Fwd: ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 05-09-2025 (SỐ 237-2025)

6 views
Skip to first unread message

Giu Tran

unread,
Sep 5, 2025, 10:44:29 AM (5 days ago) Sep 5
to


---------- Forwarded message ---------
From: soan....@hotmail.com <soan....@hotmail.com>
Date: Fri, Sep 5, 2025 at 3:46 AM
Subject: ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 05-09-2025 (SỐ 237-2025)
To:



GOOD MORNING VIET NAM - CANADA - USA

ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 05-09-2025  (SỐ 237-2025)

Image insérée

Image insérée




MỤC LỤC

  1. Đi lạc ở Miền Tây

  2. TT.Trump đã bí mật giúp hạ bệ tỷ phú ấu dâm nổi tiếng Jeffrey Epstein kể từ năm 2009.

  3. Mùa Hè Đỏ Lửa 1972

  4. Uống nước không đủ làm gia tăng nồng độ hormone gây căn thẳng có hại 

  5. Hạ viện Mỹ thông qua dự luật nhằm ngăn chặn fentanyl từ Trung Quốc

  6. Nước Mỹ Trong Mắt Người Đàn Bà Nội Trợ - 15/08/2025 

  7. Mẹ Tôi Người Vợ Lính Miền Nam

  8. GIỌNG CA THỜI "ĐỎ LỬA"Thoát hiểm






Đi lạc ở Miền Tây

  • 1. Tối hôm đó ngồi trong một quán ăn ở Cần Thơ, thưởng thức món bún chả Tiều, chúng tôi ôn lại đoạn đường đã qua hoàn toàn ngẫu hứng bởi Cần Thơ không phải là đích đến của chuyến đi.

    Khởi hành từ Sài Gòn bằng xe máy lúc 9h30 dưới cái nắng tháng Tư nóng gắt. Mục tiêu xa nhất chỉ là Vĩnh Long, nghĩa là phải đi gần 150 km rồi. Thế nhưng, dù chạy không nhanh và  thỉnh thoảng ghé nghỉ ở các quán cà phê võng bên đường, chúng tôi đến Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long chỉ mới 3 giờ chiều.

    Sau khi đi một vòng khắp thành phố, chúng tôi vào một quán cà phê trong sân vườn Bảo tàng Vĩnh Long – một khuôn viên biệt thự, kiến trúc Pháp còn giữ lại khá đẹp, nhìn ra dòng sông Cổ Chiên. Chúng tôi bàn tính đi thêm 40 km nữa về Cần Thơ nghỉ lại đêm.

    Cầu Cổ Chiên        

    Sáng hôm sau chúng tôi đi Trà Ôn. Qua cầu Cần Thơ, chúng tôi theo Quốc Lộ 54, rẽ lối vào nhà thờ Trà Ôn, được xây dựng từ năm 1925  để đến chợ Trà Ôn.

    Theo tài liệu, Trà Ôn là quận của tỉnh Cần Thơ từ năm 1921. Năm 1956, chính quyền Sài Gòn cho thành lập tỉnh Tam Cần, lấy thị trấn Trà Ôn làm tỉnh lỵ. Năm 1957, tỉnh Tam Cần bị giải thể, Trà Ôn nhập vào tỉnh Vĩnh Bình. Năm 1967, quận Trà Ôn thuộc tỉnh Vĩnh Long. Sau ngày 30 tháng 04 năm 1975, Trà Ôn trở thành huyện của tỉnh Cửu Long. Năm 1977, huyện Trà Ôn bị giải thể nhập vào các huyện Cầu Kè và Vũng Liêm, tỉnh Cửu Long.

    Năm 1981, huyện Trà Ôn được tái lập, trên cơ sở tách thị trấn Trà Ôn cùng 8 xã từ huyện Cầu Kè và 3 xã từ huyện Vũng Liêm.

    Bên sông Cổ Chiên

    Ngày 26 tháng 12 năm 1991, tỉnh Cửu Long tách thành tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh, huyện Trà Ôn thuộc tỉnh Vĩnh Long.

    Có thể vì cái lịch sử thăng trầm tách ra, nhập vào, giải thể, tái lập nên nhìn chung Trà Ôn vẫn còn hiền hòa, bình dị, kinh tế chưa khởi sắc lắm!

    Vài căn nhà người Hoa ở phố chợ, một ngôi nhà thời Pháp, chợ nhỏ nhưng nhộn nhịp. Phía sau chợ là bến sông, ghe thuyền xuôi ngược ra vô. Sông rộng, bờ bên kia cây lá xanh dày vừa thơ mộng, vừa dân dã, trông đẹp dịu dàng, mộc mạc.  Ngồi ở một quán cà phê bên sông, ăn tô hủ tiếu ngon mà rẻ, trò chuyện với mấy người xe ôm, lái thuyền mới biết nơi này đã từng một thời rất phồn thịnh vì là chợ mua bán sản vật của người dân từ các cồn Lục Sĩ, Tân Quy, Cồn Sừng… chở ra.

    Phố chợ Trà Ôn

    Chợ nổi Trà Ôn là chợ nổi cuối cùng trên sông Hậu trước khi đổ ra biển, nằm giữa ngã ba sông Hậu (người dân ở đây gọi là sông Trà Ôn) và sông Măng Thít. Bây giờ không còn chợ nổi,  nhưng thật thú vị khi nhìn cảnh ghe thuyền, phà xuôi ngược trên sông dễ khiến liên tưởng về thời sầm uất, nhộn nhịp bán mua cách đây không lâu lắm.
    Rời bến sông, chúng tôi đi một vòng phố chợ. Một dãy phố có rất nhiều quán ăn. Đặc biệt có món bún bò viên ăn kèm với rau chuối. Chúng tôi mỗi người… ăn thêm một tô. Ngon tuyệt vời!

    Chợ quê, món ăn nào cũng rẻ từ bánh khọt cho đến phở, bún riêu…

    Nơi đây ngày trước còn chợ nổi Trà Ôn rất nhộn nhịp

    Hôm ấy tôi thấy một bà cụ ngồi trên bậc thềm gần chợ, cạnh có hai cái bị, trong một bị chỉ có một con vịt con. Tò mò tôi hỏi sao bà mua chỉ một con vịt? Bà cụ bảo: “Bữa trước mua mười con vịt về nuôi, chết mất một con, hôm nay đi chợ mua thêm một con”. Câu chuyện nhỏ dễ thương làm sao!

    Sau khi “lượn” một vòng thị trấn Trà Ôn chúng tôi ghé thăm khu di tích Thống Chế Điều Bát.

    Đây là di tích lịch sử được xây dựng vào năm Canh Thìn 1820, đời vua Minh Mạng. Là nơi thờ Thống chế Điều Bát Nguyễn Văn Tồn (1763-1820), một danh tướng thời nhà Nguyễn. Ông có công lớn trong việc giúp Thoại Ngọc Hầu chỉ huy quân dân đào kênh Vĩnh Tế (Châu Đốc – An Giang) và giúp dân các vùng trong tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh khai khẩn đất hoang, thành lập nhiều xóm làng.

    Trên sông Trà Ôn

    Năm 1828, vua Minh Mạng sắc phong ông là Trung Đẳng Thần, hàm ân Trung Dũng Thiên Trực, tước Dung Ngọc Hầu. Vợ ông được ban mỹ tự Hiền Thục Chi Thần Thống Chế Đại Quan. Phía sau đền thờ có khu mộ của ông và phu nhân.

    Rời Trà Ôn đích đến là cầu Cổ Chiên chúng tôi… đi lạc. Bản đồ Google thể hiện loằng ngoằng. Chúng tôi quyết định tới đâu hỏi đường tới đó. Nhờ vậy mới ngắm được cảnh đồng quê mùa lúa xanh thì con gái. Qua những cánh đồng cói, thơm mùi cói mới cắt như mùi cỏ mà nồng nàn hơn. Trên đường làng, cói phơi xòe, ngay hàng thẳng lối. Hai bên đường, hoa vàng, hồng, đỏ, tím, trắng đỏ khoe sắc hồn nhiên trong nắng khiến đường quê trông bình yên và… lãng mạn.

    Bên đường, nhiều quán bán những sản vật quê như đậu phọng luộc, bắp luộc, bắp trái đã lột vỏ… Hôm ấy, xe máy chúng tôi gần như không còn chỗ để treo, nào là bắp,  đậu, trái ấu, sầu riêng…

    Cổng vào đền thờ Thống chế Điều Bát

    Trưa chúng tôi đến xã Đức Mỹ, huyện Càng Long, Trà Vinh. Đói và khát, chúng tôi ghé vào một quán bên đường uống ly nước mía và ăn tô bún nem nướng khá đặc biệt với nước chan vào là tương (đậu nành) đen. Tưởng trên đời chẳng có gì ngon hơn!

    Qua cầu Cổ Chiên, chúng tôi rẽ vào thành phố Bến Tre ngồi nghỉ ở quán cà phê Làng Văn và lấy sầu riêng ra ăn. Sầu riêng mùa tháng Tư ngon tuyệt vời!

    Rồi mọi thứ vào quên lãng, album hình tôi chụp khá chi tiết đường đi hôm đó nằm im trong máy tính.

    Dệt chiếu từ cói ở Đức Mỹ

    2. Tôi sẽ không nhớ lại lần lạc đường ấy nếu vừa rồi không có một người bạn nhắn hỏi tôi biết nơi nào ở miền Tây trồng nhiều cỏ bàng không, có một khách nước ngoài muốn tìm hiểu để đặt mua các sản phẩm thủ công mỹ nghệ làm từ cỏ bàng (hay còn gọi là cói).

    Tôi lục album cũ. Làng Đức Mỹ bên dòng sông Cổ Chiên hiện ra sống động. Chiếc thuyền chật vun cói thành phẩm trên khúc sông trưa vắng, những cánh đồng xanh vờn lượn, đường làng uốn cong, những ngõ hoa xinh xắn và đặc biệt, mùi hương cói nồng nàn, quấn quýt rất khó quên.

    Thu hoạch cói

    Trở lại Đức Mỹ lần thứ hai tôi thấy như mình quá thân thuộc nơi này. Ngoài những cánh đồng cói bạt ngàn, ấn tượng với khách còn bởi có khá nhiều những tượng đài Đức Mẹ, Chúa Ki- tô vua dọc hai bên đường đi, hàng dãy ghế đá dưới chân mỗi tượng đài. Nơi đây có các họ đạo Đức Mỹ, Bãi Xan… thuộc giáo phận Vĩnh Long.

    Trên những cánh đồng cói đang vào mùa thu hoạch, có những lều nhỏ, rộn ràng công việc sơ chế cói trước khi phơi.

    Chúng tôi lang thang trong làng, nói chuyện một vài gia đình sản xuất chiếu và hàng thủ công mỹ nghệ. Có những gia đình tự làm từ trồng cói đến cho ra sản phẩm là chiếu, chẳng hạn. Cói Đức Mỹ nổi tiếng về chiều cao, mùa đông xuân cói cao đến 2m, mùa mưa còn khoảng 1.8m. Cấy từ cây con, 6 tháng thu hoạch một lần và khoảng 4 năm thì xới lại trồng cói mới.

    Phơi cói

    Đặc biệt, do đây là vùng nước lợ nên sợi cói dai, ở vùng nước ngọt, sợi cói giòn, dễ gãy. Một cô gái 32 tuổi nói với chúng tôi, từ ngày còn bé đã thấy cha má làm cói rồi.

    Rời Đức Mỹ, chúng tôi qua Vũng Liêm rồi Vĩnh Long. Những cánh đồng cói dập dờn trong gió. Mùi cỏ tươi khi thoảng, lúc đậm nồng. Cảnh se cói dưới đồng, trên đường cói phơi hàng dài xòe rất đều, thêm những đường, ngõ hoa đủ sắc làm thành bức tranh quê đẹp. 
    Bài và hình ĐTTT 



Mùa Hè Đỏ Lửa 1972

  • Ðộng Toán, Ðộng Chó, Bá Hồ, Cùa... những địa danh lạ lùng, khiến người nghe nó lần đầu tiên tưởng ngay đến những vùng âm u, kỳ bí, ma thiêng nước độc! Nếu bạn thuộc gia đình áo rằn, mũ xanh và nếu bạn đã ở trong binh chủng mà Bắc quân thường gọi là "Lính Thủy Ðánh Bộ" trước 72, thì nó chẳng có gì đáng ghê lắm đâu, phải không thưa các bạn?
    Khi GMC bốc bạn từ phi trường quân sự Ái Tử, rồi sau mấy tiếng đồng hồ dằn xóc phũ phàng vì đường xấu, bạn sẽ được đổ xuống một địa phương mang cái tên khô khan và vô nghĩa: CÙA! Sự thật Cùa chẳng khô khan tí nào, ở đây có mít chín quanh năm, có rau "tàu bay" mọc hoang vô số, tha hồ mà nấu canh với thịt hộp, đặc biệt làcó thêm những o yểu điệu với gánh hàng trên vai, chào mời các chàng Cọp Biển ríu rít, thôi thì mô, tê, răng,rứa như là pháo Tết ấy!Từ Cùa vượt chặng đường núi khoảng 10km (đường chim bay) về hướng Tây, bạn sẽ thấy 2 ngọn đồi trọc cao sừng sững,chúng đứng gần nhau, giống nhau như một cặp song sinh, giữa lưng chừng đồi, có chiếc cầu tiền chế bắc ngang qua để làm phương tiện đi lại từ đồi bên này và bên kia. Trên đỉnh chi chít những giao thông hào,hố hầm trú ẩn,lô cốt, kẽm gai... Ðó là căn cứ Ðộng Toán, nơi mà những ngày đầu Hè 72 Tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến đã chọi với một lực lượng chính quy Bắc Việt đông hơn gấp bội, được sự yểm trợ của đủ loại pháo lớn nhỏ.
    Tháng 3/72 Tiểu đoàn được chia làm hai cánh: Trung tá Quang, con kình ngư đầu đàn chỉ huy 3 Ðại đội trấn đóng căn cứ Ðộng Toán. Tôi thuộc Ðại đội 1 và Trung đội chúng tôi được chỉ định sang nằm ở 1 ngọn đồi nhỏ, cách đó không xa mấy để làm tiền đồn cho cả căn cứ.
    Ðã có nhiều dấu hiệu cho biết trinh sát địch xuất hiện và trong một cuộc lục soát quanh vùng trách nhiệm, Ðại đội 1 đã phát giác ra một hầm đầy ắp đạn B-40 và Bêta. Ðịch sắp ăn thua lớn đây... 8 giờ ngày hôm sau, Trung đội tôi được lệnh bảo vệ điểm nước, chỉ để lại một Tiểu đội giữ đồi. Ðến nơi, sau khi lục soát kỹ, Thiếu úy Giêng bố trí chúng tôi ra từng tổ nhỏ, nằm dài theo lạch nước. Bất ngờ một loạt tiếng nổ chói tai về hướng Trung đội 3 đang hoạt động ở con đường mòn nối liền Ðộng Toán với Bá Hô. Thêm nhiều loạt tiếng nổ tiếp theo của đủ loại súng ta và địch. Trung đội 3 đang bị phục kích, chưa xác định được tình trạng.
    - Chúng ta sẽ đi "tiếp sức" cho Tam Hoàng (Trung đội 1), đó là lệnh của Ðại đội. Các anh phải cố gắng và đề cao cảnh giác... Ðiểm nước sẽ có người xuống thay. Bây giờ Tiểu đội 2 mở đường.
    Thiếu úy Giêng trầm giọng ra lệnh, mặt ông đanh lại, những sợi râu bao quanh chiếc cằm vuông vươn lên tua tủa sau cái bậm môi của ông. Trung sĩ Thọ điều động Tiểu đội của mình ngay:
    - Nhanh lên, thằng Quốc đi đầu.
    Quốc xốc lại dây ba chạc, chĩa thẳng mũi súng về phía trước nhanh nhẹn lên dốc đá. Chúng tôi hối hả vì nghĩ đến đồng đội đang chờ đợi... bị phục kích mà! Con đường núi này không biết bao nhiêu lần hoạt động ngang qua, mà hôm nay sao như dài ra thêm thế này! Tôi không còn màng đến những cú vấp chân vào đá hay những cành cây quật lên mặt, lên người nữa. Tiếng súng càng ròn rã và nghe gần hơn, Thọ vượt lên gặp Quốc, anh chỉ về phía trước:
    - Sắp đến, coi chừng ngộ nhận. Thiếu úy đã báo cho Tam Hoàng biết mình đang đến tiếp.
    Quốc không đáp, đầu của nó quay đi quay lại quan sát, nó là xích hầu khá nhất của Tiểu đội tôi. Chúng tôi tiếp tục tiến lên mặc dù đạn rít vi vút. 
    Bỗng Quốc ngồi thụp xuống ra thủ hiệu cho mọi người dừng lại, mắt nó đăm đăm:
    - Báo chuyển cho thẩm quyền biết, đã thấy được Tam Hoàng, còn cánh khoảng 50 mét.
    Chúng tôi căn hàng ngang tiến lên bắt tay với Trung đội bạn, địch vẫn còn bám điểm phục kích và bắn rất rát. Thiếu úy Giêng được báo cáo lại quân số của Tam Hoàng: Thiếu úy Phong và 4 anh em nữa tử trận ! Ðây là một cái đau và là một cái tang chung cho Ðại đội 1. Hiện giờ xác họ vẫn còn kẹt giữa hai lằn đạn.
    - Mang "bà già 60" của mình và của Tam Hoàng ra bắn vào bên mặt, không được xử dụng M-79, M-16 bắn về phía trước, bắt đầu...
    Giêng điều động phân công sau khi quan sát trận địa. Chúng tôi nấp vào những tảng đá núi, gốc cây bắn trả lại địch. Tiếng của 2 khẩu đại liên tác xạ sao mà khoái lỗ tai lạ! Vì địa thế rậm rạp không xử dụng được M-79, đó là cái ấm ức của tôi. Giêng ra lệnh:
    - Chuẩn bị lên, tiến lên.
    Chúng tôi đồng loạt hét xung phong, riêng Tam Hoàng nằm lại yểm trợ, Trung đội tôi rời vị trí ẩn núp, khum người xuống phóng về phía trước, Thiếu úy Giêng luôn miệng dặn dò:
    - Coi chừng "đồ chơi" nó gài ở phía trái Tiểu đội ông đó, ông Thọ.
    - Dạ biết, tôi dặn mấy đứa nó rồi.
    Chúng tôi chiếm xong mục tiêu sau hơn nửa giờ đọ súng. Ðịch chuồn lẹ bỏ lại 9 cái xác, vũ khí quân trang cùng những chiếc mum cối kè số 304 vất vưởng đóđây.
    Thượng sĩ Thi, Trung đội phó chửi đổng:
    - Ðụ mẹ, bọn sao vàng!
    Giêng hỏi:
    - Mình ra sao ông Thi?
    - Thằng Hải ở Tiểu đội 3 tử trận, Sanh với Hạ sĩ Hiệp ở Tiểu đội 1 bị thương nhẹ.
    - Ông coi thu súng, tải xác và thương binh mình về căn cứ. Tôi làm vòng đai yểm trợ cho ông, nhanh nhé, nó sẽ phản pháo mình đó.
    Thượng sĩ Thi đưa tay chào thượng cấp trước khi thi hành nhiệm vụ, ông già gân này thường tâm sự với em út rằng ông rất khoái cái vẻ bình tĩnh của chàng Thiếu úy kia khi lâm trận.
    Bắc quân thực sự pháo chúng tôi, từng chùm cối 82 thăm dò nổ chát chúa chung quanh vòng đai, nhiều trái nổ gần vị trí làm đất đá bay rào rào. Thượng sĩ Thi báo máy đã về đến căn cứ an toàn. Hơn 4 giờ chiều, Trung đội mới được lệnh rút về đồi tiền đồn. Riêng Tiểu đội 2 chúng tôi phải thu xếp sang nằm ở một ngọn đồi khác để làm ra đa cho Trung đội. Tôi chỉ kịp ăn vội mấy muỗng cơm để có thì giờ mang "đồ chơi" ra gài chung quanh Tiểu đội trước khi trời tối. Hố cá nhân có sẵn rồi, chỉ chờ bạn bè sa chữa lại chút ít thôi. Ðịch bắt đầu pháo vào căn cứ, tiếng "đề pa" vang đều bốn phía, tôi phân biệt được từng loại, có cả pháo 130 ly, ít ra cũng có hơn 1 Tiểu đoàn Pháo binh địch, riêng những khẩu không giật 75 và 82 đặt trên các cao điểm nhằm bắn vào công sự nổi của căn cứ... từng chuỗi tiếng nổ rền lên, tiếng xè xè của hỏa tiễn 122 ly bay... 
    Trung sĩ Thọ khoát tay bảo:
    - Xuống hố, đêm nay phải thức hết đấy, tiết kiệm lựu đạn nhé, thấy "nó" mới chơi, đừng phí.
    Trời sụp tối, tôi thấy được những cụm lửa lấp lóe do đạn pháo của địch chạm vào đồi nổ bùng lên. Pháo binh của ta ở Cùa bắt đầu xạ yểm trợ, nhưng vì quá nhiều ổ pháo địch do đó không được hiệu quả cho lắm.
    Thọ nói:
    - Nó đang xung phong lên Tiểu đoàn đấy, tiên sư nhà chúng mày! Cái màn "pháo trước đánh sau" này cũ rích mà cứ làm hoài, quan sát xung quanh vị trí của mình nghe. 
    Tôi chồm lên hố, mở banh mắt ra cố tìm một vật di động, nhưng không, chỉ toàn những thân cây bị phạt ngọn chết khô im lìm dưới ánh sáng của hỏa châu. Trái M-67 trong tay đã mở chốt an toàn chính, chỉ đợi dịp xử dụng hợp lý, bọn Việt cộng chê cái chốt này hay chưa phát hiện ra? Bên kia đồi, tiếng hô "Lính Thủy Ðánh Bộ, hàng sống chống chết" rền lên. Trả lời lại là những loạt tiếng nổ chát chúa của M-67, tiếng hụ của khẩu M-79 liên thanh đặt trên đỉnh đồi. Chúng tôi còn nghe được tiếng ban lệnh của các cấp chỉ huy ta và địch. Cuộc chiến diễn ra hơn một tiếng đồng hồ, có lẽ địch tràn lên nhiều lần nhưng đều bị đánh bật trở lại. Tiếng hò hét thưa dần, nhường lại cho tiếng rít của đại liên 60 và M-16 bắn truy đuổi. Ðợt tấn công thử lửa đầu tiên của Bắc quân đã bị bẻ gãy! Ðịch tiếp tục phá cầm canh, Trung sĩ Thọ quả quyết là đợt thứ hai sẽ bắt đầu khi gần sáng và trời sương mù thế này thì trực thăng không thể tải thương, tiếp tế, ngay cả phản lực cũng phải khó khăn lắm mới dội bom yểm trợ được... Chúng tôi lấy nước đổ vào gạo sấy, cả Tiểu đội 8 mạng thèm thuốc rỏ dãi! Làm sao mà hút được vào lúc ban đêm, đó là điều cấm kỵ mà ai đã từng ăn cơm nhà binh đều biết cả.
    Quả như lời tiên đoán của Trung sĩ Thọ, địch lại tấn công thêm một đợt nữa vào khoảng 5 giờ sáng. Cùng hò hét táo tợn đúng theo sách vở cũ, cũng pháo phủ đầu... Nhưng mặc kệ chúng, các Cọp Biển cứ tảng lờ, đợi cho chúng xuất hiện lố nhố ở "vùng đất cấm" là bấm Clay-more ngay. Khoảng 30 giây sau là bồi thêm mấy loạt M-67 nữa, kỹ thuật chống biển người là vậy. Bắc quân ôm hận hoài mà vẫn cứ ngu! Ðịch lại thua thêm một keo nữa. Rạng sáng, khi mà màn sương bao quanh các đỉnh đồi tan dần dưới ánh nắng ấm áp của mặt trời cũng là lúc Bắc quân đổi chiến thuật mới. Chúng dùng tất cả các loại súng không giật bắn vào những hầm nổi và những nơi mà chúng nghĩ là có đặt vũ khí cộng đồng của Tiểu đoàn. Một công sự nổi được xây bằng bao cát rất chắc chắn và đẹp mắt của tốp quân nhân Mỹ khoảng 6 người (có lẽ là truyền tin) bị bắn sập, hẳn là họ kẹt lại trong ấy? Trực thăng mấy lần định đáp xuống nhưng không thành công vì hỏa lực phòng không của địch như đan lưới, phản lực cơ cũng không thể yểm trợ ở tầm mức gần. Lợi dụng thời điểm này, một toán địch bò lên với dự tính bất ngờ đột kích, chọc thủng phòng tuyến của ta. Bên này đồi, Tiểu đội chúng tôi thấy rõ điều đó, vì khoảng cách không đầy 200 mét, Trung sĩ Thọ lập tức cắt 2 người sang Trung đội để báo cáo ngay những sự kiện này về Tiểu đoàn. Chốc sau họ quay trở về cùng với tổ đại liên cở Trung đội, Thọ ngạc nhiên hỏi:
    - Ủa, sao lại vác "bà già" qua đây? 
    Hạ sĩ Thành, tổ trưởng, quệt mồ hôi trán đáp:
    - Bắn bia, được cơ hội bắn "bia thịt" bỏ qua rất uổng! Ðâu tụi nó tập trung chỗ nào?
    Thọ chợt hiểu, anh dẫn Thành đến một hố tác chiến trông qua sườn Ðộng Toán, chỉ rõ những điểm tập trung của địch:
    - Bắn vào đó là chắc ăn, mày còn nhận thêm lệnh gì của thẩm quyền nữa không Thành?
    - Bắn tiêu diệt nó và chỉ điểm luôn cho Tiểu đoàn thọc M-79 xuống, đó là lệnh của Ðại bàng.
    Thành bắt đầu xiết cò, có mấy cái xác rơi lộn ngược xuống từ bên kia đồi. Th reo lên:
    - Tiếp, tiếp, kết quả lắm. 
    Thành bậm môi, mắt anh nheo lại, anh ung dung thi hành nhiệm vụ của mình, sự bình tĩnh của anh tạo thêm được kết quả khả quan. Toán Bắc quân bên kia bắt đầu nhớn nhác rồi thối lui trở lại tìm chỗ nấp. Tiếp theo, từng chùm M-79 trên đồi thọc xuống nơi Thành vừa bắn. Tôi tưởng tượng đến những khuôn mặt ngơ ngác của địch vì bị tưới đạn từ sau lưng mà buồn cười. Có lẽ họ chẳng hiểu đạn này xuất phát từ đâu. Bảy Gà, bạn cùng Tiểu đội ngồi ở hố kế cận vừa ném cho tôi điếu Bastos mới đốt vừa nói:
    - Phải chi "em mười sáu" bắn được như vậy tao cũng dự phần.
    Kế hoạch đột kích của Bắc quân bị hỏng, nhưng cũng từ giờ phút ấy họ đã phát hiện ra vị trí của chúng tôi. Chúng pháo liên tiếp mấy trái 82 giữa đỉnh đồi sau khi Hạ sĩ Thành vác đại liên trở về Trung đội, những trái khác nổ chát chúa vòng quanh đồi. Tiếng Thọ hét hòa lẫn với tiếng rơi rào rào của đất đá:
    - Coi chừng chúng nó bò lên sau khi pháo.
    Chúng tôi biết điều đó và chuẩn bị sẵn khá lâu, chả thấy ma nào dẫn xác đến nên chúng tôi quyết định dùng cơm "tại hố", những muỗng cơm sấy trộn thịt hộp sao mà ngọt ngào lạ. Nhưng tôi không có thì giờ thưởng thức lâu, sau mấy ngụm nước tôi đưa hai ngón tay lên môi ra dấu xin thuốc Thọ, anh lắc đầu chỉ tay về hướng chúng tôi đặt ba lô. Tôi leo ra khỏi hố phóng nhanh về phía Thọ chỉ, cho tay vào trong ba lô của anh lấy vội mấy gói thuốc cho vào túi. Chưa kịp nhỏm dậy tôi nghe tiếng đề pa của không giật 75 ở phía trước mặt, tôi chồm lên phóng cật lực về hố cá nhân đồng lượt với tiếng hét của Thọ:
    - Nhanh lên, nó bắn...
    Người tôi vừa rơi tòm xuống hố, đầu va vào bờ thành đau điếng thì một tiếng nổ nhói ngực về phía mấy chiếc ba lô. Tiếp theo một tiếng nữa sát mé hố của tôi, mắt tôi nổ đom đóm, tai ù đi hơn phút sau mới bình thường trở lại. Tôi phủi đất bụi bám trên người vừa quan sát đồng đội hai bên hố, Bảy Gà trố mắt ái ngại nhìn tôi:
    - Có sao không?
    Nó muốn nhảy lên khỏi hố để đến với tôi. Tôi thật sự xúc động, có nguy hiểm mới thấm thía tình đồng đội. Tôi khoát tay la lên:
    - Khỏe, đừng lên, đến lượt mày bây giờ. Nó đang "canh me" mình kỹ lắm đó!
    Tôi ném cho nó bao thuốc lá còn giữ:
    - Chia nhau hút, tao còn nữa.
    Bảy Gà cười hì hì:
    - Y hệt như phim Combat, mày cũng lẹ giò đó chớ.
    Thật ra tên của nó là Nguyễn Văn Bảy, cái tên giản d và dễ nhớ. Phần đông đồng bào 6 tỉnh miền Tây hay theo thứ tự, vai vế của những đứa con trong gia đình mà đặt tên luôn cho họ. Chẳng hạn như: Lê Văn Sáu, Bùi Văn Tám hoặc Tạ Văn Ba... Ngày Bảy chân ướt chân ráo về Tiểu đội, điểm đặc biệt làm mọi người chú ý đến là không chịu ăn thịt gà tây đóng hộp. Hỏi tại sao thì gã phân trần rằng mấy lần gã bị nổi "phong" cùng mình vì ăn cái món Turkey này. Do đó danh từ Bảy Gà Lôi được đặt cho gã, lần la chữ Lôi được bỏ đi cho gọn. Ấy vậy mà có ai ngờ được là nghệ sĩ tính lại tiềm tàng trong tâm hồn gã, tôi khám phá ra điều này khi Tiểu đoàn hành quân ở Gio Linh. Ðêm ấy Ðại đội được nghỉ xã hơi ở căn cứ C2 , trời lạnh buốt, sau ca gác đầu Bảy lò dò đến hầm tôi, gã nhá cho tôi thấy 2 chai rượu Mỹ còn được phần tư. Tôi hỏi:
    - Ở đâu mày có món này vậy? 
    Bảy oang oang:
    - Tao mua lại của dân ngoài làng hồi chiều, nài nỉ hoài họ mới bán. Loại này nhẹ thôi, mày có gì nhậu không?
    Tôi kéo nó luôn vào hầm:
    - Nhỏ lại một chút, chưa uống mà mày lớn tiếng như vậy, chốc nữa chắc mày loạn lên quá. Ông Thi mà nghe được thì phiền lắm đó.
    - Có bi nhiêu đây chỉ đủ để làm ấm lòng tao với mày thôi, còn say sưa thì phải thêm chai nữa.
    Tôi mở một hộp B2:
    - Ðưa cay với Chocolate nghe mậy?
    Bảy gật đầu tiếp:
    - Theo tao nghĩ, tráng sĩ thì cần phải có rượu. Rượu xử dụng đúng lúc, đúng chỗ nó sẽ nung nấu thêm tinh thần người lính, mày có nghe mấy câu thơ cổ này chưa?
    Tôi ngạc nhiên hỏi:
    - Thơ gì?
    Bảy cầm chai rượu tu một hơi,gã khà khà rồi ngâm nga:
    “Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
    Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
    Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
    Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”.
    Tôi thích thú buộc miệng:
    - Hay quá!
    - Hồi còn ở Rừng Cấm, tao lượm được hai câu thơ ghi trên bao thuốc lá như sau:
    “Sức nào mang nổi nghìn cân
    Trai nào sánh được Thủy thần Mũ Xanh”.
    Tao rất khoái, tao học thuộc lòng và đêm nào cũng suy nghĩ tìm hai câu khác sao cho tương xứng, nhưng đầu óc mù mịt quá. Mày tìm thử coi.
    Tôi gật đầu:
    - Ừ, nhưng tao cần phải có thời gian chứ.
    Hai thằng bù khú với nhau tới khuya Bảy mới chịu về hầm. Sáng ra gã đến sớm dựng tôi dậy, tôi gắt:
    - Mày làm cái trò gì vậy?
    - Ðừng nóng, tao đã tìm ra được hai câu thơ rồi. Mày có muốn nghe không?
    Chẳng đợi tôi trả lời, gã đọc luôn:
    - Mãnh Hổ, Kình Ngư tung hoành núi biển 
    Thủy Quân Lục Chiến ngang dọc sông hồ.
    Tôi nhìn gã thán phục:
    - Mày siêu lắm đó Bảy Gà, chắc đêm rồi mày thức trắng để suy nghĩ chứ gì?
    - Ừ, tao chỉ ngủ được khoảng 2 tiếng sau khi tìm ra hai vế này.
    Tôi với gã chơi thân với nhau từ đó.
    Ðịch bắt đầu tấn công vị trí chúng tôi và cả Trung đội, chúng dùng thượng liên và súng không giật bắn phủ đầu ào ạt để cho đồng bọn di chuyển dần lên trên rồi bất thình lình chúng ngưng tác xạ để đồng bọn ở lưng đồi hò hét xung phong. Tiểu đội tôi nằm tiền đồn ngoài hướng có đường mòn nối liền với Trung đội, xung quanh đi dốc đều nghiêng hơn 60 độ. Do đó khi tấn công, địch với trang phục màu xanh cài lá ngụy trang, đạn đeo trước ngực, AK vắt vẻo ngang hông, phải khó khăn di chuyển từ gốc cây này qua gốc cây khác. Nhiều tên trong lúc di chuyển trợt chân té lăn lông lốc xuống phía dưới. Tiếng M-67 và Claymore đã nổ ở hướng của tôi. Bảy Gà bên cạnh thì đề pa bằng lựu đạn. Trời vào buổi trưa nên quan sát rất rõ, tôi bắn dặm mấy trái khá chính xác và các điểm xuất phát của địch rồi lại xoay qua bắn yểm trợ cho các bạn. Mọi người trên đồi ít xử dụng súng, chỉ đợi địch đến vừa tầm tay là tung lựu đạn. Lựu đạn ở đây được đơn vị trấn thủ trước chúng tôi trữ lại rất nhiều. Mặc dù bị thiệt hại vài tên, địch vẫn xông lên được và ném Bêta rải rác quanh đồi. Các bạn tôi phải dùng M-16 mới bắn tỉa được những tên này, chúng lại nấp vào gốc cây bắn trả nhưng chẳng dám bò lên nữa. Cuộc chiến dằng dai cho đến chiều tiếng súng mới êm dần, mùi thuốc súng khét lẹt cộng với mùi tanh tưởi của những tử thi Bắc quân nằm trước mặt chúng tôi bốc lên. Tôi nhìn sang đồng đội, mắt người nào cũng đỏ, mặt họ khắc khổ hơn, nắng, mưa, sương, gió, mấy ngày căng thẳng hình như chưa làm họ mệt mỏi. 
    Im tiếng chưa hẳn là địch thua, họ "hưu chiến giả" để chuẩn bị đánh đêm, lính trấn thủ chúng tôi lại bắt đầu làm cuộc đối phó mới. Trung sĩ Thọ ra lệnh tác xạ đồng loạt lên những điểm nghi ngờ có địch ẩn nấp, tiếp theo là ném lựu đạn vào các lùm bụi vừa tầm tay. Khi không còn tiếng súng bắn trả, chúng tôi biết là họ đã rút dần xuống đồi, tôi đặt súng xuống ngang đồi để đốt một điếu thuốc xả hơi. Mặt trời khuất dần dưới núi rừng trùng điệp. Ðêm ấy, sương mù phủ dày đặc mọi phía, địch đã lơi nhịp pháo, thỉnh thoảng thọc sang đồi chúng tôi một trái 75. Trung sĩ Thọ điều động anh em đổi hố với nhau, tu sửa thêm cho chắc chắn. Tôi được chỉ định sang nằm ở phía đường mòn, sau một cuộc giáp chiến, kinh nghiệm cho biết nơi nào cần được bố trí hỏa lực cho thích hợp và để tránh sự điều nghiên của địch. Thọ là con cáo già của chiến trường, anh trải qua nhiều năm trong quân ngũ, do đó anh đoán trước được địch muốn gì, lối tác chiến của từng đơn vị Cộng Sản. Ðâu vào đó xong Thọ bò đến từng hố ân cần dặn dò anh em cố gắng, có thể địch lợi dụng trời tối mà tấn công mạnh hơn. Khoảng 20 giờ, một tràng bom dây nổ rền như sấm làm rung rinh mặt đất, một tràng nữa, tràng nữa... nổ tiếp theo. Chúng tôi la lên:
    - B-52! 
    Thọ nói với một giọng nghiêm trọng:
    - Chuẩn bị đi, chúng nó sẽ kéo lên đánh liều mạng để tránh bom.
    Quả thật, sau nửa giờ ăn bom, qua ánh sáng chập chờn của hỏa châu, những bóng ma trơi thất thểu, lố nhố kéo lên đồi. Họ mất đi cái vẻ hăm hở lúc ban đầu, trước tấm thảm bom khủng khiếp đang trải dưới đồi những thân người này hy vọng sẽ tìm được cái sống ở phía trên cao, nếu có bị thì cái chết cũng tương đối nhẹ nhàng nên họ hỗn loạn, xô bồ, tranh nhau bò lên. Tiếng M-76 và Bêta lẫn lộn mọi phía, tôi không nhớ được tôi đã bắn đến trái đạn thứ mấy, chỉ biết từ trái sang phải 3 và "rờ tua" 3. Tiếng bom B-52 lại tiếp tục nổ long trời.
    Ðêm về khuya, tiếng nổ lơi dần rồi im hẵn. Miệng tôi khô đắng, mí mắt nặng trĩu xuống, tôi tựa lưng vào thành hố lấy nước ra uống. Lúc này nếu được nằm ngửa người ra hẵn tôi sẽ ngủ ngon lắm, nhưng quân thù còn đang rình rập đó đây, chợp mắt xuống là hiểm nguy sẽ đến cho mình và đồng đội...Có 3 tiếng súng nổ ở phía đường mòn, đó là mật hiệu của Trung đội, Thọ bắn trả lời rồi cùng với Quốc bò ra nhận lệnh, chốc sau họ trở lại, Thọ trầm giọng:
    - 15 phút thu xếp để di chuyển về Cùa, lệnh của Tiểu đoàn...
    Chính lúc này Thọ mới cho chúng tôi biết Bảy Gà đã chết, những lúc lâm trận Thọ thường tới lui đôn đốc và yểm trợ anh em. Khi phát giác ra Bảy Gà hy sinh, anh đã trám hố nó và chiến đấu luôn. Tôi đến mang thi thể Bảy lên, đặt nằm dài trên mặt đất. Khi cởi chiếc thẻ bài của nó, tay tôi chạm phải những mảnh thịt nhày nhụa trước ngực bạn tôi... Cố dằn đi tiếng nấc, tôi vuốt mắt cho Bảy. Nó bị Bêta và chết trong lúc địch tràn lên, vì không muốn chúng tôi giao động tinh thần nên Thọ giấu kín cho đến giờ chót. Ðường về Cùa sẽ còn nhiều gian nan, Bắc quân chắc chắn nằm nhan nhản khắp nơi. Chúng tôi buộc lòng phải mai táng đồng đội tại chỗ.
    - Thôi Bảy nhé, mày an nghỉ ở đây, đó là điều làm cho tụi tao đau lòng không ít, nhưng tao biết hồn mày sẽ ngậm cười. Vì chả là mày hiểu và rất thích câu thơ "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" sao? Kìa là Ðộng Toán, ở đó vẫn còn nhiều anh hồn của đồng đội hy sinh như mày, mày sẽ không bao giờ cô đơn... Vĩnh biệt!
    Chúng tôi chào mộ Bảy lần cuối trước khi xuống đồi. Nắng sớm xuyên qua cành lá rải lên trên đường những cụm hoa trắng sáng. Xa xa Ðộng Toán ẩn hiện trong sương mờ, đơn vị tôi âm thầm di chuyển, tôi chợt bắt gặp hai câu thơ: "Mãnh Hổ, Kình Ngư tung hoành núi biển/ Thủy Quân Lục Chiến ngang dọc sông hồ", được viết bay bướm trên vải ngụy trang nón sắt của Quốc, tôi hỏi nó:
    - Mày lấy cái này ở đâu vậy?
    - Tao đổi nón với thằng Bảy lúc xuống đồi, kỷ niệm mà!
    MX Trần Ngọc Nam



Uống nước không đủ làm gia tăng nồng độ hormone gây căng thẳng có hại


Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng những người uống nước ít hơn 1,5 lít mỗi ngày có nồng độ cortisol cao hơn đáng kể trong các bài kiểm tra căng thẳng.

Uống không đủ nước làm gia tăng nồng độ hormone gây căng thẳng có hại (Ảnh minh họa: Shutterstock)

Uống nước giúp kiểm soát căng thẳng

Một nghiên cứu mới cho thấy việc bù nước là chìa khóa để kiểm soát căng thẳng.

Những người uống ít hơn 7 cốc nước, tương đương 1,5 lít nước mỗi ngày, có mức phản ứng cortisol với căng thẳng cao hơn 50% so với những người uống đủ lượng nước khuyến nghị.

Mức biến đổi nồng độ Cortisol giữa 2 nhóm uống ít nước và đủ nước

Các nhà nghiên cứu tại Đại học Liverpool John Moores (LJMU) đã công bố nghiên cứu này trên Journal of Applied Physiology (Tập san Sinh lý học Ứng dụng).

Trong số 62 tình nguyện viên khoẻ mạnh tham gia, 32 người được chọn có cả thói quen uống ít nước và thói quen uống nhiều nước.

Những người thường uống ít hơn 1,5 lít nước mỗi ngày được coi là nhóm “uống ít nước”, trong khi nhóm “uống nhiều nước” bao gồm những người uống đủ lượng khuyến nghị là 2 lít đối với nữ và 2,5 lít đối với nam.

Trong suốt 7 ngày, lượng nước đưa vào cơ thể của các tình nguyện viên được theo dõi chặt chẽ. Họ trải qua bài kiểm tra căng thẳng (Trier Social Stress Test – TSST) — một bài kiểm tra tâm lý thường dùng để đánh giá phản ứng căng thẳng — đồng thời được kiểm tra các chỉ số sinh học về tình trạng hydrat hóa qua mẫu máu và nước tiểu.

Sau bài kiểm tra căng thẳng, nồng độ cortisol tăng rõ rệt ở nhóm uống ít nước, đạt đỉnh khoảng 20 phút sau test, trong khi nhóm uống đủ nước hầu như không có sự thay đổi đáng kể. Điều này cho thấy tình trạng hydrat hóa kém làm tăng cường và kéo dài phản ứng nội tiết đối với stress.

Thay đổi mức cortisol theo thời gian

Nghiên cứu phát hiện ra rằng uống quá ít nước làm tăng các vấn đề sức khỏe liên quan đến căng thẳng ở cả nam và nữ.

Giáo sư Neil Walsh, trưởng nhóm nghiên cứu tại Khoa Khoa học Thể thao và Vận động của trường LJMU, cho biết trong một thông cáo báo chí rằng việc giữ một chai nước bên cạnh trong những lúc căng thẳng có thể mang lại lợi ích tiềm năng cho sức khỏe lâu dài.

“Cortisol là hormone căng thẳng chính của cơ thể và phản ứng quá mức của cortisol với căng thẳng có liên quan đến việc tăng rủi ro mắc bệnh tim, tiểu đường và trầm cảm”, ông Walsh cho biết.

Một thành viên của nhóm nghiên cứu, Tiến sĩ Daniel Kashi, cho biết trong một thông cáo báo chí rằng “cả hai nhóm đều cảm thấy lo lắng như nhau và nhịp tim tăng tương tự nhau trong quá trình kiểm tra căng thẳng”.

Ông nói thêm rằng “chỉ có nhóm ‘uống ít nước’ mới cho thấy sự gia tăng đáng kể nồng độ cortisol trong nước bọt sau bài kiểm tra căng thẳng”.

“Mặc dù nhóm uống ít nước không hề cho biết họ cảm thấy khát hơn, nhưng nước tiểu của họ sẫm màu và cô đặc hơn, dấu hiệu rõ ràng của tình trạng thiếu nước”, ông Kashi cho biết.

“Điều quan trọng là tình trạng thiếu nước có liên quan đến phản ứng cortisol mạnh hơn với bài kiểm tra căng thẳng. Phản ứng này, nếu kéo dài, có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe lâu dài”, ông Kashi nói thêm.

Theo Cleveland Clinic, tình trạng mất nước lâu dài có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng hơn như tổn thương và suy thận, lo âu và trầm cảm, các vấn đề về tim và tiểu đường.

Tại sao mất nước lại có hại?

Nguyên nhân là vì mất nước kích hoạt việc giải phóng hormone vasopressin, gây áp lực lên thận, khiến việc cô đặc nước tiểu và cân bằng điện giải trở nên khó khăn hơn.

Theo thông cáo của LJMU, “Vasopressin cũng tác động lên trung tâm phản ứng căng thẳng của não, ảnh hưởng đến việc cơ thể tiết ra cortisol”.

Thông cáo cho biết thêm: “Vai trò kép này của vasopressin giúp duy trì thể tích máu và cân bằng điện giải, nhưng cũng làm tăng cortisol”.

Mặc dù các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng nên tuân thủ các khuyến nghị về lượng nước uống, nhưng vẫn cần thêm nhiều nghiên cứu dài hạn hơn nữa.

Các nhà nghiên cứu cho rằng việc theo dõi màu nước tiểu là một cách tốt để mọi người kiểm tra tình trạng mất nước của mình.

Màu nước tiểu vàng nhạt thường cho thấy cơ thể đã được cung cấp đủ nước.

“Uống đủ nước có thể giúp cơ thể bạn kiểm soát căng thẳng hiệu quả hơn”,ông Kashi nói.

Nguyên Khang t/h



Hạ viện Mỹ thông qua dự luật nhằm ngăn chặn fentanyl từ Trung Quốc

image.png
The Epoch Times

Hôm 2/9, Hạ viện Hoa Kỳ đã thông qua một dự luật nhằm ngăn chặn dòng chảy fentanyl từ Trung Quốc với tỷ lệ áp đảo 407–4. 

Fentanyl – giống như lô hàng bị DEA thu giữ này – đi theo con đường chết chóc từ Trung Quốc qua Mexico tới các đường phố của Mỹ. (Nguồn ảnh: DEA)

Dự luật có tên Đạo luật Ngăn chặn Fentanyl Trung Quốc, do Dân biểu Andy Barr (Đảng Cộng hòa, bang Kentucky) đề xuất, sẽ áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với các nhà sản xuất Trung Quốc sản xuất opioid tổng hợp và các hóa chất tiền chất opioid.

Dự luật này sẽ sửa đổi Đạo luật Trừng phạt Fentanyl, cho phép Chính phủ Hoa Kỳ áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với các cá nhân và thực thể Trung Quốc liên quan đến việc sản xuất, bán, tài trợ hoặc vận chuyển opioid tổng hợp hoặc các hóa chất tiền chất của chúng. Dự luật cũng sẽ quy trách nhiệm đối với những người từ chối hợp tác với các nỗ lực chống ma túy của Hoa Kỳ trong việc phát hiện hoặc ngăn chặn buôn bán opioid.

Dân biểu Andy Barr, trong một tuyên bố vào ngày 30/1, cho biết: “Đảng Cộng sản Trung Quốc đóng vai trò nổi bật trong mọi bước của cuộc khủng hoảng fentanyl, từ việc sản xuất các hóa chất tiền chất đến rửa tiền lợi nhuận của các băng đảng, tài trợ cho hoạt động buôn lậu bất hợp pháp vào Hoa Kỳ.”

Trong năm tài khóa 2024, Hoa Kỳ đã thu giữ hơn 27.000 pound fentanyl, phần lớn các vụ tịch thu diễn ra tại biên giới phía nam, theo Bộ An ninh Nội địa.

Mặc dù Trung Quốc đã cấm xuất khẩu fentanyl sang Hoa Kỳ vào năm 2019, nước này vẫn là nguồn cung cấp chính của loại ma túy bất hợp pháp này, được biết là thường xuyên được vận chuyển qua biên giới phía nam thông qua các băng đảng Mexico.

Dân biểu Greg Murphy (Đảng Cộng hòa, bang Bắc Carolina) trong một tuyên bố vào ngày 30 tháng 1, nhấn mạnh: “Thảm họa opioid ở Mỹ được thúc đẩy bởi fentanyl được vận chuyển từ Trung Quốc và buôn lậu vào các cộng đồng của chúng ta qua Mexico. Chúng ta không thể để sự tàn phá này tiếp diễn và phải đứng lên đối đầu với Đảng Cộng sản Trung Quốc.”

Dự luật yêu cầu tổng thống phải đệ trình một báo cáo định kỳ lên Quốc hội nếu tổng thống ban bố tình trạng khẩn cấp quốc gia liên quan đến vấn đề fentanyl từ Trung Quốc.

Báo cáo này, gửi đến các Ủy ban Giám sát Hạ viện, Dịch vụ Tài chính, Ngoại giao, cũng như các Ủy ban An ninh Nội địa, Quan hệ Đối ngoại và Ngân hàng của Thượng viện, sẽ đánh giá “hiệu quả của việc thực thi quyền hạn trong việc giải quyết tình trạng khẩn cấp được đề cập, xem xét ý kiến của các bên liên quan trong khu vực công và tư nhân, đồng thời thảo luận về bất kỳ thay đổi tiềm năng nào đối với việc thực thi quyền hạn nhằm giải quyết hiệu quả hơn tình trạng khẩn cấp được đề cập.”

Một nghị sĩ từ bang Iowa nhấn mạnh rằng Bắc Kinh phải chịu trách nhiệm.

Dân biểu Zach Nunn (Đảng Cộng hòa, bang Iowa) trong một tuyên bố vào ngày 30/1, nói: “Fentanyl là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu cho người Mỹ từ độ tuổi của con gái tôi đến độ tuổi của tôi. Cần phải có sự thay đổi. Việc bảo vệ biên giới là bước đầu tiên để ngăn chặn nạn fentanyl đang tràn vào các cộng đồng của chúng ta. Nhưng chúng ta cũng phải cắt đứt nguồn cung của các băng đảng ngay tại gốc rễ. Điều đó bắt đầu bằng việc quy trách nhiệm cho Đảng Cộng sản Trung Quốc vì vai trò của họ là nhà sản xuất, cung cấp và rửa tiền chính cho các loại ma túy bất hợp pháp này trên toàn thế giới.”

Ông Trump nhắc ông Tập đề cập đến sự “hỗ trợ” và “xương máu” của lính Mỹ

Theo The Epoch Times
Thanh Phong biên dịch



Nước Mỹ Trong Mắt Người Đàn Bà Nội Trợ - 15/08/2025 
-Phương Lâm

  • <image.png>

    Bài viết bày tỏ nhiều trăn trở, suy nghĩ của một người dân bình thường-người đàn bà nội trợ- về hiện trạng xã hội và con người của nước Mỹ ngày nay.
     
    ***
     
    Tôi không phải là chính trị gia, không phải là nhà báo, không phải là nhà bình luận thời sự. Tôi chỉ là người đàn bà bình thường trong xã hội Mỹ.  Một người nội trợ, lo chuyện cơm áo, gạo tiền, lo giữ mái nhà ấm cúng, nuôi dạy con cái nên người, và theo dõi tin tức từng ngày với tấm lòng yêu quê hương thứ hai của mình “Nước Mỹ”.

    Tôi đến Mỹ gần ba mươi năm, như bao người Việt khác, sau biến cố 1975. Tôi không quên cội nguồn, nhưng cũng dần xem nước Mỹ là quê hương thứ hai. Nơi tôi dựng xây cuộc đời, nuôi dạy con cái, và vun đắp những giá trị mà tôi tin là cao đẹp: “Tự do, dân chủ, nhân quyền, và sự tôn trọng lẫn nhau.”

    Những năm gần đây, mỗi sáng ra thùng thư lấy tờ báo, mỗi lần mở TV xem tin tức, lòng tôi lại thêm phần lo lắng. Nước Mỹ mà tôi từng yêu quý, từng ngưỡng mộ, vì sự vững chãi và công bằng, về nền dân chủ, về đạo đức chính trị, đang trở nên chia rẽ, xáo trộn, và lắm khi hỗn loạn.

    Là một người mẹ, một người nội trợ, tôi đặt câu hỏi: Ai đang yêu nước thật sự? Và ai đang phá hoại nước Mỹ này.

    Nước Mỹ của hôm nay, như một cơ thể có nhiều vết thương, một số do kẻ thù gây ra, nhưng nhiều vết do tự mình làm. Tôi nhận thấy, đất nước chia rẽ không phải vì chính trị, mà thiếu sự tôn trọng nhau. Nước Mỹ với tôi, không chỉ là một cường quốc, một đất nước rộng lớn, mà là một gia đình, đa chủng tộc, đa văn hóa, đa quan điểm. Một gia đình như bất cứ mọi gia đình trong xã hội, không làm sao tránh được sự tranh cãi. Điều đáng buồn ở đây, gia đình này hầu như họ không còn lắng nghe nhau, không còn bàn luận để hiểu, mà chỉ tranh luận để thắng.

    Truyền thông thì phân hóa, thổi phồng nhiều khác biệt. Mạng xã hội đưa tin, khiến người đọc sống trong ảo tưởng, sẵn sàng bôi nhọ bất cứ ai nghĩ điều khác về mình. Bên phe bảo thủ, coi phe cấp tiến là nguy hiểm. Người cấp tiến coi người bảo thủ là lạc hậu. Người ta sống trong những bong bóng thông tin riêng. Chỉ nghe điều mình muốn nghe, chỉ đọc những gì củng cố lập luận của mình. Hàng xóm không còn chào nhau nếu biết người kia ủng hộ đảng đối lập.Tôi cũng thấy hai người bạn lẫy hờn nhau, chỉ vì bất đồng ý kiến với một vị Tổng thống. Con cái trong nhà nhiều khi bất đồng với cha mẹ, vì ý tưởng chính trị. Đó là điều đau lòng của những người làm mẹ.

    Có người sẽ hỏi. Một người đàn bà nội trợ có thể làm được gì cho đất nước này? Tôi đã từng suy nghĩ như thế. Sau bao nhiêu năm sống ở nước Mỹ, tôi hiểu rằng chính những người tưởng chừng nhỏ bé, lại đang gánh vác phần lớn sức sống của đất nước này.

    “Tề gia, trị quốc…” thực tế, ai là người lo tề gia. Chúng ta đã thấy nhiều phụ nữ bước vào chính trường, từ cấp địa phương đến Quốc Hội. Họ không để quyền lực làm mình thay đổi, mà mang vào chính trường, trái tim của người mẹ, công bằng, cảm thông và bền bỉ.

    Là bà nội trợ, tôi không quan tâm đến khẩu hiệu, hay những bài diễn văn hùng hồn. Tôi chỉ quan tâm đến giá cả thực phẩm mỗi khi đi chợ, học phí đại học của con cái, an toàn trên đường phố, và lòng trung thực của người lãnh đạo. Tôi không kỳ vọng ai hoàn hảo, chỉ muốn họ yêu nước thật sự, nghĩa là họ đặt quyền lợi đất nước lên trên quyền lợi cá nhân, hay đảng phái, sẵn sàng đấu tranh vì sự tồn vong và phẩm giá của đất nước.

    Nhưng trớ trêu thay những người yêu nước lại trở thành nạn nhân, bị truy sát, bị vu khống. Câu hỏi được đặt ra trong lương tri nhân loại- tại sao bằng cách này hay cách khác, người ta luôn muốn giết người yêu nước. Tôi nghĩ rằng, vì lương tâm người yêu nước không dễ khuất phục, họ không im lặng trước bất công. Họ là những tiếng nói cảnh tỉnh, là ánh đuốc trong đêm tối, ánh sáng ấy thường chói mắt những kẻ đang hưởng lợi trong bóng tối. Bởi vậy để duy trì vị thế, quyền lực, hoặc trật tự giả dối, những kẻ cầm quyền hèn hạ, và bè phái tay sai, sẵn sàng tiêu diệt người yêu nước vì họ là mối đe dọa.


    Yêu nước trong lòng tôi, không phải lên mạng xã hội la hét “Tôi yêu nước Mỹ”, cũng không phải giơ cao cờ Mỹ trong các cuộc biểu tình, rồi đập phá tài sản công. Người yêu nước thật sự, là người âm thầm làm việc, đóng thuế đầy đủ, nuôi dạy con cái thành công dân tốt, tôn trọng pháp luật, và không châm dầu vào lửa khi xã hội đang căng thẳng.

    Tôi thấy tấm gương yêu nước, thể hiện qua những Y Tá, Bác Sĩ, suốt mùa dịch, không quản ngại nguy hiểm để cứu người.    Tôi thấy yêu nước thể hiện qua, những giáo viên đứng lớp mỗi ngày, với đồng lương khiêm tốn, nhưng trái tim họ đầy nhiệt huyết.

    Người yêu nước là người biết rằng, họ có quyền nói, nhưng phải biết chịu trách nhiệm với lời nói của mình.  Là người biết xuống đường biểu tình ôn hòa, khi bất công xảy ra, không đập phá, không kích động hận thù.  Là người chấp nhận kết quả bầu cử, dù thắng hay thua, tin vào nền dân chủ.

    Ai là người phá hoại? Cho dù họ mang danh là lãnh đạo, là công dân, là người biểu tình, hay là những kẻ đứng sau xúi giục?   Phá hoại, không chỉ là những kẻ khủng bố, cho nổ bom, xả súng vào trường học, hay nơi công cộng, mà phá hoại  là gieo rắc tin giả, khiến cho người dân nghi ngờ tất cả, từ chính phủ, đến hàng xóm của mình,

    Phá hoại là những kẻ nhân danh tự do, để kích động bạo lực, đập phá, đốt cơ sở công quyền. Là những chính trị gia, đặt quyền lợi cá nhân và đảng phái, lên trên an nguy của đất nước. Là những người khinh thường luật pháp, lợi dụng quyền tự do để làm loạn, để sỉ nhục người khác.

    Sự phá hoại không phải từ ngoài vào, mà chính từ những con người, sống trên đất nước này mà không yêu quý nó. Có khi sự phá hoại đến từ lòng tham, tham tiền, tham quyền, tham tiếng. Đến mức bóp méo sự thật, bóp méo niềm tin. Có khi đến từ sự vô cảm. Thấy bất công làm ngơ. Thấy lừa đảo không lên tiếng. Thấy sự thật nhưng quay mặt đi vì quyền lợi riêng.

    Nỗi lo của người làm mẹ, làm vợ. Là phụ nữ, tôi không mang súng ra chiến trường, nhưng là người giữ lửa cho gia đình. Tôi dạy con tôi biết đúng sai, biết sống tử tế, biết tôn trọng người khác. Cũng có điều tôi lo lắng. Liệu con tôi lớn lên trong một nước Mỹ đang mất niềm tin vào bầu cử, vào tòa án, vào truyền thông và lẽ phải, chúng còn  tự hào khi đứng dưới lá cờ Mỹ không?

    Tôi cũng lo, con tôi có thể bị tẩy chay khi tới trường, vì màu da, hay vì niềm tin. Tôi cũng lo mỗi lần bầu cử là một lần xã hội lại rạn nứt, bạn bè xa nhau. Tôi lo khi chính trị không còn là nơi tìm kiếm sự thật, mà chỉ là trò chơi quyền lực.

    Tôi chỉ mong người Mỹ, bất kể nguồn gốc, tôn giáo, màu da, hay chính kiến, ngồi lại với nhau, nói chuyện với nhau như người một nhà. Đừng coi nhau là kẻ thù, mà là Đồng Bào. Cùng chèo chung một chiếc thuyền, đang lênh đênh giữa sóng lớn.

     “IN GOD WE TRUST. Tôi tin vào Hiến Pháp Hoa Kỳ, một trong những bản Hiến Pháp vĩ đại nhất thế giới. Tôi tin vào tiếng nói của người dân. Tôi tin vào những thế hệ trẻ đang trưởng thành, với tấm lòng cởi mở và tinh thần dấn thân.

    Tôi không kỳ vọng có sự thay đổi tất cả, Nhưng nếu mỗi người nội trợ, mỗi công nhân, mỗi giáo viên, mỗi người lính, và mỗi cán bộ các ngành khác nhau… đều sống tử tế, đều chọn yêu nước bằng những việc làm nhỏ mỗi ngày, vì chính tất cả đó là “lòng dân”. Đất nước sẽ đổi thay, không cần phải có một vị cứu tinh đến từ chính trường.

    Yêu nước không phải là chuyện lớn lao. Mà yêu nước khi bạn dạy con cháu, không nói dối, không buông lời hận thù. Hãy yêu nước bằng hành động cụ thể hàng ngày. Hãy dũng cảm nói sự thật, dù có thể bị hiểu lầm. Hãy biết khiêm nhường, lắng nghe người khác, ngay cả khi họ nghĩ khác về mình. Một đất nước lớn mạnh không nằm ở những lời hô hào, mà nằm trong sự chính trực của người dân và bằng trái tim sáng suốt và xây dựng.

    Tôi là một người đàn bà nội trợ. Không có danh tiếng. Không có quyền lực. Tôi chỉ có một trái tim và tôi tin nước Mỹ còn rất nhiều trái tim như thế.
     
    Phương Lâm
     


Mẹ Tôi Người Vợ Lính Miền Nam

5431 MeToi VoLinhMienNamTrangDiep

       Mẹ tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có, ông bà ngoại là điền chủ ruộng cò bay thẳng cánh ở miệt Phú Xuân Nhà Bè. Mẹ được ăn học ở thành phố, sau thời trung học ở trường Gia Long rồi đến Đại học Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt.

       Ba tôi lại sinh trưởng trong gia đình nông dân nghèo khó, gia đình lại đông anh em, nhưng được cái Ba tôi học giỏi, hiền lành và rất có hiếu. Cũng vì gia đình bên ngoại ngăn cản nên Ba tôi "thất tình", đăng lính dù cổng trường Đại học Văn Khoa, Sư Phạm đang rộng mở. Bà Ngoại làm mối cho Mẹ nhiều người nhưng Mẹ đều lắc đầu. Khi Ba tôi học xong khóa sĩ quan Thủ Đức 16 và được thăng cấp bậc Đại Úy, và Mẹ tôi thì cũng "chưa có ai" khi tuổi gần ba mươi. Có thể vì vậy mà bà ngoại tôi xiêu lòng và đồng ý cho Ba Mẹ tôi lấy nhau vào những ngày cuối năm 1969.

       Dù bị ngăn cản từ đầu và phải qua nhiều khó khăn, thử thách, Ba Mẹ tôi mới đến được với nhau, nhưng sau đó, Ba tôi lại là người con rể được bà Ngoại yêu quý nhất.

     Cưới xong là Ba tôi ra mặt trận, đi khắp các chiến trường miền Nam từ Quảng Trị, Khe Sanh đến Long Giao, Long Khánh, Bình Long, Phước Long. Ngày tôi chào đời, Ba tôi còn chiến đấu tận bên Lào, bên Cam Bốt. Ôi! Những người vợ lính thời chiến!

       Chiến tranh leo thang trong giai đoạn 70-74 thật khốc liệt. Mùa hè đỏ lửa 72, những trận đánh dữ dội ở Khe Sanh, Bình Giã, Đồng Xoài..., tin tử trận dồn dập về từng giờ, từng ngày. Mẹ như ngồi trên đống lửa. Mẹ vừa đi làm ở Tòa Đô Chánh vừa nuôi dạy chúng tôi và trông ngóng tin tức của Ba ngoài mặt trận, đứng ngồi không yên.

       Ngày mất miền Nam, Ba tôi đi tù. Mẹ bụng mang dạ chửa, một mình sinh nở. Thằng em tôi ra đời vào tháng Sáu năm đó, đúng lúc gia đình đau thương và túng quẫn nhất. Mẹ một thân một mình, mấy đứa con còn nhỏ xíu, không tiền bạc. Với cái lý lịch "ngụy quyền" và có chồng đi "học tập cải tạo" không còn nơi nào dám nhận Mẹ vào làm. Mẹ xoay sở mọi cách để chúng tôi có cái ăn hàng ngày, đồ đạc trong nhà lần lượt ra đi đến khi không còn gì có thể bán được, Mẹ phải đi bán hàng rong cực nhọc đủ điều, nhưng Mẹ không có nửa lời than van.

       Tôi còn nhớ, mỗi lần tết đến, vì không có tiền mua quần áo mới cho chúng tôi, Mẹ ngồi cắt từng chiếc áo dài của Mẹ khi xưa để may cho chúng tôi những bộ đồ mới đi chúc Tết họ hàng. Mẹ không muốn chúng tôi buồn và tủi thân, một mình Mẹ cam chịu.

       Sau vài năm bặt tin của Ba, gia đình nhận được tin về người ở tận trại tù vùng Hoàng Liên Sơn Yên Bái, mẹ tôi lại lo khăn gói lên đường thăm Ba. Thời đó, từ Nam ra Bắc quả là "gian khổ chập chùng", phải đổi bao nhiêu chuyến tàu, chuyến xe, băng rừng lội suối mới tới chỗ Ba tôi bị giam giữ. Thân trong lao tù, nhưng Ba luôn an ủi khích lệ gia đình, cứ mỗi độ xuân về Ba lại gởi cho chúng tôi những bài thơ Ba làm, khuyên nhủ dạy bảo chúng tôi.

     Suốt tám năm ròng, Mẹ tôi tảo tần nuôi con, nuôi chồng không quản thân mình. Có thời ngăn sông cấm chợ, Mẹ phải gởi chúng tôi cho bà Nội, đi buôn chuyến Sài Gòn Phan Thiết. Sau mấy lần bị tịch thu hàng, Mẹ tôi không còn vốn liếng đi buôn nữa nên tiếp tục việc chạy hàng rong ngoài chợ. Tôi cũng ôm thùng cà-rem ngồi bán ở góc đường đầu ngõ cùng mấy thứ bánh kẹo lặt vặt bán cho mấy đứa con nít trong xóm để kiếm thêm ít tiền phụ mẹ phần nào.

       Khi tới mùa lúa, Mẹ tôi về Nhà Bè làm ruộng với gia đình cô tôi để được chia chút gạo trắng cho chúng tôi có những bữa cơm không độn khoai mì, bo bo. Từng là tiểu thư thành phố, có ăn có học, nhưng công việc nặng nhọc đã cướp đi vẻ quý phái của Mẹ tự khi nào. Nhìn mái tóc điểm sương, đôi tay thô ráp, gương mặt hằn nỗi nhọc nhằn sớm tối của Mẹ, chúng tôi thấy thương Mẹ vô cùng.

       Hàng đêm trước khi ngủ, mấy mẹ con trên một chiếc giường chật như nêm nhưng chúng tôi rất thích, không ai chịu đi ra chỗ khác ngủ. Chúng tôi lớn dần theo những câu chuyện cổ tích của Mẹ kể. Mẹ tôi đã bươn trong rác rưởi đọa đày mà đi, nhưng Mẹ vẫn dành cho chúng tôi những niềm vui trẻ thơ, con cái vẫn là tài sản quý giá và quan trọng nhất đối với Người. Mẹ muốn chị em chúng tôi biết yêu thương nhau, biết hy sinh chia xẻ cho nhau; có ký ức tốt đẹp về tuổi thơ của mình; có kỷ niệm về gia đình êm ấm. Mẹ nói "Con người ta nghèo nàn về vật chất không sao, nhưng ai nghèo nàn về tâm hồn và tâm linh thì đáng tiếc lắm các con ạ. Mẹ muốn các con dù trong hoàn cảnh hiện tại khó khăn đói nghèo, nhưng tâm hồn mình không nghèo nàn". Mẹ là người đi góp nhặt từng niềm vui, tiếng cười cho chúng tôi trong những hoàn cảnh bi thương nhất của cuộc đời.

       Cuối cùng, sau bao nhiêu năm mỏi mòn trông ngóng, Ba tôi trở về từ trại tù. Nhưng gia đình chúng tôi đoàn tụ chẳng bao lâu thì Ba tôi từ trần, khi Mẹ mới vào cái tuổi bốn mươi hai. Nhiều tai nạn dồn dập đổ xuống gia đình tôi, nhưng một lần nữa, vì chúng tôi, Mẹ không ngã gục.

       Sau khi chúng tôi tới được đất Mỹ, một lần nữa, vì con cháu, Mẹ đành bỏ lại quê hương, nơi Mẹ đã sống gần bảy mươi năm; sang một đất nước xa xôi, lạ lẫm, bất đồng ngôn ngữ, văn hóa. Lòng Mẹ đau đáu nhìn về nơi chôn nhau cắt rốn, đau xót; nơi ấy Ba tôi đã nằm xuống, mồ im mả lạnh.

       Cuộc đời của Mẹ tôi, cũng như của tất cả những bà Mẹ Việt Nam cùng thời, buồn nhiều hơn vui. Thời chiến thì mất chồng, mất con, sống trong cảnh đạn bom khói lửa và những cuộc di cư lánh nạn triền miên; đến “thời bình” thì bị giam cầm, nghèo khổ trong trại tù lớn là cả quê hương Việt Nam. Sang đến Mỹ, một đất nước giàu có, tự do thì lại làm những công việc chân tay cực khổ, nuôi con ăn học. Nhưng khi con khôn lớn, lập gia đình, thì cũng chỉ một mình mẹ trong căn nhà trống vắng.

       Trong mùa lễ Vu Lan, tôi tự hứa với lòng mình là sẽ làm mọi thứ để giữ nụ cười và chút niềm vui còn sót lại trên gương mặt đã già nua và hằn những vết đau khổ của Mẹ.

       Cầu mong cho những tháng ngày còn lại của các bà mẹ được yên bình, vui vẻ bên cháu con.

Trang Diệp

Share Lại Người Lính Già TQLC




GIỌNG CA THỜI "ĐỎ LỬA"

  • GIỌNG CA THỜI "ĐỎ LỬA"
    ( Gởi Mũ Nâu Nguyễn Văn Kiệt TS / LĐ7 BĐQ và Trung Nghĩa )
    Câu chuyện bắt đầu bằng nụ cười và ánh mắt nhìn nhau trong cơn se lạnh của một sáng đầu xuân tại Đà Lạt. Đúng hơn, phải nói là duyên hạnh ngộ của chúng tôi bắt đầu từ nửa đêm hôm trước. Tối hôm đó, chầu cà phê của nhóm trọ học - theo thông lệ cuối tuần tổ chức trong trong phòng tôi - tan hàng cũng khá muộn. Dù vậy, tôi vẫn còn nằm hút thuốc, nghe nhạc từ chiếc Panasonic, đặt sát cạnh đầu giường để tiện tay đổi mặt, hay thay băng cassette. 

    Trong đêm khuya, tiếng hát của Bobby Goldsboro qua bài Honey nghe "thấm thía" gì đâu! Đang là đà thả hồn theo khói thuốc và âm điệu trữ tình của bài hát, thì từ dưới sàn có tiếng động vang lên khá...rộn ràng và khẩn thiết. Tôi vừa xuống giường chưa biết làm gì, thì có tiếng nói từ dưới nhà vọng lên:
    - Có thể mở nhạc lớn thêm chút nữa được không?
    Tôi nằm mọp xuống sàn gỗ, vừa dán mắt xuống khe hở, vừa trả lời:
    - Mở lớn quá sẽ phiền các bạn trên này. Mấy bồ lên đây đi. Nhâm nhi cà phê và nghe nhạc cho vui! 
    Một giọng từ dưới vang lên, kèm theo một mảnh giấy nhét qua khe hở:
    - Lười lắm! Đang có màn Cà phê Nhạc dưới này đây.
    A! Thì ra tối nay, dưới đất và trên lầu đều có màn văn nghệ bỏ túi! Tôi vừa nhủ thầm, vừa đọc mấy chữ trên mảnh giấy "Có nhạc Hit Parade không?". Tôi ghi gọn câu trả lời "Có đầy đủ!" rồi nhét mảnh giấy trở lại. Sau đó, chiếc Panasonic từ trên giường cũng "hạ sàn", với chút volume được tăng thêm cho các bạn phía dưới nhà nghe rõ hơn.  Họ, những bạn trẻ chỉ quen mặt, chưa biết tên, đều là sinh viên - học sinh của Viện Đại Học và College D'Adran ngôi trường dòng nổi tiếng không kém Lycée Yersin của Đà Lạt. 

    Rồi cứ thế, 2 cuộn băng cassette thâu nhạc Anh - Pháp - Mỹ - Việt, bao gồm những giọng hát và ban nhạc thời thượng như Beatles, Rolling Stones, CCR, Carpenters, Grand Funk Railroad, Black Sabbath, Rod Stewart, Simon& Garfunkel, Lobo, Neil Diamond... Françoise Hardy, Sylvie Vartan, Christophe... Thái Thanh, Lệ Thu, Thanh Lan...lần lượt được tôi "phục vụ" thính giả dưới nhà cho tới khi giấc ngủ chợt đến lúc nào không biết.

    Sáng dậy đã thấy có một mảnh giấy nhú lên. "Cám ơn nhiều. Nghe đã lắm!". Biết các bạn dưới lầu đã rời phòng nên tôi chỉ liếc qua rồi xuống lầu, ra sân lấy xe để chạy xuống Café Không Tên dưới dốc Nhà Thờ, mua croissant mới ra lò.  theo thói quen của những sáng cuối tuần. 

    Vừa ra cổng, tôi đã thấy họ. Đi giữa những gương mặt trọ học trong căn phòng dưới tầng trệt, là một thanh niên dáng cao ráo, khoác pardessus sậm màu, đang khoan thai bước. Khi xe tôi rề rà lướt qua, họ cùng nép vào lề. Tôi quay ngang chào. Cả bốn người cùng nhìn tôi, mỉm cười và giơ tay đáp trả. Tôi nhận ra anh ngay sau cái gật đầu và nụ cười trông khá đôn hậu đó!

    Cùng trang lứa, cùng ưa thích âm nhạc như phần đông những thanh thiếu niên của Sài Gòn cuối thập niên 60; nhưng tôi chỉ là khán giả còn anh đã đứng trên sân khấu "Nhạc Trẻ" trước tôi khá lâu. Có thể nói, anh xuất thân từ một gia đình thuộc vào hạng "cổ thụ" của nền tân nhạc Việt Nam; nên khi lớn lên, anh thành công dễ dàng khi dùng giọng ca, tiếng hát của mình kể chuyện Đời và những cuộc Tình trong nhân gian. 

    Nói như vậy, không có nghĩa là anh hoàn toàn nhờ vào "hào quang" của đại gia đình. Ngoại trừ năng khiếu bẩm sinh và kiến thức âm nhạc được cha mẹ truyền dạy, những "vốn liếng" nghệ thuật còn lại đều là những tích lũy từ việc tách khỏi gia đình để "bụi đời" khá sớm khi trở thành một nhạc công, kiêm ca sĩ của một ban nhạc rất trẻ. 

    Từ đó trở đi, anh trở thành một "lãng tử" trên bước đường nghệ thuật. Cũng có thể nói là một "lữ hành cô đơn" hiểu theo nghĩa phong cách trình diễn khá "thoải mái" của anh. Tuy là một tổng hợp của những giọng ca nam "thời thượng" của làng âm nhạc Việt Nam, nhưng giọng hát của anh lại mang màu sắc rất đặc thù của riêng mình trong cách hát thật chân chất như đang kể chuyện, hay đang thủ thỉ tâm sự với ai đó. 

    Thật vậy! Anh hát mà như nói, như trang trải tâm tình. Không cần nhiều kỹ thuật mà vẫn hiệu quả! Từ tốn mà lắng sâu. Nhẹ nhàng mà xúc tích. Làn hơi và chất giọng của anh cho dù có hát những bản nhạc vui tươi hay "nhí nhảnh", vẫn phảng phất vài lãng đãng của "chuyện tình buồn"; hoặc những ưu tư dến chạnh lòng  của " Hai mươi mấy tuổi đời, ai đón ai mời, tôi chưa muốn trao lời, bản đàn xuân đã lơi, tơ lòng đang rối, xuân đến thêm buồn thôi,..." ).

    Trong hàng trăm bài anh hát trên sân khấu, trong băng, dĩa - từ " Ô Mê Ly", Cô Em Bắc Kỳ Nho Nhỏ", Tuổi Thần Tiên cho tới "Bến Đà Giang", Rồi Mai Tôi Đưa Em, Tình Nghĩa Đôi Ta Chỉ Thế Thôi...v/v... - hầu như tất cả đều mang tính cách tự sự, hay tâm tình sâu lắng của chính anh muốn gởi đến khán thính giả.

    Giọng hát của anh có vẻ phóng khoáng nhưng đầy tính chất "tự sự" của Sĩ Phú, "trữ tình một cách sang cả" của Duy Trác và Anh Ngọc, có chút mượt mà ( khi miết chữ, hay chuốt lời ) của Nhật Trường, Thái Châu; hoặc "ướt át" ( nhưng không quá sầu cảm ) như Anh Khoa chẳng hạn.

    Tính cách "hát như nói", như tâm tình, kể lể, tự sự của anh rất gần với phong thái - mà tôi gọi là "du ca trong không khí thính phòng"! Về mặt này thì anh rất gần với Tùng Giang, Đức Huy và cả Jo Marcel hay Billy Shane của thời Nhạc Trẻ. Nhắc tới Nhạc Trẻ mới thấy tính cách "quê hương" trong phong cách biểu diễn của anh. 

    Các ban nhạc trẻ của đầu thập niên 70 đều chọn hát nhạc Anh- Pháp- Mỹ, còn anh - khi góp mặt với không khí Nhạc Trẻ của Sài Gòn - đã cùng với Phượng Hoàng, tức nhóm nhạc tiên phong trong giai đoạn "Việt Hóa" âm nhạc thời trang, thường hát những bài tự sáng tác ( nhóm  Phượng Hoàng ), hay nhạc ngoại quốc được dịch qua lời Việt ( The Dreamers ).

    Sau 2 năm chạy show cho các club Mỹ, thêm 2 năm nữa cùng vợ và các em đứng trên sân khấu Taberd, rạp Thống Nhứt, sân Hoa Lư, trong Sở Thú..., anh chọn cho mình một hướng mới khi trình diễn solo và thành danh thật nhanh chóng qua những nhạc phẩm được chính thân phụ mình "đo ni, đóng giày" và không ngớt "lăng xê" trên các làn sóng điện cùng thị trường băng, dĩa.
     
    Thời đó ( những năm đầu của thập niên 1970 ) khán thính giả đều theo anh bước trên "...con đường Duy Tân cây dài bóng mát ..." để sau đó " Em thường hay mắt liếc, anh thường ngóng cổ cao. Ngoài đường em bước chậm, quán chiều anh nôn nao...", hoặc âm thầm nhớ về kỷ niệm " Xưa tan trường về, anh theo Ngọ về, Nay trên đường này đời như sóng nổi. Xóa bỏ vết người, chân người tìm nhau, tìm nhau..."

    Những giai điệu trữ tình đó, cùng với giọng hát của anh đã theo tôi - và những học sinh, sinh viên bị đôn quân năm 1972, năm của "Mùa Hè Đỏ Lửa" - bước vào quân trường rồi dấn thân vào lửa đạn. Trong gần 2 năm xuôi ngược ngoài Vùng 1 Chiến Thuật, tôi hiếm khi được nghe những bài hát tiêu biểu của thời ngồi quán cà phê buồn bã thở dài " Người từ trăm năm về ngang trường Luật ,,, Đau lòng ta muốn khóc... "   

    Trong cơn phẫn hận của một "Phó Thường Dân" sau ngày mất nước, một hôm tôi được người bạn thân, cũng là Chiến Hữu Mũ Nâu kiêm Kha Sinh Hướng Đạo cho nghe "Chỉ Chừng Thế Thôi", là bài hát - mà theo tôi - mang đậm tính chất trữ tình, bâng khuâng và lãng mạn có một không hai của anh. 

    Từ hôm đó cho tới khi tôi may mắn ra khỏi "ngục tù bao la mang hình chữ S", mỗi khi gặp nhau - tại nhà Nguyễn Tấn Quang trong hẻm 64 đường Lê Quang Định/ Bà Chiểu, hay trên vườn bưởi của gia đình Quang ở Biên Hòa - người  bạn gốc Trinh Sát Liên Đoàn 5 BĐQ đó đều ôm đàn hát cho nghe "...Ϲhỉ một chiều lê thê, Ɲgồi co mình trên ghế, Ɲghe mất đi tuổi thơ, Ϲhỉ một chiều bơ vơ, Ϲhỉ là chuуện đong đưa, Đời luôn là cơn gió..." để chúng tôi càng thêm bồi hồi nhớ lại những ngày hè "đỏ lửa"  của năm xưa.

    Nghe lại những bài hát anh trình bày trong thời điểm từ 1972 tới 1975 mới "thấm" sự phóng khoáng và giản dị của một giọng hát tự nhiên, không chút gò bó vào kỹ thuật thanh nhạc.  Nếu nói thơ Nguyễn Tất Nhiên có tinh chất "hồn nhiên mà lãng mạn" như thế nào, thì giọng hát của anh cũng "đơn sơ/ giản dị mà dịu dàng/ truyền cảm" như rót mật vào lòng người như thế đó. 

    (... Em giờ đã xa xăm rồi đó
    Nơi em đi chắc vẫn còn lệ ứa ?
    Chiều nay trông mưa mà nhung nhớ
    Một thoáng thương vay cho đời say...
    Chuyện của chính Mình hay chuyện đời Người, mà sao nghe như anh tha thiết gởi tâm sự đến khán thính giả thay cho tác giả bản nhạc đây nhỉ?

    Nhớ anh là nhớ những thanh niên lớn lên trong giữa thời cực thịnh của những phong trào vừa thời thượng vừa "sôi nổi đến mức bất cần đời" ( Beatnicks & Hippie ), lại vô cùng "lãng mạn nhưng cũng khá táo bạo" ( Hiện Sinh trong cách sống phóng khoáng gần như buông thả và Phản Chiến trong nội dung những bản nhạc Âu- Mỹ vốn đề cao tình yêu và hòa bình, cùng kêu gọi chấm dứt chiến tranh ) của hậu bán thế kỷ 20.

    Nhớ anh cũng là nhớ người đã sống hết mình, hết tình cho nghệ thuật và khách mộ điệu qua phong thái già dặn của một nghệ sĩ biểu diễn, ngay lúc mới bước vào lứa tuổi đôi mươi, lứa tuổi sôi nổi nhứt mà cũng truân chuyên nhứt của giới trẻ Việt Nam trong đầu thập niên 1970.  

    Qua anh, tôi thấy lại tôi của một thời Yé Yé, Choai Choai chuyên Boum, Ball tá lả. Nghe anh hát, tôi mường tượng đến những mộng mơ trong bâng khuâng giảng đường, hay nơi góc phố nào đó, nhưng rồi phải bỏ hết lại sau lưng để dấn thân vào định mệnh khắc nghiệt của thời cuộc nhiễu nhương. Nhớ lắm!
    Hãy nghỉ yên nhé giọng ca của một thời đỏ lửa! 
    HUY VĂN ( HUỲNH VĂN CỦA )
    Để cùng nhớ Phao Lồ Nguyễn Tấn Quang, TS / LĐ 5 BĐQ. R.I.P )

    (*) Xin mời đọc ( và nghe thêm ) tại:






Thoát hiểm

Thoát hiểmImage en ligne

  • “Quạ đen” rớt!

    Lời kêu cứu của Thompson, khi Landon rớt xuống đã làm đông lạnh phòng hành quân của toán lính đánh thuê. Mọi người nín thở, im lặng! Chỉ nghe tín hiệu của các máy liên lạc đang chớp những đốm xanh trên chiếc bàn dài, tiếng sóng xè xè của 3 màn TV lớn với những đường sóng màu chạy ngang… Đại tá tư lệnh và 4 sĩ quan tham mưu ngồi khoanh tay như đang chờ một tín hiệu, một hình ảnh tốt đẹp nào đó hiện ra trên màn TV.

    Đại tá tư lệnh Matthew đứng dậy:

    – Mack! Cho trực thăng thả toán truy tìm và cấp cứu 4 người xuống ngay vùng Taleqan!

    – Rõ!

    – John! Gọi không thám, yêu cầu 2 chiếc máy bay không người lái quần trên không phận để tìm tín hiệu cấp cứu của Landon.

    – Rõ!

    Landon mở mắt trong bóng đêm dày đặc chung quanh, những cành lá loáng thoáng trước mặt. Việc đầu tiên là anh bò nhanh vô dưới những bóng lá, nằm im, nghe ngóng chung quanh. Landon bắt đầu tự kiểm tra mình. Nón văng mất, găng tay còn. GPS mất, súng ngắn dưới đùi mất, dao trên vai mất, trong túi áo còn miếng sô cô la đã bể nát. Landon không còn một điều kiện nào để liên lạc, gởi tín hiệu cầu cứu với “Quạ đen”. Vì là lính đánh thuê nên anh không có một giấy tờ dấu hiệu gì để có thể nhờ người dân giúp đỡ cho một quân nhân Mỹ khi lâm nạn. Landon bắt đầu chạy chậm, nhắm hướng những cây lá lấp lánh dưới ánh sáng mờ của bầu trời đêm. Anh phải tránh khỏi nơi rớt xuống càng xa, càng tốt, vì Taliban sẽ lùng sục nơi đó để bắt sống và trả lại cho đơn vị của anh để lấy tiền thưởng.

    Bị truy nã

    Có tiếng la từ phía hông phải:

    – Ê! Thằng lính Mỹ chó chết! Tụi tao đã thấy mầy núp trong bụi cỏ gai...Ngay đó! Chui ra đi! Tụi tao không giết đâu!… Ê! Thằng Mỹ… Sao chưa chui ra!

    Landon nằm sát xuống nghe tiếng chân… Toán Taliban chừng 3 người, đang rọi đèn pin vô những bụi cỏ gai trong khu rừng thấp phía sau lưng, nơi anh rớt xuống.

    – Ê! Chui ra thằng Mỹ!… Mầy núp trong đó chứ gì? Ra đi! Tụi tao tha!

    Landon bò nhanh về phía trước. Tiếng la của tụi Taliban nhỏ dần.

    Mặt trời đã nằm trên đầu của rừng cây trước mặt. Landon ngước mặt, quan sát khu vực chung quanh, tối hôm qua anh đã bò một đoạn khá xa nơi mình rớt xuống, bây giờ thì anh đang nằm trong những bụi cây của khu rừng thông. “Cần thiết nhất là phải tìm gặp dân ở đây, mượn phone của họ để liên lạc cấp cứu với phòng hành quân”

    Landon kéo nhẹ cành cây, hút những giọt sương lấp lánh trên mặt lá.

    “Phải rất cẩn thận, vì chẳng may gặp người dân theo Taliban… Họ sẽ báo cho Taliban! Và mình chầu Ala.”

    Hút được ít sương, Landon đã hết khát, anh lấy bao sô cô la nát vụn trong túi, rắc mấy miếng ra lòng bàn tay, ăn bữa sáng.

    Landon bắt đầu chạy từng đoạn ngắn, núp sau những cây thông, để khỏi bị người dân ở khu nhà dưới chân đồi nhìn thấy. Chừng 10 phút. Anh đã nằm sát trong lùm cây, cách các mảnh vườn trồng cà chua, dưa leo, sau lưng những căn nhà chừng 20m. Landon nằm yên, nhắm mắt ngủ.  Anh phải đợi tới tối mới có thể bò vô tiếp xúc với người dân, tìm sự giúp đỡ.

    – Gâu! Gâu! Gâu!

    Tiếng chó sủa bên khu nhà. 3 anh Taliban cầm súng đang đứng nói chuyện với 2 người dân, có vẻ là vợ chồng chủ nhà. Landon đoán là họ đang truy lùng anh, vì người lính Taliban luôn chỉ tay về hướng khu rừng cỏ gai, nơi anh rớt xuống. Những người Taliban đi qua căn nhà tường gạch. Có 2 người mặc áo choàng trắng bước ra nói chuyện với họ, chỉ xuống dưới chân đồi. 3 anh Taliban cầm súng quay trở lại, đi vòng xuống dưới, không truy lùng ở khu này nữa. Landon nhìn hướng mặt trời, anh nghĩ đã 4 giờ chiều, thấy khu nhà quá vắng người, Landon bò nhanh tới sát khu vườn trồng cà chua, dưa leo. Đợi mặt trời vô đám mây đen, chung quanh hơi tối lại. Landon bò vô, đưa tay hái trái dưa leo dài.

    Bị bắt

    – Bộp!

    Đầu anh bùng cơn đau, chung quanh tối thui.

    – Ê! Thằng Mỹ!

    Tay ai đó tát vô mặt Landon, anh nhấp nháy mắt.

    – Ào!

    Sô nước lạnh tạt vô người, Landon ngợp nước, ho sặc sụa. Một cái tát khác vô mặt anh. Landon mở mắt. Anh bị cột cứng hai chân, hai tay vô cái ghế gỗ. Trước mặt là một ông già Ả Rập mặc áo choàng đen, bịt mặt, bà vợ mặc áo choàng xanh, cũng bịt mặt. Ông già nắm áo Landon:

    – Mỹ? Mỹ?

    Landon gật đầu.

    – Đúng! Mỹ!

    Ông quay lại nói với vợ một tràng Ả Rập! rồi cả hai đưa tay lên trời:

    – Ala! Ala! Ala!

    Bà vợ rú lên với tiếng Ả Rập! Cả hai lại đưa tay lên trời:

    – Taliban! Taliban!

    Landon toát mồ hôi… Mẹ! Chết rồi!

    “Taliban! Taliban!” Có nghĩa rằng,  hai ông bà này sẽ nộp Landon cho Taliban để lấy tiền thưởng! Đúng! Landon đã đoán đúng!

    Ông già Ả Rập lấy ra cuộn dây nhựa, tới sát Landon. Cột chặt mấy vòng ở cổ anh, kéo xuống dưới chân. Cánh cửa sau mở ra, bà vợ đẩy chiếc xe mô tô cũ của quân đội Liên Xô ngày xưa, có thùng chở bên hông. Ông chồng đưa tay:

    – Đẩy sát tới đây!

    Bà vợ đẩy chiếc xe tới.

    – Phụ tôi khiêng nó bỏ vô thùng.

    Bà vợ phụ ông chồng, khiêng Landon đang bị trói như một khúc xúc xích, bỏ vô thùng xe.

    – Bây giờ ông chở nó tới hang núi của Taliban… Giao cho người ta! Lấy 200 đô!…

    Nghe tới “Taliban” Landon biết chắc là họ sẽ chở mình đi nộp cho Taliban! Vậy là chết! Landon cố vẫy vùng dưới những vòng dây nhựa. Ông chồng dộng một cú vô mặt Landon, anh nổ đom đóm mắt, bật đầu ra phía sau. Bà vợ giúp chồng đẩy chiếc xe ra khỏi nhà.
    Vợ chồng chị hàng xóm chào:

    – Shalom!

    Ông già đạp máy xe:

    – Shalom!

    Brum! Brum. Chiếc mô tô nổ. Chị hàng xóm hỏi:
    – Ai trên xe vậy? 
    Chị hàng xóm bước tới gần hơn hỏi:
    – Ủa? Nhà ông có người bệnh à? Ông chở bệnh nhân vô bệnh viện?

    Ông già nói:

    – Không có ai bệnh!

    Ông chỉ tay vô Landon:

    – Anh ta là lính Mỹ, rớt trực thăng trong vùng này từ hôm qua, đang bị Taliban truy nã gắt!… Tôi bắt được ngoài vườn khi anh ta định ăn cắp dưa leo… Bây giờ mang cho Taliban… Lấy tiền thưởng!

    Chị hàng xóm nhìn Landon:

    – Lính Mỹ bị Taliban truy nã?

    Chị đưa tay lật mặt Landon đang gục xuống… Chị hàng xóm rút tay ra:

    – Ô! Ala!
    Ông kia đang ngồi trên xe, quay lại hỏi:
    – Sao? Chị biết anh ta?

    – Ờ!…  Không!… Nhưng ông sẽ được thưởng bao nhiêu?

    – Lính 200 đô! Nếu sĩ quan thì 400!

    – Vậy là ông phát tài.

    Chị hàng xóm bước vô nhà. Kéo tay ông chồng đang đứng ngay cửa nhìn ra. Ông già gọi phone báo cho Taliban:

    – Tôi tóm được người lính Mỹ!

    Ông già gật đầu:

    – Được! Tôi chở nó tới ngay!

    Ông lên xe, sang số, chạy đi.

    Trời sắp tối. Ánh đèn của chiếc mô tô rọi sáng con đường mòn băng qua khu núi đá lởm chởm, về hướng rừng cỏ gai, nơi Landon rớt xuống. Hang của Taliban, cách đó nửa cây số.

    Chiếc xe bán tải từ phía sau núi đá phóng ào ra. Chạy về hướng mô tô. Chiếc mô tô vừa qua khỏi tảng đá lớn thì máy rú lớn, ông già bị sợi dây ny lông, cản ngang mình, bật ngược, té văng về phía sau. Hai bóng người bịt mặt sau tảng đá chạy ra. Một người dựng chiếc mô tô đứng lên, tắt máy xe, Landon vẫn nằm im bên thùng xe, người kia lấy chiếc bao tải trùm ông già lại, cột miệng bao, kéo sát vô bụi cỏ.

    – Hello!

    Một người lắc vai Landon. Anh mở mắt! Nhìn chung quanh. Anh hỏi:

    – Taliban?

    Giọng đàn bà, nói tiếng Anh rất rõ:

    – Không! Những người bạn!

    – Bạn?

    Một người khác lấy dao, cắt hết những vòng dây nhựa.

    – Cám ơn!… Bạn!

    Landon bước ra khỏi thùng xe. Hai người kia đứng trước anh, cả hai cùng mở vải bịt mặt. Landon ngạc nhiên:

    – Ơ! Tôi nhớ là….

    – Đúng!…

    Người đàn bà cười:

    – … Chúng tôi là hai vợ chồng kỹ sư… Anh đã tha khi tấn công vô căn cứ bí mật của Taliban!

    – Cám ơn anh chị!

    Landon bước tới ôm hai vợ chồng.

    – Nhưng anh phải chạy lẹ! Tụi Taliban đang trên đường tới đây bắt anh!…

    Người vợ nói:

    – Anh chạy thẳng đường này! Chừng 20 phút là tới đồn cảnh sát Afghanistan… Họ sẽ giúp anh trở về đơn vị…. Chạy lẹ lên!

    Landon nhảy lên mô tô, nổ máy chạy đi, nhưng không kịp!

    – Tạch! Tạch! Tạch!

    Chiếc bán tải đã nã tràng Ak về hướng Landon. Hai vợ chồng kỹ sư chạy trốn vô núi đá.

    Landon biết rằng, rất khó để trốn thoát được bọn Taliban với chiếc mô tô có tốc độ quá chậm so với bán tải. Vậy là, thay vì chạy thẳng, Landon quay chiếc Mô tô chạy lên cao, nghiêng sườn đồi.

    – Tạch! Tạch! Tạch

    – Cling! Clang!

    Những viên Ak bắt đầu trúng vô thùng xe. Chiếc bán tải rú máy chạy sát sau lưng.

    – Tạch! Tạch! Tạch

    Loạt Ak cày tung lớp đất trước bánh xe… Landon bẻ quặt tay lái, quay ngược lại, đối diện với xe tải. Anh cúi đầu xuống, chạy lướt qua.

    – Tạch! Tạch! Tạch!

    – Cling! Clang! Cling! Clang!

    Loạt Ak trúng thân xe, bay xèo xèo trên đầu Landon. Anh chạy chậm, quẹo vô khu mỏm đá lởm chởm trên sườn đồi, chiếc xe tải vòng đầu lại, phóng theo Landon. Mô tô dễ dàng leo lên những mỏm đá chạy băng về phía trước. Xe tải bắt đầu gặp khó khi leo qua đá, tiếng máy xe rú lên bánh xe quay ken két, tuột trên mặt đá, những lớp đất dày bắn về phía sau. Landon chạy chậm xuống đồi. Chiếc xe tải qua khỏi khu núi đá, chạy xuống dưới, vòng qua trái chận đầu Landon.

    – Tạch! Tạch! Tạch!

    Loạt Ak làm tung lớp đất đá, bắn vô mặt Landon, anh quẹo xe qua trái, chạy chậm xuống sườn đồi. Một tràng Ak bắn sát đầu mô tô.

    – Thằng Mỹ chó chết! Tụi tao sẽ bằm nát mầy!…

    Landon chạy xuống.

    – … Sẽ bắn tung cái đầu của thằng xâm lăng, tàn phá đất nước tao…

    Landon vẫn chạy xuống.

    – … Sẽ đốt sống mầy! Tế Ala!

    Landon chạy chậm lại.

    – … Sẽ lấy tro mầy cho quỷ dữ!

    Landon ngừng lại.

    – Brum! Brum! Brum!

    Landon rồ ga chiếc mô tô, anh đứng yên. Chiếc bán tải từ sau lưng chạy ào tới.

    – Tạch! Tạch! Tạch!

    Tràng Ak bắn vô Landon.

    – Ahhh!

    Viên đạn xuyên ngang vai Landon rát rạt, tay trái bùng cơn đau… Anh chạy chậm xuống đồi, chiếc xe tải đã sát sau lưng, bất thình lình, Landon nghiêng qua trái, rồ mạnh ga, chiếc mô tô chồm lên, phóng đi, chiếc xe tải phóng theo. Landon nằm rạt xuống rồi đứng thẳng… Chiếc mô tô phóng qua phiến đá trước mặt, bay ra khoảng không, rớt xuống sườn đồi phía dưới, ngay con suối cạn. Chiếc xe tải cũng văng lên cao, bay ra khoảng không.

    – Bùm!

    Cũng rớt xuống sườn đồi phía dưới, nhưng nẹt lửa… Nổ tung ngay con suối cạn.

    Landon chạy tới. Hai người Taliban nằm chết sau thùng xe, anh tài xế đang cháy như cây đuốc. Landon móc túi anh Taliban, lấy cái phone tay:

    – Hello! Đây Landon, gọi “Quạ đen”! Hello! Đây Landon gọi “Quạ đen”!

    – Bíp! Bíp! Bíp!… Sơn cước 4 nghe rõ! Sơn cước 4 nghe rõ!

    – Cấp cứu khẩn cấp! Cấp cứu khẩn cấp.

    – Trực thăng trên đường tới! Giữ đúng vị trí!

    Landon đưa tay ôm vết thương bên vai trái… Anh té xuống. 
    Hồ Đắc Vũ






--
====================================================================
Trên Facebook :
http://www.facebook.com/DaiHocKhoaHocSaiGon
====================================================================
 
Bạn đã nhận được bài viết này vì bạn đã đăng ký vào Nhóm "KhoaHocSG" của Google Groups.
* Để đăng bài lên nhóm này, hãy gửi email đến "khoa...@googlegroups.com"
* Để RÚT TÊN ra khỏi nhóm này, gửi email đến "khoahocSG+...@googlegroups.com"
* Để có thêm tuỳ chọn (preference set up), hãy truy cập vào nhóm này tại: http://groups.google.com/group/khoahocSG?hl=vi
---
Bạn nhận được thư này vì bạn đã đăng ký vào nhóm Google Groups "KhoaHocSG".
Để hủy đăng ký khỏi nhóm này và ngừng nhận email từ nhóm, hãy gửi email đến khoahocsg+...@googlegroups.com.
Để xem cuộc thảo luận này, hãy truy cập vào https://groups.google.com/d/msgid/khoahocsg/MN2PR02MB6592BA02CFF8089D6D48433BFC03A%40MN2PR02MB6592.namprd02.prod.outlook.com.
Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages