Fwd: ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 19-08-2025 (SỐ 224-2025)

4 views
Skip to first unread message

Giu Tran

unread,
Aug 19, 2025, 4:02:13 PMAug 19
to


---------- Forwarded message ---------
From: soan....@hotmail.com <soan....@hotmail.com>
Date: Tue, Aug 19, 2025 at 4:13 AM
Subject: ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 19-08-2025 (SỐ 224-2025)
To:



GOOD MORNING VIET NAM - CANADA - USA

ĐIỂM TIN DIỄN ĐÀN 19-08-2025  (SỐ 224-2025)

Image insérée

Image insérée


MỤC LỤC


  1. ‘Bức thư hòa bình’ của Đệ nhất phu nhân Melania Trump gửi Tổng thống Putin

  2. CHIẾC LÁ LẠC ĐƯỜNG

  3. Giấc Mơ Trên Bãi Ngàn Sao
  4. LỮ ĐOÀN 1 NHẢY DÙ TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG TẠI MIỀN NAM VIỆT NAM
  5. GIỮ LẤY HAI CHỮ NÀY LÀ GIỮ LẤY CẢ ĐỜI MÌNH
  6. Rầu Thúi Ruột
  7. Lưu dấu một thời
  8. LẤY CHỒNG THI SĨ
  9. Khen Vợ -
  10. Quê ... TA Quảng Nôm, đi xe độp!




‘Bức thư hòa bình’ của Đệ nhất phu nhân Melania Trump gửi Tổng thống Putin

7 giờ trước

Đệ nhất phu nhân Melania Trump đã viết một “bức thư hòa bình” cho Tổng thống Nga Vladimir Putin, nói với ông rằng “đã đến lúc” bảo vệ trẻ em và các thế hệ tương lai trên toàn cầu, Fox News Digital đưa tin.

Đệ nhất phu nhân Melania Trump. (Ảnh: Shutterstock)

Fox News Digital đã độc quyền có được “bức thư hòa bình” mà đệ nhất phu nhân viết cho ông Putin, được Tổng thống Trump trao tận tay cho nhà lãnh đạo Nga trước hội nghị thượng đỉnh của họ tại Alaska, hãng tin này cho biết.

Ngay sau khi nhận được thư, ông Putin đã đọc lên trước sự chứng kiến của phái đoàn Mỹ và Nga.

“Kính gửi Tổng thống Putin,” mở đầu bức thư của Đệ nhất phu nhân. “Mỗi đứa trẻ đều có chung những giấc mơ thầm lặng trong lòng chúng, dù được sinh ra ngẫu nhiên ở vùng nông thôn mộc mạc hay một trung tâm thành phố tráng lệ của một quốc gia. Chúng đều mơ về tình yêu thương, về triển vọng và sự an toàn khỏi nguy hiểm.”

“Là bậc cha mẹ, bổn phận của chúng ta là nuôi dưỡng hy vọng của thế hệ kế tiếp,” bức thư viết tiếp. “Là những nhà lãnh đạo, trách nhiệm duy trì tương lai của con em chúng ta vượt xa sự thoải mái của một số ít người.”

“Không thể phủ nhận rằng chúng ta phải nỗ lực xây dựng một thế giới đầy phẩm giá cho tất cả mọi người – để mỗi tâm hồn đều được thức tỉnh trong hòa bình, và để tương lai được bảo vệ trọn vẹn”, bức thư viết. “Một khái niệm đơn giản nhưng sâu sắc, thưa ngài Putin, vì tôi chắc chắn ngài cũng đồng ý, là con cháu của mỗi thế hệ đều bắt đầu cuộc đời của mình bằng sự thuần khiết – sự ngây thơ vượt lên trên địa lý, chính quyền và tư tưởng.”

“Trong thế giới ngày nay, một số trẻ em buộc phải mang trong mình tiếng cười thầm lặng, không bị ảnh hưởng bởi bóng tối xung quanh – một sự phản kháng thầm lặng trước những thế lực có thể cướp đi tương lai của chúng,” Đệ nhất phu nhân viết tiếp.

“Ngài Putin, ngài có thể tự tay khôi phục lại tiếng cười của bọn trẻ”, Đệ nhất phu nhân viết. “Bằng việc bảo vệ sự ngây thơ của những đứa trẻ này, ngài sẽ không chỉ phục vụ riêng cho nước Nga_mà còn phục vụ cho cả nhân loại.”

“Một ý tưởng táo bạo như vậy vượt qua mọi ranh giới của con người, và ngài, ngài Putin, hoàn toàn xứng đáng để hiện thực hóa tầm nhìn này chỉ bằng một nét bút ngày hôm nay,” bà viết. “Đã đến lúc rồi.”

“Bức thư hòa bình” của Đệ nhất phu nhân Trump được viết trước cuộc gặp lịch sử giữa phu quân bà – ông Donald Trump và ông Putin tại Anchorage, Alaska, hôm thứ Sáu (15/8). Cuộc gặp gỡ quan trọng này là hội nghị thượng đỉnh Mỹ-Nga đầu tiên kể từ tháng 6/2021, dưới thời chính quyền cựu Tổng thống Joe Biden và chỉ 8 tháng trước khi cuộc chiến Nga – Ukraine bắt đầu.



CHIẾC LÁ LẠC ĐƯỜNG

5530 1 ChiecLaLacDuongNGThem

       Hôm nay cuối tuần, gió thổi rất mạnh ở Riverside. Những hàng cây trước đường uốn cong, lắc lư như những nàng vũ nữ.

        Gió thổi lá khô tấp vào ngạch cửa. Những chiếc lá xanh, chưa nhuốm màu vàng của mùa thu mà bị gió đánh tả tơi lăn lóc bên đường. Và lá dừng lại bên thềm như một người lỡ bước đầy bất trắc, muốn gõ cửa vào nhà tôi xin tá túc.

       Ơ hay sao tôi lại vẫn vơ nói về một chiếc lá không tên, hãy dùng chổi quét đi hay hốt bỏ vào thùng rác. Chiếc lá sao lại như nhìn tôi ngậm ngùi. Sao như muốn kể chuyện mình.

        Có phải tại vì tôi đã đọc bài "Con tôi đi nhận xác chồng" của hội AHBH vừa gửi vào mà tâm hồn man mác.

        Có thể lắm chứ. Một bài viết của người cha có con gái lên đường đi nhận xác chồng sắp cưới vừa tử thương ở chiến trường Afghanistan đã làm tôi xúc động.

5530 2 Chiec LaNgThiThem

       Tâm tình của người cha thương con. Của người con gái tràn đầy niềm tin và hy vọng. Của người lính chiến yêu quê hương, trái tim đầy nhiệt huyết tuổi trẻ.

        Một con người sẽ có những bước hành trình ngập tràn hoa thơm cỏ lạ của một mái ấm tương lai. Tôi đọc xong bài. Cảm xúc thật sự, cứ miên man nghĩ về người lính. Người chiến sĩ có tên là Liam J Nevin (1981-2013)

5530 3 Chiec LaNgTThem

       Vâng! Đời người tội nghiệp như vậy. Có những chiếc lá xanh tươi tốt, đã bị một biến cố xa cành tan tác trong cơn gió lốc.

      Tôi lại nghĩ đến hơn 40 năm trước,  tôi đã đưa xác người em họ của chồng về miền Trung. Chú ấy đã hiên ngang gục ngã ở chiến trường An Lộc. Tôi chưa một lần gặp chú, cũng chưa nghe tên bao giờ. Thế mà tôi lại đưa xác chú về gia đình ở Đà Nẵng, một nơi tôi chưa từng đặt chân tới.

      Đó là mùa hè 1972 tôi đi đám ma người quen, sẵn dịp ghé thăm mẹ chồng ở Biên Hòa. Má chồng tôi nói:

- Thằng Hanh con Mụ Khóa Yên đã tử trận ở An Lộc. Hậu cứ liên lạc để đem xác hắn về nhà. Gia đình hắn không có ai ở Sài gòn. Mi thay mạ đưa hắn về dùm. Gia đình hắn ngoài làng đã chạy vào Sơn Trà. Mọi thủ tục đã có hậu cứ lo. Theo hắn về chỉ có người em chú bác đang đi tu. Chú còn nhỏ, không biết chi nên mi thế mạ lo cho hai anh em hắn. Có thể mi ra ngoài nớ sẽ gặp thằng Trai. Hắn (chồng tôi) nghe đâu cũng đóng quân ở Đà Nẵng.

       Thế là không có thời gian đón xe về nhà tôi ở Long Thành để lấy áo quần. Tui vơ vài bộ đồ cô em chồng mặc ở nhà đem theo. Thay chiếc áo dài trắng đi đám ma vội lên xe vào ... Tôi không nhớ rõ nơi đó gọi là gì. Hình như là Nghĩa Trang Quân đội Biên Hòa.

       Nơi đó hòm hòm tiếp nối những hòm. Máy bay trực thăng gầm rú để đáp xuống tải xác người. Một không khí lạnh lẽo tang tóc, thê lương. Theo sự hướng dẫn, tôi đến nơi để linh cữu Thiếu Úy Hanh (Tên của chú ấy). Bên cạnh chiếc hòm bọc kín bằng thiếc hay kẽm gì đó. Một chú tiểu ngồi chấp tay mặt buồn so đang  lâm râm tụng kinh.

       Lần đầu tiên tôi đối diện với cái chết của người lính ngoài mặt trận. Mặc dù đã nghe rất nhiều, đọc rất nhiều sách nói về cái chết bi hùng này. Nhưng lần đầu tiên đối diện, tôi thấy mình nghẹn ngào, xúc động dâng lên thở không được.

        Hình chú Hanh trên cái bàn nhỏ, một lọ hoa nhỏ và bát hương.  Chú mang lon thiếu úy, tử trận ở chiến trường An Lộc.Tôi đứng tần ngần nhìn bức hình trên bàn thờ. Chú còn rất trẻ, khá đẹp trai với gương mặt góc cạnh rất đàn ông. Tôi không sợ hồn ma của chú hay những hồn ma vô hình đang tràn ngập ở đây. Trong tôi sự tiếc nuối dâng lên nghẹn ngào và thật buồn. Cái buồn của sự  biệt ly và thương cảm.

       "Hồn tử sĩ gió ào ào thổi", câu thơ xưa diễn tả đúng nơi này. Gió thổi về lành lạnh, Tôi đã thay áo dài, mặc bộ đồ của cô em chồng lúc đi tới nơi đây. Cô ấy cao và to con hơn tôi nên cái áo và cái quần rộng thùng thình, tôi mặc không giống ai.Tôi lấy thêm một cái áo nữa mặc bên ngoài để bớt lạnh. Tối đến, ban "Lễ Nghi Quân Cách" đến làm lễ truy điệu, phủ cờ và truy phong chú Hanh lên Trung Úy. Cũng kèn, cũng chào, cũng đầy đủ nghi thức mà sao trong cái ngậm ngùi dường như không có cảm xúc. Có lẽ việc này như là thông lệ thành ra vô cảm. Mỗi ngày cũng ngần ấy thao tác, từng ấy lời truy điệu, từng ấy kèn thổi bi ai. Thời kỳ chiến tranh leo thang, người lính chết như rạ. Ban truy điệu làm việc hết năng xuất mỗi ngày. Đi  hết khu này lại qua khu khác làm lễ không biết bao nhiêu đám. Từng đó động tác chỉ khác tên người lính, ngày sinh, quê quán, ngày chết, địa điểm và chức vụ trong quân đội. Những người làm nhiệm vụ này dường như cũng chết cứng, chai lì không còn cảm giác. Hay sự đau thương làm tê liệt mọi dây thần kinh xúc cảm.

       Đời trai trong thời chiến thật thảm thương. Chú Hanh chưa lập gia đình lại là con trai một. Cái chết của chú chắc sẽ là vết chém hằn sâu nhất trong gia đình.

        Tôi bảo chú Cảm "Thôi em đi ngủ đi, chị trực cho". Chú tiểu tên Cảm dựa vào một góc nhà mệt mỏi đi vào giấc ngủ. Tôi thế chú ngồi niệm kinh, đốt nhang và thầm thì trò chuyện với người khuất mặt. Nói gì đây? tôi là ai và chú là ai? Cả hai chưa từng một lần gặp mặt. Nếu linh hồn chú lẩn khuất đâu đây chú sẽ rất ngạc nhiên thấy một người phụ nữ lạ như tôi ngồi canh xác mình. Tôi gọi tên chú, đọc kinh, niệm Phật cầu nguyện chú được siêu thoát. Nguyện cho chú bình an rời khỏi cái thế giới đầy chiến tranh tàn ác này về nơi bình yên ở một cõi khác.

        Ngồi mãi cũng chán, tôi một mình đi lòng vòng hết nhìn tên người này đến hình người khác. Gặp các thân nhân chờ đợi ngày mai đem xác thân nhân về nhà hỏi thăm chuyện vãn. Thời kỳ đó chiến trường sôi động, lính tử thương liên tục đưa về. Không khí ảm đạm, gió lạnh và dường như những hồn thiêng tử sĩ lẩn khuất mọi nơi.

        Buổi sáng hôm sau, quan tài được đưa lên máy bay đem về phi trường Đà Nẵng. Trên chuyến bay có thêm hai quan tài nữa. Càng lên cao do áp suất không khí, những chiếc hòm căng tròn lên, lớp thiếc bọc xung quanh như bong bóng được thổi căng lên trông rất tội nghiệp và dễ sợ.

      Xe hậu cứ đưa chị em tôi và quan tài về trước sân nhà của gia đình chú Hanh. Cả nhà đang ở trong trại tạm cư.

       Người ta túa ra khóc lóc, gào thét. Chị Bưởi, (chị của Hanh) khóc suýt ngất, người ta phải vực chị ấy vào nhà xoa dầu và để chị cách ly với cái hòm.

       Vì cuộc chiến ở cổ thành Quảng Trị đang rất khốc liệt nên cả làng Câu Nhi phải chạy thoát thân . Chính quyền ra lệnh di tản và dân trong làng được bố trí tạm cư gần bãi biển Sơn Trà. Mọi người ai cũng bà con, họ hàng hay người làng quen biết. Chỉ có tôi, một người lạ mặt. Một cô gái Sài Gòn lạc lõng ôm cái túi đồ lẫn vào một góc nhà đứng đó tần ngần.

        Mãi một lúc thật lâu,không khí tạm dịu lại, gia đình mới được chú Cảm báo là tôi đã đưa xác chú Hanh về. Họ túa đi tìm và bắt gặp tôi đang đứng một mình. Một người phụ nữ luống tuổi hàm răng nhuộm đen nhánh đi tới bên tôi. Đó là má của chú Hanh. Bà ôm tôi khóc và tôi cũng khóc theo. Họ đâu biết tôi khóc ngoài vì xúc động còn vì tủi thân, lo lắng không biết tối nay, ngày mai, và kế tiếp tôi phải làm gì. Bằng cách nào tôi mới được về lại Biên Hòa. Tôi đi đám ma người quen, tiền mang theo không nhiều, quần áo của mình không có, không một người quen biết ở đây. Đây là lần đầu tiên tôi xa nhà, đi ra miền Trung trong lúc chiến tranh bùng nổ. Tôi hối hận vì sự nhẹ dạ của mình. Tôi ngoan ngoãn không dám cãi lại mẹ chồng chỉ vâng lời một cách vô thức vì thương người. Đêm đó tôi thức trắng trên một cái chõng tre ưu tiên dành cho khách. Tiếng khóc, tiếng người đến chia buồn mà tôi gần như không hiểu họ nói gì vì tiếng Quảng Trị rất khó nghe. Người tôi bềnh bồng lửng lơ như say sóng.

        Chiều hôm sau chồng tôi được tin anh vội vã về tìm. Chúng tôi gặp nhau nghẹn ngào trong cái buồn đứt ruột của một cái đám ma. Anh xin phép đưa tôi về nhà người cô chồng ở Phước Tường gần sân bay Đà Nẵng. Đây là những người thân ruột thịt của chồng mà bây giờ tôi sẽ được biết từ khi lấy chồng. Nghe nói đây là nhà người chị của cha chồng tôi. Thay vì tản cư ra ở cùng chỗ với người làng, bà ở nhà con gái.

        Đến nơi, hình ảnh đầu tiên tôi nhìn thấy lại là một đám ma. Một cái rạp dựng chưa xong trong sân nhà và những tiếng khóc xé lòng từ trong nhà vang ra làm tôi chới với. Anh Phú anh rể của chồng tôi, từ trong nhà chạy ùa ra ôm lấy chồng tôi nghẹn ngào:

- Anh Phúc chết rồi. Tôi vừa đưa xác anh về tới.

       Tôi biết mặt anh Phú vì có lần anh về thăm nhà mẹ vợ và đã gặp tôi. Đám cưới tôi anh chị không về tham dự vì chị sinh con. Cho nên cả chị ruột của chồng tôi cũng không hề biết mặt. Còn anh Phúc là ai, tôi là cô dâu mới, họ hàng bên chồng ở xa tôi không hề quen biết.

        Anh Phúc là con trai của cô chồng tôi (Mụ Khóa Mãn) Trong vai vế gia tộc, anh Phúc là anh cô cậu của chồng tôi. Anh đi lính Biệt Động Quân tử thương ở chiến trường  Khe Sanh và thi hài cũng được đưa về Đà Nẵng.Anh vừa mới ra trường mang lon chuẩn úy. Bây giờ sau buổi lễ truy điệu, anh được vinh thăng  "cố thiếu úy"

       Khi đưa xác người lính trẻ về nhà, ngồi suốt một đêm trong giang sơn của người chết trận. Tôi mới thấm thía nỗi lo sợ của người vợ lính. Tôi mới xác định rõ chỗ đứng của mình bên bờ vực của sự biệt ly.

       Cả hai người sĩ quan chết trẻ trong gia tộc, được đưa về Đà Nẵng trên dưới một ngày. Hai người đều chưa lập gia đình nên không có cảnh người góa phụ tóc còn xanh mang vành tang trắng khóc chồng. Không có cảnh con thơ mồ côi cha khi vừa tròn tuổi. Đó cũng là tâm tư của những người lính trẻ yêu nhau trong thời chinh chiến. Họ không muốn làm khổ người mình yêu nên nhiều mối tình thầm kín phải tan vỡ, chia tay trong nhớ thương, ân hận.

        Chồng tôi cũng đang ngoài mặt trận. Một ngày nào đó biết đâu tôi cũng sẽ quỳ gục bên một cái quan tài phủ cờ tổ quốc. Người nằm trong kia là anh ấy: Chồng tôi với những vết thương máu đã khô đông cứng hay một thân xác không còn nguyên vẹn bởi đạn pháo hay mìn.

        Tôi thường lạnh người khi nghĩ đến điều này và căm ghét chiến tranh. Chiến tranh thật tàn khốc ai cũng biết, cũng hiểu, nhưng ngày nào trên thế giới cũng có chiến tranh. Người ta đã đem sự sống chết của người lính, người dân và một dân tộc lên bàn cờ chính trị, trả giá và thu lợi ích. Biết rằng đời người ai rồi cũng phải chết. Nhưng nhìn những người trẻ tuổi, giỏi giang, tương lai sáng rực đi vào thiên thu ai không khỏi đau lòng.

*****

       Ôi chao! Một chiếc lá xanh tấp vào ngạch cửa mà tôi đã lôi theo bao nhiêu nỗi ưu tư. Thì ra tôi đã già rồi. Già thật rồi nên cứ loay hoay nhìn về quá khứ.

Hãy cho tôi một nụ cười.

5530 4a NuCuoiTreThoNgTThem5530 4b NuCuoiNgTThem

      Nụ cười hồn nhiên của trẻ thơ để an vui xóa đi những hình ảnh đau thuơng của những ngày xưa cũ.

Nguyễn thị Thêm



Giấc Mơ Trên Bãi Ngàn Sao

  • Cả bản Phiêng Đao ồn ào, kháo nhau bởi chuyện ông Hom quyết định nhận nuôi bé Nhủm: Con bé thật tội nghiệp, bố mẹ chết vì đi đãi vàng bị sập hầm, họ hàng lại chẳng còn ai. Thân hình Nhủm gầy còm nhom, người ngợm lem luốc, duy chỉ có đôi mắt là đẹp như mắt thiên thần, con ngươi tựa viên ngọc trong veo.
    Phong cảnh Phiêng Đao vô cùng quyến rũ, đẹp như một ngôi sao sa xuống mặt đất và mãi mãi không muốn trở về bầu trời. Vì thế, những người đầu tiên đến đây lập bản đã đặt tên bản là Phiêng Đao với ý nghĩa là bãi sao. Bãi ngàn sao.

    Nhưng dân bản Phiêng Đao nghèo lắm, họ vẫn thường nửa đùa, nửa thật nói với nhau: “Bản ta nghèo đến mức con Bọ hung không chịu được, chỉ muốn chuyển tổ đi nơi khác”. Vậy mà nhà ông Hom lại còn nằm trong số những người nghèo nhất bản Phiêng Đao, cho nên mọi người mới bàn tán, ái ngại cho chuyện ông đón bé Nhủm về nuôi.

    Tuổi ông Hom đã ngoài 60, da nâu, tóc bạc, khuôn mặt gầy cùng với rất nhiều nếp nhăn. Vợ ông đã mất từ lâu, có đứa con trai duy nhất thì lại mắc căn bệnh hiểm nghèo rồi cũng vĩnh viễn bỏ ông mà đi. Giờ đây ông sống cùng Hạnh, cô con dâu và đứa cháu nội: Thằng Đức.

    Ông Hom hiểu vì sao mọi người lại ồn ào, bàn tán. Dân bản thương ông, lo cho ông: Ông biết. Ông cũng do dự, nhưng khi nhìn Nhủm ngồi thu lu, run rẩy như con thú non lạc mẹ, lòng ông đau như ngày mất vợ, mất con.

    Ông bàn với Hạnh chuyện nhận nuôi Nhủm,  cô con dâu của ông không đồng ý. Hạnh gàn:

    – Nhà mình còn bữa no, bữa đói thì làm sao có thể nuôi thêm được nó hả bố?

    Nghe nói vậy, Nhủm cúi đầu, đôi mắt buồn như một lỗ hổng không có đáy. Nhủm không khóc, nhưng dáng vẻ nom thất vọng đến tột cùng. Thà Nhủm cứ khóc thì người chứng kiến sẽ thấy dễ chịu hơn. 
    Ông Hom thở dài, trên khuôn mặt gầy lại có thêm những nếp nhăn. Ông suy nghĩ mung lung lắm. 
    – Cháu cứ ở lại đây với ông. Từ nay ông sẽ đặt lại tên cháu là Đao, là một ngôi sao để sau này cháu gặp được những điều may mắn. 
    Ông nói với Nhủm như thế và kiên quyết không thay đổi ý định.

    Gia đình ông Hom sống chủ yếu nhờ nghề đan lồng gà đem bán hoặc đổi chác. Bãi vườn nhà ông trồng đủ các loại tre: Tre đắng; tre ngọt; tre bương; tre “mợi”; tre gai... Dưới bàn tay chăm sóc của ông Hom, tre mọc san sát nhưng đều thành hàng, thành lối. Những bụi tre lên cao thẳng, không bao giờ chịu gục đổ trư­ớc gió bão chính là tất cả tài sản quý giá nhất mà gia đình ông Hom có. Măng trên rừng thường mọc theo mùa, nhưng vườn tre nhà ông thì măng mọc quanh năm. Ngon nhất là măng tre ngọt, chiếc nào cũng bụ mập to như­ bắp vế, ăn sống ngọt tựa khoai lang trồng trên đất cát pha.

    Nhà ông Hom, bữa cơm nào hầu như cũng có măng. Ông thư­ờng nói: “Nhà mình sẽ không bao giờ lo bị chết đói vì có măng”. Nhưng măng thì không thể cứ ăn mãi một món. Vậy là ông làm rất nhiều kiểu món để ăn cho đỡ chán: Măng chua; măng gio; măng khô; măng ngâm ớt; măng nướng; măng xào; măng ỏm; măng nấu canh chảo; măng kho cá suối... Ông Hom hết sức tự hào: Nếu mỗi bữa chỉ ăn một món thì mất cả tháng cũng không thể nếm hết những món măng của ông. Có lẽ vì thế mà quần áo ông quanh năm bốc lên mùi măng chua hăng hăng, trái hẳn với cái tên Cha, Mẹ đã đặt cho ông: Hom có nghĩa là hương thơm.

    Đao quấn quít bên ông Hom như hình bóng, bé theo ông ra ngoài bãi vườn chọn tre bư­ơng về đan lồng gà. Những thân tre mềm mại uốn theo làn gió hiu hiu. Lớp lá tre khô phủ dầy trên mặt đất thực sự là một tấm thảm êm. Khi chọn tre, bao giờ ông Hom cũng trở đằng sống dao gõ lên thân cây tre bương rồi dỏng tai nghe. Thân cây nào nghe gọn gàng tiếng cốc cốc là có thể hạ được, còn nếu nghe bộp bộp là tre chưa đủ độ, mang về đan lồng gà sẽ nhanh mọt hỏng.
    Ông Hom chỉ tay vào cây bương trước mặt

    – Đao, cháu xem, cây như thế này là chặt được! 

    Bé Đao nhìn ngước lên ngọn bương, đôi mắt thiên thần thấy ở đó có một tổ chim. Ngoài tiếng gió xua cành tre đập vào nhau, bé còn nghe thấy cả tiếng chim non kêu rất khẽ. Chắc là lũ chim non đang đói và mong đợi bố, mẹ. Chim cũng như người, trẻ con khi khát sữa bao giờ cũng khóc.
    Bé khẩn khoản:

    – Ông ơi! Đừng hạ cây này, trên cây đang có tổ chim. Để cho chim non thành chim lớn đã hãy hạ ông ạ! 

    Ông Hom nheo mắt, nhìn vút lên tổ chim rồi nở nụ cười đôn hậu. Dân Phiêng Đao vẫn có tục lệ: Khi vào rừng đi săn, không bao giờ được bắn, giết thú đang có mang hoặc đang nuôi con. Vì vậy, lẽ nào ông lại có thể hạ cây, phá tổ chim non. Ông bước từng bước khoan thai chuyển sang bụi tre khác, tiếp tục trở sống dao gõ thử lên từng thân tre. Đao vui lắm vì tổ chim đã được an toàn. Bé nhìn lại tổ chim lần nữa rồi đi theo sau ông. Gió thổi lá tre reo như khúc hát ru khiến Đao lúc nãy chân còn nhảy tưng tưng, nay mắt bỗng buồn díp lại, muốn ngả mình lên thảm lá tre khô ngủ một giấc thật êm đềm.

    Đao là đứa trẻ chẳng lúc nào chịu ngồi yên. Bao giờ bé cũng nghĩ rằng mình cần phải giúp ông, giúp cô Hạnh làm một việc gì đó. Thế là trong nhà có mấy chiếc nồi đen sì, cáu bẩn muội bám, bé mang ra cạo sạch bong. Mình còn có thể giúp ông làm gì nữa nhỉ?À! Vẫn còn những mảnh giẻ ông thường dùng quấn các ngón tay khi chuốt nan đan lồng gà. Đao nghĩ: Cần phải đem chúng đi giặt thật sạch, nếu không lỡ bị đứt khi chuốt nan, tay ông lại nhiễm trùng thì khổ. Đao mang giẻ ra suối ra sức vò thật kỹ, lòng bàn tay của bé đỏ ửng vì bị cọ xát, những ngón tay con con thì trắng hồng lên. Sau đó bé thử xem giẻ có thật sạch không bằng cách hái lá khoai môn đặt lên hõm đá, rồi vắt nước vào đó để xem đã trong bằng nước suối hay chưa? Đao vô cùng hài lòng: Sạch quá rồi đấy! Thế giới trong tâm hồn Đao thật hết sức đơn giản: Bé yêu quý mọi người trong gia đình và luôn muốn được làm việc để giúp mọi người.

    Đưa Đao về ở cùng được một thời gian, ông Hom nghĩ đến việc cho Đao đi học. So với độ tuổi bắt đầu vào lớp 1 thì Đao đã muộn mất 2 năm. Hạnh làm căng, bảo là lấy tiền đâu cho con bé đi học. Không thể để cho con trẻ phải thất học vì cuộc sống khốn khổ, rồi sẽ lại phải sống khốn khổ vì thất học, ông Hom quyết tâm đến nhà trường xin cho bé Đao được đi học.

    Đến lớp thì phải có túi đựng sách. Ông Hom ngắm nghía chiếc quần dài của mình, ông chắt lưỡi: Ống quần mặc dẫu có ngắn đi một chút cũng chẳng sao. Vậy là ông cắt bớt hai cái ống quần dài, chập lại để khâu thành túi đựng sách cho Đao. Đàn ông khâu vá bao giờ cũng vụng về, không khéo như đàn bà. Mắt ông Hom kém, lại không có kính, kim đâm phải tay ông chảy cả máu. Ông không dám nhờ Hạnh. Bây giờ con dâu đang giận, nhờ nó làm khác nào chất thêm củi, thổi thêm gió vào đám cháy. Sẵn còn có ít chỉ màu, ông nghĩ cần phải thêu thêm hình mây và núi làm đẹp cho chiếc túi. Đao chăm chú nhìn ông kiên nhẫn vắt từng mũi chỉ. Đường thêu rất vụng, nhưng chiếc túi nom cũng có vẻ đẹp hơn. Ông không tự tin lắm, ngượng ngập nói với Đao là ông thêu núi, thêu mây. Còn Đao sau khi ngắm nghía lại quả quyết rằng những hình đó chính là măng và nấm.

    Buổi đầu tiên Đao đến lớp, ông Hom hồi hộp chẳng khác gì ông mới là người đi học. Ông ngồi đan lồng gà, nhưng chốc chốc lại dừng tay, ngóng ra cổng. Đao tan học vừa về đến nhà, ông đã sốt ruột lấy ngay vở của bé giở ra xem. Nhìn chữ Đao viết, dù không biết đọc nhưng ông Hom vẫn cười nghiêng ngả, bởi chữ nét như  tóc rối, nét như giun oằn, nét lại xiên dọc, xiên ngang giống những cành tre gai tấp ngoài bờ rào. Nói tóm lại, đám chữ cứ búi vào nhau không gỡ ra được. Cười xong, sợ Đao xấu hổ, ông động viên: “Làm cái gì lúc mới bắt đầu mà chẳng khó. Cháu cố gắng thì thể nào cũng sẽ học được hết các con chữ”.

    Đao học rất chăm. Nhờ được đi học mà Đao nhận thấy mọi thứ xung quanh mình thật tuyệt vời: Đường đến lớp có rất nhiều hoa dại và bướm, mặt đất thì hiền hòa và xanh rợn cỏ non. Đao học giỏi nhất lớp, ông Hom vui không biết để đâu cho hết. Ông sung sướng trào nước mắt khi nhìn Đao trực tiếp nắn nót viết hai chữ: Ông Hom. Nước mắt vui của người già cũng trong như nước mắt của con trẻ và nhẹ như bông.

    Nhưng cô Hạnh thì không vui. Cô cho rằng: Nuôi Đao ăn thôi cũng đã là quá sức lắm rồi, nay còn bày vẽ chuyện đi học. Trong Hạnh như có nuôi một tổ ong đất. Đừng bao giờ đùa với ong đất, những con trâu to khoẻ nhất cũng có thể chết khi đã sa phải vào tổ ong.

    Sự căng thẳng trong nhà ông Hom ngày càng trở nên tồi tệ, lũ ong đất xui Hạnh làm những điều không nên làm: Cô rắc cát vào gạo rồi nấu cơm. Cơm chín, cô dọn lên bình thường coi như không có việc gì xảy ra. Nhai miếng cơm, ông Hom nhăn mặt:

    – Sao cơm hôm nay ăn lại có nhiều sạn cát thế này?
    Hạnh nói, đồng thời hai tay chống nạnh với tư thế sẵn sàng thả đàn ong đất:

    – Nhà tự nhiên nuôi thêm người, phải độn thêm cát mới đủ ăn! Không ăn được thì đem đổ đi! 

    Ông Hom tê tái, cố và thêm miếng nữa. Nhưng cơm độn cát, ăn sao nổi. Vậy là cả nhà cùng nhịn đói. Thương nhất thằng Đức, bị đói oan bởi cái tội của người lớn. Đôi mắt nó đặt những dấu hỏi: Tại sao??? Không còn biết phải làm gì, ông Hom ngồi lặng như người câm, mặc kệ nước mắt chảy. Nước mắt buồn của người già, đùng đục và nặng như đá. 
    Mọi chuyện còn tiếp tục tệ hơn nữa, bắt đầu từ việc Hạnh hỏi:

    – Tiền bán lồng gà dạo này đi đâu? Sao ông không đưa cho con?

    Ông Hom dè dặt:

    – Tiền lồng gà bán được, bố đã cho bé Đao đem mua hết sách vở rồi con ạ!

    Hạnh quắc mắt, đá mạnh vào chiếc lồng gà phơi trên sân. Không tin nổi, chiếc lồng gà bay lên mắc vào bờ rào dựng bằng những cành tre gai.

    – Đã bảo đừng cho nó đi học mà ông không chịu nghe. Người dưng như con khỉ trên rừng thì ông thương. Cháu nội ruột già máu mủ ông lại coi là cục đất. Gà không cần học cũng đẻ ra trứng. Nếu người nhờ đi học mà đẻ được ra trứng thì hãy cho đi.
    Hạnh vừa nói, tay vừa tự đấm thùm thụp vào lồng ngực. Tiếng ông Hom nhẹ nhàng:
    – Con dâu à! Con trách Bố không thương thằng Đức là không đúng. Bố chỉ nghĩ, nhà mình nghèo nhưng vẫn cố gắng nuôi thêm cái Đao được con ạ! Nếu mình đuổi đi thì nó biết cậy nhờ vào ai?
    Giọng Hạnh nặng nề, tưởng như không thể bay thoát được lên khỏi mặt đất:

    – Ông đã nói như thế thì từ ngày mai con với thằng Đức sẽ khắc nấu ăn riêng! Còn ông muốn làm gì thì làm, con mặc kệ! 

    Ông Hom ngồi lặng thừ, thở dài. Ông vô thức vớ lấy cái điếu ục, nhồi một mồi thuốc lào thật to, châm lửa rít lấy, rít để. Thứ thuốc lào được trộn thêm râu ngô phơi khô, mùi khét át đi cả mùi thuốc lào. Miệng ống điếu rộng, ông phải nghiêng hẳn một bên má để bịt cho kín miệng ống. Khi rít, má ông tóp lại nom thật tội nghiệp. Nhưng thuốc lào cũng không giúp gì hơn được cho ông. Ông tủi thân. Ông buồn. Ông hy vọng: Chắc tại con dâu nóng giận nên mới nói thế thôi, chứ thực ra nó vẫn là đứa con dâu tốt. Từ khi chồng nó mất, đã có mấy đám đến hỏi, vậy mà nó từ chối ở vậy nuôi con, nuôi bố chồng. Tính khí con dâu nay trở thành như vậy, cũng là do cái đói, cái nghèo đưa đẩy, khiến người ta phải ích kỷ, tính toán chi ly. Nghĩ thế, ông thấy đỡ tủi thân đi một chút.

    Bếp lửa nhỏ nhà ông Hom đã phải chia ra làm đôi. Ông Hom chỉ nhận lấy hai chiếc nồi: một chiếc còn khá tốt, một chiếc hết sức méo mó. Chiếc nồi còn khá tốt ông dùng nấu cơm, chiếc méo mó ông để đun thức ăn.

    Bữa nay, ông Hom dùng chiếc nồi méo luộc hai quả trứng gà, một quả ông mang cho bé Đức: Dù có chia ra ăn riêng thì Đức vẫn là đứa trẻ, là cháu nội ông. Một quả ông bóc sẵn bỏ vào bát cho bé Đao. Còn phần ông là bát ớt tuơi giã muối và đĩa măng luộc. Màu măng luộc cũng trắng tinh như màu lòng trắng trứng. Nhưng ở bản Phiêng Đao, một quả trứng có thể đổi được 10 đĩa măng luộc. 
    Ông Hom cầm bát cơm có quả trứng đặt vào tay Đao:

    – Cháu ăn đi! 

    Đao ngần ngừ, không nỡ nào ăn quả trứng, bé muốn nhường lại cho ông nên Đao cười, chỉ vào đĩa măng luộc:

    – Cháu không ăn trứng đâu! Cháu thích ăn măng này cơ ông ạ!

    Ông Hom dùng đũa ấn quả trứng sâu vào trong lòng bát cơm. Ông nói dịu dàng nhưng kiên quyết:

    – Không, cháu phải ăn! Trẻ con ăn trứng gà mới mau lớn chứ!

    Đôi mắt Đao nhìn quả trứng gà. Miệng lưỡi Đao có nước bọt tiết ra. Quả trứng này không phải là trứng vàng trứng bạc. Lòng đỏ và lòng trắng của nó cũng như mọi quả trứng khác. Nhưng mình không thể ăn! Ông đã vất vả nhiều, cái gì ngon cũng đều nhường cho mình. Mình không thể ăn! Mình phải làm thế nào bây giờ nhỉ? Trí óc non nớt của Đao chợt nghĩ ra một cách mà bé cho là tốt nhất. Đao đưa hai tay ôm lấy bụng, khuôn mặt giả vờ nhăn nhó, rên rỉ:

    – Ối, ông ơi! Cháu đau bụng quá, không ăn cơm nữa đâu!

    Đao chạy lên nằm trên giường, úp mặt xuống gối. Ông Hom lo lắng chạy theo. Thấy Đao nằm úp sấp, rên khe khẽ, thỉnh thoảng lại quằn quại sang hai bên, ông nghĩ bé đang đau lắm. Ông nói:

    – Cháu cứ nằm im đây nhé! Để ông đi hái búp ổi non cho cháu nhai xem có đỡ đau không.

    Đao vẫn nằm úp, sấp mặt xuống gối, chẳng dám ngẩng lên bởi xấu hổ vì đã trót nói dối. Bé thì thầm trong miệng không để ông Hom nghe: “Ông ơi! Cháu chỉ giả vờ để nhường ông quả trứng. Ông ăn quả trứng đi là cháu sẽ hết đau bụng ngay thôi!” Ôi! Không phải tất cả mọi lời nói dối đều xấu xa. Đôi lúc vẫn có những lời nói dối xứng đáng được tha thứ.

    Phải sống và lớn lên trong điều kiện khó khăn thì chuyện mắc bệnh cũng không có gì lạ. Bệnh suyễn lúc đầu còn chầm chậm rồi sau đó ngang nhiên chặn bàn tay lên ngực thằng Đức. Cứ cách vài ngày, thằng Đức lại lên cơn hen. Lúc đó, mặt Đức tái ngắt, thân thể mềm oặt như cụm rêu trong lòng suối.Đao thương lắm, nó rất muốn được xoa giúp cho em Đức bớt khó thở. Nhưng Đao không dám đến gần em vì sợ cô Hạnh, bé chỉ dám đứng nem nép ở sau khe cửa để ngó vào. Ngồi bên cạnh em Đức, cô Hạnh xù lên như con gà mái bảo vệ con trước lũ quạ. Nhưng cô Hạnh không phải là gà. Cô Hạnh là Người nên cô khóc, nước mắt ướt hết hai vạt áo đằng trước. Đứng ở sau khe cửa, nhìn thấy vậy Đao cũng trộm khóc theo. Nếu Mẹ còn sống, mình bị ốm chắc chắn Mẹ cũng sẽ thương mình như thế!

    Không ai bảo, nhưng Đao luôn để ý xem có ai biết cách chữa bệnh của em Đức. Ngay cả trong giấc ngủ Đao cũng thường hay mơ thấy em Đức khoẻ mạnh, rồi hai chị em được cô Hạnh dắt tay cùng đi hái sim trên bãi ngàn sao. Đao tin mãnh liệt: Một ngày nào đó chắc chắn sẽ có người chữa khỏi được bệnh cho em Đức!

    Một buổi, Đao được ông bảo đem măng đến biếu bà Pòm, bà sống độc thân không con cháu trong một căn lều dựng ven chân đồi. Căn lều của người sống cô độc không cần có cửa. Vừa mới bước vào trong Đao đã cảm thấy mùi nồng của bã trầu xộc lên hăng mũi. Mùi này có chút gì đó hơi giống mùi măng chua mà Đao chưa nghĩ ra. Bà Pòm giữ Đao ở lại ngồi chơi. Đao lễ phép từ chối:

    – Cháu phải về ngay thôi bà ạ! Lúc này ở nhà em Đức đang lên cơn hen. 

    – Ôi dào! Tưởng gì, bệnh hen suyễn thì chỉ cần bắt lấy 1000 con “Đuổng khem”, đem nướng lên ăn là sẽ khỏi!  
    Bà Pòm vừa nhai trầu vừa nói, đồng thời nhổ toẹt xuống đất một bãi nước bã trầu đỏ quạch.

    Chính Bà Pòm cũng không ngờ rằng mình đã vô tình mở toang cho Đao biết một điều bí mật. Đôi mắt thiên thần sáng rực. Đao mừng quýnh, nhảy cẫng lên. Hay quá! Hóa ra chỉ cần ăn 1000 con sâu chít là chữa khỏi bệnh hen suyễn. Chủ nhật này được nghỉ học cả ngày, mình sẽ đi bắt 1000 con sâu chít chữa bệnh cho em Đức. Nghĩ là làm. Tinh mơ chủ nhật, Đao nhẹ nhàng rút then cửa, rồi rón rén ra khỏi nhà. Đao nhằm hướng núi đá tai mèo mà đi. Chỉ có chỗ núi đá tai mèo mới mọc nhiều cây chít. Chít mọc thành từng bụi, Đao chặt, rồi lễ mễ ôm dồn thành đống, và sau đấy chẻ chúng tìm sâu. Thoạt đầu, Đao nghĩ mỗi cây chít sẽ đều có một con sâu. Nào ngờ, chẻ tước cả  đống may mới được 1,2 con. Nhưng Đao không nản: Mình sẽ chặt thật nhiều để kiếm đủ 1000 con.

    Trưa, nắng rọi đúng đỉnh đầu, Đao đổ lũ sâu chít kiếm được ra đếm: 100, 100, lại 100 con nữa. Bao nhiêu 100 thì được 1000 nhỉ? Đao đã đi học nhưng mới chỉ biết đếm đến con số 100, chưa biết thế nào là 1000. Đao nhìn chỗ sâu chít: Ít như thế này chắc là vẫn chưa đủ. Đao nhìn kỹ xung quanh, những bụi chít dễ lấy thì Đao đã chặt hết, chỉ còn lại những bụi mọc cheo leo trên vách đá. Đao bặm môi trèo lên, đá tai mèo nhọn và sắc đâm vào chân trần buốt đến tận đỉnh óc. Đao nghiến răng cho khỏi bật tiếng kêu. Để chữa khỏi bệnh cho em Đức, dù đau hơn nữa mình vẫn chịu được.

    Trong lúc Đao đang vật lộn, leo lên những vách đá tai mèo thì ông Hom lại lo lắng đi tìm cháu. Từ trước đến nay, chưa bao giờ con bé đi đâu mà không nói cho ông biết. Ông đến từng nhà để hỏi. Sau khi hỏi hết nhưng không ai nhìn thấy Đao, ông Hom liền trèo lên ngọn đồi cao chắn trước bản. Đứng từ trên đỉnh đồi, ông khum lòng hai bàn tay vào nhau, vòng trước miệng rồi ra sức hú dài, mong nếu bị lạc thì Đao cũng sẽ nghe thấy, theo tiếng hú mà về. Mỗi lần ông cất tiếng hú, dưới lớp da nhăn nheo, gân cổ nổi lên chằng chịt như đám rễ cây. Ông chợt nghĩ: Hay là sáng nay con bé ra suối, sau đấy bị ngã trượt chân... Ông rùng mình không dám nghĩ tiếp, rồi cuống cuồng đi mượn ngay chiếc thuyền độc mộc của hàng xóm vẫn dùng đánh cá. Mình trần, mặc mỗi chiếc quần đùi, ông tất tưởi chống thuyền xuôi theo dòng nước tìm Đao.

    Chiều chạng vạng, Đao mới về đến nhà, bụng đói, mặt bê bết mồ hôi và tái xanh vì mệt, nhưng tay thì vẫn giữ chặt miệng túi đựng những con sâu chít. Vừa nhìn thấy Đao, không thèm để ý đến những điều đó, Hạnh vơ ngay lấy chiếc chổi đập chan chát vào vách tường, bức vách được trát bằng bùn rơm bong ra từng mảng. Thái độ Hạnh hung dữ đến mức Đao nghĩ rằng trời sắp sập:

    – Khốn nạn! Mày đi chết dấm, chết dúi đâu cả ngày nay bây giờ mới thấy mặt? 

    Đao co rúm người lại, khuôn mặt đã tái xanh lại càng tái thêm. Hạnh nhào tới, giằng lấy chiếc túi thái bé đang khoác trên người ném mạnh xuống chân. Từ trong túi rơi ra một gói sâu chít trắng ngà và béo nẫn, chúng tung toé lên mặt đất. Hạnh lấy mũi bàn chân di lên từng con cho hả cơn tức. Sâu chít nát bét, chảy ra một thứ nước trắng nhờ như sữa. Đao quỳ xuống, mếu máo:

    – Cô ơi! Cháu xin cô đừng đánh cháu! Cháu biết lỗi rồi. Chỉ tại cháu nghe thấy người ta bảo nếu ăn 1000 con sâu chít nướng thì sẽ chữa khỏi được bệnh hen suyễn, nên... nên cháu đi kiếm để mang về nướng cho em Đức ăn. Cháu... cháu sợ cô mắng nên không dám nói.

    Chiếc chổi giật mình, cứng đờ, nó chỉ muốn được rời khỏi tay Hạnh, trốn vào một góc nhà nào đấy đứng yên tĩnh một mình để suy nghĩ. Cũng vừa đúng lúc ấy ông Hom trở về, từ ngoài cửa ông đã nghe hết những lời Đao nói. Ông ôm chầm lấy bé và nghẹn ngào thốt lên hai tiếng “cháu tôi”. Mùi măng chua bốc lên từ quần áo của ông đem lại cho Đao cảm giác an lành. Chỉ có những đứa trẻ như Đao mới cảm nhận được rằng mùi măng chua cũng là một thứ hương thơm thân thiết. Ôi, hương thơm... mùi măng chua. Ông Hom bật khóc. Chiếc chổi thẳng đuỗn, vì không kịp lẩn tránh vào bất kỳ một xó xỉnh nào đó, nó đành phải lặng lẽ chứng kiến những giọt nước mắt buồn của người già: Đó là những giọt nước mắt đùng đục và nặng như đá.

    Cả đêm hôm đấy, Hạnh nằm trằn trọc mãi không tài nào ngủ được. Chốc chốc cô lại trở mình, chiếc giường tre dưới lưng kêu rin rít như hơi thở khó nhọc. Chính vì không ngủ được mà Hạnh mới phát hiện ra rằng giường có rệp. Những đêm khác, làm việc quần quật suốt ngày mệt lử, nằm xuống là lập tức ngủ ngay nên rệp đốt cô cũng không biết. Hạnh ngồi dậy, thức soi đèn bắt rệp, được con nào cô đều đặt lên viên đá nghiền cho đến khi không còn nhìn thấy tí dấu vết nào nữa. Vừa bắt rệp, cô vừa tự trách mình cũng ác không khác gì con rệp. Gần sáng, mệt quá Hạnh ngồi bệt xuống đất, đầu gục vào thành giường rồi thiếp đi. Cũng vẫn trên chiếc giường đó, thằng Đức đang ngủ ngon lành say sưa, hơi thở đều đều, nhẹ nhàng. Đêm nay nó không lên cơn hen.

    Hạnh thức dậy muộn hơn mọi khi. Cô mở toang cánh cửa để ngắm mặt trời mọc. Nắng bình minh tô hồng lên khuôn mặt mất ngủ của cô. Rồi đây thằng Đức sẽ có một người chị tốt và biết yêu thương nó – Hạnh nghĩ như thế. Cô rút mớ tiền lẻ nhàu nhĩ từ trong túi ra, rồi vuốt cho thật phẳng phiu. Hạnh quyết định: Chiều nay sẽ đi chợ mua món gì đó ngon ngon về nấu cơm cho cả nhà cùng ăn. Cũng khá lâu rồi, Mẹ con cô, ông Hom, bé Đao đã không ngồi ăn cơm cùng nhau. 
    Hạnh đến chỗ ông Hom đang ngồi giữa đám lồng gà ngổn ngang. Cô nói mà mặt cúi gằm xuống đất, mắt không dám nhìn thẳng:

    – Chiều nay ông đừng thổi cơm. Con sẽ đi chợ mua thức ăn về nấu cho cả nhà. 

    Ông Hom sốt sắng nhận lời. Vậy là con dâu ông đã thông. Ông vẫn luôn luôn cầu mong điều này, nay thì  nó đã đến. Ông thở phào: Cơn mưa bão nào dù dữ dội đến mấy cũng có lúc phải tạnh. Ông còn dặn Hạnh:

    – Con dâu nhớ gánh theo chục chiếc lồng gà đi bán. Nếu bán được, con dâu mua thêm cho bố cút rượu!

    Hạnh đi bộ hơn chục cây số đường rừng để đến chợ, có bao nhiêu tiền trong túi cô bỏ ra mua thức ăn bằng hết. Hạnh dường như đã phá bỏ, thoát khỏi được tổ ong đất, cả buổi chiều cô dành thời gian để chuẩn bị cho bữa cơm. Cô đi ra, đi vào, tất bật nấu nấu, nướng nướng. Bữa cơm chiều hôm nay phải thật ngon. Bé Đức hỏi:

    – Mẹ ơi! Hôm nay nhà mình có khách quý à?

    Hạnh không trả lời, chỉ nghĩ: Còn quý hơn gấp nhiều lần khách quý!

    Cả nhà ông Hom ngồi cùng nhau ăn một bữa cơm không có món măng. Thằng Đức là người vui nhất, bởi nó rất yêu quý ông nội và chị Đao. Hạnh tuy vẫn còn ngượng ngập nhưng vẫn luôn tay gắp những miếng ngon cho bố chồng và Đao. Ông Hom mỉm nụ cười nhẹ nhõm: Ông bao giờ cũng nghĩ con dâu là người tốt.

    Ăn cơm xong, Đao cùng với Hạnh ngồi ngoài sân rửa bát. Bé kể cho Hạnh nghe những chuyện ngộ nghĩnh khiến cô phải bật cười. Đến tận hôm nay Hạnh mới ngắm nhìn Đao thật kỹ. Con bé thật nhanh nhẹn và xinh xắn. Tại sao mình không nhận thấy điều này sớm hơn nhỉ?
    Hạnh hỏi, giọng trìu mến:

    – Cháu có ra suối tắm cùng cô không?

    Đao đưa mắt nhìn ông Hom như muốn hỏi ý kiến. Ông gật đầu. Đao phấn chấn chạy vụt ngay vào nhà lấy quần áo, gió tung mớ tóc dài mượt của bé vẽ vào không gian hình một suối sao băng. Đây là lần đầu Đao đi tắm cùng cô Hạnh. Chắc chắn cô không còn giận mình và ông nữa. Đao hát líu lo, giọng bay lên cùng những giọt nắng cuối của một buổi chiều vàng rất đẹp, đàn suối hòa theo những âm thanh trầm bổng. Hạnh vui lây, lòng cô đã rũ bỏ được tổ ong đất, giờ đây nó như dòng mương được khơi thông, êm êm trôi chở nước cho những chân ruộng bậc thang.

    Hai cô cháu cùng tắm khoả thân. Nước suối thượng nguồn vô cùng trong sạch và mát, tắm mình dưới làn nước ấy bao giờ cũng có cảm giác bình yên và thanh thản. Bàn tay Hạnh nhẹ nhàng kỳ cọ lên tấm lưng gầy gò của bé Đao, nơi xương sống nổi gồ lên như những gióng trúc cằn. Lòng cô dâng lên cảm xúc kỳ lạ: Trẻ con, bất kể chúng là đứa nào cũng đều hết sức đáng yêu! Hạnh xoay bé Đao quay mặt về phía mình rồi nhìn sâu vào đôi mắt đó. Đôi mắt thiên thần, con ngươi như viên ngọc trong veo. Chợt Bé Đao rụt rè cất tiếng:

    – Cô ơi! Từ nay cô cho cháu gọi cô là Mẹ, cô nhé!

    Mũi Hạnh cay như sặc nước, cô choàng ôm lấy cơ thể bé Đao đang ướt sũng và thốt giọng nghèn nghẹn:

    – Ừ! Ngay ngày mai Mẹ sẽ mua cho con bộ quần áo mới để con đi học. Con phải cố gắng học thật giỏi để mai kia có thể trở thành Cô giáo dạy chữ cho người dân trong bản Phiêng Đao.

    Bé Đao “vâng” thật ngoan rồi dụi đầu vào bầu ngực Hạnh. Bầu ngực của những người mẹ bao giờ cũng rất ấm và êm ái. Chiều không còn nắng. Và lúc này, bầy côn trùng hoạt động về đêm đã bắt đầu tấu lên những thanh âm huyền diệu của sự sống. Trên trời cao lấp lánh đầy ánh sáng của muôn vì tinh tú, soi mênh mang xuống bãi ngàn sao.

    Rất có thể về sau này, bản Phiêng Đao sẽ có một cô giáo chính là bé Đao ngày nào vẫn đến lớp với chiếc túi sách được khâu từ 2 mảnh ống quần thấm đẫm mùi măng chua./.

    Vương Hà 




LỮ ĐOÀN 1 NHẢY DÙ TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG TẠI MIỀN NAM VIỆT NAM

  • Image en ligne
    Image en ligne


    Image en ligne
    Mũ đỏ Nguyễn văn Đỉnh
    - Biệt Danh: Đỉnh Tây Lai.
    - Liên đoàn trưởng Liên đoàn 1 Nhảy dù.
    - 1972: Ông đang trên trực thăng thị sát mặt trận Quảng Trị.
    - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 Nhảy dù.
    --------
    Xin hãy coi đây như một nén hương lòng để ngậm ngùi
    tưởng nhớ những chiến hữu Nhảy Dù/LĐ1/ND + Thiết giáp tăng phái đã anh dũng chiến đấu rồi hy sinh tại quê hương trong những ngày cuối để LĐ1/ND cùng một số đồng bào và đơn vị bạn ra đi an toàn đến bến bờTự Do. --------
    Hơn một phần tư thế kỷ đã trôi qua tính từ ngày Miền Nam Việt Nam, một số chiến hữu cũ thuộc Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù (LĐ1ND) do tôi chỉ huy trước năm 1975, có dịp gặp lại nhau tại Hoa Kỳ. Ngoài những hàn huyên mừng vui gặp lại, một số anh em vì còn ưu tư với quá khứ “sống chết có nhau và ngày vội vã rời bỏ Đất Mẹ, mang nặng trong lòng đầy ấm ức, tức tưởi”, vẫn còn một số thắc mắc nêu ra như:
    - Đang tăng cường cho Sư Đoàn 18 Bộ Binh (SĐ18BB) phòng thủ tỉnh Long Khánh (cửa ngõ vào Sài gòn) một cách vững vàng, LĐ1ND đã chiến thắng và tiêu diệt gần 2 Trung đoàn của Công trường 7 Việt cộng (VC), tại sao lại phải rút về Phước Tuy?
    - Đã bảo vệ Quốc lộ 15 (đường Sài gòn Vũng Tàu), đến khi Cộng quân chiếm Phước Tuy, với Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù (TĐND) và Chi đoàn (CĐ) Thiết quân vận (TQV) đã tái chiếm toàn bộ tỉnh lỵ, tại sao phải bỏ Phước Tuy để rút về Vũng Tàu?
    Vào ngày cuối cùng ở Gò Công (30/4/1975), khi không liên lạc được với Bộ tư lệnh Sư đoàn Nhảy dù (Sài gòn) để nhận lệnh, tôi với tư cách Lữ đoàn trưởng có liên lạc được với Bộ tư lệnh Quân đoàn 4/Quân Khu 4 để ngỏ hầu làm thêm một “cái gì” cho đất nước không?
    Tại sao khi cùng Lữ đoàn lên tàu để ra đi, tôi và Thiếu tá Ngô Tùng Châu, Tiểu đoàn trưởng TĐ1ND lại nhảy xuống một chiếc ghe nhỏ bơi vào bờ? Và... vân...vân...
    Những thắc mắc đó của các chiến hữu cấp dưới đối với BCH/HQ trên, tương tự như những thắc mắc của biết bao người Quốc gia mình tìm hiểu về số phận của từng đơn vị nhỏ hoặc lớn hơn thuộc QLVNCH vào những ngày Miền Nam, đều rất chính đáng và hợp lý.
    Riêng đối với LĐ1ND, xin các chiến hữu hiểu rằng: Trong thời gian đó, nhiều biến cố Liên tiếp, dồn dập xảy ra trong những ngày quá ngắn, tôi không có thời giờ giải thích cho bất cứ ai, mà chỉ căn cứ vào tình hình hiện hữu rồi ước tính và ra lệnh hoặc phản ứng cấp thời. Xuyên qua bài viết này, các bạn đọc sẽ thấy bàng bạc một số ước tính, suy luận đó. Những ước tính, suy luận này có thể còn thiếu sót, không hoàn chỉnh, vì chỉ do một bộ óc, nhưng rất may, nhờ những lý do ngoại cảnh, đã có những kết quả tốt đẹp (đa số các chiến hữu của tôi đã đi thoát và hiện ở Miền Đất Tự Do). Cũng qua bài này, tôi xin mời các bạn đọc theo dõi những bước chân hành quân cuối cùng của một đơn vị “bế hạt tiêu”...
    1- LĐ1ND TẠI MẶT TRẬN LONG KHÁNH:
    Vừa rời mặt trậnThường Đức và đèo HảiVân (Đà Nẳng) cuối tháng 3, 1975 về tới hậu cứ tại Sài gòn được mấy ngày, chưa kịp chỉnh đốn lại đơn vị, LĐ1ND lại nhận được lệnh của Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư lệnh Sư đoàn Nhảy dù, phải di chuyển gấp lên Long Khánh và thuộc quyền chỉ huy hành quân của Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 Quân khu 3.
    Sau hơn 8 tháng quần thảo túi bụi với các Sư đoàn 329B, 320, và 304 CS tại Quân đoàn 1 Quân khu 1, bây giờ lại hành quân nhưng đối với anh em Nhảy dù chúng tôi là chuyện rất thường tình. Vì thế đôi khi bà con, bạn bè tò mò có hỏi: 
    - Một năm đi hành quân mấy lần? 
    Mấy anh em chúng tôi trả lời gọn lỏn: 
    - Một năm đi hành quân có một lần nhưng kéo dài đến 365 ngày. 
    Câu trả lời này gần đúng 95% sự thật.
    Kỳ này, LĐ1ND hành quân với 3 Tiểu đoàn Nhảy dù cơ hữu gồm Tiểu đoàn 1 Nhảy dù (TĐT/Thiếu tá Ngô tùng Châu, Tiểu đoàn 8 Nhảy dù (TĐT/Trung tá Đào Thiện Tuyển) và Tiểu đoàn 9 Nhảy dù (TĐT/Trung tá Nguyễn văn Nhỏ)và Đại đội Trinh sát Nhảy dù (ĐĐT/Phạm minh Đăng), được yểm trợ bởi Đại đội 3 Công binh Nhảy dù và ĐĐ1 Quân y Nhảy dù và Tiểu đoàn 3 Pháo binh Nhảy dù (TĐT/Thiếu tá Nguyễn văn Thông).
    Lệnh hành quân quá gấp rút. Ngay đêm đầu tháng tư 1975, trong khi dân Sài gòn còn yên giấc, toàn bộ LĐ1ND đã ngồi trên 1 đoàn Quân xa di chuyển hướng về Long Khánh. Đến nửa đêm hôm đó, các đơn vị đã hoàn tất bố trí quân sâu trong đám rừng cao su hai bên đường, cách ấp Mẹ Bồng Con (Tỉnh LongKhánh) không bao xa. Vào lúc đó, đường từ Long Khánh về Biên Hòa bị kẹt vì Cộng quân đã chiếm ngã ba Dầu Giây, ấp Mẹ Bồng Con và mấy ấp lân cận. Lực lượng bạn, chủ lực là Thiết Đoàn Chiến xa QĐ3 với nhiệm vụ mở đưng lên Long Khánh, còn cách phía tây ấp Mẹ Bồng Con khoảng 500 thước. Phía đông ngã ba Dầu Giây là phòng tuyến của chiến đoàn 52/SĐ18 Bộ Binh. Quan niệm hành quân của QĐ3/QK3 lúc đó là muốn Lữ Đoàn 1ND vượt qua đơn vị bạn ở phía tây, giải tỏa các ấp bị địch chiếm, tiến vào giao tiếp với Chiến Đoàn 52/SĐ18/ BB. Sau khi đến khu rừng cao su, ngay sáng hôm sau, tôi xử dụng xe Jeep cùng mấy sĩ quan tham mưu đến vị trí tiền tuyến của đơn vị bạn để hỏi thăm tin tức và thám sát tình hình tại chổ. Xe của chúng tôi đã được địch chào mừng bằng hàng loạt đạn súng cối tới tấp trên đường nhưng rất may bình yên. Trở về trong ngày hôm đó, tôi xin BTL/QĐ3 cấp một chiếc trực thăng cùng các TĐT thuộc quyền bay lên thám sát chiến trường.
    Mọi thủ tục xong xuôi và sắp sẵn trong đầu kế hoạch hành quân, chỉ còn chờ ngày N. giờ G là khởi sự. Hai ngày đóng quân trong rừng cao su êm ả. Sáng ngày thứ 3, tôi nhận được lệnh về BTL/QĐ3 họp gấp. Sau buổi họp, thi hành kế hoạch mới, ngay ngày hôm đó, toàn bộ LĐ1ND được trực thăng vận vào thẳng Long Khánh, tăng phái cho BTL/SĐ18BB với nhiệm vụ tăng cường phòng thủ tỉnh này.Tôi cùng một số sĩ quan tham mưu đi đợt đầu để nhận lệnh, trong khi đó các đơn vị thuộc quyền tng chuyến rồi tng chuyến được trực thăng đổ xuống chân đồi Chuối, kế cận chi khu Xuân Lộc. BTL/SĐ18/HQ trú đóng trong một góc rừng Đông Nam kế cận ngã ba chi khu Xuân Lộc với pháo binh 155 ly và bải đáp trực thăng. Tại một căn hầm làm trung tâm hành quân/SĐ tôi được tướng Lê minh Đảo, Tư lệnh SĐ18BB đích thân cho tôi biết tình hình Địch và Bạn cũng như Dân chúng trong vùng, trong một tấm bản đồ cầm tay như sau: 3 sư đoàn Cộng quân (nếu tôi nhớ không lầm) dồn nổ lực tấn công mặt Tây Bắc, Bắc và Đông Bắc tỉnh Long Khánh.
    Hầu hết các lực lượng chủ lực của SĐ18BB gồm Trung đoàn Chiến đoàn 52 (Tr/ĐT/Đại tá Ngô Kỳ Dũng), Trung đoàn 43 (Tr/ĐT/Đại tá Lê xuân Hiếu) và 2 Tiểu đoàn/ Trung đoàn 48 trãi dài trên phòng tuyến phía Tây Bắc, Bắc và Đông Bắc tỉnh Long Khánh. BTL/SĐ18BB+BCH Trung đoàn 48+ 1 TĐ trừ bị, (Tr/ĐT/Trung tá Trần minh Công) tại Xuân Lộc (phía Nam Tiểu khu Long Khánh khoảng 4 cây số). Bộ chỉ huy Long Khánh (Đại tá Phạm văn Phúc,tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Long Khánh và các lực lượng Địa phương quân và Nghĩa quân vẫn vững vàng trong và quanh tỉnh lỵ. Một tiểu đoàn BĐQ thuộc Liên đoàn 77/BĐQ bảo vệ phi trường Long Khánh (sát phía Nam tiểu khu). Dân chúng trong làng tinh thần chống cộng rất cao. Mấy xóm đạo như ấp Bảo Định, ấp Bảo Bình  đều có lực lượng Dân quân Tự vệ được trang bị vũ khí, đạn dược đầy đủ. Tôi hỏi:
    - Thưa Thiếu tướng, hoặc Đại tá Phúc có “nắm” được dân 2 ấp Bảo Định (phía Đông BTL/HQ, 3 cây số) và ấp Bảo Bình (phía Đông Nam BTL/HQ, 4 cây số) không? Theo tôi nhận định đây là 2 tiền đồn rất tốt cho mình. Còn vạt rừng chồi giữa mình (BTL/HQ) và phi trường LongKhánh có quân bạn hoặc địch hoạt động gì không?
    Giữa mình và ấp Bảo Định có một chốt VC chưa “bứng” được nên Đại tá Phúc không liên lạc được với dân chúng 2 ấp này. Nhưng 2 ấp này còn vững vàng vì vẫn treo cờ Quốc Gia. Riêng vạt rừng này chưa có triệu chứng gì lạ. Áp lực địch nhiều ở phía tỉnh. Xin Thiếu tướng cho biết nhiệm vụ của đơn vị tôi. 
    - Em thử đề nghị kế hoạch của em, xem thế nào? 
    - Theo kinh nghiệm của tôi, chỗ lắng du nhất, không có hoạt động gì là chỗ địch “ém” quân và chờ làm “cú” dứt điểm. 
    Kế hoạch của tôi được Tướng Đảo chấp thuận nhanh chóng và cho thi hành ngay sau khi đổ quân hoàn tất.
    Tiểu đoàn 9ND trách nhiệm diệt chốt địch trên Quốc lộ 1, sau đó lục soát về phía Đông, tìm cách giao tiếp với ấp Bảo Định rồi đợi lệnh. Chỉ thị đặc biệt: Khi được bắn vào ấp, nếu dân bắn ra, hãy bắt loa báo cho họ biết mình là quân bạn.
    Tiểu đoàn 1ND trừ bị cho Lữ đoàn, bố trí phía Tây Liên tỉnh lộ 2. Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù xuất phát khoảng nửa tiếng sau thì có nhiều tiếng súng nổ ở phía Đông. 
    Với chiến thuật diệt chốt tinh xảo rút tỉa từ những kinh nghiệm ở các chiến trường Quảng trị  và Thường Đức, chỉ hơn nửa tiếng đồng hồ sau, Tr/Tá Nhỏ, Tiểu đoàn trưởng báo cáo về BCH/LĐ: ĐĐ93 (ĐĐT/Đại Úy Đinh văn Tường, con gà cứng cựa của Cửu Long, biệt danh của Tiểu đoàn 9ND) đã bứng rể chốt địch với 12 tên nằm tại chổ, 1 súng cối 61 ly và 9 vũ khí cá nhân, một số địch chạy về hướng Đông Bắc, Tiểu đoàn đang đến ấp Bảo Định. Tiểu đoàn 8ND xuất phát sau đơn vị trên 1 giờ, vừa rời Quốc lộ 1 khoảng 600 thước về phía Bắc thì chạm súng với một số tiền đồn của địch trong đám rừng chồi. Tôi rất vui mừng báo cáo tin này với Tướng Đảo. Như vậy ước tính không sai. Tôi tiếp tục cho lệnh TĐ8ND: Đại đội nào chạm đích cứ tiếp tục xấn tới, tiến được bao nhiêu hay bấy nhiêu, hãy xử dụng 1 Đại Đội khác bọc bên phải, thêm 1 Đại Đội khác nữa bọc bên trái. 2 Đại Đội này nếu chạm địch cũng xấn tới như vậy.
    Kết qu đúng như ý muốn, theo kiểu điều quân tương tự. Tiểu đoàn 8ND đã phải tung đến Đại Đội tác chiến thứ 4 cũng chạm địch luôn. Trung tá Tuyển nói với tôi:
    - Tôi không còn trừ bị. 
    - Anh đừng lo, tôi còn cả thằng 1 (TĐ1ND) bây giờ mình đã nhận diện được đội hình của địch. “Thông Già” sẽ làm việc.  
    Thiếu Tá Thông lúc nào cũng sẵn sàng, hàng trăm trái đạn pháo binh 105 ly đã rớt xuống đội hình của địch. Trung đội này chạm súng thì trung đội khác bọc phải hoặc bọc trái tiến tới. Các đại đội của Tiểu đoàn 8ND dàn hàng ngang để tiến tới, đội hình chung của tiểu đoàn như một hình vòng cung, hai đầu hai bên khép lại từ từ thành thế bao vây địch.
    Cánh quân đầu của TĐ9ND khi còn cách ấp Bảo Định cách khoảng 500 thước thì dân trong ấp báo động, súng bắt đầu nổ, đạn các loại bay rào rào về phía quân Dù.Vì không có tần số liên lạc được với dân, tiếng súng nổ kể cả súng cối 60 ly từ trong ấp bắn ra, át cả tiếng loa kêu gọi, nên anh em binh sĩ Dù đành núp và chờ đợi. Trung tá Nhỏ TĐT/TĐ9ND và 2 binh sĩ bị thương vì miếng đạn súng cối từ trong ấp bắn ra. Ông bị một vết thương nơi bụng khá nặng nên Trung Tá Nhỏ được chuyển về phía sau để tản thương và Thiếu tá Lê Mạnh Đường, Tiểu Đoàn Phó được cử xử lý chức vụ TĐT.
    Khoảng 15 phút sau, bắn ào ào nhưng thấy địch (Dù) im lặng, không phản ứng gì, dân trong ấp cũng ngưng bắn và quan sát. Nhảy dù tiếp tục bắc loa kêu gọi đừng bắn và ra khỏi chỗ núp từ các gốc cây để họ thấy rõ quân phục rằn ri. Sau khi gặp nhau, TĐ9ND về hoạt động bung quân lục soát sâu về phía Tây Chi Khu Xuân Lộc. TĐ1ND lên thay thế, bố trí phía Đông ấp Bảo Định. Trong thời gian TĐ8ND đang hình thành đội hình khép vòng vây địch thì 1 buổi chiều, địch pháo kích từ hướng Đông Bắc khoảng 30 trái đạn loại 130 ly vào khu vực Chi Khu Xuân Lộc, chủ yếu là vào BTL/SĐ18BB + BCH/ Tr48BB và Pháo đội 155ly. BCHLĐ1ND nằm trong vòng đai đó cũng đành chịu trận. Nhưng thiệt hại các đơn vị không đáng kể, chỉ cháy mấy khẩu Pháo binh 155 ly.
    Ngay buổi tối hôm đó tôi đề nghị với Tướng Đảo nên rời các cơ sở chỉ huy ngay trong đêm, tránh sang bên, lệch hướng địch pháo kích khoảng 500 thước là đủ, vì các sĩ quan tham mưu (không phải sĩ quan tác chiến) cần bình tỉnh, không bị địch quấy rầy để làm việc. Sau đó vì nghĩ rằng các đơn vị “chung một chuyến tàu” nên tôi thẳng thắng viết lên một trang giấy học trò. Những công việc nên làm đối với BTL/HQ nếu muốn tử thủ Long Khánh, trong đó tôi còn nhớ vài điểm thăng chốt như sau:
    1/ BTL/HQ không nên đóng chung với Pháo Binh.
    2/ Hạn chế trực thăng chở các phái đoàn Quốc hội và Báo chí (gần như hàng ngày) lên xuống gần BTL/HQ, nếu được nên thiết lập 2 hoặc 3 bãi đáp phòng hờ và luân phiên, cách xa BTL/HQ. Kể cả thượng cấp đến thăm HQ, đều được đem xe ra đón tại bãi đáp rồi được đưa vào BTL/HQ. Nếu không làm như vậy, tất cả Quý vị thăm xong đơn vị rồi về, chúng tôi ở lại vùng hành quân lảnh đủ.
    3/ Vị trí BTL/HQ nên tránh xa các đặc điểm địa hình như ngã ba, ngã tư đường, cầu cống. Nhà Thờ, Chùa, v.v... Nếu cần chui vào rừng để địch không biết chính xác ta ở đâu.
    Mũ đỏ Nguyễn văn Đỉnh



GIỮ LẤY HAI CHỮ NÀY LÀ GIỮ LẤY CẢ ĐỜI MÌNH

Người ta hỏi: sống ở đời, điều gì là quan trọng nhất?
Có người đáp: tiền tài. Có người chọn: danh vọng. Có người muốn: quyền lực.
Chỉ có ít người lặng im, nắm chặt trong tay một thứ không thể gọi thành tên: Lương thiện 

Ở ngoài phố, người bán hàng có thể nói dối vài đồng bạc lẻ. Trong công ty, đồng nghiệp có thể tranh giành công lao. Trong gia đình, người thân cũng có thể vì lợi riêng mà lạnh nhạt với nhau. Chuyện ấy, đầy rẫy.

Ai cũng từng bị tổn thương vì lòng người. Rồi ai cũng học cách khôn ngoan hơn: phòng bị, tính toán, dè chừng. Chỉ có điều, càng khôn khéo, lòng ta càng nặng nề. Càng giành phần hơn, trong lòng lại càng thấy thiếu thốn.

Có những lúc, ta tưởng mình thắng, khi nói được lời sắc bén, khi giành được lợi trước mắt. Nhưng đêm về nằm xuống, tự hỏi: Ta còn giữ được lòng sáng khi bước ra đời hay không?

Nếu để mất cái đó, thì thắng lợi có lớn mấy, cũng chỉ là gánh nặng. Nếu còn giữ được lòng mình, thì dù chịu thiệt một chút, cũng là điều quý giá. 

Đừng nghĩ đạo đức là chuyện lớn lao.Nó nằm ngay trong những việc nhỏ:

Một lần không nỡ chèn ép người yếu hơn mình.

Một lần không buông lời mỉa mai người đang khốn khó.
Một lần giữ trọn lời hứa, dù chỉ là việc nhỏ nhoi.
Một lần ngẩng đầu, cười với người mình không thích.

đời

Đạo đức, không cần ai chứng minh
Chỉ cần tự mình biết, trong khoảnh khắc ấy, ta đã lựa chọn thiện lương.

Có những việc người khác không thấy, trời đất vẫn thấy.
Có những việc hôm nay không ai trả, ngày mai vận mệnh sẽ hồi đáp.
Nhân quả không vội vã, nhưng chưa từng quên một ai.

Gieo thiện lương, lòng nhẹ. Gieo tham lam, lòng nặng. Gieo oán giận, lòng lạnh. Gieo bao dung, lòng ấm. Đời người ngắn ngủi, bao nhiêu thắng thua, cuối cùng cũng thành mây khói. Chỉ có tấm lòng đã đối xử với đời thế nào, là thứ còn mãi trong ký ức nhân gian.

Có người một đời không làm nên nghiệp lớn, nhưng đi đến đâu cũng được người ta quý mến, nhớ thương. Vì họ sống ngay thẳng, nói điều chân thành, làm điều tử tế.

Có người một đời giàu sang, nhưng khi nằm xuống, không ai nhỏ một giọt lệ. Bởi họ quá lạnh lùng, quá khắt khe, quá kiêu ngạo.





yunnan 4437984 1

Rốt cuộc, đời người, không phải hơn ở của cải, địa vị, mà hơn nhau ở cốt cách.

Khi còn trẻ, ta muốn nổi bật giữa thiên hạ. Đến trung niên, ta mong bình an giữa phong ba. Về già, ta chỉ mong không thẹn với chính mình.

Con đường nào rồi cũng có lúc tối tăm. Cuộc đời nào rồi cũng có ngày lạc bước.
Chỉ cần trong lòng còn một ngọn đèn nhỏ, là còn biết đường để quay về.

Giữ lấy một tấm lòng, dù người ta có cười chê rằng ngây thơ. Giữ lấy một tấm lòng, dù đời có bạc bẽo, lọc lừa. Vì cuối cùng, lương thiện không phải để người khác khen ngợi, mà là để chính ta, trong những đêm tối nhất, vẫn còn một lý do để tin vào Chân Lý. 

Đời người, chỉ xin được như vậy:
Đi qua bao thăng trầm, vẫn giữ được thiện tâm ban đầu.
Đi qua bao nhiêu đổi thay, vẫn còn tin vào điều tử tế.

Sống làm sao, để khi nhìn lại, có thể mỉm cười mà nói với lòng mình:
“Ta không phụ đời, đời cũng không phụ ta.”

Nguyên Tác An Hậu




Rầu Thúi Ruột
  • Thế là ông đã được về nhà. 6 năm, 3 tháng và thêm mấy ngày lẻ tù đày kể từ một buổi chiều tháng sáu năm 1975, các sĩ quan quân đội và công chức của chế độ miền Nam phải ‘trình diện học tập’ theo lệnh của Ủy ban Quân quản. Con ông chở ông và một người bạn là Sĩ Quan Thủy Quân Lục Chiến đến trường Tiểu Học Nguyễn Tri Phương. Đến cổng trường, hai chiếc xe gắn máy dừng lại, ông bước xuống rồi tháo chiếc đồng hồ Seiko Five, vốn được ông mua tại phi trường Tokyo trong chuyến tu nghiệp về từ Mỹ mấy năm trước, khỏi cổ tay rồi đưa cho con. Người con trai lẳng lặng đeo vào tay mình. Thế là trên người ông không còn vật gì đáng giá ngoài chiếc nhẫn cưới mỏng mảnh làm bằng vàng 18K và chiếc túi vải khoác vai, trong có vài bộ quần áo, ít thức ăn. Ông nói với người bạn tháo chiếc đồng hồ để con mình đem về dùm giao lại gia đình bạn. Người bạn gạt phăng: “Học mươi hôm rồi về! Chẳng có gì đâu!” Chỉ 24 giờ sau, chiếc đồng hồ Omega “Người nhái” đã được cán bộ giữ giùm và không bao giờ trở về với người bạn của ông. 
    Phải! Chẳng có gì! Có điều là người bạn của ông phải học đến hơn 10 năm chứ chẳng phải 10 ngày.
    ------
    Cả gia đình mừng rỡ khi thấy ông bước vào. Có tiếng đứa con gái hét lên: “Bố về!” Tiếng hét như một dòng điện truyền nhanh và những bước chân chạy rầm rầm từ trên sàn gác, từ sau bếp ùa ra phòng khách.
    Ông có một bầy con đông đúc và chúng chen nhau để ôm và hôn ông. Có tiếng mừng reo vui nghẹn ngào dòng lệ. Ông bồi hồi hôn lên tóc, lên trán hoặc lên má của từng đứa một.
    2.300 ngày ông chưa được ôm hôn chúng nó. Bóng hình và tình thương của chúng nó đến với ông qua những lọ thức ăn, những viên thuốc của những lần ông được vợ ông mang đến khi có dịp “đi thăm nuôi”. Bà chắt chiu từng hạt nếp, hạt gạo, hạt đậu, miếng thịt, thỏi đường... và làm thành thức ăn khô để khi có dịp đi thăm là mang lên cho ông.
    Bà đang đứng dựa vào góc tường và nhìn hạnh phúc nở trên từng khuôn mặt thân yêu và lan tỏa trong căn nhà nhỏ cũ kỹ. Ông lơi tay ôm các con và nhìn về phía bà. Có đứa con gỡ chiếc giỏ đệm đan bằng lát khỏi khủy tay ông. Bà nở nụ cười nhẹ, chớp mắt và đôi mắt đỏ hoe lên. Chiếc áo ngắn tay có nền những cánh hoa màu tím nhạt làm nổi bật làn da trắng xanh xao trên cánh tay của bà. Cánh tay gầy và gương mặt xương xương mà ông nhớ hằng đêm. Ông bước vội đến gần bà, đưa tay đỡ lấy gương mặt bà, hai bàn tay áp vào má, những ngón tay chạm vào đôi tai và những sợi tóc xám bạc phía sau gáy. Ông kéo nhẹ đầu bà cúi thấp xuống và đặt môi hôn nhẹ lên trán, nơi những nếp nhăn xuất hiện nhiều sau ngần ấy đêm xa ông thao thức.
    Bà đón nhận nụ hôn rồi nắm hai bàn tay đen đúa, chai sạn và sần sùi của ông trong hai bàn tay gầy và nổi những sợi gân xanh của bà. Bà nói: “Quang! con lên thỉnh chuông để bố con thắp nhang trình báo ông bà. Đứa nào chuẩn bị nước cho bố tắm rồi dọn cơm”.
    Trông bà vẫn trầm tĩnh, nhẫn nại và có vẻ thản nhiên nhưng ông biết, có bóng dáng ông trong nhà, nhịp đập trong trái tim bà đã thôi vội vã, sẽ đập nhẹ nhàng và hiền hòa lại như đã trở về trong sự nương tựa bên ông từ bao nhiêu năm nay.
    Những buổi tiếp bà con lối xóm đến thăm hỏi đã qua. Ông sống rất chân tình nên mọi người trong xóm cũng yêu mến ông. Họ dành cho ông sự quý trọng đúng mực vì khi còn là người sĩ quan cấp tá trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), ông luôn tươi cười, chào hỏi thân ái đến mọi người và cả những người đàn ông láng giềng mà cấp bậc chỉ là Hạ Sĩ Quan.
    Dường như không phải ông là người lính ác ôn bị chế độ mới gọi một cách miệt thị là “ngụy”. Dường như không phải ông bị đi học tập cải tạo ngần ấy thời gian. Ông chỉ vừa đi xa khỏi xóm ít ngày và nay trở về. Những ngày bảo con chở đi thăm bạn hữu, họ hàng thân thuộc đã qua... Đa phần bạn trong quân ngũ tương đương cấp bậc với ông thì vẫn còn bị lưu đày trong các trại tù suốt từ Nam ra Bắc, bạn ngoài dân sự thì sự đổi đời cũng đã khiến cuộc đời họ thay đổi. Người thì co lại và cố sống lặng lẽ với số tài sản còn giữ được. Người thì thích nghi nhanh với đời sống mới và vẫn ‘làm ăn’ được. Ông không gặp được một số người. Nghe nói có người đã về vùng kinh tế mới; có người đã mang gia đình vượt biên. Và bây giờ, trước mắt ông là những ngày khó khăn chờ đợi...
    Chẳng mấy người sống thanh liêm như ông. Thời chiến tranh, bom đạn khắp nơi. Ai cũng sợ chết và ai cũng cố kiếm lợi khi có chút quyền hành. Chiếc ghế ông ngồi tại một cơ quan trực thuộc BộQuốc Phòng đã khiến bao kẻ thèm thuồng vì là chiếc ghế gắn đầy những quyền lợi.
    Nhưng chỉ ngồi và kiếm chác mà không làm được việc thì cũng sẽ ra chiến trường hay chí ít thì cũng về các tỉnh. Ông đã từng rời bỏ chiếc ghế đó vì bị ganh ghét và nhận một công việc nhàn hạ hơn mà rồi cũng phải quay về nhận lại chỉ sau 3 tháng khi người thay ông với nhóm nhân viên tăng cường đông nhiều lần hơn vẫn không thể hoàn thành công việc.
    Ngồi trên chiếc ghế được ví như nạm vàng hoặc cẩn kim cương đó, ông lại giúp người khác nhiều hơn và không cần đòi hỏi tiền bạc hoặc đổi chác gì cả. Ông giúp vì hoàn cảnh của họ đáng được giúp. Có lẽ sự hay giúp người đã tạo phúc cho ông. Ông chỉ học tập ở phía Nam, trong các trại “cải tạo” ở miền Đông: Suối Máu, Bù Gia Mập, Minh Hưng...
    Ít nhất đã 3 lần, vào lúc nửa đêm, ông đột ngột bị gọi tên và chuẩn bị hành lý để chuyển trại để rồi khi những người khác lần lượt bước lên xe làm chuyến đi trong đêm vô định, còn ông lại sót tên ngồi một mình giữa sân và lại quay về lán trong sự mừng rỡ của các bạn. Bạn bè đưa lại cho ông những thứ mà ông khi chuẩn bị đi đã đưa cho họ và thì thầm: “Ông may mắn đấy! Nghe nói chuyến đó ra Bắc.”
    Trong trại, ăn uống cực khổ và thiếu thốn như thế, làm việc nặng nhọc, bị sỉ nhục tinh thần, thương nhớ người thân và tinh thần bị giằng xé bởi những quyết định trong những ngày cuối của cuộc chiến,ông vẫn không bị bệnh tật đe dọa. Nhờ quen ăn uống đạm bạc và điều độ nên ông chịu đựng được những cơn đói triền miên hành hạ. Những cơn đói hoa mắt váng đầu khiến con người ta nếu không đủ nghị lực dễ đánh mất danh dự. Có lần ông còn thoát chết khỏi tai nạn lao động. Những cây to trong rừng phải đốn chặt chỉ bằng sức người và dao rựa và không có sự bảo vệ nào. Những cái chết thảm đến với các sĩ quanVNCH trong thời gian đi cải tạo như là sự phó mặc cho tự nhiên. Cái tàn ác của Cộng sản chính là sự phó mặc mang vẻ tự nhiên đã được sắp đặt. Chết vì buồn phiền, chết vì lao lực, chết vì đói, chết vì bệnh tật không có thuốc trị, chết vì thú dữ,vì lao động không được bảo hộ...Lần ấy cả thân cây to đổ ập xuống về phía ông đứng, mọi người hét lên, ông bỏ chạy. Nhưng lúc ấy vì quá sợ ông lại chạy trong chiều cây đang đổ xuống. Đột nhiên, ông nhớ lại, dường như có một sức mạnh vô hình kéo ông ngã văng sang một bên.
    ------
    Ông cố tìm sự tĩnh lặng trong đời sống bằng mỗi buổi sáng cùng vợ đi dạo công viên. Trong làn gió sớm ông nhớ lại quãng thời gian hơn 30 năm làm lính. Từ Bắc vào Nam, từ một người lính khinh binh trẻ tuổi đến vị trí người sĩ quan nhiều lần tham dự các cuộc họp liên quan đến vận nước, đời binh nghiệp của ông kết thúc trong cái khóa tay uất hận và cùng bao đồng đội ngồi đếm niềm đau thân phận từng đêm giữa núi rừng rét lạnh. Vợ ông sức ngày càng yếu. Bà như một người đã cố kéo căng hết sức mình để vượt qua những trở ngại và kiệt lực khi hoàn tất. Ông khuyến khích bà đi bộ mỗi sáng cho khỏe và giấu sự lo lắng về cuộc sống vào sự tập trung chăm sóc bà.
    Ông cố đi tìm việc để đỡ đần cho con cái. Cuối cùng, một người bạn nhường một phần công việc kế toán cho các tổ hợp gia công trong Chợ Lớn cho ông. Ông phấn khởi đi làm dù thu nhập không nhiều. Ông nhủ thầm: “Thế là tốt lắm rồi.” Công việc giúp ông thoát được cảm giác vô dụng và những giờ ưu tư đè nặng tâm hồn. Cái ý nghĩ là trụ cột cho gia đình luôn thúc giục ông phải bước tới dù con ông nhiều đứa đã trưởng thành. 
    10 năm qua chúng đã chẳng làm rất tốt đấy sao?
    Một buổi sáng như thường lệ, ông và bà đi bộ về. Các con pha trà và gọi quà sáng cho ông ăn. Bát phở vào dạ dày chưa được bao lâu, một cơn đau bụng khủng khiếp đột nhiên bùng phát. Ông bổ nhào người khỏi chiếc ghế salon đang ngồi, xuống nền gạch bông và quằn quại. Các con hoảng hốt chạy đến đỡ ông dậy rồi vội vã đưa ông vào bệnh viện Nguyễn Văn Học. Các bác sĩ đến khám nhưng không biết ông bị bệnh gì và ông lại tiếp tục chịu đựng những cơn đau xé người. Ông chợt nghĩ đến cái chết. Phải chăng sau ngần ấy năm bị đày đọa ông phải nhận kết quả sau cùng cho cuộc đời mình trong đớn đau như thế này? Hốt nhiên ông lại nghĩ đến bà và tiếc nuối.
    Một đứa cháu biết tin chạy vào bệnh viện. Ông đã nằm trong đau đớn hơn 5 giờ đồng hồ. Bác sĩ vẫn không có sự chữa trị nào. Đứa cháu nói với con ông: 
    - Phải đưa bác xuống bệnh viện Sài Gòn ngay. Để ở đây như thế này thế nào bác cũng chết. Bác sĩ dưới đó toàn là dân ‘Quân Y’ hồi trước. 
    Con ông lo ngại: 
    - Bác sĩ không cho mang đi.
    Thằng cháu quả quyết: 
    - Không cho mình cũng mang. Người nhà của mình, mình lo.
    Chúng tranh cãi với bác sĩ, y tá, rồi mang ông xuống bệnh viện SàiGòn, nơi một số bác sĩ của “chế độ trước” còn được lưu dụng vì tài năng.
    Ông được cứu sống sau khi mấy ông ‘Quân Y’ cắt bỏ đoạn ruột bị hoại tử dài 8 tấc. Bác sĩ nói đến chậm một chút là cứu không kịp nhưng cái bụng của ông sẽ mang vết mổ rất xấu vì không có đủ chỉ khâu. Trong đêm nằm tại phòng hồi sức, phía ngoài hành lang mờ tối các con ông thức trắng và cầu nguyện cho cha được bình an.
    Ông được ra khỏi bệnh viện và về nhà. Ông cần ăn uống kiêng cữ một thời gian. Con ông nói: 
    - Bố đừng lo nghĩ nữa. Lần này đúng là ‘rầu thúi ruột’. Vết thương đang lành nhưng do không có đủ chỉ khâu, chỗ mổ dần dần bị căng ra và lồi lõm. Đoạn phía dưới rốn lồi ra thành một cục to tướng khiến ông mặc quần khó khăn. Ông tặc lưỡi: “Đành chịu xấu vậy thôi”.
    Ông mang bầy con sang Hoa Kỳ định cư theo diện H.O. dành cho các Sĩ Quan bị “cải tạo”. Khi đi khám sức khỏe, các bác sĩ đã hốt hoảng khi nhìn thấy vết mổ. Họ năn nỉ ông cho họ khâu lại vì toàn bộ phần nội tạng chỉ còn có lớp da mỏng che chở và họ không biết lúc nào thì vết khâu sẽ rách bung ra và toàn bộ ruột gan của ông sẽ đổ hết ra ngoài. Trong tuần kế tiếp ông đã đến bệnh viện để bác sĩ khâu lại bằng dao laser. Không một giọt máu chảy, vết mổ mảnh như một sợi chỉ vắt trên da và sau khi nằm nghỉ một tiếng ông thư thái ra về.
    Vết thương đời đã kết thành sẹo vô hình trong tâm hồn hay gồ ghề xấu xí trên thân thể đã là bằng chứng của cuộc đời ông gắn liền với các biến cố của đất nước. Thỉnh thoảng, nhìn vết sẹo dài còn lưu trước bụng, ông thầm nhớ những buổi sáng đi bộ cùng vợ. Ông vẫn giữ thói quen ấy mỗi sáng. Một mình. Chỉ một mình lặng lẽ bước trên những con đường vắng và rợp mát. Bà đã không còn để cùng ông dạo sáng nữa, vì một căn bệnh nan y, đã vĩnh viễn yên nghỉ lại với quê hương, trước ngày ông mang con ra đi, đã như niềm đau chôn chặt vào tim khôn nguôi. Dù thời gian có thu nhỏ nó lại mảnh mai như sợi tơ đi nữa, vẫn tồn tại nơi ông đến cuối đời.
    Lê Khánh Long



Lưu dấu một thời


  • Image en ligne



LẤY CHỒNG THI SĨ

  • Những bài thơ anh làm em rung cảm,
    Em lúc nào cũng như sống trong mơ,
    Khi bất chợt thấy lòng mình trống rỗng,
    Em yêu rồi, hình ảnh một nhà thơ...
    Tôi đang đứng giữa ngã ba đường, phải quyết định lấy chồng, một trong hai người:Anh Thi sĩ và anh Business, hai anh đều bằng tuổi,ngang ngửa nhau về “sự nghiệp”. Anh Thi sĩ đang nổi tiếng, thơ anh đăng trên nhiều tờ báo địa phương, còn anh business thì đang thành công trong nghề, nói chính xác hơn anh đang làm chủ một nhà hàng cơm phở đắt hàng.
    Hai anh đều là người tử tế, đàng hoàng, và chẳng hiểu sao hai ngành nghề khác nhau thế, nhưng hai anh lại giống nhau ở một điều là cùng yêu tôi và muốn cưới tôi làm vợ.
    Mẹ tôi cứ lo lắng, sợ tôi ế chồng, nay thấy một lúc có hai thằng đòi làm con rể, bà vui mừng cuống cuồng lên, cứ làm như..chính bà đang bị ế chồng. Bà cân nhắc, so sánh hai người và giục tôi:
    – Con đã lớn tuổi rồi, sắp thành gái già rồi, khỏi phải suy nghĩ cho mất công, phí thời gian, cứ lấy ngay anh... Phở cho ấm thân.
    Mẹ tôi cứ gọi tắt tên anh bằng chính cái nghề của anh cho tiện, cho dễ nhớ. Bà nói tiếp:
    – Anh thi sĩ, gàn gàn, dở dở nên ế vợ cho đến bây giờ. Dẹp nó qua một bên đi con.
    Tôi cãi:
    – Như thế thì anh Phở cũng gàn gàn dở dở nên đến bây giờ cũng chưa có vợ đấy!
    – Người ta lo làm ăn, lo làm giàu, còn anh thi sĩ thì bận rộn gì ngoài mấy bài thơ vớ vẩn đăng báo?
    Mẹ tôi hứ lên một tiếng, kết luận:
    – Trông người cứ lừng kha lừng khừng, ai mà chịu nổi?
    – Con chịu nổi!
    Tôi tự ái giùm anh và bênh vực cho anh. Là một người yêu thơ anh, từng thổn thức vì thơ anh, nay được “thần tượng” yêu lại và muốn cưới làm vợ, tôi hãnh diện lắm, nhưng đắn đo một tí chỉ vì anh quá nghèo so với anh chủ nhà hàng phở.
    Sau vài đêm suy nghĩ, tôi quyết định chọn anh thi sĩ, vì tôi không biết làm thơ, lấy anh tôi sẽ có cả một trời thơ cho riêng mình và vì tôi có thể tự nấu phở để ăn, nên... khỏi cần lấy anh chủ tiệm phở nữa.
    Tôi phải hy sinh, tranh đấu với nội tâm mình và với gia đình, cha mẹ, để chọn anh, tưởng rằng khi nhận được tin anh sẽ mừng vui lắm, nhưng anh thi sĩ chỉ... lừng khừng:
    – Cưới em thì chắc chắn anh sẽ cưới, nhưng anh... chưa đủ tiền.
    Tôi mơ mộng thề thốt:
    – Em sẽ chờ. Không có gì ngăn cản được con đường tình của em đến với anh đâu!
    Anh ngẫm nghĩ, tính toán một lúc rồi nói:
    – Vậy em chờ anh... mượn tiền nhà bank xem sao.
    Tôi ngao ngán:
    – Đợi anh mượn nợ, làm thủ tục cũng lâu lắm. Thôi,  em sẽ bỏ tiền ra, chúng mình sẽ là vợ chồng, tiền của em cũng là của anh.
    Lấy được người mình yêu và nể phục thật là hạnh phúc. Những bài thơ tình của anh đăng báo đều được các bà, các cô ưa thích, họ gởi thư đến tòa soạn báo nhờ chuyển đến cho anh. Đọc những lời thư ái mộ đó, tôi càng cảm thấy hãnh diện và hạnh phúc thêm, bất cứ sáng tác mới nào của anh, tôi đều được đọc trước khi đăng báo, trong thơ anh ít nhiều có hình bóng tôi, có ý kiến tâm tư tôi đóng góp vào.
    Mải mê trong hạnh phúc, tôi quên mất anh Phở, anh thất tình tôi, chểnh mảng trong công việc làm ăn, nên hình như phở anh... kém ngon đi? Kể cũng tội, giá mà ngoài tài nấu phở, anh cũng biết làm thơ hay nữa thì lý tưởng biết mấy! Tôi thích ăn phở và cũng yêu thơ. Nhưng tôi không thể lấy một lúc hai người.
    Ít lâu sau tôi nghe tin anh Phở lấy vợ, chị này chắc có tâm hồn ăn uống chứ làm gì có một tâm hồn mộng mơ như tôi?
    Tôi đi làm, chồng thi sĩ của tôi cũng đi làm, vì thơ anh có hay cách mấy cũng chẳng kiếm ra tiền. Thơ là mộng mà, nên phải lấy thực nuôi mộng. Khi cuộc sống yên ổn, có tiền trả nợ nhà, nợ xe, có cơm ăn, áo mặc, tâm hồn anh mới thoải mái nghĩ ra thơ.
    Ở với anh, tôi mới biết điều đó, tính anh lừng khừng đủ thứ, nhưng sáng sớm, vừa nghe cái alarm reo báo thức là anh lập tức ngồi nhỏm dậy, nhanh như cái lò xo, nhảy xuống giường, sửa soạn đi làm. Chẳng lừng khừng tí nào cả.
    Ngoài 8 tiếng làm việc, anh lại hiện nguyên hình là một nhà thơ... gàn gàn dở dở như mẹ tôi đã nhận xét.
    Cái vòi nước trong bồn tắm bị rỉ nước, nước cứ chảy nhỏ giọt cả tuần nay mà anh không hề hay biết, tâm hồn anh để ở tận đâu đâu, mỗi ngày tôi hứng được mấy thùng nước, thấy nước chảy mà tôi xót cả ruột, tháng này chắc trả bill nước cũng mệt. Tôi nhắc nhở mãi anh mới chịu vác búa, vác kìm vào phòng tắm, anh hì hục gì trong đó không biết, một lúc lâu sau, anh cầm búa, cầm kìm ra hớn hở... khoe:
    – Không sửa được em ơi, vòi nước vẫn chảy nhỏ giọt. Nhưng nhờ thế mà anh đã làm được bài thơ “Khi em khóc”.
    Tôi vào phòng tắm, chẳng những không sửa được, mà anh còn làm hư hỏng thêm, nước chảy nhỏ giọt nhiều hơn, nhanh hơn. Nhưng tôi cũng sung sướng, ngạc nhiên và khâm phục hỏi anh:
    – Anh nhìn giọt nước chảy mà tưởng tượng ra giọt nước mắt người yêu ư?
    Anh hớn hở khoe tiếp:
    – Đúng thế, làm thơ thì phải giàu tưởng tượng mà em. Như tuần trước, trong lúc cắt cỏ vào một buổi chiều nắng, trời nóng đến chảy mồ hôi, bụi và rác bay tối tăm cả mày mặt, nhưng anh cũng vẫn tìm được ý cho bài thơ “Gió bụi cuộc tình” đấy.
    Trời ơi, tôi đâu có ngờ những bài thơ tình ướt át của anh ra đời trong những hoàn cảnh thực tế “phũ phàng” như thế!
    Những hôm thời tiết giở chứng, âm u và mưa gió, chồng tôi ngồi trong nhà, suy tư, và ghi ghi chép chép được mấy câu thơ (mà tôi tin chắc là hay). Tôi bỗng chạnh lòng... thương hại cho anh Phở, chắc càng nhìn mưa rơi, anh càng sốt ruột... lo nồi phở ế chứ lòng nào mà thơ với thẩn.
    Thơ của chồng tôi làm ra nhiều quá, không biết để đâu cho hết.Tôi bàn với anh nên in thơ để bán, tôi hào hứng lắm, nếu thơ anh được đi vào văn học sử thì tôi cũng... ngang nhiên được vào theo, vì tôi là vợ của anh mà.
    Nhà thơ mộng mơ cao ngất trời mây nhưng khi động đến tiền cũng vội vàng... rơi xuống đất, trở về thực tế:
    – Anh xin em, nhà mình vẫn đang túng quẩn, em đừng có ý nghĩ ấy nữa, in thơ là điên rồ, là lỗ vốn, em biết chưa?
    – Em biết rồi, mở một quán nhậu còn hy vọng khách đông, chứ thử mở một quán bán sách, toàn là thơ, truyện thì sẽ chẳng có ma nào đến mua. Nhưng mình vì mục đích văn nghệ, để góp mặt với đời, để mang thơ đến với khách mộ điệu bốn phương. Ai in thơ cũng đều thế cả, chứ có ai sống bằng “nghề” làm thơ đâu. Em hứa sẽ nhịn ăn nhịn xài cho anh in thơ.
    Tôi hớn hở nói tiếp:
    – Em đã hỏi nhà in rồi, không tốn bao nhiêu đâu, nếu in càng nhiều thì giá thành mỗi cuốn càng rẻ. Anh đừng lo, mình sẽ tổ chức buổi ra mắt sách, mời tất cả bà con họ hàng bên nội, bên ngoại, bạn bè xa gần, ít nhất cũng lấy lại vốn.
    Chẳng bao lâu sau, 1,000 cuốn thơ tình của chồng tôi ra đời, hai vợ chồng tôi chở sách từ nhà in về chất đầy trong phòng ngủ, thương mến và trân trọng chờ ngày ra mắt sách.
    Thi sĩ chồng tôi xôn xao rạo rực cũng không bằng tôi, ngày nào tôi cũng soi gương ngắm nghía xem mình có “dễ thương”, có xứng đáng là vợ của một nhà thơ không? Tôi đi mua sắm quần áo rộn rịp, làm chồng tôi ngạc nhiên:
    – Cứ làm như em đang sửa soạn đi thi... hoa hậu ấy!
    – Chúng mình đang sửa soạn ra mắt sách mà!
    – Nhưng ra mắt sách của anh chứ có phải của em đâu!
    – Em là vợ anh. Nhân vật số 2 cũng quan trọng lắm anh à. Em đã chẳng cho anh những nguồn cảm hứng làm thơ đó sao?
    Chồng tôi gật gù:
    – Ừ nhỉ, bằng chứng là những lúc em sai anh sửa cái vòi nước, khi cắt cỏ, anh đã viết nên thơ, và ngay cả khi em... quát mắng anh cũng nghĩ ra thơ nữa, những bài thơ nỗi đau cuộc đời.
    Ngày ra mắt sách đã đến, ngoài anh em, họ hàng, em, cháu, bạn bè thân không sót một ai của hai vợ chồng, tôi còn mời được một đống khách nhằng nhịt, mà tôi... chẳng nhớ tên nhớ mặt, chỉ quen biết sơ sơ lúc đi chợ, đi chùa v..v... do tôi moi óc mãi mới nghĩ ra, mới liên lạc dây mơ rễ má từ người này đến người nọ để xin được số phone địa chỉ của người kia và gởi giấy mời một cách... thống thiết, nên chẳng ai nỡ từ chối cả.
    Nói tóm lại, không một người quen dù thân dù sơ nào “thoát” khỏi tay tôi trong dịp này.
    Bạn bè lần lượt đứng lên giới thiệu anh và ngâm thơ anh, dĩ nhiên họ cũng không quên giới thiệu tôi là vợ của nhà thơ, tôi cảm động quá.
    Các bạn bè anh, phụ giúp anh tổ chức buổi ra mắt sách này, chắc đã nhiều kinh nghiệm, họ kê một cái bàn dài ngay gần cửa ra vào, sách thơ chất đầy trên đó, không người khách nào... dám ra về tay không cả, ai cũng... phải dừng lại bàn, cầm cuốn thơ lên ngắm nghía, lật qua lật lại làm như quan tâm lắm, trong khi vợ chồng tôi đứng đó, mỉm cười liên tục... mỏi cả miệng và chờ đợi họ... móc túi trả tiền, xong họ xúm vào mở trang bìa ra xin nhà thơ chữ ký, cứ làm như mê thơ anh lắm, trân trọng anh lắm, nhưng biết đâu, chốc nữa về đến nhà, cuốn thơ có chữ ký ấy sẽ bị quăng vào một xó, không bao giờ họ nhớ đến nữa.
    Có những người bạn thân chơi rất đẹp, mua một lúc cả chục cuốn thơ và trả tiền cao hơn giá bán, coi như vừa mua vừa donate”, những người mua lẻ tẻ từng cuốn cũng trả hào phóng như thế, cuốn thơ ghi giá 15 đồng, họ trả luôn 20 đồng cho chẵn, cứ làm như cho thêm tiền “típ” vậy.
    Trời ơi, làm ở nhà hàng, làm nail có tiền “tip” đã đành, làm... thơ như chồng tôi cũng có tiền “tip” nữa, vậy thơ cũng đồng nghĩa với bán buôn rồi sao?
    Sau buổi ra mắt sách và “cưỡng bức” khách mua thơ, có cả lòng “xót thương” và lòng “hậm hực”, vì phải tốn tiền để vác những cuốn thơ – có khi chẳng bao giờ thèm đọc  về nhà, thì vợ chồng tôi coi như lấy lại vốn, được “lời” hơn mấy trăm cuốn sách lù lù trong nhà.
    Không thể tổ chức ra mắt sách lần thứ hai trong cùng thành phố này nữa, giá mà thơ...ăn được thì khách mời còn đến. Trong giây phút xao lòng, tôi hiểu ra rằng..phở còn hấp dẫn hơn thơ, hôm nay ăn no ăn chán rồi, mai đói lại thèm ăn nữa, còn cùng một cuốn thơ, mấy ai đọc lại lần thứ hai?
    Thơ của chồng tôi đăng “rao vặt” trên báo để bán, bao nhiêu khách ái mộ thơ anh, từng viết thư khen anh nức nở thế mà chẳng ai thèm gọi phone hay gửi thư đến order thơ anh cả, chỉ lác đác như vài giọt mưa khan hiếm trong cơn nắng hạn, vài người gởi check đến mua thơ, thì lại có hai cái check...dổm, đã không có tiền mà lại bị nhà bank phạt mấy đồng, chẳng lẽ viết thư... cãi nhau, lại tốn thêm mấy chục cent tiền tem. Mà thôi, bớt được cuốn sách nào rộng nhà thêm chút đó, cho nên vợ chồng tôi coi như mở rộng tấm lòng..cho không biếu không, vì... văn học nghệ thuật.
    Ngày tháng trôi qua, tôi không đăng “rao vặt” bán thơ nữa, chỉ tổ tốn tiền quảng cáo cho chủ báo mà thơ vẫn chẳng ai mua, những cuốn thơ bỗng trở thành...chướng ngại vật trong nhà, vợ chồng tôi đành phải di chuyển chúng xuống garage. Tôi xót xa nhìn những bài thơ trữ tình của chồng tôi nằm một xó, bên cạnh cái máy cắt cỏ, cái bình đựng xăng và bao thứ lỉnh kỉnh không tên khác để trả căn phòng ngủ về vị trí của nó.
    Không còn người bạn nào để tặng thơ nữa, vì họ đều là “nạn nhân” trong hôm ra mắt sách rồi!
    Trong lúc thất vọng này, tôi chợt nhớ ra một người, đó là anh Phở, người duy nhất không... bị mời, chỉ vì tôi ngại ngùng anh còn buồn còn giận tôi, bây giờ tôi tin là anh đã nguôi ngoai, nên tôi muốn đích thân  sẽ mang tặng anh một cuốn thơ của chồng tôi.
    Tôi bước vào nhà hàng của anh Phở lúc đang đông khách, có một người đàn bà xinh đẹp ngồi trong quầy tính tiền trông ra dáng bà chủ, chị ăn diện lịch sự, sắc sảo, tính tiền với khách xong lại quay ra chỉ huy đám nhân viên đang bận ríu rít gần đó.
    Nhìn đám khách đông đang ăn uống, họ thưởng thức những tô phở nóng hổi, những dĩa cơm thơm ngon của anh làm ra một cách nhiệt tình và yêu thích. Anh Phở không phải tổ chức buổi ra mắt hàng quán của anh, không phải gởi giấy mời ai cả, không “cưỡng bức” ai cả, khách thích và cần thì tìm đến, ăn xong trả tiền, sòng phẳng và vui vẻ đôi bên.
    Còn những tác phẩm tim óc của chồng tôi – của nhà thơ  là những bài thơ nằm lặng lẽ trên một góc báo, không phải ai cầm tờ báo lên cũng đọc, không phải ai cũng muốn bỏ tiền ra mua một cuốn thơ. Sao mà vô lý và buồn đến thế!
    Lựa lúc bà chủ rảnh, tôi đến gần và để cuốn thơ lên quầy:
    – Thưa chị, chúng tôi là bạn của anh nhà, tôi muốn tặng anh chị cuốn thơ này.
    Chị nhìn tôi dịu dàng:
    – Thơ của chị à?
    – Không, đây là thơ của chồng tôi.
    Chị nhìn tên tác giả và nói như reo lên:
    – Đây là nhà thơ mà tôi và chồng tôi đều yêu thích, chúng tôi tuy bận rộn nhưng thỉnh thoảng đọc báo, cứ thấy bài thơ nào của anh ấy là cả hai vợ chồng cùng đọc. Không ngờ hôm nay lại được anh chị tặng cuốn thơ này, cám ơn chị, cho chúng tôi gởi lời thăm nhà thơ và mong anh sáng tác đều để chúng tôi được đọc.
    Tôi đã đọc thấy trong lời nói, trong cử chỉ của chị sự chân thành của một người yêu thơ, chị và chồng chị không phải chỉ biết buôn bán với bạc tiền, suốt ngày tính toán lời lỗ như tôi đã nghĩ.
    Thì ra ai cũng có hai con người trong một, nhà thơ mộng mơ lãng mạn đến đâu cũng có phía đời thường cơm áo, hay một người sống thực tế đời thường đến đâu cũng có lúc tâm hồn lắng đọng, mộng mơ. Họ không thể viết thành văn, thành thơ, nhưng biết rung động, chia xẻ với những vần thơ, câu văn, những cảm xúc ấy không thua gì người viết.
    Tôi chào chị ra về, lòng hân hoan vui sướng, đây là một cuốn thơ biếu tặng, nhưng tôi đã nhận được cái giá lớn nhất, trân trọng nhất, kể từ hôm ra mắt sách cho đến gi.                                 
    Nguyễn thị Thanh Dương


Khen Vợ
  • Mình ơi ! tôi nói mình nghe . .
    Đưa ra , không phải tôi khoe nịnh mình.
    Dung nhan , vóc dáng , xinh-xinh,
    Trổ tài nội trợ vì tình chồng con,
    Ngày ngày chế biến món ngon,
    Tận tâm phục vụ , vẹn tròn tào-khang.
    Tôi nay xin kễ rỏ-ràng,
    Chợ gần đi sớm , xách mang ê hề.
    Thơm lừng kho mẻ cá trê,
    Canh chua cá ngát , vàng nghê bánh xèo.
    Món hầm bắc thảo giò heo,
    Làm thêm lẩu mắm cá kèo nhúng rau.
    Thịt khìa hấp dẫn đỏ màu,
    Măng tre non trắng , xắc xào nấm rơm.
    Lươn đồng , rau ngổ đem om,
    Mấy ông dân nhậu liếc dòm quên đi.
    Chiên giòn thì có cá phi,
    Me xào cua gạch , nhăm-nhi ngon lành.
    Tuyệt chiêu , cháo rắn hổ hành,
    Nguyên da nấu với đậu xanh , tiêu cà.
    Xé phay bắp chuối thịt gà,
    Chấm chung mắm ớt , hích hà cay . . cay. . . .
    Cà ry đùi ếch vàng hoay,
    Phở bò , riêu bún , mùi bay thơm nồng.
    Mùa mưa cá chốt dưới sông,
    Trứng vàng kho sả , mắt trông đã thèm.
    Nóng sôi cá lóc luộc hèm,
    Cuốn rau, chuối chát, gừng, kèm mắm tôm.
    Tô canh cá chẽm khoai môn,
    Mắm chưng dưa chuột, đũa đơm điều điều.
    Lại thêm bao tử hầm tiêu,
    Hào tươi , sò huyết , vọp , nghiêu , nướng lò.
    Mì xào , hủ tíu , bò kho,
    Bún bì xíu mại , chả giò , tôm chiên.
    Tép tươi bằm trộn củ riềng,
    Phơi làm mắm ruốc , ăn ghiền quên tên.
    Nước lèo bún mắm sôi lên,
    Thịt cua nấu súp, củ dền hầm xương.
    Bún tàu cá chẻm, chưng tương,
    Lẩu chao nấu vịt , heo sườn sốt chua.
    Bồn-bồn , năn tượng theo mùa,
    Xào tôm vị ngọt , cơm lùa mê ăn.
    Mặn chua canh cá sặc rằn,
    Còn đem kho tộ , chi bằng cá rô.
    Xoài chua bằm trộn cá khô,
    Dĩa nhăm chua ngọt , nuốt vô nhíu mày.
    Mình ơi ! mình giỏi lắm thay,
    Khiến tôi ngồi đứng đêm ngày lo . . lo. . .
    Vóc mình nay đã tròn vo,
    Còn tôi bể tướng , bụng to chình bình.
    Giỏi nghề nấu nướng cho xin,
    Vợ chồng mập ú , xứng tình , xứng đôi.
    Phương xa - : " Bớ mấy Em ôi ! .
    Xem xong , mail gấp cứu tôi , can dùm ".
     
    Quách Trấn Tường
     


Quê ... TA Quảng Nôm, đi xe độp!
  • FB_IMG_1754195056859.jpg

    Nếu như lần đầu đến xứ Quảng, bạn đừng ngạc nhiên với tính cách của người dân ở đây. Nếu bạn hỏi họ điều gì đó, thì đừng hi vọng sẽ nhận được câu trả lời ngay lập tức, bởi Quảng thường trả lời câu hỏi bằng một câu hỏi do họ đặt ra cho người vừa hỏi họ. Nó tréo hều chỗ nớ...

    Ví dụ bạn hỏi: 
    "Chú ơi đây có phải là đường xuống Hội An không?" 

    Thay vì trả lời "Đúng rồi" người Quảng sẽ "cãi" lại bằng một câu hỏi khác kiểu như: 

    "Mi dân ở đâu mới tới phải không? Đường ni không xuống Hội An chẳng lẽ ra Đà Nẵng à... cứ đi thẳng qua cầu Vĩnh Điện rẽ trái chạy miết là tới Hội An à".

    Dù câu trả lời khiến bạn thất vọng, tuy nhiên người Quảng rất chân tình, sau câu hỏi họ thường chỉ dẫn cụ thể tường tận cách đi, thậm chí nếu đường khó đi quá họ sẽ dẫn đi luôn "để khỏi mắc công hén lại hỏi đi hỏi lại người khác".

    Hỏi: 
    "Chị ơi em kêu cà phê nãy giờ sao chưa có" - 

    Trả lời: 
    "Bộ chú không thấy hả?  Quán mấy chục người mình tui răng làm cho kịp. Cái ông áo trắng vô trước chú tui cũng chờ như chú mà ổng có hỏi chi đâu. Từ từ chút bưng ra. Chắc ở đâu mới tới hả?"

    Hỏi: 

    "Bà ơi trái dưa này ngon không?". 
    Ngay lập tức người hỏi sẽ bị hỏi lại: 
    "Chắc dân ở mô chứ dân ở đây chỉ nhìn qua một cái là biết dưa ngon dở liền. Nhiều chuyện quá..." ha ha.

    Hỏi là đặc tính của người Quảng. Bất cứ ai cũng có thể bị dân Quảng vặn vẹo hỏi. Nhất là người Quảng xa quê thường "đau đầu nhức óc" với các kiểu câu hỏi mỗi khi tết đến xuân về kiểu như: "Bao giờ mi về?", "Hăm mấy mi dể?", "Răng bữa ni chưa dề?", "Chắc làm ăn không ra chi nên bữa ni chưa thấy dề", "Mấy đứa dề hết trơn rồi, chỉ có mình mi là chưa về"... ha ha...

    Nhưng đối với những đã về quê rồi thì cũng bị một loạt câu hỏi khác: 
    "Về hồi mô rứa?", "Răng dề sớm rứa?", "Làm ăn có ra chi hông mà bữa ni đã dề rồi?". 

    Còn về trễ thì vẫn bị hỏi kiểu: 

    "Răng về trễ rứa", "Mấy đứa dề từ 20 còn mi bữa ni mới dề", "Chắc làm ăn không ra chi nên dề trễ", "Người ta dề từ 17-18 còn mi bữa ni mới dề..."...
     Nhưng về mà ở nhà lâu quá thì bị hỏi tiếp "Bao giờ mi đi lại", "Làm ăn có ra chi không mà bữa ni còn đủng đỉnh ở quê?"... Toàn câu hỏi hông hà.

    Nhưng đừng lo. Người Quảng có thói quen hỏi mà không cần câu lời và hỏi cũng là cách để yêu thương. Họ hỏi và tự trả lời với chính mình. Để lý giai câu chuyện vì sao người Quang hay hỏi là vấn đề làm đau đầu biết bao nhiêu "nhà Quảng Nôm học". Tính cách của con người xứ Quảng được mô tả trong hồi ký Christoforo Borri viết vào năm 1618 khi ông ngụ lại Quảng Nam “Người Đàng Trong siêng năng, ưa làm lụng, tránh sự ăn không ngồi rồi… có được sự hòa hợp hoàn hảo, cư xử thân tình,… tuổi tác được coi trọng hơn thứ bậc”, “Bản năng tự nhiên là tử tế, ưa làm điều thiện nhất là đối với người nghèo”. Còn giáo sĩ Alexandre de Rhode, năm 1624 thì lại viết: “Dẫu họ đánh giặc rất giỏi, coi thường mạng kẻ địch, nhưng đối với nhau tại thương yêu như ruột thịt”.

    Cá tính Quảng được thấy rõ nhất ở những những bậc anh hùng kiệt như tổng đốc Hoàng Diệu “Nhất tử thành danh, tự cổ anh hùng phi sở nguyện. Bình sanh trung nghĩa, đương nhiên đại cuộc khởi vô tâm”, là Trần Cao Vân, Trần Quý Cáp, Nguyễn Duy Hiệu... là Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Khôi... và nhưng nhà cách mạng tiên phong trong việc "khai dân trí, chấn dân sinh".

    Ở lĩnh vực văn học nghệ thuật, cá tính Quảng cũng làm nên một Nguyễn Nhật Ánh già đanh khú đế nhưng chuyên viết truyện về con nít vạn người mê.  Phan Vũ với tuyệt tác "Em ơi Hà Nội phố" còn mãi với thời gian. Vũ Đức Sao Biển bàn chuyện kiếm hiệp Kim Dung đọc không chán,  Vũ Hạnh với "Bút máu" để đời. Là Trầm Tử Thiêng, Đinh Trầm Ca với những bản tình ca bất hủ. Là Tiểu Vy, Mỹ Tâm, Thoại Mỹ, Ngọc Ánh, Võ Hạ Trâm... không cần trang điểm vẫn đẹp lộng lẫy.

    Tất cả sự khác biệt đó đã làm nên một cá tính mang tên xứ Quảng. Người Quảng ngày nay đi khắp nơi để làm ăn sinh sống, môi trường xã hội xung quanh có thể ít nhiều làm thay đổi cách nhìn cách suy nghĩ của họ, nhưng có thứ họ bao giờ bị "đồng hóa" đó là "cá tính Quảng".

    Và cuối cùng nếu đọc bài ni, ai mà chê là viết dở thì chắc chắn chắn họ là dân ở mô chứ không phải dân xứ Quảng Nôm đó hỉ... hihi. 😜 


    FB_IMG_1754195056859.jpg

    --




  • image.png

    <image.png>





--
====================================================================
Trên Facebook :
http://www.facebook.com/DaiHocKhoaHocSaiGon
====================================================================
 
Bạn đã nhận được bài viết này vì bạn đã đăng ký vào Nhóm "KhoaHocSG" của Google Groups.
* Để đăng bài lên nhóm này, hãy gửi email đến "khoa...@googlegroups.com"
* Để RÚT TÊN ra khỏi nhóm này, gửi email đến "khoahocSG+...@googlegroups.com"
* Để có thêm tuỳ chọn (preference set up), hãy truy cập vào nhóm này tại: http://groups.google.com/group/khoahocSG?hl=vi
---
Bạn nhận được thư này vì bạn đã đăng ký vào nhóm Google Groups "KhoaHocSG".
Để hủy đăng ký khỏi nhóm này và ngừng nhận email từ nhóm, hãy gửi email đến khoahocsg+...@googlegroups.com.
Để xem cuộc thảo luận này, hãy truy cập vào https://groups.google.com/d/msgid/khoahocsg/MN2PR02MB65923B30CD2DE3C4EA5838F3FC30A%40MN2PR02MB6592.namprd02.prod.outlook.com.
Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages