Dị Thuật Ký.

375 views
Skip to first unread message

mikomai

unread,
Dec 24, 2011, 4:18:39 AM12/24/11
to Nhóm tu luyện đạo giáo
Dị Thuật Ký này vốn do Nghinh Phong huynh viết, được huynh ấy cho phép
- mình post lên cho mọi người đọc về Tà Tu.
--------------------------
Kỳ 1: Nguyệt Thần Hộ Bảo

“Nguyệt thần hộ bảo” là một dị thuật rất nổi tiếng ở Việt Nam đặc biệt
là thời kỳ trong và sau giải phóng. Có thể nói ở Việt Nam lúc bấy giờ
hầu như ai cũng nghe nói về tác dụng của dị thuật này mặc dù ngay cả
tên của nó là gì có khi chẳng ai biết đến.

“Nguyệt thần hộ bảo” tên như ý nghĩa là dị thuật dùng để bảo vệ kho
tàng, bảo khố, được các tu sĩ người Hoa áp dụng cho việc bảo vệ các
kho báu của các gia tộc người Hoa định cư tại Việt Nam, vì nhiều lý do
phải hồi hương gấp mà không kịp mang theo gia sản, nên đành chôn giấu
và niêm phong kho báu, với mục đích ngày sau con cháu có cơ hội quay
trở lại Việt Nam lấy lại gia sản của tổ tiên.

“Nguyệt thần hộ bảo” mục đích là Hộ bảo, và “người” hộ bảo được gọi là
“Nguyệt thần”.

Để tạo ra Nguyệt thần, các tu sĩ người Hoa liền đi khắp nơi trên nước
Việt chọn lấy các trinh nữ tuổi khoảng 12, 13 (Được gọi là “Nguyệt
thước” - Mầm gạo Nguyệt) để chú thuật nuôi dưỡng cho đến khi “Nguyệt
thước” thành thục thì mang tới kho tàng tiến hành hoàn tất pháp thuật.

“Nguyệt thước” tất nhiên không phải lựa chọn từ các trinh nữ một cách
bừa bãi mà chọn theo Bát tự một cách quy luật. Tương truyền, trong các
loại “Nguyệt thước” có hai loại linh nghiệm nhất, đồng thời hiệu quả
cũng mạnh mẽ nhất:

1, Canh Kim Nguyệt Thước: Đây là những trinh nữ sinh vào giờ Kim, ngày
Kim, tháng Kim, năm Kim, mệnh Kim ngũ cục. Đặc biệt nếu trên người có
khí chất vương giả hoặc khí chất của gia đình võ tướng thì càng thêm
hiệu quả.
Canh Kim Nguyệt Thước sau khi thành thục sẽ trở thành Canh Kim Nguyệt
Thần (hay còn gọi là Canh Kim Sát) là một trong những Nguyệt thần thủ
hộ có sát tính mạnh nhất, phù hợp với việc thủ hộ kho tàng của tầng
lớp công hầu vương giả.

2, Huyền Âm Nguyệt Thước: Đây là những trinh nữ sinh vào giờ Âm, ngày
Âm, tháng Âm, năm Âm, mệnh Thuỷ lục cục. Đặc biệt trên người có khí
chất hạo thiên của gia tộc văn quan, hoặc khí chất đoan thục của gia
đình hào môn gia giáo thì càng thêm hiệu quả.
Huyền Âm Nguyệt Thước sau khi thành thục sẽ trở thành Huyền Âm Nguyệt
Thần (hay còn gọi là Huyền Âm Sát) là một trong những Nguyệt thần thủ
hộ có Âm tính mạnh nhất thiện về che dấu, phù hợp với việc thủ hộ kho
tàng của tầng lớp cổ gia, đại thương phú khả địch quốc.

Sau khi đã “Tuyển thước” thành công, thì chuyển sang “Dưỡng thước”.

Quá trình “Dưỡng thước” là việc các tu sĩ người Hoa dùng dược liệu
nuôi dưỡng “Nguyệt thước”, dạy cho các “Nguyệt thước” một loại công
pháp cơ bản “Nguyên thần hoá âm thuật” và bắt “Nguyệt thước” phải tu
luyện đến đại thành trước năm 15 tuổi, đồng thời chú khắc lên cơ thể
“Nguyệt thước” các loại phù trận tuỳ theo từng tu sĩ.

Những “Nguyệt thước” thành thục (tức là hoàn thành “Nguyên thần hoá âm
thuật” trước năm 15 tuổi) sẽ được lựa chọn một lần cuối để chọn ra
“Nguyệt thước” có khí chất tốt nhất, đồng thời được đưa đến kho tàng
đúng vào năm 15 tuổi để chuyển thành “Nguyệt thần”

Kho tàng, vốn cũng được các thuật sĩ người Hoa lựa chọn trước tại
những nơi có hoàn cảnh phong thuỷ đặc biệt và khó phát hiện.

Tại kho tàng, trước khi bắt đầu nghi thức chuyển hoá. “Nguyệt
thước” (Giai đoạn hiện tại còn có thể gọi là “Nguyệt sát”) được tắm
rửa sạch sẽ, chay tịnh một thời gian, đồng thời được cho ngậm một
miếng sâm (hoặc phù chú) tuỳ môn phái, đảm bảo có thể duy trì sự sống
của “Nguyệt sát” 100 ngày, và cũng chỉ duy nhất 100 ngày không hơn nửa
khắc (Được gọi chung “Bách nhật lệnh”), và bị hàn kín miệng lại.

Lúc này “Nguyệt sát” sẽ được khống chế không thể di động, và được đặt
vào trong trận pháp tương ứng với loại “Nguyệt thần” của bản thân. Sau
đó thì trận pháp được khởi động bằng tính mạng và máu huyết của các hạ
nhận đào động, vận chuyển báu vật mang vào trong động. Đồng thời cũng
là một cách giữ bí mật vị trí của bảo tàng mà người Hoa hay dùng.

Trong bảo tàng lúc này các cơ quan ám khí, hoặc độc dược, chướng khí
(tuỳ bảo tàng và thuật sĩ) cũng sẽ được khởi động (hoặc tự khởi động)
vào khắc cuối cùng khi mà cửa bảo tàng (cửa động) được phong kín.

Cuối cùng, hậu duệ của các đại gia người Hoa trên sau này chỉ việc
mang theo bản đồ, Lệnh phù phù hợp với pháp trận của bảo tàng, những
kiến thức gia truyền liên quan đến việc phá giải cơ quan bẫy rập…
trong động, đồng thời đợi đến đúng thời điểm “Nguyệt thần sát trận” mở
ra trong tháng (Mỗi tháng, trận pháp trong bảo tàng sẽ mở ra khoảng
hai, ba ngày - thường gọi là “Nguyệt thần sát trận”) thì tiến vào lấy
bảo vật.

Nhàn đàm: Thực tế, việc lựa chọn “Nguyệt thước” dựa vào Bát tự, việc
dùng phong thuỷ lựa chọn nơi chôn bảo tàng, và việc thiết kế cơ quan
bẫy rập… không khó. Điểm mấu chốt của “Nguyệt thần hộ bảo” là Bí thuật
“dưỡng thước”, công pháp “Nguyên thần hoá âm thuật”, “Nguyệt thần sát
trận” và Bí thuật “Bách nhật lệnh”
Trong các cao nhân ở đây, nếu ai có thông tin về 4 loại bí thuật mấu
chốt trên, mong rằng có thể chia sẽ cho mọi người cùng tăng thêm kiến
thức.

---------------------------
Kỳ 2: Chiêu Tài Thánh Nữ

_“Chiêu tài thánh nữ” cũng là một dị thuật có công dụng khá nổi tiếng
ở Việt Nam trong thời kỳ sau giải phóng, cuối thời kỳ bao cấp. Vì một
vài lý do, nó chỉ được thực hiện một cách ngấm ngầm, do một số ít
người có đủ khả năng về tiền bạc, quyền thế… có thể làm được mà không
sợ bị tóm.

_Cũng giống như “Nguyệt thần hộ bảo”, ngay cả trong thời kỳ toàn thịnh
nó cũng chỉ được biết đến với công dụng là chính mà danh tự thì hầu
như rất ít người biết (trừ những đại gia đã từng thực thi dị thuật
này). Và vì vậy, những câu truyện nói về nó càng lúc càng sai lệch đi
rất nhiều. Một trong những dị bản sai lệch đó và được biết đến nhiều
nhất là việc các đấng mày râu truyền tụng về việc ngủ với gái trinh
thì việc làm ăn sẽ may mắn.

_Thực tế “Chiêu tài thánh nữ” có thể coi như là một danh hiệu dùng
chung, bởi vì mục đích của dị thuật này là giúp cho thân chủ có thể
“Chiêu tài” và có rất nhiều môn phái, tu sĩ có được và có thể thực thi
loại phép thuật này (Tất nhiên là hình thức thì đa dạng và hiệu quả
thì cũng không đồng nhất).

_Ở đây, tôi nhấn mạnh chữ “Chiêu tài” là mong người đọc không phải
nhầm lẫn giữa Chiêu tài và Cầu tài.

_Cầu tài là bằng vào bí thuật tăng lên vận số để trong hồng trần mênh
mang có thể có nhiều hơn cơ hội nắm được duyên tài lộc. (Hay ví dụ một
cách đơn giản thì cầu tài giống như là tăng tỷ lệ đạt được giải độc
đắc trong việc đánh sổ xố vậy).

_Tuy nhiên, dù cầu tài thuật có cao minh đến cỡ nào đi nữa thì tối đa
cũng chỉ khiến cho người được thi thuật có được 50-50 cơ hội nắm bắt
được duyên tài lộc mà thôi (Đây là trường hợp lý tưởng nhất, thông
thường thì ít hơn rất nhiều).

_Hơn thế, thường thì bí thuật cầu tài thường để lại những hậu quả lớn
cho thân chủ bởi vì vận số của con người nói thật cũng chẳng phải dễ
dàng tăng lên như thế (dù chỉ là trong thời gian ngắn cố định hay cơ
hội lý tưởng tối đa là 50-50).

_Thuật “Chiêu tài” thì lại khác (hoặc có thể nói là một loại thuật Cầu
tài cao cấp hơn), bởi vì thứ nhất kết quả “Hoạch tài” (Lấy được tài
lộc) trực tiếp hơn rất nhiều, thứ hai phần “báo ứng” cũng đến chậm rãi
hơn rất nhiều.

_Như đã nói ngay từ đầu “Dị thuật ký” là chuyên nói về những dị thuật
bàng môn tà đạo thế nên “Chiêu tài thánh nữ” cũng không nằm ngoại quy
luật này. Vì sao phải nhắc nhở như vậy? Đó là bởi vì muốn người đọc có
thể nhìn từ góc độ của tu sĩ tà phải (những người sẵn sàng dùng mọi
loại thủ đoạn, phép thuật tổn thương người khác chỉ để lấy được lợi
ích cho bản thân) để cùng suy xét về nguyên nhân có thuật chiêu tài
này.

_Ở trên đã nói, thuật Cầu tài kết quả luôn không rõ ràng mà quả báo
thì lại gần trong gang tấc. Điều này khiến những tu sĩ tà phái (gọi
tắt là tà tu) gặp khó khăn trong việc thuyết phục các thân chủ, vốn là
các đại gia tinh minh trong chốn thương trường, chính trường quyết
định thực hiện thuật cầu tài và tất nhiên sau đó sẽ đến việc trả thù
lao cho mình (có thể là tiền bạc, có thể là dược liệu...).

_“Con người muốn tăng lên vận số của mình một cách không theo tự nhiên
thì phải trả một cái giá tương tự” đây là một quy luật mà chỉ cần là
tu sĩ đạt đến một tầng thứ nhất định, hoặc những người thực sự có tri
thức đều hiểu. Mà cái giá phải trả ở đây không phải là tiền bạc của
cõi tục mà là tinh huyết và dương thọ (Hoặc vận số). Tuy nhiên, nếu
các thân chủ, người mà sẽ nhờ các tu sĩ thực hiện thuật cầu tài thông
thường hiểu rõ được điều này thì sẽ chẳng ai dám thực thi nó cả.

_Vấn đề mấu chốt để đánh phá sự thất lợi trong việc “Cầu tài” này
chính là phải có người hy sinh tinh lực, dương thọ, hay vận số để đổi
lấy “Tài lộc”. Tất nhiên, kẻ phải chịu sự hy sinh này sẽ không phải là
thân chủ hoặc tu sĩ. Vì thế Chiêu tài “Thánh nữ” mới được sinh ra.

_Có rất nhiều dị bản của thuật “Chiêu tài thánh nữ” tuỳ theo từng môn
phái và tu sĩ thực hiện mà bản thân tôi cũng chỉ tìm hiểu một phần nên
không thể kể hết ra đây, mà chỉ xin miêu tả lại một thuật sử dụng song
trọng liên hoàn trận được coi là hoàn mỹ nhất trong các loại thuật
“Chiêu tài thánh nữ”, đồng thời xin giữ nguyên danh tự “Chiêu tài
thánh nữ” cho thuật này bởi vì theo tôi nó cũng xứng đáng có được danh
hiệu này nhất.

_Để thực hiện “Chiêu tài thánh nữ” trước tiên cần phải có “Thánh nữ”

_Không như “Nguyệt thần hộ bảo” việc lựa chọn “Thánh nữ” trong thuật
này cũng dễ dàng hơn rất nhiều. Trọng yếu là phải đáp ứng được hai
điều kiện. ”Thánh nữ” phải là các cô gái đồng trinh, tuổi từ 16-20t
(hoặc từ 13-18t), đồng thời “Thánh nữ” phải có bát tự thuận hành với
thân chủ. Ví dụ: Thân chủ sinh giờ Kim, ngày Mộc, tháng Thuỷ, năm Hoả
thì “Thánh nữ” sẽ phải được chọn sinh vào giờ Thổ, ngày Thuỷ, tháng
Kim, năm Mộc. (Đây là yếu tố Nhân)

_Sau khi đã chọn được “Thánh nữ” phù hợp, các tà tu sẽ chọn một địa
điểm có phong thuỷ thích hợp để tiến hành bố trí pháp đàn, trận pháp.
(Đây là yếu tố Địa). Tại đây, tu sĩ người Hoa sẽ sử dụng 108 pháp khí
đặc thù “Dẫn Hồn Linh” để bố trí một trận pháp song trọng bao gồm “Tam
Tài Dưỡng Sinh Trận” kết hợp với “Thuần Âm Tế Thiên Trận”. Trận pháp
song trọng này theo bản thảo cổ nhất mà tôi có trong tay được gọi là
“Tế Nguyệt An Thiên Trận”.

_Trước một vụ làm ăn lớn, các tà tu người Hoa sẽ chọn cho thân chủ một
ngày, giờ tốt để tiến hành thi thuật (Yếu tố Thiên). Trước đó, “Thánh
nữ” và thân chủ sẽ được cho ăn uống vui chơi, chay tịnh … để đạt được
trạng thái thân thể no đủ và tinh thần bão mãn nhất (Nhân khí thịnh
vượng nhất).

_Đến đúng giờ các tà tu sẽ cho thân chủ cùng “Thánh nữ” hành phòng.
Trong khi đó tu sĩ sẽ sử dụng ba yếu tố Thiên-Địa_Nhân làm “ngòi nổ”
để khởi động trận Tam Tài. Sau đó lại dùng Tam Tài Trận thúc dục “Dẫn
Hồn Linh” thông qua nguyên âm của thánh nữ bị tiết ra sau khi bị phá
thân tiến hành thu một phần hồn phách của “Thánh nữ” đồng thời dùng
phần hồn phách này và khí nguyên âm khởi động nốt “Tế thiên trận” để
thực hiện một loại pháp thuật (Trong các bản thảo cổ tìm được hầu hết
bị hư hại phần cuối nên không rõ được là pháp thuật gì. Trong bản thảo
mới nhất mà tôi tìm được thì là điệp giai pháp thuật “Ngũ Quỷ Vận
Tài”).

_Theo những gì thu thập được thì sau khi thực hiện thuật này những vụ
làm ăn thường vô cùng thuận lợi (kết quả hiện rõ) và đồng thời thân
chủ cũng không có nhiều ảnh hưởng về sau. Có điều các “Thánh nữ” thì
thường chết ngay sau đó (Không quá ba tháng sau khi bị thi thuật).

_Nhàn đàm:_Mặc dù thuật chiêu tài này thoạt nhìn thì chỉ có một người
bị hại là Thánh nữ, và thân chủ có vẻ như không bị quả báo trong suốt
cuộc đời của mình. Nhưng bản thân tôi vẫn tin rằng vận số con người
tuyệt đối không dễ thay đổi như thế, báo ứng có thể không đến ngay
trong đời này, nhưng đến các đời tiếp theo thì rất khó mà nói.

_Tất nhiên, nếu ai cho rằng chỉ cần đời này không bị gì thì sau khi
chết cũng đâu cần quan tâm hay đời con cháu có ra sao mình cũng không
biết được thì tôi xin miễn bàn. Chỉ xin khuyên những ai có hy vọng nhờ
vào dị thuật, pháp thuật… để thay đổi vận số của mình nên thận trọng,
số mệnh tốt nhất phải được tạo thành từ chính sự lao động của đôi bàn
tay mới là đáng quý.

--------------------------
Kỳ 3: Bạch Hổ Nguyên Âm
_Bạch Hổ Nguyên Âm theo những tài liệu cổ xưa lưu lại đều cho
rằng là một trong những “tài liệu” quý hiếm mà giới tu sĩ
Trung Hoa cổ đại (nhất là hạ trung tầng) vô cùng coi trọng.
Lý do tạm thời chưa nói, nhưng việc nó quý hiếm là không thể
phủ nhận và đặt ra nghi vấn cho việc có phải bất cứ người
phụ nữ nào có tình trạng kể trên cũng là Bạch Hổ hay
không?!!

_Không khó để trả lời nghi vấn này. Bởi vì cho dù việc
người phụ nữ có tình trạng chỗ kín không có lông mao là rất
hiếm, nhưng với tình thế của đất nước lấy đông dân mà nổi
tiếng từ ngàn xưa như Trung Quốc, thì dẫu tỷ lệ xuất hiện
là một trên một vạn đầu người, nó cũng không quá có thể coi
là vấn đề. (Nói vui một chút, trong các phim cổ trang, dã sử
lịch sử Trung Quốc đã công chiếu, ai cũng biết mỗi khi Trung
Hoa cổ đại có chiến tranh thì lượng quân sĩ họ thường dùng
đều được tính bằng đơn vị vạn. Quy mô trung bình thì 1, 2
vạn. Quy mô lớn thì vài chục vạn đến trăm vạn cũng bình
thường. Mà cứ coi một bà mẹ cả đời chỉ ăn và đẻ ra được 10
đứa con, thì việc đẻ ra tầm trăm vạn quân cũng cần phải có
tới mười vạn người phụ nữ. Như thế thì ít nhất một đời
người cũng có thể xuất hiện 10 “Bạch Hổ” là ít).

_Tuy nhiên, với lượng dân đông đảo như thế Bạch Hổ Nguyên Âm
vẫn được coi là vô cùng, vô cùng hiếm. Điều đó cho thấy không
phải bất cứ người phụ nữ nào có tình trạng tế nhị kể trên
đều là Bạch Hổ cả. Vậy như thế nào mới có thể là Bạch Hổ
Nguyên Âm? Và tại sao trong văn hóa Trung Hoa cổ lại cho rằng
những người phụ nữ có tình trạng bề ngoài giống Bạch Hổ
lại là tướng sát phu? Và tại sao nó lại được giới thuật sĩ
coi trọng?

_Xin thưa Bạch Hổ đúng là người phụ nữ có tình trạng tế
nhị như đã nói từ đầu, nhưng những người phụ nữ đó phải là
người sinh vào giờ âm, ngày âm, tháng âm, năm Nhâm Dần hoặc
Giáp Dần thì mới tạm coi là chuẩn. Nếu muốn thực sự đúng
phải là những người được sinh sống từ nhỏ tại nơi có điều
kiện phong thủy dồi dào thuận lợi (nếu được cho ăn học lục
nghệ đến một ngưỡng nhất định thì càng tốt vì như thế
người càng có anh khí), với điều kiện Trung Quốc cổ đại thì
đó thường là các tiểu thư khuê các con nhà quan lại quyền
quý (Điều này cũng là một trong những yếu tố quan trong dẫn
đến việc gây ra sai lệch trong tư duy của dân chúng Trung Hoa
tạo thành cái gọi là “tướng sát phu”)

_Theo Thái Thượng Đan Kinh, “người con gái” Bạch Hổ có âm
nguyên khí dồi dào, tinh thuần gấp trăm lần phụ nữ thông
thường, đồng thời âm nguyên khí có tính trung hòa lợi cho
việc ôn dưỡng khí tức, bồi dưỡng sinh cơ, không bài xích bất
cứ một loại công pháp nào cả. Đặc biệt Bạch Hổ Nguyên Âm
(trinh tiết của Bạch Hổ) cực kỳ thích hợp cho việc đột phá
đạo quan (hoặc có người gọi là huyền quan).

_Ngoài ra, theo một số tài liệu khác còn miêu tả. “Bạch Hổ”
trời sinh vũ mị, ngọc cốt băng cơ... thích hợp với các chủng
mị công, âm công, tà công mang tính băng hàn, âm mộc, cổ thuật.

_Nói chung chính vì âm nguyên khí của Bạch Hổ vô cùng thuận
lợi cho việc tăng trưởng đạo hạnh cho tu sĩ bất kể tu sĩ đó
tu luyện loại công pháp nào (Nói theo cách của Kim Dung thì
là tăng trưởng công lực)... Đặc biệt Bạch Hổ Nguyên Âm lại
càng trực tiếp có thể giúp tu sĩ vượt qua đạo quan, huyền
quan (Up level) nên những người con gái Bạch Hổ thường được coi
là lô đỉnh hay đạo lữ tốt nhất cho việc song tu.

_Thái Thượng Đan Kinh cũng cho rằng Bạch Hổ Nguyên là một
trong 16 dạng Nguyên Địa kỳ chân tốt nhất trong việc giúp
người tu đạo bước một bước dài trên con đường thành tiên,
trường sinh bất lão.

_Quay trở lại với “nhân gian”, do âm nguyên khí của Bạch Hổ
dồi dào và tinh thuần vượt trội, điều này mặc dù có lợi
cho việc tu luyện của tu sĩ, nhưng đối với người phổ thông
lại khá “khó gặm, khó tiêu”.

_Nam nhân bình thường sau khi giao hợp với Bạch Hổ thường không
chịu nổi âm nguyên khí của Bạch Hổ xâm nhập cơ thể (đặc biệt
là các dạng công tử môn đăng hộ đối, nhưng thân thể yếu
nhược) nên thường chết ngay trong đêm tân hôn. Người khỏe mạnh
có thể tránh được điều này thì cũng bị âm nguyên khí ăn mòn
dần cơ thể nên cũng thường chết sớm.

_Điều này trong mắt cổ hủ, thiếu kiến thức của người cổ
đại lập luận thành Bạch Hổ là tướng sát phu. Nhất là khi
Bạch Hổ thường là tiểu thư con quan, nên nhà chồng thường
cũng là thế gia, điều đó khiến cho sự nhận định này càng
thêm tăng thêm trọng lượng trong tính “xác thực”. Và tất nhiên,
người ta không nắm rõ thế nào là Bạch Hổ mà chỉ suy đoán
nhờ “dấu hiệu đặc trưng” vô cùng dễ nhận biết của “Bạch Hổ”
để suy xét “tướng sát phu” mà thôi.

_Nhàn đàm: Chuyện tình cảm là vô cùng thiêng liêng, nếu các
bạn trai trong diễn đàn có diễm phúc gặp phải bạn gái có
tình trạng “Bạch Hổ” cũng đừng nên nhận định ngay là “tướng
sát phu” mà thành ra lương duyên lỡ dở, để sau này hối tiếc.

_Mà cho dù bạn gái thực sự là Bạch Hổ thì cũng có sao,
bởi vì Bạch Hổ vốn dĩ là trời sinh vũ mị dù như thế có
phải chết đi nữa ít nhất cũng có thể là Quỷ phong lưu. Ha ha
ha ha ha ha….
-----------------------------

Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages