bộ trưởng Nhạ yêu cầu được vào dự giờ, rồi anh chỉ vào quả địa cầu và hỏi một học sinh :

      – Em hãy cho tôi biết tại sao quả cầu này lại nghiêng như thế ?

    Cậu học trò sợ hãi đứng lên nói :

      – Dạ, không phải do em làm đâu ạ !

    Bộ trưởng Nhạ quay sang hỏi một học sinh khác. Em này run run trả lời :

      – Mọi người đều thấy em vừa mới vào lớp mà, em có làm gì đâu ?

    Bộ trưởng ngao ngán lắc đầu quay sang nhìn thầy giáo. Thầy giáo mặt vẻ đầy biết lỗi :

      – Không thể trách các em được ạ. Quả địa cầu này khi mua về đã nghiêng thế rồi. 
    Thầy hiệu trưởng thấy mặt ngài Bộ trưởng ngày càng khó coi, vội vàng giải thích :

      – Nói ra thật xấu hổ, vì kinh phí của nhà trường có hạn nên chúng tôi chỉ có thể mua hàng vỉa hè, không đảm bảo chất lượng. Có lẽ là hàng của Tàu nên nó bị lỗi.

    Nghe xong, mặt ngài Bộ trưởng tím ngắt, giận dữ đập bàn hét :

      – Đ. mẹ!.. Toàn một “nũ” ăn hại. Đầu óc bã đậu, các anh "nàm" xấu hổ ngành Giáo dục và Đào tạo ? 
    Quả địa cầu bị nghiêng…thì phải kiếm cái gì kê “nên” cho "ló" thẳng chứ ???


        Ts Hồ Chí Ngu ( em cùng cha khác mẹ với HCM )




"7 Khu Ổ Chuột LỚN NHẤT Việt Nam, Những Bí Mật Kinh Hoàng Chưa Từng Được Tiết Lộ"



MẶC THẾ NHÂN - NGƯỜI KỂ CHUYỆN TÌNH BẰNG ÂM NHẠC (Đ.Văn)

 5545 macthenhanHTBichHa

Nén tâm hương tưởng nhớ nhạc sỹ Mặc Thế Nhân (1939-2025)

“Xin trả tôi về ngày xưa thơ mộng đó
Bên mái tranh chiều, ngồi ngắm áng mây trôi
Mẹ quê đun bếp nghèo, thơm mùi rơm qua khói mờ
Ôi tình quê trìu mến.
Xin trả tôi về miền quê hương nhỏ bé
Có lũy tre vàng, bờ lúa sát ven đê”…
(Trả tôi về- Mặc Thế Nhân)

       Người viết tình ca hay da diết vừa nằm xuống (ngày 8/8/2025) nhưng những bản tình ca thì vẫn ở lại với người yêu nhạc. Nhạc sỹ Mặc Thế Nhân tên thật là Phan Công Thiệt sinh năm 1939 tại Gò Vấp, tỉnh Gia Định. Trong một gia đình trung lưu. Gò Vấp khi ấy còn là một vùng bán thị thành, cuộc sống vừa đủ để nuôi giấc mộng văn nghệ. Cha mẹ ông không phải là nghệ sỹ nhưng yêu âm nhạc, thầm lặng khuyến khích đã giúp cho cậu bé yêu thích ca từ và giai điệu từ lúc lên mười tuổi, 13 tuổi tham gia văn nghệ học đường. Năm 17 tuổi, ông nộp đơn thẳng vào trường ca vũ nhạc phổ thông Sài Gòn, những tên tuổi âm nhạc miền Nam cũng xuất thân từ cái nôi này. Ở đó ông được học với những cây đại thụ của âm nhạc. Ra trường ông gia nhập băng nhạc Hoa Niên, trình diễn qua làn sóng phát thanh. 19 tuổi có ca khúc đầu tiên, và bắt đầu trở thành người đóng góp cho dòng nhạc tình ca Việt với nhiều bút danh như Nhã Uyên, Phan Trần, Trùng Dương, nhiều hơn cả là bút danh Mặc Thế Nhân mà theo ông là “góp chút mực cho đời”. Ông còn mở lớp dạy nhạc lý tại các trường tư thục, một trong những học trò đầu tiên mà ông đào tạo đó là danh ca Hương Lan. Ông chỉ nói rằng: “Tôi không tạo ra ca sỹ, tôi chỉ giúp họ lắng nghe tiếng hát thật sự bên trong”. Ngoài âm nhạc ông còn là ký giả tân nhạc, kịch trường dưới bút danh như: Mộng Thu và Giáng Ái Sỹ. Cộng tác với các tờ báo như: Lẽ Sống, Bình Dân. Tại đây ông vừa phê bình âm nhạc, vừa viết kịch ngắn và nhận định đời sống văn nghệ Saigon. Như vậy Mặc Thế Nhân không chỉ là nhạc sỹ, nhà báo, khi cần ông còn là đạo diễn sân khấu cho các ban văn nghệ địa phương. Năm 1960 ông thành lập các ban văn nghệ thuộc thông tin quận Nhất, tổng hội học sinh Đô Thành và ban luân vũ. Mặc Thế Nhân âm thầm đóng góp với các vai vừa là nhạc sỹ, ký giả, người đào tạo và tổ chức. Năm 1958 ông ra mắt ca khúc Trăng Quê Hương, năm 1959 ra mắt ca khúc Vui Tàn ánh lửa. Hai bài hát đầu đời chưa nổi tiếng nhưng đánh dấu sự hiện diện của mình trong làng nhạc, bước đầu định hình phong cách nhạc trữ tình da diết. Đầu năm 1970 ông cho ra mắt loạt băng nhạc mang tên Nhã Ca. Đó là tên gọi và khái niệm nghệ thuật mà ông theo đuổi, Âm nhạc là ghi lại cái đẹp được tách ra từ nỗi đau. Ông còn mở lớp dạy nhạc tại khu Đa Kao quận Nhất, đào tạo các giọng ca trẻ cho đến 1975.

       Nhạc của ông đã lay động trái tim hàng triệu khán thính giả trong nước và hải ngoại hơn nửa thế kỷ qua và tin rằng sẽ vẫn còn chạm đến rung cảm của thế hệ mai sau. Bởi vì mỗi ca khúc là một chuyện tình có thật. Chắc hẳn ai đã từng yêu, từng đổ vỡ, từng buồn khi tiễn người mình thương lên xe hoa thì âm giai của Mặc Thế Nhân là nỗi đồng cảm sâu lắng nhất. Nó như một bản nhạc ông viết cho chính tâm trạng của người từng yêu và tan vỡ,…Ngoài viết nhạc ông còn làm thơ nữa. Ông đã sáng tác trên 100 ca khúc, nhưng những bản tình ca như bài hay nhất là: Cho Vừa Lòng Em, Trả tôi về, Em về với người và tương tư 4. Người ta hát nhạc ông thì nhiều nhưng cái tên Mặc Thế Nhân không phải ai cũng biết cho đến khi ông từ giã cõi đời nhưng nhạc của ông thì những người yêu dòng nhạc trữ tình không ai là không biết, không ai là không thuộc dù chỉ một bài hay một vài câu.

       Bản nhạc “Em về Với Người” ra đời sau khi ông nhận được thiệp hồng người yêu báo tin đi lấy chồng. Một mối tình không thể quên. Vài tháng sau, vẫn còn day dứt lắm! Ông viết tiếp bài "Cho vừa lòng em". Bản nhạc chẳng cần những ca từ hàn lâm hay kỹ thuật hòa âm cầu kỳ. Chỉ cần chuyển tải tình cảm thật với những ca từ dung dị mà chạm trái tim người nghe: “Thôi rồi em đã xa tôi, kể từ đêm pháo đỏ rượu hồng”, “Em đành quên cả sao em?”,…là đủ để con tim người nghe tan chảy. Có người nói ông ít nói và có phần lãng tử, đa cảm nhưng ông sống thật, yêu thật và cảm xúc cũng hoàn toàn thật. Ông nói: “Tôi không sáng tác bằng trí óc, tôi sáng tác bằng vết xước trong lòng”. Cứ mỗi bóng hồng đi qua đời ông hay chỉ là tình đơn phương đều cho ra đời một hai bản nhạc hay có khi cả bộ 10 bài tương tư. Ở đó là những câu chuyện tình dang dở. Khi trái tim thổn thức, đủ yêu và đủ đau. Ông đã viết nhạc bằng cả trái tim của một người từng yêu, từng xao lòng, từng rung cảm. Mỗi cuộc tình đi qua đời ông đều hóa thành những bản nhạc. Nhưng người để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong các sáng tác của ông là một bóng hồng xứ Huế, từng sống ở Nha Trang. Hai bản nhạc hay nhất dành cho người tình ông yêu nhưng không đến được với nhau. Vì vậy trong ca từ và giai điệu bài "Em về với người" mang âm hưởng xứ Huế. Đó là người đã khiến ông viết nên hai bản tình ca đau đáu nhất. Hai bản nhạc "Em về với người" và "Cho Vừa Lòng Em" trở thành những ca khúc hit ở thập niên sau 1970.

       Còn bản “Tương tư 4” với câu hát nhức nhối: “Phải chi em đừng có chồng và anh vẫn còn đơn côi” người ta đồn rằng nàng thơ trong bản nhạc là ca sỹ Trúc Mai, nàng tài sắc vẹn toàn nhưng lên xe hoa từ rất sớm. Có chăng chỉ là tình đơn phương ở ông mà thôi. Và ai mới là người khiến ông viết nên bộ tương tư từ 1-10, mỗi bài là một lát cắt của tình yêu. Không ai biết và có lẽ cũng không cần biết, bởi người làm tim ông thổn thức đã đi vào âm nhạc. Cuộc tình trên giấy đã biến thành âm nhạc. Vì vậy sự thật đôi khi không cần xác thực chỉ cần cảm nhận.

       Ông kết hôn vào lúc ông 24 tuổi (năm 1963) với một người vợ hiền, chung thủy và có với nhau 8 người con. Đôi khi có những rung cảm bên ngoài, những phút xao lòng lại là cách duy trì cảm hứng sáng tác, chỉ xem đó như những cuộc phiêu lưu cảm xúc, và khuếch đại lên để biến thành cảm hứng sáng tạo. Nhưng nhạc sĩ Mặc Thế Nhân vẫn biết điểm dừng, vẫn giữ được gia đình êm ấm với người vợ hiền đầu tiên cho đến tận cuối đời. Nhạc sỹ có thể viết tình ca cho cả thiên hạ nhưng cả đời sống bên một người để bảo toàn mái ấm gia đình và để sáng tác là đủ. Nhạc ông có sức lan tỏa và sống lâu. Bởi vì nó đến từ những rung cảm ngọt ngào và viết ra bằng cảm xúc thật. Nó chạm vào trái tim người thưởng thức và để lại dấu ấn khó quên. Khi người ta yêu, rồi đổ vỡ, chia ly, người ta có chung tâm trạng, họ đến với âm nhạc để tìm tiếng nói tri âm. Đặc trưng của nhạc vàng- một dòng nhạc đầy ám ảnh với nỗi buồn, chất u hoài và âm sắc tan vỡ. Mặc Thế Nhân là một trong những nhạc sỹ đã góp phần làm nên âm sắc đó. Những ca khúc của ông được hàng loạt trung tâm băng nhạc sử dụng trước và sau 1975. Từ Thúy Nga đến Asia hay trong nước nhưng tùy cách người ta nhớ đến ông chứ ông không tự đòi hỏi quyền lợi. Ông cũng ít khi xuât hiện trên sân khấu. Từ chối mọi cuộc mời tham gia talk show hay game show. Ông từng bảo: “Tôi không cần nói thêm vì bài hát của tôi đã nói hết”. Ngay cả Thúy Nga 103 là chương trình hiếm hoi ông đồng ý góp mặt, nhưng cũng chỉ xuất hiện trong 3 phút với vài câu chào hỏi và giới thiệu sơ lược về bài "Em về với người” cho ca sỹ sắp sửa trình bày.

       Có lần trả lời phỏng vấn ông nói: “Tôi chỉ góp một giọt mực cho đời. Nếu đời nhớ tôi biết ơn. Nếu đời quên tôi không trách”. Có lần bạn bè thân thiết muốn giới thiệu ông đến nhà sản xuất, ông lắc đầu: “Tôi già không còn sức nghe người ta hỏi những điều không liên quan đến nhạc”.

       Năm 2020 ông bị tai biến, sức khỏe giảm, không thể viết nhạc được nữa. Ông được vợ con chăm sóc tận tình từng bữa ăn, giấc ngủ. Và rồi như mọi con người trên thế gian, không tránh khỏi quy luật sinh diệt, ông từ giã cõi đời vào lúc 16 h ngày 8 tháng 8/2025 tại phường An Phú Đông, TP HCM, thọ 86 tuổi.

“Thôi rồi ta đã xa nhau
Kể từ đêm pháo đỏ rượu hồng
Anh đường anh, em đường em
Yêu thương xưa chỉ còn âm thừa.
Em đành quên cả sao em
Kỷ niệm xưa sánh như biển lớn”…
(Cho vừa lòng em- Mặc Thế Nhân)

       Nhạc sỹ tài hoa Mặc Thế Nhân - một đời hoạt động nghệ thuật âm nhạc xem như đã hoàn thành sứ mệnh của mình. Ông về cõi vĩnh hằng nhưng những bản nhạc của ông sẽ ở lại với khán thính giả, những người yêu nhạc. Di sản tinh thần ông để lại là những bản tình ca. Trong đó có những nhạc phẩm mà người ta tưởng viết riêng cho mình khi ai đó đã từng yêu, từng đau thương, từng tan vỡ. Ông là người nhạc sỹ kể chuyện tình bằng giai điệu âm nhạc, bằng cảm xúc chân thành, da diết và sâu lắng. Nhớ đến những tâm hồn âm thầm góp một giọng điệu cho âm nhạc Việt Nam, khi tổ chức hay biểu diễn bạn đừng quên tên nhạc sỹ sau mỗi bản nhạc mà họ đã đau đáu viết ra bằng cả nỗi lòng, công sức và trí tuệ!

Xin thắp nén tâm hương tiễn biệt nhạc sỹ Mặc Thế Nhân về miền mây trắng!

Saigon, ngày 13/8/2025

Hoàng Thị Bích Hà








--
====================================================================
Trên Facebook :
http://www.facebook.com/DaiHocKhoaHocSaiGon
====================================================================
 
Bạn đã nhận được bài viết này vì bạn đã đăng ký vào Nhóm "KhoaHocSG" của Google Groups.
* Để đăng bài lên nhóm này, hãy gửi email đến "khoa...@googlegroups.com"
* Để RÚT TÊN ra khỏi nhóm này, gửi email đến "khoahocSG+...@googlegroups.com"
* Để có thêm tuỳ chọn (preference set up), hãy truy cập vào nhóm này tại: http://groups.google.com/group/khoahocSG?hl=vi
---
Bạn nhận được thư này vì bạn đã đăng ký vào nhóm Google Groups "KhoaHocSG".
Để hủy đăng ký khỏi nhóm này và ngừng nhận email từ nhóm, hãy gửi email đến khoahocsg+...@googlegroups.com.
Để xem cuộc thảo luận này, hãy truy cập vào https://groups.google.com/d/msgid/khoahocsg/MN2PR02MB6592064A339FE102DE0F6A7AFC01A%40MN2PR02MB6592.namprd02.prod.outlook.com.
Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages