Fwd: ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 27-08-2025 (SỐ 230-2025)

5 views
Skip to first unread message

Giu Tran

unread,
Aug 27, 2025, 10:52:13 AM (14 days ago) Aug 27
to


---------- Forwarded message ---------
From: soan....@hotmail.com <soan....@hotmail.com>
Date: Wed, Aug 27, 2025 at 5:00 AM
Subject: ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 27-08-2025 (SỐ 230-2025)
To:



GOOD MORNING VIET NAM - CANADA - USA

ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 27-08-2025  (SỐ 230-2025)

Image insérée

Image insérée


MỤC LỤC

  1. Thiện niệm có thể cải biến sức khỏe của chúng ta
  2. Đột quị không nên trì hoãn việc cấp cứu..
  3. Nước bưởi và vài loại thuốc không nên dùng chung
  4. Cần phân biệt : X-RAYS, CT SCAN, MRI, PET SCAN , ULTRASOUND - Các phương pháp chụp hình để chuẩn bệnh
  5. QUY LUẬT ÂM DƯƠNG HIỂU ĐỂ SỐNG THỌ, KHỎE TỰ NHIÊN
  6. Thằng Thời
  7. Quân Báo VNCH và những trận đánh cân não tiêu diệt hang ổ nằm vùng của bọn cộng phỉ
  8. Con Quỉ Cái
  9. Cô Đầu Diễm Hương
  10. CÁC LOẠI CỦ GIA VỊ
  11. THI SĨ TÔ THUỲ YÊN VÀ BÀI THƠ TA VỀ - TÁC PHẨM KỶ VĨ CỦA THI CA VIỆT NAM
  12. Tôi Đi Học 






Thiện niệm có thể cải biến sức khỏe của chúng ta

Người phương Đông có câu: “Người ta sinh ra một thiện niệm, tuy chưa biến thành việc thiện, nhưng đã được thần may mắn bảo hộ rồi”. Người phương Tây tin rằng: “Những điều xuất phát từ trái tim sẽ chạm đến trái tim”. Thiện niệm có thể làm chấn động lương tâm con người, có sức mạnh vĩ đại để xóa đi mọi hận thù. Ngoài ra, nó còn là một phương thuốc màu nhiệm.

Gần đây trong giới khoa học đã xuất hiện những nghiên cứu mới về việc tư tưởng con người có tác dụng kỳ diệu đến sức khỏe thể chất. Khả năng tự chữa bệnh tiềm tàng này đã đặt ra một câu hỏi lớn cho các nhà khoa học.

Ở một phương diện nào đó, cơ thể con người là một sản vật của tự nhiên, từ tế bào cho đến các kết cấu khác nhau của cơ thể như da, xương, nội tạng, v.v., mỗi bộ phận, mỗi cơ quan, mỗi tế bào của cơ thể đều biết cần phải làm gì và làm như thế nào để phù hợp với tự nhiên. Chính vì vậy, cơ thể không khỏe mạnh chính là một biểu hiện của sự mất cân bằng. Bệnh tật chính là biểu hiện bên ngoài của trạng thái mất tự nhiên của cơ thể.

Điều gì dẫn đến sự mất cân bằng, mất tự nhiên của cơ thể? Khi được hỏi, hầu hết mọi người sẽ nói tới các nhân tố như môi trường sống, thức ăn, nước uống, v.v. Nhưng thực ra những nhân tố từ chính nội tâm của bạn cũng có thể gây nên sự mất cân bằng này. Sức khỏe thể chất được quyết định bởi hai yếu tố chính: nhân tố bên ngoài (dinh dưỡng, môi trường) và nhân tố bên trong (suy nghĩ, tư tưởng).

Các nghiên cứu về “Hiệu ứng Placebo” đã cho thấy rằng suy nghĩ và lời nói tác động trực tiếp đến cơ thể con người. Một số ví dụ về các cặp trạng thái có tác dụng tích cực và tiêu cực tới sức khỏe như sau:

Biết thưởng thức / Đố kỵ
Tán thành / Chỉ trích
Tài giỏi / Khéo léo
Quan tâm / Xét đoán
Tự tin / Kiêu ngạo
Xây dựng / Phá hủy
Bảo vệ / Tấn công
Hiến dâng / Chiếm hữu
Nhẹ nhàng / Hung dữ
Mạnh mẽ / Ép buộc
Đề nghị / Đòi hỏi
Cho đi / Nhận lại
Có trách nhiệm / Cảm thấy tội lỗi
Chăm sóc / Làm kiệt quệ
Có ý nghĩa / Quan trọng
Cởi mở / Giữ bí mật
Tin tưởng / Khờ dại
v.v.
Mỗi một tư tưởng, mỗi một ý nghĩ đều mang trong nó một năng lượng có ảnh hưởng trực tiếp tới cơ thể theo một phương thức mà khoa học vẫn chưa thực sự hiểu được. Ở một phương diện nào đó, chúng cũng góp phần quan trọng không kém gì chất dinh dưỡng. Các suy nghĩ có phần tiêu cực sẽ có tác dụng xấu cho cơ thể. Tuy nhiên, người ta lại không hay để tâm tới những suy nghĩ tiêu cực này và cho chúng là bình thường. Ví dụ như chúng ta thường hay xét đoán hơn là quan tâm, thường hay chỉ trích hơn là tán thành, thường hay chiếm hữu hơn là dâng hiến.

Trong các tác phẩm của mình, tiến sĩ David R. Hawkins, một chuyên gia về ý thức học và tâm lý học cho rằng, các tư tưởng sẽ có ảnh hưởng tới chúng ta theo một dạng tổng hòa của năng lượng. Mỗi tư tưởng sẽ tương đương với một dạng năng lượng khác nhau, và tâm thái của chúng ta sẽ quyết định dạng năng lượng đó là xấu hay tốt.

Một hành động được thực hiện với xuất phát điểm là tình thương, sẽ khác với chính hành động đó được thực hiện với xuất phát điểm là tâm lý khoe khoang thể hiện. Chính vì thế, nội tâm của chúng ta là điều quan trọng nhất – Đó cũng chính là sức mạnh của Thiện niệm.

Tiến sĩ David R. Hawkins cũng cho hay, não bộ của con người có một cơ chế bí ẩn mà các nhà khoa học chưa giải thích được. Khi bạn suy nghĩ tích cực, não bộ sẽ sản sinh ra các endorphins gây ảnh hưởng có lợi tới các nội tạng cơ thể. Ngược lại, với các suy nghĩ tiêu cực, não bộ sẽ sản sinh ra adrenaline, khiến hệ thống đề kháng bị đình trệ. Như vậy là, những suy nghĩ tiêu cực như oán hận, đố kỵ, thù địch, sợ hãi, lo lắng, v.v. sẽ không chỉ gây ảnh hưởng tới tinh thần của bạn, mà sẽ khiến thế chất của bạn suy sụp.

Vậy chúng ta vượt qua những suy nghĩ tiêu cực bằng cách nào? Các quan sát lâm sàng cho thấy rằng người bệnh cần phải có một quyết định quan trọng để vượt qua tình trạng của mình: “Mong muốn thay đổi bản thân và hướng đến những điều tích cực“. Điều tốt là nếu chưa thể chủ động hướng tới các suy nghĩ tích cực, người bệnh vẫn có thể thay đổi nếu hòa mình vào một môi trường vốn đã có sẵn những nhân tố đó. Một nhóm những người vui vẻ, hạnh phúc, yêu đời, sẽ có tác dụng tốt tới bệnh nhân.

Khi nhìn nhận về y học truyền thống của cả phương Đông lẫn phương Tây, người hiện đại có xu hướng cho rằng áp lực tinh thần chính là một trong những nhân tố quan trọng gây ra bệnh tật. Tuy nhiên, tiến sĩ David R. Hawkins cho rằng cách nói này chưa chính xác. Đúng hơn thì chính tâm thái của một người sẽ gây ra bệnh tật của họ. Mấu chốt không nằm ở những sự kiện mà bạn gặp phải trong cuộc sống, mấu chốt nằm ở cách bạn phản ứng lại với những sự kiện đó. Tiến sĩ David R. Hawkins kết luận: “Về sinh lý học mà nói, với mỗi thái độ của mình, chúng ta chính là đang lựa chọn giữa các endorphine đồng hóa hay các adrenaline dị hóa.“

Người xưa có câu, “Người ta sinh ra một thiện niệm, tuy chưa biến thành việc thiện, nhưng đã được thần may mắn bảo hộ rồi“. Bạn bình tĩnh hay đau khổ, bạn kiên nhẫn hay buồn bã, bạn có trách nhiệm hay chỉ biết hối tiếc mà thôi? Khi gặp chuyện trái với lương tri, bạn có bày tỏ phản đối, có lên tiêng? Thái độ của bạn sẽ ảnh hưởng tới bạn – Thiện niệm của bạn sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe của chính bạn.
Đột quị không nên trì hoãn việc cấp cứu..
 
Ông thằng bạn bất ngờ ngã quỵ giữa sân nhà. Thay vì gọi cấp cứu, ông chú thì đi tìm kim chích máu ở 10 đầu ngón tay và dái tai, bà cô thì lấy máy sấy tóc hơ nóng vào gáy với hy vọng “đánh tan cục máu đông”. Sau vài phút, ông bạn mở mắt, mọi người tưởng đã ổn và không đưa đi viện. Nhưng chỉ vài giờ sau, ông hôn mê sâu và mất cơ hội điều trị trong “thời gian vàng”. Chán đời!
Chích máu đầu ngón tay và dái tai: Hoàn toàn không làm tan cục máu đông hay ngăn chặn xuất huyết não. Việc này chỉ gây mất máu, nhiễm trùng và đặc biệt là làm mất thời gian vàng để điều trị.
Máy sấy tóc sấy gáy, bắt bệnh nhân ho mạnh: Chỉ tạo cảm giác dễ chịu tạm thời, không thể tác động đến dòng máu trong não hay cứu chữa đột quỵ.
 
Những “mẹo” này không hề có cơ sở y học hiện đại hay y học cổ truyền, nhưng lại khiến người nhà chủ quan, trì hoãn việc gọi cấp cứu.
 
Đột quỵ là tình trạng mạch máu não tắc hoặc vỡ, khiến hàng triệu tế bào thần kinh chết đi chỉ trong vài phút. Điều trị hiệu quả duy nhất là đưa bệnh nhân đến bệnh viện càng sớm càng tốt để dùng thuốc tiêu huyết khối hoặc can thiệp lấy huyết khối, thường chỉ thực hiện được trong vòng 3–6 giờ đầu.
 
Khi gặp người có dấu hiệu nghi đột quỵ, hãy nhớ nguyên tắc FAST: méo mặt, yếu tay chân, nói khó – cần gọi cấp cứu ngay. Giữ bệnh nhân nằm nghiêng an toàn, đầu hơi nâng cao, giữ đường thở thông thoáng. Tuyệt đối không chích máu, không sấy tóc, không bấm huyệt hay tự ý cho uống thuốc an cung an khang thịnh vượng gì hết ạ.
(theo quinhon11)
Nước bưởi và vài loại thuốc không nên dùng chung
Đặc San Lâm Viên
Bưởi và nước bưởi có thể là một phần của chế độ ăn uống lành mạnh. Bưởi chứa vitamin C và potassium, những dưỡng chất cần thiết cho hoạt động bình thường của cơ thể.

Thế nhưng, bưởi và nước bưởi có thể ảnh hưởng đến tác dụng của vài loại thuốc, và ảnh hưởng của nó có thể là một vấn đề đáng lo ngại. Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã yêu cầu một số loại thuốc, cần cũng như không cần bác sĩ kê đơn, phải có cảnh báo không được uống nước bưởi hoặc ăn bưởi trong khi dùng thuốc.


Mặc dù các khoa học gia đã biết từ nhiều thập niên rằng nước ép bưởi có thể gây ra tình trạng quá liều trong cơ thể với một số loại thuốc. Nhưng các nghiên cứu gần đây đã phát hiện ra rằng nước ép bưởi có tác dụng ngược lại đối với một số loại thuốc khác.


Đặc San Lâm Viên mời quý vị đọc “Nước Bưởi Và Vài Loại Thuốc Không Nên Dùng Chung” để biết thêm về bưởi và nước ép từ bưởi, cũng như vài loại nước ép từ trái cây khác có ảnh hưởng như thế nào đối với các loại thuốc mà có thể một số người trong chúng ta đang dùng.


http://www.dslamvien.com/2025/08/nuoc-buoi-va-vai-loai-thuoc-khong-nen.html

 
Bưởi và Thuốc.jpg
 
Cần phân biệt : X-RAYS, CT SCAN, MRI, PET SCAN , ULTRASOUND - Các phương pháp chụp hình để chuẩn bệnh
BS. Hồ Ngọc Minh

LTS: Bác Sĩ Hồ Ngọc Minh được biết trong cộng đồng người Việt nhiều năm qua với chuyên khoa về hiếm muộn, vô sinh, và lựa chọn trai gái theo ý muốn. Ông đã từng làm nghiên cứu về bệnh hiếm muộn, và các bệnh ung thư của phụ nữ tại National Cancer Institute trực thuộc National Institutes of Health. Bác Sĩ Minh là Board Certified về Obstertrics, Gynecology và Reproductive Endocrinology Infertility. Phòng mạch tọa lạc trong khuôn viên bệnh viện Fountain Valley, tại 11180 Warner Ave., Suite 465, Fountain Valley, CA 92708. Số phone liên lạc: (714) 429-5848, trang nhà:www.bacsihogocminh.com





1. X-rays (X-quang ) là gì?
Để hiểu X-quang là gì, trước hết hãy tìm hiểu khái niệm về “sóng điện từ trường” (electromagnetic wave, electromagnetic radiation).
Chung quanh chúng ta luôn luôn hiện hữu một không gian năng lượng dưới dạng điện từ trường, trong đó ánh sánh mặt trời, hay ánh sáng mà chúng ta thấy được cũng chỉ là một dạng sóng điện từ trường. Có nhiều loại sóng từ trường, từ yếu đến mạnh theo thứ tự, gồm có: sóng radio, sóng microwaves, sóng hồng ngoại (infared, IR, dùng trong các remote controls), ánh sáng thường, tia cực tím còn gọi là tia tử ngoại (ultraviolet light, UV), tia X-quang, và cuối cùng là gamma-rays. Như thế chỉ có 3 loại sóng mạnh hơn là ánh sáng thường. Sóng càng mạnh, độ “xuyên thủng” qua tế bào càng nhiều. Ba tia X-rays, UV, và Gamma đều được sử dụng trong y học để truy tầm hay chữa bệnh. Trong khi đó, ánh sáng thường trở xuống, khi đụng vật cản đa phần sẽ bị phản chiếu và ít ảnh hưởng đến cấu trúc hay làm hư hại vật thể bên trong. Mở ngoặc một tí cho vui, tôi nói “đa phần” ở đây vì sóng có thể tồn tại dưới dạng sóng (wave), năng lượng (energy), và vật chất (matter), vì thế năng lượng có khi một phần bị hấp thụ mà không phản chiếu ra. Có thể hiểu, cơ thể chúng ta, có lúc hiện hữu chỉ là một khối lượng sóng và năng lượng trong không gian điện từ trường!.
X-rays được khám phá năm 1895 bởi một giáo sư vật lý người Đức, Wilhelm Conrad Röentgen. Một công dụng thường dùng của X-rays là để “chụp hình quang tuyến”, tuy nhiên X-rays còn dùng để trị ung thư và để dò tìm các thiên thể trong ngành thiên văn (cosmos). X-rays còn được dùng để dò tìm hàng lậu, súng ống ...

     2. CT scan là gì?
CT scan còn gọi là CAT scan, viết tắt của hai chữ “computed tomography”, được phát minh năm 1967 bởi một kỹ sư người Anh tên là Godfrey Hounsfield. CT cho ta thấy hình chụp của cơ thể theo dạng mặt cắt, một khối 3 chiều, thể hiện trên những mặt phẳng hai chiều. Mỗi một hình ảnh là tập hợp bởi nhiều tia X-rays, bắn đi từ nhiều hướng khác nhau vòng quanh cơ thể. Khi chụp hình bằng X-ray thường, tia sáng bắn đi một chiều nên hình ảnh chồng lên nhau. Thí dụ chụp hình phổi, ta thấy cả tim phổi xương sườn chồng lên nhau làm cho khó thấy rõ chỗ bị bệnh. CT scan dùng computer để tổng hợp hình X-rays từ nhiều góc độ khác nhau, để có thể để tạo ra hình chụp rõ ràng, giống như cơ thể được cắt ngang từng lát mỏng như những lát chanh trong dĩa bò tái chanh!

          3. MRI là gì?
Một hạn chế của X-rays là nó xuyên qua cơ thể và mang theo phóng xạ (radiation) vì thế ngày nay MRI có nhiều lợi thế hơn. MRI viết tắt của ba chữ, Magnetic Resonance Imaging. MRI được sáng chế bởi Paul C. Lauterbur vào năm 1971, nhưng kỹ thuật không được hoàn thiện mãi cho đến những năm 1990’s. Nguyên tắc của MRI là tạo ra một từ trường chung quanh phần cơ thể muốn chụp hình. Vì trong cơ thể chúng ta hầu hết là... nước, mà phân tử nước có chứa nguyên tử Hygrogen mang điện cực dương, còn gọi là proton. Khi bị kích động bởi từ trường, những hạt proton như bị “sắp hàng lại” và rung lên, phát ra sóng radio. Máy computer sẽ ghi nhận sóng radio nầy thành hình ảnh.
Như vậy, chung chung, MRI an toàn, và kỹ thuật càng ngày càng tiến bộ, độ chính xác nhiều hơn là CT.

   4. PET scan là gì?
PET scan là chữ viết tắt của Positron Emission Tomography. PET scan là một thử nghiệm dùng chất phóng xạ để truy tầm những dấu hiệu bất bình thường trong cơ thể, hầu hết là truy tầm bệnh ung thư hay ung thư di căn. Tuỳ theo trường hợp, bệnh nhân sẽ được tiêm, uống, hay hít thở hơi có chất phóng xạ, gọi là radiotracer. Nguyên tắc là, các tế bào bất thường, như ung thư chẳng hạn, thường tụ tập thành khối u, và sử dụng nhiều máu, nhiều oxigen, ăn nhiều đường, tiêu hoá và sanh sản nhanh hơn tế bào thường. Như thể nhờ vào chất phóng xạ, những chỗ bất thường nầy sẽ hiện lên hình bất thường ở những tụ điểm. PET scan thường kết hợp với CT hay MRI, vì hai thử nghiệm trên chỉ phát hiện hình ảnh, thí dụ khối u chẳng hạn, trong khi đó PET sẽ cho biết khối u đó là ung thư hay không.

    5. Siêu âm, ultrasound là gì?
Ultrasound, còn gọi là sonogram, là thử nghiệm dùng sóng âm thanh, siêu âm để tạo ra hình ảnh. Tương tự như sóng radar mà các loài dơi dùng để định hướng, hay ứng dụng dò tìm tàu ngầm, tìm máy bay cho trạm không lưu, hay tìm... cá cho dân đi câu! Thiết bị phát âm thanh sẽ bắn ra sóng âm thanh, khi đụng vật thể muốn dò tìm sẽ dội lại tạo ra hình ảnh. Trong nghề cấy thai nhân tạo của tôi, máy siêu âm là con mắt thứ ba của tôi mỗi ngày. Nhiều bệnh nhân hỏi tôi có an toàn không. Xin trả lời là rất an toàn, vì nó chỉ là sóng âm thanh, không có phóng xạ gì cả. Chỉ là âm thanh mà chỉ có loài dơi hay những chú chó có thể nghe được mà thôi.

    6. Mức độ an toàn của các thử nghiệm?
Như thế, MRI và sonogram có lẽ an toàn nhất vì chẳng dính dáng gì tới phóng xạ, radiation cả. Millisievert (mSv) là đơn vị để đo độ phóng xạ. Mỗi năm, trung bình mỗi người chúng ta chịu độ phóng xa là 3 mSv từ môi trường xung quanh. Trong một chuyến bay 5 tiếng từ Los Angeles qua New York, mỗi hành khách sẽ bị nhiễm phóng xa khoảng 0..03 mSv. Trung bình chụp hình X-rays, tuỳ theo bộ phận của cơ thể, độ nhiễm phóng xạ từ 0.001 mSv cho đến 1.5 mSv, thí dụ chụp hình ngực mammogram là 0.4 mSv và chụp hình phổi là 0.1 mSv, độ nhiễm ít hơn là một ngày phơi nắng ngoài biển! Trong khi đó, CT scan, độ nhiễm phóng xạ từ 2 dến 20 mSv. Còn, mỗi PET scan, sẽ gây ra phóng xạ khoảng 25 mSv.
So ra thì độ nhiễm phóng xạ của các phương pháp chụp hình cũng không đến nỗi nào, vì lâu lâu mới chụp một lần, và nếu cần là chuyện phải làm mà thôi. Nhờ vào những phát minh này mà y khoa có thể dò tìm và chữa trị bệnh mau chóng.
Rủi Ro Nhiễm Phóng Xạ Khi Làm CT Scan
Chúng ta nên thận trọng khi quyết định đi làm CT scan vì rủi ro bị nhiễm phóng xạ hết sức nguy hiểm.
BỆNH NHÂN BỊ TIA PHÓNG XẠ GÂY HẠI trong một số khám nghiệm y khoa là điều rõ ràng. Tuy nhiên, để bệnh nhân tiếp xúc với tia phóng xạ bao nhiêu thì mới gọi là nguy hiểm?
Các cuộc nghiên cứu mới đây đưa ra lời báo động cho rằng thủ tục làm CT scan được dùng ngày càng nhiều lúc gần đây, đưa đến nhiều nguy hiểm cho bệnh nhân. CT scan là viết tắt của chữ “computed tomography” nghĩa là kỹ thuật chụp hình các bộ phận bên trong cơ thể con người. Đôi khi còn gọi là “imaging” hay nội soi. Bác sĩ thường dùng phương pháp này để chẩn đoán bệnh. CT scan được sử dụng để tìm đủ mọi loại bệnh từ nơi nào nhiễm trùng, té ngã vỡ sọ, hay tìm bệnh ung thư.
  1. Bác sĩ Rebecca Smith-Bindman, ở bệnh viện UC San Francisco, và ê kíp chuyên viên của bà vừa mới đưa ra một phúc trình nghiên cứu cho biết họ tỏ ý lo ngại vì phương pháp CT scan được dùng khá nhiều lúc gần đây, tăng gấp ba lần kể từ năm 1996 cho đến nay. Bản phúc trình nghiên cứu nói rằng kỹ thuật CT scan phóng ra nhiều chất phóng xạ (radiation) hơn là phương pháp chụp bằng quang tuyến X thông thường. Đặc biệt đối với trẻ em, rủi ro nhiễm phóng xạ còn cao hơn gấp bội phần. Một nhóm nghiên cứu quốc tế công bố bản báo cáo cho thấy trẻ em đang mạnh khoẻ, lỡ bị té ngã, đem các em đi làm CT scan, các em có nhiều rủi ro sẽ bị ung thư so với trẻ em từ chối không làm CT scan. Cuộc nghiên cứu này kéo dài 23 năm theo dõi. Những em làm CT scan có nhiều rủi ro bị ung thư não gấp ba lần, và ung thư máu gấp bốn lần.
Các chuyên gia không đồng ý với nhau trong việc giải thích kết quả của cuộc nghiên cứu khiến cho nhiều bệnh nhân đang lo âu. Tổ chức Radiology Society of North America vẫn cả quyết rằng rủi ro gây ra bệnh ung thư vì làm CT scan rất nhỏ so với những ích lợi mà kỹ thuật này giúp bác sĩ chẩn đoán bệnh. Ông Mark Pearce, một trong những tác giả nghiên cứu về rủi ro xảy ra cho trẻ em, thuộc trường đại học Newcastle University nói rằng; “Mặc dầu rủi ro có thể là gấp ba lần, nhưng đó là gấp ba lần của một con số rất nhỏ.”. Nhiều chuyên viên về quang tuyến, trong đó có cả bác sĩ Smith-Bindman, biện minh cho lập trường của mình, và họ nói rằng việc dùng kỹ thuật CT scan đã bị lạm dụng vì dễ sử dụng. Thậm chí, bệnh nhân đòi yêu cầu phải cho đi làm CT scan, và bác sĩ không ngần ngại cho đi làm CT scan chỉ vì sợ rằng mình có thể đã bỏ sót, chưa làm đầy đủ mọi chẩn đoán.
Dầu sao đi nữa, kết quả nghiên cứu cũng khiến cho các bác sĩ phải suy nghĩ lại trước khi quyết định gửi người bệnh đi làm CT scan. Bác sĩ Smith-Bindman đề nghị: “Chúng ta nên suy nghĩ lại và quyết định xem chúng ta có nên làm việc nội soi cho bệnh nhân hay không, và việc nội soi đó có được chứng minh là cần thiết cho bệnh nhân hay không.”
Lượng Phóng Xạ cho mỗi lần làm CT scan phần ngực gây nguy hại tương đương với:
a.) 1,400 lần chụp hình răng bằng quang tuyến X,
b.) 240 lần đi máy bay kéo dài 5 tiếng đồng hồ,
c.) 70,000 đi qua máy dò xét ở phi trường,
d.) 19 năm hút thuốc lá, mỗi ngày hút một gói 20 điếu.
Lấy đơn vị đo phóng xạ mSv làm chuẩn: Mỗi lần chụp quang tuyến X phần ngực chỉ bị 0.1 mSv. Dùng CT scan sẽ bị 7 mSv phóng xạ
Bài tường trình của Alice Park trên báo TIME
Nguyễn Minh Tâm dịch
Luong Bui chuyen
 
QUY LUẬT ÂM DƯƠNG HIỂU ĐỂ SỐNG THỌ, KHỎE TỰ NHIÊN

Một bạn gửi đến TL bài này, hỏi có chuẩn không. Câu trả lời là bài này nên đọc để tăng trưởng kiến thức và hiểu biết. Cái hình với dòng chữ thấy hơi khó chịu vì mang tính câu view.
TL Định thay bằng ảnh  nhưng tôn trọng người gửi nên để nguyên, lâu lắm rồi mới đọc 1 bài viết hay mà không thấy động cơ gì bên trong nó!

Bạn có bao giờ tự hỏi vì sao ngày càng nhiều người trẻ mắc bệnh? Vì sao xã hội phát triển, thuốc men đầy đủ mà bệnh lại ngày một nhiều?

Thật ra, phần lớn là vì chúng ta sống ngược lại với quy luật tự nhiên – quy luật Âm Dương.

🌙 Buổi tối là thời điểm âm hàn – cơ thể cần được giữ ấm để phục hồi và tái tạo tế bào. Thế nhưng ta lại ăn uống lạnh, nằm máy lạnh, tắm đêm, uống nước
đá… khiến tế bào không đủ nhiệt để sản sinh. Khi cơ thể lạnh, máu huyết ứ trệ, tắc chỗ nào là đau chỗ đó. Lâu dần, sinh ra bệnh.

Đó không hẳn là "bệnh", mà là cơ thể đang báo động: "Tôi đang lạnh! Tôi đang thiếu dưỡng chất!"
Nhưng tiếc là ta lại không nghe. Ta đi tìm thuốc, dập triệu chứng, mà không thay đổi lối sống, cách ăn.

🔥 Cơ thể cần ấm để sống. Đôi chân phải đủ ấm (khoảng 37 độ) thì tuỷ xương mới tạo máu, tế bào mới phục hồi. Ban đêm lại càng cần bổ sung những thứ ấm nóng: một ít gia vị cay, một chút béo lành mạnh – để giữ lửa bên trong cơ thể.

🌿 Sống khỏe cần hiểu: Cơ thể cần gì để sống?
Muốn cơ thể khoẻ, tế bào cần đủ 4 nhóm chất quan trọng:

- Đạm – nuôi tế bào, tạo máu.
- Béo – giữ ấm, tạo nhiệt, giúp hấp thụ vitamin.
- Đường tốt – cung cấp năng lượng cho não, cho bạch cầu hoạt động.
- Tinh bột và khoáng chất – là nguồn năng lượng cơ bản, giúp cân bằng nhiệt trong cơ thể.

Nhiều người sợ đường, sợ béo mà kiêng khem cực đoan. Nhưng không ăn béo cũng mỡ máu, không ăn đường vẫn tiểu đường là vậy.

Điều quan trọng là ăn đúng loại, đúng cách, đúng thời điểm.

🌿 Ăn đúng không chỉ là ăn đủ chất, mà còn phải ăn đủ vị
Tạo hóa ban cho chúng ta 6 vị tự nhiên để nuôi và dẫn dưỡng chất đến đúng nơi cơ thể cần:

- Chua – dẫn lên não, thông tắc nghẽn, giúp tỉnh táo.
- Chát – dẫn xuống chân, giúp chắc xương, khỏe dây chằng.
- Đắng – làm mát cơ bắp, mát gan, rã mỡ.
- Cay – dẫn vào tuỷ xương, làm ấm cơ thể, trị lạnh đau.
- Ngọt – giúp lưu thông toàn thân, giải nhiệt, tăng đề kháng.
- Mặn – giữ nước, làm ấm thận, giúp tế bào trao đổi chất.

Không có vị nào là xấu – chỉ sai khi ta lạm dụng một vị hoặc thiếu vắng một vị trong thời gian dài.

Ví dụ: Ăn chua quá nhiều mà không ăn chát – dễ rụng tóc, nhão cơ, lạnh da. Ăn cay mà không có đắng – nóng gan, nổi mụn.

👉 Mỗi vị là một “chìa khóa” để mở cánh cửa dẫn dưỡng chất đến từng bộ phận cơ thể.
👉 Nếu chỉ ăn đủ chất mà thiếu vị, cơ thể sẽ nơi thừa nơi thiếu – sinh ra rối loạn.

🌿 Âm dương trong thực phẩm – cần biết để ăn đúng giờ, đúng mùa
- Vị cay – chát – mặn là dương → nên ưu tiên ăn buổi tối và trưa.
- Vị chua – đắng – ngọt là âm → nên ăn vào sáng và trưa.
- Củ dưới đất như khoai, củ sen, gừng… dương hơn rau lá trên mặt đất.
- Trái cây như cam, bưởi, dưa hấu… gần mặt trời – âm hơn.
- Nấu chín sẽ làm thực phẩm dương hơn ăn sống.

🌙 Buổi tối là giờ âm – đừng nạp thêm thực phẩm âm như trái cây, nước đá, rau luộc nguội. Hãy thêm gia vị cay nhẹ, chút dầu tốt, ăn món hầm ấm nóng – giúp tuỷ làm việc, tạo máu khi bạn ngủ.
💡 Bạn có thể bắt đầu ngày mới bằng một ly nước ấm để giữ ấm dạ dày và kích hoạt khí huyết lưu thông nhẹ nhàng.

🌿 Sống thuận tự nhiên – khoẻ tự nhiên
Tổ tiên ta ngày xưa không có thuốc men hiện đại, không có máy lạnh, không có đồ tinh chế – mà vẫn sống khoẻ nhờ thuận theo tự nhiên:
– Ăn đúng mùa, đúng vị.
– Dùng lửa, dùng nắng.
– Ăn đủ béo từ hạt, từ dầu tốt, từ mỡ động vật sạch.
– Dùng muối biển, đường tốt, không qua tinh luyện.

Ngày nay, chúng ta bỏ lỡ hết:
– Sợ mỡ, sợ đường → mất cân bằng.
– Ăn rau quả lạnh buổi tối → âm thịnh dương suy.
– Uống nước lọc quá nhiều mà không thêm muối → mất khoáng, mệt mỏi.

Chỉ khi hiểu quy luật âm dương, ta mới làm chủ được sức khỏe của mình.
Chỉ khi trở về với tự nhiên, ta mới sống thọ, sống khỏe và an yên.

👉 Hãy lắng nghe cơ thể mỗi ngày.
👉 Hãy nhìn lại bữa ăn hôm nay – có đủ 4 nhóm chất? Có đủ 6 vị? Có thuận giờ thuận mùa không?
Chỉ cần vậy thôi, cơ thể bạn sẽ tự sửa chữa – mà không cần đến thuốc men.

Nếu bạn thấy điều này ý nghĩa, hãy chia sẻ cho người thân yêu – để cùng nhau sống khoẻ, sống vui, sống thuận tự nhiên 🌿
Nguồn: sưu tầm


Thằng Thời
  • Xin thầy mẹ đừng nuôi con ăn học
    Hoặc tìm con một nghề nghiệp ấm thân
    Bởi mai này con sẽ làm tên lính
    Học làm gì cho vô ích phù vân.
    Xin thầy mẹ mài con ra gan dạ
    Để lớn lên khỏi sợ trước kẻ thù
    Chẳng ói mửa khi chìm trong biển máu
    Chẳng hãi hùng khi lạc giữa rừng sâu.
    Con ước muốn thầy cho con cây súng
    Ngay bây giờ để tập bắn cho quen...
    Xin Thầy mẹ đừng bắt con phải học
    Nghĩa lý gì với cuộc sống hôm nay
    Giống nòi ta bao nhiêu năm khổ nhục
    Tiếng quạ kêu an át suốt đêm ngày...
    Xin thầy mẹ đừng nuôi con ăn học
    Hoặc tìm con một nghề nghiệp ấm thân
    Bởi mai này con sẽ làm tên lính
    Học làm gì cho vô ích phù vân...

    Một bài thơ trước 75 (Vô Danh)
    ---------
    Ngày xưa, ở Ban Mê Thuột, trước nhà tôi, trong cái xóm nhỏ gọi là xóm đạo, có tay kia tên là Thời, cũng bặm trợn lắm chứ chẳng hiền lành gì. Thằng Thời thích chơi với tôi và tôi cũng thích chơi với nó vì cả hai thằng đều con nhà nghèo và đều có chút tánh khí ngang tàng trong người. Thằng Thời lớn hơn tôi cỡ chừng vài tuổi gì đó, nhưng không hiểu tại sao chúng tôi nói chuyện với nhau lại xưng mày tao, và mỗi lần nhắc tới Thời thì thiên hạ ai cũng đều gọi nó là thằng Thời. Có lẽ, khi một thằng con trai đã sinh ra trong một gia đình nghèo thì thiên hạ có quyền muốn gọi bằng bất cứ danh từ gì cũng được.
    Gia đình thằng Thời người gốc Bình Định, ăn nói nghe hơi "lọa" tai nên chúng tôi thỉnh thoảng còn gọi nó là Thời nẩu. Cái tiếng Thời nẩu này chỉ có mình tôi dám gọi, những đứa khác trong xóm mà vô ý gọi như thế là sẽ bị cú đầu liền.
    Gia đình thằng Thời rất nghèo. Nhà tôi tuy nghèo nhưng dù sao thì cũng còn được cắp sách đi học và có cơm ăn áo mặc, dù không phải là loại mắc tiền nhưng cũng không đến nổi vá chùm vá đụp, lu gạo trong nhà ít khi cạn láng. Nhưng nhà thằng Thời thì nghèo đến độ phải chạy cơm từng bữa, con cái chẳng được đi học, không có cả quần áo tươm tất để mặc, mấy anh em mặc quần áo vá chùm vá đụp coi rất thảm thương.
    Ba thằng Thời làm phu khuân vác ngoài chợ. Nói là phu khuân vác cho sang nhưng thật ra thì hễ ai cần bất cứ việc gì, từ việc khuân vác cho đến việc gánh phân heo, ba nó đều làm tuốt. Má thằng Thời cũng đi làm hay đi ở nhà nào đó không biết mà sáng sớm ra đi mãi cho đến tối mịt mới trở về. Thằng Thời ở nhà coi 2 đứa em. Lâu lâu ba thằng thời về nhà, miệng toàn mùi rượu, đi đứng nghiêng ngả và ca hát om sòm. Ông hát nhiều bài nhưng chỉ có một bài bọn tôi thích nhất là bài (xin quí vị lượng thứ cho danh từ tục tỉu) "Ăn L... giăng phăng" vì nó là tiếng Pháp, lời nghe ngộ nghỉnh như sau: "Ăn L... giăng phăng đờ la Ba Trí à..." Mãi sau này tôi mới biết đó là bài quốc ca La Marseillaise của Pháp, bắt đầu bằng câu: "Allons enfants de la patrie, le jour de gloire est arrivé..." Nghe ông ca như thế, đàn ông thì ôm bụng cười khoái chí, còn đàn bà thì nhăn mặt khó chịu, bảo chú Bảy "Hát hò gì mà dô duyên tục tỉu." Mỗi lần bọn con nít chúng tôi gặp ba thằng Thời, đều chạy theo năn nỉ: "Chú Bảy, chú Bảy hát bài... ăn L... cho tụi con nghe đi." Thôi, tôi kể lại, xin quí vị đừng chấp chúng tôi, chuyện con nít mà.... Nhưng chú Bảy không bao giờ hát khi tỉnh táo, ông chỉ lầm lầm lì lì.
    Được cái là ba thằng Thời, dù có tật rượu chè nhưng khi uống rượu say về nhà thì chỉ hát hò,không bao giờ la mắng hay đánh đập vợ con như nhiều người Việt Nam khác. Đúng ra, chú Bảy rất thương mấy đứa con của chú. Hôm nào ông làm được ra tiền thì thế nào cũng đem về mấy ổ bánh mì thịt hay gói xôi, hay củ khoai, hay con khô mực (có lẽ để dành từ bàn nhậu) cho con cái ăn. Nhưng cũng có vài khi, cả đêm ba má nó không về, bỏ 3 anh em ở nhà bị đói meo râu. Thằng Thời thương em, tự động đi kiếm củi nấu cơm cho các em ăn. Có khi hết gạo, nó qua nhà tôi mượn gạo. Hồi đó chưa có mì gói cho nên nấu một nồi cơm bằng củi không phải là chuyện đơn giản. Vào lúc mùa mưa củi ướt, có khi nó lục đục tới khuya mới nấu chín được nồi cơm. Anh em chúng nó ngồi quây quần ăn cơm trên nền đất với chén nước mắm, dưới ngọn đèn dầu leo lét, coi thấy vừa tội nghiệp và lại vừa dễ thương đầm ấm, chan chứa tình người làm sao!
    Nhà nó là chỉ là một cái chòi nhỏ vách bằng ván, cũng vá chùm vá đụp như áo quần của anh em thằng Thời. Nhà lợp mái tôn, lại cũng là thứ tôn cũ đi lượm ở đâu về, cái dài cái ngắn, cái đen cái trắng, cũng vá chùm vá đụp lên nhau cũng như vách ván. Nền nhà bằng đất nên mùa mưa thì đi trong nhà mà như lội bùn và mùa hè thì bụi tung mù, làm thằng Thời lâu lâu phải sách nước tạt xuống cho đỡ bụi. Trong nhà độc nhất chỉ có một cái giường tre, một cái bàn nhỏ cũ kỹ chắc lượm ở đâu đem về, mấy cái ghế cao thấp không bằng nhau, một cái tủ đựng chén bát, một cái bếp nhỏ và một hủ gạo. Sau nhà là một thùng phuy nước cho cả gia đình tắm gội, giặt giũ.
    Hồi đó tôi rất thích qua nhà thằng Thời chơi, dù nhà nó chẳng có gì. Có lẽ tôi thích qua nhà nó chơi vì thằng Thời có nhiều tài vặt. Hình như trời thường đãi những thằng con nhà nghèo bằng những cái tài đặc biệt mà bọn nhóc con nhà giàu không thể có được. Cái tài đầu tiên của thằng Thời là tài chơi đánh trỏng. Không biết ai còn nhớ trò chơi đánh trỏng ở Việt Nam mình không. Trò chơi rất đơn giản gồm 2 khúc cây, một dài một ngắn. Trước khi chơi, người ta khoét một cái lỗ nhỏ trên mặt đất rồi để khúc cây nhỏ nằm nửa trong nửa ngoài cái lỗ này. Khi đánh vào phần đuôi của cây gỗ nhỏ này, nó sẽ văng lên cao và người chơi sẽ đánh vào khúc cây vừa bay lên. Ai đánh cho nó đi xa nhất thì người đó thắng. Trò chơi đánh trỏng coi rất đơn giản nhưng rất khó và nếu chơi thì rất mê vì khi đánh được khúc cây nhỏ từ dưới đất lên cao, người chơi khó mà đánh trúng được nó. Riêng tôi, đánh 10 lần thì bị hụt đến 9 lần, và nếu có đánh trúng thì cũng khó mà đánh cho xa được.
    Riêng thằng Thời thì khỏi nói. Nó khum người, gõ một phát cho cây gỗ nhỏ tung lên cao. Thay vì quất một phát vào lưng khúc gỗ, nó còn gõ vào khúc cây hai ba cái như người ta nhồi một trái banh trong tay rồi mới nghiến răng quất một phát thật là chính xác và thật mạnh. Nhiều khi, nó đánh xa quá, khúc cây trỏng văng mất tiêu, không ai kiếm ra được...
    Thằng Thời còn có tài kể chuyện. Không hiểu nó nghe được ở đâu vì nó không biết đọc, nhưng những chuyện trong Tam Quốc Chí như Quan Công Phò Nhị Tẩu, Lã Bố hí Điêu Thuyền, Tào Tháo rượt Lưu Bị, Triệu Tử Long đại phá quân Tào như thế nào nó kể nghe rất hay và hấp dẫn. Kể hoài và kể nhiều thì lâu lâu cũng bị bí. Khi nào bí quá thì anh chàng lại tự phịa ra thêm để tiếp tục kể cho chúng tôi nghe. Tôi biết nó phịa vì sau này lớn lên đọc Tam Quốc Chí, tôi tìm mãi chẳng thấy có khúc nào đã xảy ra như lời nó kể ngày xưa. Có điều là, chuyện nó phịa mà tình tiết cũng lâm ly hấp dẫn chẳng khác gì chuyện Tam Quốc thật. Thế mới tài.
    Thằng Thời còn có tài làm diều. Muốn làm diều thì phải có keo nhưng nhà thằng Thời làm gì có cho nên nó phải "cộng tác" với tôi vì tôi đi học, luôn luôn có keo sẵn trong cặp táp. Chúng tôi mỗi đứa dán một cái diều và trăm lần như một, diều của thằng Thời luôn luôn là đẹp hơn và nhẹ hơn nên luôn luôn bay cao hơn tôi. Nhờ thằng Thời, tôi mới biết là muốn thả diều phải chờ cho đến lúc có gió to. Một hôm tôi ôm diều sang nhà nó rủ nó đi thả diều. Thằng Thời cười bảo làm gì có gió cho mày đi thả diều mà đòi. Tôi ngây thơ, dốt mà lại có cái đầu cứng như đá cho nên bảo nó:
    - Mày không đi với tao thì tao đi một mình.
    Thế là tôi quyết định đem diều ra thả. Thằng Thời đi theo, miệng cười cười. Tôi cầm diều chạy lên chạy xuống con đường đất, chạy chậm rồi đến chạy mau, chạy muốn xịt... nước ra đít mà con diều thổ tả nhất định không chịu bay lên cao, cứ lên được một chút, nhưng hễ tôi ngừng chạy là con diều lại rớt ngay xuống đất, ngay trước mặt tôi. Cuối cùng, tôi phải chịu là nó đúng. Tôi xé nát con diều (mà không xé thì nó cũng đã gần nát như tấm giẻ rách rồi) giận dỗi bỏ về, nghe tiếng cười hềnh hệch của thằng Thời phía sau lưng mình....
    Trên trái đất này, nếu có thằng bé con ngu dốt nào cứ đòi thả diều lúc không có gió ấy chính là thằng Nhị đen cứng đầu ngu dốt ở Ban Mê Thuột....
    Thằng Thời còn có tài đá dế và bắt dế. Năm nào cũng thế, hễ mùa dế tới thì cu cậu bận rộn tưng bừng và xu hào rủng rỉnh.
    Mùa đá dế, mỗi buổi chiều, sau khi đi học về, vừa quẳng cặp táp xuống là tôi phóng qua nhà thằng Thời để... coi dế và theo nó đi đá dế. Dân nhà quê chúng tôi có những thú giải trí mà dân thành phố không bao giờ có được, đá dế là một thí dụ.
    Một trận đá dế cũng hào hứng chẳng kém gì một trận đá gà hay một trận đánh võ. Trước khi đấu, chúng tôi thường đem dế ra khoe rồi cạp độ. Khi thì cá độ bằng tiền, một đồng, hai đồng, khi thì chỉ một cây kẹo hoặc cây bút chì, cục gôm. Nghĩa là có thứ gì trong tay thì cá thứ đó.
    Thằng Thời cho tôi làm phụ tá... đá dế. Nó sai gì tôi làm đó. Chúng tôi luôn luôn mỗi đứa cầm hai cái lon. Một cái lon dành để chứa dế đá, cái kia dùng để chứa dế bán. Trước khi đá, mình chọn một cái lon nhỏ làm đấu trường. Sau đó, dùng tóc móc vào đầu con dế mình rồi quay nó vài chục vòng cho nó say, phun nước bọt vào cho con dế say thêm... nước miếng. Liệu chừng dế đã say rồi thì có thể thả nó vô "Đấu trường", tiếp tục dùng sợi tóc gấp làm đôi ngoáy ngoáy vào mặt nó, chọc cho nó điên lên. Khi dế bắt đầu vỗ cánh lên, nhe nanh ra và hí lên ren rét, ấy là lúc có thể thả đối thủ phía bên kia vào được...
    Đá gà ra sao thì tôi không biết nhưng đá dế thì hào hứng lắm. Hai con dế rống lên, phóng vào nhau, vừa cắn vừa đạp loạn xạ. Khi con nào quay đầu bỏ chạy tức là con đó bị thua. Cũng đôi khi có con bị cắn đứt ruột hay đứt đầu, coi cũng ghê gớm lắm.
    Thường thì một trận đấu kéo dài chỉ chừng chục giây đồng hồ là cao lắm, nhưng chuẩn bị cho nó đá thì mất rất nhiều thì giờ và công sức. Công sức bắt đầu từ lúc đi bắt dế, nuôi dế, chọc cho dế tức vân vân và vân vân...
    Tôi không hiểu thằng Thời đi rình ở đâu mà mỗi ngày bắt về chừng chục con dế lửa, loại to con và chiến nhất thế giới. Thằng Thời đá dế nổi tiếng xóm tôi, không ai hạ được. Và cứ đến mùa dế, như đã nói, thằng Thời tiền bạc luôn luôn rủng rỉnh vì nhờ bán dế. Hồi đó, tôi nhớ mãi, thuốc lá Ruby người ta bán 3 đồng 4 điếu mà thằng Thời bán có con dế có khi được tới 5 đồng một con. Mỗi ngày bán được vài con là cu cậu có quyền cà rem kẹo bánh vi vút và tôi cũng được hưởng ké.
    Tại sao lại có chuyện 3 đồng 4 điếu Ruby vào đây? Xin thưa, một lần, bán được mấy con dế được gần 10 đồng, thằng Thời ra tiệm "bà Quán" bỏ ra 3 đồng mua 4 điếu thuốc lá Ruby. Tôi hỏi nó mày biết hút thuốc à, thằng Thời trả lời, "Không, tao mua cho cha tao, tối về hút."
    Hồi đó nghe nó nói như thế tôi chẳng nghĩ gì thêm, nhưng sau này nghĩ lại tôi mới thấy phục thằng Thời. Một lần nữa, tôi không biết trên thế giới này có bao nhiêu thằng con trai đi bán dế để ăn kẹo mà còn nghĩ đến cha mình như thằng Thời?
    Nhưng ngoài những chuyện đá dế và thả diều trên, thằng Thời còn nổi tiếng là một thằng bặm trợn. Nó đánh nhau gan lì, không thua ai và ai cũng nói thằng Thời có võ. Người Bình Định, nghe nói, ai cũng có chút ít võ nghệ dằn thân. Xóm tôi ai cũng ngán nó nhưng với những người trong xóm, nó hiền khô, không hề bắt nạt ai. Nhưng con nít xóm khác mà đi lạc qua xóm tôi, gặp thằng Thời mà ăn nói lạng quạng thì thế nào cũng bị ăn đòn. Khi đụng độ, thằng Thời không có tật nói nhiều. Câu trước câu sau là nó đã vung tay đánh người ta bật ngữa ra sau rồi, không ai đỡ kịp. Lâu lâu, nó cũng sang xóm khác sinh sự đánh nhau và có lần đánh thua, cu cậu bị một bọn nào đó tới tận nhà kiếm, làm nó phải ra ngoài rẩy trốn mấy ngày mới dám mò về.
    Tôi phục thằng Thời ở chỗ là nó đi ăn thua ở đâu chứ không đi ăn thua với người trong xóm. Trong xóm, thằng Thời chẳng bao giờ làm phiền ai. Gặp người lớn tuổi, nó nói chuyện một tiếng xưng ông bà, hai tiếng xưng con...
    Một ngày nọ, tôi đang ngồi trên chiếc giường tre trong nhà thằng Thời đọc nhật trình cho nó nghe thì bà Mậu, một người đàn bà khó tánh và điêu ngoa nhất xóm, chạy thẳng vào trong nhà nó, mặt mày hầm hầm làm như chỉ muốn gây sự.
    Bà Mậu là một người đàn bà bí mật và khó tánh nhất xóm, nhưng theo lời nhiều người nói, là một người đàn bà đẹp. Bà người Huế, không có chồng, nhưng nhà cửa ở rất sang trọng bề thế so với những căn nhà bình dân trong xóm tôi. Nhà bà có điện, và cái hàng rào kẽm gai rào chung quanh càng làm cho nó có vẻ riêng biệt và sang trọng. Lâu lâu trong nhà bà, từ ngoài hàng rào nhìn vào, chúng tôi thấy có thấp thoáng bóng đàn ông, thường là đàn ông Tây, dân chủ đồn điền café. Tết nhất, xe hơi đậu hàng đống trước nhà bà, nhảy đầm tưng bừng bên trong, nhạc vang ra ầm ỉ làm bọn con nít chúng tôi cứ chen lấn nhau ngoài hàng rào mà xem.
    Có người đồn bà là gái giang hồ mà hồi tôi còn nhỏ chẳng biết gái giang hồ là gái gì. Mãi sau này mới biết là đĩ nhưng đó chỉ toàn là thứ tin đồn nói nhỏ với nhau nghe thôi chứ không ai có bằng chứng gì. Nhưng phải công nhận, sau này khi lớn hơn một chút, khi nhìn bà, tôi phải công nhận bà là một người đàn bà mà ai nhìn vào cũng thấy thích, kể cả tôi. Thêm vào đó, bà ăn mặc lịch sự và sang trọng. Chưa nhìn thấy bà Mậu là người ta đã ngửi được mùi nước hoa thơm lừng. Có lẽ bà là một trong vài người đàn bà hiếm hoi sức nước hoa trong xóm đạo tôi.
    Thấy bà Mậu vào nhà mình một cách ngang ngược như thế, thằng Thời vẫn ngồi yên trên ghế, hỏi bà:
    - Chào bác, bác kiếm ai?
    Bà không trả lời, nhìn láo liên khắp nhà một lúc rồi hỏi:
    - Cha mẹ mi có nhà không hỉ?
    - Thưa, cha mẹ con đi làm hết rồi.
    Không nói gì thêm, bà Mậu khom người chổng bộ mông đít tròn trịa và vĩ đại về phía chúng tôi, nhìn xuống đáy giường một lúc như tìm kiếm vật gì. Rồi bà đứng lên, đi thẳng tới bên cái tủ quần áo cũ kỹ không có cửa, nhăn mặt lại, thò tay vào đống quần áo cũ của cả nhà thằng Thời xới qua xới lại một lúc. Lại cũng kiếm cái gì. Thằng Thời hỏi:
    - Bác kiếm chi?
    Con mụ không trả lời, lại tới bên hủ gạo, mở nắp nhìn vào. Nhưng hủ gạo tối quá, bà không nhìn thấy được nên bà thò tay vào trong hủ gạo ngoáy qua ngoáy lại một lúc. Cặp vú to lớn và trắng như trứng gà bóc của bà lắc qua lắc lại trong chiếc áo hở ngực theo từng động tác. Hồi đó còn nhỏ tôi chẳng biết gì nhưng nhìn cặp vú bà cũng thấy... vui vui. Rồi bà nhăn mặt lại, rút tay ra, đậy nắp lại. Thấy bà ngang ngược như thế thì tôi bất mãn ra mặt. Mẹ, nhà tôi mà ai tới xục xạo kiểu này thì tôi đục cho hộc máu. Nhưng thằng Thời, tuy là một thằng chẳng hiền lành gì, thậm chí nổi tiếng là hung tợn nhất xóm, lại ngồi im không nói năng gì.
    Rồi bà đứng lên, tới gần cái tủ để đồ ăn nhỏ tí tẹo mở cửa ra nhìn vào. Không thấy gì, bà xoay người, tới bên cái giường tre duy nhất của nhà thằng Thời, lật tung mấy cái mền, cái gối, rồi dở luôn cả cái chiếu lên để tìm cái gì bà đang kiếm.
    Bà nhăn mặt phê bình:
    - Ăn ở chi mà dơ như mọi rứa hỉ.
    Tôi nhìn thằng Thời, toan xúi nó chửi cho con mẹ mất dạy một trận nhưng nó lắc đầu quay đi,không nói gì. Rồi bà Mậu nạt lớn:
    - Thời, mấy đứa em mi đi mô rồi hỉ?
    - Tụi nó chơi phía trước.
    - Mi đem tụi hắn vô đây cho tao nói chuyện hỉ?
    Thằng Thời đứng lên đi liền, đầu cúi xuống, không nói một lời. Ra ngoài, thằng Thời gọi lớn:
    - Con Ba thằng Tư đâu, về nhà anh Hai biểu...
    Trong nhà, còn lại mình tôi, bà Mậu đưa mắt nhìn tôi. Tôi chẳng sợ, nhướng mắt nhìn lại, kên kên. Bà Mậu có vẻ không ưa cái nhìn xấc xược của tôi, liền nhăn mặt lại, hỏi:
    - Còn thằng ni, mi mần chi ở đây hỉ?
    Tôi phang liền:
    - Tui làm chi thì mắc mớ gì tới bà?
    Chỉ có thế là bà tru tréo lên liền:
    - Trời ơi là trời, học trò học trẹt chi mà ăn nói mất dạy như rứa hỉ. Tau hỏi là hỏi cho vui, mi mần chi mà trả lời như quân du côn đầu đường xó chợ rứa hỉ. Cha mẹ mi tốn tiền cho mi đi học, mi để cho người ta dạy mi ăn nói như rứa hỉ? Mi con nhà đàng hoàng, cha mạ mi dạy mi như răng tao không biết, nhưng mi đi theo với thằng Thời chơi riết rồi mi mất dạy như nó.
    Đúng là một con quỷ cái... vú bự. Chỉ một câu nói, nó chửi gia đình tôi, chửi luôn cả trường học của tôi, chửi luôn cả nhà thằng Thời. Nhưng tôi đâu ngán. Đã chuẩn bị, tôi sẵn sàng ăn thua đủ với con đĩ này. Tôi tính phùng mang chửi lại một trận thì thằng Thời dắt mấy đứa em nó vào nhà.
    Bà Mậu chỉ mặt thằng Thời và 2 đứa em nó, hỏi:
    - Tụi bây có đứa nào lấy cái quần sa-teng đen tao phơi ngoài hàng rào không hỉ? Tụi bây thấy quần đẹp có lỡ lấy, trả lại tau, tau bỏ qua, còn không thì tao cho cảnh sát nhốt hết cả nhà tụi bây, cha mạ tụi bây vô tù hết. Tao quen lớn lắm, tụi bây biết không hỉ?
    Trời đất, lúc ấy tôi mới biết là bà Mậu mất cái quần Sa-teng.
    Nghe nói vô tù, 2 đứa em thằng Thời trợn hai cặp mắt khiếp đãm nhìn bà Mậu, nước mắt bắt đầu muốn chảy ra. Thằng Thời nói liền, giọng chẳng hề sợ hãi:
    - Bác đừng có nói vậy oan cho tụi con. Nhà tụi con nghèo thiệt nhưng không có phải là quân ăn cắp đâu bác. Bác vào nhà con bác sục sọi khắp nơi, bác có tìm thấy cái gì đâu.
    Thấy thằng Thời nói có lý, bà lại nói:
    - Tau nói cho tụi bây biết hỉ, nếu tụi bây thấy cái quần Sa-Teng bay rớt ở đâu thì phải lượm đem tới nhà tau, không được ăn cắp hỉ...
    Rối bà Mậu bỏ đi ra, không quên lườm cho tôi một phát, ngụ ý bảo mày liệu hồn, lần sau là tao tới nhà mày đấy.
    Bà Mậu đi rồi, hai đứa em thằng Thời mới òa lên khóc nức nở. Thằng Thời vỗ về hai em, căn dặn:
    - Anh Hai dặn tụi bây hoài mà tụi bây không nghe. Nhà mình nghèo, tụi bây đi chơi nhớ đừng có bày trò chơi gần mấy nhà giàu như nhà bà Mậu, lỡ người ta có mất cái gì, người ta có cớ đổ tội cho tụi bây. Tụi bây làm khổ tao, làm phiền luôn cả cha mạ.
    Con Ba lau nước mắt nói:
    - Dạ anh Hai đã dặn, tụi em đâu có dám đi đâu đâu, tụi em chỉ chơi trước nhà thôi mà...
    Thằng Thời lắc đầu, mặt mày chua xót bảo:
    - Thôi đi chơi đi, nhớ lời anh Hai dặn.
    Hai đứa nhỏ lau nước mắt bước ra. Chỉ chừng vài phút sau là tôi nghe được những tiếng cười hồn nhiên và vui tươi của chúng nó ở trước nhà... Tôi hỏi thằng Thời:
    - Thời, nhà của mày, sao mày để cho con đĩ thúi vô nhà lục soát khắp nơi rồi còn chửi bới mày tùm lum như vậy?
    Thằng Thời lắc đầu, cặp mắt buồn buồn nói:
    - Mày không biết, đâu phải chỉ có con mẹ Mậu mới hung tợn như vậy. Trong xóm này ai cũng vậy hết... Nhà tao nghèo nên bị thiên hạ coi rẻ, hễ ai mất cái gì thì việc đầu tiên là họ chạy vào đây lục soát trước, coi thử tụi tao có ăn cắp không. Nhà tao ban ngày mở cửa, ai muốn vào chẳng được...
    Tôi nói rất là thành thật với lòng mình:
    - Đù mẹ con đĩ đó dám vô nhà tao mà làm như thế thì tao chém nó chết liền tại chỗ. Tao chờ.
    Thằng Thời lắc đầu, giọng buồn buồn:
    - Thôi kệ mày ơi, nhà mình nghèo, mình có nói cỡ nào đi nữa thì cũng chẳng ai thèm tin, thôi thì cứ để cho thiên hạ vô lục soát thì người ta mới tin được. Mình vàng thiệt đâu sợ lửa mày.
    "Mình vàng thiệt đâu sợ lửa mày..." câu nói đơn giản này của thằng Thời đã ám ảnh tôi không biết bao nhiêu năm rồi. Tại làm sao trong những hoàn cảnh nhục nhã bi thương như thế mà những người nghèo lại nói được những câu hiền lành và dễ thương như thế. Tôi không hiểu được.
    Rồi thời gian cũng qua, cái tuổi thơ hiền lành vô tội của 2 thằng cũng theo thời gian mà lần lần phai nhạt. Càng lớn hơn thì chúng tôi càng ít có dịp gần gũi nhau vì khi thằng Thời đã có chút ít vóc dáng và sức lực, ba nó cho nó đi làm mướn ở đâu không biết, một tuần nó mới về nhà vài lần. Phần tôi, công việc học hành cũng bận rộn, và càng lớn thì khoảng cách của tôi với nó như càng xa đi, không còn như hồi còn nhỏ. Dù hai gia đình sau này cũng vẫn còn nghèo nàn khốn khổ như xưa, nhưng tâm hồn hai thằng bé con ngày nào ắt đã có nhiều sự thay đổi. Thằng Thời thất học, lúc nhỏ tôi thích chơi với nó để khi thì nghe chuyện Tam Quốc, khi thì đi đánh trỏng, khi thì đi thả diều, đá dế. Nhưng lớn lên thì nó cũng chỉ có chừng đó mà thôi, không có gì mới hơn. Phần tôi, những trò chơi ngày xưa không còn hấp dẫn nữa. Tôi bắt đầu biết mê đọc sách, đọc báo, ham coi xi nê, mê tài tử xi-nê như Alain Delon, Marlon Brando, biết những thú giải trí khác của những thằng học sinh còn được may mắn cắp sách tới trường. Chúng tôi nói chuyện không còn hợp nhau nữa...
    Rồi đến một ngày nào đó, tôi cũng không còn nhớ đến thằng Thời nữa, dù biết rằng gia đình nó vẫn còn ở chỗ cũ, ngay trước nhà tôi, phía sau một căn nhà lớn.
    Một ngày, lúc này tôi đã vào Trung học, tôi gặp thằng Thời và ngạc nhiên khi thấy nó mặc áo trắng, quần ống túm, để tóc dài kiểu Beatles. Mới nhìn qua thì coi cũng giống như trai...Sài gòn, nhưng nhìn kỹ, vì đôi chân vẫn còn mang dép nên coi có vẻ quê mùa chứ không được... à la mốt lắm. Cu cậu còn biết hút cả thuốc lá... Tôi lúc ấy đang còn đi học, chưa ra đời nên thấy nó như thế thì cũng phục lắm. Tôi rà tới hỏi thăm và trò chuyện.
    Thằng Thời gặp tôi cũng mừng lắm. Nó khoe nó đi làm ở Nha Trang mới về. Tôi hỏi làm gì, nó bảo làm đủ thứ cho một nhà hàng bán bar cho Mỹ. Rồi nó kể chuyện Nha Trang cho tôi nghe làm tôi muốn chảy nước miếng. Nó kể chuyện Nha Trang lộng lẫy to lớn như thế nào, ban đêm đèn bật sáng đẹp ra làm sao, người ta đi lại như thế nào, rạp xi nê rạp chiếu bóng tốt như thế nào, bờ biển đẹp và con gái đi tắm biển mặc quần sì líp lòi đít, áo xú chiêng lòi vú ra làm sao làm cho tôi mê quá. Nó khoe tôi là nó còn nói được cả tiếng Mỹ. Rồi nó sổ luôn một tràng cho tôi nghe để chứng minh: "Du ô kê, Ai ô kê, Du nốt ô kê, Ai nốt ô kê, ô kế... moa đờ phét..." Đúng ra thì phải là "Ma đờ Phắc" nhưng thằng Thời người Nẫu, nói trẹo thành "Moa Đờ Phét." Tôi không biết Mỹ có hiểu không nhưng tôi thì hiểu.
    Hồi đó Mỹ bắt đầu đổ quân vào Việt Nam, nhưng chỉ ở Nha Trang, còn Ban Mê Thuột thì chưa có. Quả thật là thằng Thời có tài nói chuyện. Nó đã nói là mọi người phải nghe. Nó kể chuyện lính Mỹ uống mấy chục chai bia mà không say, và khi say thì làm gì, làm gì, vân vân và vân vân. Nó khoe nó cho ba nó tiền mua một chiếc Xích Lô đạp cho nên nhà nó bây giờ đã có đầy đủ cơm ăn áo mặc. Mặt thằng Thời rạng rỡ.
    Tôi chào mừng nó rồi chia tay... Sau đó chừng một năm, tôi lại gặp thằng Thời lần nữa. Lần này, nó mặc đồ lính, mang huy hiệu con ó của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, đang từ trên phố đi bộ lững thững về nhà. Tôi gặp nó, hai đứa đứng giữa đường nói chuyện. Tôi hỏi mày đi lính hồi nào, nó nói chừng 6 tháng, mới huấn luyện xong, về trung đoàn, còn huấn luyện tiếp.
    Tôi hỏi đủ thứ như, đi lính sướng không mày (một câu hỏi ngu dốt nhất thế giới), ăn uống thế nào nào, bắn súng sướng không mày... Tôi hỏi tùm lum vì mường tượng, một ngày nào đó, tôi cũng sẽ mặc đồ lính như nó thôi. Đất nước mình đang có chiến tranh mà, làm sao tránh được. Thằng Thời trả lời:
    - Đi lính thì nhớ nhà lắm, nhưng mà vui.
    - Vui làm sao?
    - Người ta sao mình vậy. Chính phủ cho cái gì ăn cái đó, phát cái gì mặc cái đó, thằng nào cũng giống thằng nào, không có thằng nào giàu hơn thằng nào hay mặc đồ sang hơn thằng nào để nó khi dễ mình...
    Thì ra nó vẫn còn bị cái dĩ vãng nghèo khổ, bị người ta khi dễ ám ảnh... Nó mời tôi vô một cái quán cóc, uống chai bia.
    Mặt mũi thằng Thời dù mới đi lính nhưng không hiểu sao đã có dáng dày dạn phong sương. Hình như ai mặc đồ lính cũng đều có vẻ dày dạn phong sương cả. Chúng tôi ngồi nói chuyện, thằng Thời khoe:
    - Tao bây giờ biết đọc chữ quốc ngữ chút chút rồi.
    - Ai dạy mày?
    - Quân đội dạy, bạn bè dạy thêm nữa...
    Nó kể chuyện những ngày ở quân trường thật là... thoải mái sung sướng. Ăn uống đầy đủ ngày tới 3 bữa lận, mà bữa nào cũng no say, được ăn thả dàn, không bao giờ thiếu. Còn ngủ thì có giường riêng, có mùng riêng, mền riêng, gối riêng, chiếu riêng. Nó còn được chính phủ phát cho "một núi" quần áo, có cả áo lót, quần lót, hai đôi giày, ba đôi vớ. Cuối tháng lại được lãnh tiền, cuối tuần được cho nghỉ ngơi, ra phố uống cà phê, đi dạo phố hay tắm biển Nha Trang.
    Hồi đó đất nước mình chiến tranh, mỗi ngày không biết có bao nhiêu thanh niên bị lùa vào quân trường để tập làm lính, ai cũng than cực, ai cũng than khổ, ai cũng chê cơm lính khô như đá, tanh hôi, nuốt không vô. Tôi không biết có bao nhiêu người lại khen đời sống quân trường là đời sống thoải mái, được ăn uống đầy đủ như thằng Thời. Có lẽ không nhiều lắm... Ai bảo sinh ra trong gia đình nghèo thì khổ. Nhà nghèo cũng có những cái hay đặc biệt của nó. Nhưng thằng Thời cũng có chuyện để than phiền về đời lính. Nó bảo:
    - Chuyện khổ nhất đời lính là chuyện... phải mang giày. Tao từ nhỏ tới lớn chưa bao giờ biết mang đôi giày, bây giờ chính phủ bắt mang giày, đút cặp giò vô đôi bốt đờ sô thấy ngứa ngáy khó chịu quá chừng...
    Ngồi nói chuyện một lúc, có tay kia trong xóm, tên là Quới, lớn tuổi hơn chúng tôi và khá trải đời. Tay này làm gì không biết nhưng đầu lúc nào cũng Bi-dăng-tin bóng lộn, mang giày mũi nhọn, hút thuốc lá Bastos Xanh. Chúng tôi quen tay này nhưng không hiểu vì sao không ưa hắn được. Hắn bước vào quán, nhìn thấy thằng Thời liền hỏi:
    - Trời đất, mày mà cũng đi lính à?
    Thằng Thời hãnh diện trả lời:
    -Dạ em đi lính năm ngoái.
    Tay Quới ngồi xuống bàn gần đó, đưa tay trịnh trọng tháo cặp mắt kính đen bỏ xuống bàn, nói lớn, làm như muốn cho mọi người trong quán biết hắn là một tay sành đời:
    - Mày con trai một trong nhà, đáng lý phải được hoãn dịch, và mày cũng chưa tới tuổi, tại sao lại phải bỏ nhà đi lính?
    Thằng Thời trả lời tỉnh bơ:
    - Dạ tại em muốn đi.
    Tay kia bĩu môi:
    - Nhà chỉ có mình mày, mày không ở nhà giúp đỡ cha mẹ, tại sao lại đi lính? Bộ muốn làm anh hùng hả?
    - Dạ em đâu có muốn làm ông gì anh Quới? Nước mình nổi giặc, em phải xung phong đóng góp một tay chớ anh. Em có hỏi cha, cha em nói mi muốn đi lính thì cứ đi đi, hai em lớn rồi, ở nhà phụ cha được...
    Tay kia lại nói:
    - Ai cũng muốn trốn lính ở nhà cho yên thân, chỉ có mày là ham đi lính. Thiệt tình.
    - Nói như anh thì chính phủ lấy ai mà đánh giặc.
    Tôi ngồi suy nghĩ về những gì hai người nói với nhau, tự hỏi lòng, tại sao thằng Thời được hoãn dịch vì gia cảnh và chưa tới tuổi đi lính mà lại tình nguyện đi. Nếu nói nó đi lính vì nhà nó nghèo khổ thì không phải bởi vì lúc sau này thằng Thời đi làm công sở Mỹ, tiền bạc rủng rỉnh và đem tiền về khá nhiều để nuôi gia đình. Mấy con em gái nó bắt đầu lớn và ăn mặc cũng bảnh choẹ ra, không lôi thôi như hồi xưa nữa. Nó đi lính, tôi nghĩ, vì thích cuộc sống giang hồ...
    Một buổi chiều, cách đó chừng một năm, khoảng gần Tết, tôi đang ngồi trong nhà học bài thì có một thằng hàng xóm xông thẳng vào nhà, la toáng lên:
    - Người ta đem xác thằng Thời về rồi...
    Tôi giật nẩy mình lên, rụng rời hỏi:
    - Thằng Thời chết rồi à?
    - Ừ, mày ra coi, người ta đem xác nó về...
    Tôi phóng ra ngoài, nhìn thấy một chiếc xe nhà binh đậu bên kia đường, trước nhà thằng Thời. Mấy người lính chum nhau khiêng xuống một cái hòm màu đỏ.
    Hàng xóm mọi người đều bu quanh cái hòm đông quá nên tôi không thể tới gần được. Tôi cũng chen lấn và mãi một lúc lâu sau, tôi mới chun vào nhà nó được, nơi cái quan tài đỏ còn mở nắp để giữa nhà, chiếm gần hết diện tích...
    Đã không biết bao nhiêu năm bây giờ tôi mới vào nhà thằng Thời, và ngạc nhiên vì nhà nó bây giờ có khá nhiều thay đổi. Cái nền đất của nhà thằng Thời bây giờ đã được tráng xi-măng, cái giường tre cũ đã được thay thế bằng cái giường nệm, bàn ghế trong nhà cũng hoàn toàn khác xưa. Hình như căn nhà cũng được nới rộng ra một chút xíu...
    Cuối cùng thì thằng Thời cũng trở về mái nhà xưa, nhưng về trong chiếc quan tài màu đỏ. Về giữa tiếng khóc than của cha mẹ nó, anh em nó, và của cả tôi. Suốt đời nó phải ở nhà nền đất, bây giờ nền nhà đã được tráng xi măng, không biết nó đã hưởng cái sự sang trọng này được bao nhiêu lâu mà bây giờ phải nằm im lìm bất động, không phải trên giường mà trong một cái hòm, trên cái nền nhà yêu dấu xa xưa của mình.
    Tôi tới gần cái hòm, nhìn vào... Mặt thằng Thời tươi tỉnh, cặp mắt nhắm nghiền như người đang ngủ. Chiếc áo lính xanh của nó bị máu nhuộm đỏ một nửa từ ngực trở xuống vì hình như không có ai thay đồ cho nó. Không hiểu tại sao, tôi nhớ mãi cái gói Bastos xanh trong túi áo nó. Cái vỏ là vỏ bao thuốc lá Bastos xanh, nhưng máu đã biến nó thành một gói Bastos đỏ...
    Không hiểu tại sao, sau này đi lính, tôi cứ nghĩ tới bao thuốc lá Bastos xanh biến thành Bastos đỏ của thằng Thời ngày nào.
    Tôi chỉ ngồi gần xác thằng Thời được chút xíu thì bị đẩy ra, nhường chỗ cho người khác...
    Tôi nhìn thấy chú Bảy ba thằng Thời ngồi xổm ngay trước cửa nhà, tay cầm một điếu thuốc lá, mặt thẩn thờ, cặp mắt hoang dại. Trong nhà, sâu hơn một chút, con Ba đang ôm thiếm Bảy. Bà khóc không nên tiếng, ôm lấy đứa con gái, bàn tay run lên từng hồi... Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi có cảm giác mình gần gũi với chiến tranh. Xưa nay, dù chiến tranh đã bùng lên dữ dội khắp quê hương mình, nhưng tôi chỉ biết qua báo chí và radio. Bây giờ thì tôi đang nhìn thấy thảm cảnh chiến tranh ngay trước mặt mình...
    Tôi lang thang gần đó, tới chỗ những đám người đang tụ tập để nghe người ta nói về thằng Thời. Người thì bảo thằng Thời xung phong lên chiếm đồi thì bị bắn, người thì bảo nó bị phục kích, có người lại bảo rằng chính tai họ nghe đại đội trưởng của thằng Thời nói với chú Bảy là nó tình nguyện đi lên lấy xác của bạn, bị bắn chết nửa đường. Toàn là những chuyện nói để mà nói với nhau, còn sự thật thì ai mà biết được....
    Theo tôi, thằng Thời chết bằng cách nào, chết như thế nào đi nữa thì cũng không quan trọng. Cái quan trọng là nó đã chết cho Tổ quốc. Cái quan trọng là kể từ đây, gia đình thằng Thời sẽ thiếu vắng nó. Cha mạ nó sẽ thiếu một người con. Một người con mà thuở còn thơ ấu, đi bán dế ăn quà còn dám bỏ ra 3 đồng để mua 4 điếu thuốc lá Ruby cho cha, một người con lưu lạc phương xa cầu thực và đã dành dụm tiền bạc để mua cho cha mình một chiếc xe xích-lô. Một người con mà ngay từ hồi còn nhỏ, đã biết đối đáp như sau để bảo vệ danh dự cho gia đình mình: "Thưa bác, nhà tụi con nghèo thật nhưng không phải là quân ăn cắp..."
    Kể từ đây, con Ba thằng Tư, hai đứa em thằng Thời sẽ thiếu một người anh đáng kính. Một người anh đã biết thương yêu đùm bọc cho chúng nó từ những ngày xưa khi cả 3 anh em đều vẫn còn quá nhỏ dại. Người anh đã nửa đêm chạy đi mượn gạo về nấu cơm cho em ăn. Người anh dù thất học nhưng đủ khôn ngoan để dạy dỗ khuyên răn các em: "Nhà mình nghèo, tụi bây đi chơi đừng chơi gần nhà bọn nhà giàu để hễ có mất đồ đạc, người ta đổ thừa cho mình, làm khổ tao, làm phiền cha mạ..."
    Kể từ đây, xóm tôi sẽ mất đi một thằng Thời bặm trợn. Nhưng nói như thế thì oan cho mày Thời ạ. Mày du côn bặm trợn ở đâu không biết nhưng ở xóm này thì mày có làm gì ai đâu. Thậm chí mày còn bảo vệ con nít hàng xóm nữa.
    Kể từ đây, quân đội tôi sẽ mất đi một người lính tốt, một chiến sĩ can trường.
    Tôi không biết quê hương đất nước mình có bao nhiêu người lính trẻ như thằng Thời.Tôi biết chắc chắn là rất nhiều bởi nước mình nghèo, dân tộc mình hiền lành hiếu thảo và ngay thật...
    Sau ngày thằng Thời chết thì chiến tranh càng tăng cường độ. Tôi vẫn tiếp tục đi học và sau Tết Mậu Thân, nhìn cảnh quê hương tôi bị tàn phá, dân tôi bị tàn sát dã man thì tôi quyết định, đậu xong tú tài, tôi sẽ tình nguyện đi lính. Đù mẹ bọn khốn nạn chúng mày muốn máu, tao sẽ có máu.
    Ai cũng sợ quân trường cực khổ nhưng tôi, giống như thằng Thời, cực khổ đời lính chẳng có nghĩa lý gì hết. Mẹ, toàn chuyện con nít. Đối với những thằng bé sinh ra và lớn lên trong những gia đình nghèo như chúng tôi thì đi bất kỳ chỗ nào, làm bất kỳ chuyện gì trên cái quê hương miền Nam Việt Nam yêu dấu này cũng chẳng có gì ghê gớm cả.
    Sau ngày thằng Thời chết, chú Bảy ba thằng Thời uống rượu nhiều hơn và về nhà trễ hơn xưa nhưng bây giờ ông không còn ca hát vui vẻ như những ngày thằng Thời còn sống nữa. Buổi tối đi làm về, ông không hát, chỉ cúi đầu đạp chiếc xe xích lô về nhà, lưng cong lại như chất chứa cả gánh nặng của quê hương và trời đất trên đôi vai già nua nhỏ bé của mình. Nhiều người trong xóm đồn là họ đã nhìn thấy nhiều đêm, thằng Thời ngồi vắt vẽo trên chiếc xích lô do cha nó đạp, miệng hút thuốc lá phì phào. Người ta còn đồn rằng, có lần, chú Bảy say rượu làm té xe xích-lô, thằng Thời còn phụ cha nó đẩy xe lên. Đây chỉ là những tiếng đồn đãi trong xóm, tôi chưa bao giờ nhìn thấy. Nhưng tôi biết, nếu thằng Thời có về thì nó không bao giờ ngồi trên xe cho cha nó đạp mà nó sẽ phụ cha nó để đạp chiếc xe. Tôi biết tính thằng Thời mà...
    Kính thưa quí vị, tôi vừa kể lại chuyện một thằng hàng xóm bạn tôi chết trận. Đất nước mình chiến tranh, thanh niên đi đánh giặc chết là chuyện thường, chẳng có gì đáng nói ở đây. Cái đáng nói là tại sao, xin nhấn mạnh rằng tại sao, tại sao những thằng như thằng Thời, và những thằng con nhà nghèo khác trên khắp quê hương mình, những gia đình mà tụi CS gọi là "Giai cấp bần nông hay giai cấp vô sản", đã đi lính để chống lại chúng nó cho đến giọt máu cuối cùng? Đối với những con người nghèo khổ này thì nói thật, CS hay tư bản, chế độ này hay chế độ kia, có gì là khác nhau đâu? Quốc Gia hay CS có gì khác với chúng tôi?
    Câu trả lời rất là đơn giản. Họ chiến đấu bởi vì, chính phủ mình ngày xưa, dù không phải là tuyệt đối hoàn toàn, dù có nhiều khuyết điểm và lầm lỗi, nhưng là một chính quyền của nhân bản và đạo đức, còn biết tôn trọng tự do của người dân, còn biết bảo vệ tài sản của người dân, lo cho dân, cho người dân những cơ hội để tiến thân. Gia đình họ tuy nghèo nhưng vẫn còn có được cuộc sống êm đềm hạnh phúc, được có cơm ăn ngày ba bữa, được luật pháp bảo vệ.
    Cuối cùng, quan trọng nhất, chính quyền mình còn cho họ một hy vọng, một niềm tin để chiến đấu và để sống.
    Hy vọng gì và niềm tin gì, xin thưa, là một ngày nào đó, cho dù nếu thế hệ tuổi trẻ cực khổ của miền Nam này không còn ngẩng mặt lên được để làm người thì con cháu họ cũng sẽ có cơ hội để ngẩng mặt lên, sẽ được tiến thân, sẽ được làm người. Bây giờ thì chỉ có họ khổ, nhưng họ chấp nhận làm bóng tối để nuôi dưỡng mặt trời, nuôi dưỡng hy vọng, nuôi dưỡng ngày mai... Nhưng nếu họ buông súng, cả dân tộc mình sẽ lầm than khốn nạn. Họ chẳng bao giờ muốn thế.
    Đó là lý do tại sao tuổi trẻ miền Nam đã ùn ùn ra chiến trường cầm súng chiến đấu, sẵn sàng hy sinh, sẵn sàng chết bất kỳ giờ phút nào, tại bất kỳ chỗ nào để chống bọn Cộng phỉ xâm lăng...
    Trường Sơn Lê Xuân Nhị
    Viết xong trong "Một buổi thu sang lắm lá vàng, có đàn chim nhỏ hát ca vang.... tại thành phố New Oreleans...



Quân Báo VNCH và những trận đánh cân não tiêu diệt hang ổ nằm vùng của bọn cộng phỉ
  • Vũ Uyên Giang tức Nguyễn Quang Vinh, cựu ký giả tại Sài Gòn. Năm 1966 ông là ký giả của báo Miền Nam, sau đó chuyển qua báo Hòa Bình của Linh Mục Trần Du trên đường Phạm Ngũ Lão, Quận Nhất. Nhưng sau đó ông xin gia nhập vào ngành Quân Báo QLVNCH.
    Tết Mậu Thân 1968, tình cờ đứng trên lầu nhà một người bà con, nhìn xuống tận mắt chứng kiến cảnh bọn khủng bố cộng phỉ sát hại ông khóm trưởng ngay giữa con hẻm, lòng ông đau nhói. Đang là ký giả nhưng nhìn thấy nhiều cái chết đau thương của đồng bào, cho nên dù đang được hoãn dịch nhưng ông vẫn tình nguyện vào Khóa 2/68 Thủ Đức nhưng bị bệnh, khi xuất viện được chuyển qua Khóa 6/68 Thủ Đức.
    Sau khi tốt nghiệp, đáng lẽ ông về Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, nhưng đến ngày mãn khóa ở Thủ Đức, có đơn vị Quân Báo lên tuyển người, nên ông xin gia nhập. Ông Vinh nói:
    - Hơn nữa cũng vì thích ra hành quân ngoài mặt trận hơn là ở văn phòng vì thu thập được nhiều dữ kiện, có nhiều cảm hứng với những sự kiện thật, sống động hơn để viết lách, nhất là với những ký sự chiến trường, nên tôi gia nhập ngay vào ngành Quân Báo.
    Năm 1970, trên lãnh thổ Vùng 3, Trung Tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy cuộc hành quân gồm các Chiến Đoàn 225/ Sư Đoàn 5 Bộ Binh, Chiến Đoàn 318/Sư Đoàn 18 Bộ Binh, Chiến Đoàn 333/Biệt Động Quân, cùng với các cánh quân Vùng 2, Vùng 4, đồng loạt tấn công càn quét tiêu diệt bộ chỉ huy bọn cộng sản bắc việt xâm lược trên đất Cambodia,là nơi ẩn nấp để tấn công vào miền Nam.
    Lúc đó Chuẩn Úy Vinh theo Chiến Đoàn 333 Biệt Động Quân do Đại Tá Phúc làm Chiến Đoàn Trưởng tấn công sang vùng Mỏ Vẹt, Móc Câu, mật khu Ba Thu, lên tới tỉnh Svey Rieng. Khi rút về, Quân Đoàn 3 thành lập một toán cố vấn tại Kampong Cham, nằm sâu trong đất Cambodia tỉnh Kampong Cham. Riêng tỉnh Svey Rieng thuộc Đệ Nhất Quân Khu 1 do Đại Tá Intam làm tư lệnh quân khu, được Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 của VNCH yểm trợ, sang đó giúp thành lập các quân khu, tiểu khu, chi khu theo mô hình của VNCH. Ông kể:
    - Tôi theo Phòng 2 hành quân trên đó, tham gia các chiến trường Lai Khê, Tây Ninh. Năm 1971 tham dự mặt trận Hậu Nghĩa do Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn chỉ huy. Chiến sĩ Quân Báo thường theo các cánh quân, nằm ngay bộ chỉ huy chiến đoàn với nhiệm vụ là thẩm vấn các tù binh, hoặc theo đơn vị xâm nhập và chống xâm nhập, chuyên nhảy toán vào những mật khu việt cộng.
    Toán xâm nhập có khoảng 40 hoặc 60 người, tất cả đều không có trong cấp số, không có số quân, họ là hồi chánh viên hoặc tù binh đã ra cộng tác với VNCH, đó là những Toán Săn Việt Cộng hoạt động trong toàn Vùng 3 do Mỹ trang bị để nhảy toán, cải dạng thành lính việt cộng, đi dép râu và mặc đồ bộ đội, nếu có gặp việt cộng cũng không bị lộ, có nhiệm vụ thu thập tin tức để báo về đơn vị của mình, hoặc nghe lén đường dây viễn liên, có nhiều khi bắt cóc những tên sĩ quan việt cộng để mang về khai thác.
    Tháng Hai, 1972, ở Lộc Ninh có Chiến Đoàn 9 của Sư Đoàn 5 Bộ Binh VNCH, có thêm 1 tiểu đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng và 1 thiết đoàn Thiết Giáp, có cả Địa Phương Quân tham gia,tổng cộng có trên 10,000 quân.
    Toán của ông Vinh có 4 người nhảy toán xuống Lộc Ninh, và ông Vinh đã phát giác ra kế hoạch việt cộng tấn công An Lộc năm 1972 khi nghe lén được tin tức qua đường dây viễn liên của việt cộng và toán này đã bắt cóc được tên tù binh việt cộng Ngô Viết Quyền, cấp bậc tiểu đoàn bậc trưởng (đại úy) của phòng truyền tin bộ tư lệnh miền của bọn việt cộng. Tù binh Quyền đã khai ra kế hoạch tấn công Lộc Ninh, An Lộc năm 1972 là chiến dịch Nguyễn Huệ.
    Thành tích đầu tiên, tịch thu 1,200 khẩu súng đủ loại của việt cộng:
    Năm 1969, Chuẩn Úy Vinh xuống điều tra một đám tù việt cộng vượt ngục tại trại giam tù binh Suối Máu.
    Ông Vinh kể:
    - Trong khi chờ thẩm vấn người kế tiếp, tôi bước ra ngoài để hút thuốc, thấy có một tù binh trẻ ngồi dưới đất làm cỏ, anh ta đứng dậy đến chào hỏi và tôi cho anh ta vài điếu thuốc, còn bật lửa cho hắn nữa. Có lẽ vì những cử chỉ thân mật này, mà người tù binh thú thật lúc trước đã khai man là du kích, nay xin khai lại tên là Hồng Văn Nhẫn làTrung Đội bậc Trưởng (tương đương chuẩn úy), chỉ huy một trung đội bảo vệ kho súng Rang Rang, Phước Long. Lúc đó, anh được bà má lên xin phép cho về quê ở miền Tây cưới vợ, khi đi tới đồn Phước Tân ở Gò Dầu gần biên giới Miên thì bị lính xét, bị bắt đưa vô đại đội Địa Phương Quân ở đó.
    Ông cho biết:
    - Khi đem anh ta về Phòng 2 thẩm vấn lại, người tù binh chỉ rõ vị trí kho súng, vẽ tọa độ trên bản đồ, chỉ rõ cả đường đi vào và cả quyết là 6 tháng nay, trong đơn vị ai cũng tưởng anh ta còn ở quê cưới vợ chứ không biết anh đã bị bắt vô đây, anh ta còn khai cả trang bị của những người bảo vệ kho súng. Kế hoạch đánh chiếm kho súng do vị chỉ huy trưởng Trung Tâm Thẩm Vấn giao cho Lực Lượng Đặc Biệt tổ chức hành quân tấn công, được Trung Tướng Đỗ Cao Trí đồng ý.
    Ông nhớ lại: 
    - Tổng cộng tịch thu được 1,200 khẩu súng đủ loại được trực thăng chở về, bày kín cả sân của Quân Đoàn, gồm cối 60, SKZ 75, cối 82, trung liên, đại liên, CKC, AK... Trận đó gây tiếng vang khắp nơi, có nhiều cố vấn Mỹ, các ông tướng đến xem... 
    Nhờ vậy Chuẩn Úy Vinh nhận được Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Vàng do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đến tặng thưởng. Ông kể:
    - Đây là chiến công đầu của 1 chuẩn úy mới ra trường, và từ khóa học ở Okinawa mới về, quả là một thành tích lớn với tôi, nhưng tôi nghĩ đó cũng là do tính nhân bản của con người, dù kẻ không cùng lý tưởng với mình, nhưng khi đã sa cơ thất thế thì vẫn là con người. Nếu tôi không nhã nhặn đối xử với tù binh Hồng Văn Nhẫn thì có khi chẳng ai biết có kho súng ấy.
    Sau này Nhẫn có tình nguyện xin vào toán nhảy toán với chúng tôi ở nhiều nơi như Hố Bò, Bời Lời, Dương Minh Châu, biên giới Việt Miên thuộc tỉnh Bình Long, Phước Long... Nhẫn được cải danh thành hồi chánh và đã xin gia nhập vào Toán Săn Việt Cộng của Phòng 2 Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3.
    Bắt sống Mai Văn Sổ, đại úy cụm trưởng cụm tình báo X.10:
    Vào Tháng Bảy, 1969, tại tỉnh Hậu Nghĩa, Chuẩn Úy Vinh dẫn toán công tác của Trung Tâm Thẩm Vấn thuộc Phòng 2 Quân Đoàn 3, gồm Chuẩn Úy Vinh, Trung Sĩ Ông Tấn Phán dắt tù binh Lê Thị Tý, đi cùng Trung Úy Đức, đại đội trưởng Địa Phương Quân, Thiếu Tá Sieght cùng Chuẩn Úy Lâm và Binh Nhất Rousseau mang máy truyền tin, mục đích là theo tù binh Lê Thị Tý chỉ chỗ giấu kho súng.
    Trong không khí khô khốc và cơn gió bụi mù từ phía Bắc thổi tới, cả toán tiến vào ấp Tịnh Phong, xã An Tịnh, quận Trảng Bàng, tỉnh Hậu Nghĩa. Khi tới gần bìa ngoài của ấp, gặp ông già trạc ngoài 60 tuổi râu tóc bạc phơ, mặc bộ đồ bà ba trắng đã ngả sang màu cháo lòng, tay xách giỏ và cần câu cá đi ngược lại toán hành quân. Chuẩn Úy Vinh lên tiếng chào, hỏi thăm ông cụ đi đâu sớm vậy, đã câu được con cá nào chưa? Bằng giọng miền Nam, ông già trả lời hằng ngày ông thường ra cái đìa phía trước kiếm vài con cá ăn cơm, mới sáng ra đây nên chưa câu được con nào cả. Sau khi chào hỏi và chúc ông già câu cá gặp hên, cả toán tiếp tục đi sâu vào ấp. Khi tới gần căn nhà lá sát bìa ấp, Chuẩn Úy Vinh chợt thấy một bà già đang đứng ngoài sân bỗng chạy vụt vào trong nhà. Khi hỏi bà già có chứa việt cộng trong nhà hay sao mà thấy lính đi ngang lại bỏ chạy, bà già cho biết chạy vô nhà vì sợ nồi cơm đang nấu bị khét, Chuẩn Úy Vinh kêu lính chạy vô nhà coi, nhưng không thấy có nồi cơm nào đang nấu.
    Ông Vinh kể:
    - Biết rõ dân An Tịnh này quá rồi, tôi kêu lính bịt mắt và trói bà già lại, dặn nhỏ khi nào nghe kêu bắn thì lên đạn chĩa súng lên trời bắn liền để uy hiếp tinh thần. Sau khi hỏi lại bà già lần nữa, vừa xong câu hỏi, từng tràng AR 15 nổ liên thanh, bà già trong cơn hốt hoảng la sảng lên, cho biết ông già vừa đi ra câu cá chính là việt cộng vô ở trong nhà bà hơn 2 năm nay. Bà còn chỉ chỗ ông già giấu súng trong khạp gạo, và chỉ hầm bí mật đào dưới gầm giường. Lính chui xuống hầm lôi ra chiếc ba lô, bên trong có một số tài liệu, giấy sinh hoạt đảng ghi rõ "Đồng chí Ba Mai, cấp bậc Tiểu Đoàn bậc Trưởng (đại úy), chức vụ Cụm Trưởng Cụm X.10." Trong ba lô còn có 200 ngàn đồng tiền VNCH và một số báo cáo hậu cần của X.10; danh sách gồm quân số mật, quân số hợp pháp và quân số vắng mặt. Tôi bảo lính kêu máy ngay cho Trung Đội 2 và 3 nếu gặp ông già hồi sáng thì bắt ngay lập tức, không cho trốn thoát.
    Sau khi trở ra chỗ ông già ngồi câu cá với đầy đủ chứng cớ, biết không thể che giấu, ông ta khai tên thật là Mai Văn Sổ, quê quán Tân Uyên, Biên Hòa, bí danh Ba Mai, hiện là cụm trưởng Cụm X.10 tình báo của R.
    Khai thác ngay tại chỗ, được ông già chỉ điểm trên bản đồ từng căn nhà trong ấp Tịnh Phong và xã An Tịnh, tất cả các cơ sở hợp pháp và bất hợp pháp, những hầm bí mật của Cụm X.10, ông còn khai cả những tổ tình báo cài cắm sâu trong vùng Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định. Ba Mai tích cực chỉ trên bản đồ từng căn nhà, từng bụi rậm có cơ sở của cụm ở An Tịnh và một số cơ sở giao liên hợp pháp trong nội thành Sài Gòn.
    Khiến thứ trưởng ngoại giao cộng sản Hà Nội thân bại danh liệt. Ông Vinh cho biết:
    - Ngay lập tức, tôi gọi máy báo cáo về Phòng 2 Quân Đoàn về việc bắt giữ tù binh Mai Văn Sổ bí danh Ba Mai và cũng xin lệnh giao mục tiêu hầm súng do tù binh Lê Thị Tý khai báo (sẽ bàn giao cho Chi Khu Trảng Bàng). Còn nhiều công tác cần phải thực hiện ngay lập tức như triệt hạ những hạ tầng cơ sở của địch ở vùng Trảng Bàng, tiếp tục hành quân tiêu diệt những hạ tầng cơ sở địch ở xã An Tịnh do Ba Mai khai báo. Một lát sau tôi nhận được lệnh chuẩn bị để trực thăng đến bốc cả toán về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, vì Trung Tướng Tư Lệnh Đỗ Cao Trí muốn trực tiếp hỏi tù binh Mai Văn Sổ một số vấn đề. Ngay sau đó, một cuộc hành quân phối hợp với Cảnh Sát Đặc Biệt, tấn công vào các mục tiêu tình báo hoạt động nội thành Sài Gòn do Ba Mai khai báo, kết quả bắt gọn ngay trong đêm 4 mạng lưới của bọn khủng bố cộng phỉ tại các quận 2, 3, 5, và quận 11, Sài Gòn. Cũng ngay trong bữa cơm tối hôm đó, một chi tiết hết sức quan trọng được tiết lộ. Ngay trong đêm, trên các làn sóng phát thanh và đài truyền hình khắp miền Nam đồng loạt loan tin “Ông Mai Văn Sổ sinh năm ... Tiểu Đoàn Trưởng, cụm trưởng Cụm X.10 Tình Báo, là anh em song sanh với ông Mai Văn Bộ, trung ương ủy viên của đảng lao động Việt Nam ở Hà Nội, kiêm thứ trưởng ngoại giao của Hà Nội, kiêm đại sứ Việt Nam dân chủ cộng hòa ở Paris. Ông Sổ đã ra hồi chánh với Chính Phủ VNCH vào lúc 7 giờ 30 sáng ngày N Tháng Bảy, 1969, tại cơ sở địa phương ở An Tịnh, quận Trảng Bàng, tỉnh Hậu Nghĩa. Ông đã khai báo với Quân Đội VNCH để triệt hạ các hạ tầng cơ sở ở An Tịnh, đồng thời triệt hạ 4 lưới tình báo của bọn cộng sản trong nội thành Sài Gòn.
    Chỉ 1 giờ sau đó, đúng như dự kiến, tất cả các phương tiện phát thanh của Hà Nội và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam đều leo lẻo lên tiếng phủ nhận ông Mai Văn Bộ, trung ương ủy viên của “cái-gọi-là” đảng lao động Việt Nam (đảng cộng sản Hà Nội trá hình) không có một người em song sinh nào tên Mai Văn Sổ, bí danh Ba Mai cả. Từ đó Mai Văn Bộ cũng bị triệu hồi về Hà Nội và biến mất khỏi các chức vụ đang nắm giữ trong suốt thời gian dài.
    Sau đó Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo VNCH bố trí cho ông Mai Văn Sổ, bí danh Ba Mai, là thành viên của Phái Đoàn Hòa Đàm Paris. Ông mặc veston, cravate, tay xách cặp ngồi chung với Phái Đoàn VNCH, và chính ông đã đứng lên tố giác trước quốc tế về những lời dối trá của bọn cộng sản Hà Nội, giành chính nghĩa về cho VNCH trong những buổi họp tại Hòa Đàm Paris.
    Ông Vinh cho biết:
    - Sau 1975, ông Mai Văn Sổ cũng bị giam trong các trại tù khổ sai của cộng sản, ông sống rất cương liệt và lên tiếng phản đối nhiều vấn đề mà cai tù cũng không dám động đến ông. Riêng anh của ông Sổ, Mai Văn Bộ, bị giam lỏng tại Hà Nội, mất hết chức vụ đảng và chính quyền, bị theo dõi mãi sau 1975 mới được thả.
    Bị thương giải ngũ, vào làm tại Tòa Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Tây Ninh:
    Tháng Sáu, 1972, tại chiến trường Tây Ninh, ông Vinh bị thương ở quận Khiêm Hanh, giải ngũ 1973, cấp bậc cuối cùng là Trung Úy. Sau đó, ông vào làm cho Tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Tây Ninh. Mỗi Quân Đoàn có một Tòa Tổng Lãnh Sự và mỗi tỉnh đều có Lãnh Sự Quán với 5 cố vấn Mỹ, nhiệm vụ chủ yếu là gài người của VNCH vào các bộ tư lệnh miền của bọn cộng sản.

    Văn Lan



Con Quỉ Cái


Tù cải tạo về năm 1981, đáng lẽ phải về quê ở miền Trung như giấy ra trại chỉ định, nhưng tôi ở lì tại Sài Gòn, coi như dân lậu. Tù ra trại mà về miền Trung còn khổ hơn ở tù (thật) nữa. Bấy giờ ở miền Trung, Tỉnh, Thành phố, Quận, Huyện, Phường Xã nào cũng có những Hợp Tác Xã Mây Tre Lá Xuất Khẩu dành sẵn cho ngụy quân, ngụy quyền và gia đình tham gia sản xuất xây dựng xã hội chủ nghĩa. Tù cải tạo về là được ưu ái trở thành xã viên ngay. Xã viên tù được đưa lên núi, bứt tranh, bứt đót (làm chổi đót) về làm hàng xuất khẩu. Chính quyền chở tù lên gần núi, bỏ đấy, độ vài tuần sau lên chở về. Tù phải tự túc lương thực, thuốc men, mùng mền chiếu chăn... vào rừng, lên núi, tự kiếm lấy chỗ mà ăn ở, chính quyền không biết đến, miễn sao đến ngày xe lên chở mây, tranh, đót về mà không đủ tiêu chuẩn (số lượng, chất lượng) qui định thì phải ở lại, tiếp tục bứt tranh đót còn thiếu cộng với tiêu chuẩn của kỳ kế tiếp. Chuyện thu nhập, xã viên không được thắc mắc, và ban chủ nhiệm hợp tác xã cũng không quan tâm. Họ cứ trả lời là hàng đưa đi rồi phải chờ "trên" bán được cho nước ngoài mới có tiền !
Ở Sài Gòn, tôi làm đủ thứ nghề. Từ bồi bàn, bán vé số, sửa xe đến đạp xích lô. Khi chuyện tôi đang kể đây xảy ra lúc tôi bán bánh mì thịt nguội tại góc đường Hiền Vương, Duy Tân, đối diện với tiệm phở Hương Bình. Lề đường, chỗ tôi đăt xe là nơi tụ họp của mấy tay tứ chiếng giang hồ của xóm kinh tế mới Xóm Củi. Đây là những người từ kinh tế mới kéo về. Trước năm 75, họ là dân Sài Gòn, khi miền Nam sụp tiệm, họ được chính quyền việt cộng đưa đi kinh tế mới. Làm ăn trên kinh tế mới thất bại, họ kéo về Sài Gòn, ngủ bờ, ngủ bụi vì nhà cửa đã bán mất rồi. Họ thất bại ở kinh tế mới vì nhiều lý do, mà lý do chính là khi miếng đất được cấp phát để khai khẩn đã thục (trồng trọt được) thì nhà nước đuổi họ đi nơi khác, lấy đất làm nông trường hoặc cho đồng bào ngoài Bắc vào chiếm chỗ. Đúng ra nhà nước có cấp đất mới khác, (cũng hoang vu như trước đây, để khai khẩn tiếp) nhưng ai cũng ngán đến tận cổ rồi, họ bỏ về Sài Gòn. Gần mấy trăm nghìn người nằm đầy lề đường.
Nhóm "Kinh tế mới" chỗ tôi bán bánh mì được may mắn, ở trong một cao ốc (Building) cao gần chục tầng, nằm trong hẽm Trần Tấn Phát, là con đường nhỏ, song song với đường Hai Bà Trưng, thông từ đường Phan Thanh Giản qua đường Hiền Vương. Đây là cao ốc của một tay tư bản xây cho người Đại Hàn, Phi Luật Tân mướn. Sau 75, chủ bỏ chạy ra nước ngoài, cao ốc bỏ trống, vì thế dân kinh tế mới kéo vào ở. Sau nầy nhà nước Cộng sản muốn lấy lại, sửa chữa để làm Khách sạn, nhưng dân kinh tế mới không chịu dọn ra. Nhà nước mới nghĩ ra một cách là, ai chịu đi kinh tế mới lần nữa, hoặc chịu đi Nông trường thì sẽ được cấp một số tiền. Tiền đây là của một chú ba Tàu Đài Loan chi ra, chú thuê cao ốc nầy, sửa lại để làm khách sạn. Ai muốn tiền thì ký tên, lấy tiền, lên xe và sẽ được đưa lên Nông trường. Hôm đó, ai cũng nhận tiền và lên xe. Già, trẻ, lớn, bé chất đầy cả chục chiếc xe tải, chạy một hàng dài. Khi đoàn xe ra Quốc lộ thì đồng bào xin ngừng xe để đi tiểu. Mọi người xuống bờ ruộng tiêu tiểu. Họ ngồi trắng đồng. Bỗng nhiên có tiếng hô "Chạy bây!" Vậy là bọn thanh niên khỏe mạnh hò nhau chạy vào xóm, chỉ còn lại mấy ông bà già và bọn con nít (Chưa biết chạy). Công an đi theo cũng đành chịu. Thành thử bọn khỏe mạnh thì về lại Sài Gòn, người già với trẻ con thì lên Nông trường. Dĩ nhiên Nông trường đâu có chịu nhận những của nợ đó. Xe phải chở họ về lại Sài Gòn, nhưng cái cao ốc đã được rào kín, có công an đứng gác, không ai được héo lánh đến. Thế là họ ngủ lề đường.
Chỗ tôi đặt xe bánh mì là nơi các cậu kinh tế mới làm chỗ nhậu nhẹt. Ở Sài Gòn, dân vô sản chỉ cần có rượu là "chủ yếu" còn món đưa cay, nếu kẹt lắm, thì chén nước mắm ớt đường với cục sỏi bỏ trong đó là thành đồ nhậu, ai "lỳ một lam" (làm một ly) xong, bốc cục sỏi, mút cái chụt cho hết nước mắm ớt dính trên cục sỏi, xong bỏ vô lại trong chén cho người khác mút tiếp. Đôi khi họ cũng mua được một thau xí quách gà của tiệm phở Hương Bình, (chỉ còn xương đúng nghĩa, sạch bóc như những nan quạt), đem về mút cũng phong lưu lắm rồi. Còn xương bò, heo, món xí quách cao cấp thì họ đâu đủ tư cách mà mong.
Buổi tối, khoảng 8, 9 giờ, họ bắt đầu chương trình. Tờ báo trải ra, chai đế đặt ở giữa với cái ly nhỏ, một chút gì đó gọi là để đưa cay, một ca bự nước đá lạnh để "chữa lửa", thế là đủ cho cả chục người ngồi quanh khề khà với nhau. Nhậu hết họ sai thằng nhỏ nào lảng vảng quanh đó đi vô xóm mua rượu uống tiếp, đến gần sáng, khoảng một hai giờ, ai không có việc thì về nhà, "có việc" thì đi làm phận sự. Phận sự của mấy tay nầy là đào tường, khoét vách. Đó là nói theo "sách vở" chứ ở Sài Gòn, nhà xây, lấy gì mà đào, mà khoét. Thế nên việc của họ là bẻ khóa, trèo tường, nạy cửa.. gì họ cũng lấy. Ban ngày họ đi lang thang trong các đường hẻm, chọn đối tượng và bắt đầu theo dõi sinh hoạt những người trong nhà. Thói quen ra sao, tài sản trong đó như thế nào, xâm nhập bằng cách nào ? Nói tóm lại là điều nghiên kiểu "tứ khoái, nhất mạn" (Làm gì cũng phải nhanh, chỉ dòm ngó nhà người ta là chậm). Khuya đến, họ ra tay. Họ thường đi với nhau vài ba người. Có khi thành công, có khi chẳng được gì. Nhiều lúc vào được trong nhà thì chủ nhà thức dậy. Thế là có một màn năn nỉ xin tha. Đại khái là: "Xin các anh thông cảm, nhà tôi chẳng có gì đáng giá để các anh lấy đi. Xin quí anh đến nhà khác". Đó là những người khôn ngoan. Chớ dại mà la lối: "Tao biết mặt tụi bây rồi. Tao đi báo công an còng đầu tụi bây". Báo công an thì công an ghi nhận để theo dõi, sẽ xử lý chứ công an cũng lo kiếm ăn, hơi sức đâu mà đi tìm bắt. Còn mấy tay đầu trộm đuôi cướp nầy chỉ lặn kỹ ít lâu, sau đó lại xuất hiện và đến nhà người đi tố cáo đó hăm dọa vài câu là chủ nhà mất ăn, mất ngủ. Con cái đi học, vợ đi làm, mình đi làm. Chẳng biết khi nào nó lụi cho một phát mà đề phòng, mà báo công an?
Chuyện nhậu nhẹt của mấy tay anh chị nầy đã làm khổ mọi người không ít. Rượu vào lời ra, cứ thế họ nói cười, cãi cọ, chửi lộn, đánh lộn rồi còn ca vọng cổ, ca Tân nhạc suốt đêm. Họ dùng cái thau nhôm đựng đồ nhậu gõ nhịp và đồng ca. Người trước, người sau, ai cũng cố sao cho tiếng hát của mình át tiếng người khác, thế là cứ ông ổng, lè nhè đến 2, 3 giờ sáng. Cả khu phố ồn ào còn hơn cái loa phóng thanh của ban văn hóa thông tin phường. Các nhà trên quãng đường Hiền Vương, Duy Tân quanh đó phải thao thức mà cầu nguyện các đấng linh thiêng "phù hộ" cho họ nhậu nhanh mà tan hàng cho sớm. Người chủ nhà có lề đường họ ngồi nhậu đau khổ hết sức mà không dám nói một tiếng. Bà ta cho tôi để xe bánh mì buổi tối là để choán chỗ, hy vọng họ sẽ đi chỗ khác mà nhậu. Vậy mà họ vẫn đến, vì lúc tôi đẩy xe bánh mì về, khoảng 9 giờ tối là lúc họ mới bắt đầu chương trình. Bà chủ nhà nghĩ cách khác. Khi tôi đẩy xe bánh mì đi thì bà ta đem nước ra tạt ướt mem lề đường. Nhưng khổ nỗi Sài Gòn là xứ nóng, tạt nước độ mươi phút nước bốc hơi đi hết, lề đường thêm sạch mà lại mát mẻ, ngồi khoái cái bàn tọa, nằm ngủ lại càng sướng. Đôi khi họ ra sớm, ngồi nhậu ngay bên cạnh xe bánh mì của tôi. Thấy bộ dạng tôi, họ biết là tù cải tạo về nên rất tử tế, không làm phiền, đôi khi họ mời: "Sư phụ, làm một ly cho ấm lòng!" Tôi lịch sự từ chối, họ cũng không nài. Đó là lúc họ mới khai mạc, khi họ xỉn mà từ chối thì coi chừng, ông thần ve chai đã nhập vào thì ông trời họ cũng coi như thảo giới: "Sư phụ khi tụi nầy bụi đời nên không thèm uống với tụi nầy?" Nhiều khi thấy tôi đẩy xe về thì họ dặn: "Nhớ gửi xe bánh mì xong ra với tụi nầy, nghe sư phụ!" Vậy là tôi phải ra ngồi chầu rìa chứ biết nhậu nhẹt gì đâu. Tôi thích ngồi nghe vì ngôn ngữ của họ rất đặc biệt. Họ thường nói tiếng lóng với nhau. Tôi phải nhờ người bên cạnh giải thích ý của câu nói. Thế rồi, xuất hiện một nhân vật.
Bữa đó đang nhậu thì một tay lên tiếng: "Con Quỉ Cái đến tụi bây!" Từ xa đi lại một chị đàn bà, trên 30 tuổi. Cả bọn xum xoe chào hỏi: "Mời Chị Hai ngồi".
Thì ra tên "Con Quỉ Cái" chỉ để nói lén thôi. Cả bọn tránh ra một chỗ ngồi, một tên trải tờ báo ra, "Chị Hai" ngồi xuống. Không buồn không vui và chị ta móc túi, lôi ra mấy tờ bạc: "Qua tiệm phở coi còn xí quách không, nếu không lại đằng kia mua khúc chả lụa". Một cậu thò tay vơ bạc, đi nhanh qua bên kia đường.
- Thấy anh Hùng đến chưa?
- Chưa thấy, ảnh đến là ngồi với tụi nầy rồi.
- Mấy giờ rồi?
Tôi nhìn đồng hồ: 
- Gần 10 giờ. 
Chị ta nhìn tôi:
- Ông Bánh Mì cũng nhậu à?
- Tôi ngồi làm con quạ.
Cả bọn cười ồ. Trước đó tôi có kể một chuyện vui. Là có chị đàn bà bán rượu đi qua một khu rừng, mệt quá, nằm ngủ bên đường. Ngày xưa, đàn bà mặc váy, khi ngủ váy bị tốc lên. Mấy con quạ nhào xuống mổ "cái đó". Chị bán rượu bực mình bèn mở hũ rượu ra bảo lũ quạ "Uống đi, để yên cho ta ngủ." Vậy mà lũ quạ vẫn cứ nhè chỗ đó mà thò mỏ gắp nữa. Bực mình chị chửi "Tiên sư chúng mầy. Rượu không uống mà cứ nhè thịt gắp mãi!" Ý câu chuyện là mỉa mai mấy tên phá mồi là con quạ, rượu không uống mà cắm đầu ăn.
Tôi liếc trộm chị đàn bà, chị ta không cười. Dung nhan chị ta cũng không tệ lắm. Người có vẻ ốm yếu, khuôn mặt chị hơi thô, có góc cạnh như của đàn ông. Tóc tỉa ngắn đến mang tai, nước da trắng, cằm hơi bạnh, đặc biệt đôi mắt xếch, long lanh, ánh mắt lạnh lẽo, tàn nhẫn, khiến người khác e ngại. Khi chị ta liếc nhìn, tuy buổi tối, không thấy rõ, nhưng đôi mắt đó trông rờn rợn như phát ra ánh sáng của một lưỡi kiếm đang phạt ngang. Phải nói đây là cặp mắt có cô hồn, là mắt của người đã từng giết người. Tôi nghĩ vậy, nhưng dáng dấp đó thì làm sao mà giết được ai?! Trừ đôi mắt, chị ta chỉ là một người đàn bà tầm thường, chỉ xứng để nép vào cánh tay che chở của người chồng. Nhưng lối xum xoe của những tay đầu trộm đuôi cướp đối với chị khiến tôi cứ thắc mắc mãi, đoán chừng chị ta phải có một uy quyền khác thường nào đó khiến cho mấy tay giang hồ tứ chiếng nầy nể mặt.
Qua nhiều lần ngồi chầu rìa với mấy tay bợm nhậu, những lúc không có chị ta, tôi làm như vô tình, hỏi vài câu về con người kỳ lạ đó. Đại khái, họ bảo cách tốt nhất là đừng chọc cho chị ta giận, chị ta mà buột miệng rủa một câu thì hậu quả sẽ đúng y lời chị ta. Sở dĩ người ta biết được điều đó là vì một lần chị chỉ mặt một tên dân phòng và nói: "Mầy dám đụng đến anh Hùng thì bỏ mẹ mầy nghe mầy". Số là chị ta cặp bồ với một tay tù cải tạo về, anh ta tên Hùng. Tay nầy đạp xích lô, buổi tối thường tấp xe trước cây xăng, ngay ngã ba Hiền Vương-Duy Tân để chờ người đẹp. Khi chị ta đến thì anh ta chở chị đi ăn nhậu với nhau. Một lần thấy chiếc xích lô tối nào cũng đậu ở một chỗ vào một lúc nhất định, công an khu vực Tư Được đến hỏi và đuổi đi, nhưng lần sau anh ta vẫn đến, có khi nằm ngủ luôn trên xe nên Tư Được mới dẫn dân phòng đến định bắt anh ta về Phường. Dân phòng là những cậu trai trẻ trong Phường, bị trưng dụng phụ giúp cho công an trong các vụ bắt bớ, tịch thu hàng hóa người buôn bán, chiếm lòng lề đường, buổi tối thì canh gác, theo công an tuần rỏn.
Khi Tư Được, công an khu vực, dẫn dân phòng đến định áp tải chàng đạp xích lô về công an Phường thì vừa lúc Chị Hai đến: "Làm gì dữ vậy? Không cho người ta đậu xe thì để người ta đi. Anh nầy chờ ở đây để chở tôi đi công chuyện. Đi anh!" Chị ta leo lên xích lô thì một tên dân phòng, dựa hơi công an làm tàng: "Phải bắt anh nầy về đồn công an". Tư Được, công an khu vực không nói gì nhưng tên dân phòng lại nắm tay Hùng xích lô lôi đi. Chị Hai hất tay tên dân phòng ra: "Chết mẹ mầy nghe mầy! Buông ra!" Người ta xúm lại xem. Tư Được bỏ đi, tên dân phòng bị quê, nói vài câu hăm dọa vớt vát, nhưng hắn không ngờ câu rủa đó, khoảng mấy ngày sau trở thành "hiện thực". Mẹ tên dân phòng lăn ra chết. Người ta gắn câu rủa của Chị Hai với cái chết của mẹ tên dân phòng. Thực ra bà ta bị bịnh nặng đã mấy tháng nay rồi, nằm bịnh viện, bác sĩ chạy, khuyên đem về nhà chuẩn bị tang ma. Nhưng tin đồn cứ thế lan ra với biết bao tưởng tượng, thêm thắc khác. Nào là người nầy bị chị ta rủa mà bị xe tung, người kia bị mất xe gắn máy.
Chuyện đụng độ giữa tên dân phòng với Con Quỉ Cái thì tôi có thấy, vì xe bánh mì của tôi cách chỗ họ cãi cọ khoảng 5-3 thước,nhưng phần sau,tức là phần mẹ tên dân phòng chết thì tôi không biết, sau đó mới nghe kể lại. Từ đó, không ai dám chọc giận chị đàn bà, sợ chị ta vô tình rủa cho một câu thì bỏ mẹ. Người ta gọi lén chị là Con Quỉ Cái.
Thế rồi Tư Được, tay công an khu vực bị dính chấu. Tư Được là Trung úy công an, từ Bộ đội chuyển ngành. Anh ta hơi nặng tai nên nói chuyện với anh ta phải lớn tiếng. Anh ta bảo, thời trong Bộ đội, phụ trách bắn B40 nên bị ù tai. Anh ta rất "đàng hoàng", tuy đôi khi cũng ra oai cho đúng cương vị của mình, chứ chẳng làm khó dễ ai. Thời đó, làm công an khu vực, ai cũng sắm xe gắn máy, riêng anh ta chỉ có chiếc xe đạp cũ, chứng tỏ anh ta là người có lương tâm. Tôi vẫn còn nhớ ơn Tư Được đã không đuổi xe bánh mì của tôi. Tôi ở quận 10, đến quận 3 hành nghề mà không nhờ người quen xin phép, tối thiểu là công an khu vực, đã là việc "Coi thường chính quyền địa phương" rồi, lại còn chiếm lòng lề đường để buôn bán thì chuyện bị hốt xe bánh mì về Phường chỉ là thời gian. Vậy là thời gian đầu, Tư Được dẫn xe đạp đến, vẻ mặt nghiêm nghị bảo: "Dẹp vô! Ai cho ông bán ở đây?" Tôi ú ớ, chẳng biết trả lời sao!? Tôi nghĩ đến cách mà người khác thường làm, là phải có gì đó cho anh ta mới mong yên thân. Tôi bèn nhờ một người quen chuyển đến Tư Được một số tiền. Tư Được không nhận. Nhưng kể từ hôm đó, Tư Được không đuổi xe bánh mì của tôi nữa. Mỗi khi tuần rỏn, anh ta dẫn xe đạp ngang qua trước xe bánh mì của tôi nhưng làm như không thấy tôi. Tư Được người Nam. Có lẽ thời ở trong bưng, anh ta bị sốt rét "ăn" qua lục phủ ngũ tạng nên mặt anh ta xám đen, sần sùi kiểu người bị bịnh gan. Tôi không chứng kiến cảnh đụng độ giữa Tư Được với Con Quỉ Cái, chỉ nghe kể rằng Tư Được dẫn dân phòng bắt Hùng xích lô, Con Quỉ Cái lúc đầu năn nỉ, sau lớn tiếng cự cãi với Tư Được mà Hùng xích lô vẫn bị dân phòng bắt lên công an Phường. Đối với "Ngụy quân, ngụy quyền" thì nhà nước cộng sản, bất cứ cấp nào, xã hay Phường, ấp, đều có quyền sinh sát vô tội vạ. Đến cơ quan nhà nước mà thấy người gác cổng (bảo vệ) quát nạt người nào trước cổng là biết người bị quát nạt là tù cải tạo về, đến xin giấy tờ gì đấy. Thời đó, vợ bỏ chồng, anh em xa nhau, bạn bè, xóm giềng tránh mặt bọn tù cải tạo về là chuyện bình thường. Thế nên chuyện Hùng xích lô bị bắt chẳng ai thắc mắc, chỉ có Con Quỉ Cái là lồng lộn lên, vì đó là người yêu của chị ta. Năn nỉ, rồi lớn tiếng lý sự cũng không hiệu quả, cuối cùng, chị ta nhẹ nhàng với Tư Được một câu: 
- Anh Hùng mà không được thả ra thì khó sống đó nghe!
Tư Được rút súng ra: 
- Mầy hăm dọa tao phải không?
- Tôi đâu có súng mà hăm dọa. Tôi nói tôi không gặp anh Hùng thì tôi không sống nổi. Vậy mà chỉ sáng hôm sau, nghe nói Tư Được phải lên công an Quận nhận Hùng xích lô về và trả lại chiếc xích lô. Có người phịa chuyện là tối đó, trong giấc ngủ, Tư Được bị ác mộng sao đó nên phải lo mà thả Hùng xích lô ra. Tôi nghĩ, có lẽ Tư Được nhân đạo thì đúng hơn. Đạp đổ nồi cơm của người khác, anh ta không muốn.
Mấy hôm sau vụ rắc rối, một buổi tối, hai anh chị, Hùng xích lô và Chị Hai (Con Qủi Cái) đích thân đến chỗ xe bánh mì của tôi, mời tôi đi nhậu. Tôi thối thác:
- Tôi xin cám ơn lòng tốt của anh chị, nhưng tôi không biết nhậu.
Hùng xích lô khẩn khoản:
- Tôi chỉ có anh là tù cải tạo với nhau, mời anh đến chung vui với hai đứa tôi.
- Nhưng nhậu ở đâu?
- Gần đây thôi. Khi anh bán xong, dọn dẹp xe bánh mì là tụi nầy sẽ đưa anh đi.
Tối đó, sau khi bán xong, gửi xe bánh mì, tôi đạp xe theo chiếc xích lô, có Con Quỉ Cái ngồi trên đó. Tưởng đến hàng quán nào đó, không ngờ lại vào một biệt thự đang xây dở dang:
- Nhà ai mà vô đây?
- Anh yên trí lớn. Đây là nhà cán bộ thứ dữ, chẳng ai dám động đến. Nhà thầu cho bọn nhân công ngủ lại để canh chừng vật liệu. Tối nào cũng nhậu lai rai. Vì anh không chịu đi với tụi nầy, chứ tụi nầy thường kéo nhau về đây.
Ngôi biệt thự gần như đã hoàn tất, chỉ còn vách chưa quét vôi, vật liệu còn ngổn ngang. Chúng tôi lên tận lầu ba thì thấy đầy đủ mấy tay "Nhậu thường trực" ngồi ngoài hè phố, chỗ tôi hành nghề bánh mì thịt nguội. Đặc biệt, trong nhóm người ngồi quanh đó có một chị đàn bà, tuổi khoảng 40. Chị nầy thì tôi có thấy mấy lần đến nhậu với đám đệ tử lưu linh. Lúc nào chị ta cũng tỏ vẻ rất thèm rượu, nhưng chỉ vài ly là đã ngật ngừ say, lúc đó họ đuổi chị ta về nhà ngủ, vì nếu nhậu tiếp, chị ta sẽ nằm lăn ra đó ngủ luôn đến sáng.
Thấy Chị Hai và Hùng xích lô đến,cả bọn đứng lên đón mừng và mời ngồi vào chỗ được xem là long trọng đối với họ. Riêng tôi, họ bắt ngồi bên chị đàn bà mê uống rượu đó. Đúng là bữa tiệc thịnh soạn, có đủ heo quay, vịt quay, phá lấu... đặt trên một tấm ny lông, có chén đũa tử tế. Rượu thì để sẵn mấy chai. Cả bọn có vẻ nghiêm trang chứ không lốc chốc như thường thấy. Hùng xích lô có mấy lời: "Đáng lẽ chúng ta đến nhà hàng, nhưng không được tự do ăn nói. Bữa nay tôi mời quí anh chị đến là để chung vui với chúng tôi, trên ý nghĩa là tôi được công an thả ra,nhưng chính là để nói lời tạm biệt với các bạn. Lý do thì hai đứa tôi không thể nói rõ hơn. Bây giờ mời quí bạn tự nhiên."
Cả bọn, nãy giờ cứ nhìn các món "Nem công, Chả phượng" đó mà nuốt nước miếng, chỉ chờ câu nói vừa dứt là cầm đũa, nâng ly. Có lẽ từ ngày "giải phóng" đến nay, họ chưa hề thấy miếng thịt quay, con vịt quay nên tối đó, họ gắp thật tình, vồn vã như lâu ngày gặp lại bạn tri âm. Cả tôi nữa, gần cả chục năm tôi mới được thưởng thức lại miếng thịt quay, phá lấu. Tôi không biết uống rượu, nhưng hôm đó cũng vui vẻ nuốt đại thứ nước thơm nồng nàn nhưng cay xé họng. 1 cái ly nhỏ dùng để rót rượu, mỗi người 1 ly đầy, uống xong rót đầy, đưa qua người bên cạnh, cứ thế xoay vòng.Tôi nhấm một chút thôi, còn lại trong ly, tôi đưa cho chị đàn bà ngồi bên cạnh cứu bồ.Rượu đi từ cổ họng xuống bao tử, đến đâu tôi biết biết đến đó. Chị đàn bà ngồi bên tôi được mọi người lưu ý là không được uống nhiều, phải ăn cho no trước đã. Chị ta không hề nói tiếng nào, không cười, không nhìn ai, chỉ chăm chú ăn và nhìn chừng cái ly rượu để chờ đến lượt mình.
Rượu vào lời ra nhưng không ồn ào náo nhiệt như mấy bữa nhậu ngoài đường. Tôi đã thấm rượu, thấy ngầy ngật khó chịu định đứng lên thì một tay, có vẻ như đại ca đến lôi tôi ra ngoài hành lang: 
- Tôi thấy sư phụ đỏ mặt là biết sư phụ sần sần trong người rồi. Bữa nay tụi tui để sư phụ được ưu tiên một, nghĩa là sư phụ chơi trước bọn nầy sẽ tiếp theo.
Tôi ngạc nhiên:
- Còn mục gì nữa đây? Tôi chơi môn gì mà được ưu tiên như vậy?
- Sư phụ vờ hay không biết thật?
- Tôi không biết thực mà! Mục gì coi bộ hấp dẫn dữ vậy?
Anh ta nói tỉnh bơ:
- Con nhỏ ngồi bên sư phụ chịu chơi hết mình. Hễ nó nhậu vô, say rồi thì nằm đó, đứa nào muốn chơi cứ chơi. Tụi tôi thường dẫn nó lên đây nhậu rồi thay phiên nhau chơi. Bây giờ nó xỉn rồi,là lúc nó khoái mục đó lắm. Sư phụ chỉ cần nắm tay nó đưa vô phòng bên cạnh là nó sẽ ôm sư phụ cứng ngắt, không "làm" không được với nó đâu. Nó chửi cho.
Tôi tìm cách thoái thác:
- Trước đây tôi cũng lính tráng, cũng chơi bời dữ lắm, nhưng khi đi tù về, tôi bị "liệt" rồi, chẳng làm ăn gì được. Nếu tôi dẫn cô ta vô phòng mà không làm gì cả thì chỉ làm trò cười cho các anh và cô ta thôi.
- Hay là sư phụ vô phòng trước, tôi đưa nó vô sau. Trong phòng có chiếu gối sạch sẽ lắm. Đóng cửa lại là sư phụ yên tâm.
Anh ta nói cách gì tôi cũng lắc đầu. Khi vào lại chỗ ngồi, mọi người hình như đã biết chương trình được vạch sẵn như thế nên họ nhìn tôi cười cười, coi tôi như nhân vật chính quyền sắp cắt băng khánh thành một cơ sở quan trọng, nhưng anh chàng kia nói "Sư phụ không chịu". Bấy giờ chị đàn bà mới nhìn tôi ngạc nhiên, rồi chị ta làm như say, tựa người vào tôi. Nhưng tôi đứng lên nói lời từ biệt và cám ơn các bạn đã có hảo ý mời tôi nhậu còn cho tôi cái hân hạnh đặc biệt đó, nhưng tôi phải về vì tôi không muốn làm phiền chủ nhà thức khuya để chờ cửa. Hùng xích lô cũng đứng lên để tiễn tôi xuống lầu. Khi bắt tay từ giã, tôi hỏi:
- Lúc nãy anh nói tạm biệt, vậy anh đi đâu?
- Chưa biết đi đâu, nhưng hai đứa tôi nhất thiết phải trốn khỏi vùng nầy. Anh coi. Ít bữa nữa công an sẽ túa ra tìm hai đứa tôi.
- Hai ông bà có làm gì đâu mà họ phải tìm kiếm?
- Tôi nói nhưng anh đừng cho ai biết. Con bồ tôi đã rủa là Tư Được khó sống, vậy là chỉ mấy hôm nữa thôi, nhiều lắm là vài tuần, Tư Được sẽ chết.
- Bộ cô ta rủa ai là người đó lãnh đủ sao?
- Nói chuyện chơi, nó có rủa cũng không sao, nhưng khi nó giận thực, nhất là có ai làm khó dễ tôi chuyện gì thì khó thoát khỏi tay nó. Rủa lúc đó xong, khuya về, nó ra trước sân, kêu tên kẻ thù rồi đọc thần chú lâm râm, thấy khiếp lắm!
- Anh mà dính với chị ta thì chắc chắn anh không dám mèo mả gà đồng rồi.
- Nó tốt với tôi lắm. Tôi không nỡ phản bội nó đâu.
Quả nhiên độ 1 tuần sau, trong khi tôi đang bán bánh mì thì có 1 công an đến hỏi tôi: 
- Có thấy thằng đạp xích lô tấp bên kia đường với con bồ của nó không?
-Tôi không để ý nhưng hình như anh đạp xích lô và cô bồ anh ta không thấy xuất hiện.
- Khi nào thấy thì chạy ngay đến công an Phường báo cho chúng tôi. Anh mà không báo cáo ngay hoặc báo động cho chúng nó biết để trốn đi thì đừng trách chúng tôi. Anh bị khép tội còn nặng hơn tụi nó nữa.
- Tôi chẳng dại gì mà không đi báo cáo ngay. Xin quí anh yên trí.
Thế rồi cái đám nhậu đó thỉnh thoảng vẫn tùng tam tụ ngũ chỗ tôi bán bánh mì. Họ không hề nhắc đến Con Quỉ Cái và Hùng xích lô. Tôi sợ họ bị bắt, họ không dại gì mà xuất hiện ở vùng nầy, nhưng công an sẽ lùng sục khắp Thành thị, thôn quê, cũng có ngày họ bị dính. Mà nghèo như họ thì tiền đâu mà vượt biên!
Tết năm đó, đối với tôi cũng như ngày thường, vì tôi sống xa gia đình, một mình, trọ nhờ nhà người quen. Gia đình người nầy cũng nghèo, chẳng thấy sửa soạn tết nhất gì ngoài hộp mứt, vài cái bánh chưng để trên bàn thờ. Sáng Mồng 1, tôi đạp xe vào xóm kinh tế mới trong đường Trần Tấn Phát, vùng tôi hành nghề bánh mì thịt nguội, định gặp ai thì chào và chúc Tết vài câu cho ra vẻ mình cũng đón Xuân như thiên hạ. Nhưng dân kinh tế mới sống lề đường ở đó hình như không có lịch nên không biết Tết là gì. 
9-10 giờ sáng Mồng 1 mà họ vẫn còn ngủ trong mấy tấm ni lông, chỉ có vài người thò đầu ra khỏi mùng, ngồi ngáp vặt. Tôi gặp anh chàng đã cù rủ tôi "làm việc" với chị đàn bà tối hôm đó. Anh ta hỏi tôi: 
- Đi đâu sớm vậy, sư phụ?
- Đi chúc Tết anh đây.
- Chúc thì tôi cám ơn chứ nhà cửa đâu mà mời sư phụ vô nhà.
- Định mời anh lại đằng kia làm ly cà phê nói chuyện chơi. 
Chúng tôi ra góc đường có quán cà phê vỉa hè, gọi hai ly với vài điếu thuốc, ngồi phì phà. Tôi hỏi:
- Sao lối rày không thấy Hùng xích lô với chị bồ của anh ta?
- Họ đi rồi!
- Đi đâu? Anh có biết tin tức của họ không?
- Vượt biên.
- Không chắc đâu. Tiền, vàng đâu mà vượt biên?
- Con Quỉ Cái coi lùi xùi vậy chứ khá lắm đó. Anh nó ở bên Mỹ, gửi quà về, tiền thiếu khối chi. Hai đứa đi mấy lần mà không lọt, lần nầy đã đến đảo. Có viết thư về. Họ hỏi thăm mọi người, cả Ông Bánh Mì, là sư phụ, họ cũng gửi lời thăm. Họ cũng nhắn lời thăm Tư Được, nhưng Tư Được đâu còn mà hỏi thăm.
- Ủa, chớ Tư Được đi đâu?
- Đi đâu! Ung thư gan, vô bịnh viện mổ nhưng không chịu nổi. Chết rồi.
- Tội nghiệp, Tư Được cũng là người tốt, không thấy làm khó dễ ai.
- Nhưng thằng chả chơi dại, chọc Con Quỉ Cái, bị nó rủa cho. Con đó mà mở miệng rủa ai điều gì thì gặp ngay chóc điều đó.

Phạm Thành Châu




Cô Đầu Diễm Hương

(Diễm Hương - La Courtisane et le Mandarin)

Dựa trên chuyện thật (D'après une histoire vraie)

Thăng Long đầu thế kỷ XVIII, đất Kinh kỳ đang ở vào thời giao thoa rực rỡ giữa văn minh Đông phương và sự trỗi dậy của tầng lớp nho sĩ khoa cử. Làng Dịch Vọng nằm phía Tây kinh thành, nổi tiếng không chỉ với truyền thống học hành mà còn là nơi tổ chức các hội làng lớn mỗi mùa xuân về. Đây là vùng đất giao hòa giữa nếp sống nho phong và dòng chảy nghệ thuật truyền thống – nơi ca trù và đào hát được kính trọng như một phần tinh thần cao quý. Mỗi mùa hội làng Dịch Vọng về, khắp ngả đường Kinh thành lại rộn ràng tiếng trống hội, mùi hương trầm và bóng áo tứ thân sẫm nâu lấp ló sau các dãy lều vải. Năm ấy, giữa sân đình phủ đầy nắng chiều, một đào nương xuất hiện. Cô mặc áo dài thiên thanh, mái tóc chải mượt buông nhẹ sau lưng, tay ôm chiếc đàn nguyệt cũ. Giọng hát cô cất lên như luồng gió mát giữa hè oi ả – vừa trầm buồn, vừa tha thiết, ngân dài theo nhịp phách.

Tên cô là Diễm Hương. Có người còn gọi cô là Cô Đào họ Nguyễn. Cô đẹp, nhưng không phải cái đẹp rực rỡ. Cô đẹp theo kiểu của một bức tranh thủy mặc, vừa gần vừa xa, vừa muốn với mà vừa sợ chạm. Là đào hát nổi danh, cô biết giữ khoảng cách. Không bao giờ cười quá lớn, không để ai nhìn quá lâu, không ai có thể chạm tay vào mái tóc cô – trừ tiếng đàn và thơ.

Hôm ấy, khi cô đang ngân một câu trong bản “Tỳ bà hành”, đôi mắt cô bất chợt dừng lại ở một chàng trai đứng nép sau cột đình. Cậu gầy gò, mặc áo nâu sẫm, khuôn mặt ngước lên đầy ngơ ngẩn. Đó là lần đầu tiên họ gặp nhau – ánh nhìn thoáng qua mà khắc sâu đến tận tim.

Vũ Khâm Lân, một thư sinh nghèo gốc làng Nhân Mục, đang theo đòi chữ nghĩa nơi một phường học nghèo bên phía Tây thành. Từ nhỏ, Cậu đã sống trong cảnh cha mất sớm, mẹ bán cau ngoài chợ, nuôi con bằng từng đồng xu lẻ. Mỗi sớm tinh mơ, Lân dậy học bài trong tiếng gà gáy, tối đến lại chong đèn dầu mà luyện chữ. Dù nghèo, nhưng ánh mắt cậu luôn sáng, thứ ánh sáng của người tin vào một ngày được vinh quy bái tổ, rạng danh dòng họ.

Bạn đồng học thường gọi đùa cậu là "Khâm Lân kẻ mộng sĩ", vì cậu hay đọc thơ dưới trăng, mê những áng văn Tống Đường, và đặc biệt là có thói quen chép tay các bài phú về danh kỹ, giai nhân trong sử cũ. Chính một lần theo bạn đến nghe ca trù ở phường hát Vạn Xuân, Lân lần đầu được nghe giọng hát của Diễm Hương. Từ đó, cái tên ấy bám lấy trí tưởng của cậu như một lời nguyền dịu dàng. Bạn bè cười, Lân chỉ mỉm : "Nếu có cô nâng chén trà cho ta giữa một đêm thi hỏng, e rằng lòng này cũng đủ dậy gió." Cậu từng nghe danh Diễm Hương, nhưng không ngờ rằng thực tại còn khiến tim run hơn gấp bội lời đồn. Sau buổi diễn, cậu không dám nán lại. Nhưng đêm đó, cô tìm đến nơi trọ của cậu. Không lời hẹn trước. Không lời giải thích. Chỉ có nụ cười nghiêng và một túi vải nhỏ, trong đó là mười quan tiền.

– Cô... – Khâm Lân lắp bắp, chưa kịp đứng hẳn dậy – Sao cô lại đến...?

Diễm Hương mỉm cười, đặt nhẹ túi vải lên bàn tre ọp ẹp:

– Thiếp đến vì thấy ánh mắt chàng hôm ấy. Một ánh mắt không giống kẻ chỉ đi nghe hát để vui tai. Chàng nhìn thiếp như thể muốn hỏi điều gì, mà lại không dám.

– Tôi... tôi chỉ là một học trò nghèo, đâu dám vọng tưởng...

– Không ai đánh thuế ước mơ. Chàng thiếu gì thiếp không biết. Nhưng thiếp thấy ở chàng một cái chí không mài được. Và người như thế, nếu ngã quỵ vì vài bữa cháo rau thì tiếc lắm.

– Cô... cho tôi tiền ?

– Không. – cô khẽ lắc đầu – Thiếp cho chàng cơ hội. Cứ coi như thiếp đánh cược : một ngày nào đó, nếu tên chàng đỗ bảng vàng, thiếp sẽ là người đầu tiên nâng chén chúc mừng, nhưng không phải trước đám đông, mà là ở một góc nhỏ chỉ có hai người.

Lân nghẹn lời. Trong ánh đèn dầu chập chờn, gương mặt cô hiện lên rõ hơn : không kiêu kỳ, không gợi tình, chỉ đơn thuần là một Diễm Hương chân tình.

– Thiếp đi đây. Đừng tiễn, cũng đừng nói cảm ơn. Nếu một ngày chàng thành công, hãy viết cho thiếp một bài thơ. Còn nếu thất bại... – cô nghiêng đầu suy nghĩ – ...thì hãy nhớ có một người đã tin chàng hơn chính chàng tin mình. Thiếp tin, chàng sẽ đỗ. Chàng chỉ thiếu chút lửa. Thiếp không cho chàng tiền, thiếp chỉ giúp chàng cơ hội.

Cứ thế, họ yêu nhau. Một tình yêu không phô trương. Những buổi tối, cô gửi đến một bầu rượu nếp, một bình trà hoa sói, hay một bài thơ chép tay. Cậu gửi lại một chiếc lá khô, vài câu chữ vụng. Có lần, trong cơn say nhẹ, Khâm Lân thử chạm tay vào mái tóc cô. Cô tránh đi, ánh mắt dịu dàng nhưng kiên quyết :

– Thiếp là đào hát, nhưng không phải là người bán mình. Nếu chàng thật lòng, hãy để mọi thứ chờ ngày vinh quy.

Từ đó, họ ít gặp nhau hơn để tránh sự cám dỗ. Cô vẫn gửi tiền, gửi thơ, không gửi mặt. Cậu lao vào đèn sách, thi cử, và cuối cùng — đỗ tiến sĩ khoa thi năm Bảo Thái thứ 8, năm 1727.

Khâm Lân được bổ nhiệm làm quan tri huyện ở một vùng lân cận Kinh kỳ. Dù chưa phải là chức lớn, nhưng với một người xuất thân hàn vi, đó là khởi đầu đáng tự hào. Vốn bản tính điềm đạm, cậu không bon chen trong triều, chỉ chăm lo việc giáo hóa dân làng, xét xử công bằng, nên được lòng bách tính. Những tháng đầu làm quan, Lân vẫn giữ nếp sống giản dị, hay đọc thơ vào những đêm không trăng, và nhiều lần tự hỏi : cô ấy giờ đang ở đâu, và có còn chờ không ?

Trong một lần được mời dự yến tiệc ở phủ thượng thư, Khâm Lân tình cờ gặp tiểu thư Ngọc Thoa – con gái út của vị quan lớn trong triều. Cô thông minh, đoan trang, lại có đôi mắt buồn như gợi lại một ký ức xa xôi nào đó hao hao giống Diễm Hương. Ngọc Thoa yêu thích văn chương, thường làm thơ, họa vịnh, và nhanh chóng bị cuốn hút bởi vẻ trầm tĩnh, sâu sắc của vị tân tiến sĩ. Họ trò chuyện nhiều với nhau, từ thơ phú cho đến kinh thư, rồi dần trở nên thân thiết. Những lời mời ăn, những buổi đàm đạo, rồi ánh mắt tự tin của một gia đình quyền quý khiến lòng Khâm Lân bắt đầu lung lay.

Trong một xã hội còn nặng lễ giáo, gả vào nhà quan lớn là con đường sáng lạn cho một kẻ từng sống trong bóng tối. Cậu ngập ngừng giữa tình và lý, giữa ký ức và hiện tại. Nhiều đêm, Lân cầm bút viết rồi lại xé đi, định tìm về gặp Diễm Hương nhưng lại dừng bước. Trong lòng cậu luôn có một nỗi sợ âm thầm – sợ rằng khi người ta đã là quan, thì việc dây dưa với một cô đầu sẽ bị đàm tiếu. Dù biết rõ Diễm Hương là người trong sạch, sống với nghệ thuật bằng sự tự trọng hiếm có, nhưng xã hội lại không dễ nhìn cô bằng đôi mắt ấy. Kẻ sĩ đỗ đạt mà lui tới đào hát, dẫu thanh cao đến đâu, cũng sẽ bị gán cho chữ “say mê sắc đẹp”. Lân không sợ mang tiếng cho mình, chỉ sợ cô thêm đau lòng. Và thế là, cậu chọn im lặng, một sự im lặng càng về sau càng thành phản bội.

Vài tháng sau, hôn lễ giữa Khâm Lân và tiểu thư Ngọc Thoa được tổ chức trong một phủ lớn giữa lòng Kinh thành. Đó là một lễ cưới trang trọng, có đủ văn quan võ tướng, chiêng trống, lễ nghi. Khâm Lân mặc áo đại triều, bước lên kiệu hoa, giữa hai hàng người chúc tụng. Nhưng không ai biết, trong lòng cậu là một khoảng trống không tên – niềm hân hoan của kẻ vừa thăng tiến lại pha lẫn âm vang của một tiếng hát nào đó đã từng giúp cậu giữa đêm tối.

Cậu không dám nhắc đến tên Diễm Hương. Không ai nhắc đến cô cả. Cô là quá khứ. Mà quá khứ, đôi khi chỉ cần một lần quay đầu nhìn lại cũng đủ để phá hỏng cả tương lai. Lân bước vào hôn nhân như một nghĩa vụ. Cậu tự nhủ : đây là điều phải làm. Nhưng trong góc sâu nhất của trái tim, Khâm Lân biết và nhận ra mình là kẻ phản bội.

Một ngày nọ, trong một yến tiệc lớn do triều đình tổ chức nhân dịp lễ đăng khoa, giữa dòng người ồn ã, chiêng trống vang vang, Cậu bất ngờ nghe lại một âm sắc quen thuộc : tiếng hát ca trù ngân lên giữa hội trường. Diễm Hương được mời đến biểu diễn – lần này, không còn là người con gái nâng chén trà nơi hội làng, mà là một cô đầu đứng dưới ánh đèn lớn, giữa sự tò mò và những lời xì xào nhỏ to.

Hai ánh mắt gặp lại nhau giữa bao ánh nhìn khác. Không còn ngỡ ngàng, không còn rụt rè. Chỉ là hai cái nhìn dài và lạnh, như hai người từng biết rất rõ nhau, nay gặp lại với trái tim đã khép.

Cô vẫn hát, vẫn dịu dàng và thanh khiết như xưa. Nhưng Lân biết, trong mỗi câu hát ấy, có điều gì rút lại, không còn ngân cho cậu nữa. Còn cậu, chỉ biết ngồi lặng, trong bộ áo quan triều, nhìn một người đàn bà đã từng thuộc về một đoạn đời mình, nay đứng đó, gần như xa.

Buổi tiệc trôi qua, họ không nói với nhau một lời. Nhưng cái nhìn ấy – dài, lặng và đau – theo Lân về suốt một đời.

Hai mươi năm sau, khi thời thế đã đổi thay, Diễm Hương giờ đã cơ hàn, không còn hơi sức hát ca cũng chẳng còn ai mời. Mái tóc cô bạc dần theo những mùa mưa trôi qua trước hiên nhà nhỏ ven hồ. Mẹ cô già yếu, bệnh triền miên. Cô bấu víu vào từng sợi chỉ cuối cùng của kiêu hãnh để không gục ngã. Chính vào lúc ấy, Khâm Lân tìm đến.

Cậu đã là một viên quan đứng tuổi, có quyền, có vị. Nhưng khi đứng trước căn nhà lợp ngói vỡ, nơi cô đang sống, cậu bỗng thấy mình nhỏ bé lạ lùng. Họ gặp lại nhau như hai người xa lạ. Giữa họ là một hố sâu ngăn cách. Khâm Lân âm thầm mời thầy thuốc đến thăm bệnh cho mẹ cô. Những gói thuốc được gửi đến như món quà hảo tâm của một người hàng xóm. Nhưng cô biết, đó là của Khâm Lân. Cô không tỏ thái độ, cũng không cự tuyệt.

Đến một ngày, mẹ cô mất. Hôm đưa tang, Khâm Lân lặng lẽ đi sau, không mang lễ phục quan, chỉ mặc áo lam giản dị. Sau đó vài ngày, khi cậu quay lại, cánh cửa nhà đã khóa. Hàng xóm bảo cô đi đâu không ai biết.

Không ai biết cô đi đâu. Có người bảo cô vào chùa. Có người bảo cô lên núi. Nhưng trong một tập thơ cũ, người ta tìm thấy vài câu viết bằng mực nâu đã phai :

Ta đã yêu, một lần thôi cũng đủ 
Dù người quên, ta vẫn nhớ trọn đời 
Một khúc đàn, ngân hết tuổi xuân rơi 
Giữ cho sạch điều mà người đã mất.  

Và như thế, cô biến mất, như một tiếng hát cuối cùng còn vương lại trong lòng người từng biết lắng nghe – dù chỉ một lần.
Trúc Tiên kể



CÁC LOẠI CỦ GIA VỊ

 

          Có nhiều loại thảo mộc dùng để làm gia vị. Gia vị có thể là trái như ớt; hột như hồ tiêu, thân cây bụi như sả; vỏ như quế hay củ như hành, tỏi, gừng, riềng, kiệu v.v. Trong bài viết này chúng tôi chỉ đề cập đến các loại củ dùng làm gia vị như củ hành, củ tỏi, củ gừng, củ riềng v.v. Sả cũng là một loại gia vị quan trọng nhưng chúng tôi không đề cập đến vì không liệt sả vào loại củ tuy rằng trên thực tế đôi khi người ta cũng gọi củ sả..
 

CỦ GỪNG

Zingiber officinale
Gia đình: Zingiberaceae

 

Gừng là một loại cây bụi thân mọng nước, mềm, dễ gãy; lá dài màu xanh sẫm và có mùi thơm dễ chịu. Hoa gừng rất đẹp. Các nhà thực vật học xem hoa gừng là hoàng hậu của các loại hoa. Bụi gừng cao từ 60- 100 cm. Gừng được trồng bằng củ nơi có mắt. Củ gừng có nhiều nhánh. Củ to có thể cân nặng từ 2- 3 ki- lô.

Gừng cần đất màu mỡ và có nước. Nhưng khi gừng có củ, nếu bị ngập nước, củ gừng bị thối đi.

Tên khoa học của gừng là Zingiber officinale thuộc gia đình Zingiberaceae.

Tên gọi thông thường là:

Việt

Thái

Anh

Pháp

Trung Hoa

Gừng, Khương (HV)

Khing

Ginger

Gingembre

Jiang

 

Gừng là thảo mộc miền nhiệt đới được xem là hương liệu đối với người Âu Châu. Gừng được du nhập từ Ấn Độ sang Âu Châu vào thế kỷ I sau Tây Lịch. Gừng có công dụng lớn trong cuộc sống của loài người. Gừng là gia vị và là một vị thuốc giản dị nhưng công hiệu. Người Trung Hoa, Ấn Độ và các dân tộc ở Đông Nam Á thường dùng gừng làm gia vị cho các món ăn của họ. Gừng cay, có hương thơm lại giúp ích nhiều cho sự tiêu hóa. Người ta ăn tàu hủ với nước đường nấu với gừng. Nông dân Việt Nam ăn gà kho gừng, cá trê kho gừng, cá trê nướng dầm với nước mắm gừng ăn với đọt bầu luộc. Người ta xắc gừng từng mảnh nhỏ cho vào tiết canh vịt. Người Trung Hoa ăn mắm hầm vỉ có mùi rất nồng nên lúc nào trên mắm hầm vỉ cũng phải có gừng. Người Việt Nam ăn thịt vịt với nước mắm gừng trên cơ sở tạo quân bình Âm- Dương vì thịt vịt hàn, gừng ôn nhiệt. Trong nồi phở của người Việt Nam lúc nào cũng có gừng. Người Nhật dùng gừng non bào mỏng ngâm giấm để ăn hải sản sống của món sushi với wasabi và nước tương. Gừng lúc nào cũng có mặt trong món kim chi của người Triều Tiên. Gừng được dùng làm mứt, bánh ngọt, bánh mì gừng, rượu gừng, dầu gừng, thức uống gừng, trà để tiêu đàm và trợ tiêu hóa. Nhìn chung các quốc gia trên thế giới đều dùng gừng trong cách biến chế thức ăn hay thức uống của nước họ.

Mức sản xuất gừng trên thế giới hiện nay xê dịch từ 2- 3 triệu tấn. Ấn Độ, Trung Hoa, Nepal, Indonesia là những quốc gia sản xuất nhiều gừng trên thế giới.

Người Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, Triều Tiên, Indonesia, Mã Lai v.v. đã biết dùng gừng để trị bịnh từ lâu.   

Gừng có gingerol, shogoals, zingiberene, zingiberol, curcumen có khả năng chống viêm hạch tuyến tiền liệt. Vị cay của gừng do sự hiện diện của gingerols và shogaols mà ra. Gừng dùng được khi được 04 tháng tuổi. Gừng già và cay khi được từ 08 đến 10 tháng tuổi.

Dầu cất từ gừng có zingiberene, beta- phelladrene, cineol, citral.

Gừng được dùng để trị đau bụng, sình bụng (flatulence), kinh nguyệt bất thông, rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy, phát hạn (gây đổ mồ hôi), ho, cảm, đau khớp xương, chứng ói mửa của phụ nữ mang thai, hạ cholesterol. Dầu gừng dùng để trị ung thư da. Gần đây người ta phát hiện dầu gừng có thể diệt tế bào ung thư buồng trứng.

Gừng càng già càng có nhiều xơ và càng cay nồng. Những người lớn tuổi tánh tình hay gắt gỏng được ví với gừng già hay già gừng, già quế theo câu:   

Khương quế lão thời tận.

Gừng già, gừng rụi, gừng cay,
Anh hùng càng cực càng đầy nghĩa nhân.

*
Gừng và muối nói lên tình nghĩa mặn nồng. Ca dao Việt Nam có câu:

Tay bưng dĩa muối chấm gừng.
Gừng cay, muối mặn xin đừng bỏ nhau.

 

Có một loại GỪNG ĐỎ hay GỪNG HOANG mang tên khoa học Zingiber pupureum cùng gia đình Zingiberaceae với gừng thường thấy. Loại gừng đỏ này được tìm thấy nhiều ở Đông Nam Á và có công dụng lớn ở Thái Lan. Người Anh gọi gừng đỏ là Wild ginger (Gừng hoang), Bengal ginger (Gừng Bengal); Thái Lan: Phlai và người Thượng trên Cao Nguyên Nam Trung Bộ: Zo rong. Nhiều người đồng hoá loại gừng đỏ này với nghệ nhưng điều này chỉ đúng về phần màu sắc mà thôi.

Thân bụi gừng đỏ có phenylbutenoid. Lá có sabinene, beta- pinene, caryophyllene oxide, caryophyllene. Người ta dùng thân bụi gừng đỏ để trị các chứng bịnh liên quan đến tiêu hóa, tạo sự hượt trường, trị kinh nguyệt bất thường, kiết ly, cầm máu, tiểu viêm. Ở Mã Lai thân bụi gừng đỏ được dùng để trục lãi cho trẻ em và dùng làm ấm cơ thể phụ nữ mới sinh con. Dầu gừng đỏ có tính tiêu viêm. Dầu hòa với rượu làm cho muỗi tránh xa.

Có một loại GỪNG TRẮNG có công dụng làm gia vị và cất dầu. Điểm nổi bật của gừng trắng là có hoa trắng như cánh bướm đẹp và rất thơm. Gừng trắng được tìm thấy nhiều ở Hi Mã Lạp Sơn, Nam Á, Đông Nam Á, Trung Mỹ và Nam Mỹ. Hoa gừng trắng là quốc hoa của Cuba. Họ gọi là Mariposa Blanca (Hoa Bướm Trắng- Bạch Điệp Hoa).

Tên khoa học của gừng trắng là Hedychinum coronarium thuộc gia đình Zingiberaceae. Người Anh gọi là White ginger, White butterfly ginger; Ấn Độ: Dolan champa. Gừng trắng có củ như củ gừng thường và có trái với nhiều hột nhỏ li ti.

 


CỦ NGHỆ

Curcuma longa
Gia đình: Zingiberaceae

 

Tên Hán- Việt của củ nghệ là Huỳnh Khương hay Hoàng Khương, âm từ tiếng Hoa Huang jiang. Nghệ cũng được gọi là Uất Kim.   

Củ nghệ giống như củ gừng nhưng nhỏ hơn và ít nhánh hơn. Về màu sắc củ nghệ màu vàng- đỏ. Củ gừng màu vàng nhạt.   

Nghệ không cần nhiều nước. Đó là loại thảo mộc miền nhiệt đới được tìm thấy nhiều ở Nam Á nhất là Ấn Độ và các quốc gia Đông Nam Á.   

Cây cao từ 50- 70 cm; lá dài, màu xanh. Hoa màu trắng kết tụ lại thành hình cây kèn. Củ nghệ nhỏ hơn củ gừng nhưng dài.

 

Tên khoa học của nghệ là Curcuma longa thuộc gia đình Zingiberaceae.

Tên gọi thông thường:

Việt Nam

Anh

Pháp

Ấn

Trung Hoa

Nghệ, Uất kim,

Hoàng khương

turmeric,

Indian saffron

safran des Indes

Haldi

huang jiang

 

Ấn Độ là quốc gia sản xuất và tiêu thụ nhiều nghệ nhất thế giới (75% mức sản xuất nghệ trên thế giới) vì người Ấn Độ dùng bột nghệ để nấu món cà-ri, thức ăn đặc thù của dân tộc Ấn Độ.   

Nghệ có màu vàng-đỏ tươi vì sự hiện diện của curcumin C21 H20 O6. Nghệ có lối 5% tinh dầu có mùi thơm do sự hiện diện của turmerone, ar- turmerone, zingiberene.

Nghệ dùng để làm bột ca-ri, gia vị, dùng làm màu nhuộm thức ăn có màu vàng sẫm rất đẹp. Người Việt Nam dùng bột nghệ để nhuộm bánh xèo, bánh khoái có màu vàng tươi. Người Ấn Độ dùng nó để nhuộm màu bánh rế, bánh cay, nhuộm vải vóc và tơ lụa. Người Ấn Độ rất quí bột nghệ và tin rằng nghệ là trụ sinh thiên nhiên.

Phụ nữ Việt Nam dùng nghệ bôi vào da sau khi sinh nhằm xóa tan các vết nhăn. Người Ấn Độ uống sữa pha với bột nghệ cho da được tươi nhuận. Giống như cà- rốt, dùng nhiều bột nghệ da bị vàng như người bị hoàng đản!

Nghệ được dùng để trị bịnh dạ dày, làm cho gan (can) và mật (đảm) hoạt động mạnh hơn, trị hoàng đản, vết sẹo, ung thư.

Ở Trung Hoa người ta dùng nghệ để trị trùng lãi, đau ngực, đau bụng, viêm gan, chướng hơi. Nghệ có đặc tính kháng viêm, kháng khuẩn, kháng lão hóa. Nó được dùng để chữa chứng Alzheimer, mất trí nhớ, đau khớp xương, ung thư, tiểu đường. Nghệ lọc máu và làm cho máu ấm. Thân của bụi nghệ có tinh dầu cấu tạo bởi zingiberene, turmerone, sabinene, cineol, borneol. Curcumin làm cho nghệ có màu vàng nghệ. Với alkali nó chuyển sang màu vàng đỏ. Gặp ác xit nó chuyển sang màu vàng nhạt.

Trong y học dân gian Nam dược thảo, người ta dùng: Nghệ+ lá tía tô + ngò om (rau om) giã nát, vắt nước uống để trị suyễn kinh niên. Đó là cách trị liệu đơn giản bằng cách dùng dược thảo sẵn có trong nước. Kết quả cần được các nhà bào chế thuốc kiểm chứng.


CỦ RIỀNG

Alpinia officinarum
Gia đình: Zingiberaceae

 

Riềng là thân thuộc gần cuả gừng và nghệ. Về hình dáng, màu sắc và đặc tính củ riềng hao hao giống củ gừng. Riềng là thảo mộc miền nhiệt đới. Người ta cho rằng chữ Galangal phát xuất từ tiếng Á Rập khanlanjan được người Trung Hoa âm thành Kao leang k’ang (Thảo lương khương) hay Leang jiang (lương khương). Bụi riềng tựa như bụi gừng. Hoa riềng màu hồng nhạt không đẹp bằng hoa gừng.   

Tên khoa học của củ riềng là Alpinia officinarum thuộc gia đình Zingiberaceae. Tên khoa học đặt theo tên thầy thuốc và nhà thực vật học Ý, Prospero Alpini (1553- 1617).

Tên gọi thông thường:

Ả Rập

Anh

Trung Hoa

Việt Nam

khanlanjan

galangal, Colic root,

East Indian root

leang jiang,

kao leang k’ang

Riềng,

Lương khương


Riềng được dùng như gia vị trong thức ăn, thức uống, thạch. Ở Nga người ta cho riềng vào giấm, rượu mạnh để gia tăng mùi vị. Ở Việt Nam người ta cho riềng vào mắm để khử mùi nồng của mắm. Ở miền Trung người ta cho riềng tán nhuyễn vào tré. Ở miền Bắc người ta ăn cẩu nhục với riềng, lá mơ tam thể.

Tên gọi colic root mà người Anh dùng để gọi củ riềng nói lên hiệu năng trị liệu các chứng đau bụng, rối loạn tiêu hóa của riềng. Riềng có cineol, eugenol, cadinene, methylcinnamate có khả năng chữa các chứng đau bụng, chướng hơi, nôn mửa, đau ruột, tiêu chảy, kiết lỵ, rối loạn tiêu hóa. Flavonol galangin C15 H10 O5 trong củ riềng làm chậm sự phát triển tế bào ung thư vú.

Ngoài củ riềng vừa nói ta có CỦ RIỀNG TÀU mang tên khoa học Alpinia sinensis cùng gia đình Zingiberaceae. Riềng Tàu cũng có đặc tính tương tự như riềng Alpinia officinarum tạm gọi là 'Riềng Ta’. Việt Nam cũng có nhiều riềng Tàu gọi theo cách gọi của người Anh: Chinese galangal. Người Trung Hoa gọi là Hua shanjiang (Hoa sơn khương).

 


CỦ HÀNH

Allium cepa
Gia đình: Alliaceae

 

Tên khoa học của củ hành là Allium cepa thuộc gia đình Alliaceae. Có sách liệt vào gia đình Liliaceae như hoa huệ vì hoa huệ là loại hoa có củ.

Củ hành giống như củ hoa huệ, hoa uất kim hương (tulip). Hành củ xuất phát từ một loại hành mọc hoang ở Trung Á được thuần hóa.

Hành được trồng từ củ giống (onion sets), hột, hành cây. Hành lá (green onion- shallot) chỉ trồng ăn lá chớ không có củ. Phải mất từ 100 đến 175 ngày hành mới có củ dùng được. Lá hành hình ống rỗng ruột, màu xanh tươi. Hoa màu trắng. Hột màu đen. Củ hành hình tròn hai đầu hơi giẹp. Đó là củ hành Tây to như trái banh tơ- nít. Người Việt Nam biết loại củ hành to lớn này khi tiếp xúc với người Pháp. Do đó mới có tên gọi củ hành Tây khác với củ hành thường thấy ở nước ta trước đó. Đó là loại củ hành nhỏ màu tím- đỏ giống như củ hành tím-đỏ Tropea ở Ý (Cipolla Rossa di Tropea) mà người Việt Nam dùng làm dưa hành khi Tết đến. Đó là dưa hành trong câu:

Thịt mỡ dưa hành, câu đối đỏ,
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.

Có củ hành vỏ trắng, ruột trắng; vỏ vàng ruột trắng và vỏ tím ruột tím. Củ hành có mùi vị cay nồng làm chảy nước mắt. Đó là một món gia vị luôn luôn có mặt trong các thức ăn của loài người. Người Việt Nam ăn củ hành tươi cắt từng khoảnh, củ hành làm dưa, củ hành xắt mỏng ngâm giấm, đường để ăn phở. Ở Hoa Kỳ người ta chiên các khoanh củ hành tẩm bột mì để có món onion rings trong các nhà hàng. Càng khéo và nghệ thuật hơn người ta tỉa củ hành thành hình hoa sen lăn bột rồi chiên bán trong các nhà hàng nổi tiếng.

Củ hành có: đường, carbohydrates, chất béo, Ca, Fe, Zn, sinh tố B6, sinh tố C, protein, thiamine, riboflavin.

Củ hành có phenols và flavonoids kháng viêm và kháng ung thư. Người ta cho rằng ăn nhiều hành có thể ngừa bịnh ung thư gan và ung thư ruột.   

Củ hành dùng để trị cảm, tiểu đường, rỗng xương, bịnh về tim. Quercetin trong củ hành kháng viêm, kháng ung thư và có tác dụng hạ cholesterol. Trong thôn quê Việt Nam trước kia người ta dùng hành giã nhuyễn nhét vào miệng gà khi bị cúm. Người Ai Cập có dùng củ hành làm thuốc trị bịnh trĩ, ung nhọt, da lở, sán lãi, tê thấp, suyễn, bịnh về hô hấp. Củ hành được xem là nhuận tiểu. Người ta cũng tin rằng củ hành có khả năng trị hói đầu (baldness) và béo phì (obesity).

Mùi cay nồng của củ hành có tác dụng xua đuổi các loại côn trùng.

Vì củ hành có tính kích dục nên các tu sĩ Phật Giáo hay Ấn Giáo không dùng hành, tỏi. Trong truyện kể về Mục Liên Thanh Đề có đề cập đến 05 thứ gia vị mà các tu sĩ Phật Giáo được khuyên không nên dùng vì tính kích thích của chúng. Đó là: 1. Hành (Allium cepa) 2. Tỏi (Allium sativum) 3. Gừng (Zingiber officinale) 4. Riềng (Alpinia officinarum) 5. Nén (Allium cepa ascalonicrum)

 


CỦ NÉN

Allium cepa ascalonicrum
Gia đình: Alliaceae

 

Chúng ta tạm gọi củ nén là củ hành ta. Củ nén có mùi và công dụng làm gia vị như củ hành nhưng củ nhỏ hơn củ hành Tây. Củ hành làm dưa chua để ăn với thịt đông là củ nén.

Tên khoa học của củ nén là Allium cepa ascalonicrum hay ngắn gọn là Allium ascalonicum thuộc gia đình Alliaceae.

Tên gọi thông thường:

Việt

Anh

Pháp

Ấn Độ

Thái Lan

Củ Nén, Củ Hành Ta

Shallot, Wild onion

eschalote

gandana

Hom (thom)


Củ nén gốc ở Trung Á tràn xuống Ấn Độ và các nước trong vùng Đông Nam Á và các nước ven Địa Trung Hải. Đó là một loại gia vị quen thuộc trong các nhà bếp Á Châu, Âu Châu, Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh. Người ta dùng nén trong việc chiên xào hay làm dưa bằng cách ngâm với giấm và đường.

Củ nén có flavonoids, phenols, furostanol saponins, quercetin, isorhamnetin, glycosides. Củ nén kháng viêm và ngừa ung thư, cầm máu, trợ tiêu hóa, lợi phế (phổi), hạ sốt, hạ huyết áp, hạ đường trong máu. Củ nén xua đuổi côn trùng khi bôi vào da. Nước vắt của củ nén trị chứng hói đầu (baldness)  (chưa kiểm nhận hiệu quả), xóa tan tàn nhang (freckles) v.v.

Những thí nghiệm trên thú vật như chuột và ngỗng bằng những hoạt chất lấy từ củ nén cho thấy ngỗng ăn củ nén và bị tử vong. Chó cũng gặp trường hợp tương tự! Chuột bị mất hồng huyết cầu và gia tăng bạch huyết cầu!!

 

CỦ KIỆU

Allium chinense
Allium odoratum
Allium tuberosum
Allium bakeri
Allium splendent
Gia đình: Alliaceae, Liliaceae

 

Củ kiệu là củ của bụi hẹ. Tên Hán Việt của hẹ là cửu thái (jiu cai). Tên Hán Việt của củ kiệu là giới bạch. Người Trung Hoa gọi hẹ là Xie.

Hẹ là thảo mộc gốc ở miền Hoa Bắc, đặc biệt là Shanxi (Sơn Tây). Hẹ mọc thành bụi nhỏ, lá mỏng và dài từ 20- 30 cm; gốc hẹ màu trắng; củ nhỏ và dài lối 2- 3 cm màu trắng. Hoa hẹ màu trắng; trái có hột đen, nhỏ li ti.   

Hẹ được tìm thấy ở các vùng khí hậu ôn đới, nhiệt đới, bán nhiệt đới và khí hậu đại dương. Hẹ được tìm thấy mọc hoang ở nhiều tiểu bang Hoa Kỳ và được gọi là sweet leek.

Tên khoa học của hẹ là Allium tuberosum thuộc gia đình Alliaceae.

Tên gọi thông thường là:

Việt

Anh

Nhật

Trung Hoa

He, Cửu Thái,

Nén Tàu, Phi Tu

Chinese leek, Chinese chive,

Sweet leek

rakkyo

Jiu cai, Xie

 

Người Trung Hoa, Nhật, Triều Tiên, Việt Nam đều thích dùng hẹ để nấu canh hay chiên xào với thịt. Người ta ăn hẹ từ lá, hoa đến củ. Củ gọi là củ kiệu dùng để làm đồ chua sau khi ngâm với giấm và đường. Trong các tô mì, hủ tiếu luôn luôn có hẹ. Người Trung Hoa xào hẹ với mì hay bún với giá và thịt heo. Họ rất quí hoa hẹ. Hẹ tươi có nhiều được tính hơn hẹ xào hay nấu chín. Người Việt Nam làm dưa giá bằng cách kết hợp giá đậu với hẹ cắt ngắn. Dưa giá ăn với thịt kho hay cá kho vào những ngày Tết. Trong câu hát bình dân ở miền Nam thời tiền chiến có câu:

Cua biển xào.
Lòng nấu hẹ.

như là món ăn ngon mà người bình dân ở miền Nam thời tiền chiến mơ ước.  

Tôm khô củ kiệu là món nhậu khai vị của những người nhậu rượu phong lưu vào những ngày đầu Xuân. Vào thập niên 1950 ở Sài Gòn xuất hiện món ăn đêm bình dân: cháo trắng nóng bỏng ăn với củ kiệu, tôm khô hay hột vịt muối.

Lá hẹ và củ có nhiều chất sulfur và saponins. Hột có alkaloids và saponins.   

Hợp chất sulfur làm giảm cholesterol. Lá hẹ và củ được dùng để trị thổ huyết, huyết tiện (hematuria), máu cam, đau cuống họng, suyễn (asthma), kiết lỵ; tốt cho bộ tiêu hóa và sự tuần hoàn máu huyết. Hột được dùng để trị mộng tinh, huyết tiện, đau thắt lưng v.v. Hẹ có tính sát trùng và xua đuổi côn trùng.

 

 

CỦ TỎI

Allium sativum
Gia đình: Alliaceae

 

Tỏi là họ hàng thân thuộc gần với củ hành. Có hai loại tỏi:

1. Loại thứ nhất có vỏ trắng, nhiều múi và có ruột trắng. Loại này được tìm thấy khắp thế giới.
2. Loại thứ hai chỉ có củ mà không có múi. Loại thứ hai này được tìm thấy ở Yunnan (Vân Nam).

Trung Á là sinh quán của củ tỏi. Từ đó tỏi được du nhập vào các quốc gia Á Châu như Trung Hoa, Triều Tiên, các quốc gia Trung Đông, Bắc Phi và Âu Châu ven Địa Trung Hải.   

Tỏi xuất hiện ở Ai Cập vào thế kỷ 30 trước Tây Lịch. Hình củ tỏi được tìm thấy trên ngôi mộ cổ của Tutankhamen. Ngôi mộ nầy xuất hiện vào thế kỷ 16 trước Tây Lịch. Trong Thánh Kinh (phần Cựu Ước) có nói đến thức ăn của người Do Thái khi lưu lạc trong sa mạc gồm dưa chuột, cá, hành, tỏi v.v. Ở Việt Nam tỏi được trồng nhiều ở các hải đảo ngoài khơi tỉnh Quảng Ngãi.

Tên khoa học của củ tỏi là Allium sativum thuộc gia đình Alliaceae.

Tên gọi thông thường:

Việt

Anh

Pháp

Trung Hoa

Tỏi

Garlic

Ail

Da suan


Mức sản xuất tỏi trên thế giới lối 25 triệu tấn. 70% mức sản xuất này do Trung Hoa chiếm giữ. Các nước Ấn Độ, Đại Hàn, Nga, Hoa Kỳ sản xuất nhiều tỏi nhưng với tỷ lệ khiêm tốn so với tổng sản xuất tỏi trên thế giới. Ở Hoa Kỳ tiểu bang nào cũng trồng tỏi được ngoại trừ Alaska.

Tỏi là một gia vị quan trọng. Tỏi hiện diện trong tô nước mắm ớt, món bì cuốn, mắm sống của người Việt Nam. Các bà nội trợ Việt Nam làm tỏi ngâm giấm vào dịp Tết. Trong món kim chi của Triều Tiên lúc nào cũng có nhiều tỏi. Người Hoa Kỳ làm bánh mì tỏi, xào mussel (trai) với tỏi và bơ v.v.

Tỏi có dược tính cao khi còn tươi. Nếu luộc hay chiên chín dược tính giảm đi rất nhiều. Tỏi có sulfur, allicin kháng sinh, kháng nấm. Nó có sinh tố B1, B2, B3, B6, B9, C, Ca, Fe, chất béo, Mn, K, Zn, pantothenic acid. Năm 1858 nhà bác học Pháp Louis Pasteur đã phát hiện tính kháng khuẩn của tỏi. Tỏi dùng để trị cảm, hạ huyết áp, hạ cholesterol, ngừa nghẽn mạch, ngừa ung thư, điều hoà lượng đường trong máu. Tỏi cũng có tính kích dục và sát trùng. Người ta dùng tỏi để diệt lãi trong đường ruột. Diallyl sulfide trong củ tỏi ức chế ung thư đường ruột.

Củ tỏi đen mang tên khoa học Allium nigrum thuộc gia đình Alliaceae được tìm thấy trong các cổ mộ ở Ai Cập. Ngày qua các lực sĩ Hy Lạp và La Mã dùng tỏi đen để gia tăng sức mạnh. Tỏi đen được người Triều Tiên ưa thích và cho vào thức ăn, thức uống để tăng năng lực.

Tỏi đen có ruột đen. Tỏi có vị ngọt và chua như me hay giấm. Ở Âu -Mỹ người ta trồng tỏi đen như cây cảnh để có hoa đẹp màu trắng, tím nhạt hay vàng nhạt. Hoa nhỏ, 06 cánh tụ lại thành hình cầu to như cái chén. Lá bụi tỏi đen dài và rộng. Người Anh gọi tỏi đen là black garlic vì ruột tỏi màu đen hay broad- leaved garlic vì lá rộng.

Tỏi đen có s- allylcysteine có tác dụng ngừa ung thư. Gặp nhiệt độ càng cao tỏi đen càng gia tăng antioxidants.

 

Phạm Đình Lân, F.A.B.I.

______



THI SĨ TÔ THUỲ YÊN VÀ BÀI THƠ TA VỀ - TÁC PHẨM KỶ VĨ CỦA THI CA VIỆT NAM

Bài thơ “Ta về” của thi sĩ Tô Thùy Yên mang ma lực ám ảnh dữ dội khiến ta cứ phải đọc đi đọc lại như một bứt rứt khôn nguôi.

Bài thơ này được viết vào tháng 7/1985, sau mười năm tác giả Tô Thùy Yên bị lặn ngụp trong trại tù lao cải. Bài thơ mang số phận đặc biệt, kinh qua biết bao dâu biển, đứng vững trước thử thách khắc nghiệt về không gian lẫn thời gian để trở thành một tác phẩm thi ca kỳ vĩ.

Nhà phê bình Võ Phiến từng viết: “Sau mười năm, Tô Thùy Yên trở lại với đời. Tháng 7 năm 1985, ông viết bài “Ta về” dài 124 câu. Say sưa, ngây ngất. Thơ Việt Nam cho đến đây chưa từng có dịp biết cái khả năng kích động tận cùng của nó. Người Việt Nam chợt nhận thức ra tầm cỡ lớn lao của tâm hồn mình”.

Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại, vậy thì mười năm là bấy nhiêu ngày. Mười năm “đem thân làm gã tù lưu xứ”. Mười năm biết bao mùa “rau mác lên bờ đã trổ bông”. Mười năm mái nhà xưa liệu có còn nguyên vẹn. Mười năm cha mẹ như ngọn đèn leo lét sắp cạn dầu…

Hai tiếng “mười năm” được nhắc lại nhiều lần, cứ vang lên nhức buốt và tê điếng khắp mấy trời kim cổ. Đó là khoảng thời gian khủng khiếp mà người tù lao cải phải trải qua. Đó là “địa ngục chín tầng sâu” hiện ra giữa trần gian khổ đọa thời hậu chiến. Đó là mười năm oan nghiệt “đá cũng ngậm ngùi thay”.

Mười năm còn là bấy nhiêu đêm chong mắt chờ đợi một cuộc về. Hai tiếng “ta về” được lặp đi lặp lại, nghe chừng nhẹ nhàng, nhưng dư vang vọng đến ngàn trùng, kinh động trời đất, trải khắp truông cùng phá. Nhưng vì “ta tiếc đời ta sao hữu hạn”, nên Tô Thùy Yên đành dừng bút, không thì ông sẽ còn tiếp tục điệp khúc “ta về” đến vô cùng.

Nhân vật “Ta” trong bài thơ “Ta về” không phải chỉ mỗi cá nhân Tô Thùy Yên mà còn là “Chúng Ta”, như nói thay tiếng lòng của cả một thế hệ trầm luân, chịu nhiều thương tổn và bất hạnh, nhưng nhất quyết không chấp nhận đánh mất lương tri và phẩm giá của mình.

Bài thơ “Ta về” được đăng tải, trích dẫn rất nhiều trên mạng xã hội hay trên các trang báo chính thống ở Việt Nam. Tuy nhiên, tình trạng tam sao thất bản xảy ra thường xuyên, nên sau đây xin đăng nguyên văn bài thơ này trong tập thơ do chính tác giả xuất bản.

Tiếng biển lời rừng nao nức giục
Ta về cho kịp độ xuân sang.

Ta về – một bóng trên đường lớn.
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai…
Sao vẫn nghe đau mềm phế phủ?
Mười năm, đá cũng ngậm ngùi thay.

Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng ỉm tiếng nghìn thu.
Mười năm, mặt xạm soi khe nước,
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ.

Ta về qua những truông cùng phá,
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may.
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ,
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay.

Chỉ có thế. Trời câm đất nín.
Đời im lìm đóng váng xanh xao.
Mười năm, thế giới già trông thấy.
Đất bạc màu đi, đất bạc màu…

Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa.
Ai đứng trông vời mây nước đó,
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ.

Một đời được mấy điều mong ước?
Núi lở sông bồi đã lắm khi…
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động.
Mười năm, cổ lục đã ai ghi?

Ta về cúi mái đầu sương điểm,
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời.
Cám ơn hoa đã vì ta nở.
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi.

Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa,
Làng ta, ngựa đá đã qua sông,
Người đi như cá theo con nước,
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng.

Ta về như lá rơi về cội.
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay.
Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống,
Giải oan cho cuộc biển dâu này.

Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta.
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó,
Người thức nghe buồn tận cõi xa.

Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời.
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt.
Tội tình chi lắm nữa, người ơi!

Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ.
Mười năm, người tỏ mặt nhau đây.
Nước non ngàn dặm, bèo mây hỡi,
Đành uống lưng thôi bát nước mời.

Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh.
Ai gọi ai đi ngoài quãng vắng?
Phải, ôi vàng đá nhắn quan san?

Lời thề truyền kiếp còn mang nặng
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra.
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ.
Mười năm, ta vẫn cứ là ta.

Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên.
Nhà cũ, mừng còn nguyên mái, vách,
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền.

Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ.
Nhà thương khó quá, sống thờ ơ.
Giậu nghiêng, cổng đổ, thềm um cỏ.
Khách cũ không còn, khách mới thưa…

Ta về khai giải bùa thiêng yểm.
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi!
Hãy kể lại mười năm mộng dữ.
Một lần kể lại để rồi thôi.

Chiều nay, ta sẽ đi thơ thẩn,
Thăm hỏi từng cây những nỗi nhà.
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ người xa?

Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu.
Mười năm, con đã già như vậy.
Huống mẹ cha, đèn sắp cạn dầu…

Con gẫm lại đời con thất bát,
Hứa trăm điều, một chẳng làm nên.
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn.
Hạt lệ sương thầm khóc biến thiên.

Ta về như tiếng kêu đồng vọng.
Rau mác lên bờ đã trổ bông.
Cho dẫu ngàn năm, em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông.

Ta gọi thời gian sau cánh cửa.
Nỗi mừng ràn rụa mắt ai sâu.
Ta nghe như máu ân tình chảy
Từ kiếp xưa nào tưởng lạc nhau.

Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em.
Đau khổ riêng gì nơi gió cát…
Hè nhà, bụi chuối thức thâu đêm.

Cây bưởi xưa còn nhớ trắng hoa.
Đêm chưa khuya lắm, hỡi trăng tà!
Tình xưa như tuổi già không ngủ,
Bước chạm khua từng nỗi xót xa.

Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm những tối vui.
Trăng sáng lưu hồn ta vết phỏng.
Trọn đời, nỗi nhớ sáng không nguôi.

Bé ơi, này những vui buồn cũ,
Hãy sống, đương đầu với lãng quên.
Con dế vẫn là con dế ấy,
Hát rong bờ cỏ, giọng thân quen.

Ta về như nước tào khê chảy.
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ.
Thân thích những ai giờ đã khuất?
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa.

Người chết đưa ta cùng xuống mộ.
Đêm buồn, ai nữa đứng bờ ao?
Khóc người, ta khóc ta rơi rụng.
Tuổi hạc, ôi ngày một một hao.

Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian, kiếm chính mình.
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh.

Ngồi đây, nền cũ nhà hương hỏa,
Đọc lại bài thơ buổi thiếu thời.
Ai đó trong hồn ta thổn thức?
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi.

Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thuở trần gian bay lướt qua.
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn,
Đành không trải hết được lòng ta.

7-1985
Tô Thùy YênI




Tôi Đi Học 
(Thanh Tịnh.) 

"Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mênh mang của buổi tựu trường. Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.

Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.

Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.

Tôi không lội qua sông thả diều như thằng Quí và không ra đồng nô hò như thằng Sơn nữa. Trong chiếc áo vải dù đen dài tôi cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn.

Dọc đường tôi thấy mấy cậu nhỏ trạc bằng tôi, áo quần tươm tất, nhí nhảnh gọi tên nhau hay trao sách vở cho nhau xem mà tôi thèm. Hai quyển vở mới đang ở trên tay tôi đã bắt đầu thấy nặng. Tôi bặm tay ghì thật chặt, nhưng một quyển vở cũng chì ra và chênh đầu chúi xuống đất. Tôi xóc lên và nắm lại cẩn thận. Mấy cậu đi trước ôm sách vở thiệt nhiều lại kèm cả bút thước nữa. Nhưng mấy cậu không để lộ vẻ khó khăn gì hết. Tôi muốn thử sức mình nên nhìn mẹ tôi:

- Mẹ đưa bút thước cho con cầm. Mẹ tôi cúi đầu nhìn tôi với cặp mắt thật âu yếm:
- Thôi để mẹ nắm cũng được.

Tôi có ngay cái ý kiến vừa non nớt vừa ngây thơ này: chắc chỉ người thạo mới cầm nổi bút thước. Ý nghĩ thoáng qua trong trí tôi nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngang trên ngọn núi. Trước sân trường làng Mỹ Lý đầy đặc cả người. Người nào áo quần cũng sạch sẽ, gương mặt cũng vui tươi và sáng sũa.

Trước đó mấy hôm, lúc đi ngang làng Hòa An bẫy chim quyên với thằng Minh, tôi có ghé trường một lần. Lần ấy trường đối với tôi là một nơi xa lạ . Tôi đi chung quanh các lớp để nhìn qua cửa kính mấy bản đồ treo trên tường. Tôi không có cảm tưởng gì khác là nhà trường cao ráo sạch sẽ hơn các nhà trong làng. Nhưng lần này lại khác. 
Trước mặt tôi, trường Mỹ Lý vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình Hòa Ấp. Sân nó rộng, mình nó cao hơn những buổi trưa hè đầy vắng lặng.

Lòng tôi đâm ra lo sợ vẩn vơ. Cũng như tôi, mấy cậu học trò mới bở ngỡ đứng nép bên người thân, chỉ dám nhìn một nữa hay dám đi từng bước nhẹ. Họ như con chim con đứng trên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ. Họ thèm vụng và ước ao thầm được như những học trò cũ, biết lớp, biết thầy để khỏi phải rụt rè trong cảnh lạ.

Sau một hồi trống thúc vang dội cả lòng tôi, mấy người học trò cũ đến sắp hàng dưới hiên rồi đi vào lớp. Chung quanh những cậu bé vụng về lúng túng như tôi cả. Các cậu không đi. Các cậu chỉ theo sức mạnh kéo dìu các cậu tới trước. Nói các cậu không đứng lại càng đúng hơn nữa. Vì hai chân các cậu cứ dềnh dàng mãi. Hết co lên một chân, các cậu lại duỗi mạnh như đá một quả banh tưởng tượng.

Chính lúc này toàn thân các cậu cũng đang run run theo nhịp bước rộn ràng trong các lớp. Ông đốc trường Mỹ Lý cho gọi mấy cậu học trò mới đứng lên trước lớp ba. Trường làng nhỏ nên không có phòng riêng của ông đốc. Trong lúc ông đọc tên từng người, tôi cảm thấy như quả tim tôi ngừng đập. Tôi quên cả mẹ tôi đang đứng sau tôi. Nghe gọi đến tên, tôi tự nhiên giật mình và lúng túng. Sau khi đọc xong mấy mươi tên đã viết sẵn trên mảnh giấy lớn, ông đốc nhìn chúng tôi nói sẽ:

- Thế là các em đã vào lớp năm. Các em phải cố gắng học để thầy mẹ được vui lòng, và để thầy dạy chúng em được sung sướng. Các em đã nghe chưa ? (Các em đều nghe nhưng không em nào dám trả lời. Cũng may đã có tiếng dạ rang của phụ huynh đáp lại.)

Ông đốc nhìn chúng tôi với cặp mắt hiền từ và cảm động. Mấy cậu học trò lớp ba cũng đua nhau quay đầu nhìn ra. Và ngoài đường cũng có mấy người đứng dừng lại để nhìn vào. Trong những phút giây này chúng tôi được người ta ngắm nhìn nhiều hơn hết. Vì vậy đã lúng túng chúng tôi càng lúng túng hơn. Ông đốc lấy cặp kính trắng xuống rồi nói:

-Thôi, các em đứng đây sắp hàng để vào lớp học.

Tôi cảm thấy sau lưng tôi có một bàn tay dịu dàng đẩy tôi tới trước. Nhưng người tôi lúc ấy tự nhiên thấy nặng nề một cách lạ. Không giữ được chéo áo hay cánh tay của người thân, vài ba cậu đã từ từ bước lên đứng dưới hiên lớp. Các cậu lủng lẻo nhìn ra sân, nơi mà những người thân đang nhìn các cậu với cặp mắt lưu luyến. Một cậu đứng đầu ôm mặt khóc. Tôi bất giác quay lưng lại rồi dúi đầu vào lòng mẹ tôi nức nở khóc theo. Tôi nghe sau lưng tôi, trong đám học trò mới, vài tiếng thút thít đang ngập ngừng trong cổ. Một bàn tay quen nhẹ vuốt mái tóc tôi. Ông đốc nhẫn nại chờ chúng tôi.

- Các em đừng khóc. Trưa này các em được về nhà cơ mà.Và ngày mai các em lại được nghỉ cả ngày nữa.

Sau khi thấy hai mươi tám cậu học trò sắp hàng đều đặn dưới hiên trường, ông đốc liền ra dấu cho chúng tôi vào lớp năm. Một thầy trẻ tuổi, gương mặt hiền từ, đang đón chúng tôi vào cửa lớp.

Trong thời thơ ấu tôi chưa bao giờ xa mẹ tôi như lần này. Tôi cũng lấy làm lạ vì có nhũng hôm đi chơi suốt cả ngày với chúng bạn ở đồng làng Lệ Xá, lòng tôi vẫn không cảm thấy xa nhà hay xa mẹ tôi chút nào hết.

Một mùi hương lạ xông lên trong lớp. Trông hình gì treo trên tường tôi cũng thấy lạ và hay hay. Tôi nhìn bàn ghế chỗ tôi ngồi rất cẩn thận rồi tự nhiên nhận là vật riêng của mình. Tôi nhìn người bạn tí hon ngồi bên tôi, một người bạn tôi chưa hề biết, nhưng lòng tôi vẫn không cảm thấy sự xa lạ chút nào. Sự quyến luyến ấy tự nhiên và bất ngờ quá đến tôi cũng không dám tin là có thật.

Một con chim con liệng đến đứng trên bờ cửa sổ, hót mấy tiếng rụt rè rồi vỗ cánh bay cao. Tôi đưa mắt thèm thuồng nhìn theo cánh chim. Một kỷ niệm cũ đi bẫy chim giữa cánh đồng lúa bay trên bờ sông Viêm sống lại đầy dẫy trong trí tôi. Nhưng những tiếng phấn của thầy tôi gạch mạnh trên bảng đen đã đưa tôi về cảnh thật. Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm bẩm đọc: Bài tập viết: Tôi đi học".


Trích: Tôi đi học - Thanh Tịnh








--
====================================================================
Trên Facebook :
http://www.facebook.com/DaiHocKhoaHocSaiGon
====================================================================
 
Bạn đã nhận được bài viết này vì bạn đã đăng ký vào Nhóm "KhoaHocSG" của Google Groups.
* Để đăng bài lên nhóm này, hãy gửi email đến "khoa...@googlegroups.com"
* Để RÚT TÊN ra khỏi nhóm này, gửi email đến "khoahocSG+...@googlegroups.com"
* Để có thêm tuỳ chọn (preference set up), hãy truy cập vào nhóm này tại: http://groups.google.com/group/khoahocSG?hl=vi
---
Bạn nhận được thư này vì bạn đã đăng ký vào nhóm Google Groups "KhoaHocSG".
Để hủy đăng ký khỏi nhóm này và ngừng nhận email từ nhóm, hãy gửi email đến khoahocsg+...@googlegroups.com.
Để xem cuộc thảo luận này, hãy truy cập vào https://groups.google.com/d/msgid/khoahocsg/MN2PR02MB659214E4155D9E0C4A976BCBFC38A%40MN2PR02MB6592.namprd02.prod.outlook.com.
Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages