Nhà Ngô

143 views
Skip to first unread message

Hoang-Nam

unread,
Oct 18, 2010, 6:32:16 PM10/18/10
to DD-Kien Thiet, DD-Xa Tac, DD-Xay Dung Xa Hoi, DD-HVCSQG, DD-Viet-SOSUer, DD-Lien Truong Quy-Nhon

 

               Chín  Năm  Bên  Cạnh  Tổng  Thống  Ngô  Đình Diệm

 

Mạn Đàm Với Cựu Đổng Lý Quách Tòng Đức.

Tuy là bạn tâm giao với người viết từ lâu, ông Quách Tòng Đức luôn luôn tỏ ra dè dặt và thận trọng khi nhắc đến những năm dài làm Đổng Lý Văn Phòng cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm, vị lãnh tụ khai sáng nền Đệ Nhứt Cộng Hoà Việt Nam. Sau chính biến 1/11/1963, ông Đức trở lại ngành Tư Pháp và được thăng trật Chủ Tịch Tham Chính Viện năm 1969. Tháng 4/1975, Sài Gòn thất thủ, ông và gia đình xin tị nạn chánh trị tại Paris. Chánh phủ Pháp tuyển dụng ông vào Phòng Tố Tụng Tổng Quát của thị xã Paris, thời thị trưởng Jacques Chirac. Ông về hưu đầu năm 1984. Nay 89 tuổi, trí tuệ còn minh mẩn tuy sức khỏe không tốt như trước. Gần đây, trong những lần gặp nhau lại ở Pháp cũng như qua nhiều cuộc điện đàm có ghi âm, ông Đức đã chịu thố lộ với người viết nhiều điều liên hệ đến giai đoạn chín năm phục vụ vị nguyên thủ quốc gia bị sát hại năm 1963.

 

Lần Đầu Gặp Chí Sĩ Ngô Đình Diệm.

 

Ông Quách Tòng Đức sanh tại An Xuyên năm 1917, thuộc một gia đình trung lưu, đậu cử nhân và Cao học Luật Đông Dương năm 1941, Đại học Hà Nội, sau khi lấy bằng tú tài tại trường Pétrus Ký, Sài Gòn. Ông thuộc toán cử nhân đầu tiên gồm có Nguyễn Thành Cung và Lê Văn Mỹ thi đậu năm 1942 vào ngạch huyện, phủ tại Miền Nam Việt Nam mà cấp bậc cao nhứt là Đốc Phủ Sứ thượng hạng ngoại hạng tương đương với chức Tổng Đốc đứng đầu tỉnh ở ngoài Trung và Bắc. Khi vua Bảo Đại chỉ định Trần Văn Hữu lập Chánh phủ, Thủ Hiến Nam Việt Thái Lập Thành (xuất thân là một Đốc Phủ Sứ như các ông Nguyễn Ngọc Thơ, Lê Tấn Nẩm, Dương Tấn Tài, Lê Quang Hộ…) bổ nhiệm ông Quách Tòng Đức năm 1951 làm Chánh Văn Phòng và Thiếu Tá Dương Văn Minh, Chánh Võ Phòng. Năm 1953, thủ hiến Thành và Thiếu Tướng Chanson bị nhóm Cao Đài kháng chiến của Trình Minh Thế ám sát tại Sadec trong một cuộc kinh lý.

49 ngày sau Điện Biên Phủ thất thủ, tức là 26/6/1954, Bảo Đại giao cho cựu Thượng Thơ Ngô Đình Diệm lập chánh phủ, thay thế hoàng thân Bửu Lộc. Trước đây, ông Diệm đã ba lần từ chối lời mời của Bảo Đại:  Năm 1937, 1945 và 1948. Ông giao thiệp thân tình với nhà cách mạng Phan Bội Châu lúc sanh tiền, có ghé Nhựt năm 1950 để hội kiến với Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và, theo một số sử liệu, từng lãnh đạo Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội trong nước. Có lúc ông bị Việt Minh bắt giữ và --khác với Bảo Đại-- đã cương quyết bác bỏ lời mời của Hồ Chí Minh làm Cố vấn cho Chánh phủ do Hồ dựng ra.

Hiệp định Genève, ký ngày 20/7/1954, chia đôi Việt Nam nơi Vĩ Tuyến 17. Trong đám đông quần chúng đón tiếp nồng nhiệt Thủ Tướng Diệm tại phi trường Tân Sơn Nhứt có ông Nguyễn Ngọc Thơ, nguyên Bí Thơ của Toàn Quyền Decoux, cùng đi với ông Quách Tòng Đức. Thủ Tướng Diệm --kiêm luôn Quốc Phòng và Nội Vụ-- mời ông Thơ tham gia Nội các với tư cách Bộ trưởng Nội vụ. Ông Thơ chọn ông Đức làm Đổng Lý Văn phòng năm 1954. Ngày 23/10/1955, một Cuộc Trưng Cầu Dân Ý truất phế Bảo Đại. Ngày 26/10/1956, từ Thủ Tướng trở thành Tổng Thống, ông Diệm thiết lập nền Đệ Nhứt Cộng Hoà Việt Nam. Quân đội tổ chức một cuộc diễn binh huy hoàng tại đại lộ Trần Hưng Đạo Sài Gòn dưới quyền điều khiển của Dương Văn Minh, vừa vinh thăng Thiếu Tướng sau khi tảo thanh xong Bình Xuyên tại Rừng Sát. Ông Quách Tòng Đức thay thế Đổng Lý Tôn Thất Trạch cuối năm 1954 và giữ chức vụ này cho đến ngày quân đội đảo chánh năm 1963.

 

Nhận Xét Về Mối Liên Hệ Của TT Diệm Với Gia Đình.

 

Theo ông Quách Tòng Đức, năm 1954 chánh phủ Pháp trả trước dinh Gia Long ở đường Gia Long, và sau khi quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam, nhà cầm quyền Đệ Nhứt Cộng Hoà mới thu hồi Dinh Toàn Quyền Norodom, đổi tên thành Dinh Độc Lập, trên đại lộ Thống nhứt. Dinh này đươc kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, khôi nguyên La Mã, xây cất lại hoàn toàn sau ngày 27/2/1962 vì Dinh bị hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử dội bom hư hại khá nặng.

Dinh Độc Lập chia làm hai tầng:  Tầng dưới có hai phòng khánh tiết tráng lệ và các văn phòng của Cố vấn Ngô Đình Nhu, Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống, Đổng Lý Văn Phòng, TổngThơ Ký Phủ Tổng Thống và nhân viên. Tầng trên chia làm ba phần:  Phía trái dành làm văn phòng và phòng ngủ của Tổng Thống, phòng sĩ quan tuỳ viên; ở giữa có hai phòng tiếp tân khang trang; phiá phải là nơi cư ngụ của gia đình ông bà Nhu gồm có hai trai, hai gái. Tổng Thống Diệm thích làm việc trong phòng ngủ, trang trí sơ sài với một cái giường nhỏ bằng gổ, một bàn tròn và ba ghế da. Nơi đây, Tổng Thống thường dùng cơm và tiếp các bộ trưởng và Tướng Lãnh.

Gia đình Tổng Thống rất trọng Nho giáo. Hằng năm vào Tết Nguyên Đán, luôn luôn tụ họp đông đủ ở Phủ Cam, Huế, để chúc thọ bà cụ Ngô Đình Khả giao cho người con áp út Ngô Đình Cẩn săn sóc ngày đêm. Ông bà Ngô Đình Khả có chín người con:  6 trai, 3 gái. Trưởng nam, Tổng đốc Ngô Đình Khôi và con trai là Ngô Đình Huân bị CS giết năm 1945. Ba người con gái là bà Ngô Đình Thị Giao tức bà Thưà Tùng, bà Ngô Đình Thị Hiệp tức bà Cả Ấm, thân mẫu của Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận và bà Ngô Đình Thị Hoàng tức bà Cả Lễ, mẹ vợ của Nghị sĩ Trần Trung Dung. TT Diệm là người con trai thứ ba trong gia đình nhà Ngô, sanh năm 1901 tại Huế, được vua Bảo Đại bổ nhiệm năm 1933 Thượng Thơ đầu triều lúc 33 tuổi nhưng ông Diệm sớm rủ áo từ quan vì thực dân Pháp không chấp nhận chương trình cải tổ rộng lớn của ông.

Sau ngày ông Khôi qua đời, Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục, trở nên người anh cả “quyền huynh thế phụ”. Đức Cha được kính nể và có nhiều ảnh hưởng đối với TT Diệm. Ông Quách Tòng Đức cho biết, lúc còn ở Vĩnh Long, Giám Mục Thục vài tuần có về Sài gòn ngụ trong Dinh. Ông Ngô Đình Luyện, con út trong gia đình, đại sứ ở Luân Đôn, năm khi mười họa mới về nước nghỉ phép hay để dự các phiên họp của Hội đồng Tối cao Tiền tệ mà ông là một thành viên… Ông Đức không nhớ có lần nào gặp ông Cẩn trong Dinh Độc Lập.

Văn phòng Đổng Lý không làm việc thẳng với Cố Vấn Nhu. Ông Nhu có nhân viên riêng trong Sở Nghiên cứu Chánh trị Phủ Tổng Thống mà người giám đốc đầu tiên là Đốc Phủ Sứ Vũ Tiến Huân, Tham lý Nội An Bộ Nội vụ, về sau thay thế bởi bác sĩ Trần Kim Tuyến. Văn phòng của Sở Nghiên Cứu sử dụng một ngôi nhà riêng trong hàng rào Dinh Độc Lập. Vài tháng trước vụ binh biến 1/11/1963, Tuyến bị thất sủng, Trung Tá Phạm Thư Đường thay thế. Tuyến được bổ nhiệm làm Tổng lãnh sự (hụt) tại Le Caire, trở lại Việt Nam và liên hệ đến một nhóm âm mưu đảo chánh. Đảo chánh thành công, bs Tuyến bị Hội Đồng Cách Mạng đày ra Côn Đảo (Tỉnh trưởng là Trung Tá Tăng Tư) trên một năm cùng với lối 200 nhân vật chế độ củ gồm có Ngô Trọng Hiếu, Cao Xuân Vỹ, Đại Tá Nguyễn Văn Y, Hà Như Chi, Dương Văn Hiếu… Ông Quách Tòng Đức không thể xác nhận tin nói rằng trước ngày 1/11/1963, ông Nhu đã giao cho người em vợ là Trần Văn Khiêm điều khiển cơ quan mật vụ. Khiêm bị nhiều tai tiếng, từng cộng tác với văn phòng của luật sư Trương Đình Dzu, ứng cử viên Tổng Thống thời Thiệu - Kỳ. Vụ Khiêm giết cha mẹ là ông bà cựu đại sứ Trần Văn Chương tại Hoa Kỳ sau 1975 làm dư luận xôn xao. Toà án Mỹ tha Khiêm với lý do Khiêm bị bịnh tâm thần và trục xuất Khiêm khỏi Hoa Kỳ. Khiêm hiện sống bình thường ở Pháp. Có sự điều đình chánh trị gì bên trong vụ án này?

Khi được hỏi cách cư xử của TT Diệm với bà Nhu (nhủ danh Trần Lệ Xuân), ông Đức cho biết “ông cụ có vẻ nể và ủng hộ bà Nhu” trong vụ tổ chức Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới và vận động Quốc Hội ban hành Bộ Luật Gia đình cấm ly dị. Tổng Thống cho rằng bà Nhu hành động như vậy là giúp cải tổ xã hội. Tuy nhiên, những kẻ xấu miệng lại cho rằng Bộ Luật Gia đình nhằm mục tiêu riêng:  Ngăn luật sư Nguyễn Hữu Châu ly dị với vợ là Trần Lệ Chi, chị của bà Nhu. Ngoài chức vụ dân biểu Quốc Hội, bà Nhu còn là Chủ tịch Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới. Khi tiếp quốc khách, bà Nhu đóng vai trò Đệ Nhứt Phu Nhân vì Tổng Thống độc thân. Tuy bất bình về những lời tuyên bố châm dầu vào lửa của người em dâu trong vụ Thích Quảng đức tự thiêu ngày 11/6/1963 (đặc biệt với câu “monks’ barbecue”), ông Diệm không công khai phủ nhận vì ngại đụng chạm đến ông Nhu vào một giai đoạn rối như tơ vò. Chính ông Nhu, với tánh hay nhường nhịn cho yên nhà yên cửa, cũng không kiểm soát nổi lối phát ngôn của vợ. Bà Nhu hiện có một cuộc sống kín đáo, đơn sô, nặng về Tôn giáo, qua lại giữa ParisRome, tất cả con cái đều thành tài. Trưởng nữ Ngô Đình Lệ Thủy chết trong một tai nạn lưu thông sau 1975. Sự bất hạnh không ngớt đeo đuổi gia đình nhà Ngô. Thời gian gần đây, bà Nhu thay bà Luyện để tổ chức hằng năm tại Paris một lễ cầu hồn cho TT Diệm và ông Nhu. Trong số ít người còn lui tới với bà Nhu, có vợ chồng cựu Bộ trưởng Lao Động Hùynh Hữu Nghĩa. Ông Nghĩa qua đời năm vừa rồi.

Về tin đồn Đức Cha Thục làm kinh tài (khai thác lâm sản, mua thương xá Tax, làm chủ nhà sách Albert Portail v.v...), ông Đức cho rằng TT Diệm tin TGM Thục không làm điều gì quấy, ngài phải kiếm tiền nuôi sống trường Đại học Đà Lạt do Ngài thành lập. Trải qua một cuộc đời sóng gió và gặp nhiều hiểu lầm với Toà Thánh Vatican sau 1975, TGM Ngô Đình Thục được Giáo Hoàng phục hồi chức tước, về hưu ở Hoa Kỳ và đã ra đi bình yên tại một Viện dưỡng lão công giáo thuộc tiểu bang Missouri.

Ông Quách Tòng Đức xác nhận ông Ngô Đình Nhu chẳng những là lý thuyết gia mà còn là bộ óc của Đệ Nhứt Cộng Hoà, “l’homme indispensable, nhân vật cần thiết”. Ông xuất thân từ École des Chartes Paris, trầm tỉnh, ít nói, lạnh nhạt bên ngoài, thích nghiên cứu lịch sử, có nhiều sách hơn đồng chí. Trong lối ba năm chót của chế độ, dù giữ quyền quyết định cuối cùng trong mọi việc, TT Diệm thường phê chuyễn các hồ sơ chánh trị quan trọng qua cho ông Nhu để lấy ý kiến, không kể những cuộc gặp mặt thảo luận riêng hằng ngày. Ông Nhu làm việc âm thầm, cần mẩn, hút thuốc liên hồi (mỗi lần nửa điếu, do sự can ngăn của bà Nhu) trong một văn phòng không rộng, đầy ngập sách vở, ánh sáng mờ mờ, ở tầng dưới Dinh Độc Lập, có gắn máy lạnh và interphone với bên ngoài. Ông thường phê vào các công văn với một cây bút chì mỡ màu xanh lá cây. Ông là cha đẻ của Đảng Cần Lao, dựa vào thuyết Nhân Vị, Personnalisme, đúc kết hai xu hướng của triết gia Công giáo Emmanuel Mounier (1905-1950) và Jacques Maritain (1882-1973). Ông phát động và thực hiện kế hoạch quốc phòng Ấp Chiến Lược từng gây khiếp đảm cho CS Bắc Việt. Quốc sách này được thành lập bởi Nghị định số 11-TTP của Tổng Thống và ông Nhu là Chủ tịch Ủy ban Liên bộ đặc trách Ấp Chiến Lược. Ông Nhu cũng cho thành lập Phong Trào Thanh Niên và Thanh Nữ Cộng Hoà giao cho Cao Xuân Vỹ phụ trách. Ông đẩy mạnh tổ chức Lao động ở Việt nam và nâng đở Trần Quốc Bửu. Đại Tá CIA Lansdale (người đã ủng hộ Magsaysay trở thành Tổng Thống Phi Luật Tân năm 1952) giúp ông móc nối với Lực Lượng Kháng Chiến Cao Đài để đưa Tướng Trình Minh Thế về với Quốc Gia. Ngồi chức Tổng Bí Thư Đảng Cần Lao (tổ chức theo mô hình Đảng Cộng Sản, với một Quân ủy trong Quân đội), có một lúc ông Nhu là dân biểu Quốc Hội. Ông không bao giờ tháp tùng Tổng Thống trong các cuộc kinh lý. Săn bắn là thú tiêu khiển yêu chuộng của ông và đồng thời là cơ hội tìm nơi yên tịnh để suy nghĩ.

Ông Đại Sứ Luyện, gốc Kỹ sư, tánh tình cởi mở, thích giao du với bạn bè mỗi khi về Việt Nam nhưng không có nhiều ảnh hưởng vì không xen vào vấn đề nội trị. Ông là bạn học của cựu hoàng Bảo Đại, sống tại Luân đôn và đại diện Việt Nam Cộng Hoà ở nhiều xứ Âu châu và Phi châu. Sau khi vợ trước qua đời, ông Luyện tục huyền với em vợ và có rất đông con. Bà Luyện sống ở ngoại quốc nhiều hơn và ít khi xuất hiện. Sau 1963, ông Luyện dạy toán tại một trường tư thục Paris, sau đó sang Phi Châu làm việc một thời gian, tình trạng khá chật vật khi về hưu. Ông có qua Hoa Kỳ vài lần để thăm Đức TGM Thục, không còn liên lạc với bà Nhu và ông đã quá vãng ở Pháp,

Cho đến cuối năm 1961, vai trò của ông Ngô Đình Cẩn, Cố vấn lãnh đạo Miền Trung, trái lại, rất hệ trọng về mặt an ninh và đoàn thể. Ông Cẩn không ăn học cao nhưng nắm vững tình hình địa phương, có óc tổ chức, luôn luôn trang phục theo lối Việt, áo dài, khăn đống, ăn trầu, (từ đó biệt danh “Ông Cố Trầu”), độc thân, thích hút thuốc Cẩm Lệ, đan rổ, làm vườn, nuôi thú, nuôi chim. Ảnh hưởng của ông lan vào Miền Nam với những điệp vụ mang danh nghĩa chiêu hồi của Đoàn Công tác Đặc biệt do Dương Văn Hiếu quán xuyến, sự hiện diện của Nguyễn Văn Hay trong cương vị phó TGĐ tại Tổng nha Cảnh sát Công An Sài Gòn và các hoạt động của cánh Cần Lao do nha sĩ thân tín Phan Ngọc Các điều khiển. Sau 1/11/1963, viên lãnh sự Mỹ Helble tại Huế không cho Cẩn và thân mẫu được tị nạn chánh trị tại Toà lãnh sự trong khi trước đó, cơ quan USAID Sài Gòn chứa chấp Trí Quang nhiều ngày. Lúc vừa bị bắt, ông Cẩn có chỉ cho Tướng Đổ Cao Trí tịch thu tại nhà ông ở Phú Cam, dưới gầm giường, “một bao bố và một va-li đựng quý kim” (đọc Hồi Ký Dòng Họ Ngô Đình của Nguyễn Văn Minh, bí thơ của N Đ Cẩn, trang 307). Ông Cẩn bị Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng, thời Nguyễn Khánh, xử tử vào lúc 6 giờ 30 chiều ngày 9/5/1964 tại sân sau khám Chí hoà, Sài Gòn. Luật sư bào chửa là Võ Văn Quan. Cố vấn Cẩn tỏ ra bình tỉnh tại pháp trường, tuyên bố tha thứ cho các người tuyên án ông và xin đừng bị bịt mắt nhưng không được chấp nhận. Nếu gia đình thỏa thuận lấy của đổi mạng, ông Cẩn có thể đã thóat chết. Vụ tống tiền này đã được cố Nghị Sĩ Trần Trung Dung và cố Trung Tướng Lâm Văn Phát xác nhận với người viết sau 1975.

Được hỏi về tin đồn có sự cạnh tranh ảnh hưởng chánh trị giữa Nhu và Cẩn, ông Quách Tòng Đức nói chỉ nghe nói phong thanh. Vào tháng 10/1963, ông Cẩn nhận được lệnh của TT Diệm ngưng mọi hoạt động về đoàn thể và đóng cửa Văn phòng Cố vấn chỉ đạo ở ngoài Trung gồm có Hồ Đắc Trọng và Đại Úy Nguyễn Văn Minh. Hình như sự hiện diện của TGM Ngô Đình Thục tại Huế đã bó tay ông Cẩn phần nào. Ông Cẩn không dám phê bình chị dâu tuy không ưa bà Nhu. Trong phạm vi cá nhân, ông Cẩn giữ liên lạc tốt với Thượng Tọa Trí Quang nhưng điều này không giúp giải quyết cuộc khủng hoảng Phật Giáo. Hoa Kỳ và Cộng Sản đã nhúng tay quá sâu.

Người viết có yêu cầu ông Quách Tòng Đức cho biết trong gia đình họ Ngô, ai là người gây tiếng tăm bất lợi cho chế độ. Suy nghĩ một phút, ông Đức đáp:  TGM Thục và bà Nhu. Đặc biệt trong giai đọan Phật Giáo. Đức Cha ảnh hưởng quá nặng ngoài lãnh vực tôn giáo. Bà Nhu xen quá sâu vào chính trị, điều ít thấy trong giới phụ nữ Việt Nam. Ngó từ bên ngoài, năm anh em Ngô Đình rất khắn khít, mỗi người giúp tay tích cực xây dựng chế độ trong một lãnh vực. Sự đoàn kết ấy được diễn tả trong huy hiệu Đệ Nhứt Cộng Hoà:  Năm cành trúc kết thành một bó, dưới khẩu hiệu “Tiết Trực Tâm Hư”. Tuy nhiên, mỗi nhân vật có cá tánh riêng, nhận định không luôn luôn nhất thống, đôi khi còn mâu thuẩn. Đó là hậu quả khó thể tránh trong một chế độ dựa vào gia tộc để lãnh đạo. Phe chống đối cũng như Hoa Kỳ và Cộng Sản đều khai thác triệt để và dễ dàng nhược điểm này.

Dư luận cho rằng trong năm chót của chế độ, trước cuộc binh biến 1/11/1963, ông Nhu --trên thực tế-- là một “Tổng Thống không ngôi” vì có nhiều quyền lực, làm lu mờ vai trò của ông Diệm nhưng quyền bính hiến định vẫn ở trong tay ông Diệm bị tấn công tứ phiá, bên trong lẫn ngoài nước. Không có một văn kiện chánh thức nào bổ nhiệm ông Nhu lẫn ông Cẩn làm Cố vấn Chánh phủ. Chính các đoàn thể chánh trị ở Miền Trung mời ông Cẩn làm “Cố vấn Chỉ đạo” và dành cho ông danh xưng này. Có lúc dư luận cảm thấy ông Diệm cần ông Nhu hơn là ông Nhu cần ông Diệm. TT Diệm không thể tách rời khỏi ông Nhu đóng vai trò “l’âme damnée, linh hồn đày đọa”. Đó là đầu mối thảm trạng xảy ra cho hai người vào giờ phút chót.

TT Diệm tưởng lầm có thể dùng uy tín cá nhân để bảo vệ sanh mạng của bào đệ. TT Diệm cũng tưởng lầm khối Tướng Lãnh chấp nhận điều đình với ông. Phần đông Tướng Lãnh kính nể TT Diệm nhưng tất cả ngán sợ ông Nhu vì ông Nhu lắm mưu mô, nhiều bản lãnh. Sự ngán sợ đã trấn áp lòng nể trọng và dẫn đến quyết định hy sinh vị nguyên thủ quốc gia. 3 giờ trưa ngày 1 tháng 11, lúc tiếng súng đang nổ lớn, TT Diệm điện thọai cho đại sứ Lodge:  Một cuộc điện đàm ngắn ngủi, đầy phẩn nộ trong khuôn khổ ngoại giao. Khi hay hai ông Diệm, Nhu thoát khỏi Dinh Gia Long đêm 1/11/1963, nhóm phản lọan “run en phát rét” và một tướng cầm đầu định “trở cờ”, theo sự tiết lộ của Tổng Thống Thiệu trước khi qua đời với người viết. Conein thúc phe phản lọan phải bắt sống cho kỳ được hai ông Diệm, Nhu. Conein nói suồng sã:  “On ne fait pas l’omelette sans casser les oeufs, Không thể rán trứng mà không đập bể trứng!” theo Trần Văn Đôn kể lại trong Hồi Ký.

TT Diệm không chiụ ra lệnh cho một số đơn vị võ trang trung thành phản công quân đảo chánh vì muốn tránh cảnh nồi da xáo thịt, làm suy giảm tiềm năng kháng Cộng. 4 giờ sáng ngày 2/11/1963, hai tư lệnh Quân khu thân tín ở Vùng I và II là Tướng Đổ Cao Trí và Nguyễn Khánh tuyên bố ủng hộ Hội đồng Cách Mạng. Hy vọng cuối cùng tan biến. Hai giờ sau, Tổng Thống cho phép Đại Úy Đổ Thọ, sĩ quan tùy viên, điện thoại cho chú y là Đại Tá Đổ Mậu yêu cầu cho xe đến đón tại Nhà thờ Cha Tam Chợ lớn. Lúc 6 giờ và 6 giơ 45 sáng ngày 2/11/1963, TT Diệm đích thân điện thoại cho các Tướng Minh, Đôn và Khiêm để tìm giải pháp cho cuộc khủng hoảng. Dương Văn Minh chỉ định Mai Hữu Xuân, Nguyễn Văn Quang, Dương Ngọc Lắm, Dương Hiếu Nghĩa và Nguyễn Văn Nhung (tên vệ sĩ đã từng thủ tiêu xác của Ba Cụt) đi đón, với chỉ thị riêng thanh toán hai ông Diệm, Nhu, trước khi về tới Bộ Tổng tham mưu. Thái thú Cabot Lodge nhắm mắt trước vụ mưu sát bỉ ổi này mà ông có dư quyền chận lại nếu muốn. Đây là một vết nhơ không bao giờ rửa sạch trong lịch sử đại cường Hoa Kỳ. Tổng Thống Kennedy (lãnh tụ đảng Dân Cchủ) quá yếu đuối, để cho thuộc hạ lật đổ ông Diệm một cách vô trách nhiệm, với sự a tùng của viên đại sứ đồ tể Cabot Lodge (thuộc đảng Cộng Hoà). Mai Hữu Xuân (đồ đệ của tên Cò khát máu Pháp Bazin) sống cô đơn, qua đời tại vùng Bắc California vì bịnh tim, nhiều hôm sau lối xóm mới khám phá được, báo cho cảnh sát. Đại Tá Quang (gốc Đại Việt và cấp trên của Dương Văn Minh trong Quân đội Pháp) thăng Thiếu Tướng, một thời gian ngắn thì chết vì bịnh lao phổi.

Ông Nhu có thiện cảm với Pháp hơn với Mỹ, yếu tố văn hóa / giáo dục ảnh hưởng nặng. Ông Diệm lại e dè với Pháp (qua kinh nghiệm thất vọng thời làm quan dưới triều thực dân) nhưng rốt cuộc, oái oăm thay, ông trở thành nạn nhân của Mỹ mà ông nghĩ là văn minh và nhân đạo hơn!

 

Con Người Của Chí Sĩ Ngô Đình Diệm.

 

Nhiều sách vở và tài liệu đã nói về cuộc đời chánh trị và riêng tư của TT Ngô Đình Diệm -- một lãnh tụ cương trực, khí khái, chống cộng cố hữu (anti-communiste invétéré) cũng như bướng bỉnh với đế quốc, bất luận Pháp, Tàu hay Mỹ. Theo ông Quách Tòng Đức, TT Diệm có cái uy nghiêm riêng phát xuất từ một gương mặt phúc hậu, một tác phong cương nghị, một giọng Huế ấm áp, một lối nhìn thẳng vào người đối thoại. Một nốt ruồi đen thấy rỏ trên gò má dưới mắt trái của Tổng Thống được các nhà tử vi xem như báo hiệu một số mạng nhiều buồn phiền và tang tóc. Ông không nặng lời hay gắt gỏng với cấp thừa hành, khi không vừa ý.

Phong cách của TT Diệm làm cho những người tiếp xúc với ông phải kính nể. Sau cái bề ngoài trầm tỉnh, TT Diệm là một con người cuồng nhiệt, một hỏa diệm sơn, kiên trì trong mục đích, không nhân nhượng trên những đức tin căn bản. Trong chín năm làm việc tại Dinh, ông Đức cũng có dịp chứng kiến một ít trường hợp --vì lý do đặc biệt-- Tổng Thống thịnh nộ, quát tháo, đập bàn. Những “trận bão” này, tuy nhiên, qua mau, Tổng Thống tự kềm chế cấp thời vì bản tánh của ông bộc trực, không cố chấp, không thâm độc như Hồ Chí Minh. Ông có thể độc thoại hàng giờ khi nói đến những đề tài mà ông nghiền ngẫm như chủ thuyết Cộng Sản, ấp chiến lược, khu trù mật, dinh điền, cải tổ hành chánh, hay văn hoá Khổng Mạnh. Mái tóc đen nhánh, dáng người thấp, chân đi hai hàng lạch bạch nhưng mau lẹ. Rất sùng đạo, xem lễ mỗi buổi sáng tại hoặc một phòng riêng trong Dinh, hoặc nhà nguyện Dòng Chúa Cứu thế. Trang phục màu trắng, cà vạt đen quanh năm, không thay đổi. Làm việc bất chấp giờ giấc, với nhịp độ làm các người thân cận mệt nhoài. Khi có vấn đề khẩn, ông cho mời nhân viên hữu trách vào Dinh để đàm đạo thâu đêm. Bằng không, ông đọc phúc trình, hồ sơ đến khuya, uống trà, hút thuốc nhưng không bao giờ hút hết phân nửa điếu thuốc.

TT Diệm kinh lý không biết mệt, có khi mỗi tuần đi suốt hai ba ngày, đến các tiền đồn hẻo lánh, làng Thượng xa xôi, sử dụng mọi phương tiện chuyên chở:  Máy bay, ghe, tàu, xe jeep, trực thăng… Ông không hùng hồn trước đám đông nhưng rất thoải mái và thân mật ở giữa những nhóm nhỏ, không quan cách, không mị dân.

Khi nhóm Hội Đồng Nội Các, Tổng Thống Diệm thường ra ngoài chương trình ấn định, nếu tình cờ gặp một đề tài gây chú ý. Ông nói say mê, không đầu không đuôi, lắm khi không kết luận. Với tư cách thơ ký phiên họp, ông Quách Tòng Đức ghi mệt tay. Lúc bế mạc, các bộ trưởng thường phải nhờ ông Đức tóm tắt vì suốt chín năm trời làm việc bên cạnh Tổng Thống, ông Đức đã quen và rút kinh nghiệm, tuy đôi lúc cũng đoán lầm.

TT Diệm sống rất nặng về lý tưởng. Con người Khổng Giáo nghiêm khắc và Công Giáo khổ hạnh nơi ông có những nhận xét lắm khi không sát thực tế. Ông thường nhắc rằng người cán bộ trung thành luôn luôn hy sinh vì đại cuộc mà không cần đến cơm áo, danh vọng và chức tước, một lời khen của lãnh tụ đủ gây mãn nguyện. Khổ nổi, không phải cán bộ nào cũng thánh thiện như thế. Cuộc nổi loạn năm 1963 là một sự cải chính xót xa. Sánh với Hồ Chí Minh, ông Diêm là một lãnh tụ đức độ thiếu mưu lược, ghét xảo quyệt.

Thú tiêu khiển của TT Diệm không nhiều vì thiếu giờ rảnh. Ông thích cỡi ngựa ở Đàlạt hay trong vòng rào của Dinh Độc Lập trong những năm yên ổn. Ông sưu tập máy ảnh, thích chụp hình và rất vui khi nhận được một máy lọai mới. Chủ tiệm chụp hình Hà Di thường được gọi vào Dinh về vấn đề chuyên môn. Tổng Thống ăn uống thanh đạm, thường bữa dùng tại ngay phòng ngủ, do ông già Ẩn và đại uý Nguyễn Bằng phục dịch, thực đơn ít khi thay đổi gồm có cơm vắt, muối mè, cá kho và rau. Tổng Thống ít khi đau, lâu lâu cảm cúm, có bác sĩ Bùi Kiện Tín chăm sóc. Phòng nội dịch không đông nhân viên, do ông Tôn Thất Thiết phụ trách. Vấn đề tiền bạc riêng của Tổng Thống thì giao trọn cho Chánh văn phòng đặc biệt Võ Văn Hải, ông Diệm không có nhu cầu lớn. Ông Hải, học trò cũ của GM Ngô Đình Thục, tốt nghiệp Trường Khoa học Chính trị Paris, cử nhân Hán học, rể của cựu Thượng thơ Nguyễn Khoa Toàn, theo sát Tổng Thống Diệm từ lúc còn bôn ba ở hải ngoại và được ông Diệm thương như con. Ông Hải chính là người được TT Diệm chỉ định ngày11/11/1960 ra trước cổng Dinh Độc Lập tiếp xúc với các sĩ quan phản lọan Nguyễn Chánh Thi - Vương Văn Đông để tìm hiểu yêu sách của họ. Hải chống ông bà Nhu và bác sĩ Tuyến, giám đốc Sở Mật vụ và cũng không thích ông Cẩn.

Ông Đức còn thêm:  Vài hôm sau 1/11/1963, ông có chứng kiến vụ Hải lập biên bản trao cho Đại Úy Đặng Văn Hoa, chánh văn phòng của Tướng Trần Văn Đôn số tiền của TT Diệm giao cho Hải cất giữ. Ông Đức không biết số tiền này được bao nhiêu và lọt vào túi của ai. Nôi hai trang cuối cùng của Hồi Ký Việt Nam Nhân Chứng, Trần Văn Đôn có ghi rỏ Hải đã trao hai số bạc mặt 2.390.000 đồng và 6297 Mỹ kim, Dương Văn Minh lấy 6.000 đô và chia cho Trần Thiện Khiêm 297 đô. Số bạc Việt Nam được phân phát cho Tôn Thất Đính, Lê Văn Kim, Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Văn Thiệu, Phạm Ngọc Thảo, Trần ngọc Tám và Trần Thiện Khiêm, riêng Đôn có nhận 24500 đồng.

Khi phe quân nhân lên cầm quyền, Võ Văn Hải có can đảm tổ chức nhóm “Tinh thần Ngô Đình Diệm” và ra ứng cử dân biểu tại Sài Gòn nhưng thất cử. Năm 1974, không hiểu vì sao Hải lại xoay qua, cùng với Tôn Thất Thiện, ủng hộ nhiệt tình Tướng Dương Văn Minh là người ra lệnh hạ sát hai ông Diệm, Nhu. Hải qua đời trong một trại giam Bắc Việt sau 1975, đem theo nhiều điều bí mật chưa hề tiết lộ.

Về câu hỏi TT Diệm liên hệ ra sao với đảng Cần Lao, ông Quách Tòng Đức cho biết ông Diệm chỉ để ý theo dõi hoạt động của Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia (tổ chức nồng cốt của chế độ từ lúc đầu) và Liên Đoàn Công Chức Cách Mạng, một tổ chức ngoại vi của Chánh phủ. Về chuyện thành lập và sinh hoạt của đảng Cần Lao, TT Diệm giao hết cho hai ông Nhu và Cẩn. Trong các năm chót của chế độ, kế hoạch Ấp Chiến Lược cũng do ông Nhu hoàn toàn phụ trách, Tổng Thống không lưu ý đến như đã từng lưu ý đến kế hoạch Dinh Điền hay Khu Trù Mật. Các gương mặt nổi trong hoạt động Cần Lao gồm có các ông Huỳnh Văn Lang, Trần Kim Tuyến, Lê Văn Đồng, Huỳnh Hữu Nghĩa, Lê Quang Tung, Đổ Mậu, Nguyễn Văn Châu, Đổ Kế Mai, Nguyễn Trân v.v... Bs Tuyến làm việc với ông Nhu, ít khi gặp Tổng Thống, trừ trường hợp đặc biệt. Quyết định đưa Cần Lao vào Quân đội --tức là chính trị hoá Quân đội-- làm yếu Quân đội vì phá vỡ hệ thống quân giai và làm nản lòng các sĩ quan chuyên nghiệp. Quân đội chỉ biết có Tổ Quốc. Và phục vụ tổ quốc mà thôi.

 

Vụ Công Điện Số 9159 Cấm Treo Cờ Phật Giáo Và Sự Trở Mặt Của Các Sĩ Quan Thân Tín.

 

Trong quyển Hồi Ký “Dòng Họ Ngô Đình”, xuất bản năm 2003 tại California, tác giả Nguyễn Văn Minh, nguyên bí thơ (1956-1963) của cố vấn Ngô Đình Cẩn, ghi nơi trang 164-165:  Lối 10 hôm sau vụ nổ lựu đạn giết 7 em bé và một số Phật tử tại đài phát thanh Huế nhân ngày lễ Phật Đản 1963, Dương Văn Hiếu, trưởng đoàn công tác đặc biệt Miền Trung, vào Dinh để phúc trình với TT Diệm, ông Diệm nói với Hiếu như sau về vụ treo cờ Phật giáo:  “Sau đó tôi mới bảo Quách Tòng Đức gởi công văn nhắc các Tỉnh, chứ tôi có cấm chi mô! Không hiểu tại răng hắn để tới ngày chót mới gởi công điện. Khi xảy chuyện, tôi kêu vô hỏi, hắn xin thôi. Công chuyện đổ bể như ri rồi, xin thôi thì ích chi?” Nguyễn Văn Minh còn viết thêm ý kiến của Tôn Thất Đính:  “Ông Đức đã gởi đi một công điện mà không tham khảo ý kiến ông Cố vấn Ngô Đình Nhu… Lẽ nào lại tự tiện đánh đi một công điện như vậy nếu không được tình báo Mỹ tổ chức?”

Được hỏi nghĩ sao về những đoạn trích dẫn trên đây, ông Quách Tòng Đức tỏ vẻ rất ngạc nhiên. Ông xác quyết không bao giờ có nhận được lệnh của ông Diệm thảo và gởi cho các Tỉnh trưởng công điện số 9159 đề ngày 6/5/1963 do ông Nguyễn Văn Minh nêu ra, với nội dung ”chỉ thị cho các cơ quan phụng tự (nhà thờ, chùa chiền...) chỉ treo cờ Quốc Gia mà thôi” (nguyên văn). Trước đó, việc treo cờ được giải quyết bởi hai nghị định số 78 và 189 của Bộ Nội vụ (năm 1957 và 1958) và một sắc lệnh đầu năm 1962 của Phủ Tổng Thống nhắc nhở quần chúng tôn trọng Quốc kỳ.

Ông Đức kể lại:  Tháng tư 1963, sau một cuộc thị sát vào mùa lễ Phục Sinh, TT Diệm có chỉ thị cho ông Đức gởi thông tư lưu ý các giới chức Tỉnh về thể thức treo quốc kỳ Việt Nam trong các ngày lễ đạo, không phân biệt tôn giáo nào:  Treo trước cổng giáo đường, ở chính giữa và phiá trên, đúng kích thước, còn các cờ đạo và cờ đoàn thể thì ở vị trí thấp hơn. Thông tư nhấn mạnh:  Phiá trong các giáo đường, chùa chiền và những nơi thờ phượng, giáo kỳ được treo tự do, không giới hạn. Lệnh của Tổng Thống được phổ biến ngay ngày hôm sau.

Theo ông Quách Tòng Đức, đầu tháng 5/1963, tại Huế, xảy ra một điều đáng tiếc:  Để lấy điểm trong lễ Ngân khánh 25 năm thụ phong Giám Mục của Đức Cha Ngô Đình Thục, nhà chức trách hành chánh địa phương đã cho treo cờ Vatican “loạn xạ”, bất chấp thông tư nói trên. Một tuần sau --ngày 8/5/1983-- vào lễ Phật Đản, các Phật tử cũng tự tiện treo cờ Phật giáo như thế. Hôm sau, Tỉnh trưởng Thừa Thiên trở lại thi hành thể thức treo cờ trong thông tư của Phủ Tổng Thống nên gây sự phẩn nộ của Phật tử vì họ cho rằng đây là một biện pháp bất công, kỳ thị. Tại Miền Nam, theo ông Đức, với 4800 chùa Phật, không có xảy ra vấn đề như ở Huế.

Ông Đức còn nhớ rất rành mạch rằng, sau thảm kịch tại Đài Phát thanh Huế chiều ngày 8/5/1963, Tổng Thống có đòi ông vào văn phòng để đưa cho ông xem, với một gương mặt “mệt nhọc, buồn rầu và chán nãn”, công điện ngày 6/5/1963 nói trên và hỏi “một cách sơ sài” ai đã gởi đi chỉ thị ấy. Ông Đức trả lời không biết vì trong sổ công văn gởi đi không có dấu vết của tài liệu vưà kể. Theo ông Quách Tòng Đức, trong hoàn cảnh chánh trị dồn dập sôi động lúc đó (Thích Quảng Đức tự thiêu, Quách Thị Trang bị bắn chết tại chợ Bến Thành, lựu đạn nổ ở Huế, Tướng Lãnh lập kiến nghị đòi cải tổ, việc kiểm soát chùa v.v...), TT Diệm rối trí, không còn màng đến việc ra lệnh điều tra. Ông có lẽ dư biết việc giả tạo công điện 9159 là một đòn phép mới của phe chống Chánh phủ (Phật giáo Ấn quang? Tình báo Hoa Kỳ? Đảng phái đối lập? hay Cộng Sản?). Vậy việc ông Đức xin từ chức là một điều thất thiệt. Nghi “tình báo Mỹ tổ chức”ông Đức --như Tướng Đính ởm ờ xuyên tạc-- là một chuyện tưởng tượng rẻ tiền.

Để tỏ thiện chí dàn xếp, Chánh phủ đồng ý cho hai Ủy ban Liên bộ và Liên phái công bố một thông cáo chung ngày 16/6/1963 xác định những điểm đã thỏa hiệp về việc treo cờ Phật giáo và Quốc kỳ, hứa xét lại Dụ số 10 trước Quốc Hội vào cuối 1963, tạm ngưng áp dụng Nghị định của Phủ Tổng Thống số 116/TTP/TTK ngày 23/9/1960 ấn định thể thức mua bán bất động sản và đất đai của Phật giáo, hứa sẽ trừng trị nhân viên có lỗi và bồi thường các gia đình nạn nhân. Tuy nhiên, mọi việc đã quá trể đối với Hoa Kỳ và Bắc Việt.

Trong Hồi Ký “Ngô Đình Diệm, Nổ Lực Hoà Bình Dang Dở”, (nxb Xuân Thu California 1989), nơi trang 189-190, Nguyễn Văn Châu, nguyên giám đốc Nha Chiến tranh Tâm lý Quân đội Việt Nam CH, trở thành đối lập với Chánh phủ trước cuộc binh biến 1/11/1963, có ghi lại:  Sau 1975, một cựu đại uý Hoa Kỳ tên James Scott, liên hệ với CIA và từng làm cố vấn cho Tiểu đoàn 1/3 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, thú nhận trong một lá thơ đăng trên một tuần báo Mỹ rằng chính y đã gài một trái bom nổ chậm chiều 8/5/1963 tại Huế. Sự kiện này cũng được Trần Kim Tuyến, dưới bút hiệu Lương Khải Minh, ghi lại trong Hồi Ký “Làm Thế Nào Giết Một Tổng Thống?” (tập 2, trang 366-370). Theo Trung Tướng Trần Thiện Khiêm xác nhận với Marguerite Higgins, tác giả quyển sách Vietnam, Our Nightmare, chương VI, Nguyễn Khánh (nắm quyền sau cuộc chỉnh lý 30/1/1964) đã hy sinh Thiếu Tá Đặng Sỹ, phó Tỉnh trưởng Nội an Thừa Thiên, để Thich Trí Quang trì hoãn chống đối. Toà án Mặt trận xử Sỹ khổ sai chung thân.

Tình trạng giữa TT Diệm và Mỹ căng thẳng kể từ muà hè 1962, nổ lớn tại Huế với vụ Phật giáo 8/5/1963. Qua tháng 7, tin đồn đảo chánh lan rộng. Ngày 21/8/1963, đại sứ Lodge trình ủy nhiệm thơ và bắt đầu móc nối với Tướng Lãnh. Sau ngày Lực Lượng Đặc Biệt của Đại Tá Lê Quang Tung lục soát chùa chiền, các Tướng tin cẩn của TT Diệm đều đổi lòng, theo phe phản loạn, trừ ông Cao Văn Viên trước sau như một. Ông Đức cảm động khi được biết đại tứớng Viên (hiện ở Hoa Thịnh Đốn) đã xác nhận với người viết rằng sau ngày 30/1/1964 Nguyễn Khánh chỉnh lý ê-kíp Dương Văn Minh, Nguyễn văn Nhung, kẻ giết hai ông Diệm-Nhu, --từ Đại Úy thăng Thiếu Tá-- bị An ninh Quân đội bắt vào giao cho Lực lượng Nhãy Dù của Tư lệnh Cao Văn Viên canh giữ, Nhung “đã tự treo cổ bằng một sợi giây giày trong khám đường”, theo lời Tướng Viên.

Được hỏi:  Trong các Tướng thường vô ra Dinh Độc Lập, ai là người được sủng ái nhứt, ông Quách Tòng Đức đáp không do dự:  “Tôn Thất Đính và Trần Thiện Khiêm, mà Tổng Thống xem như người nhà!” Điều này không ngăn Đính và Khiêm đóng vai trò chính yếu trong cuộc đảo chánh 1/11/1963, hệ trọng hơn cả Dương Văn Minh được chọn làm bình phong. Chính Trần Văn Đôn, với tư cách người móc nối, đã tiết lộ trong Hồi Ký “Việt Nam Nhân Chứng”, rằng Đôn có dò xét tâm ý của Đính và đến gặp Khiêm bốn lần, lần đầu vào tháng 9/1963, và Khiêm có cho Đôn biết “ông ta cũng có một kế hoạch riêng do Mỹ chủ trương”. Đôn viết (nguyên văn):  “Tôi khuyên ông ta không nên bàn với Mỹ một việc quan trọng như vậy, nên bỏ kế hoạch ấy đi!” (trang 193). Trong những biến cố quân sự liên tiếp làm hỗn loạn Miền Nam từ 1/11/1963 cho đến ngày Tổng Thống Thiệu cầm quyền, Tướng Trần Thiện Khiêm đứng sau màn giựt giây chiếu theo lời xác nhận của một số nhân chứng hàng đầu khả tin. Tới nay, ông Khiêm không đính chánh mà cũng không tiết loả gì cả. Liệu Tướng Khiêm sẽ ra đi như Tướng Thiệu, mang xuống tuyền đài những bí ẩn đau thương của Đệ Nhị Cộng Hoà Miền Nam?

Theo Quách Tòng Đức, Dương Văn Minh không sâu sắc về chánh trị tuy thời cuộc đưa lên ghế Quốc Trưởng hai lần:  Sau 1/11/1963 (nhờ Mỹ giúp) và tháng tư 1975 (với sự đồng ý của Bắc Việt). Lần đầu, Minh tại chức ba tháng; lần sau, được 40 giờ, rồi đầu hàng địch vô điều kiện. Với tư cách Bộ Truởng Nội Vụ, tác giả bài này được chỉ thị đích thân điều tra mật về trường hợp tẩu tán kho vàng Bảy Viễn chứa trong một thùng kẻm lớn, theo phúc trình của Đại Tá Nguyễn Văn Y, Tỉnh Trưởng Chợ Lớn, phụ tá hành quân cho ông Minh trong cuộc tảo thanh Rừng Sát.

Người viết có mời Tướng Minh đến giải thích. Vì lý do chánh trị, hồ sơ tạm xếp. Bộ Tư lệnh Hành Quân bị giải tán, Tướng Minh được cử làm Cố vấn Quân sự Phủ Tổng Thống, một chức vụ tượng trưng. Từ đó, ông cảm thấy không yên tâm với “chiếc gươm Damoclès treo trên đầu”, ông hận chế độ --đặc biệt cố vấn Nhu-- vô ơn sau khi ông đã chống Nguyễn Văn Hinh, ủng hộ Thủ Tướng Diệm, giúp dẹp Bình Xuyên và bắt nạp Ba Cụt. Một lý do khác gây nghi ngờ đối với Tướng Minh là cơ quan tình báo Quốc Gia bắt đủ bằng chứng về mối liên hệ thầm lén giữa ông Minh và người em CS là Thiếu Tá Dương Văn Nhựt. bí danh Mười Ty. Một người em khác của Tướng Minh là Trung Tá quân đội Việt Nam Cộng Hoà Dương Văn Sơn cũng đã chứa chấp vợ chồng Nhựt và đóng vai trò liên lạc ở trong và ngoài xứ. Cục trưởng Trung ương Tình báo và Tổng giám đốc Cảnh sát Công an Nguyễn Văn Y, hiện ở Virginia, đã xác nhận với người viết có đích thân trình hồ sơ Dương Văn Minh cho TT Diệm xem. Tổng Thống liền ra lệnh hủy hồ sơ này “trước mắt ông” vì không muốn cho Hoa Kỳ biết,”xấu hổ”. (sic).

Hoa Kỳ và Cabot Lodge đã khai thác mối thù riêng của Tướng Minh đối với cá nhân hai ông Diệm, Nhu để lật đổ Đệ Nhứt Cộng Hoà và thay ngựa giữa giòng. Hoa Kỳ cũng dư biết Minh có liên hệ với Bắc Việt nên áp lực Trần Văn Hương trao quyền gấp lại cho D V Minh --trái với Hiến Pháp-- hầu tạo lý do cho Mỹ chuồn sớm khỏi Việt Nam. Nguyên Đại Tá Nguyễn Linh Chiêu, hiện ở Huntington Beach, California, kể lại với tác giả bài này:  Năm 1983, ông có gặp Tướng Minh tại Paris, hỏi vì sao Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu cuối tháng 4/1975 lại hấp tấp ra thông cáo buộc quân Mỹ phải rút trong vòng 24 giờ? Tướng Minh đáp --trước mặt nhân chứng Trần Văn Đôn-- đã làm “theo lời yêu cầu của đại sứ Mỹ Graham Martin”. Các sự kiện trên đây cho thấy Tướng Dương Văn Minh chỉ là một con rối trong tay Hoa Kỳ, Pháp và Bắc Việt. Minh đã giúp Hoa Kỳ tràn vào Việt Nam bằng cách tuân lệnh đảo chánh ông Diệm. Mười hai năm sau, cũng chính Minh giúp Quân đội Mỹ tháo chạy. Nguyên Tổng Thống Trần Văn Hương đã thẳng thắn phát biểu:  “Minh không phải là con người thích hợp với cảnh dầu sôi lửa bỏng của đất nước!”

Năm 1988, Đại Tướng Minh được Hoa Kỳ cho phép rời Paris qua Pasadena, California, sống với người con gái. Phải chăng đây là một cách trả ơn? Ông Minh quá vãng ngày 6/8/2001, thọ 86 tuổi. Trước đó, Võ Văn Kiệt cũng có đến thăm ông tại Pháp, theo Lý Quý Chung tiết lộ trong quyển “Hồi Ký Không Tên” vưà xuất bản tại Sài Gòn. Với vài người thân tín, Tướng Minh nói ông không tiếc hối đã đóng vai trò của một Pétain Việt Nam!

Nguyễn Khánh là một sĩ quan thân tín có công “Cứu Chúa” trong vụ binh biến 11/11/1960 khi giữ chức Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu. Ông nuôi cao vọng thay thế Tổng Tham Mưu Trưởng Lê Văn Tỵ. Sau khi thăng Thiếu Tướng tạm thời tại mặt trận, ông được đưa lên cao nguyên hẻo lánh để trấn Quân khu 2 và Vùng 2 chiến thuật. Ông Khánh sanh bất mãn, vì thế tuyên bố trên đài phát thanh lúc bốn giờ sáng ngày 2/11/1963 ủng hộ phe đảo chánh. Theo Tướng Khánh kể lại với người viết:  Đêm 1/11/1963, ông Diệm và ông Nhu có điện thoại từ Chợ Lớn lên Pleiku cố thuyết phục ông Khánh cầm quân về Sài Gòn giải cứu nhưng ông Khánh trả lời “Quá trể và ở quá xa”. Câu hỏi đặt ra:  Nếu Tướng Khánh nhận về “Cứu Giá”, nếu TT Diệm trì hưởn xuất hiện sáng 2/11/1963 và nếu sự cứu giá thành công, thì thời cuộc liệu thay đổi ra sao? Mọi việc tùy thuộc biết bao nhiêu chữ “nếu”! Sau hết, với người viết, Tướng Khánh còn than phiền TT Diệm không giữ lời hứa (viết tay) trao quyền lại cho quân đội sau cuộc binh biến 11/11/1960. Đây là một sự kiện khác mà Tướng Khánh hẳn không quên. Trong một buổi lễ long trọng truy điệu cố TT Ngô Đình Diệm tại thủ phủ Little Saigon, California, Tướng Nguyễn Khánh không tiếc lời ca tụng TT Diệm như một anh hùng dân tộc mà ông ngưỡng mộ và quyết chí noi gương.

TT Diệm nể trọng Đại Tướng Lê Văn Tỵ, người duy nhứt trong quân đội được kêu bằng Ngài. Phiá dân sự, cách xưng hô này chỉ áp dụng đối với Phó TT Nguyễn Ngọc Thơ và Bộ trưởng Ngoại giao Vũ Văn Mẫu, nhân vật cạo đầu năm 1963 để phản đối trong vụ Phật giáo.

Tướng nào giỏi đóng tuồng và chuyên “trở cờ”? Tuy không thân cận với giới Tướng Lãnh, ông Đức có thể trả lời theo một nhận định chung:  Trần Văn Đôn (em út của “Tây Con” Nguyễn Văn Hinh và là người từng công khai đốt lon sĩ quan Pháp để tỏ lòng trung thành với TT Diệm) và Tôn Thất Đính (con cưng của chế độ trở giáo đâm sau lưng chế độ. Một Brutus hay một Juda?). Ai thâm độc nhứt? Đổ Mậu. Ông Mậu --một cột trụ Cần Lao-- thú nhận đã mọp lạy trước ông Đính (cũng là Cần Lao gộc) để van xin Đính theo quân nổi loạn. “Đại Tá Muôn Năm” Đổ Mậu hận vì TT Diệm cho rằng ông không đủ văn hoá để tiến cao hơn. Người viết có dịp hỏi nguyên Thủ Tướng Nguyễn Khánh nghĩ sao khi chọn Mậu lãnh đạo Bộ Văn Hoá không thích hợp chút nào với trình độ của y thì Tướng Khánh nheo mắt cười, trả lời:  Mậu tự ti mặc cảm nhưng đầy cao vọng và được một số Phật tử ủng hộ lúc đó. Việc bổ nhiệm này khuyến khích Mậu cộng tác sốt sắng và đồng thời biến Mậu thành trò cười của quần chúng! Đây là một “đòn chánh trị” quen thuộc của Nguyễn Khánh, kịch sĩ từng đả đảo Hiến Chương Vũng Tàu do chính ông cho thảo ra. Một đòn khác của Tướng Khánh:  Móc nối với Huỳnh Tấn Phát, lãnh tụ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, với chủ đích --theo lời tuyên bố của Khánh-- kéo Phát về phiá Quốc Gia. Điều này bị Nguyễn Thị Bình phủ nhận hoàn toàn trong Hồi Ký Chung Một Bóng Cờ, (nxb Chính trị Quốc Gia, Hànội 1993). Chẳng những thế, trang 453-454 của Hồi Ký còn tiết lộ Nguyễn Khánh đã vận động Hoa Kỳ cúp viện trợ và bỏ rơi TT Thiệu, Khánh công khai đi đêm với Mặt Trận trong giai đoạn chót của Hiệp định Paris.

“TT Diệm có thích được nịnh hót hay không?” Ý kiến của Ông Đức:  Tại Bắc Việt, Cộng Sản đã thần tượng hoá Hồ Chí Minh. Trong Nam, cũng có khuynh hướng ấy đối với ông Diệm, dưới nhiều hình thức, đặc biệt trong Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia với số đoàn viên tăng từ 10,000 năm 1955 lên đến 2 triệu năm 1963, tổ chức đến tận xã, phường. Bộ trưởng Thông tin Trần Chánh Thành bỏ hàng ngũ kháng chiến về cộng tác với ông Diệm từ lúc đầu như Trần Hữu Phương, Trần Lê Quang… Ông có công xây dựng Phong Trào CMQG, tổ chức chiến dịch tố Cộng và đề xướng “Suy tôn Ngô Tổng Thống”. Bất thuận với Trần Kim Tuyến, Thành rời Nội các cuối năm 1959. Ba bộ trưởng khác ra đi cùng một lúc vì, với ông Thành, lập hồ sơ truy tố một số cán bộ Cần Lao dân sự và quân sự lộng quyền:  Trần Trung Dung (Quốc phòng), Nguyễn Văn Sĩ (Tư pháp) và người viết (Nội vụ). Bộ Thông Tin bị đổi thành Nha Tổng Giám Đốc Thông Tin do Bác sỉ (Cần Lao) Trần Văn Thọ phụ trách. Ngày 30/4/1975, ông Thành (Nghị Sĩ và Ngoại Trưởng thời Nguyễn Văn Thiệu) tự tử bằng thuốc độc tại nhà để tránh sa vào tay CS còn Bs Tuyến thì được nhà báo điệp viên Việt Cộng nằm vùng Phạm Xuân Ẩn lấy xe chở đến một địa điểm dùng trực thăng Mỹ thoát khỏi Việt Nam. Tuyến định cư tại Anh quốc nhờ bà Tuyến làm việc cho Tòa Đại sứ Anh ở Sài Gòn. Tuyến làm chủ một nhà trọ bed and breakfast gần Cambridge và qua đời cách đây vài năm, sau khi phát hành với Cao Vĩ Hoàng quyển Hồi Ký “Làm Thế Nào Giết Một Tổng Thống?”

Theo ông QTD, TT Diệm cởi mở, bình dân trong những năm đầu chấp chánh nhưng về sau, trở nên khó tánh và khép kín hơn. Ảnh hưởng của quyền lực? Hoàn cảnh? Giới cận thần a dua? Qua ba giai đọan Quốc Hội Lập Hiến, Quốc Hội Lập Pháp kỳ 1 và Quốc Hội Lập Pháp kỳ 2, nền Đệ Nhứt Cộng Hoà đi lần vào bế tắc. Trong gia đình, ông bà Trần Văn Chương, nhạc gia của ông Nhu, --chồng, đại sứ Việt Nam CH tại Hoa Thịnh Đốn và vợ, quan sát viên tại Liên Hiệp Quốc-- lợi dụng chức vụ để phản tuyên truyền và đả kích kịch liệt Chánh phủ Sàigịn và luôn cả vợ chồng ông Nhu. Bác sĩ Trần Văn Đổ, chú vợ của cố vấn Nhu, và luật sư Nguyễn Hữu Châu, nguyên bộ trưởng Phủ Tổng Thống kiêm Bộ trưởng Nội vụ, anh em bạn cột chèo với ông Nhu, cũng không còn ủng hộ ông Diệm. Ls Châu đào thoát qua Paris ngang con đường Nam Vang nhờ sự giúp đở của bạn học cũ là Quốc vương Sihanouk. Ông đã trình luận án Thạc sĩ Luật chỉ trích chương trình viện trợ Hoa Kỳ ở Việt Nam và sau đó, dạy Luật tại Đại học Paris. Ls Châu như khoa học gia Bửu Hội, năm 1972, cũng ngã theo ủng hộ Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Trần Văn Đôn --người chủ trương đảo chánh-- nhìn nhận một cách thương hại:  Tội nghiệp, mọi người đều bỏ TT Diệm!

Ông Quách Tòng Đức tỏ ra dè dặt đối với dư luận cho rằng TT Diệm kỳ thị Phật giáo. Ông cho biết TT Diệm thường tiếp xúc với các vị tu hành thuộc mọi tôn giáo, đặc biệt Phật giáo; không bỏ qua dịp viếng thăm một số chùa như chùa Sư Nữ của Sư Bà Diệu Huệ (mẹ giáo sư Bữu Hội) ở Phú Lâm, chùa Diệu Đế ở Huế v.v… Chính ông Đức đã nhiều lần chuyển đến tay ông Mai Thọ Truyền, chủ chùa Xá lợi và Hội trưởng Hội Phật giáo Nam Việt những số tiền giúp đở. Một chuyện mà ít người biết là TT Diệm đã hiến cho Đức Đạt Lai Lạt Ma trọn số tiền 15000 mỹ kim, giải thưởng Leadership Magsaysay tặng cho Tổng Thống. Vì lý do chánh trị, quyết định này không được công bố.

Ủy ban tôn giáo Liên Hiệp Quốc được Chánh phủ Saigòn mời đến điều tra năm 1963 cũng đã phúc trình --sau ngày hai ông Diệm, Nhu bị giết-- rằng Đệ Nhứt Cộng Hoà không kỳ thị tôn giáo. Mặt khác, TT Diệm đã từng thẳng thắn bác bỏ những yêu sách quá đáng của các giáo phẩm di cư, bởi thế nên có sự bất mãn ngấm ngầm. Hai Giám Mục Phát Diệm, Bùi Chu Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi chống đối ra mặt.

Cho đến ngày TT Diệm qua đời, phần đông các người phục vụ sát cạnh bên Tổng Thống hàng ngày đều thuộc thành phần Phật giáo:  Đổng Lý (Quách Tòng Đức), Tổng thơ ký Nguyễn Thành Cung, Chánh văn phòng Võ Văn Hải, bí thơ Trần Sử, nội dịch Tôn Thất Thiết, cận vệ Nguyễn Bằng…

 

Vấn Đề Thủ Tiêu Các Người Đối Lập Và Việc Tiếp Xúc Của Ông Nhu Với Đối Phương Cộng Sản.

 

Sau chánh biến 1/11/1963, Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng tố cáo chánh quyền Diệm đã thủ tiêu một số ngưới đối lập như Nguyễn Bảo Toàn, Tạ Chí Diệp, Vũ Tam Anh, Hồ Hán Sơn v.v… Quách Tòng Đức tuyên bố không biết gì về những chuyện này thuộc thẩm quyền các cơ quan công an, tình báo. Tuy nhiên, ông tin chắc rằng ông Diệm không bao giờ đích thân chủ trương như vậy vì Tổng Thống là một tín đồ Công Giáo thuần thành, phân biệt tội phước, không khát máu như Cộng Sản mà ông tích cực chống đối. Có thể một số nhân viên an ninh cuồng tín đã hành động để lấy điểm (excès de zèle) hay giải thích sai lầm chỉ thị cấp trên. Một bằng chứng cụ thể là TT Diệm chỉ ra lệnh giam chớ không cho xữ tử Hà Minh Trí, một cán bộ Cao Đài, mưu sát hụt ông tại Ban Mê Thuột và gây thương tích cho Bộ trưởng Đổ Văn Công. Hà Minh Trí được Hội đồng Cách Mạng trả tự do khi họ đã giết TT Diệm. Câu hỏi nêu ra là cuối cùng, TT Diệm có hay biết các vụ thanh toán toán đối lập hay không và phản ứng thế nào? Dù sao, lịch sử vẫn đặt vấn đề trách nhiệm tinh thần đối với ông.

Trong giai đoạn chót của chế độ, có tin đồn trong quần chúng và báo giới Mỹ rằng cố vấn Ngô Đình Nhu đi đêm với CS kháng chiến để tìm ra giải pháp giữa Nam, Bắc. Chính ông Nhu có đề cập đến chuyện này trong vài phiên nhóm với Tướng Lãnh tại Bộ Quốc phòng và ngày 23/7/1963 tại suối Lồ Ồ -- khi nói chuyện với các cán bộ xây dựng Ấp Chiến Lược khoá 13. Một nguồn tin khác cho biết ông Nhu sử dụng trung gian cuả bốn Đại Sứ Roger Lalouette (Pháp), d’Orlandi (Ý), Goburdhun (Ấn Độ) và Manelli (Ba Lan), (hai ông sau là thành viên của Ủy ban Quốc tế kiểm soát đình chiến) cũng như Tổng Lãnh Sự Pháp ở Bắc Việt Jacques de Buzon để liên lạc với Hànội.

Ông Quách Tòng Đức nói có nghe dư luận này nhưng không biết rỏ chi tiết. Ông cũng có nghe xầm xì rằng ông Nhu đã gặp một đại diện Văn phòng Chính trị CS (Phạm Hùng?) trong lần đi săn tại Quận Tánh Linh, Bình Tuy. Ông Đức nghĩ đây chỉ là một đòn chiến thuật của ông Nhu để dằn mặt Hoa Kỳ, Tổng Thống Diệm không bao giờ chấp nhận giải pháp điều đình với Hồ Chí Minh. Hơn nữa, Hiến pháp Việt Nam CH có ghi rỏ chủ trương của Miền Nam Việt Nam chống chủ nghĩa vô thần. Ông Đức còn xác nhận:  Một Tết Nguyên Đán trước 1963, một cành đào đỏ lộng lẩy được trưng bày nơi phòng khánh tiết Dinh Độc Lập với tấm thiệp in tặng của “Chủ tich Nhà nước Cộng hoà Xã hội Miền Bắc”.

 

Những Ngày Chót Của Tổng Thống Diệm. Các Cận Thần Cuối Cùng.

 

42 năm trôi qua, mọi công dân Việt Nam, ủng hộ hay chống đối ông Diệm, đều cảm thấy nhục nhã khi đọc lại những lời thú nhận sống sượng của Tướng Trần Văn Đôn, đầu não trong chánh biến 1/11/1963 và tác giả của quyển Hồi Ký “Việt Nam Nhân Chứng” (nxb Xuân Thu, California, 1989) về vai trò Hoa Kỳ chỉ huy vụ lật đổ và sát hại một lãnh tụ đồng minh. Đôn viết:  “Đúng 1 giờ 30 trưa, (trùm Xịa) Conein vào bộ Tổng Tham mưu, (nơi đặt văn phòng của Đôn) mang theo một máy truyền tin đặc biệt để liên lạc với Toà Đại sứ Mỹ và một bao tiền là ba triệu bạc Việt Nam” (trang 211). Đôn còn tuyên bố khi y thậm thọt gặp riêng Thái thú Cabot Lodge để thỉnh thị:  “Chúng tôi (nhóm đảo chính) không bao giờ có tham vọng cá nhân, chỉ muốn cứu nước!” (trang 210)

Trong Hồi Ký “Việt Nam Nhân Chứng”, đọan chót, Trần Văn Đôn cho biết ba triệu bạc --cái giá rẻ mạt để thay đổi một thế cờ!-- đã chia cho Dương Văn Minh, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính, Nguyễn Hữu Có, Đổ Cao Trí, Nguyễn Khánh, Trần Ngọc Tám và Lê Nguyên Khang.

Ông Đức tỏ ra ngán ngẩm khi được hỏi nghĩ gì về sự tự thú trên đây. Theo ông, trong những ngày chót của một cuộc đời đấu tranh gian khổ, TT Diệm là con người cô đơn nhứt trên thế gian:  Dân tộc bỏ rơi, đồng minh phản bội, gia đình chia cách, kẻ thù Cộng Sản reo hò chiến thắng, sự nghiệp chính trị ra tro, uất hận ngất trời vì tương lai mù mịt của Đất Nước, một quốc gia bị sức mạnh chèn ép. Với ông Nhu quỳ bên cạnh cầu nguyện trong Nhà thờ Cha Tam Chợ Lớn sáng ngày 1/11/1963. Không chắc TT Diệm đồng một tâm tư với người em.

Ông Đức bùi ngùi nhắc lại:  Tối 1/11/1963, khi tiếng súng nổ rền khắp nơi, ông và gia đình rời khỏi nhà riêng ở số 8 đường Lê Văn Thạnh, Sài Gòn, ngủ đêm tại Chợ Lớn, không xa căn phố lầu của Mã Tuyên, nơi Tổng Thống và ông Nhu tạm ngụ. Sáng hôm sau 2 tháng 11, trở lại nhà thì được hay Tổng Thống có điện thoại tối hôm trước nhưng người giữ nhà trả lời không biết ông Đức ở đâu. Vài giờ sau, ra-dô báo tin hai ông Diệm, Nhu “tự tử”, điều mà Đức khơng tin chút nào. Đến nay, ông Đức vẫn ân hận vì không được tiếp xúc lần chót với Tổng Thống.

Hỏi:  Trong Nội các, ai được Tổng Thống Diệm tin cậy nhứt những ngày, tháng cuối cùng? Quách Tòng Đức đáp:  Nguyễn Đình Thuần và Trương Công Cừu. Thuần kiêm ba trọng trách:  Bộ trưởng tại Phủ Tổng Thống, Bộ trưởng phụ tá Quốc phòng, và Bộ trưởng Đặc nhiệm Phối hợp An ninh. Cừu là Bộ trưởng Đặc nhiệm Phối hợp Văn hoá Xã hội. Ngoài ra, còn có Ngô Trọng Hiếu, Bộ trưởng Công dân vụ, từng là đại sứ Việt Nam CH ở Nam Vang, bị Chánh phủ Cam bốt trục xuất vì giúp cho Tướng Đap Chuon đảo chánh (hụt) Quốc vương Sihanouk. Tên ông Hiếu nằm trong bản danh sách của Cabot Lodge ghi các nhân vật cần thanh toán, theo Hồi Ký nêu trên của Trung Tá Nguyễn Văn Châu.

Ông Đức không ngạc nhiên cho lắm khi được người viết cho biết một số tài liệu giải mật tại Hoa Kỳ tiết lộ Thuần là tay trong thân tín của CIA, theo dõi để phúc trình từng phản ứng của hai anh em Diệm - Nhu. Thuần từng được Mỹ chấm như một “Thủ Tướng có triển vọng” nếu TT Diệm chịu sửa Hiến pháp để đặt thêm chức vụ này (đọc The Storm has many eyes, A personal narrative của Henri Cabot Lodge, NY 1973, trang 62 và Lodge in Vietnam, A Patriot abroad của Ann Blair, nxb Yale University Press, New Haven 1995, trang 92). Một số nhân vật rất gần Dinh Độc Lập cho biết Thuần dùng đủ mưu chước để thu hút cảm tình của TT Diệm và từ đó, tìm cách ly gián ông Diệm và ông Nhu trong giai đọan chót của chế độ. Ông Quách Tòng Đức ngạc nhiên khi hay chính Đệ Nhị Phòng Pháp đã giúp Thuần trốn khỏi Việt Nam. Cố Ứng Thi, chủ của Khách sạn Rex và bạn thân của Thuần, xác nhận với người viết điểm vừa nói. Thuần hiện sống thong dong tại Paris.

Tác giả bài này thắc mắc:  Không lẽ một người tinh vi như ông Nhu mà không nhận ra mặt trái của Nguyễn Đình Thuần? Ông Đức trả lời:  Có thể ông Nhu không mù quáng nhưng ở vào thế kẹt lúc đó, không còn ai liên lạc để dò xét âm mưu đen tối của Hoa Kỳ, ông Nhu phải “tương kế, tựu kế”. sử dụng Thuần. Ông Nhu cũng đã áp dụng chiến thuật này (kế hoạch chống đảo chánh Bravo) để tìm cách chi phối Nhóm Tướng bị Mỹ mua chuộc.

Ông Đức cho biết thêm:  Linh mục Cao Văn Luận cũng là một cố vấn thân tín của Tổng Thống được giao phó ra nước ngoài xin tài trợ về giáo dục, tìm kiếm trí thức Việt đưa về nước và tổ chức Viện Đại học Huế mà ông là Viện trưởng đầu tiên. Trong giai đoạn khủng hoảng Phật giáo, dư luận cho rằng cha Luận đã trở mặt, ngã theo phe chống chánh quyền. Chẳng những thế, ông còn viết Hồi Ký “Trong Giòng Lịch Sử” để nói xấu TT Diệm và đề cao Hồ Chí Minh. Tình đời rõ đen bạc!

Ông Quách Tòng Đức quả quyết không bao giờ gặp Vũ Ngọc Nhạ (mà CS tuyên bố phịa trong quyển sách và bộ phim giả tưởng Ông Cố Vấn gài được vào Dinh Độc Lập!) Trả lời về các cán bộ gốc Cộng Sản cộng tác với chế độ, ông Đức cho biết Kiều Công Cung --nguyên tư lệnh một sư đoàn Việt cộng-- đã tỏ ra xứng đáng đến cùng trong chức vụ Đặc ủy chiêu hồi. Phạm Ngọc Thảo --mà Tổng Nha Công an có hồ sơ-- được bổ nhiệm Đại Úy Bảo An, sau đó Tỉnh trưởng Kiến Hoà và thanh tra dinh điển. Hai chuyên viên Mỹ về Giáo dục và Dinh điền thường lui tới Dinh và ăn sáng với Tổng Thống là giáo sư Wesley Fishel thuộc Đại học Michigan và Ladejinsky mà Tổng Thống quen từ lúc bôn ba ở Hoa Kỳ. Về sau, được hay hai chuyên viên này làm việc cho CIA. Đặc biệt, Fishel đã ra mặt chống phá ông Diệm tại Hoa Thịnh Đốn trước ngày đảo chánh.

Trần Văn Đôn ghi nơi trang 182 của Hồi Ký “Việt Nam Nhân Chứng”:  Trong một buổi học tập chính trị tại bộ Tổng Tham Mưu trước chính biến 1/11/1963, ông Nhu nói, sau khi nghe các Tướng Lãnh trình bày thỉnh nguyện:  “Mấy anh muốn cải tổ chánh phủ mà xin như vậy đâu có nhiều. Muốn làm cách mạng thật sự, tôi tưởng các anh phải xin nhiều hơn. Ông Diệm bị kẹt với một số Bộ trưởng thối nát bất tài. Trong lúc này Quân đội phải nhận rỏ vai trò của mình để cứu nước, nên đảo chánh một đêm bắt mấy ông Bộ trưởng đó rồi hôm sau trao quyền lãnh đạo lại cho Tổng Thống. Nếu có vị tướng nào muốn đảo chánh thì quân đội phải chống lại, phải bắt người đó mà treo cổ trên đường Công Lý”.

Đâu là sự thật? Nếu đúng, thì đây có phải là ván bài tố xả láng của ông Nhu để dò xét và sập bẩy Nhóm Tướng tạo phản? Hay một nhìn nhận chua chát chế độ đang tuột dốc thê thảm, đưa dân tộc vào một trận đại hồng thủy? Tổng Thống Ngô Đình Diệm có thể đã phạm một số sai lầm nguy hãi khi cầm quyền --điều này sẽ được sử sách phê phán công và tội-- nhưng không một ai --từ đồng minh Hoa Kỳ cho đến Hồ Chí Minh-- chối cãi rằng ông là một lãnh tụ yêu nước, trong sạch, có khí phách và không làm dân tộc Việt Nam hổ thẹn vì ông đã cố bảo vệ đến cùng thể diện và quyền uy quốc gia. Không một gia đình Việt Nam nào mà lại hy sinh nặng như thế cho Đất Nước, mất một lần bốn người con ưu tú, một vì tay Cộng Sản và ba vì tay Quốc Gia. Ông Diệm ra đi, Hồ Chí Minh không còn đối thủ, Mỹ rảnh tay Việt nam hoá chiến tranh, Miền Nam sụp đổ mau lẹ.

Hay tin TT Diệm bị sát hại, Mao Trạch Đông phản ứng bằng nhận xét:  ”Chính quyền Kennedy hạ ông Ngô Đình Diệm là một thất sách, một sai lầm rỏ rệt!” Và Hồ Chí Minh tuyên bố:  ”Ông Diệm là một nhà yêu nước, theo lối của ông ấy!” Trong Hồi Ký The Real War, Chương V, Richard Nixon viết:  Tổng Thống Pakistan Ayub Khan nói với tác giả vài ngày sau vụ đảo chánh 1/11/1963:  “Việc Tổng Thống Diệm bị giết có ba ý nghĩa đối với nhiều người Á Đông:  Trở thành bạn Hoa Kỳ là một nguy hiểm, trung lập có giá hơn và đôi khi tốt hơn là kẻ thù”. Riêng về De Gaulle thì ông nhận định:  “Sau Diệm, không phải là một khoảng trống mà là một sự quá đầy!” De Gaulle muốn nói:  Miền Nam lạm phát lãnh tụ, trở thành một giỏ cua và một hí trường tranh dành địa vị, ngôi thứ.

Đối với thế hệ lãnh đạo mai sau, sự thất bại của TT Diệm --mà đồng minh Hoa Kỳ lẫn kẻ thù Cộng Sản đều xem như một mối đe dọa cần triệt hạ-- là một bài học quý báu về kinh nghiệm chống Đế quốc, về Nhân Tình Thế Thái và thân phận của một nước nhược tiểu. Học giả Úc Denis Warner đã tặng cho ông biệt danh xứng đáng “The Last Confucian, Người hiền triết Khổng giáo cuối cùng”. TT Diệm là một thầy tu lạc lõng giữa chính trường gió tanh mưa máu, gánh trên vai thánh giá của Quê Hương đau khổ.

Sau tháng 4/1975, hai ngôi mộ của TT Diệm và Cố vấn Nhu được cải táng từ nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, Sài Gòn, về quận Lái thiêu, tỉnh Bình Dương. Mộ bia của TT Diệm có khắc chữ Huynh. Mộ bia của Cố vấn Nhu khắc chữ Đệ. Hai nắm mồ khiêm nhường, quạnh hiu, thiếu người chăm sóc, kết thúc một cuộc đời đấu tranh khắc nghiệt, đầy oan trái nhưng chắc chắn không phải là một hy sinh vô bổ trên bàn thờ Tổ Quốc.

 

Kết Luận.

 

Ông bạn Quách Tòng Đức chấm dứt buổi nói chuyện thân tình bằng một lời than chua xót:  Dĩ vãng buồn nhiều hơn vui, phá hoại nhiều hơn xây dựng, hận thù thay vì đoàn kết. Đến nay, Đất Nước chưa thấy lối thoát, những bài toán của Xứ Sở chưa tìm ra đáp số. Ngày nào Cộng Sản vẫn bám víu vào quyền lực thì quốc nhục chậm tiến còn kéo dài. Thế cuộc xoay vần. Lý thuyết chánh trị, chế độ, lãnh tụ… rồi cũng phải trở về với cát bụi. Vanitas Vanitatum, Omnia Vanitas, Hư Danh, tất cả đều là Hư Danh! Cuối cùng chỉ còn lại Dân Tộc, Dân Tộc trường tồn, Dân Tộc bất diệt.

Lưu đày, dù trên mãnh đất dân chủ, chưa phải là Tự Do, Người Việt tha hương, vào tuổi gần đất xa trời, vừa đau buồn hướng về Đất Mẹ, vừa thao thức tự vấn như Thôi Hiệu trong bài thơ Đường Hoàng Hạc Lâu:

     Chiều xuống, Quê Nhà đâu đó tá?

     Bên sông khói toả, não lòng ai.

                              (Chi Điền dịch)

Lâm Lễ Trinh

Ngày Quốc Khánh Hoa Kỳ 2005

Thủy Hoa Trang, California


ChinNamNDD@LLTrinh.doc

Viet MJCer

unread,
Oct 20, 2010, 12:39:42 PM10/20/10
to Xã - Tắc

Xin Đừng Tiếp Tục Lừa Dối Lịch Sử

Từ lúc ông Liên Thành tung ra Quyển Sách “Biến Động Miền Trung”, đã
gây nên một tình trạng chia rẽ khá nặng nề trong Cộng Đồng Người Việt
tại Hải Ngoại. Những Phần Tử Hoài Ngô cũng nhân cơ hội hiếm có ngóc
đầu dậy, chửi các vị Tướng Lãnh QLVNCH anh hùng đã có công làm Cuộc
Cách Mạng 1/11/1963 cứu dân cứu nước, đồng thời chụp mũ Phật Giáo là
Cộng Sản (CS) đã làm cho mất nước (sic). Đây cũng đúng là lúc mà làn
sóng đấu tranh ở trong nước --đặc biệt là trong hàng ngũ các Người CS
Phản Tỉnh-- đang mỗi lúc mỗi tăng mạnh, cùng Đồng Bào mọi giới dồn Tập
Đoàn Lãnh Đạo CS vào thế bí.
Câu hỏi được đặt ra là, có liên quan gì giữa 2 sự kiện trên đây hay
không?
Câu trả lời quả thật là quá nhức nhối!
Hôm nay chúng tôi xin trình bày một vài sự kiện để cho quý vị tôn thờ
ông Ngô Đình Diệm suy nghĩ:

A.- Huyền Thoại Về Lãnh Tụ Anh Minh Ngô Đình Diệm.
Ngô Đình Diệm và cả Dòng Họ Ngô của ông ta, toàn là một lũ Việt Gian,
Phản Dân Hại Nước… thì Tướng Trần Thiện Khiêm hay bất cứ ai, kể cả
CIA, cũng có quyền giết chết, Quốc Dân Việt Nam vô cùng biết ơn. Cái
chết của ông ta cũng như cái chết của tên độc tài khát máu Saddam
Hussein của Iraq vậy, chứ có gì mà phải thương tiếc, khóc lóc… kiểu
nước mắt cá sấu?
Ngô Đình Diệm có công lao gì? Bản chất là một tên Phản Bội Gia Truyền.
Làm tôi tớ cho Pháp, được “đào tạo” trở thành Tri Huyện trung thành
với Giặc Pháp đàn áp những Người Yêu Nước Chống Pháp, sau được Pháp
“tiến cử” làm Quan Thượng Thư. Rồi lại PHẢN Pháp theo Nhựt (Hồi Ký
Việt Nam Nhân Chứng - Trần Văn Đôn). Khi Nhựt đầu hàng, Pháp quay trở
lại Đông Dương truy tìm Diệm, may nhờ Người Mỹ “cứu” đưa về Mỹ “nuôi
nấn, dạy dỗ”… Cho tới năm 1954, Người Mỹ lại “bồng” Diệm từ Mỹ đưa về
nước, vận động với Pháp để Bảo Đại cho làm Thủ Tướng. Sau lại PHẢN BỘI
Bảo Đại lên làm Tổng Thống “Tự Phong” không do dân bầu.
Cuối cùng Diệm lại âm mưu PHẢN BỘI Mỹ… định bắt tay với VC để đuổi Mỹ.
Quân Đội VNCH bắt buộc phải đứng lên làm Cách mạng lật đổ bè lũ Cần
Lao Độc Tài Gia Đình Trị Gian Ác, Phản Quốc. Xin đừng có ai đổ thừa
cho CIA và Người Mỹ. Chính Ngô Đình Diệm rước Mỹ vào VN năm 1954 chứ
ai? Người Mỹ muốn Diệm chống Cộng. Nhưng thực chất Diệm chính là Con
Đẻ của Vatican. Diệm chỉ lợi dụng Người Mỹ để lên nắm quyền. Khi đã
củng cố được quyền hành, diệt xong các Đảng Phái và Đối Lập rồi, Gia
Đình Họ Ngô liền quay ra tìm cách “đuổi Mỹ”…
Vậy ai chính là kẻ đỡ đầu cho hành vi phản nghịch của Diệm phía sau,
nếu không là Vatican và Pháp???
Khi về nước “chấp chánh” 7/7/1954, Diệm đề ra Ba Mục Tiêu hành động
Cách Mạng: “Bài Phong, Đả Thực, Diệt Cộng”. Ai mà không ủng hộ? Thế
nhưng khi đã trở thành Tổng Thống, Diệm hành động trái ngược lại hết.
1.- Phong kiến còn hơn cả Phong kiến (Gia Đình Trị, mỗi vùng một Lãnh
Chúa, suy tôn Ngô Tổng Thống Muôn Năm…).
2.- Thực dân còn hơn cả Thực dân (lần hồi thâu tóm toàn bộ Nền Kinh Tế
Quốc Dân vào trong tay Gia Đình và Đảng Cần Lao, như vận tải đường bộ,
hàng không, hàng hải, nhà phát hành thống nhứt, độc quyền khai thác gỗ
rừng, Ngô Đình Cẩn xử dụng Tài Nguyên Quốc Gia xây Khu An Dưỡng (Nhật
Ký Đỗ Thọ)...
3.- Còn vấn đề Diệt cộng ra sao? Khi mới lên “chấp chánh”, thì Diệm
cho mở “Chiến Dịch Tố Cộng” (1) thật rầm rộ và được nâng lên hàng
”Quốc Sách”. Nhưng khi đã trở thành Tổng Thống rồi thì chấm dứt Chiến
Dịch “Tố Cộng”, quay ra “Thả Cộng” vào rừng (trường hợp điển hình như
Nguyễn Hữu Thọ). Ra lịnh các Tỉnh Trưởng thu hồi vũ khí tự động của
Bảo An, Dân Vệ để cho VC tha hồ hoạt động ở Nông Thôn (Hồi Ký Công và
Tội của Nguyễn Trân).
Trong Hồi Ký Một Kiếp Người của Tướng Huỳnh Văn Cao còn tiết lộ nhiều
điều kinh khủng khác về chuyện Dinh Độc Lập có dính líu với CS. Như
việc tin dùng Đại Tá Tình Báo VC Phạm Ngọc Thảo. Đến nỗi Tướng Paul
Harkins còn tỏ ý nghi ngờ Tổng Thống Diệm là CS, vì bất cứ Cuộc Hành
Quân MẬT nào báo cho Dinh Độc Lập biết, thì VC đều biết trước!
Ngoài ra, chiến dịch thả Biệt Kích (BK) ra Bắc cũng bị CS biết trước
ngày giờ và địa điểm đổ quân, mai phục bắt gọn. Chỉ có vài lần thoát,
nhờ các Phi Công xin đổi địa điểm thả BK vào giờ chót vì lý do kỷ
thuật, thời tiết… Nhưng rồi cũng bị VC săn đuổi diệt hết…
Người Mỹ rất cay cú chuyện này vì kế hoạch dùng BK đánh phá hậu phương
Miền Bắc bị thất bại hoàn toàn!
Vậy kẻ nào ở Dinh Độc Lập làm “nội gián” cho VC? Xin đừng đổ thừa cho
Vũ Ngọc Nhạ. Chỉ cần suy nghĩ một chút cũng nhận ra Nhạ chính là Thủ
Hạ của Ngô Đình Nhu. Nhu dùng Nhạ núp dưới Võ Bọc “Cố Vấn” để che mắt
Tình báo Mỹ. Nhu là một tên Cáo Già đại quỷ quyệt, làm sao Nguyễn Ngọc
Nhạ có thể qua mặt được Nhu???
4.- Diệm là một kẻ cuồng tín Tôn Giáo. Hắn chỉ biết có “Chúa”. Diệm
không thừa nhận Quốc Tổ Hùng Vương. Khi lên làm Tổng Thống, Diệm liền
hủy bỏ Ngày Nghỉ Lễ Giỗ Tổ hàng năm, và cấm không cho tổ chức công
khai Giỗ Tổ Hùng Vương.
Không công nhận Quốc Tổ Hùng Vương thì Diệm chính là tên Phản Quốc…
chứ còn gì nữa?!
5.- Điều tối quan trọng nữa là, khi tuyên bố thành lập Nền Cộng Hoà,
Diệm hủy bỏ và thay thế toàn bộ luật lệ do Thực Dân Pháp và Bảo Đại để
lại. Điều này rất đúng. Nhưng Diệm lại cố ý giữ lại “Dụ Số 10” một
cách bất hợp pháp! Chỉ vì “Dụ Số 10” cho phép ông ta Độc Tôn “Tôn
Giáo” (công nhận chỉ có Thiên Chúa Giáo); và Độc Tôn “Đảng Phái” (công
nhận chỉ có Đảng Cần Lao).
Hỏi có tên nào Đại Gian Manh Quỷ Quyệt như Ngô Đình Diệm? Kẻ nào Phản
Quốc hơn Diệm (chối bỏ Tổ Tiên)? Tội của hắn đáng chết cả trăm ngàn
lần. Và cũng xin đừng đổ tội cho Ngô Đình Nhu hay các cấp dưới quyền:
Chính ông Diệm mới là Tổng Thống, và dĩ nhiên ông ta phải chịu hoàn
toàn trách nhiệm trước lịch sử và dân tộc!
Bởi vậy, bây giờ kẻ nào còn tôn vinh tên Đại Phản Quốc Ngô Đình Diệm
tức là đã nhận giặc làm cha rồi vậy. Xin lỗi!
Bao lâu vấn nạn “Cần Lao” ở Hải Ngoại này biến mất thì may ra Người
Quốc Gia chúng ta mới tạo được Sự Đoàn Kết Quốc Gia, Đoàn Kết Dân Tộc.

B. Ai Mới Thực Sự Là Kẻ Đã Làm Cho Mất Nước?
1.- Có phải Phật Giáo đã làm cho mất nước hay không? Xin hãy nhìn cho
kỹ:
a) Suốt hai chế độ Đệ I và đệ II VNCH đều do Người Công Giáo lãnh đạo.
(Cả ông Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu đều là người theo đạo Thiên
Chúa Giáo).
b) Cả ba tên gián điệp CS làm Cố Vấn cho cả hai vị Tổng Thống đều nằm
trong Dinh Độc Lập là Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, và Phạm Ngọc Thảo
(Đệ I CH) và cũng đều là Người… Công Giáo.
Như vậy thì các Nhà Sư CS (nếu có), và Giáo Hội PGVNTN là CS (nếu có)
thì cũng không thể nào làm cho mất nước được???
2.- Giáo Hội Phật Giáo VNTN có phải là CS không?
a) Nếu GH/PGVNTN là CS thì bọn Việt Gian CS Hà Nội đã không phí công
sức, tiền của lập ra “Giáo Hội Phật Giáo Quốc Doanh” và lập ra cái gọi
là “Phật Giáo Về Nguồn” ở Hải Ngoại để gây chia rẽ, phá hoại GHPGVNTN.
b) Nếu các Nhà Sư “Ấn Quang” là CS thì tại sao VC lại cô lập Thích Trí
Quang, bỏ tù, biệt giam các Nhà Sư Thích Không Tánh, Thích Thiện Minh,
Ngài Thích Quảng Độ, v.v…?
Và tại sao dưới thời “Mật Vụ Cần Lao Trị” của ông Diệm và cả dưới thời
“Quân Nhân Trị” của ông Thiệu lại không truy tố các Sư CS ra toà án
Mặt Trận theo luật pháp? Điều này cho thấy toàn là chuyện chụp mũ bịa
đặt có ác ý.
2.- Giáo Hội Phật Giáo VNTN có làm lợi cho CS không?
Ở trong nước thì GH/PGVNTN bị cấm hoạt động, các Chùa Chiền bị phong
toả, các hoạt động nhân đạo (cứu lụt, giúp đỡ thương phế binh VNCH)
đều bị cấm chỉ, bắt bớ.
Ở Hải Ngoại thì Chùa nào cũng treo cờ Quốc Gia Vàng 3 Sọc Đỏ. Còn phía
Công Giáo thì sao?
Ở trong nước thì toàn bộ Giáo Hội Công Giáo đều thuộc Quốc Doanh.
Ở Hải Ngoại thì các Nhà Thờ đều tuyệt đối CẤM treo cờ Quốc Gia Vàng 3
Sọc Đỏ. Các Nhà Thờ cũng CẤM làm chánh trị. Nhưng lại tích cực ủng hộ
“Mục Vụ Đô La”, vui mừng đón tiếp các Cha Cố Quốc Doanh từ trong nước
ra quyên góp tiền về vỗ béo bạo quyền VC! Vì làm “Mục Vụ Đô La” là…
làm việc “Nhân Đạo” (sic).
Bởi vậy các con chiên chân chính “chống Cộng” ngày nay bị… một cổ 2
tròng. Rõ ràng Giáo Hội Công Giáo VN đang làm công cụ cho CS. Các Nhà
Thờ VN ở Hải Ngoại phục tùng Vatican, Công Nhận Giáo Hội Quốc Doanh
VC. (Cấm treo cờ Vàng, cấm làm chánh trị… chống Cộng).
Những Người Công Giáo chân chính chống Cộng ở Hải Ngoại muốn được yên
thân đành phải “gạt nước mắt” không đi Nhà Thờ VN… mà đi Nhà Thờ Mỹ!
Đó là một thực tế phủ phàng!
3.- Phong trào “Phục Hồi Tinh Thần Ngô Đình Diệm” - Các ông là ai?
Sau khi Cuộc Cách Mạng 1/11/1963 thành công, băng đảng Cần Lao cũng
biến mất. Suốt thời Đệ Nhị VNCH, người ta không hề thấy bất cứ Nhà Thờ
nào ở trong nước tổ chức “Giỗ ông Diệm”.
a) Rõ ràng chế độ Đệ I CH đã bị toàn dân Miền Nam oán ghét. Nếu chế độ
đó được lòng dân, thì tại sao lại bị Quân Đội lật đổ một cách quá dễ
dàng chỉ trong vòng 16 tiếng đồng hồ (từ 1:30 trưa 1/11/1963 đến 6 giờ
sáng 2/11/1963) được xem là không đổ máu? Điều này chứng tỏ Quân Đội
đầy lòng nhân từ, chỉ trừng trị vài tên Cần Lao ác ôn đầu sỏ mà thôi.
Nhưng nay suy nghĩ lại, Quân Đội đã nhân từ không đúng chỗ. Cần Lao là
một loại Virus cực độc ăn sâu lặn kỹ. Chỉ chờ có cơ hội là nó ngóc đầu
dậy “phục thù”!
b) Virus Cần Lao núp kỹ trong các Nhà Thờ, được hậu thuẫn của các Cố
Đạo Quốc Doanh ngầm bảo trợ. Phong Trào “Phục Hồi Tinh Thần Ngô Đình
Diệm” xuất phát từ các Nhà Thờ… là một bằng chứng hiển nhiên.
Bởi vậy, những Người Công Giáo lương thiện, thực tâm chống Cộng, yêu
nước, phải chịu mang tiếng oan, bị một số nạn nhân của Cần Lao, phẫn
nộ đồng hoá là… “Cần Lao Công Giáo”.
Lời thật thì mất lòng. Nhưng không nói ra không được.
-Xin lỗi!
Quang Phục Võ Văn Sáu 26/6/2010
Email: GopGi...@yahoo.com

Hoàng-Nam Chú-Thích:
(1) “Thiết tưởng kẻ viết cần trình bày rõ là Quốc Dân Đảng Miền Trung
lúc đầu ủng hộ ông Diệm tích cực. Họ đã lên án Nguyễn Văn Hinh và ủng
hộ ông Diệm để Chống Cộng. Họ đã có Cán Bộ giữ chức vị Tỉnh Trưởng và
Quận Trưởng ở hai Tỉnh lớn Nam Ngãi --Quảng Nam Tỉnh Trưởng Lê Trung
Chi, Quảng Ngãi Phạm Đình Nghị. Phong Trào “Tố Cộng” Ly Khai Cộng Sản,
Xé Đảng Kỳ Cộng Sản, bắt đầu tháng 10/1954 do họ tiên khởi phát động ở
Quảng Nam rồi sau mới lan ra toàn quốc, nhưng Tay Chân Nhà Ngô nhận
định: Nếu để uy thế Quốc Dân Đảng Miền Trung lan tràn thì Phong Trào
Cách Mạng Quốc Gia và Đảng Cần Lao Nhân Vị do Nhà Ngô đẻ ra sẽ tuyệt
địa. Nên ông Diệm bất thần giải chức các Tỉnh Trưởng và bắt giam hàng
loạt các Quận Trưởng --có đảng tịch Quốc Dân Đảng-- ở hai Tỉnh Nam
Ngãi và mật lệnh triệt hạ toàn bộ Quốc Dân Đảng --lại vu cáo Quốc Dân
Đảng theo Pháp. Và, vì cớ ấy, khoảng tháng 3/1955 Quốc Dân Đảng Miền
Trung Lập Chiến Khu để tự vệ và để Quật Khởi Chống Diệm“. (Bất Đắc Dĩ
Khơi Lại Đống Tro Tàn - Gs Lê Nguyên Long).

>  ChinN...@LLTrinh.doc
> 262KViewDownload

Viet MJCer

unread,
Oct 23, 2010, 10:26:41 PM10/23/10
to Xã - Tắc

Nhận Định Về Lịch Sử Không Nên Vì Cảm Tính

1.- Năm 1954, tuy người dân VN phải trải qua một giai đoạn đau thương
vì đất nước bị chia đôi, nhưng Miền Nam đã có một VẬN HỘI MỚI khi ông
Ngô Đình Diệm về “chấp chánh” với sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Hoa Kỳ và
Thế Giới Tự Do.
2.- Việc lật đổ vua Bảo Đại để thành lập nền Cộng Hoà, ly khai khỏi
Người Pháp là rất thuận với lòng dân.
Nhưng thật là đáng tiếc! Ông Diệm và Gia Dình ông đã làm hỏng mất một
cơ hội lịch sử bằng vàng.
Khi lật đổ vua Bảo Đại, thay vì ông Diệm áp dụng đúng “Quyền Dân Tộc
Tự Quyết”, tổ chức Tổng Tuyển Cử Toàn Quốc để thành lập Quốc Hội, và
trao cái quyền lựa chọn chế độ (Việt Nam Cộng Hoà) cho toàn dân (tức
Quốc Hội). Thay vì ông Diệm lại tự phong làm Tổng Thống và đẻ ra luôn…
chế độ Cộng Hoà!?
Ông Diệm “gian lận” khi tổ chức Trưng Cầu Dân Ý. Ông Diệm bắt người
dân phải lựa chọn giữa ông và vua Bảo Đại. Lẽ ra ông Diệm chỉ có quyền
xin ý dân “có nên duy trì chế độ Quân Chủ với nhà vua Bảo Đại, hay nên
thành lập chế độ Cộng Hoà?”
Nếu người dân đồng ý thành lập nền Cộng Hoà (bước 1), lúc đó ông Diệm
mới tổ chức Tổng Tuyển Cử bầu Quốc Hội Lập Hiến (bước 2). Chính Quốc
Hội Lập hiến sẽ soạn thảo Hiến Pháp, và ra luật bầu cử Tổng Thống
(bước 3).
Nếu muốn làm Tổng Thống, ông Diệm cùng nhiều người khác ra tranh cử
(bước 4). Như vậy mới là HỢP PHÁP:
Chính Hiến Pháp đã đẻ ra Tổng thống.
3.- Căn cứ vào tiến trình “Dân Chủ Hoá” từng bước như trên, ông Diệm
đã gian manh qua mặt toàn dân:
Tự vẽ bùa mình đeo!
a)- Áp đặt, bắt người dân phải lựa chọn giữa ông ta và vua Bảo Đại, và
cũng không cho Vua Bảo Đại trở về nước để biện minh cho những cáo buộc
của ông Diệm về ông (thiếu dân chủ, mất công bằng).
b)- Thay vì, ông Diệm phải nhận chức vụ “Quốc Trưởng” theo đúng nội
dung của cuộc “Trưng Cầu Dân Ý”; đàng này ông Diệm lại nhập nhằng chơi
trò đánh lận con đen, thay vì nhận chức Quốc Trưởng, ông ta lại “Tự
Phong” làm Tổng Thống và thành lập nền Cộng Hoà.” Như vậy tức là ông
Diệm đã đẻ ra Hiến Pháp và nền Cộng Hoà! Như vậy là BẤT HỢP PHÁP!
Ai bầu cho ông Diệm làm Tổng Thống và ai cho phép ông thành lập nền
Cộng Hoà hồi nào?!
4.- Người ta nói làm chánh trị thì phải có “thủ đoạn”. Chúng tôi “tạm”
đồng ý về các thủ đoạn của ông Diệm đã áp dụng để nắm lấy quyền bính.
Nhưng câu hỏi được đặt ra là: Cái Quyền bính mà ông Diệm chiếm được
đó sẽ phục vụ cho ai?
Chúng ta đã có câu trả lời: Ông Diệm chỉ phục vụ cho gia đình ông, bè
Đảng Cần Lao của ông; đồng thời phục vụ cho ý đồ của Vatican (Công
giáo hoá Miền Nam); thay vì phục vụ cho quyền lợi tối thượng của Quốc
gia và Dân tộc!
Về nguyên lý chánh trị: Một khi lật đổ một chế đồ nào đó mà người ta
cho là XẤU, thì đương nhiên người ta phải thay thế vào đó bằng một chế
độ mới TỐT đẹp hơn. Thí dụ như Quân Đội lật đổ nền Đệ I CH với bản
Hiến pháp y chang Hiến pháp CS Hànội, chỉ có độc viện Dân Biểu và
không có Tối Cao Pháp Viện; thay vào đó nền Đệ Nhị CH với một bản Hiến
pháp mới có Lưỡng Viện Quốc Hội, Tối Cao Pháp Viện và Giám Sát Viện.
Đó mới gọi là làm Cách Mạng.
a)- Nhưng ngược lại, ông Diệm lật đổ vua Bảo Đại Phong Kiến; ông ta
lại thay vào đó bằng chế độ độc tài Cần Lao gia đình trị vô cùng khắc
nghiệt! Ông ta đã cố tình duy trì Dụ Số 10 của vua Bảo Đại (thay vì
thay thế bằng một đạo luật mới) cho phép ông ta duy trì độc tôn Thiên
Chúa Giáo và độc tôn Đảng Cần Lao, gia đình ông tha hồ tham nhũng, tha
hồ đàn áp nhân dân như đã thấy!
b)- Những ai lý luận cho rằng dưới thời ông Diệm cuộc sống tự do, ấm
no, sung sướng hơn Miền Bắc… là luận điệu rất ấu trĩ và ngu dốt. Dưới
chế độ Diệm người dân không bao giờ có được 2 chữ TỰ DO khi phải “Suy
Tôn Ngô Tổng Thống” và bị kềm kẹp bởi Dụ Số 10 phi dân chủ, bất hợp
pháp.
Có khi nào quý vị ấy nghĩ rằng: Nếu nhà Ngô không độc tài sắt máu;
nếu Nhà Ngô không tham nhũng, thâu tóm toàn bộ nền kinh tế quốc dân
vào trong tay Gia Dình và Đảng Cần Lao… thì người dân Miền Nam lẽ ra
đã được hưởng một nền tự do hạnh phúc gấp 10 lần như thế hay không?!
Cái quý nhứt của con người là Tự Do. Vì có Tự Do là có tất cả. Nhưng
Gia Dình ông Diệm đã cướp mất cái TỰ DO cao quý nhứt của người dân
rồi, thì còn gì nữa để mà nói?!
Điều chúng tôi có thể khẳng định rằng: Nếu không phải Diệm, một kẻ
cuồng tín Công Giáo (chỉ chấp nhận có Công giáo), một tên chối bỏ Tổ
Tiên (không công nhận Quốc Tổ Hùng Vương), một tên tay sai Vatican
(định Công Giáo Hoá Miền Nam và bắt tay CS đuổi Mỹ)… mà là một vị Nhân
Sĩ nào khác, làm Thủ Tướng thay Diệm năm 1954, thì VẬN HỘI MỚI của
Miền Nam đã sớm trở thành hiện thực. Bởi vì ông Diệm đã có một cơ hội
thuận lợi từ năm 1955-1959 đầy ổn định, Miền Nam được Hoa Kỳ và Thế
Giới Tự Do viện trợ ào ạt, trong khi CS bận lo tiếp thu và tái thiết
Miền Bắc, chưa có thời gian để “chiếu cố” tới Miền Nam. Và rồi lịch sử
VN có lẽ đã rẽ sang một lối khác tốt đẹp hơn (như Nam Hàn, Đài Loan
vẫn tồn tại), thay vì phải trả một cái giá quá đau thương vào năm
1975!?
Chính chế độ Diệm và Vatican, đã làm cho Miền Nam mất đi một Vận Hội
Mới, một cơ hội bằng vàng nói trên. Bao nhiêu tiền viện trợ vô điều
kiện của Hoa Kỳ và Thế Giới Tự Do đổ vào Miền Nam, nhưng một phần lớn
đã chui vào túi riêng của Giòng Họ Ngô Đình và bè lũ Đảng Cần Lao!
Như vậy vẫn chưa đủ. Nhà Ngô còn manh tâm toa rập với Vatican âm mưu
đem dâng nốt Miền Nam cho CS năm 1963.
Về Chuyện Thần Thánh Hoá Lãnh Tụ.
Nhân vật lịch sử "Ngô Đình Diệm" dù cho quý đấng nô tài Cần Lao có tô
son trát phấn "Tổng Thống Anh Minh" bao nhiêu năm trời... thì bây giờ
lớp son phấn đó cũng đã bị lịch sử bóc trần trở thành một nhân vật tối
mò mò... như đêm ba mươi.
Khi nhận định về lịch sử không nên dùng cảm tính, kiểu đám thần dân
của tên tội đồ Việt Gian Hồ Chí Minh. Cái gì gọi là "bác Hồ kính yêu";
cái gì là "Cha Già Dân Tộc"; nào là bác hy sinh vì nước, suốt đời sống
độc thân (không cần đàn bà để giải quyết sinh lý)... (sic) bây giờ
cũng đã phơi bày ra hắn một tên đạo đức giả, quỷ râu xanh, hiếp dâm
trẻ em và giết vợ, lại thêm cái tội phản quốc bán nước!
1/- Đám nô tài Cần Lao cũng bắt chước Vẹm thần thánh hoá lãnh tụ của
mình: "Cụ" cũng "ai bao năm từng lê gót nơi quê người..."; cũng sống
độc thân như cáo già Hồ Chí Minh. Nhưng rõ ràng tên cáo già Hồ Chí
Minh thì qua Pháp, qua Tàu, qua Nga... để học tập làm tay sai bán nước
cho Đế Quốc Thực Dân Đỏ CS; còn Ngô Đình Diệm thì lê gót... tới Mỹ,
được Hồng Y Spellman dạy dỗ học tập làm tay sai bán nước cho Đế Quốc
Thực Dân Đen Vatican.
Cả hai có khác gì nhau đâu!?
2/- Còn cái huyền thoại "Tổng Thống Anh Minh sống độc thân" (cũng
không cần đàn bà...) thì ta cần phải xem xét lại:
Thiết nghĩ, ông Diệm đã có cô em dâu xinh đẹp, nóng bỏng… Trần Lệ Xuân
ở ngay trong Dinh Độc Lập, ngày đêm gần gũi săn sóc tận tình... thì
cần gì phải lấy vợ làm chi nữa chứ? Vả lại, Tổng Thống Anh Minh vốn
tính hay cả thẹn không thích đàn bà con gái tới gần. Nếu không có Cô
Em Dâu thì lấy ai săn sóc cho người đây?! Phải không nào?
Hơn nữa, Cô Em Dâu đã được vinh dự phong làm "Đệ Nhứt Phu Nhân" (First
Laddy), cả Thế Giới và riêng Tổng Thống Anh Minh Diệm cũng đã mặc
nhiên "thừa nhận" rồi! Như vậy thì dẫu Tổng Thống Anh Minh có muốn lấy
vợ cũng không được nữa! Kẹt lắm!
Xin đừng có ai nghĩ bậy cho rằng tôi xuyên tạc. Tôi thấy sao nói vậy,
chứ không có ý nghĩ tầm bậy tầm bạ... vu khống Chí Sĩ Anh Minh của quý
vị loạn luân với Cô Em Đâu nha!?
Quang Phục Võ Văn Sáu 10/7/2010
Email: GopGi...@yahoo.com

> Ở Hải Ngoại thì các Nhà Thờ đều ...
>
> read more »

Viet MJCer

unread,
Oct 25, 2010, 2:19:26 PM10/25/10
to Xã - Tắc

Một Điển Hình Tàn Ác Của Nhà Ngô

Ngày 5/10/1963, chiếc Hải Vận Hạm Hàn Giang HQ-401 do Hạm trưởng HQ
Đại úy Nguyễn Văn Hớn và Hạm phó HQ Trung uý Lê Thành Uyển chỉ huy,
rời cảng Sài Gòn lên đường ra Côn Sơn, trên tàu có chở theo 216 Tù
Nhân Chánh Trị trong vụ Đảo Chánh hụt 11/11/1960. Về phía Quân đội
chúng tôi thấy có một số Chiến sĩ Dù như: Th/tá Phan Trọng Chinh, Tr/
úy Nguyễn Vũ Từ Thức, Tr/úy Nguyễn Bá Mạnh Hùng, Đ/úy Nguyễn Văn Thừa,
Đ/úy Nguyễn Thành Chẩn… Còn phía Dân sự có: cụ Phan Khắc Sửu, Bác sĩ
Phan Quang Đán, ông Vũ Hồng Khanh, ông Bùi Lượng, ông Phan Bá Cầm,
Giáo sư Trần Tương, Võ sư Phạm Lợi…
Vào khoảng nửa đêm bỗng có một chiếc máy bay lạ xuất hiện bay vòng
trên đầu Chiến Hạm và chiếu đèn pha xuống tàu. Hạm trưởng bèn ra lệnh
báo động phòng không. Nhưng máy bay lạ chỉ bay vòng có 2 lần rồi bay
luôn.
Sau ngày 1/11/1963 có một số anh em Quân đội trong vụ 11/11/1960 chạy
thoát qua Nam Vang, đứng đầu là Đại tá Nguyễn Chánh Thi, trong đó có
Đại úy Phi công Huỳnh Minh Đuờng trở về Sàigòn. Đại úy Phi công Huỳnh
Minh Đường mới tiết lộ cho biết, ngày 5/10/1963, Phủ Tổng Thống chỉ
thị cho cấp trên của ông, trao cho ông một Bức Mật Thư bảo đưa lại cho
tôi, dặn khi nào máy bay cất cánh hãy mở ra đọc.
Khi bay lên xong, ông mở ra thì đó là lịnh phải ném bom chiếc tàu
HQ-401 đang trên đường ra Côn Sơn. Thi hành xong sẽ được thưởng MỘT
TRIỆU đồng và thăng một cấp. Nhưng khi ông bay vòng trên đầu Chiến Hạm
thấy chở toàn tù… anh biết ngay đó là các anh em Nhảy Dù và các Nhà
Chánh Trị vừa bị kêu án. Nên ông quyết định không ném bom, trở về thì
cũng chết nên ông quyết định bay thẳng qua Nam Vang xin tị nạn.
Sau 1975, Đại uý Huỳnh Minh Đuờng (đúng ra là Huỳnh Ngọc Đường) định
cư tại thành phố Seattle cùng với vợ và 2 con. Ông mất vào khoảng năm
2001.
Giáo sư Trần Tương thuật lại vụ này phần đầu trong sách Biến Cố
11/11/1960 của ông. Có điều ông ghi nhầm, thay vì HQ-401 ông ghi là
HQ-403.
Qua chuyện này chúng ta càng thấy rõ bộ mặt đạo đức giả đáng ghê tởm
của bè lũ Cần Lao Nhà Ngô, thật vô cùng tàn ác dã man còn hơn cả loài
súc vật. Đã bỏ tù các Chiến Sĩ Dù và các Nhà Chánh Trị đối lập, đày ra
Côn Đảo… nhưng vẫn chưa thoả lòng, còn cho Phi Công thả bom đánh chìm
tàu Hải Quân Việt Nam, giết các Tù Chánh Trị và giết luôn cả Thủy Thủ
Đoàn HQ-401, trong đó có chính tôi (Võ Văn Sáu) lúc đó đang phục vụ
trên HQ-401 dưới quyền của Hạm trưởng Nguyễn Văn Hớn (ông Hớn hiện ở
Oregon).
Có lẽ Nhà Ngô định đổ tội cho “Phi Cơ Lạ” đã đánh chìm tàu HQ-401. Phi
Cơ Lạ đó có thể là của Cam Bốt hay Cộng Sản, và ai nữa? Không Quân Mỹ
chăng? Với Chủ Đích gì?
Quang Phục Võ Văn Sáu 14/10/2010
Email: GopGi...@yahoo.com

>                                  Email: GopGioN...@yahoo.com


>
> On Oct 20, 9:39 am, Viet MJCer <vmj...@gmail.com> wrote:
>
> >                Xin  Đừng  Tiếp  Tục  Lừa  Dối  Lịch  Sử
>
> > Từ
>

> ...
>
> read more »

Message has been deleted

Viet MJCer

unread,
Oct 26, 2010, 2:47:53 PM10/26/10
to Xã - Tắc
Thư Của Ông Võ Như Nguyện Gửi Cho Ông Hoàng Đồng Tiếu

Pau ngày 24-11-1977

... Như Bác đã biết, tôi đã viết tập “Thế Nước Lòng Dân” năm 1956-57
mà anh em đã đệ trình Cụ Ngô và anh em đã ca ngợi tôi can đảm và nói
thẳng công và tội của Cần Lao, của Phong Trào, của Tập Đoàn Công Dân
v.v... Rồi năm 1957, như anh đã đọc tập thứ hai “Điều trần về các tổ
chức có thể nguy hại đến chính thể Cộng Hòa Việt Nam”, tập này chỉ
đánh máy có 6 bản gởi cho 5 anh em nhà họ Ngô. Tập này ký tên 30 người
có cha Khai, Hay, Thọ, cả ông Lễ v.v... Tập này không phổ biến vì nói
đến những tệ đoan lớn của ông Cẩn và Tập Đoàn Công Dân và các vị Linh
Mục, bà Nhu v.v... Không công khai như tôi đã trình Bác lúc đó vì có
hại là để cho Cộng Sản khai thác.
... Năm 1963, như Bác rõ hơn ai hết, tôi ra Lời Tuyên Ngôn tại Huế và
bị ông Cẩn ra lệnh bỏ tù. Tôi có theo Phật Giáo đâu, mặc dù trong khi
Tập Đoàn Công Dân của ông Cẩn mạnh, tôi từ chức ngang xương Tỉnh
Trưởng Bình Định và đem cả gia đình, họ hàng quy y liền để cho ông Cẩn
thấy. Tôi đã từng phá cửa ngỏ nhà ông Cẩn để vào nhà, đã từng đánh đập
gia nô ông Cẩn trước mặt ông Cẩn và bảo rằng vào nhà này thêm nhục nhã
vì vào đây không phải để mà đóng góp thật sự việc nước. Ông Cẩn lập hồ
sơ Bác và tôi là Gián Điệp Pháp, cả Duyến nữa, bắt thằng Quế khai là
bọn mình và thằng Thá gì đó (thằng nhà giàu ở đường Trần Hưng Đạo) đã
liên lạc với tụi Tây... Ông Cẩn đã bắt giam Bác, cho người đến ám hại
tôi... Bác Tiếu ơi, Bác rõ chuyện ấy hơn ai hết.
Tháng 9 hay 10 năm 1963, ông Cụ Ngô về Huế cho gọi tôi lúc 4 giờ
chiều. Hai Cụ Cháu ngồi tâm sự với nhau cho đến 10 giờ tối. Hôm ấy Tùy
Viên là Đại Úy Lê Châu Lộc đứng hầu sau lưng Cụ. (Hiện bây giờ Lê Châu
Lộc ở Mỹ). Lê Châu Lộc đã nghe được câu chuyện giữa hai Cụ Cháu tôi.
Lê Châu Lộc lúc tiễn tôi ra cửa, hơn 10 giờ tối rồi có nói với tôi lần
thứ nhất mà Lộc được nghe câu chuyện giá trị như vậy.
Hôm đó ông Cụ kể lại chuyện xưa, nhắc lại mấy tập tôi đệ trình Cụ, đề
cập đến quyển “Con Đường Giải Thoát” của tôi, Phật Giáo, Công Giáo,
chuyện trong Gia Đình và chuyện Người Mỹ... Tóm tắt Cụ nói: Chú Cẩn
và Thím Nhu có nhiều lỗi lầm, các vị Linh Mục và cả Đức Cha nữa cũng
lầm lỡ, nhưng Nguyện là nho học, Nguyện có biết câu “Gia Nan Thiện Hạ
Dị” không? “Chuyện nhà là vậy, khó giải quyết mau, để lần lần sửa
chữa, nếu gấp, mau sẽ lâm vào cảnh “Bì Oa Trữ Nhục” của Nguyễn Nhạc,
Huệ, Lữ, tôi biết cả và cũng vì bọn làm việc chung quanh cái gì cũng
chạy đến thưa trình với Chú Cẩn, Chú Thím Nhu, Đức Cha. Tôi đã từng la
rầy họ chỉ có một Tổng Thống thôi như Nguyện đã biết. Cụ lại nói rằng
hiện đang bị khó dễ với Mỹ vì Mỹ muốn đem Quân Đội sang. Nếu Quân Mỹ
sang thì mình mất chính nghĩa, tạo đường tuyên truyền thuận lợi cho
Cộng Sản. Mỹ đưa Cố Vấn là đã quá rồi. Tôi sẽ không chấp nhận, dân ta
có đủ quân lính để đánh Cộng Sản. Mỹ chỉ giúp khí giới, phương tiện là
thắng. Ngoài Bắc, Nga-Tàu nó giúp Cộng Sản mà nó có đưa quân qua đâu?
Mỹ cũng muốn giao cho họ Hải Cảng và Phi Cảng, tôi có trả lời giao và
không giao cũng như nhau, trong vấn đề Chống Cộng thì dùng chung. Họ
không bằng lòng, chắc là sẽ xảy ra nhiều chuyện không hay. Vả lại tôi
và Chú Nhu có ý dù hai Miền Quốc-Cộng tranh chấp nhưng đều máu mủ ruột
thịt, phải có biện pháp anh em giải quyết lấy chiến tranh, đỡ tốn hao
sinh mạng, tài sản rồi bên nào kéo dài chung quy sẽ bị lệ thuộc vào
một cường quốc và đất nước chia rẽ vì các cường quốc có ý định chia rẽ
cả”.
Võ Như
Nguyện

Tiểu sử ông Võ Như Nguyện:
-Giám Đốc Công An Trung Việt 1954.
-Tỉnh Trưởng Bình Định 1955.
-Giáo Sư Hán Học, Đại Học Huế từ 1959.
-Chiến Hữu của Tổng Thống Diệm từ năm 1940.
-Đã từng được Nhà Ngô nhờ đóng vai Trưởng Nam trong đám tang ông Ngô
Đình Khôi.

= * =

Cước-Chú của Hoàng-Nam:
Quý Vị có thể đọc thêm tài liệu qua links bên dưới:

TT Ngô Đình Diệm:
“…Cho nên hôm nay, tạm gác một bên những khác-biệt giữa lời khen ở
phía nọ với tiếng chê ở phía kia, tôi xin bắt đầu đi tìm gốc-gác đích-
thực của cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm, vì tôi không chấp-nhận có một
tổng-thống mà tiểu-sử không rõ-ràng.” (Lê Xuân Nhuận).
http://LeXuanNhuan.tripod.com/NgoDinhDiem.html

Chủ Nghĩa Nhân Vị Và Đảng Cần Lao:
…Tại sao lại có tình trạng biến thể từ “Cần Lao Nhân Vị” ra “Cần Lao
Công giáo” đó? Theo dõi tiến trình hình thành của Đảng Cần Lao, ta
thấy gồm 3 giai đoạn: …
http://sachhiem.net/HOANHLINH/VNML8.php

Chế Độ Thiệu: Chế Độ Diệm Không Diệm:
…Sự cấu kết giữa “Kẻ cắp” Nguyễn Văn Thiệu và “Bà già” Công giáo đã
biến chế độ Đệ Nhị Cộng Hòa thành ra chế độ Diệm không Diệm. Việc ra
đời cuốn sách “Làm Thế Nào Để Giết Một Tổng Thống” của Cao Thế Dung
vào năm 1970, và việc ra đời cái tổ chức gọi là “Phong Trào Phục Hồi
Tinh Thần Ngô Đình Diệm” của khối Công Giáo mà Thiệu đã âm thầm chủ
xướng, càng tô đậm thêm cái căn cước thật sự của chế độ Thiệu là một
chế độ Diệm không Diệm…
http://sachhiem.net/HOANHLINH/VNML19.php

>                                  Email: GopGioN...@yahoo.com

> ...
>
> read more »

Viet MJCer

unread,
Oct 29, 2010, 3:37:58 PM10/29/10
to Xã - Tắc

Đệ I VNCH Tổng Thống Ngô Đình Diệm Và Quân Đội Mỹ

Mỗi năm cứ vào khoảng đầu tháng 11 thì lại thấy xuất hiện trên báo chí
hải ngoại một số bài viết về biến cố lịch sử 1/11/1963. Hiển nhiên,
ngày này đánh dấu một khúc quanh quan-trọng của lịch-sử Việt-Nam (VN)
cận đại. Trong khi đa số những ngày lịch sử khác thường được nhắc đến
để xây dựng tình yêu nước (ngày giỗ tổ Hùng Vương, Hai Bà Trưng, v.v.)
thì ngày 1/11/1963 được nhắc đến để làm hiện rõ cái hố chia rẽ triền
miên giữa những người theo “Ngô Chí Sĩ” và những người chống “Gia Đình
Trị”.
Phân tích nguyên nhân của ngày lịch sử này, do đó, đã luôn luôn là một
tiến trình phân chia giới nghiên cứu chính trị VN làm hai phe đối
nghịch. Một cách tổng quát, phe này nói nguyên nhân đến từ lòng dân
quá chán ghét chế độ Ngô Đình Diệm dùng Cần Lao Công Giáo để áp đặt
một chế độ độc tài Gia Đình Trị và phe kia nói nguyên nhân đến từ thái
độ yêu nước của Tổng Thống Ngô Đình Diệm chống chiến lược đổ thêm quân
của người Mỹ nên bị họ tổ chức lật đổ.
Vì vậy bài này sẽ gồm phần thứ nhất nói ngắn gọn về yếu tố VN của
nguyên nhân “chế độ mất lòng dân” rất rõ ràng không cần phải giải
thích nhiều. Phần thứ hai phải nói dài hơn về yếu tố ngoại bang vì đây
là nỗi đau nhức của những người “ủng hộ tinh thần Ngô Đình Diệm” mà
bài này, cố gắng chứng minh rõ rệt một lần cuối cùng, giúp họ thấy
được sự thật là ông Diệm chẳng những đã không chống mà còn xin thêm
quân ngoại bang vào VN. Để cho mỗi năm đến tháng 11, họ không phải vi
phạm vào Điều Răn Thứ Chín của Chúa: “Con không được làm chứng dối
chống lại đồng loại. (Xh 20, 16)... Nhưng hễ có thì phải nói có, không
thì phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ. (Mt, 33)”.
Hãy bắt đầu bằng yếu tố VN qua bốn lãnh vực:

1. Quần Chúng.
Sự ủng hộ của nhân dân dĩ nhiên là chủ yếu để chính quyền được tồn
tại. Trong một chế độ dân chủ, thật hay giả, sự ủng hộ này có thể phân
biệt được là tự phát hoặc ép buộc qua những cuộc bầu cử. Theo bài
giảng “Luật Hiến Pháp và Chính Trị Học” cho sinh-viên năm thứ nhất
Luật khoa của Giáo sư Nguyễn Văn Bông, trong Cuộc Trưng Cầu Dân Ý
tháng 10/1955 để ông Diệm được lên làm Quốc trưởng, kết quả có
5,721,735 phiếu thuận (hơn 98%) trong tổng số 5,828,907 người dân đi
bầu. Tháng 4/1961, trong cuộc bầu cử Tổng Thống nhiệm kỳ hai, ông Diệm
không chứng tỏ là một học trò giỏi về thực tế của khái niệm dân chủ đã
thắng với tỷ số 89% (5,997,972 trên tổng số 6,723,720). Hai kết quả
này thua 100% của ông Sadam Hussein không xa bao nhiêu. Nếu những
người “ủng Hộ Tinh Thần Ngô Đình Diệm” không đỏ mặt khi đọc hai kết
quả bầu cử này thì họ không nên và không cần đọc tiếp bài nầy nữa.

2. Thành Phần Chính Trị.
Gồm các lực lượng đối lập và ủng hộ chính quyền. Trong lực lượng ủng
hộ, Đảng Cần Lao độc quyền tổ chức bao trùm cả hai môi trường dân sự
và quân sự trên toàn quốc làm cho tính độc tài của chế độ trở nên
không thể chối cãi như tình trạng độc đảng của các chế độ Cộng sản. Ai
cũng biết không có đối lập thật sự thì không thể có dân chủ thực sự.
Vì vậy mà trong lực lượng đối lập, hai trường hợp tiêu biểu là ông
Nhất Linh của Việt Nam Quốc Dân Đảng đã phải uống thuốc độc tự tử, và
ông Nguyễn Bảo Toàn của lực lượng Hòa Hảo đã bị chính quyền thủ tiêu
(chi tiết trong sách “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi” của Hoành Linh
Đỗ Mậu, 1986) là những dấu chỉ của một chính sách đàn áp đảng phái tàn
bạo như các Cuộc Thánh Chiến của các Giáo Hoàng Gia-Tô La Mã.

3. Thành Phần Tôn Giáo.
Về phương diện pháp lý, chính quyền ông Diệm đã độc lập được 9 năm mà
vẫn giữ nguyên Đạo Dụ Số 10 của thực dân Tây để lại coi Phật giáo như
một hội đá banh. Vì vậy mà một trong 5 nguyện vọng của Phật giáo gửi
cho chính phủ Diệm trong tháng 5/1963 là “được bình quyền với Ki-tô
giáo”. Một đạo mang niềm tin của gần 90% dân mà lại xin được bình
quyền với một đạo của gần 10% dân! Về thực tế, sự kiện đạo của thiểu
số Ki-tô là Tôn Giáo duy nhất (gồm hai nhánh Gia-tô La mã và Tin Lành)
có tuyên úy trong quân-đội đã đủ để nói về chính sách đàn áp Tôn Giáo
của “Ngô Chí Sĩ”.

4. Thành Phần Quân Đội.
Quân đội VNCH có gốc rể từ quân đội Pháp. Đại đa số những sĩ quan lãnh
đạo đều đã có kinh nghiệm với chế độ thuộc địa. Những kinh nghiệm này
cọng với truyền thống kỷ luật của quân đội mà họ đã theo đuổi từ thời
trai trẻ đã tạo trong họ một trống vắng về ý thức chính trị sâu sắc.
Do đó, những hành động, phản ứng hay quyết định của họ có tính cách
bản năng, nặng về cảm tính và chú trọng đến hiệu quả thực tiễn. Điều
này được chứng nghiệm năm 1954 qua sự ủng hộ vô điều kiện của họ đối
với chính khách Ngô Đình Diệm, sự đối kháng của họ đối với thực dân
Pháp và sự ly khai của họ đối với Cộng sản tính của lực lượng Việt
Minh. Chín năm sau, quân đội đã thấy rất rõ, từ vị thế quân nhân của
họ, sự thiếu hiệu quả của chế độ qua sự tăng trưởng của Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam, sự phản bội của một chế độ chống Cộng mà đi đêm với
Cộng (cũng như những tờ báo Bolsa hiện nay hô hào chống Cộng mà vẫn
đăng quảng cáo gửi tiền về VN). Và bản năng của quân đội đã bùng vỡ
khi vợ con, bạn bè họ bải khóa, đi biểu tình trên toàn quốc trong mùa
Hè năm 1963.
Trong khuôn khổ yếu tố VN, kết quả của tình trạng chín mùi này là
người quân nhân trong một lực lượng đã chuẩn bị, chỉ cần 24 tiếng đồng
hồ để lật đổ một chính quyền mà họ thấy rõ là không còn giá trị, một
chính quyền đã mất lòng dân. Nếu nói rằng một ông Đại Tá lật đổ chính
phủ vì không được lên Tướng thì vừa coi thường chính phủ đó vừa coi
thường quân đội đó. Phải nhìn thấy sự kháng cự duy nhất và rất ngắn
ngủi của Lữ đoàn Phòng vệ Phủ Tổng Thống và sự im lặng tuyệt đối của
đảng Cần lao, Thanh niên/nữ Cộng hòa, Công an, Cảnh sát, ... trên toàn
miền Nam trong ngày 1/11/1963 mới thấy được sự quan trọng của yếu tố
lòng dân trong khi phân tích nguyên nhân của ngày lịch sử này.
Bên cạnh yếu tố VN, yếu tố ngoại bang trở nên tương đối đơn giản và
khẳng định hơn vì nhân chứng và tài liệu thì đầy đủ và dễ phối kiểm
và, do đó, giúp chúng ta có thể suy luận một cách khách quan hơn.
Những tài liệu, sách báo, hồi ký xuất bản từ năm 1963 ở Mỹ đã cho thấy
rõ ràng mối liên hệ chặt chẽ giữa nước này và ông Diệm. Trong một bài,
đã được đăng trên nhật báo Người Việt ở Westminster, California ngày 9
tháng 11/1996, tác giả Lương Minh Sơn đã đúc kết các chứng liệu ngoại
quốc để trình bày một cách súc tích và chính xác sự đúng chỗ, đúng lúc
và đúng người của ông Diệm khi ông được chính quyền Mỹ và Vatican đưa
về VN.
Trong khuôn khổ của bài nầy, vấn đề chỉ cần giới hạn trong câu hỏi:
Tại sao người Mỹ đưa ông Diệm về năm 1954 rồi 9 năm sau lại muốn lật
đổ?
Có phải ý của người Mỹ đã thay đổi? Câu trả lời, trong trường hợp VN,
tất nhiên là: Không. Vì từ 1954 đến 1963, người Mỹ chỉ có một ý là
chống Cộng sản. (Thật ra thì chính sách đối ngoại của Mỹ đặt cơ sở
trên sách lược ngăn chận Cộng sản đã bắt đầu từ bài báo năm 1947 của
George Kennan cho đến 1989 khi Nga Sô-viết sụp đổ và Trung Cộng bắt
đầu chạy theo kinh tế thị trường). Mục tiêu không thay đổi thì có thể
là đường lối đã thay đổi. Đây là chỗ đưa đến lập luận sở đắc của những
người mang “Tinh Thần Ngô Đình Diệm”: “Đồng minh Mỹ trở nên đế quốc,
muốn đem quân chiến đấu vào để thao túng chủ quyền của VN mà chống
Cộng theo kiểu Mỹ, Tổng Thống Diệm muốn bảo toàn độc lập quốc gia nên
chống lại âm mưu này và đã phải trả giá bằng chính mạng sống và chính
quyền của ông.”
Bằng lý luận chính trị, lập luận này không đứng vững trong bối cảnh
của nước Mỹ có một Tổng Thống bị thất bại nặng nề ngay từ đầu nhiệm kỳ
trong phiêu lưu quân sự ở Vịnh Con Heo (tháng 4/1961) để mưu lật đổ
Fidel Castro của Cuba. Ông Kennedy dĩ nhiên là không muốn phiêu lưu
vào một thất bại lật đổ Ngô Đình Diệm ở một xứ VN xa xôi vào cuối
nhiệm kỳ (tháng 11/1963) khi cuộc chuẩn bị bầu cử cho nhiệm kỳ hai đã
bắt đầu.
Cụ thể hơn, bài này sẽ chứng minh ông Diệm chẳng những không chống mà
còn xin thêm quân Mỹ và Tàu Đài Loan (vâng, quân Tàu, kẻ thù truyền
kiếp của dân tộc Việt) đổ vào VN. Qua tài liệu mật của Bộ Quốc Phòng
Mỹ và tài liệu công khai của Phòng Báo chí Tòa Bạch ốc, lập luận này
lại càng mất thêm giá trị để được xứng đáng gọi là một lập luận chính
trị. Cựu Bộ trưởng McNamara đã dùng tài liệu mật của Bộ Quốc Phòng để
tiết lộ những chi tiết sau đây trong hồi ký “In Retrospect” (Ed.
Random House, NY, 1995) của ông:
1). “(Ngoại Trưởng) Dean Rusk và các cố vấn của ông ta cũng đi đến kết
luận như (của tôi) vậy. Ngày 11/11 (năm 1961) ông ta và tôi, sau khi
suy nghĩ và thảo luận thêm, cùng gửi một văn thư liên bộ (Ngoại Giao
và Quốc Phòng) cho Tổng Thống để can ngăn việc gửi quân chiến đấu sang
VN theo đề nghị của Walt (Rostow) và Tướng Max (Well Taylor)... Chiều
hôm ấy, TT Kennedy đã đem cả hai văn thư đó ra giữa buổi họp tại Tòa
Bạch ốc. Ông nói rõ rằng ông không muốn cam kết một cách vô điều kiện
sẽ giữ cho Miền Nam VN khỏi bị sụp đổ và tuyệt đối không chấp nhận
việc gửi quân tác chiến Mỹ sang VN.” [Tr. 39].
2). Trong bản tường trình mật lên Tổng Thống, sau chuyến viếng thăm VN
(tháng 9/1963), Bộ trưởng McNamara đã có những đề nghị sau đây (trong
an ninh tình báo, những đề nghị mật trong giới lãnh đạo cao cấp loại
này được coi như là những ý định thật của một chính phủ):
“Thành lập một chương trình để huấn luyện người VN đến cuối năm 1965
có thể thay thế quân nhân Mỹ trong các nhiệm vụ thiết yếu. Vào thời
điểm đó, một số lớn nhân viên Mỹ có thể được rút về nước.”...
Theo chương trình huấn luyện (quân đội) VN để từ từ thay thế (quân đội
Mỹ) trong các nhiệm vụ quân sự, Bộ Quốc Phòng nên tuyên bố sớm kế
hoạch đang được chuẩn bị để rút 1,000 quân Mỹ vào cuối năm 1963.” [Tr.
78].
3). Thông báo của Phòng Báo Chí Tòa Bạch ốc ngày 2 tháng 10, 1963:
“Cuối cùng Tổng Thống đồng ý, và Tham vụ Báo chí Pierre Salinger đã
đưa ra bản thông báo sau buổi họp. Bản thông báo này có đoạn như sau:
Bộ trưởng McNamara và Tướng Taylor... báo cáo rằng chương trình huấn
luyện của Mỹ tại VN sẽ tiến triển đến mức 1,000 quân nhân Mỹ đang đóng
tại Nam VN sẽ có thể được rút về vào cuối năm nay.” [Tr. 80].
4). Trong một lá thư được nhật báo The New York Times đăng ngày 14
tháng 9/1995 để trả lời một độc giả, ông McNamara đã tổng kết như sau:
“... Tôi tin rằng các tài liệu đã chứng tỏ là TT Kennedy, chẳng những
đã không trù tính một kế hoạch leo thang nào, mà còn quyết định --và
tuyên bố công khai ngày 2 tháng 10, 1963-- rằng Mỹ dự tính rút quân
đội ra (khỏi VN) vào cuối năm 1965 và bước đầu tiên là rút 1,000
(trong tổng số 16 ngàn quân) vào cuối năm 1963”.
5). Mới nhất là bản tin ngày 23 tháng 12, 1997 của Associated Press
trích từ hồ sơ dày hơn 800 trang của văn phòng Tổng tham mưu Liên quân
Mỹ (Joint Chiefs of Staff) tiết lộ “Tổng Thống Diệm đã dấu diếm những
báo cáo chiến trường cho thấy cuộc chiến đã diễn tiến một cách bất lợi
cho Nam VN” (“Diem had been hiding reports from the field that showed
the war was going badly for the South Vietnamese”). Mặt khác, “vài
tuần trước khi bị ám sát, TT Kennedy đã muốn các lãnh đạo quân sự lập
cho ông một kế hoạch rút quân Mỹ khỏi VN sau cuộc bầu cử 1964” (“weeks
before his assasination President Kennedy wanted his military leaders
to draw up contigency plans for a U.S. withdrawal from Vietnam after
the 1964 presidential election”).
Bên kia những tiết lộ rõ rệt này về ý đồ của người Mỹ thì “Hồ sơ Mật
của Ngũ Giác Đài” (“The Pentagon Papers”, Ed. Bantam Books Inc., 1971)
lại cho thấy chính ông Diệm đã có ý đồ... xin thêm quân tác chiến Mỹ
và Tàu vào VN, từ năm 1961!
“Điện văn của Tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn gửi bộ Ngoại Giao ngày 13 tháng
10, 1961 về những yêu cầu của ông Nguyễn Đình Thuần, Bộ trưởng Quốc
Phòng của Nam VN...

Trong buổi họp ngày 13/10/1961 Thuần đã yêu cầu:
1. Gửi thêm các phi đoàn khu trục AD6...
2. Gửi phi công dân sự Mỹ...
3. Gửi quân Mỹ tác chiến hoặc quân Mỹ “cố vấn tác chiến” cho quân
VNCH. Một phần quân số này sẽ đóng gần vĩ tuyến 17 để quân VNCH được
rảnh tay chống quân du kích ở miền cao nguyên...
4. Xin được biết phản ứng của Mỹ đối với đề nghị (của ông Diệm) xin
Trung Hoa Quốc Gia gửi một sư đoàn quân tác chiến vào khu vực hành
quân ở vùng Tây Nam...

(Bộ trưởng Thuần) nói ông Diệm, dựa trên tình hình Lào, sự xâm nhập
(của quân đội Bắc Việt) và sự lưu tâm của TT Kennedy khi gửi Tướng
Taylor qua thăm VN, đã yêu cầu Mỹ hãy duyệt gấp những yêu cầu
trên.” [Tr. 40].
Tất cả những tài liệu trên đây đã tự nó nói lên hai sự thật đơn giản:
1. Tổng Thống Diệm không thể “chống Mỹ đổ thêm quân”, vì cho đến ngày
lịch sử 1/11/1963 chính quyền Mỹ không có ý đổ thêm quân vào VN mà
ngược lại còn dự tính --và tuyên bố công khai-- sẽ rút quân kể từ cuối
năm 1963.
2. Từ năm 1961, Tổng Thống Diệm đã cầu viện quân ngoại bang (Mỹ và
Tàu) vào VN.
Nguyên nhân của một biến cố lịch sử làm sụp đổ một chế độ dài 9 năm
phải đến từ nhiều yếu tố. Không thể lý luận một cách ngu muội là tất
cả đều do Mỹ và những người chống ông Diệm (từ Nhất Linh đến Thích Trí
Quang) đều bị CIA mua chuộc. Qua những chứng liệu rõ rệt trên đây, một
độc giả thông minh tối thiểu và không cuồng tín vì Tôn Giáo sẽ thấy
nguyên nhân của ngày 1/11/1963 đến từ cả hai yếu tố Bên Trong và Bên
Ngoài VN. Với một người có tinh thần dân tộc thì sẽ nhận ra ngay yếu
tố VN mới là tối quan trọng, yếu tố lòng dân Việt Nam mới là chủ yếu.
Với loại người được truyền giáo để trở thành phi dân tộc và vọng ngoại
thì dĩ nhiên chỉ có thể thấy được yếu tố ngoại bang.
Nếu những người này đã có can đảm đọc đến đây và đã được “mặc khải”
thì xin hãy chôn đi cái huyền thoại TT Diệm “chết vì chống Mỹ” sau khi
đọc điều số 4. “Xin được biết phản ứng của Mỹ đối với đề nghị (của ông
Diệm) xin Trung Hoa Quốc gia gửi một sư đoàn quân tác chiến vào khu
vực hành quân ở vùng Tây Nam...”. Được như vậy, vào tháng 11 mỗi năm,
quý vị hoài Ngô khỏi phải day dứt vì mặc cảm phạm tội mà đi mua nhang
đèn làm lễ tưởng niệm “tinh thần xin-được-biết-phản-ứng-của-Mỹ của Ngô
Chí Sĩ”, và Chúa Ki-tô khỏi phải nhọc công lập lại Điều Răn Thứ Chín.
Ngô Đắc Triết
Montréal

> tổng-thống mà tiểu-sử không rõ-ràng.” (Lê Xuân Nhuận).http://LeXuanNhuan.tripod.com/NgoDinhDiem.html

> ...
>
> read more »

Message has been deleted

Viet MJCer

unread,
Oct 30, 2010, 5:18:24 PM10/30/10
to Xã - Tắc

Ba Tiềm Lực Chống Cộng Vô Giá Của Miền Nam

Bộ Quốc Phòng do Trần Trung Dung, Bộ trưởng Phụ Tá, chủ trương tổ chức
"Đốt Lon Pháp" là một sai lầm, một hành động "trẻ con". Hậu quả là đã
gây nên một "tai họa ngoại giao": Pháp đoạn tuyệt mọi liên hệ về Tình
Báo với chính phủ VNCH. Hàng trăm Cán Bộ Tình Báo của Cộng Sản xâm
nhập vào cả An Ninh Quân Đội, Báo Chí, Cảnh Sát Công An và kể cả Đảng
Cần Lao do hậu quả Pháp đã đem tất cả hồ sơ mật về nước.
Điển hình như nhóm Đông Nam Á Vụ của Cộng Sản về đấu thú Pháp ở Hà Nội
năm 1952. Pháp dùng làm gián điệp đôi; năm 1955 nhóm này đã len lỏi
vào nhiều lãnh vực hoạt động ở Miền Nam, vào cả Ngành An Ninh Tình Báo
của chính phủ Ngô Đình Diệm. Điển hình như nhóm Ca Dao, nhóm Phan Nghị
(Ký Giả) và nhiều nhóm khác trong đó có Phạm Xuân Ẩn --lúc ấy còn là
một Cán Bộ cấp thấp nhưng đã là nhân viên Tình Báo Hai Mang làm cho
Phòng Nhì Pháp từ năm 1950.
Cử Nguyễn Ngọc Lễ làm Tổng Giám Đốc Công An là một sai lầm khác tai
hại nghiêm trọng. Lễ xuất thân Hạ Sĩ Quan Binh Đoàn Pháp, bản chất võ
biền và lỗ mãng. Lễ không biết gì về Tình Báo. Lúc Lễ về tiếp nhận
Tổng Nha thì bao nhiêu hồ sơ mật đã biến mất, một trong mấy tay lành
nghề Tình Báo thì Lễ không dùng, Bùi Văn Nhu vốn là "con cưng" của Mật
Thám và Phòng Nhì Pháp, Nhu được Cộng Sản khéo léo móc nối từ năm 1956
dưới thời Nguyễn Ngọc Lễ. Những tay giỏi nghề từ Miền Bắc vào Nam thì
bị đẩy đi Tỉnh xa hoặc không được dùng. Một lỗ hổng lớn trong Ngành An
Ninh Tình Báo từ lúc Lễ làm Tổng Giám Đốc kéo dài cho đến thời Phạm
Xuân Chiểu, một Tướng Lãnh duy nhất Người Bắc thuộc Quốc Dân Đảng, có
học, con cháu lớp Văn Thân Cách Mạng, nhưng ông Tướng này không chuyên
nghề trong lúc Mặt Trận Tình Báo phải là ưu tiên hàng đầu.
Tình Báo Cộng Sản xâm nhập từ lỗ hổng to lớn trong suốt 3, 4 năm. Đầu
não của Ngân Hàng Việt Nam lại là một ổ Tình Báo Cộng Sản, một tay kế
toán than tín của Nguyễn Cao Thăng là Tình Báo Cộng Sản, 2 tên "nội
dịch" trong văn phòng "Cố Vấn chỉ đạo Miền Trung Ngô Đình Cẩn lại là
Tình Báo sau được đồng hóa làm Trung Sĩ Địa Phương Quân rồi biệt phái
làm cho Tướng Lê Văn Nghiêm lúc ông Nghiêm làm Tư Lệnh Quân Khu I.
Hệ thống phát hành sách báo trước Genève 54, Phòng Nhì Pháp kiểm soát
khá chặt chẽ nhờ "nghệ thuật" phóng tài hóa thu nhân tâm nhưng đầu năm
1955, những tay Cộng Sản làm "Chỉ Điểm Hai Mang" cho Pháp, được rảnh
tay và họ thực sự nắm ngành phát hành cũng như ngành cải lương, từ
soạn giả đến anh kéo màn sân khấu.
Mặt Trận Tình Báo đã mở ra từ sau Genève 54, chính phủ Ngô Đình Diệm
đã bất lực Mặt Trận này cho đến 2, 3 năm sau. Chính vì vậy, chính
quyền đã không biết rõ những ai với cái đuôi dài sau nhóm Nguyễn Hữu
Thọ, Mã Thị Chu, Huỳnh Tấn Phát và Nguyễn Văn Hiếu. Lẽ tự nhiên cái
đuôi sau mấy tay mặt nổi này mới quan trọng.
Huỳnh Văn Trọng trước hết là một đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng gia
nhập Đảng năm 1945 tại Hà Nội, sau bỏ Đảng và làm cho Phòng Phản Gián
Pháp từ năm 1950. Cuối năm 1954, Trọng ở lại Sài Gòn, Cộng Sản móc nối
với Trọng vào thời gian này cũng như Đinh Văn Đệ, Trần Ngọc Châu, Phạm
Ngọc Thảo, đều là Dân Tình Báo được Cộng Sản cài vào chính quyền Miền
Nam một cách tinh vi.
Theo Giới Tình Báo, sau Genève 54, Cộng Sản đã để lại ở Sài Gòn 50
triệu (hối suất lúc ấy là 35 đồng ăn một Mỹ Kim) để tiếp tục gây dựng
cơ sở kinh tài để kinh tài nuôi Tình Báo. Vì sai lầm của Việt Nam Cộng
Hòa đã không thu dụng được giới chỉ điểm Hai Mang và chuyên viên Tình
Báo của Phòng Nhì Pháp nên Cộng Sản nhờ sẳn tiền đã kết nạp được giới
này. Cộng Sản không kết nạp vào Đảng mà đem vào các cơ sở kinh doanh
của Tư Nhân và Đảng qua "tư nhân" góp vốn như hãng tàu chuyên chở
Nguyễn Văn Bửu và kể cả OPV của Nguyễn Cao Thăng sau này, nhất là cơ
sở kinh doanh của nhóm Nguyễn Trung Thành và Ngân Hàng Việt Nam mà
Nguyễn Văn Diệp là điển hình. Diệp đã từng cộng tác với Pháp trước
1954 đồng thời hoạt động cho Cộng Sản.
Một sai lầm khác nghiêm trọng của chính quyền Ngô Đình Diệm là làm mất
đi Ba Tiềm Lực Chống Cộng vô giá: Ở Miền Trung, Việt Nam Quốc Dân
Đảng cầm súng chống lại chính quyền; ở Miền Nam, Cao Đài một phần bất
hợp tác rút ra bưng trong hoàn cảnh bất đắc dĩ phải hợp tác với Cộng
Sản, một phần quan trọng khác, chủ lực là lực lượng Cao Đài Liên Minh
Trình Minh Thế tuy đã về hợp tác với chính quyền nhưng từ đầu năm
1956, lực lượng này bị phân tán và đem ra Miền Trung, cuối cùng tan rã
cả một binh đoàn thiện chiến về lối đánh du kích, đã quen với vùng
rừng núi Tây Ninh; ở Miền Tây, Lực Lượng Hòa Hảo Lê Quang Vinh bị quân
chính phủ đánh tan. ngày 13/4/1956, Liên Đoàn Bảo An Trần Quốc Tuấn
bắt được Ba Cụt, được thưởng 1 triệu đồng; gần ba tháng sau, ngày
6/7/1956 toà lên án tử hình Ba Cụt. Vị Tướng 32 tuổi đầy mưu trí và
yêu nước này đã bị hành quyết vào ngày 13/7/1956, gây nên sự căm phẩn
sâu xa trong tập thể gần 3 triệu tín đồ Hòa Hảo ở Miền Tây.
Chính quyền có thể loại Trần Văn Soái, Lâm Thành Nguyên, nhưng loại
lực lượng Hòa Hảo Lê Quang Vinh không những là sai lầm nghiêm trọng mà
còn là một tội đối với lịch sử. Riêng lực lượng Hòa Hảo Nguyễn Giác
Ngộ được coi là một lực lượng Quốc Gia thuần túy chống cả Pháp lẫn
Cộng, có kỷ luật nghiêm minh, với trên 2000 quân đã quen với địa hình
địa vật Miền Tây và lối đánh du kích và chống du kích thì cũng như lực
lượng Trình Minh Thế, bị phân tán đem ra Miền Trung, cuối cùng bị tan
rã. Nếu chính quyền duy trì được hai lực lượng này thì tình trạng ở
Miền Tây và Miền Đông đã không bị du kích Cộng Sản tái hoạt động làm
ung thối ngay giữa năm 1957 là năm cực thịnh của chế độ Ngô Đình Diệm.
Mất lực lượng võ trang Trình Minh Thế là một thiệt hại to lớn; với
trên 2500 quân, năm 1952, lực lượng yêu nước này đã mở rộng địa bàn
hoạt động khắp Miền Đông và lan tới Miền Tây, phát triển lối đánh du
kích và đặc công. Lúc nghe tin Tướng Thế bị bắn chết tại trận, theo
Lansdale, người đang ngồi nói chuyện với ông Diệm, thì ông Thủ Tướng
bàng hoàng và chảy nước mắt. Lansdale nói với Shaplen:
"Đây là lần duy nhất mà tôi thấy ông bộc lộ tình cảm".
Nhưng chỉ một năm sau, lực lượng của Tướng Thế bị chia cắt, đẩy ra
khỏi Miền Đông và đưa lên Cao Nguyên hoặc ra giới tuyến.
Miền Trung đen tối hơn, lực lượng Đại Việt võ trang ly khai ở Ba Lòng.
Quảng Nam, Quảng Ngãi là hai Tỉnh với trên 2000 đảng viên Việt Nam
Quốc Dân Đảng võ trang lại ly khai, lập chiến khu chống lại chính
quyền. Năm 1956, Việt Nam Quốc Dân Đảng trở về hợp tác, tuy nhiên, chỉ
một thời gian ngắn lại bị chính quyền đàn áp. Qua Phong Trào Nhân Dân
Tố Cộng, chính đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng lại bị phong trào này
chụp mũ là Cộng Sản.
Thật vậy, Phong Trào Tố Cộng từ năm 1956 đã trở thành đen tối ở Miền
Trung. Hàng vạn người bị bắt nhưng đa số là lương dân vô tội, hoặc
đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng hoặc bị trả thù cá nhân.
Phong Trào Tố Cộng trở thành cơn bảo tố ở nông thôn nhất là từ Phú Yên
trở ra. Sau 10 tháng phát động Phong Trào, chính quyền Ngô Đình Diệm
tuyên bố là đã đưa về với chính nghĩa Quốc Gia được 100 ngàn cựu Cán
Bộ Việt Minh và đã tiêu diệt được ảnh hưởng của Cộng Sản trong 9 năm
trước. Thực tế không phải vậy. Cán Bộ Cộng Sản đã len lỏi vào phong
trào và xâm nhập ngay từ văn phòng Bộ trưởng Thông Tin Trần Chánh
Thành để lèo lái Phong Trào Tố Cộng, mô phỏng y như cách thức Cộng Sản
tố Địa Chủ và Trí Phú ở Miền Bắc.
Tổng Thư Ký Bộ Thông Tin là Cán Bộ Cộng Sản nằm vùng, tức Trần Thúc
Linh, sau này với cái dù Thẩm Phán, Trần Thúc Linh tiếp tục hoạt động
cho Cộng Sản cho đến năm 1975. Do đó, Phong Trào Tố Cộng với kết quả
trái ngược hẳn lại, chỉ đẩy lương dân về phía Cộng Sản, giới Quốc Gia
thì trở thành thù địch của chính quyền. Điển hình như ở Phú Yên, hàng
trăm người thuộc Đại Việt Quốc Dân Đảng đã bị bắt bị tra tấn và giam
cầm, các em và cháu của Lãnh Tụ Trương Tử Anh đã bị đánh đập tàn tệ,
bị bỏ tù chung với Cộng Sản đến sau năm 1963.
Năm 1957, Cộng Sản vẫn còn yếu, nên dù nổ lực thế nào Cộng Sản vẫn
không gây được một phong trào nhân dân đứng lên đòi Tổng Tuyển Cử sau
khi Ngô Đình Diệm bác bỏ. Trước đây nông thôn chỉ biết có Hồ Chí Minh,
nay thì Ngô Đình Diệm thay thế và triệt để chống Cộng. Háng trăm ngàn
Cán Bộ Việt Minh đã thực tâm hồi chánh và cộng tác với chính quyền
song từ Phong Trào Chống Cộng lại loại bỏ các thành phần đảng phái
Quốc Gia, Cao Đài, Hòa Hảo. Chính quyền Ngô Đình Diệm mất quần chúng ở
cả nông thôn lẫn thành thị. Hàng trăm đảng viên Đại Việt, Duy Dân,
Việt Nam Quốc Dân Đảng đã bị đem nhốt chung với Cộng Sản, hồ sơ cá
nhân biến thành hồ sơ Cộng Sản trong khi một số Cán Bộ Cộng Sản trá
hình đầu thú lại được trọng dụng và chính thành phần này đã "chỉ điểm"
cho chính quyền bắt lương dân hay giới Quốc Gia Chống Cộng mà chúng
chụp mũ cho là Cộng Sản. Từ năm 1957, những Phạm Ngọc Thảo, Phạm Xuân
Ẩn, Cao Dao đã thành cong trong công tác nằm vùng trong ngành Tình Báo
của chính quyền Ngô Đình Diệm từ cơ sở thượng tầng đến Tỉnh và Quận.
Sai lần nghiêm trọng khác của chính quyền Ngô Đình Diệm là ngày
5/10/1955, nghe lời Tướng Cao Đài Nguyễn Thành Phương, đã đem quân xâm
nhập Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh tước khí giới Đạo Hộ Vệ Quân của Hộ
Pháp Phạm Công Tắc, lại cho báo chí của chính quyền và kể cả đài phát
thanh bôi nhọ Phạm Công Tắc như một người dâm ô, Việt Gian tay sai
Pháp. Hộ Pháp Phạm Công Tắc phải lưu vong qua Nam Vang, ít nhất 3 hệ
phái lớn của Cao Đài đã Liên Minh với Cộng Sản trong giai đoạn CÙNG
ĐƯỜNG mà theo Douglas Pike thì 10 trong 11 giáo phái đã theo Cộng Sản,
chỉ còn một hệ phái cộng tác với chính quyền để bảo vệ Tòa Thánh Tây
Ninh.
Chế độ Ngô Đình Diệm đã dùng Luật Pháp Và Tòa Án để trị dân và đặc
biệt dung Tòa Án để chống Cộng Sản song chính lại là cách làm cho Cộng
Sản tạo được cơ hội tuyên truyền và lấy lòng dân trong khi đối với các
đảng phái đối lập thì Tòa Án lại trở thành công cụ đàn áp "đập đổ
những kẻ chống đối chế độ bất cứ bằng hình thức nào. Còn các cơ quan
ngôn luận dù có muốn vươn mình lên để nói tiếng nói tự do cũng không
được. Họ bị ràng buộc mọi mặt. Muốn sống thì phải chiều ý nhà cầm
quyền" (Hồi ký Trần Tương).
Muốn Chống Cộng thì phải làm y như Cộng, đó là chủ trương hết sức sai
lầm của Bộ Thông Tin dưới thời Trần Chánh Thành và Trần Thúc Linh. Suy
tôn Ngô Tổng Thống như kiểu Cộng Sản suy tôn Bác Hồ đã làm cho ông
Tổng Thống trở thành hình ảnh nhàm chán.
Giai đoạn 1946-1952, nghĩa là trước vụ Cộng Sản đấu tố, Hồ Chí Minh đã
rất thành công khi đi vào lòng quần chúng ở mọi giới, nhất là giới
trẻ. Ông Hồ đi vào quần chúng bằng hai chử "Bác Hồ", đơn giản với đôi
dép quai râu, chiếc quần nâu rộng ống, nhiều khi xắn cao quá gối…
Ông Diệm đã không thành công khi đi vào quần chúng, nhất là quần chúng
nông thôn, với một bộ đồ lớn trắng tinh, tay cầm chiếc ba-tông hoặc
ngồi trong xe lướt nhanh trên đường phố trống vắng với từng đoàn xe hộ
tống. Đường Công Lý có lúc phải gián đoạn 3, 4 giờ để dẹp đường chờ
đoàn xe Tổng Thống từ Tân Sơn Nhất về Dinh.
Đầu năm 1957, Cộng Sản bắt đầu phản công bằng Chiến Dịch Ám Sát các
Viên Chức Xã Ấp và Cựu Kháng Chiến trở về hợp tác với chính quyền. Con
số chính quyền qua Bộ Thông Tin đưa ra vào dịp kỷ niệm lễ Song Thất
7/7/1954 là 42.760 người đã bị Cộng Sản ám sát, thủ tiêu dưới nhiều
hình thức khác sau Hiệp Định Genève, song đây là con số không có bằng
cớ khả tín. Ước lượng từ một Tỉnh Tân Lập như Kiến Phong thì con số
Cán Bộ Xã Ấp và Cựu Kháng Chiến bị Cộng Sản sát hại đã lên rất cao.
Hàng trăm Điệp Viên hữu hạng của Cộng Sản từ Bắc được gửi vào Nam sau
Hiệp Định Genève. Số Điệp Viên này thuộc Phòng Đông Nam Á Vụ và Phản
Gián, hầu hết đã có kinh nghiệm hoạt động nội thành, chia nhau xâm
nhập qua nhiều đường giây thuộc nhiều lãnh vực. Phan Nghị thì hành
nghề Ký Giả sau len lỏi vào làm cho tờ Ngôn Luận và Chính Luận (sau
1963); Vũ Ngọc Nhạ len lỏi vào Công Giáo phía Linh Mục Hoàng Quỳnh;
Nguyễn văn Lương, Giáo Viên tư thục ở Nam Định là kẻ đã móc nối Vũ
Hạnh (1964) cùng Vũ Hạnh xuất bản tạp chí Tin Văn và sau bí mật cộng
tác với Thế Nguyên, tạp chí Trình Bày. Cao Dao nối kết với Phạm Xuân
Ẩn...
Về Tình Báo, cao cấp nhất cài trong chính quyền thì trao cho Phạm Ngọc
Thảo với một ám số đặc biệt và luôn luôn thay đổi. Phạm Ngọc Thảo bây
giờ đã về đầu thú chính quyền Ngô Đình Diệm cùng với nhóm Kiều Công
Cung và được Giám Mục Ngô Đình Thục đỡ đầu vì Thảo và Cung là Công
Giáo thuộc địa phận Vĩnh Long. Thảo được đồng hóa với cấp Trung Tá và
làm việc trực tiếp với văn phòng Cố Vấn Chính Trị Ngô Đình Nhu...
Vào giữa năm 1958, Xứ ủy Nam Bộ quyết định thành lập Bộ Tư Lệnh Miền
Đông, khởi đầu với 4 Đại Đội, một Đại Đội Đặc Công với 75 đội viên;
Liên Đại Đội C-1000 hoạt động tại Tây Ninh, nơi không còn bóng dáng
Cao Đài nên lực lượng Miền "tự tung tự tác". Bộ Tư Lệnh Miền thành lập
Khu B tức Dương Minh Châu thuộc Tỉnh Tây Ninh, Chiến Khu A từ Mã Đà
đến Bù Cháp, Thủ Dầu Một.
Ngày 10/8/1958, Liên Đại Đội Tỉnh Tây Ninh (từ đây gọi là Việt Cộng)
tấn công Quận Dầu Tiếng. Theo tài liệu của Việt Cộng, trận này "diệt
200 tên, bắt 30 tên, thu 200 súng tự động, sau đó đánh lui một Tiểu
Đoàn đến tiếp viện cho Dầu Tiếng".
Theo tài liệu Việt Nam Cộng Hòa (từ đây gọi là Nam Việt Nam), "Quận
Dầu Tiếng tuy bị đánh bất ngờ trong lúc cả nước đang thanh bình song
đã chống trả kịch liệt với quân số 67 Bảo An và Dân Vệ, Việt Cộng để
lại 17 xác. Cuộc truy lùng vào mấy ngày kế tiếp, bắt được 4 Cán Binh
Việt Cộng bị thương nằm điều trị trong ba nhà phu đồn điền cao su.
Ngày 20/10/1958, Đại Đội Đặc Công Việt Cộng từ Chiến Khu D tấn công
trụ sở Phái Bộ Quân Sự Mỹ (MAAG) ở Biên Hòa, mở màn cho các Trận Đặc
Công kế tiếp. Biệt Động Đội và Đặc Công là binh chủng thuần phục của
Việt Minh trước đây. Thời nhà Trần kháng Mông Cổ có du quân mà Binh
Thư Trần Hưng Đạo đã đề cập. Đây là thứ quân biệt kích đặc biệt đánh
trong lòng địch. Trần Hưng Đạo lại lập đạo phẫn quân (lính quyết tử)
tuyển trong các Hàng Tội Đồ xin lập công chuộc tội. Còn Việt Cộng thì
tuyển lớp thanh niên thuộc Gia Đình Tử Sĩ hay có nợ máu với phe Quốc
Gia trước đây. Du Quân và Phẫn Quân của nhà Trần đánh hậu tuyến địch
theo lối hiệp đồng quyết tử. Cách đánh của Biệt Động Đội Thành và Đặc
Công Việt Cộng cũng y như Du Quân và Phẫn Quân của Nhà Trần.
BINH PHÁP truyền thống của Việt Nam bao giờ cũng tìm ra cách đối kháng
lại ưu thế của địch. Võ Thuật Việt Nam với Hầu Quyền (tức loài hầu
dùng sở trường hai tay, hai chân và sự thông minh của nó mà địch lại
Hổ Quyền, địch lại sức mạnh của cọp beo) từ 36 Thế biến ra 72 Thế, đó
là Đối Pháp của Binh Thư trong phép nẫm nhất, một mà cự đông, hai
mươi, ba mươi. Nam Việt Nam thì không tìm ra được đối pháp và đối sách
nên trong suốt cuộc chiến, Đặc Công và Biệt Động Đội là ưu thế của
Việt Cộng cũng như DU QUÂN và PHẪN QUÂN là ưu thế của Trần Hưng Đạo
diệt quân Mông.
Cao Thế
Dung

> của nước Mỹ có một Tổng ...
>
> read more »

Message has been deleted

Viet MJCer

unread,
Nov 2, 2010, 6:02:34 PM11/2/10
to Xã - Tắc

Ngô Triều Qua Thơ Văn
[Tháng Mười Một, Chợt Nhớ Vài Bài Thơ Về Chế Độ Ngô Đình
Diệm]

Ngô Đình Diệm đã chết gần nữa Thế Kỷ nhưng tương lai của Con Chiên Ngô
Đình Diệm, dưới bàn tay phù thủy của Vatican, thì vẫn còn nhiều hứa
hẹn. Thật vậy, ý đồ của Vatican là:
Về mặt Đạo, Diệm sẽ được nhào nặn vẽ vời để bôm lên thành một Thánh Tử
Đạo Công Giáo Việt Nam như các “thánh” phản quốc đã từng được Giáo
Hoàng Gioan Phaolồ II hối hả và ồ ạt, thâu ngắn mọi thủ tục, bất chấp
sự thực lịch sử, bôm lên 117 Con Chiên Tây Ta chỉ trong một năm 1988.
Hành động gấp rút nầy là để cứu nguy và hà hơi tiếp sức cho cái Giáo
Hội Việt Nam, lúc đó, đang bị tơi tả trong nước và tan tác ngoài nước.
Còn trường hợp “Thánh Tử Đạo” Diệm tương lai, là để tô son trét phấn
cho cái tội gần 400 năm theo Tây phản quốc của lịch sử Giáo Hội Công
Giáo Việt Nam.
Về mặt Đời, Diệm sẽ được rửa mặt và đánh bóng để làm một Biểu Tượng
Chính Trị hầu xây dựng lực lượng Công Giáo và tập họp các Lực Lượng
Chính Trị Vệ Tinh (loại “Đối Kháng” trong nước hay “Liên Tôn Chống
Cộng” ngoài nước) để bây giờ thì tìm cách thanh toán thế lực đương
quyền tại Hà Nội, và tương lai thì lại thiết lập một Chế Độ “Diệm
Không Diệm” để Công Giáo Hóa Nhân Dân Việt Nam.
“Tương lai” hai vế Đạo - Đời đó phù hợp hoàn toàn với sách lược bành
trướng Đạo Công Giáo tại Á châu đã được Huấn Thị trong Tông Huấn “Giáo
Hội tại Á châu” (Ecclesia in Asia --John Paul 2, New Delhi, 1999).
Đồng thời, hình ảnh tương lai đó cũng sẽ nuôi dưỡng và khích động được
đám Con Chiên Việt Nam ở Hải Ngoại đang chao đảo trước tình trạng mục
rã và thoái trào của Giáo Hội Công Giáo trên toàn Thế Giới mà cao điểm
là đại biến cố hơn 5.000 Linh Mục sách nhiễu tình dục gần 10.000 Nạn
Nhân ấu dâm trên 26 Quốc Gia kéo dài trên nữa thế kỹ! [1].
Đó là ý đồ Tôn Giáo và thế cờ Chính Trị của Vatican mà ai tinh mắt một
chút thì đều biết.
Vì thế nên từ gần 10 năm nay, tại Hải Ngoại, ta thấy một Phong Trào
“Tâm Lý Chiến” mà các Linh Mục thì Xảo Ngôn Về Văn Hóa (như “Ông Trời”
trong Tín Ngưỡng và Phong Tục Việt Nam vốn là hình ảnh… Chúa Trời
trong Cựu Ước!; hay Nguyễn Du được gợi hứng từ Kinh Thánh để sáng tác
Truyện Kiều…); còn các Con Chiên loại Lâm Lễ Trinh, Nguyễn Văn Lục, Tú
Gàn Nguyễn Cần, Cao Thế Dung, Tôn Thất Thiện, và đám lau nhau mới nổi
như Chu Tất Tiến, Minh Võ, Nguyễn Lý Tưởng… thì Pha Chế Tài Liệu, Ngụy
Trang Nhân Chứng để Xuyên Tạc và Viết Lại Lịch Sử Thời Đệ Nhất Cộng
Hòa. Phong Trào nầy, dĩ nhiên, chỉ huy động được các Con Chiên múa may
ngòi viết mà thôi, còn những thành phần khác của dân tộc thì tuyệt đại
đa số chẳng ai thèm tham dự vào cái Màn Phịa Sử Bất Lương nầy cả.
Hai luận điệu của đám “Sử Gia” Hoài Ngô nầy thường dùng là:
1.- Phong Trào Phật Giáo Chống Diệm là do Cộng Sản lãnh đạo, còn Tướng
Lãnh lật đổ Diệm là tay sai của CIA, cả hai phối hợp với nhau để giết
ông Diệm vì ông Diệm bào vệ quyền tự quyết chống lại Mỹ. Đây là một
luận điệu vừa Phi Lịch Sử vừa… Ngu! Ông Diệm đã được Mỹ “Bồng” về,
kinh viện quân viện đổ vào Miền Nam như thác cho Diệm làm “Con Cờ” xây
dựng Tiền Đồn Chống Cộng. Đến lúc vì độc tài thối nát nên bất lực
không đóng nỗi vai trò “Con Cờ” nữa, lại Phản Chủ bắt tay với kẻ thù
Cộng Sản nên bị Chủ dẹp đi, thì đó là thân phận đương nhiên của kẻ, từ
đầu, đã chịu nhận làm “Con Cờ” cho Ngoại Bang. “Tự Quyết” chổ nào,
càng nói càng thêm nhục!
Thật ra thì Mỹ không dẹp cũng không được vì Nhân Dân Miền Nam Chống
Cộng, trong đó có Phật Giáo, muốn như thế. Đó là tất cả cái Dynamique
của Chính Trị Miền Nam trong 4 năm 1960, 1961, 1962 và 1963. Không có
lòng công phẩn cuồn cuộn của Toàn Quân Toàn Dân Miền Nam, thì chẳng
CIA nào, chẳng Cộng Sản nào, chẳng Phật Giáo nào Một Mình lật đổ được
“Triều Đình” Diệm-Nhu-Cẩn với 1 Đảng Cần Lao sắt đá, 6 Cơ Quan Công An
Mật Vụ tàn bạo, 4 Đoàn Thể quần chúng, và 1 Giáo Hội Công Giáo thiên
la địa võng cả. Chỉ trong 8 năm cầm quyền (1955-1963) mà đã 7 lần bị
phe Cùng Chiến Tuyến chống đối [2], nghĩa là hầu như năm nào cũng có
chống đối, thì đủ biết dù có Mỹ và Vatican sau lưng, Diệm đã chết
trong lòng Quân Dân Miền Nam từ lâu rồi. Nói như Nhà Văn Doãn Quốc
Sỹ: Mỹ chỉ đến để lượm cái xác của Diệm [3] mà thôi… dù có Mỹ và
Vatican sau lưng, Diệm đã chết trong lòng Quân Dân Miền Nam từ lâu
rồi.
2.- Vì lật đổ ông Diệm cho nên… mất nước vào tay Cộng Sản! Làm như ông
Diệm bị đổ năm 1963 thì đến năm 1965 đã phải “Tháng Tư Gãy Súng” rồi.
Tương quan Nhân - Quả dĩ nhiên là có nhưng sự kiện lật đổ Diệm, sau 12
năm dài và phức tạp (1963-1975), không phải là Cái “Nhân” chính yếu và
duy nhất dẫn đến sự sụp đổ của Miền Nam vào năm 1975. Ta biết rằng Đệ
Nhị Cộng Hòa kéo dài được những 12 năm thăng trầm, vậy thì “Mất Nước”
chủ yếu là tại vì những yếu tố gì khác trong 12 năm dài đó chứ không
thể giản lược quy về chỉ một nguyên nhân “Lật Đổ Ông Diệm” từ hơn một
thập kỹ trước như nhóm Hoài Ngô gian xảo ngụy biện. Ngược lại là khác,
nếu ông Diệm còn tại vị thì Miền Nam đã tiêu tùng ngay sau khi Ngô
Đình Nhu lén lút Quân Dân Miền Nam (và đạp lên Hiến Pháp Nhân Vị Chống
Cộng 1956) để đi đêm với “Đồng Chí” Phạm Hùng từ năm 1963 rồi!
Nhưng khổ một nỗi là hai điều ngụy biện đó vẫn có người nghe vì ở Hải
Ngoại không phải ai cũng chịu khó nghiên cứu, biết cách tìm tòi và
thâm hiểu tài liệu, và nhất là chịu suy nghĩ. Đã thế, tuyệt đại đa số
các Cơ Sở Truyền Thông đều do Công Giáo không chế, tạo thành một bệ
phóng để tung Hỏa Mù Lịch Sử đầu độc người đọc. Ngoài ra, những cái
gọi là “Nghiên Cứu Lịch Sử” nầy bao giờ cũng được bảo chứng bằng những
Con Dấu “Chống Cộng” to tổ bố và vài Cái Nón Cối phât phơ trên đầu để
uy hiếp những ai “dám” Phản Biện lại họ.
Tuy nhiên, nỗ lực Bất Lương Chính Trị và Mạo Hóa Lịch Sử đó của
Vatican dù có thuyết phục được một số người nào đó trong một khoảng
thời gian nào đó, thì cũng không thay đổi được lịch sử, và nhất là
không thay đổi được bản án mà dân tộc đã dành cho Chế Độ Diệm. Nhân
Chứng Lịch Sử và Vong Linh những Nạn Nhân của Chế Độ Diệm, cả Quốc Gia
lẫn Cộng Sản, còn nằm trên bàn thờ hương khói hầu như khắp Miền Nam
(cũ). Số lượng tài liệu cả bằng việt ngữ và ngoại ngữ, trong cũng như
ngoài nước, còn tràn đầy ra đấy…
Đặc biệt, có một mảng tài liệu mà người viết cho rằng có giá trị Trung
Thực và Lâu Bền nhất, đó là thơ văn và phong dao truyền tụng trong dân
chúng. Những tài liệu nầy thì Trung Thực vì mô tả sự kiện có thực ngay
thời điểm vừa xảy ra, và Lâu Bền vì được Nhân Dân chấp nhận có đãi
lọc, rồi học thuộc lòng mà truyền khẩu vượt thời gian từ thế hệ nầy
sang thế hệ khác.
Người viết bài viết nầy đã trên 60 tuổi, hiện ở Mỹ, chỉ căn cứ trên
trí nhớ của mình và vài người bạn cùng trang lứa, cọng thêm cái tủ
sách việt ngữ của người con rễ, mà hôm nay cũng có thể ghi lại được
một số bài thơ và câu vè “Không Bao Giờ Quên” về Chế Độ Diệm, để gửi
đến Vatican với lời khuyên đừng “xía” vô chuyện của dân tộc Việt Nam
nữa. Gần 400 năm đào tạo Con Chiên Việt Nam cúi đầu làm Đạo Quân Thứ
Năm cho Giặc Ngoại Xâm chưa đủ sao?
= * =
Văn Hóa Nào Đã Tạo Nên Con Người Chính Trị Ngô Đình Diệm.
Con người ông Diệm là tổng hợp của ba chiều kích văn hóa: Văn Hóa
Phong Kiến Tống Nho, Văn Hóa Công Giáo Thời Trung Cổ, và Văn Hóa Tây
Thuộc Địa, trong đó ứng xử chính trị của “Ông Quan” Ngô Đình Diệm là
phần thể hiện rõ nét nhất ba thuộc tính nầy. Vì vậy mà khi nói đến Chế
Độ Ngô Đình Diệm thì người Việt Nam gọi ngay bằng hai chử “Ngô Triều”.
Ông Diệm lớn lên và được đào tạo bởi những Quan Lại già nua lạc hậu
không theo kịp với dân trí mỗi ngày một tiến bộ, và đa số những vị
quan này là những nịnh thần tham nhũng, làm tay sai cho Pháp. Bài thơ
của Cụ Nghè Ngô Đức Kế dưới đây đủ nói lên cái tư cách “Cu Li” của lớp
Quan Lại áo mão xênh xang nầy:
“Cu li đành phận chớ ra oai,
Chuyên chế ăn quen thói cũ hoài.
Quân chủ cờ bay vui trước mắt,
Dân quyền trống đánh chán bên tai.
Bài, Liêm giảo hiểm khoe tài trí
Huề, Thụ thông minh gọi bất tài.
Cấm hết công môn tiền hối lộ,
Ngoài ra Tiềm Để mặc lòng ai.” [4]
“Bài, Liêm, Huề, Thụ” là tên bốn vị Thượng Thư mà Bài là ông Nguyễn
Hữu Bài, người đỡ đầu cho ông Diệm; và Huề là ông Thân Trọng Huề, ông
ngoại của bà Ngô Đình Nhu.
Trong cái môi trường “Giảo Hiểm”, “Bất Tài”, “Công Môn Tiền Hối Lộ” đó
mà anh em giòng họ Ngô Đình lại thăng quan tiến chức vượt bực (Trong
Chế Độ phẩm trật Phong Kiến phức tạp và nặng nề đó mà ông Diệm mới 33
tuổi đã làm “Thượng Thư Đầu Triều”, tương đương với Thủ Tướng) thì hẵn
phải nhờ một lý do đặc biệt nào đó. Lý do đặc biệt đó đã được Giới
Quan Trường đương thời thú vị làm thơ “Làm Quan Nam Triều” chế giễu
“Vây Cánh Ngô Đình” như sau:
“Lênh đênh chiếc bách buổi ba đào,
Chèo lái xem chừng khó biết bao.
Tôi tớ mấy người dâng lễ hậu,
Quan thầy mấy kẻ nặng hầu bao.
Chật trong bể hoạn thêm mình nữa,
Theo hết rừng “Hàn” biết kiếp nao.
Vây cánh Ngô Đình ghê gớm thật,
Mềm lưng dẻo gối chóng lên cao.” [5]
“Vây Cánh Ngô Đình” chủ yếu gồm những ai? Gồm Ngô Đình Khả, Nguyễn Hữu
Bài, Thân Trọng Huề… mà Con Đường Hoạn Lộ là những bước Làm Tay Sai
Đắc Lực cho hai thế lực là Bộ Máy Thực Dân Đô Hộ Pháp và Hội Truyền
Giáo Hải Ngoại Paris (MEP: Société des Missions Etrangères de Paris).

Bản Chất Chế Độ Diệm.
Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, đường Công Lý thì đi một chiều, đường Tự
Do thì cấm xe xích lô, xe đạp, còn cổng chính của Tòa Án thì bị đóng
kín, thường dân phải đi cổng bên, nên thời đó có câu truyền tụng lúc
đầu còn ở Sài Gòn nhưng sau lan ra khắp nước, rằng:
“Công Lý một chiều
Tự Do hạn chế
Tòa án đi cổng hậu” [6]
để mô tả nền độc tài và xã hội bất công của Chế Độ lúc đó, một Chế Độ
tuy gọi là “Cộng Hòa” với Tam Quyền Phân Lập, nhưng thực tế là do một
Gia Đình Phong Kiến và Cuồng Tín Thao Túng Mọi Định Chế và Sinh Hoạt
của Quốc Gia. Vì thế mà từ đầu năm 1961, dân chúng Miền Trung đã âm
thầm viết thành Bản Án Lịch Sử để lại cho hậu thế đời đời qua hai câu
ca dao truyền miệng về bốn nhân vật trụ cột của Gia Đình đó:
“Nhà Ngô có bốn gian hung;
Diệm ngu, Nhu ác, Cẩn khùng, Thục điên.”
Bản chất của Chế Độ và Chân Tướng của Cấp Lãnh Đạo lại càng hiện rõ
hơn vào tháng 2 năm 1962 trong và sau khi Dinh Độc Lập của anh em Ngô
Đình Diệm bị 2 Phi Công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử oanh tạc. Ông
Nguyễn Đôn Dư, bút hiệu Quỳ Ưu, ở Thừa Thiên đã ví sự kiện nầy như
tình trạng “Cháy Nhà Ra Mặt Chuột” và đã bí mật phổ biến bài thơ sau
đây trong vòng bạn bè:
“Đục khoét xưa rày núp ở đâu?
Cháy nhà thấy chuột chạy lao nhao
Dương oai bà Hỏa vừa lên mái
Khiếp vía ông Thiên vội ló đầu
Rường cột rã rời phơi mặt địa
Cống chù quay quắt chổng hàm râu
Tai bay vạ gió đà ra rứa
Chĩnh nếp dòm vô đã sạch làu.” [7]
Rồi đến mùa Hè năm 1963, sau 9 năm kềm kẹp Nhân Dân Miền Nam và đẩy
đại bộ phận quần chúng vào vòng tay “Mặt Trận Giải Phóng”, đồng thời
làm tiêu hao sinh lực Quốc Gia, Gia Đình Ngô Đình phóng tay đàn áp
Phật Giáo và định dứt điểm Tôn Giáo nầy, ít nhất là trên nước Việt
Nam, với kế hoạch Nước Lũ đêm 20 tháng 8. Ngày 22 tháng 8, với tư cách
là Ngoại Trưởng của chính phủ Diệm, ông Vũ Văn Mẫu cạo trọc đầu và sau
đó từ chức Ngoại Trưởng để phản đối “Nhà Ngô”.
“Cảm phục khí phách và phong độ kẻ sĩ Vũ Văn Mẫu, ông Hoàng Đại Sâm
(tức Thi Sĩ Hoàng Hoa Trang), một nhân viên cao cấp của Bộ Ngoại Giao,
bèn nhờ bạn là ông Võ Khắc Văn viết cho mấy chữ Hán để khắc vào bức
hoành phi tặng cho vị chỉ huy khả kính của mình. Ông Văn bèn viết bốn
chữ: “Ngoại Vật Hoàn Giao”, vừa có chữ của Nhà Phật, vừa có chữ
“Ngoại Giao”, vừa nói lên được ý nghĩa thâm thúy của một hành động đầy
triết lý sâu sắc.
Sau khi viết cho bạn bốn chữ để tặng vị Bộ Trưởng vì chính nghĩa mà
“Cạo Đầu Từ Quan”, Võ Khắc Văn cảm xúc trước một biến cố vừa đau
thương vừa chua chát bèn làm một bài thơ, ghi lại một sự kiện lịch sử
có tính cách “Giai Thoại Làng Nho” hầu lên án “Ngô Triều” để làm gương
cho hậu thế. Bài thơ “Tranh Thời Sự 1963” này may mắn được một bạn
thân của ông Võ Khắc Văn hiện ở Hải Ngoại còn nhớ, viết lại rồi gởi
cho tôi để hiện diện trong tập Hồi Ký này:
“Chín năm bốn bận tráo quân bài,
Lừa lọc toàn tay dễ khiến sai,
Hót Cụ: Thuần Lương mồm bép xép,
Ôm Bà: Hiếu Nghĩa miệng lai rai,
Vỹ đem hiến Cố màu xanh trẻ,
Khương ước dâng Cha áo đỏ dài,
Riêng Mẫu cạo đầu, Tâm bị bắt,
Hỏi hàng khanh tướng đến phiên ai?”
Bài thơ nhằm mô tả và đánh giá bản chất của Chế Độ qua những nhân sự
tay sai mà trong chín năm cầm quyền, nào là cụ Diệm, nào là bà Nhu,
nào là Cố Vấn Nhu, nào là cha Thục, dù có muốn tráo trở quân bài thì
cũng chỉ dùng toàn những tay “Dễ Khiến Sai” như các Bộ Trưởng Nguyễn
Đình Thuần, Bùi Văn Lương, Ngô Trọng Hiếu, Huỳnh Hữu Nghĩa. Cũng bị
liệt vào “Hạng Lừa Lọc” là Cao Xuân Vỹ, Tổng Giám đốc Thanh Niên Cộng
Hòa áo xanh, và Nguyễn Xuân Khương, Đại Biểu Chính Phủ Trung Việt đã
quyết liệt đàn áp Phật Giáo để Cha Thục được mặc áo Hồng Y màu đỏ.
Trong hàng Khanh Tướng sạch dơ lẫn lộn đó chỉ còn ông Vũ Văn Mẫu là
khí tiết từ chức và Bác Sĩ Phạm Biểu Tâm, Khoa Trưởng Đại Học Y Khoa
Sài Gòn, công phẫn chống đối nên bị Mật Vụ “Nhà Ngô” bắt. [8]

Tội Ác Của Chế Độ Công An Trị Ngô Đình Diệm.
Nói đến Chế Độ Ngô Đình Diệm là nói đến Chế Độ Gia Đình Trị, Chế Độ
Công Giáo Trị. Và dĩ nhiên, Công An Trị. Ở ngoài Trung, Ngô Đình Cẩn
có cho tân trang chín Cái Hầm chứa vũ khí của Quân Đội Nhật dưới đất ở
ngoại ô thành phố Huế để nhốt Tù Chính Trị, nhốt Phật Tử và những kẻ
mà Cẩn định làm tiền. Ái Huyên, một Nữ Sinh Đồng Khánh Huế, Nạn Nhân
của Cẩn, trong khi bị giam ở Chín Hầm đã sáng tác bài thơ:
“Trước phong cảnh hữu tình ai có biết,
Rằng nơi đây địa ngục trần gian,
Nơi chứa chấp một Chế Độ bạo tàn,
Và cạnh đấy là cung vàng điện ngọc.
Du khách hỡi! Dừng lại đây nghe tiếng khóc,
Của oan hồn tử sĩ chết đau thương,
Những nấm mồ vô chủ suốt đêm trường,
Như quằn quại theo từng cơn gió buốt!
Trên nệm ấm kẻ bạo tàn đâu có biết,
Bao thân người chui rúc dưới tanh hôi,
Và nghe hồn khóc kể mãi không thôi!” [9]

[Fig.1 Di tích Hầm Số 2 (nơi giam Tù Chính Trị đối lập) trong hệ thống
“Chín Hầm” của Ngô Đình Cẩn tại Huế]
Nhà Ngục “Chín Hầm” đó của Ngô Đình Cẩn ghê rợn đến nỗi trong bài thơ
“Vịnh Chuồng Cọp”, một Ẩn Sĩ ở Huế đã tặng cho ông Cẩn một hỗn danh để
lưu truyền lại cho hậu thế:
“Một kiếp tàn hung Hùm Xám đó,
Muôn dân ghê rợn ác ôn này!” [10]
Trong khi đó thì tại Sài Gòn, gần Sở Thú Đô Thành, Ngô Đình Nhu cho
xây Trại Giam “P.42” để tra khảo những thành phần Quốc Gia đối lập với
Chế Độ. Một trong những người đó là cụ Trần Văn Hương, một trí thức
“Uy Vũ Bất Năng Khuất” của Miền Nam, và sau nầy là Tổng Thống một tuần
(từ 21 đến 28/4/1975), đã từng cùng với 17 Nhân Sĩ khác ký Bản Tuyên
Bố “Caravelle” để phản đối Chế Độ Diệm.
Ngồi trong tù, mỗi lần hồi phục được một chút tàn lực sau những lần
Thẩm Vấn và Tra Tấn, cụ Hương thường làm thơ “Ngồi Tù Một Lũ” để giết
thì giờ.
“Này anh, này cụ, này là chú,
Lóc cóc vào đây ngồi một lũ,
Những tưởng buồn như chó mất nhà,
Nào ngờ vui quá bàn xôm tụ,
Thân này dẫu vướng chốn lao lung,
Nỗi ấy vẫn ghi trong phế phủ,
Xuống chó lên voi lắm chuyện đời,
Xưa nay diễn biết bao nhiệm vụ.” [11]
Và hãy nghe bài “P.42 - Sở Thú” cụ Hương tả cảnh Nhà Ngục “P.42” để
thấy Chế Độ Diệm đã đày đọa người Quốc Gia như thế nào:
“Danh đồn khét tiếng đã từng nghe,
P.42 đúng thiệt nè!
Điện tụ, bình quay kêu ới ới,
Xà bông nước đổ, nuốt the the,
Tra đi tra lại kinh chưa hả?
Khai tới khai lui mệt quá hè.
Cụ, Cố, Cậu trù, Ma trổ ngón,
Thân tù dưới búa lại trên đe.” [12]
(Ghi Chú: Cụ là ông Diệm, Cố là ông Nhu, Cậu là ông Cẩn, trù là trù
yểm, Ma trổ ngón là bọn Mật Vụ Cần Lao trổ tài tra tấn).

Bài Hịch Hài Tội Chế Độ.
Năm 1960, khi Binh Chủng Nhãy Dù tiến hành Cuộc Binh Biến tại Sài Gòn
để định lật đổ Chế Độ Diệm thì trong hàng ngũ của họ có sự tham gia
của một số đảng viên của các Đảng Phái Quốc Gia yêu nước, nhất là các
đảng có gốc gác tại Miền Trung.
“Tại Quảng Nam, Một Cán Bộ cấp cao của Việt Quốc là ông Duy Nghĩa đã
làm sẵn Bài Hịch để khi cướp được Chính Quyền thì sẽ tung ra kêu gọi
toàn dân đứng lên cứu nước, nhưng chẳng may Cuộc Đảo Chánh bất thành,
Bài Hịch bị chôn vùi trong bóng tối của bí mật cho mãi đến sau ngày
1/11/1963, Bài Hịch mới được phổ biến. Tôi được một đồng chí của ông
Duy Nghĩa là ông Lê Nguyên Long (Fresno, Hoa Kỳ) trao lại cho một bản
sao của Bài Hịch này, xin ghi lại đây như một sử liệu để lưu truyền:
“Hãy đứng lên, đứng lên như vũ bão,
Răng nghiến răng, tay nắm chặt, vung tràn,
Mắt long lên, hùng khí ngập không gian,
Cho điếng lạnh thứ tham tàn Cẩn, Diệm.
Vạn cánh tay giờ đây cùng tuốt kiếm,
Để lòe lên Chính nghĩa của non sông,
Để lòe lên tình đoàn kết nhiệt nồng,
Muôn màu sắc Quốc Gia non nước Việt.

Hỡi những ai, những con người khí tiết,
Đang trong tù hay đau khổ trùm chăn,
Hay khuất thân sống tạm bợ nhục nhằn,
Hãy đứng dậy giờ vinh quang lâm trận!
Như thác đổ, mưa nguồn, chớp sấm,
Như đảo điên một vũ trụ hôm nay,
Hớp men nồng cách mạng máu cuồng say:
Xưa “Sát đát” ngày nay ta “Sát địch”.

Hỡi muôn tim lặng nghe lời truyền hịch:
Nước diệt vong vì Cộng Sản bạo tàn,
Nước nguy vong vì lũ Diệm tham gian,
Gây nghiêng ngửa cơ đồ tuy nửa mảnh.
Muôn tim, muôn tim cùng nhau sát cánh,
Đạp phăng phăng chướng ngại lũ sài lang,
Để cùng nhau trong cách mạng huy hoàng,
Cùng xây dựng một chánh quyền “Vì Dân tộc”,
Một “Chính quyền Công bộc”
Với “Tự do, Dân chủ” được nêu cao.” [13]

Nhiệm Ý Thiên Chúa.
Ông Diệm và những người đồng đạo của ông tin rằng mọi sự trên đời đều
do Chúa định đoạt. Nhưng khi gặp những sự kiện cực kỳ vô lý không thể
giải thích được (như vì sao Chúa lòng lành mà lại tạo ra dịch hạch
giết hàng vạn người, hoặc tại sao Giáo Hoàng có Chúa Thánh Thần che
chở mà vẫn phải di hành bằng xe Pop Moble bọc thép chống đạn…) thì họ
cho rằng đó là Ý Muốn Mầu Nhiệm của Thiên Chúa, loài người không thể
hiểu được. Vì vậy mà cuối những bài diễn văn chính thức gửi Quốc Dân
Đồng Bào, bất chấp 93% dân chúng không tin vào Chúa, ông Diệm vẫn luôn
luôn kết thúc bằng câu “Xin Thượng Đế ban phước lành cho chúng ta”.
Nhưng mặc bao nhiêu cầu xin của chính ông và đồng đạo, cuối cùng ông
vẫn chết thê thảm đúng Luật Nhân - Quả. Biết sẽ chết như thế là “Nhiệm
ý của Thiên Chúa” nhưng trước đó ông vẫn cãi lời Chúa của ông với lời
trối trăn cho tàn dư của ông rằng “nếu tôi chết thì trả thù cho tôi”.
Một “Nhiệm Ý Thiên Chúa” khác là sau Ngày Cách Mạng 1/11/1963, một
trong các biểu tượng của Chế Độ là tượng Hai Bà Trưng ở bến Bạch Đằng
tại Sài Gòn đã bị sinh viên và dân chúng kép đổ sập. Đây là bức tượng
tạc Hai Bà nhưng từ khuôn mặt cho đến vóc dáng thì lại giống như Bà
Nhu và con gái Ngô Đình Lệ Thủy. Bà Nhu là Đệ Nhất Phu Nhân, là Thủ
Lãnh Lực Lượng Phụ Nữ Bán Quân Sự, là Chủ Tịch Phong Trào Phụ Nữ Liên
Đới, và nhất là vợ ông Cố Vấn thét ra lữa trong Dinh Độc Lập… nên bà
nghĩ bà và con gái nếu không hơn thì cũng bằng hai bà Trưng Trắc Trưng
Nhị khởi nghĩa chống Quân Hán và dẹp yên 65 thành ở đất Lĩnh Nam, nên
bà đáng được dựng tượng cho Nhân Dân Miền Nam tôn thờ.

[Fig.2&3 Tượng “Hai Bà Trưng” tạc theo khuôn mặt và vóc dáng hai mẹ
con Bà Nhu nên bị sinh viên kéo sập và phần cái đầu bị dân chúng chở
đi bêu xấu trên đường phố Sài Gòn]
Trước hành động kiêu căng vô văn hóa đó của bà Nhu, Nhà Thơ Đông Hồ đã
có bài thơ “Tượng Ai Đâu Phải Tượng Bà Trưng” như sau:
“Tượng ai đâu phải tượng bà Trưng
Tóc uốn lưng eo kiểu lố lăng
Đón gió lại qua người ưỡn ẹo
Chờ chim Nam Bắc dáng tung tăng
Khuynh thành mặt đó y con ả,
Điêu khắc tay ai khéo cái thằng!
Chót vót đứng cao càng ngã nặng
Có ngày gãy cổ đứt ngang lưng.

Đây một hình xưa nhục nước non
Thay hai hình mới đứng thon von
Mình ni lông xát lưng eo thắt
Ngực xú chiêng nâng vú nở tròn.
Tưởng đứng hiên ngang em với chị
Hóa ra dìu dắt mẹ cùng con
Dòng sông Bến Nghé, dòng sông Hát
Lưu xú lưu phương tiếng để còn.” [14]
Ngoài ra, khi nhìn Gia Đình Họ Ngô tán gia bại sản để tiếng xấu muôn
đời (không biết có do ý Chúa không), Nhà Văn lão thành Lãng Nhân Phùng
Tất Đắc đã ví von anh em ông Diệm, từ Em Ruột đến Em Dâu, như Giặc
“Hoàng Sào”, một đám Giặc Cỏ ở tỉnh Sơn Đông cuối Đời Nhà Đường bên
Tàu.
Ngô Trào
“Trải qua một cuộc bể dâu,
Trông vời cố quận biết đâu là nhà?
Khéo oan gia, của phá gia,
Này là em ruột này là em dâu!
Cửa nhà dù tính về sau,
Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào!” [15]
Vì là một loại Hoàng Sào nên dù ông Diệm không chết trong ngày Chế Độ
ông bị lật đổ thì ông cũng đã chết trong lòng dân tộc từ lâu rồi. Cái
chết của ông Diệm là một sự sụp đổ thê thảm của danh phận phẩm giá.
Thê thảm đến độ Học Giả Lãng Nhân Phùng Tất Đắc và Nhân Sĩ Hoàng Trọng
Thược đã phải ghi vào sách sử lời lên án năm Anh Em “Nhà Ngô” bằng
những câu thơ “Nghìn Năm Bia Miệng” để lại muôn đời.
“Vùi nông đôi nấm giữa đêm sâu,
Mười thước sau chùa đủ bể dâu.
Ba cỗ quan tài bốn lỗ huyệt,
Năm thằng Trời đánh một con Mầu.
Mới vừa Hăm Sáu còn nguyên thủ,
Mà đến Mồng Hai đã vỡ đầu.
Bảy Tám thu trường Ngô với Đĩ,
Ngô thì chín rụng Đĩ chơi đâu?” [16]
(Ghi Chú: “Năm thằng” là các ông Thục, Diệm, Nhu, Cẩn, và Luyện. Và
“con Mầu” là Trần thị Lệ Xuân, tức bà Nhu)
= * =
Chép và đọc lại mấy bài thơ trên để thấy một khi dân tộc đã lên tiếng,
rằng:
“Nhà Ngô có bốn gian hung;
Diệm ngu, Nhu ác, Cẩn khùng, Thục điên.”
Và:
“Nước nguy vong vì lũ Diệm tham gian,
Gây nghiêng ngửa cơ đồ tuy nửa mảnh.”
Vậy thì, nỗ lực của đám tàn dư Hoài Ngô tại Hải Ngoại, càng theo lệnh
Vatican đánh Tráo Lịch Sử thì càng làm rõ thêm căn tính Nô Lệ Phi Dân
Tộc của họ mà thôi. Thật tội nghiệp!
Phùng Quân 10/2010
Cước-Chú:
Người Việt Đáng Yêu Chơi Chữ Cười - Nguyên Nhân và Thực Chất Doãn Quốc
Sỹ Lãng Nhân Phùng Tất Đắc Bs. Dương Tấn Tươi Biến Cố 11/11/1960.
Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi Trần Tương Hoành Linh Đỗ Mậu.

[1] http://en.wikipedia.org/wiki/Roman_Catholic_sex_abuse_cases_by_country
[2] (i) Vụ mưu sát ông Diệm của tín đồ Cao Đài Hà Minh Trí tại Ban Mê
Thuột, (ii) Vụ nỗi loạn có võ trang của Quốc Dân Đảng tại chiến khu Ba
Lòng, (iii) Vụ 18 nhân sĩ và cựu cọng tác viên ra tuyên ngôn tại khách
sạn Caravelle tố cáo và đòi cải cách chế độ, (iv) Vụ Binh Chủng Nhảy
Dù và đảng phái chính trị làm binh biến, (v) Vụ hai phi công Phạm Phú
Quốc và Nguyễn Văn Cử ném bom Dinh Độc Lập, (vi) Vụ Phật Giáo đấu
tranh đòi Bình Đẳng Tôn Giáo và Công Bằng Xã Hội, và cuối cùng (vii)
Cách mạng của quân đội vào tháng 11 năm 1963.
[3] Doãn Quốc Sỹ, Người Việt Đáng Yêu, Sáng Tạo, Sài Gòn, 1965
[4] Hoàng Trọng Thược, Tinh Thần Trào Phúng trong Thi Ca Xứ Huế, Sài
Gòn 1973, tr. 317.
[5] Hoàng Trọng Thược, Tinh Thần Trào Phúng trong Thi Ca Xứ Huế, Sài
Gòn 1973, tr. 273.
[6] Tôn Nữ K.C., Bây Giờ Tháng Mấy, bán nguyệt san Việt Nam Hải Ngoại
(số 23 ngày 1/5/1978), tr. 43.
[7] Hoàng Trọng Thược, Tinh Thần Trào Phúng trong Thi Ca Xứ Huế, tr.
272.
[8] Hoành Linh Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lữa Quê Hương Tôi, Văn Nghệ, 1993,
Chương 15, trang 511.
[9] Hoàng Trọng Thược, Tinh Thần Trào Phúng trong Thi Ca Xứ Huế, tr.
275.
[10] Hoàng Trọng Thược, Tinh Thần Trào Phúng trong Thi Ca Xứ Huế, tr.
274.
[11] Trần Tương, Biến cố 11/11/1960, tr. 82. Sài Gòn: Đức Phổ, 1971.
[12] Trần Tương, Biến cố 11/11/1960, tr. 58. Sài Gòn: Đức Phổ, 1971.
[13] Hoành Linh Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lữa Quê Hương Tôi, Văn Nghệ,
1993, Chương 11, trang 344.
[14] Tạp chí Bút Hoa ngày 1/4/1964. Trích lại từ “Đời Viết Văn Của
Tôi” (trang 200, 201). Nguyễn Hiến Lê.
[15] Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, Chơi Chữ, tr. 73, Texas: Zielekz, 1979.
[16] Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, Chơi Chữ, tr. 186, Texas: Zielekz, 1979.
Và Dương Tấn Tươi, Cười - Nguyên Nhân và Thực Chất, Sài Gòn: Phạm
Quang Khai 1986, tr. 170.

> trăm ...
>
> read more »

Viet MJC

unread,
Nov 3, 2010, 4:34:52 PM11/3/10
to Xã - Tắc

Sự Thật Lịch Sử Phải Trả Cho Lịch Sử
[Bất Đắc Dĩ Khơi Lại Đống Tro Tàn]

Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị hạ sát cách đây đã gần hai thập niên,
sự việc đã chìm vào quên lãng, đáng lẽ những Ân Oán xa xưa chẳng nên
đề cập, nhưng hơn vài năm nay nơi Hải Ngoại, một vài tổ chức đã phát
động Phong Trào Suy Tôn Ông Diệm. Một vài tờ báo đã đề cao ông Diệm
như: “Lịch Sử đã ghi tên Ngô Đình Diệm là một Vĩ Nhân Cận Đại, Lịch
Sử đã ghi nhận Ngô Đình Diệm là một Nhà Đại Ái Quốc, một Người Việt
Nam Kiêu Hùng, một Cứu Tinh của Dân Tộc v.v...” và đã có nhiều kẻ từng
thừa hưởng Đỉnh Chung của Nhà Ngô đã lập luận: “Nếu ông Diệm không
chết thì chúng ta đã không mất nước!”.
Kẻ viết bài này thật sự luôn luôn thiết tha với Tình Tự Đoàn Kết Quốc
Gia Dân Tộc, không muốn khơi lại Đống Tro Tàn Ô Uế Dĩ Vãng... Đã bỏ
nước đau khổ lưu vong thôi thì tất cả ai cũng Chống Cộng là Đồng Chí,
là Anh Em... nhưng thiết nghĩ sự thật chẳng thể bẻ cong, nhất là “Sự
Thật Lịch Sử Phải Trả Cho Lịch Sử”.
Lịch Sử Việt Nam không thể gọi Vua Long Đỉnh Ngọa Triều là Anh Quân,
Mạc Đăng Dung là ông Vua Anh Hùng, Lê Chiêu Thống là ông Vua Cứu Nước.
Vậy thì sự thật như thế nào về Thời Ngô Đình Diệm phải được minh định
để trả sự thật về cho Lịch Sử.

Từ ngày được Hồng Y Spellman đỡ đầu, được Chính Phủ Eisenhower ủng hộ,
được Quốc Trưởng Bảo Đại chấp nhận, ông Ngô Đình Diệm từ Hoa Kỳ về
chấp chánh ở Việt Nam năm 1954, trong khi Hiệp Định Genève sắp kết
thúc --tháng 7/1954.
Lúc đó, lòng dân thật tình hướng về ông Ngô Đình Diệm. Người ta đã
nghĩ ông Diệm sau khi Từ Quan, Chu Du Ngoại Quốc, chắc hẳn là một Nhà
Lãnh Đạo Quốc Gia xứng đáng. Hầu hết các Phe Phái và các Nhân Vật Quốc
Gia đã Nồng Nhiệt Tin Tưởng và Kỳ Vọng ở ông Diệm.
Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn cầm quyền, chủ trương Độc Tôn, Độc
Tài, Phản Bội, Lật Lọng, Phong Kiến, Thối Nát, Bất Lực, Kỳ Thị của Nhà
Ngô đã lần lượt thể hiện... Khiến những người vốn tích cực ủng hộ ông
Diệm, đến những người vô tư khách quan với ông Diệm lần lượt đứng lên
chống đối và Nhà Ngô đã dùng Thủ Đoạn Sắt Máu đàn áp để Củng Cố Địa Vị
suốt 9 năm cầm quyền.
Có thể nói trừ chế độ Cộng Sản ra, chưa có một chế độ nào ở Việt Nam
đã Đàn Áp, Thủ Tiêu, Ám Sát, Bắt Cóc, Tra Tấn, Cầm Tù hàng vạn Người
Quốc Gia cũng như các Tu Sĩ các Tôn Giáo như Thời Diệm. Trừ Cộng Sản
ra, chưa có một chế độ nào đã thẳng tay Đàn Áp Đối Lập để Củng Cố Địa
Vị như chế độ ông Diệm. Chưa có một chế độ nào Phản Dân Chủ và Khinh
Thị lợi dụng Nhân Dân làm cái bung xung để hợp thức hóa các chức vụ
theo ý muốn của mình bằng cách tổ chức những Cuộc Bầu Cử Gian Lận như
chế độ ông Diệm.
Tất cả những ai chỉ ở Thủ Đô hoặc các Thành Phố lớn khó lòng thấy rõ
chánh sách Gian Ác, Hành Động Bất Nhân, Phản Dân Hại Nước của chế độ
Diệm, mà phải quan sát ở các Tỉnh, Quận, Nông Thôn --90% lãnh thổ toàn
quốc-- mới thấy rõ tội ác của Tay Chân Nhà Ngô một thời... mà có người
đã nói: Trúc Nam Sơn không thể chép hết tội, Nước Muôn Sông không thể
nào rửa hết nhơ!
Rõ ràng ông Diệm đã có một cái may mắn mà chưa có một nhân vật Lãnh
Đạo Quốc Gia nào sau 1945 được cái may mắn như ông kể từ Chính Phủ
Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Phan Long, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm đến
Bửu Lộc là: Đất nước đã tạm chấm dứt chiến tranh, dân tình phấn khởi
bồng bột ủng hộ người lãnh đạo và được ngoại viện dồi dào như ông
Diệm.
Ông Diệm cầm quyền sau Hiệp Định Genève, khoảng 6 năm trời từ 1954 đến
1959 Miền Nam không có chiến tranh và chưa có Cộng Sản hoạt động đáng
kể. Từ thành thị đến thôn quê quốc gia có thể kiểm soát chặt chẽ khắp
hang cùng ngõ hẻm. Đại đa số dân chúng Nông Thôn ở các vùng Cộng Sản
chiếm từ trước như Nam, Ngãi, Bình, Phú chẳng hạn, đã chán ngấy thù
ghét Cộng Sản và đều ngã về Quốc gia. Ông Diệm còn có một kho Cán Bộ
kinh nghiệm Chống Cộng, vốn mắc kẹt trong vùng Cộng Sản hoặc một số
lớn thị thành, vì mặc cảm làm việc cho Pháp, đã “Trùm Chăn”, nay vươn
mình đứng lên tích cực ủng hộ cho Ngô Thủ Tướng.
Lúc ấy ở Miền Trung có hàng nghìn Cán Bộ không cần làm việc có lương
nhiều, chỉ sao đủ sống đạm bạc để hoạt động Chống Cộng là họ thỏa chí.
Bao năm khổ đau sống trong tăm tối của Cộng Sản, nay ánh sáng Quốc Gia
rọi về, họ hứng khởi đứng dậy, lửa Chống Cộng bừng bừng, khí thế Cộng
Sản lụi tàn. Nhưng ngay lúc đó, ông Diệm và Tay Chân của ông lo diệt
Người Quốc Gia hơn là Cộng Sản, một thời cơ thuận lợi để nắm dân ông
Diệm đã đánh mất!
Những cuộc bầu cử như Trưng Cầu Dân Ý truất phế Bảo Đại, bầu cử Quốc
Hội Lập Hiến, Lập Pháp, Tổng Thống đều hoàn toàn Gian Lận Vi Luật
trắng trợn. Ông Diệm đã hạ lệnh cho Quân Đội tấn công Hòa Hảo, Cao Đài
vốn là những lực lượng Chống Cộng, hữu hiệu từ 1945 đến bây giờ và nếu
ông Diệm không độc tôn đã có thể đoàn kết thu hút họ. Ông đã lường gạt
Tướng Lê Quang Vinh, Người Hùng Nam Bộ, từng lập Chiến Khu chống cả
Pháp lẫn Cộng về hợp tác, rồi bắt chặt đầu. Cái chết bí mật của Tướng
Cao Đài Trình Minh Thế cũng trong nghi vấn là ông Diệm đã giết.
Và, ác nghiệt hơn cả, Nhà Ngô đã tuyển chọn Quân Đội Người Nùng --Một
Binh Chủng Thiện Chiến Say Máu-- thời bấy giờ, và các Chỉ Huy Trưởng
có Đảng Tịch Cần Lao cầm quân vào các Chiến Khu Quốc Dân Đảng ở Miền
Trung với ác lệnh: Giết Sạch. Sự tấn công vào các Chiến Khu Quốc Dân
Đảng còn Tàn Độc hơn hồi Giặc Pháp đi “Càn Quét” nhiều. Đốt Thực Phẩm,
Đốt Nhà, Tra Tấn Giết Người một cách Tàn Ác đã xảy ra ở Quế Sơn, Tiên
Phước, Duy Xuyên v.v... vào những năm 1955-1956.
Với lối tấn công ấy, Nhà Ngô đã phá vỡ được Chiến Khu Ba Lòng của Đại
Việt, nhưng không thể tiêu diệt các Chiến Khu Quốc Dân Đảng. Thuở đó
Quân Du Kích Quốc Dân Đảng Nam Ngãi đã giáng cho chính quyền địa
phương Diệm nhiều đòn chí tử. Biết rõ không thể tấn công để thủ thắng,
cuối cùng Ngô Đình Cẩn, Bào Đệ ông Diệm, lập kế mời về Hợp Tác. Làm Kế
Phỉnh Gạt, hơn 2000 Nghĩa Binh Quốc Dân Đảng kéo về với đầy đủ vũ khí
và Làm Lễ Hợp Tác tại Hội An cuối năm 1956. Nhưng sau đó Bọn Họ đều bị
thủ tiêu và lần lượt bị bắt đi mất tích --Khi ông Diệm đổ, một số
trong Bọn Họ đã được thả ra, nhưng đều Thân Tàn Ma Dại.


Thiết tưởng kẻ viết cần trình bày rõ là Quốc Dân Đảng Miền Trung lúc
đầu ủng hộ ông Diệm tích cực. Họ đã lên án Nguyễn Văn Hinh và ủng hộ
ông Diệm để Chống Cộng. Họ đã có Cán Bộ giữ chức vị Tỉnh Trưởng và
Quận Trưởng ở hai Tỉnh lớn Nam Ngãi --Quảng Nam Tỉnh Trưởng Lê Trung
Chi, Quảng Ngãi Phạm Đình Nghị. Phong Trào “Tố Cộng” Ly Khai Cộng Sản,
Xé Đảng Kỳ Cộng Sản, bắt đầu tháng 10/1954 do họ tiên khởi phát động ở
Quảng Nam rồi sau mới lan ra toàn quốc, nhưng Tay Chân Nhà Ngô nhận
định: Nếu để uy thế Quốc Dân Đảng Miền Trung lan tràn thì Phong Trào
Cách Mạng Quốc Gia và Đảng Cần Lao Nhân Vị do Nhà Ngô đẻ ra sẽ tuyệt
địa. Nên ông Diệm bất thần giải chức các Tỉnh Trưởng và bắt giam hàng
loạt các Quận Trưởng --có đảng tịch Quốc Dân Đảng-- ở hai Tỉnh Nam
Ngãi và mật lệnh triệt hạ toàn bộ Quốc Dân Đảng --lại vu cáo Quốc Dân
Đảng theo Pháp. Và, vì cớ ấy, khoảng tháng 3/1955 Quốc Dân Đảng Miền

Trung Lập Chiến Khu để tự vệ và để Quật Khởi Chống Diệm.
Trong suốt 9 năm ông Diệm cầm quyền, thời gian đó ở Nông Thôn, Cơ Quan
nào cũng có thể bắt người. Công An bắt người, Xã Trưởng bắt người,
Cách Mạng Quốc Gia --phong trào đẻ ra từ Nhà Ngô-- cũng bắt người rồi
giao cho Công An trừng trị. Nhưng ghê tởm nhất là Đoàn “Mật Vụ Miền
Trung” do Ngô Đình Cẩn đỡ đầu. Đó là Đoàn Hung Thần Toàn Quyền Sinh
Sát. Đoàn có quyền đi khắp nơi, đến đâu địa phương phải tiếp rước chu
đáo. Đoàn cần bắt ai thì giao cho Công An đi bắt bất kỳ đêm ngày. Nếu
tra tấn chết thì Quận Trưởng và Công An phải lập Biên Bản Hợp Thức Hóa
sự chết và bị bắt không cần phải có chứng cớ chỉ bị nghi chống Chính
Phủ là bị bắt --Tại Long Beach, California có một Đồng Hương từ ngày
vào đất Mỹ đến nay, vẫn nằm bẹp ở nhà, vì bệnh cũ tái phát, hậu quả
của sự tra tấn tàn độc của Mật Vụ Diệm.
Hầu hết viên chức chính quyền từ Quận Trưởng, Ty Trưởng, Tỉnh Trưởng ở
Miền Trung được bổ dụng thời đó, không phải vì khả năng Chuyên Môn hay
Tài Đức, mà vì lòng Trung Thành hay mức Quỳ Lụy cao thấp đối với Gia
Đình Nhà Ngô thôi. Phần lớn Viên Chức Chỉ Huy Cấp Tỉnh, Quận được bổ
dụng do một người ở Hậu Trường định đoạt. Đó là ông Ngô Đình Cẩn, Bào
Đệ ông Diệm, với chức vụ “Cố Vấn Chỉ Đạo” Phong Trào Cách Mạng Quốc
Gia --chức vụ này trên danh nghĩa là một tổ chức Nhân Dân, nhưng trên
thực tế là quyền quyết định tối hậu-- cũng như ở Miền Nam thì do vợ
chồng ông Nhu định đoạt.
Cũng vì lối bổ dụng đặc biệt này mới có tên Nguyễn Văn Tất nguyên là
Hương Bộ Thôn Thời Pháp Thuộc, nghiễm nhiên thành Tỉnh Trưởng Quảng
Ngãi; Lê Gia Quyến, Cán Bộ Phù Động hạng chót, bỗng nhiên là Quận
Trưởng Trà Bồng --hai tên này khi Diệm đổ thì bị bắt-- và còn hàng
chục hàng trăm trường hợp bổ dụng tương tự kể sao cho xiết. Cũng vì
lối bổ dụng này mới có tên Thái, Quận Trưởng Điện Bàn, mỗi khi đi Hành
Hạt có điều phật ý là cầm “Ba Tông” đánh xả lên đầu Viên Chức Xã. Cũng
vì lối bổ dụng này mà các Tỉnh, Quận Trưởng mỗi khi về Chầu Hầu Ông Cố
Vấn Chỉ Đạo, ông đều xem như Tôi Tớ, xưng hô “Mày Tao” nhưng bọn vô
liêm sỉ này vẫn gật đầu vâng dạ và xem sự Điếu Đóm Chầu Hầu “Cậu” là
một diễm phúc có hy vọng Thăng Quan Tiến Chức hoặc Giữ Vững Địa Vị.
Trước 1954 các Xã Trưởng đều được dân bầu, nhưng Thời Diệm đã bãi bỏ
bầu cử các Viên Chức Xã. Lại cho quyền Quận Trưởng đề nghị lên Tỉnh
Trưởng bổ dụng hoặc cách chức Viên Chức Xã, Ấp. Vì thế các Xã Trưởng,
Ấp Trưởng là những Tôi Tớ của Quận, Tỉnh hoàn toàn không phải của dân
--Điểm này phải khen ông Diệm thành thật. Tuy phản bội nguyên tắc dân
chủ trắng trợn, nhưng lại có minh văn. Nghị Định Bãi Bỏ Bầu Cử Xã
1956. Vì bộ máy chính quyền gồm toàn tay sai, tổ chức theo lối Gia Nô
Hóa cho Nhà Ngô như vậy, cho nên đã gây ra bao nhiêu Tham Nhũng, Bất
Công, Tang Tóc, Tù Đày cho Lương Dân vô tội nơi Nông Thôn. Mỗi một
chính sách của Nhà Ngô đưa ra là dân chúng kinh hoàng.
Quốc Sách Dinh Điền nghe thuyết trình thì thật hay nhưng thi hành thì
lệch lạc sai quấy. Cán Bộ Xã, Ấp cứ nhằm những người mình thù ghét
hoặc cần làm tiền thì ép buộc phải đi Dinh Điền. Thế cho nên ở một vài
Tỉnh đã có người tự tử vì bị ép buộc. Còn những người chịu đi Dinh
Điền, khi đến nơi lại bị Cán Bộ Dinh Điền hành hạ, đối xử bất công, ăn
chận của cấp phát v.v... nhiều sự không tốt xảy ra khiến họ chán nản
trốn về, vì vậy Tỉnh nào cũng có người ở tù vì chống phá Quốc Sách
Dinh Điền.
Quốc Sách Dinh Điền của Nhà Ngô trừ một vài vùng tương đối thành công,
còn phần lớn, hàng chục vùng Dinh Điền khác đều thất bại hoàn toàn.
Dân chúng lũ lượt trốn về quê, rồi bị bắt bớ đánh đập đã tổn phí tiêu
hao không biết bao nhiêu công quỹ! Nhà “Lãnh Đạo Anh Minh” có lần đi
kinh lý một Vùng Dinh Điền nhìn thấy những cây ăn trái được trồng trọt
tốt tươi, ngay thẳng, ông ta ban khen, nhưng chính đó là những nhánh
cây vừa được chặt cắm xuống đất trong ban đêm, do sáng kiến của Khu
Trưởng Dinh Điền chào mừng Tổng Thống.
Về Quốc Sách Ấp Chiến Lược là một Quốc Sách vô hiệu, nhưng đã làm
phiền nhiễu hành hạ dân chúng không thể kể xiết. Ấp Chiến Lược trước
hết là phải rào Làng-Xã, Ấp bằng nhằm vào những nhà có của khá giả
trong Làng đe dọa sẽ bỏ ra ngoài vòng rào vì những lý do “tiện” hoặc
“bất tiện” theo ý của họ. Thế là màn trà nước van xin được diễn ra --
vì bỏ ra ngoài rào là chết. Rồi đến khi rào Làng, thì dân chúng phải
tự nai lưng ra tìm kiếm vật liệu như tre, gai, cọc gỗ v.v... và bỏ
công đi rào ngày này qua ngày nọ. Còn quỹ Ấp Chiến Lược do Mỹ viện trợ
phần nhiều do Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng chia nhau bỏ túi hoặc làm kinh
tài cho “Cậu”. Sự rào các Xã cho đúng tiêu chuẩn là một điều kiện khó
khăn mà Dân Làng không đủ sức vì quá tốn kém. Vì vậy Ấp Chiến Lược chỉ
được rào kỹ một vài đoạn bề mặt để trình diện và để báo cáo. Còn lại,
thì chỉ rào sơ sài, ai ra vào cũng được. Nhưng mỗi tháng một lần, Xã,
Ấp lại đốc xuất dân kiếm vật liệu như tre, gai đi tu bổ. Người dân
biết rõ ràng rào Xã, Ấp như kiểu họ đang làm là một điều vô ích, chẳng
ngăn ngừa gì được Cộng Sản, nhưng phải bỏ công đi rào vì không thể
không tuân lệnh.
Trên đây là một vài nét điển hình về những Quốc Sách Kỳ Công của ông
Diệm.
Thời Ngô, những sự xây dựng cơ cấu dân chủ như bầu cử Quốc Hội, Tổng
Thống là những Trò Hề. Khi chưa bỏ phiếu người dân đã biết rõ ai trúng
ai trật một cách chắc chắn.
Một Dân Biểu Thời Ngô, người Thừa Thiên, được chỉ định ra ứng cử tại
Quận Đại Lộc, Tỉnh Quảng Nam có cái tên mà dân chúng địa phương không
biết y là đàn ông hay đàn bà vẫn đắc cử với số 99% với số phiếu. Đó là
ông Lâm My Bạch Tuyết --Dân Biểu này có liên quan trong một vụ buôn
gạo của Ngô Đình Cẩn cho Cộng Sản Bắc Việt, bị bắt quả tang, nhưng Tòa
Án không giám xử.
Dân chúng Ninh Thuận vẫn còn nhớ trong năm 1956, ứng cử viên Dân Biểu
đơn vị Ninh Thuận là ông Trần Trung Dung, cháu rể ông Diệm, từ chức
Thứ Trưởng Quốc Phòng để ra ứng cử. Khi ra Ninh Thuận “Tranh Cử”, ứng
cử viên Trần Trung Dung đã được Tỉnh Trưởng Ninh Thuận Hồ Trần Chánh
tổ chức một cuộc tiếp rước linh đình trọng thể. Dân chúng và học sinh
đứng hai bên đường từng đoàn từng đoàn từ Ga Tháp Chàm về đến Tỉnh Lỵ
Phan Rang để hoan hô ứng cử viên. Khi ông Dung bước lên diễn đàn để
tuyên bố: “Ngày trước Ngô Tổng Thống cai trị ở đây, Ngài biết rõ dân
tình ở đây nên nhờ tôi ra ứng cử ở địa phương này để có thể đạo đạt
nguyện vọng Nhân Dân lên Tổng Thống v.v...” Rồi sau đó ứng cử viên
Dung được tiếp rước về Nhà Công Quán của Tòa Hành Chánh Ninh Thuận có
lính hầu hạ canh gác trước sau. Chưa bỏ phiếu, dân Ninh Thuận đã biết
chắc ông Dung sẽ đắc cử 99% số phiếu.
Ai cũng chưởi ông Thiệu Độc Diễn. Nhưng Sự Độc Diễn của ông Thiệu còn
thật thà hơn ông Diệm, là khi ông Diệm ứng cử Nhiệm Kỳ 2, 1961, có các
ông Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Đình Quát dàn cảnh. Mỗi lần ông Quát,
ông Truyền đọc Diễn Văn Tranh Cử trên Đài không có ai nghe được gì hết
vì Đài bị phá. Cán Bộ các ông ấy đi về các Tỉnh vận động liền bị Công
An tổ chức những Nhóm Anh Chị Du Côn hăm dọa họ Xin Tý Huyết. Khắp
nơi, ngày bỏ phiếu họ trốn về không dám ở lại các Tỉnh. Vậy mà sau khi
kiểm phiếu Quận Trưởng, Xã Trưởng phải... chịu khó Tráo Sửa Biên Bản
để Ngô Tổng Thống được 95% Số Phiếu.
Về kinh tế, tất cả tài nguyên từ trên Núi xuống Bể, mọi dịch vụ tài
chánh từ Quảng Trị đến Cà Mâu, Thượng Vàng Hạ Cám, đều do Tay Chân
Quyến Thuộc Nhà Ngô bao thầu, thao túng, chiếm đoạt khai thác. Người
viết không muốn bẩn bút nhắc đến những ai trong Thân Tộc hoặc Tay Chân
Ngô Triều vốn là Tay Trắng chỉ trong vài năm “Làm Kinh Tài Cho Đoàn
Thể” đã trở nên triệu phú kếch xù!
Ông Diệm nói Chống Cộng nhưng tất cả việc làm của Ngô Triều đều bắt
chước Cộng Sản. Cộng Sản bắt dân suy tôn Hồ Chí Minh thì ông Diệm cũng
bắt dân suy tôn mình. Cộng Sản có Quốc Hội bù nhìn, thì ông Diệm cũng
tổ chức một cái Quốc Hội nghị gật tay sai --Quốc Hội gì mà cả một Khóa
Họp chỉ ê a thảo luận các Luật Gia Đình để có lợi cho Bà “Đệ Nhất Phu
Nhân”? Cộng Sản có cái Đảng Lao Động làm nòng cốt, Mặt Trận Cứu Quốc
Liên Việt làm ngoại vi, thì ông Diệm cũng có cái Đảng Cần Lao làm cốt
và Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia, Tập Đoàn Công Dân, Phụ Nữ Liên Đới
làm ngoại vi. Nhưng có một điều khác là Cộng Sản, từ Đảng đẻ ra chính
quyền, còn ông Diệm thì có chính quyền rồi mới dùng nhân sự, phương
tiện của chính quyền đẻ ra Đảng. Nên tất cả tổ chức của ông Diệm chỉ
là bèo bọt, chính quyền đổ thì Đảng đổ theo.
Cộng Sản Độc Quyền Ái Quốc, Ai Khác Mình là Phản Động Việt gian, thì
ông Diệm cũng Độc Quyền Chống Cộng, Ai Khác Mình là Cộng Sản Phải
Giết! --Đã biết bao người Chống Cộng, từng bị Cộng Sản giam cầm, đến
khi ông Diệm cầm quyền thì Hồ Sơ của họ trở thành là những người hoạt
động cho Cộng Sản! Biết bao đảng viên Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Duy Dân
một sớm một chiều Hồ Sơ của họ biến thành Cộng Sản di hại cho họ mãi
sau khi ông Diệm đổ.
Cộng Sản có Chủ Thuyết Mác Xít, giai cấp đấu tranh thì ông Diệm cũng
ráng nặn ra cái Chủ Nghĩa Nhân Vị nhưng hoàn toàn vô vị... --vô vị vì
ngoài Tay Chân ông Diệm ra Toàn Dân có ai để ý hoặc tìm hiểu các
Thuyết Nhân Vị là gì đâu? Cộng Sản có Hiến Pháp nhưng không bao giờ
thực thi, thì ông Diệm cũng bắt chước mà dẫm nát lên Hiến Pháp của
mình.
Tự Do Đi Lại, Hội Họp, Ngôn Luận v.v... những Quyền Tối Thiểu ấy có
ghi trong Hiến Pháp, nhưng suốt 9 năm ông Diệm cầm quyền có bao giờ
thực thi đâu? Báo Chí Thời Diệm trừ tờ Thời Luận của ông Nghiêm Xuân
Thiện bị đóng cửa đưa ra Tòa và tờ Tân Dân của Cụ Lộc phải đình bản,
còn tất cả đều nói theo luận điệu của Đài Sài Gòn. Thế cho nên bao
nhiêu hành vi Gian Ác Bất Lương, Tham Nhũng của Tay Chân Cán Bộ Nhà
Ngô có bao giờ được công khai phanh phui như trong các Chính Phủ khác?
Từ xưa đến nay chưa có một vị Lãnh Đạo Quốc Gia nào làm phiền nhiễu
dân chúng như ông Diệm. Mỗi lần ông Diệm đi kinh lý một Tỉnh nào thì
Toàn Dân Tỉnh ấy phải chuẩn bị cơm nước từ khuya, quần áo tươm tất, đi
bộ lên Tỉnh để cầm cờ tung hô ông Diệm --Gia đình nào không có lý do
chính đáng mà vắng mặt sẽ bị Xã, Ấp ghi vào Sổ Đen rất nguy hiểm. Còn
các Cơ Quan Hành Chánh, Quân Sự Tỉnh, Quận được huy động tối đa trong
việc đón tiếp. Phải bố trí Công An Chìm, Nổi, phải tổ chức huấn luyện
cho những người đứng gần ông Diệm thưa bẩm những gì... phải dàn cảnh
sao cho xôm tụ, cho Tổng Thống hài lòng. Thành thử dù nghìn lần đi
Kinh Lý, ông Diệm chỉ thấy cái giả dối, hào nhoáng bề ngoài, làm gì
biết được ẩn tình dân chúng bên trong. Thời gian ông Diệm cầm quyền ở
Nhiệm Kỳ I, trong nước chưa có Chiến Tranh nhưng mọi Tự Do đều bị bóp
nghẹt: Không có giấy chứng nhận đi bầu cử thì không được ra khỏi Làng
để đi chợ…
Có một điều kỳ lạ tại sao ông Diệm lại bãi bỏ Lễ Tổ Hùng Vương? nhưng
có người mách: Điều kỳ lạ này có thể hỏi Đức Cha Cố Vấn cho ông Diệm.
Về việc Kỳ Thị Tôn Giáo, bản thân kẻ viết không muốn nhắc đến. Chỉ
mong sao các Tôn Giáo hiện tại tâm thành Đoàn Kết trước Quốc Thù Cộng
Sản vì tất cả các Tôn Giáo đều đã bị Đại Khủng Bố ở quê nhà. Nhưng vì
có kẻ biện hộ ông Diệm đã nói: Họ chưa thấy ông Diệm ký một Sắc Lệnh
nào nâng đỡ ưu tiên cho Công Giáo hay bóp nghẹt Phật Giáo mà gọi là Kỳ
Thị? Vụ Tranh Đấu Phật Giáo đâu phải bất thần nổ ra từ Phật Đản 1963
mà nó đã tiềm tàng âm ỉ từ nhiều năm về trước. Thời ông Diệm tại Miền
Trung, mỗi Tỉnh có một vị Linh Mục hầu như Cố Vấn và Giám Sát Tỉnh
Trưởng. Những Tỉnh Trưởng nào dù Lương hay Giáo, nếu có hành vi trái ý
vị Linh Mục thì rất khó tại vị. Vị Linh Mục sẽ đề nghị lên Ông Cố Vấn
Chỉ Đạo Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia --ông Ngô Đình Cẩn-- có biện
pháp --hoặc thuyên chuyển hoặc cách chức...
Vì Cảm Thông Uy Quyền Ngầm của các vị Linh Mục, nên các Tỉnh, Quận
Trưởng Thời Nhà Ngô không có ai gan làm trái ý những yêu cầu, đề nghị
của các vị Linh Mục. Nhiều vùng Linh Mục đi giảng đạo nơi nào, có thể
yêu cầu Xã Trưởng cho mượn Trụ Sở Xã, triệu tập Dân Xã v.v... Trong
khi đó các Tôn Giáo khác muốn Hội Họp phải xin phép khó khăn. Nhiều
Linh Mục còn lộng hành hơn nữa là nhận Đơn Kiện Cáo hoặc Thỉnh Nguyện
của các Con Chiên, rồi phê vào đơn, đưa đến Quận Trưởng bảo xử theo ý
của Linh Mục.
Người ta rỉ tai nhau cho biết các Cha rất có thế lực. Cứ vào Công Giáo
sẽ như Ưu Dân, sẽ được đề bạt v.v... Có nhiều Linh Mục tổ chức Hội
Chợ, tổ chức sổ Số Tombola không cần giấy phép Bộ Nội Vụ. Khi tiêu thụ
Tombola, các Linh Mục đã nhờ các Quận Trưởng gởi cho các Xã bán. Nhiều
Xã đã xuất công quỹ để mua Tombola ủng hộ các Cha. Người viết biết rất
rõ có một Nhà Thờ ở một Tỉnh Miền Trung, do Tỉnh Trưởng dùng uy quyền
chiếm trên 2 mẫu đất công, ở một địa điểm tốt đẹp và lươn lẹo dùng
phương tiện công quỹ của Tỉnh để xây cất Tòa Nhà Thờ đồ sộ ấy. Công
việc nửa chừng thì ông Diệm đổ, viên Tỉnh Trưởng bị bắt và Nhà Thờ xây
cất nửa chừng phải bỏ dở.
Còn biết bao nhiêu tranh chấp lặt vặt phi lý như những thắng cảnh từ
lâu vốn là của Phật Giáo như Núi Bút Quảng Ngãi, Ngũ Hành Sơn Quảng
Nam, chính quyền địa phương đã muốn giúp các Linh Mục thiết lập Nhà
Thờ ở những nơi ấy, nhưng đã bị Phật Tử phản ứng quyết liệt.
Thời gian thuận lợi 1954-1958 bất kỳ ai cũng có thể cầm quyền làm bằng
hoặc hơn ông Diệm. Không cần ông Diệm chống Pháp, Pháp cũng rút, vì
Hiệp Định Genève đã Quy Định, và vì Pháp đã ký kết với Chính Phủ Bảo
Đại giao trả Độc Lập cho Việt Nam. Trước khi ông Diệm về chấp chánh đã
có gần 40 nước trong Thế Giới Tự Do công nhận và bang giao với Việt
Nam kể cả Anh, Mỹ và Tòa Thánh Vatican. Nếu nói những khó khăn của ông
Diệm thời đó, thì cũng phải nói đến những thuận lợi, tiện nghi của ông
Diệm trong việc tiếp thu một chính quyền có sẵn tất cả và Đất Nước Đã
Chấm Dứt Chiến Tranh.
Đến đây kẻ viết muốn hỏi nhỏ quý vị đang suy tôn ông Diệm: Ông Diệm
từ một đường Quan Tri Huyện, lần lượt lên Quản Đạo, Tuần Vũ rồi Thượng
Thư Bộ Lại, nếu thật sự chống Pháp, sao đường Công Danh của Lãnh Tụ
quý vị lại Hanh Thông như vậy? (trong Thời Pháp thuộc muốn xin một
chân Giáo Viên mà có thành tích chống Pháp bị Ty Liêm Phóng, Service
de Sureté, phê “Avis défavorable” vào Hồ Sơ là đương sự xem như...
“Lúa”, chỉ có về nhà... xua gà cho vợ. Vậy tại sao đường Công Danh của
“Chí Sĩ” Ngô Đình Diệm lại lên vùn vụt?
Việc Từ Quan của ông Diệm chỉ vì chống nhau với ông Phạm Quỳnh Đương
Triều, nhưng ở đây người viết không đề cập đến vấn đề đó.
Ông Diệm tự phong mình là Người Thành Tín Quân Tử, nhưng việc truất
phế Bảo Đại là Đại Phản Phúc. Nếu nói chống ông Bảo Đại, thì ai cũng
có quyền chống, nhưng trừ ông Diệm. Vì Cha, Anh ông Diệm và cả ông
Diệm vốn là “Tôi Con Nhà Nguyễn”. Ông Bảo Đại trên nguyên tắc đã tín
nhiệm ông Diệm, đã “Phú Thác Việc Nước” cho ông Diệm và ông Diệm đã
“Phục Mệnh”. Trước và sau khi truất phế ông Bảo Đại, ông Diệm, qua Bộ
Thông Tin, đã thuê bọn Bồi Bút --hầu hết Báo Chí Thời Diệm-- mở một
chiến dịch dài hạn đả kích, bêu xấu, vu cáo nhục mạ ông Bảo Đại một
cách tàn tệ.
Thiết nghĩ một người có lương tâm tối thiểu, không ai nỡ hành xử như
thế! Cũng phải khen việc “Trưng Cầu Dân Ý” tổ chức thật chu đáo. Đến
Bà Từ Cung mà cũng Bỏ Phiếu Truất Phế ông Bảo Đại!
Tóm lại: Ông Diệm Đã Làm Hỏng Đại Cuộc, đã sát hại nhiều phần tử Quốc
Gia, đã tự tâm thiên vị làm hư Công Giáo, đã Kỳ Thị khủng bố Phật Giáo
đã Lường Gạt Phản Bội và Vô Cùng Tham Quyền Cố Vị --Ông đã vận động
Quốc Hội thông qua Đạo Luật cho ông ứng cử lần thứ 3.
Do những hành động Tham Nhũng, Đàn Áp, Khủng Bố, Đại Thất Nhân Tâm như
đã kể trên, của bộ máy chính quyền gia nô, do ông lãnh đạo, đã xô đẩy
hàng hàng lớp lớp Thanh Niên, Phụ Lão, những “Người Vốn Không Phải
Cộng Sản” đã ngã về Cộng Sản. Ông Diệm hô hào Chống Cộng, Độc Quyền
Chống Cộng, cho đến đầu năm 1963 thì toàn quốc ở trong cái thế cài
răng lược với Cộng Sản và ông đã tuyên bố trước đó: “Tổ Quốc Lâm
Nguy!”.
Sau khi ông chết, thì Tay Chân Tôi Tớ Ông Vẫn Cầm Quyền. Hậu quả của
Ngô Đình Diệm để lại sau 1963 là một Ngôi Nhà Mục Nát sửa sang gì cũng
khó lòng đứng vững. Bàn Cờ Nhà Ngô đã đi bậy bạ... Khi sang tay khác
đánh cờ, nếu gặp phải tay cao thủ thì còn có thể gỡ gạt..., nhưng
không may, Bàn Cờ lại rơi vào các tay thấp như vịt, cho nên họ chỉ
loay hoay lên Tướng, xuống Sĩ và giục Tốt mà thôi!
Trách Mỹ lật đổ Nhà Ngô ư? Mỹ bồng Nhà Ngô lên thì Mỹ lại hạ Nhà Ngô
xuống, có gì mà đáng trách.
Sau khi ông Diệm chết, Tay Chân Nhà Ngô còn trong Quân Đội, trong
chính quyền đã âm mưu phá nát thêm Quốc Gia, bí mật mở cửa cho Cộng
Sản thao túng vì muốn chứng tỏ: Không có “Cụ” của chúng thì tai hại
thế đó --Đây là một hiện tượng nguy hiểm cho Quốc Gia sau ngày Diệm đổ
mà ít ai để ý. Chỉ tiếc Dương Văn Minh nhu nhược, đã lật Diệm mà chỉ
Lật Nửa Chừng, chỉ hạ cái Chóp Bu còn Tay Chân vẫn để y nguyên như cũ,
sau Diệm có thể gọi là “Diemist sans Diem”.
Cuộc Lật Đổ Nhà Ngô năm 1963 đáng lý là một Cuộc Cách Mạng vì đã nối
tiếp Tinh Thần Quật Khởi Chống Bạo Quyền của Dân Việt, nối tiếp những
Hành Động Đại Nghĩa Hy Sinh liên tục của các Chiến Sĩ Quốc Gia dưới
Thời Diệm trị. Ta có nên kể lại từ một thanh niên Cao Đài hành động
như một Kinh Kha tại Ban Mê Thuột năm 1955, từ các Sĩ Quan Nhảy Dù bao
vây Dinh Độc Lập 1960, từ 2 Phi Công ưu tú Phạm Phú Quốc, Nguyễn Văn
Cử bắn phá Dinh Độc Lập 1962 và biết bao nhiệm Vụ Mưu Sát Bạo Chúa Bất
Thành, mà chỉ có Mật Vụ Nhà Ngô mới biết rõ, cho đến khi Đại Úy Nhung
và Thiếu Tá Nghĩa căm phẫn trả thù cho các đồng chí của họ.
Lật Diệm năm 1963 đáng lý là một Cuộc Cách Mạng vì đã giải thoát hàng
vạn Người Quốc Gia trong các “Ngục Tù” trên toàn quốc, giải thoát hàng
triệu Nhân Dân đang Nghẹt Thở dưới một Chế Độ Thối Nát Học Thói Độc
Tài. Toàn Dân đã bừng bừng phấn khởi... Nhưng hỡi ơi hương lửa Cách
Mạng chỉ bừng lên vài ba tuần đầu rồi dần dần tắt ngủm, chỉ vì người
cầm đầu Dương Văn Minh nhu nhược chỉ muốn Cuộc Cách Mạng ấy là một
Binh Biến hay Chỉnh Lý thôi.
Nhiều người bào chữa cho ông Diệm: Ông Diệm rất tốt chỉ vì Tay Chân
ông làm sai. Lối bào chữa này e giống Cộng Sản: Hồ Chủ Tịch luôn luôn
sáng suốt chỉ có cấp dưới làm bậy!

Dân Tộc Việt Nam là một Dân Tộc hỉ xả, uất hận bao nhiêu nhưng khi đối
phương đã xuống ngựa thì sẵn sàng làm lành với nhau quên đi hết mọi
lỗi lầm thù xưa oán cũ. Nhưng Cây Muốn Lặng Gió Mà Gió Chẳng Dừng, ta
bất đắc dĩ Khơi Lại Đống Tro Tàn để phơi bày sự thật.
Vì là chứng nhân nên chẳng muốn ẩn danh.
Gs Lê
Nguyên Long
Khai Phóng Số 7,
1981, USA
Cước-Chú:
Lê Nguyên Long, một Nhân Sĩ Miền Trung, Lãnh Tụ Việt Quốc vùng Nam
Ngãi. Trưởng thành qua những Thời Đại Phong Kiến, Độc Tài, Cộng Sản.
Ông đã là chứng nhân của Lịch Sử Cận và Hiện Đại. Bài viết của ông
trên đây, dù thuộc về một đề tài vốn đã được nói nhiều, nhưng vì tính
cách chứng nhân đó của Tác Giả mà nó vẫn có cái giá trị riêng biệt của
nó --Cần thiết cho một cái nhìn đúng đắn về Lịch Sử.

> không theo kịp với ...
>
> read more »

Viet MJC

unread,
Nov 4, 2010, 2:59:57 PM11/4/10
to Xã - Tắc

Kiêu Dân Công Giáo Thời Ngô Đình Diệm

Bài các bạn đang đọc được viết với hai mục đích có liên quan mật thiết
với nhau.
Thứ nhất, để góp ý với Trần Ngọc Cư, Hòa Nguyễn và Trần Văn Tích về
bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, trong Buổi Lễ Chào
Cờ, bài ca này phải được hát kèm với Tiếng Gọi Công Dân, Quốc Ca chính
thức do Lưu Hữu Phước et al sáng tác. Nó có đoạn như sau:
Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống
Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm
Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống
Xin Thượng Đế ban phước lành cho người
Thứ hai, để trả lời một câu hỏi quan trọng mà “Dũng Vũ” đã đặt ra cho
tôi trên Diễn Đàn Talawas. Câu hỏi này có liên quan đến nhận định của
Sử Gia Tạ Chí Đại Trường về Khối Người từng làm nòng cốt cho Chế Độ
Ngô Đình Diệm.
Tôi sẽ đi sâu vào bài Quốc Ca “Kép” nói trên, sau khi giải quyết xong
thắc mắc do Dũng Vũ nêu lên về nhận định của Nhà Viết Sử họ Tạ.
Theo Tạ Chí Đại Trường, người từng sống dưới Chế Độ Ngô Đình Diệm,
đồng bào Công Giáo từ Bắc Di Cư vào Nam thời đó là một Khối Kiêu Dân.
Sau đây là toàn bộ văn cảnh của nhận định nói trên nơi trang 457 trong
cuốn Sử Việt, đọc vài quyển, được Văn Mới xuất bản tại California năm
2004. Khi bàn về mối hiểm họa của Cộng Sản Miền Bắc đối với Miền Nam,
Tạ Chí Đại Trường tự hỏi:
“Làm cách nào mà một chính quyền Sài Gòn lộn xộn với giáo phái sứ
quân, với giang hồ đạo tặc, với Công Giáo Di Cư ít nhiều gì cũng là
Kiêu Dân, với cả Người Pháp còn tham vọng giữ phần đất thuộc địa cuối
cùng… có thể đương cự với cả một nền tảng đe doạ trùng trùng như thế?
Lịch sử ổn định bước đầu của chính quyền đó là một phối hợp tuyệt vọng
của những Người Việt Chống Cộng (một tập-hợp-từ tiêu cực đúng với thực
chất hổ-lốn của nó) chỉ còn một mảnh đất nương thân, và của Người Mĩ
đứng nhìn trong bình diện chiến lược quốc tế thấy mình phải chen chân
vào.”
Vì họ Tạ là một Sử Gia có uy tín, nên sau khi đọc câu văn mười hai chữ
được nhấn mạnh ở trên vào khoảng cuối năm 2004, tôi lập tức tìm cách
kiểm chứng nó và tôi đã tìm được sự xác nhận đầu tiên trong hai bài
nghiên cứu của Nguyễn Thế Anh, “L’engagement politique du Bouddhisme
au Sud-Viêt-Nam dans les années 1960” trong Alain Forest et al (dir.),
Bouddhismes et Sociétés Asiatiques: Clergés, Sociétés et Pouvoirs,
L’Harmattan, Paris, 1990, tr. 111-124, và “Le Sangha bouddhiste et la
société vietnamienne d’aujourd’hui”, được đăng trên trang VIET NAM
Infos.
Giáo Sư Nguyễn Thế Anh là một Học Giả có tầm vóc Quốc Tế, được đồng
nghiệp Á Âu Mỹ công nhận là một trong những người có thẩm quyền nhất
về lịch sử Việt Nam thời cận đại. Thế nhưng, tôi cũng ý thức được rằng
tôi không thể chỉ dựa vào uy tín của ông để lượng định mức khả tín của
câu văn mười hai chữ nói trên. Hai bài nghiên cứu của vị cựu Viện
Trưởng Viện Đại Học Huế và nguyên Trưởng Ban Sử Học Đại Học Văn Khoa
Sài Gòn này chỉ là những sử liệu hạng hai. Muốn kiểm chứng một cách
thấu đáo nhận định của Tạ Chí Đại Trường về “Kiêu Dân Công Giáo” Thời
Ngô Đình Diệm, tôi phải cố gắng tìm cho ra sử liệu hạng nhất về vấn đề
này. Hai loại sử liệu mà tôi phân chia ra thành hạng nhất và hạng hai
được Nguyễn Kỳ Phong, Tác Giả cuốn Vũng Lầy Của Bạch Ốc: Người Mỹ và
Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, định nghĩa một cách tương tự như sau:
“Sử liệu có hai loại: Primary and Secondary Documents (Tài Liệu Chánh
và Tài Liệu Phụ). Hồi Ký, văn kiện chính thức, Lời Phỏng Vấn từ nhân
chứng, được xếp vào loại Tài Liệu Chánh. Trích Dẫn, Nghe Nói Lại, hay
Sách Biên Khảo của người thứ ba, là Tài Liệu Phụ. Hai loại tài liệu đó
đều được công nhận khi dùng làm sử liệu viết sách.”
Vốn là Mọt Sách tu lâu năm trong Tàng Kinh Các ở Tây Phương, nên qua
phần ghi chú trong hai quyển sách viết về Chiến Tranh Việt Nam, tôi đã
tìm thấy hai tài liệu được hình thành trước ngày 8 tháng 5 năm 1963.
Chính vì được viết ra trước khi Biến Cố Phật Giáo 1963 bùng nổ, nên
nội dung của hai tài liệu này không bị chi phối bởi cuộc tranh chấp
giữa Phong Trào Phật Giáo và Chế Độ Ngô Đình Diệm. Do đó, chúng có một
mức độ khả tín rất cao. Hai tài liệu nói trên gồm:
1) “The Buddhist Movement in Vietnam and its Difficulties with the
Present Government”, một tài liệu do các nhà biên khảo Hoa Kỳ hoàn tất
vào tháng Tư năm 1961 và hiện đang được lưu trữ tại Văn Khố Chiến
Tranh Việt Nam ở Lubbock bên Texas, và
2) “L’Église au Sud-Vietnam”, một phóng sự được đăng trên Tạp Chí
Informations Catholiques Internationales vào ngày 15 Mars 1963, từ
trang 17 đến trang 26.
Như vậy, câu văn mười hai chữ của Tạ Chí Đại Trường chẳng những được
một chuyên gia hàng đầu trong Ngành Sử Việt xác nhận (confirmed), mà
còn được tăng bổ (corroborated) bởi hai tài liệu chánh (sử liệu hạng
nhất) mà chúng ta có quyền cho là rất khả tín. Nhờ vậy nên tôi đã có
đầy đủ căn cứ để chấp nhận rằng nhận định ngắn gọn mà Tạ Sử Gia đã đưa
ra về Khối Kiêu Dân Công Giáo Thời Ngô Đình Diệm cầm quyền tại Miền
Nam Việt Nam là một nhận định rất khả tín, có thể giúp chúng ta hiểu
được tại sao Ngô Triều đã đánh mất sự ủng hộ của “Người Lương” và cuối
cùng bị lật đổ.
Sau khi công bố những điều vừa mới được viết bên trên trong Mục Phản
Hồi ở Diễn Đàn Talawas, tôi hân hạnh nhận được sự lưu tâm và câu hỏi
dưới đây của độc giả Dũng Vũ:
‘Thưa ông Trần Lâm,
Ông viết: “Tôi hoàn toàn không vô tình khi dùng 2 chữ “Kiêu Dân”, vì
những sử liệu do tôi đưa lên mạng cho phép tôi suy luận rằng khái niệm
“Kiêu Dân Công Giáo” là một khái niệm có thể giúp chúng ta hiểu được
tại sao Chế Độ Diệm đã đánh mất sự ủng hộ của Người Lương tại Miền Nam
Việt Nam, đưa đến sự sụp đổ của Chế Độ này… Tôi nói chuyện có bằng
chứng hẳn hoi, thì tại sao tôi phải sợ ai?”
Xin phép được hỏi ông: “Kiêu Dân” có nghĩa là gì?
Cảm ơn ông…’
Đây là một câu hỏi rất chính đáng, cần được một sự hồi đáp tường tận.
Nếu chúng ta trả lời được câu hỏi này một cách thỏa đáng thì có lẽ
chúng ta sẽ có thể tìm được nguyên nhân sâu xa đưa đến sự sụp đổ của
Chế Độ Ngô Đình Diệm. Như đã nói qua ở trên, Chế Độ này còn được gọi
là “Ngô Triều” hay “Ngô Trào”.


Trải qua một cuộc bể dâu

Trông vời cố quận biết đâu là nhà

Khéo oan gia, của phá gia

Này là em ruột, này là em dâu!


Cửa nhà dù tính về sau

Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào!

(Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, Chơi
Chữ)
Tôi không rành chuyện văn chương, nên chỉ dám đoán mò rằng câu Cửa nhà
dù tính về sau trong bài thơ nói trên ám chỉ việc Ngô Đình Cẩn đã cho
xây một ngôi biệt thự rất nguy nga tráng lệ ở ngoài Huế. Tôi còn nhớ
cách đây khoảng 20 năm tôi có đọc trong Nhật Ký Đỗ Thọ rằng người ta
đã phải đập đồ bát vỡ ra từng mảnh để lát nền (cho một phần) trong
ngôi biệt thự này. Trong những dòng chữ dưới đây, tôi sẽ không đập vỡ
bất cứ vật gì, mà chỉ cố gắng đi lượm lặt những mảnh sử liệu vụn vặt,
rồi sắp xếp chúng lại thành một bức khảm mosaic, để Dũng Vũ nói riêng
và bạn đọc bốn phương nói chung ít nhiều gì cũng thấy được bộ mặt của
Kiêu Dân Công Giáo Thời Ngô Đình Diệm.

Kiêu Dân, Ngươi Là Ai?
Thời dòng họ Ngô Đình “Dĩ Đức Vi Chính” tại Miền Nam Việt Nam, Kiêu
Dân thường là những tín đồ Công Giáo (Di Cư) dựa vào sự dung túng của
kẻ có thế, có quyền để hống hách ngang ngược, xem thường luật pháp, vi
phạm một cách trắng trợn nhân quyền và dân quyền của người khác,
thường là những Lương Dân vô tội.
Sau đây là vài ví dụ điển hình.

1. Trong suốt ba năm liền, Kiêu Dân đã hằng đêm ném gạch, đá vào nhà
thân nhân vô tội của một chính trị phạm, mà (hình như) không hề bị cơ
quan công lực trừng phạt. Xem chứng từ của Phan Lạc Giang Đông, một
cựu Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và cũng là bào đệ của Phạm Lạc
Tuyên, một viên Sĩ Quan tham gia vào cuộc đảo chính hụt ngày 11 tháng
11 năm 1960:
“Gia đình tôi kể từ ngày này hoàn toàn không còn được yên nữa. Khu Xứ
Đạo Thái Hòa (Xứ Đạo của đồng bào Bắc Di Cư vào Nam), mọi người ở lối
xóm đã có thái độ khác trước. Mỗi tối, khoảng từ bảy, tám giờ thì một
số người, không biết từ nhà nào đã ném gạch, đá lên mái nhà (bằng
tole) của gia đình, ông cụ thân sinh tôi rất buồn và gặp thẳng Linh
Mục Xứ Đạo để nói việc này, song không giải quyết được. Việc họ ném
như thế kéo dài cho đến khi Chế Độ Ngô Đình Diệm sụp đổ mới chấm
dứt.” [1]
Xin thêm: Xứ Đạo Thái Hòa, theo lời của Phan Lạc Giang Đông, nằm ở
Ngã Ba Ông Tạ. Là một người sinh ra và sống những năm đầu đời tại một
thị xã hẻo lánh ngoài Vùng II Chiến Thuật trước khi theo cha mẹ Vượt
Biên Tỵ Nạn Cộng Sản, tôi thật tình không biết cái Ngã Ba này nằm ở
đâu. Nhưng vì chúng ta đang bàn về câu văn mười hai chữ của vị Sử Gia
họ Tạ, nên xin ghi luôn chi tiết vui vui bên lề này vào bài.

2. Tại tỉnh Quảng Ngãi, một vị Linh Mục đã thông đồng với viên Tỉnh
Trưởng trong mưu toan cướp đất của một ngôi chùa tại một làng trong
tỉnh này để xây tượng đài cho Đức Mẹ, đưa đến sự xung đột giữa Phật Tử
ở ngôi làng nói trên và chính quyền địa phương. Xem trang 4 trong tài
liệu “The Buddhist Movement in Vietnam and its Difficulties with the
Present Government” đã được đề cập đến ở phần đầu của bài. Xin nhắc
lại, vì tài liệu này được hình thành trước khi cuộc xung đột giữa Phật
Giáo và Chế Độ Diệm bùng nổ, nên nội dung của nó rất đáng tin.

3. Dưới Thời Ngô Đình Diệm, tín đồ Công Giáo thường được Quân Đội và
cơ quan Thông Tin tiếp tay để tổ chức trên đường phố Sài Gòn hay Huế
những Cuộc Rước Lễ [?] linh đình, gây ra sự tắc nghẽn giao thông trầm
trọng, khiến cho Người Lương phải gặp nhiều phiên phức trong việc đi
lại. Việc này đã khiến cho Giáo Sư Nguyễn Văn Trung lúc đó phải thốt
lên rằng những người tổ chức các Cuộc Rước Lễ [?] nói trên nghĩ đường
phố là của riêng của Giáo hội Công Giáo hay sao. [2] Tuy nhiên, có
người vẫn chưa hài lòng. Khi Phật Tử tiến hành nghi lễ tại chùa thì
sinh hoạt Tôn Giáo của họ, theo chứng từ của một tín đồ Công Giáo Việt
Nam, lại bị các công xa của sở Thông Tin có mang loa phóng thanh đậu ở
gần chùa phá rối. [3]
Chứng từ nói trên được đăng trong Tạp Chí Informations Catholiques
Internationales, phát hành vào tháng Ba năm 1963, cho nên nội dung của
nó không thể bị ảnh hưởng bởi Biến Cố Phật Giáo xảy ra sau đó. Vì vậy
chứng từ này cũng là một sử liệu rất đáng tin.

4. Kiêu Dân gây áp lực không cho sách của Nguyễn Hiến Lê được dùng tại
các trường ngoài Miền Trung, tuy sách này đã được Bộ Thông Tin cho
phép phát hành. Sau đây là lời tường thuật của chính vị cố Học Giả họ
Nguyễn:
“Đầu niên khóa 1954-1955, trong chương trình Trung Học Đệ Nhất Cấp có
thêm môn Lịch Sử Thế Giới dạy trong bốn năm. Ông Thiên Giang lúc đó
dạy sử các lớp Đệ Lục, Đệ Ngũ. Tôi bàn với ông soạn chung Bộ Sử Thế
Giới càng sớm càng tốt cho học sinh có sách học, khỏi phải chép
“cua” (cours). Ông đồng ý. Chúng tôi phân công: Tôi viết cuốn đầu và
cuốn cuối cho lớp Đệ Thất và Đệ Tứ, ông viết hai cuốn giữa cho Đệ Lục
và Đệ Ngũ. Chúng tôi bỏ hết công việc khác, viết trong 6 tháng xong;
tôi bỏ vốn ra in, năm 1955 in xong trước kì tựu trường tháng chín. (…)
Sau một Linh Mục ở Trung yêu cầu Bộ Giáo Dục cấm bán và tịch thu hết
Bộ Sử đó vì trong cuốn II viết về Thời Trung Cổ, chúng tôi có nói đến
sự bê bối của một vài Giáo Hoàng. Bộ phái một viên bí thư có bằng cử
nhân lại tiếp xúc với tôi. Ông này nhã nhặn, khen tôi viết sử có nhiệt
tâm, cho nên đọc hấp dẫn như Bộ Sử Pháp của Michelet; rồi nhận rằng
sách tôi được Bộ Thông Tin cho phép in, lại nạp bản rồi thì không có
lí gì tịch thu, cấm bán được, chỉ có thể ra thông báo cho các trường
đừng dùng thôi; cho nên ông ta chỉ yêu cầu tôi bôi đen vài hàng trên
hai bản để ông ta đem về nộp bộ, bộ sẽ trả lời Linh Mục nào đó, còn
bán thì tôi cứ bán, không ngại gì cả. Tôi chiều lòng ông. (…)
Hồi đó Bộ Lịch Sử Thế Giới của tôi chỉ còn một số ít. Tôi hỏi các nhà
phát hành, được biết có lệnh cấm các trường ngoài Trung dùng nó; trong
Nam thì không. Chỉ ít tháng sau bộ đó bán hết, tôi không tái bản. Công
Giáo thời đó lên chân như vậy.” [4]

5. Cũng theo chứng từ của Người Giáo Dân mà chúng ta vừa gặp ở phần
trên, Kiêu Dân đã lạm dụng quyền thế để đả kích tín ngưỡng của các học
viên Người Lương phải theo học khóa học Nhân Vị tại Trung Tâm Nhân Vị
ở Vĩnh Long. Vì sợ bị ghi danh vào sổ đen, những nạn nhân này đành
phải chịu đựng trong im lặng, khiến cho các học viên Công Giáo tại
khóa học cũng cảm thấy hổ thẹn trước hành động hống hách nói trên. [5]
Đây là một điểm cần phải được nhấn mạnh, vì nó cho ta thấy rõ không
phải tín đồ Công Giáo nào tại Miền Nam cũng là Kiêu Dân khi vùng đất
đáng lẽ là tự do này phải sống dưới sự thống trị của Nhà Ngô. Ngay cả
trong hàng giáo phẩm Công Giáo cũng đã có những bậc chân tu cố tránh
xa Chế Độ Ngô Đình Diệm để duy trì uy tín và tính chất độc lập của
Giáo hội. [6]
Cố Học Giả Nguyễn Hiến Lê cho biết: “Ngô Đình Thục ở Vĩnh Long… tạo
ra thuyết Duy linh chống với thuyết Duy vật của Cộng Sản, bắt công
chức nào cũng phải học. Họ chẳng học được điều gì mới cả, chỉ phải
nghe mạt sát đạo Phật và đạo Khổng. Những người theo học đại đa số thờ
Phật, đau lòng mà không dám cãi.” [7]
Phải chăng thái độ kiêu căng và khiêu khích của một bộ phận quan trọng
trong cộng đồng Công Giáo tại Miền Nam mà chúng ta vừa thấy qua những
trường hợp nêu trên đã là một trong những nguyên nhân chính khiến cho
Khối Người Lương ở phía dưới Vĩ Tuyến 17 ngày càng xa cách Chế Độ Ngô
Đình Diệm, đưa đến sự sụp đổ của nó vào cuối năm 1963?

“Cả Làng Xin Được Rửa Tội…”
Do những biến cố xảy ra trong năm 1963, Chế Độ Ngô Đình Diệm thường bị
những người chống đối tố cáo là một Chế Độ đã lệ thuộc (quá) nhiều vào
sự hậu thuẫn trung thành của Giáo Dân (Di Cư) và, vì vậy, đã dành cho
khối người này một sự nâng đỡ đặc biệt. Nhưng thật ra, không phải đợi
đến năm 1963 mới thấy được sự gắn bó keo sơn giữa (một khối) tín đồ
Công Giáo và Nền Cộng Hòa Nhân Vị do anh em Tổng Thống Diệm lãnh đạo.
Quan hệ này đã nhen nhúm ngay sau khi Chế Độ Ngô Đình Diệm vượt qua
được giai đoạn phôi thai đầy nguy hiểm. Trong Tạp Chí International
Affairs phát hành vào tháng 4 năm 1956, J. Donald Lancaster nhận xét:
Tổng Thống Diệm bị hạn chế trong việc thế thiên hành đạo tại Miền Nam
Việt Nam bởi lòng trung thành đối với Tôn Giáo cũng như gia đình của
chính ông ta.
Lòng trung thành nói trên rất có thể đã là một trong những yếu tố
khiến cho Người Lương đột nhiên theo Đạo Công Giáo hàng loạt Thời Dòng
Họ Ngô Đình cầm cân nẩy mực phía dưới Vĩ Tuyến 17, một hiện tượng
Nguyễn Hiến Lê có đề cập đến trong hồi ký của mình (trang 121, tập
II). Ông kể lại: “Diệm-Nhu theo chính sách Ba-Đ: Đảng (Cần Lao), Đạo
(Công Giáo) và Địa Phương (Miền Trung). Chỉ Công Chức nào có đủ Ba Đ
mới được tin dùng, cho nên con số tín đồ Công Giáo tăng vọt lên, nhất
là ở Miền Trung; có Giáo Đường làm lễ rửa tội hằng trăm người một
lúc.”
Người nổi tiếng và thành đạt nhất trong Nhóm Giáo Dân Tân Tòng này
không phải ai khác hơn là một viên Sĩ Quan gốc Miền Trung tên Nguyễn
Văn Thiệu. Ông Thiệu lập gia đình với một nữ tín đồ Công Giáo trước
khi Ngô Triều được thiết lập. Nhưng mãi đến năm 1958, tức là lúc Triều
Đại này đã “Vững Nền Thịnh Trị”, ông mới để cho Linh Mục Bửu Dưỡng,
một lý thuyết gia quan trọng của Trường Phái Cần Lao Nhân Vị, rửa tội
tại Đà Lạt. Chính LM Bửu Dưỡng đã cho Tướng Edward Lansdale biết điều
này và nhờ bản báo cáo Lansdale gửi cho Đại Sứ Elsworth Bunker ngày 20
tháng 4 năm 1968, nên Sử Gia Vũ Ngự Chiêu mới có thể tìm ra được một
chứng liệu thành văn về Sự “Trở Lại Đạo” của Nguyễn Văn Thiệu. [8]
Arthur Dommen, một Học Giả có cảm tình với họ Ngô, cũng cho biết vị Tư
Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh trong tương lai này không theo Đạo lúc lập gia
đình, mà chỉ làm việc này sau khi chiếc ghế Tổng Thống của Ngô Đình
Diệm đã vững như Bàn Thạch. [9]
Trường hợp Nguyễn Văn Thiệu, như đã nói, chỉ là trường hợp nổi bật
nhất. Hiện tượng Người Lương ồ ạt theo Đạo Công Giáo Thời Ngô Đình
Diệm mà Nguyễn Hiến Lê kể lại đã được Tạp Chí Informations Catholiques
Internationales phát hành ngày 15 tháng 3 năm 1963 xác nhận. Nên xem
những con số ngoạn mục được nêu ra trong đó. Ngoài ra, nhờ Tạp Chí này
mà chúng ta còn biết được Đức ông Ngô Đình Thục đã khoe với một đồng
nghiệp Người Pháp rằng ở giáo phận Vĩnh Long đôi khi có đến nguyên cả
làng xin được rửa tội và, ngoài Phi Luật Tân ra, Nam Việt Nam là quốc
gia độc nhất tại Viễn Đông sẽ phải được ở trên con đường đưa đến Sự
Trở Lại Đạo hoàn toàn. [10] Tuy nhiên, Informations Catholiques
Internationales cũng cho chúng ta biết, thái độ đắc thắng do cả Chế Độ
Ngô Đình Diệm lẫn khối thiểu số Công Giáo phơi bày đã tạo ra một sự
bất mãn nhất định trong Khối Người Lương, một sự bất mãn mà Tạp Chí
này cho là dễ thấy ngay tại Sài gòn cũng như ở các ngôi làng xa xôi
hẻo lánh nhất. [11]
Nhận định nói trên rất phù hợp với báo cáo mà Đại Sứ Pháp Roger
Lalouette gửi về Paris đúng một năm trước đó. [12] Lalouette cho biết
ngoài Cộng Sản ra, Chế Độ Diệm còn phải đương đầu với sự chống đối của
những Thế Lực Phi Cộng Sản:
“Lực lượng chống đối tập họp những Người Ái Quốc Cấp Tiến, Giới Trưởng
Giả Nam Kỳ bị gạt bỏ khỏi những việc công ích bởi những phần tử Bắc
hay Trung vào tị nạn, những Giáo Phái bị giải giới và bị nghi ngờ và,
một cách tổng quát, tất cả những Người Không Ki-Tô chống lại Thiểu Số
Ki-Tô (10% dân số) đã đặt Tôn Giáo Ki-Tô La Mã lên hàng Quốc Giáo. Họ
không đòi hỏi sự thay đổi trong Chế Độ, mà là thay đổi cả một Chế Độ.”
Chính nội dung của những tư liệu được hình thành trước Biến Cố Phật
Giáo nói trên đã cho phép chúng ta (tạm) tin lời Vũ Tài Lục, người đã
từng sống trong thời cai trị của Nhà Ngô, khi vị Học Giả này khẳng
định rằng đến tháng 5 năm 1963 thì sự kỳ thị Tôn Giáo dưới Chế Độ Ngô
Đình Diệm (mà ông gọi là Chế Độ Diệm-Thục để nhấn mạnh vai trò của Đức
Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục trong đó) đã đến mức không thể chịu đựng
hơn được nữa, nên Phật Tử đã phải xuống đường để phản đối. Dù sao đi
nữa thì mối liên hệ nhân quả giữa tệ trạng kỳ thị Tôn Giáo dưới Chế Độ
Ngô Đình Diệm và Biến Cố Phật Giáo 1963 sẽ được phân tích một cách
tường tận hơn trong một bài khác, đang được chuẩn bị.

Một Hiện Tượng Thuộc Lịch Sử?
Ngoài việc kỳ thị Tôn Giáo, Chế Độ do anh em Ngô Đình Diệm cầm đầu còn
gây ra cho Người Dân Miền Nam những bực mình không cần thiết. Khi bàn
đến một tấm hình ăn ý của ông ta, Đoàn Thêm, một viên chức cao cấp làm
việc trong Dinh Độc lập Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, có kể lại:
“Một người bạn trẻ ở ngoài chính giới đã bảo tôi:
-Coi bộ thì cũng không đến nỗi nào, nhất là bức ảnh Âu Phục chụp
nghiêng 3/4 thấy treo ở nhiều nơi.
Tôi cho biết là chính ông ưa bức đó hơn cả, nhưng anh ta lại càu nhàu
luôn:
-Chỉ phải cái rất bực và rồi phát ghét, là cứ phải chào! Sao lại đem
in tròn giữa Quốc Kỳ để bắt đứng dậy chào khi xem xi nê? Thà tới chậm,
mất hẳn đoạn phim thời sự, còn hơn phải ngắm mặt mũi, bảnh bao mấy
cũng bỏ đi!
Tôi không thể chối cãi, vì chính là trường hợp tôi mỗi khi muốn coi
phim…”
Không những Chế Độ Ngô Đình Diệm làm phiền người dân, chính cá nhân họ
Ngô cũng quấy rầy nhân viên dưới quyền ông ta. Theo Đoàn Thêm:
“Ông Tổng Thống luyến tiếc các Biểu Hiệu Quân Chủ, nên tái lập Kim
Khánh của Nhà Nguyễn và công nhận là huy chương cao nhất của Việt Nam.
Ông gây lại không khí Cung Đình, đặt lễ phục gấm lam khăn đen cho các
nhân viên cao cấp, và chỉ nhận chúc Tết Nguyên Đán vào sớm ngày mồng
một. Đã có vài người xin ông cho chúc vào chiều ngày ba mươi, vì Tết
đầu năm là ngày của gia đình, theo cổ tục, buổi sáng dành cho Gia
Tiên, đa số còn phải đèn nhang cúng vái, hoặc mừng tuổi ông bà cha mẹ.
Ông không nghe, vì theo ông, xưa kia phải Triều Bái ở Điện Thái Hòa
hoặc ở Vọng Cung các tỉnh, nghĩ đến Vua rồi mới đến Nhà, vì Vua là
Nước. ‘Vua ban hồng phước không tốt hơn là chờ người xông đất hay
sao?’
Bởi vậy, cứ tám giờ mồng một, là hàng trăm người, cả nhân viên, lẫn
đại diện đoàn thể dân chúng, đành phải xúng xính áo khăn vào cầu ơn
trên phù hộ cho ông.
Một công chức bực quá đã thốt ra một câu chua chát:
-Thôi thì coi bái khánh như một công vụ đã được tính vào số lương
tháng rồi!
Có lẽ vì thế mà hai tiếng Ngô Triều đã được nói đến ngay từ 1957, chớ
không phải từ sau Cách Mạng 1963, do một Tôn Thất nhà Nguyễn đương làm
Giám Đốc một Nha.”
Chuyện lố lăng nhất mà Chế Độ Nhân vị của dòng họ Ngô Đình đã gây ra
là việc họ bắt buộc Người Dân Miền Nam hát bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống
trong Lễ Chào Cờ. Cách đây trên hai mươi năm, tờ Làng Văn, một Nguyệt
San Chống Cộng hữu danh tại Hải Ngoại, có đăng trong số 47 một bài
mang tên “Sơ Kết Vấn Đề Quốc Ca”, trong đó có chứa đựng những dữ kiện
lý thú về bài hát sùng bái cá nhân nói trên (Khi đó tôi là một học
sinh trung học, còn hai năm nữa mới được thi tú tài, nhưng cũng đã bắt
đầu có quan tâm đặc biệt đến Chế Độ Ngô Đình Diệm, nên đã cẩn thận cất
giữ tờ báo đó cho đến ngày hôm nay đem ra xài).
Tờ Làng Văn viết:
“Vấn đề Quốc Ca đã được mang ra bàn cãi tất cả ba lần. Lần thứ nhất do
Quốc Hội Đệ Nhất Cộng-Hòa năm 1956…
Lần thảo luận thứ nhất không đưa tới một sự thay đổi nào, vì có một số
đại diện dân cử vì lòng tôn sùng cá nhân, muốn đưa bài Suy Tôn Ngô
Tổng Thống… ra thay bài Tiếng Gọi Công Dân… Cuộc bàn cãi để đi tìm một
bài hát khác làm Quốc Ca thay cho bài hát đương thời, với tác giả
chính đã đứng về phía CS, lại biến thành một cuộc tranh chấp giữa tinh
thần tôn quân kiểu mới và khuynh hướng dân chủ tự do. Phe tôn quân
không thắng nổi số đông, mà phe đa số cũng không dám dùng thế lực của
mình để loại bài suy tôn cá nhân. Trong trường hợp đó, thà giữ nguyên
bài cũ còn hơn.
Cuối cùng, vì đoàn kết quốc gia, vì thể diện của lãnh tụ, và quan
trọng hơn hết, vì an ninh bản thân, một giải pháp chìm xuồng đã được
đưa ra, dung hợp cả hai chủ trương: Giữ lại bài Tiếng Gọi Công Dân
làm Quốc Ca, và hát kèm bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống ngay trong Lễ Chào
Cờ. Từ đó, 1956, Việt Nam Cộng Hòa có một bài Quốc Ca ‘Kép’. Tình
trạng này kéo dài tới 1963 mới chấm dứt, sau khi Trung Tướng Dương Văn
Minh Đảo Chánh thành công, kết thúc chín năm cai trị của Ngô
Triều.” [13]
Trong Mục Phản Hồi trên Diễn Đàn Talawas, Trần Ngọc Cư mới đây có lời
than phiền về tệ trạng sùng bái cá nhân nói trên. Nhưng có lẽ là người
tuổi đã cao, nên họ Trần không muốn nhắc đến khả năng đề kháng thụ
động của Khối Người Lương trước sự lố lăng này của Chế Độ Ngô Đình
Diệm và thái độ kiêu ngạo của tập đoàn Công Giáo Di Cư phía sau lưng
nó, một sự đề kháng được biểu lộ qua câu Toàn dân Bùi Chu mút cu Ngô
Tổng Thống. Đây là một Sử Liệu Truyền Khẩu mà tôi được những người lớn
tuổi đã từng sống dưới sự thống trị của Ngô Triều kể lại cho nghe tại
Hải Ngoại. Nó rất ăn khớp với những Sử Liệu Thành Văn mà tôi đã thu
thập được và vừa giới thiệu trong bài này. Do đó, nó rất đáng được gìn
giữ và phổ biến.
Cách nhìn nói trên không phải là một cách nhìn được mọi người chấp
nhận. Hòa Nguyễn và Trần Văn Tích hình như muốn tương đối hóa việc làm
lố bịch của Chế Độ Ngô Đình Diệm.
Hòa Nguyễn viết: “Nhưng cũng nên “Thông Cảm” những bài hát suy tôn ở
vào cái thời thế giới (thứ ba) thích ca tụng các lãnh tụ “Anh Minh, Vĩ
Đại” của họ, như Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông, Tưởng Giới Thạch, Kim
Nhật Thành, Lý Thừa Vãng, Sukarno (được bầu làm Tổng Thống trọn đời).”
Trong Bảng Phong Thần do Hoà Nguyễn nêu ra không thấy có tên của
Jawaharlal Nehru, Thủ Tướng Ấn Độ. Ấn Độ trong giai đoạn đó cũng là
một quốc gia thuộc thế giới thứ ba, nhưng hoàn toàn không có tệ trạng
sùng bái Nehru. Có lẽ vì Ấn Độ là một quốc gia dân chủ, nhất là khi so
sánh với Indonesia, Nam, Bắc Hàn, Nam, Bắc Việt Nam, Trung Quốc hay
Đài Loan. Bản chất dân chủ của một Chế Độ không cho phép chuyện lố
bịch nói trên xảy ra.
Hơn nữa, việc sùng bái cá nhân không phải chỉ xảy ra Tại Thế Giới Thứ
Ba. Chuyện này đã xảy ra ngay tại nước Pháp dưới Thời Pétain và cũng
đã lan tràn sang Đông Dương, lúc đó đang nằm dưới sự kiểm soát của Chế
Độ Vichy do Pétain cầm đầu.
Trần Văn Tích viết: “Thời Pháp thuộc tôi lớn lên ở thành phố Đà Nẵng,
lúc bấy giờ có tên chính thức là Tourane. Học trò nhà nước chúng tôi
trước khi sắp hàng vào lớp thường phải đứng nghiêm để hát bài
Maréchal, nous voilà ca tụng Thống chế Pétain, trong đó có câu “Devant
toi, le sauveur de la France”. Vậy nếu Tổng Thống Ngô Đình Diệm sau
này được xem là “Cứu Đất Nước” v.v… thì cũng chỉ là một hiện tượng
thuộc lịch sử vào một giai đoạn nhất định.”
Có thể đây là một nhận định chưa hoàn toàn chính xác. Trước khi Pétain
lên chấp chính năm 1940, không có một chính quyền nào của Đệ Tam Cộng
Hòa lại bắt học sinh hát bài ca tụng Thủ Tướng Clemenceau là cứu tinh
của nước Pháp, tuy không ai phủ nhận công lao rất lớn của ông trong
giai đoạn quyết định cuối Đệ Nhất Thế chiến. Nền Cộng Hòa Dân Chủ này
đã vinh danh “le Père-la-Victoire” bằng một cách văn minh hơn. Bởi thế
nên việc Chế Độ Vichy do Pétain cầm đầu bắt học sinh làm chuyện tào
lao nói trên có thể được xem như là một triệu chứng của bản chất bệnh
hoạn của Chế Độ này, một Chế Độ trung gian bản xứ đã tỏ ra rất đắc lực
trong việc truy lùng, bắt giữ và chuyển giao Người Do Thái cho Đức
Quốc Xã --việc làm nhơ nhuốc nhất bên cạnh những việc phản động khác
của Chế Độ Vichy. [14]
Bác sĩ Tích viết tiếp: “Nghĩ lại, nếu Quốc Ca nước Anh có lời hát
“God save the Queen” thì lời bài “Suy Tôn Ngô Tổng Thống” có câu “Xin
Thượng Đế Ban Phước Lành Cho Người” có thể được xem là hai hiện tượng
lịch sử --như đã trình bày-- hay chăng?”
Câu hỏi này hình như được đặt ra trên những dữ kiện còn thiếu sót. Kể
từ khi Vua Henry VIII đọan giao với Tòa Thánh La Mã để lập ra Giáo Hội
Anh Giáo, các vị Quốc Vương hay Nữ Hoàng Anh Quốc không những là
Nguyên Thủ của một Quốc Gia mà còn phải đóng vai trò Lãnh Tụ của một
Tôn Giáo (Supreme Governor of the Church of England). Vì vậy, cầu
nguyện Thượng Đế phù hộ cho Ông Hay Bà Ta là việc không có gì đáng
nói. Hơn nữa, bài God save the Queen hay God save the King có từ Thế
Kỷ Thứ 18, [15] và hình như không mang ý nghĩa khẩn cầu cho một cá
nhân cụ thể nào, chẳng hạn Victoria hay Elizabeth II, mà chỉ cầu mong
sự bảo bọc của bề trên đối với ngôi vị Nguyên Thủ của một Quốc Gia
Quân Chủ có truyền thống Ki-Tô lâu đời. Có lẽ do những lý do nói trên
mà bài hát này vẫn còn được giữ làm Quốc Ca Anh Quốc cho đến ngày hôm
nay, trong khi Bài Ca Sùng Bái Ngô Đình Diệm phải chịu chung số phận
với cái Chế Độ đã ép buộc Người Dân Miền Nam hát nó.
Vậy chúng ta có thể tạm kết luận rằng những nỗ lực tương đối hóa mà
Hòa Nguyễn và Trần Văn Tích đã dành cho tệ trạng Sùng Bái Cá Nhân dưới
sự thống trị của Ngô Triều vẫn chưa đủ sức thuyết phục. Có thể cũng
như trong trường hợp của Chế Độ Vichy, tệ trạng này phản ảnh bản chất
kém lành mạnh của Chế Độ Ngô Đình Diệm. Trong Chế Độ lành mạnh nào mà
nhân viên an ninh có thể áp dụng một chính sách trả thù bỉ ổi đối với
Lương Dân vô tội mà những kẻ lèo lái quốc gia lại không hề hay biết?
Sau Cuộc Đảo Chánh Hụt năm 1960, tay chân của anh em Ngô Đình Diệm đã
xâm phạm tính dục nhiều người vợ của những viên Sĩ Quan tham gia vào
Biến Cố đó và, ít nhất là trong trường hợp của Phan Lạc Tuyên, đã bao
vây kinh tế cha mẹ, khiến cho con cái họ bị thất học. Nhưng cả ông Ngô
Đình Diệm lẫn ông Ngô Đình Nhu, theo chứng từ của Trần Ngọc Nhuận, một
Sĩ Quan tình báo cao cấp trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đều không
biết đến tội ác động trời này! [16] Phải chăng vì họ không biết Chế Độ
của họ đang bị Côn Đồ Hóa, nên cuối cùng chính họ đã bị thuộc hạ cũ
giết chết bằng một cách rất Côn Đồ? Chính sách trả thù đối với Đàn Bà,
Người Già và Trẻ Em nói trên đã được kể lại trong: 1) Trần Ngọc
Nhuận, Đời Quân Ngũ, Xuân Thu, 1992, tr. 305-306, và 2) Phan Lạc Giang
Đông, “Nhớ lại và suy nghĩ”, trong Chính Đạo (chủ biên), Nhìn Lại Biến
Cố 11/11/1960, Văn Hóa, Houston, 1997, tr. 207-231.
Trần
Lâm
Cước-Chú:
[1] Nguồn: Phan Lạc Giang Đông, “Nhớ lại và suy Nghĩ”, trong: Chính
Đạo [Vũ Ngự Chiêu] (chủ biên), Nhìn lại biến cố 11/11/1960, Văn hóa,
Houston, 1997, tr. 210.
[2] Informations Catholiques Internationales, “L’Église au Sud-
Vietnam”, 15 Mars 1963, tr. 21.
[3] Ibid, tr. 19.
[4] Tại trang 99 và 100 trong cuốn Đời viết văn của tôi, do Văn Nghệ
xuất bản tại California năm 1986.
[5] Ibid.
[6] Ibid, tr. 21.
[7] Hồi kí, Tập II, Văn Nghệ, California, 1990, trang 120-121.
[8] Xem: Chính Đạo, Mậu Thân 68: Thắng hay Bại?, Văn Hóa, Houston,
tái bản lần thứ hai, 1998, tr. 355. Xem thêm: Arthur Dommen, The
Indochinese Experience of the French and the Americans, Indiana
University Press, 2001, tr. 658.
[9] Arthur Dommen nói rằng Nguyễn Văn Thiệu là đảng viên Đại Việt, còn
Vũ Ngự Chiêu thì cho biết ông ta là Ủy Viên Quân ủy Cần Lao Nhân Vị
Cách Mạng Đảng. Xem Nguyên Vũ, Paris Xuân 96, Văn Hóa, 1997, tr.
87-88.
[10] Nguyên văn: “C’est le seul pays d’Extrême-Orient (à part les
Philippines) qui soit en marche vers une conversion totale…”
[11] Nguyên văn: “Ce que nous avons appelé, pour faire image, le
‘triomphalisme’ conjugé du régime et de la minorité catholique ne
manque pas de nourrir un certain mécontentement chez les non-
catholiques. Quoique en contradiction avec les conversions massives
dont nous avons parlé plus haut, il est facilement observable à Saigon
comme dans les plus lointains villages.”
[12] Báo cáo này đã được Vũ Ngự Chiêu tìm thấy, dịch sang tiếng Việt
và cho in lại trong Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1939-1975, Tập I-C:
1955-1963, Văn Hóa, Houston, 2000, tr. 248-250.
[13] Bạn đọc bốn phương cần lưu ý đến chi tiết này: Nguyễn Hữu Nghĩa,
Chủ Bút Tờ Làng Văn, đã bị một số người hiểu lầm (?) khái niệm tử năng
thừa phụ nghiệp tố cáo là con trai của Đại Tướng VC Nguyễn Chí Thanh.
Nhưng nhờ có Bác sĩ Trần Văn Tích, một người có lập trường chống Cộng
rất vững vàng, từng là cộng tác viên cho tờ báo này, nên tôi mới dám
xài những dữ kiện do nó cung cấp về bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống.
[14] Bạn nào hiếu kỳ muốn biết thêm về nó thì nên tìm đọc: Robert
Paxton, Vichy France: Old Guard and New Order, 1940-1944, Knopf, New
York, 1972. Sau Đệ Nhị Thế chiến, Người Pháp đã cố che giấu sự thật,
cố tương đối hóa những việc làm kém sạch sẽ của Chế Độ này. Chính nhờ
sự đào bới trong văn khố Đức của Paxton, một Sử Gia Người Mỹ, mà bộ
mặt nhơ nhuốc của nó đã bị lột trần trước công chúng Pháp. Cách đây
vài năm, Tạp Chí Journal of Contemporary History có đăng một bài
nghiên cứu về tầm ảnh hưởng sâu rộng của ông ta đối với giới sử học
Pháp. Tôi đã đưa bài đó lên mạng, các bạn có thể đọc nó tại đây. Thật
thú vị khi thấy một Người Mỹ quê ở Virginia giảng cho mấy ông Tây bà
Đầm nghe về quá khứ khá bẩn thỉu của quốc gia họ. Nhưng dân Phú Lang
Sa vẫn còn giữ được tinh thần thượng võ. Mới đây họ đã trao tặng cho
Paxton huân chương Légion d’honneur để bày tỏ lòng biết ơn đối với
công trình nghiên cứu của ông: “Son œuvre a été controversée à une
époque où la France refusait de regarder son passé en face, même s’il
est difficile à accepter. Grâce à lui on sait que, contrairement à la
légende, Vichy n’a pas été contraint à collaborer à ce point et que la
Révolution nationale de Pétain, son régime fasciste, n’a pas été
imposée par les Allemands.”
[15] “Like many aspects of British constitutional life, its official
status derives from custom and use, not from Royal Proclamation or Act
of Parliament.”
[16] Hai anh em ông Diệm, ông Nhu cầm vận mệnh quốc gia trong tay, mà
khi thủ hạ của họ hại dân vô tội --những người mà họ có bổn phận bảo
vệ-- họ lại hoàn toàn không biết. Điều này khiến chúng ta phải tự hỏi
tại sao họ không biết. Ở một quốc gia văn minh, nạn nhân có thể dựa
vào hệ thống tư pháp độc lập hoặc hệ thống truyền thông tự do để lưu ý
giới hữu trách đến những tệ trạng mà họ phải gánh chịu. Vì dưới nền
Cộng Hòa Nhân Vị, hệ thống tư pháp không được độc lập và giới truyền
thông không được tự do nên hai anh em ông Diệm mới có thể không biết
gì cả. Việc giới lãnh đạo của một quốc gia không biết dân vô tội bị
xâm phạm phi pháp và việc những nạn nhân này không có cách nào làm cho
giới lãnh đạo biết được tệ trạng nói trên thật ra là một bản cáo trạng
đối với giới lãnh đạo đó: Họ không biết, vì bộ máy chính trị của họ
là một bộ máy kém lành mạnh, nếu không muốn nói là bệnh hoạn.

> đáo. Đoàn cần bắt ai thì giao cho Công An đi bắt bất kỳ ...
>
> read more »

Viet MJC

unread,
Nov 5, 2010, 3:34:24 PM11/5/10
to Xã - Tắc

Quanh Chuyện Cành Đào Hồ Chí Minh Gởi Vào Nam

Ông Quách Tòng Đức, Đổng Lý Văn Phòng Tổng Thống Ngô Đình Diệm xác
nhận một Tết Nguyên Ðán, một Cành Đào đỏ lộng lẫy được trưng bày nơi
phòng khánh tiết Dinh Ðộc lập với tấm thiệp in tặng của “Chủ Tịch Nhà
Nước Cộng Hòa Xã Hội Miền Bắc” (Lâm Lễ Trinh, tr. 89). Một số người đã
gắn liền “Câu Chuyện Cành Đào” và một vài tin đồn khác để lý luận ông
Diệm và ông Nhu đã: Đi Đêm, Hoà Giải, Ve Vãn, Bắt Tay, Đầu Hàng… hay
mắc lừa phe Cộng Sản. Đến đánh mất tín nhiệm và hậu thuẫn cuả Hoa Kỳ,
để dẫn đến Đảo Chánh 1/11/1963. Nhiều người khác lại cho rằng Miền Nam
mất đi một cơ hội Hòa Bình, Trung Lập, không Cộng Sản...
Gần 50 năm qua, không ít người đã tranh luận về đề tài này. Tháng
3/2003, trên Diễn Đàn Giao Điểm, Nhà Sử Học Vũ Ngự Chiêu chứng minh
việc hai ông Diệm và Nhu ve vãn nhằm bắt tay với Việt Cộng. Thì chỉ
đến tháng 7, cùng trên Diễn Đàn ông Nguyễn Ngọc Giao lại chứng minh
điều trên không đúng sự thật. Cần phải nói là cả hai lập luận cùng chủ
yếu dựa trên Hồi Ký của Mieczyslaw Maneli, nguyên Trưởng Đoàn Kiểm
Soát Đình Chiến Ba Lan.
Sự mâu thuẫn này không phải chỉ xảy ra riêng với các nhà nghiên cứu
gốc Việt. Hầu hết các học giả Tây Phương cũng mắc chung một hoàn cảnh.
Một phần vì nhãn quan mỗi người mỗi khác, Maneli chỉ viết lại công
việc của mình, không đề cập đến một số việc chung quanh, sinh ra nhiều
câu hỏi để tùy người đọc diễn giải.
Bài viết này dựa trên một số tài liệu mới từ Đảng Cộng Sản và từ Bộ
Ngọai Giao Ba lan và Liên Sô, cũng như từ phía Việt Nam để làm rõ hơn
vấn đề như: Có thật hai ông Diệm - Nhu muốn thương lượng với Cộng Sản
hay không? Chuyện Cành Đào có thực hay không? Hồ Chí Minh có muốn
thương lượng với Miền Nam hay không?

Thế Giới Những Năm Đầu 1960.
Khi đã củng cố được quyền hành, Khruschev đề xướng một chiến lược mới
cho toàn khối Cộng Sản. Chiến lược này chủ trương Sống Chung Hòa Bình
giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau. Theo đó, Liên
Sô tập trung vào việc xây dựng kinh tế cho Khối Cộng Sản, áp dụng
những thành tựu khoa học và kỹ thuật mới nhất vào sản xuất, tăng năng
suất lao động, tăng sản lượng sản xuất. Thông qua tăng trưởng kinh tế,
Liên Sô kỳ vọng đủ khả năng để ủng hộ các nước đang phát triển và ủng
hộ các phong trào Cộng Sản trên toàn thế giới, mở rộng ảnh hưởng của
Quốc Tế Cộng Sản.
Phía Trung Cộng không chấp nhận chiến lược trên. Họ cho rằng Liên Sô
sợ chiến tranh với Mỹ, sợ bom nguyên tử cuả Mỹ, đầu hàng Đế Quốc Mỹ.
Theo quan niệm của họ có chiến tranh Cách Mạng Quốc Tế càng mau thắng
lợi, càng sớm tiến đến Thế Giới Đại Đồng.
Phiá Hoa Kỳ, Tổng Thống Kennedy khi ấy vừa đắc cử đã phải đương đầu
với tranh chấp ở Tây Bá Linh (Tây Đức), thất bại trong cuộc đổ bộ Vịnh
Con Heo (Cu Ba), và tính sai trong việc Trung Lập Hoá Lào. Những thất
bại liên tục này đã dẫn đến một Chiến Lược Chống Cộng thiếu tích cực
“Vừa Dọa Vưà Đàm”.
Toà Thánh Vatican cũng thay đổi chiến lược chấp nhận Sống Chung Hòa
Bình với những Người Cộng Sản.
Pháp thì muốn tạo lại ảnh hưởng ở các quốc gia cựu thuộc địa, vận động
cho giải pháp Trung Lập Hoá Đông Dương. Tranh chấp giữa Liên Sô và
Trung Cộng càng ngày càng căng thẳng. Bắc Việt càng ngày càng nghiêng
về phiá Trung Cộng, chủ trương xử dụng vũ trang để chiếm Miền Nam. Phe
Liên Sô đánh giá một Việt Nam trung lập theo đề nghị của Pháp sẽ có
lợi hơn một Việt Nam bị lệ thuộc vào Trung Cộng (G. K. Magaret tài
liệu số 2 tr. 38).
Ấn Độ khi ấy lại có chiến tranh biên giới với Trung Cộng. Theo hiệp
định đình chiến Genève, Ấn Độ và Ba Lan là hai quốc gia trong Phái
Đoàn Kiểm Soát Đình Chiến tại Việt Nam. Ngoại Trưởng Ấn M.J. Desai
cũng đương kim Chủ Tịch Phái Đoàn.
Theo những tài liệu mới từ phía Ba Lan, vào tháng 1/1963, Ngoại Trưởng
Ba Lan Adam Rapacki sang thăm Ấn Độ. Ông đã được Thủ Tướng Ấn
Jawaharal Nehru và Ngoại Trưởng Ấn M.J. Desai tiếp đón. Trong cuộc
gặp, Rapacki bàn đến một giải pháp Trung Lập Hoá cả hai Miền Nam Bắc
và tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam. Thủ Tướng Ấn Độ Nehru
cho biết Hoa Kỳ cũng muốn giải quyết những mâu thuẫn ở Việt Nam bằng
giải pháp Trung Lập.
Từ cuộc gặp trên, Rapacki đã tiếp xúc với Đại Sứ Mỹ tại Ấn Độ, ông
John Kenneth Galbraith để tìm giải pháp Trung Lập Việt Nam. Trong cuộc
họp từ ý kiến riêng, ông Galbraith đã đề nghị trước tiên hai phía cùng
tiến hành việc ngừng bắn trong vòng sáu tháng (G. K. Magaret tài liệu
số 1 tr. 37). Trong nhật ký công tác ngày 21/1/1963, ông Galbraith xác
nhận việc này. Sau đó đã báo về cho Tổng Thống Kennedy đề nghị của
mình (G. K. Magaret tài liệu số 2 tr. 38).
Như vậy tám tháng trước ngày hai ông Nhu và Maneli gặp nhau, phiá Hoa
Kỳ và Ba Lan đã thảo luận về một giải pháp cho Việt Nam. Nhưng không
biết vì lý do gì đề nghị cuả Đại Sứ Mỹ Galbraith đã không được tiến
hành. Cũng như không hiểu giữa Mỹ và Ba Lan sau này còn có các cuộc
gặp gỡ khác hay không?

Maneli Và Các Cuộc Gặp Gỡ Hai Phía Bắc-Nam.
Cũng theo những tài liệu mới từ phía Ba Lan, trong trừơng hợp của
Maneli, Ba Lan hoàn toàn không có ý định xen lấn vào nội tình Việt
Nam. Thượng cấp Maneli đã chính thức cấm ông ta làm trung gian hay gặp
riêng ông Nhu, ngay cả nếu ông bị áp lực từ phía Bắc Việt. Họ chỉ cho
phép ông ta thực hiện vai trò giám sát quốc tế. Phía Ba Lan đã thấy
được Maneli chỉ là một chuyên viên luật, không kinh nghiệm ngọai giao,
thiếu kiến thức và kinh nghiệm chính trị, dễ bị vướng những bẫy ngầm
làm ảnh hưởng đến phía Ba Lan (xem G. K. Magaret).
Tuy vậy, Maneli với bản tính tính cực và phấn đấu, công việc Giám Sát
Quốc Tế thì lại rất nhàm chán chủ yếu chỉ viết báo cáo, lại lỡ trớn và
tò mò mới xảy ra câu chuyện gặp gỡ với ông Nhu. Maneli cho biết các
Đại sứ Roger Lalouette (Pháp), D’Orlandi (Ý), Ram Goburdhun (Ấn độ) và
Salvatore D’Asta (Tòa thánh Vatican) là những người đã trực tiếp thúc
đẩy việc ông gặp gỡ ông Nhu. Gián tiếp thì có Đại sứ Anh Hohler.
Do những thúc đẩy từ nhiều phía như đã kể ra, Maneli đã bay ra Hà Nội
để xin ý kiến của phía Liên Sô và đã được Đại sứ Liên Sô tại Hà Nội
đồng ý. Lúc này Ba Lan đang là một chư hầu của Liên Sô, sự đồng ý của
Liên Sô đủ bảo kê cho cuộc gặp gỡ.
Những tài liệu mới phát hiện cũng cho biết Liên Sô không mấy quan tâm
đến việc Maneli muốn làm. Có lẽ cả Ba Lan lẫn Liên Sô đều đã rõ khi ấy
Bắc Việt đã ngã hẳn về phiá Trung Cộng. Liên Sô chấp nhận cuộc gặp
chẳng qua chỉ muốn thu nhặt thêm tin tức của cả hai phía Bắc và Nam
Việt.
Vào tháng 5/1963, ngay khi kế họach liên lạc với ông Nhu được chuyển
cho phía Hà Nội, Maneli đã nhận ngay hồi đáp như sau: “Phạm văn Đồng
xác quyết đề nghị (ngừng bắn và trung lập) của chủ tịch Hồ chí Minh và
tuyên bố của chính phủ (VNDCCH) vẫn còn hiệu lực: Chính phủ nhân dân
(VNDCCH) đã sẵn sàng bắt tay thương lượng vào bất cứ lúc nào, bí mật
hay công khai” (M. Maneli, tr. 121). Sau đó trong lần gặp gỡ Phạm Văn
Đồng còn khéo miệng tuyên bố: “Ông Nhu chắc chắn có khả năng suy nghĩ
thực tế, vì ông đã tốt nghiệp cao đẳng (lycée) ở Chartres”. Khi Maneli
kể lại chuyện này cho Đại Sứ Pháp ông ta đã phải thốt lên “quá thích
thú, quá quan trọng” (M. Maneli, tr. 122).
Ngay sau đó Maneli đã gặp, và được Xuân Thủy cho biết: “… đầu tiên là
trao đổi văn hóa và buôn bán (gạo đổi than) trước khi bàn đến chuyện
chính trị” (G. K. Magaret tài liệu số 16 tr. 59).
Vài ngày sau Maneli đã nhận được một lời nhắn của Phái Đoàn Ba Lan từ
Hà Nội: “Các đồng chí Vịêt Nam rất mong tất cả chi tiết liên hệ đến
việc thu xếp cho cuộc gặp với Nhu và chi tiết về cuộc gặp gỡ này” (M.
Maneli, tr. 123). Trưởng Đoàn Kiểm Soát Đình Chiến Bắc Việt, Hà Văn
Lâu còn gởi cho Maneli một điện tín: “Các đồng chí lãnh đạo đòi hỏi
thông báo ngay tức thì những bước tiếp và mong rằng mọi việc sẽ tiến
hành tốt đẹp, trước khi gặp Nhu, đồng chí cần ghé Hà Nội để thảo
luận” (M. Maneli, tr. 123).
Đầu tháng 7/1963, Maneli trở lại Hà Nội. Lần này, Maneli được gặp Hồ
Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Xuân Thuỷ và Ung Văn Khiêm. Trong Hồi Ký,
Maneli cho biết: “Tôi hỏi Phạm Văn Đồng và Xuân Thuỷ nên làm gì nếu
Ngô Đình Nhu mời tới nói chuyện. Họ trả lời ngay lập tức: nhận gặp và
lắng nghe. Tôi lại hỏi họ có muốn tôi nói gì (với Nhu). Họ trả lời:
‘Tất cả những gì đồng chí biết về lập trường của chúng tôi trong sự
trao đổi và hợp tác kinh tế và văn hoá (giữa hai miền). Một điều chắc
chắc là: Mỹ phải rút đi. Trên cơ sở chính trị ấy, chúng tôi có thể
thương lượng bất cứ điều gì’ ”. Maneli hỏi thêm về khả năng một chính
phủ liên hiệp ở Miền Nam hay một hình thức Liên Bang Bắc Nam, Phạm Văn
Đồng trả lời: “Trên cơ sở độc lập và chủ quyền của Việt Nam, mọi điều
đều có thể thương lượng. Hiệp định Genève đã đặt ra nền tảng pháp lý
và chính trị: không có căn cứ hay quân đội nước ngoài trên lãnh thổ
đất nước chúng tôi. Như thế, chúng tôi có thể đi tới thoả thuận với
bất luận người Việt Nam nào” (M. Maneli, tr. 127-28).
Khi nhận được dấu hiệu khuyến khích từ Đại Sứ Liên Sô và biết được sự
phấn khởi từ phía Hà Nội, trở vào Sài Gòn, Maneli báo cho Lalouette và
D’Asta biết để thu xếp cuộc gặp với Ngô Đình Nhu. Trong cuộc tiếp tân
chiều ngày 25/8 của Quyền Ngọai Trưởng VNCH Trương Công Cừu, các ông
Lalouette, D’Orlandi, Goburdhun and D’Asta đã giới thiệu Maneli với
ông Nhu. Ông Nhu đã vui vẻ ngỏ lời mời Maneli thu xếp gặp riêng. Ngay
ngày hôm sau văn phòng của ông Nhu đã liên lạc và hẹn cuộc gặp vào
sáng ngày 2/9/1963.
Trong cuộc gặp gỡ tại dinh Độc Lập, Maneli cho biết ông Nhu dành cả
hai tiếng đồng hồ nói về chủ nghĩa cần lao nhân vị, chính sách ấp
chiến lược, thành quả cuả Việt Nam Cộng Hoà v.v… Riêng về vấn đề hiệp
thương giữa hai Miền Nam Bắc, Maneli cho biết ông Nhu chỉ có ý như
sau: “…Tôi không chống lại việc đàm phán và hợp tác với miền Bắc, và
như ông biết, nhiều nhà ngoại giao phương Tây đã đề nghị với tôi. Ngay
trong những trận giao tranh tàn ác nhất, người Việt Nam cũng không
quên ai là người Việt, ai là ngoại quốc. Nếu có bắt đầu đối thoại trực
tiếp, thì có thể tiến tới xích lại gần. Và Uỷ hội quốc tế - cũng như
bản thân ông - sẽ đóng vai trò tích cực ở đây…Trong tương lai gần, tôi
không dự liệu điều gì dẫn tới nói chuyện trực tiếp, nhưng sớm muộn có
thể sẽ hé ra khả năng…” (M. Maneli, tr. 146). Như vậy ông Nhu chưa có
một ý để đi xa hơn nói chuyện trực tiếp với lãnh đạo Cộng Sản Bắc
Việt.
Ngay sau cuộc họp Maneli đã báo cáo về Ba Lan với một kết luận như sau
“Những tuyên bố thiếu vững chắc của ông Nhu chính là kết qủa của sự
bất ổn và kỳ vọng cây cầu với người Mỹ vẫn chưa bị đốt cháy” (Magaret
K. G. tài liệu số 21, tr. 67).
Phần vì tò mò phần vì muốn thâu nhặt tin tức, Maneli đã đặt câu hỏi về
mối liên lạc hay đàm phán trực tiếp giữa hai Miền Nam Bắc với ba ông
Nhu, Thủy và Đồng. Xuân Thủy vừa giỡn vừa trả lời: "Có phải ông thực
sự tưởng tượng rằng chúng tôi thương lượng hay đồng ý với ông
Nhu?" (M.K. Gnoinska, tr. 147). Ông Nhu và ông Đồng thì cho biết đây
chỉ là những lời đồn đãi: "Ông Nhu hỏi lại, có phải ông đã chịu thua
dư luận? đó chỉ là chuyên đùa" (M. Maneli, tr. 147) và ông Đồng có
cùng chung phản ứng đã hỏi lại "Có phải đồng chí đã tin vào những câu
chuyện như vậy hay không?" (M. Maneli, tr. 147). Sau 1/11/1963, Phạm
Văn Đồng đã giải thích cho Maneli các nguồn tin từ Tướng Đảo Chánh về
các cuộc đàm phán Bắc-Nam như sau: ”Đó chỉ là giả dối, phe đảo chánh
thông báo tin này chỉ để giải thích lý do phản lại Diệm” (G. K.
Magaret tài liệu số 21, tr. 67).
Ngay chiều hôm đó, ông Nhu đã tiếp Đại Sứ Hoa Kỳ Lodge, Đại Sứ Ý
D’Orlandi và Khâm Sứ Tòa Thánh Vatican D’Asta. Ông Nhu cho biết về
cuộc gặp gỡ với Maneli vào ban sáng. Ông Nhu nói Maneli đã yêu cầu ông
chú ý đến tuyên bố của De Gaulle và Hồ Chí Minh về giải pháp Trung Lập
Việt Nam và tiến hành tổng tuyển cử, rồi hỏi ông Nhu muốn chuyển lời
gì cho Phạm Văn Đồng. Ông Nhu trả lời “Chẳng có gì cả”.
Không một dấu hiệu nào cho thấy ông Nhu muốn tiếp tục quan hệ với
Maneli trong vai trò “Đi Đêm” với Hà Nội. Cuộc gặp gỡ tại Dinh Độc Lập
cho thấy ông Nhu chỉ muốn chứng minh với Hoa Kỳ rằng nếu bị Hoa Kỳ bỏ
rơi ông ta có khả năng thương lượng trực tiếp với Bắc Việt. Không như
ông tính đây lại chính là bằng chứng duy nhất để phía Hoa Kỳ lập luận
ông Nhu muốn thay đổi chiến lược chống cộng của Hoa Kỳ.
Ngược lại phía Bắc Việt lại rất mong Maneli đứng ra làm trung gian.
Trước khi xem xét về phía Bắc Việt thật giả ra sao người viết sẽ phân
tích một vài tin đồn khác có liên quan.

Chuyện Đồn Ngô Đình Nhu Gặp Phạm Hùng.
Ông Cao Xuân Vỹ cho biết trong một chuyến đi săn với ông Nhu và Trung
Tá Bường (Tỉnh Trưởng tỉnh Bình Thuận) tại khu rừng Tánh Linh, tỉnh
Bình Thuận, ông Nhu đã bí mật tiếp xúc với hai người. Ông Vỹ và Trung
Tá Bường cả hai đều không được tham dự buổi họp. Họ chỉ quan sát từ
phiá ngoài, ông Vỹ chỉ biết ông Nhu ngồi trong lều săn nói chuyện với
hai người, nhưng không biết là ai, vì lúc đó là ban đêm. Theo ông, có
lẽ Trung Tá Bường biết vì chịu trách nhiệm an ninh và tổ chức cuộc gặp
gỡ (Vĩnh Phúc, tr. 336).
Ông Quách Tòng Đức cho biết: “Chính ông Nhu có nhắc đến chuyện này
trong vài phiên nhóm với tướng lãnh tại Bộ Quốc phòng và ngày
23.7.1963 tại suối Lồ Ồ khi nóí chuyện với các cán bộ xây dựng Ấp
Chiến lược khóa 13” (Lâm Lễ Trinh tr. 98). Ông Trần Văn Đôn tìm hiểu
và biết rõ nhân vật ông Nhu gặp trong rừng Tánh Linh chính là Phạm
Hùng (Trần Văn Đôn tr. 183).
Thực ra vào năm 1963, Phạm Hùng là Uỷ Viên Bộ Chính Trị Đảng Lao động
Việt Nam, Phó Thủ Tướng Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Do đó ông
họat động tại Miền Bắc. Trong khi ấy, người lãnh đạo Trung Ương Cục
Miền Nam là ông Nguyễn Văn Linh. Năm 1964 Tướng Cộng Sản Nguyễn Chí
Thanh lên thay. Tháng 7 năm 1967, Tướng Thanh trên đường về Bắc nhận
chỉ thị tổng tấn công Mậu Thân bị bom chết dọc đường. Phía Cộng Sản
đưa tin ông Thanh đột ngột qua đời ở Hà Nội do bị đau tim. Tháng 10
năm 1967, Phạm Hùng mới vào Nam thay thế Tướng Thanh. Phạm Hùng
thuộc phe cánh của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, chủ chiến không chấp
nhận thương thuyết với Miền Nam. Tin đồn Ngô Đình Nhu gặp Phạm Hùng đã
được cựu Đại Sứ William Colby ghi trong Hồi Ký của ông. Colby còn cẩn
thận ghi thêm “Giai thoại này có thể là chuyện bịa” (xem Nguyễn Ngọc
Giao).
Chiếu theo bản tóm lược về Mục tiêu cuả Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh
Việt Nam của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, tháng 9 năm 1963, nhiệm vụ cuả
các nhân viên Hoa Kỳ là phải: ”… Ngụy tạo những tài liệu liên kết Nhu
với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (Hà Nội) làm cho Nhu mất tín nhiệm với
các tướng lãnh…” (Phạm Văn Lưu, tr. 246). Ở thời điểm này, ông William
Colby đang làm Vụ Trưởng Vụ Viễn Đông của Cơ Quan Tình Báo Hoa Kỳ
(CIA). Câu chuyện biết đâu lại do chính Colby bịa rồi cho CIA tung ra
trước Ngày Đảo Chánh.
Sau hơn 35 năm, Cộng Đồng Người Việt Hải Ngọai vẫn không chấp nhận mọi
liên lạc với nhà cầm quyền Cộng Sản. Người Miền Nam lúc ấy so ra chỉ
chưa đầy 9 năm thoát khỏi Việt Minh. Cá nhân ông Nhu lại xác nhận có
liên lạc với Cộng Sản. Hiểu được như vậy mới thấy Hội Đồng An Ninh
Quốc Gia Hoa Kỳ quá sức thâm độc khi đề ra nhiệm vụ nói trên. Đây
chính là ngòi nổ cho Cuộc Đảo Chính 1/11/1963 và dẫn đến sự hy sinh
của anh em ông Diệm.
Trở lại câu chuyện ở rừng Tánh Linh, không thấy ông Vỹ nhắc đến việc
bảo vệ ở phía bên kia, như vậy chỉ có 3 người họp và 2 người bảo vệ
vòng ngoài. Một cuộc họp như vậy chỉ có thể xảy ra khi hai bên cùng
một phía và phải hết sức tin tưởng nhau. Như vậy có thể hai người được
ông Nhu gặp là Gián Điệp Quốc Gia về trực tiếp báo cáo tình hình với
ông Nhu.

Chuyện Đồn Từ Những Người Đi Từ Miền Bắc.
Ông Trần Hùng Văn một nhà báo đi từ Miền Bắc cho biết ông Nguyễn Tài,
nguyên Thứ Trưởng Bộ Công An Bắc Việt, được lệnh vào Nam để thu xếp
cuộc gặp giữa hai ông Ngô Đình Nhu và Phạm Hùng (Vĩnh Phúc, tr.
339-340). Nguyễn Tài sau khi vào Nam bị quân đội Quốc Gia bắt. Sau năm
1975 ông lại bị Lê Đức Thọ giam lỏng để điều tra.
Ông Tài có viết Hồi Ký cho biết Lê Đức Thọ đã từng nói thẳng với ông
bị bắt sao không chịu chết đi. Xuyên suốt Hồi Ký hình như Nguyễn Tài
vẫn thắc mắc không biết tại sao Lê Đức Thọ lại đối xử quá nghiệt với
mình (một đồng chí trung kiên) như vậy. Câu trả lời có thể là chính Lê
Đức Thọ tung tin Nguyễn Tài làm trung gian giữa hai ông Nhu và Phạm
Hùng. Lê Đức Thọ không ngờ rằng ông Tài còn sống để cho chúng ta biết
rằng ông đã được điều động vào Nam năm 1964. Khi ấy ông Nhu đã về Đất
Chúa.

Liên Lạc Để Kêu Gọi Chiêu Hồi.
Tháng 4/1963, Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) ban hành chính sách Chiêu Hồi.
Ông Nhu cũng nhiều lần xác nhận có liên lạc với Việt Cộng để thuyết
phục họ mang quân về hàng (Chính Đạo, tr. 309).
Ông Nguyễn Văn Chức, một Nhân Sỹ tại Canberra, đã kể cho người viết và
rất nhiều đồng hương câu chuyện Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN)
đã có ý định xin hàng. Ông Chức trước đây ngoài làm cho Đài Gươm
Thiêng Ái Quốc, ông còn dịch và thẩm định những tài liệu cuả Cộng Sản.
Ông Chức cho biết sau Biến Cố Mậu Thân, trong một trận phục kích quân
đội VNCH đã bắn chết 1 cán bộ, 2 giao liên và thâu được một tài liệu
quan trọng. Theo tài liệu này một số cán bộ cao cấp cuả MTGPMN đã họp
bàn với ý định mang toàn thể MTGPMN ra hàng. Nhiệm vụ của người cán bộ
bị phục kích là mang tài liệu nói trên đến một số cán bộ cao cấp khác
cũng có ý định ra hàng. Cơ quan tình báo Hoa Kỳ cho dịch tài liệu này
ra Anh ngữ. Ông Chức được giao trách nhiệm thẩm định tài liệu. Ông
Chức đã kết luận đây là một tài liệu thực, nhưng không biết Hoa Kỳ có
sử dụng tài liệu này hay không?
Xem chủ trương cuả Hồ Chí Minh về MTGPMN: “Mình phải đưa Mặt trận Dân
tộc Giải Phóng ra. Phải chú ý đến bọn leo nheo, theo đóm ăn
tàn…” (HCM, BNTS, tập 8, tr. 368). Rồi mới thấy ông Nhu đã nhìn ra tổ
chức này để đề ra chính sách Hồi Chánh. Đến năm 1974, sau 10 năm chính
sách Hồi Chánh được ban hành, đã có trên 200.000 Hồi Chánh Viên. Nhiều
đơn vị Cộng Sản cấp Đại Đội, Tiểu Đoàn đã ra hồi chánh tập thể. Hồi
Chánh là một chính sách nhân đạo và thành công nhất của chính quyền
Quốc Gia, nhưng lại ít hay không được giới sử gia để ý tới.
Sau 1968, Bắc Việt đã công khai điều động chiến tranh xâm lược Miền
Nam. Năm 1975, họ cho quân chính quy trực tiếp vượt Vĩ Tuyến 17, đánh
chiếm Miền Nam, rồi vội vàng giải thể MTGPMN. Nhiều cán bộ MT cao cấp
đã bị bắt, bị quản thúc hay phải trốn tránh ra hải Ngoại. Hà Nội phải
mang cả một guồng máy cầm quyền từ Miền Bắc vào áp đặt lên Miền Nam.
Hy vọng tài liệu về MTGPMN xin hàng sẽ được tìm thấy trong núi hồ sơ
cuả CIA để chúng ta hiểu rõ hơn về tổ chức này.

Hoa Kỳ Quyết Định Đảo Chánh Ngày 24/8/1963.
Song song với việc bổ nhiệm Đại Sứ Henry Cabot Lodge, Phe Chủ Chiến
Hoa Kỳ M - W. Averell Harriman, Roger Hilsman, Ball, Getsinger và V.
Forrestal, đã đồng ký một Công Điện mang số 243 chỉ thị cho ông Lodge
thực hiện Cuộc Đảo Chánh lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm. Đây là loại
Công Điện tối mật cần hành động lập tức (top secret and operation
immediate). Đô Đốc Harry Felt, Tư Lệnh Mỹ tại Thái Bình Dương, cũng đã
góp ý kiến vaò việc soạn công điệp này. Công Điện đã được đánh đi khẩn
cấp vào tối Thứ Bảy 24/8/1993. Công Điện ghi rõ: “Chính phủ Hoa Kỳ
không thể để cho Nhu nắm quyền hành trong tay. Chúng ta sẽ cho Diệm cơ
hội để tách rời ra khỏi Nhu và bè đảng của Nhu và thay vào đó bằng
những nhân vật có khả năng trong giới quân nhân và chính trị có thể
tìm được. Tuy nhiên, sau khi dùng mọi nỗ lực mà Diệm vẫn khước từ và
đối kháng, chúng ta sẽ phải đối diện với một khả thể: chính ông Diệm
cũng không thể nào được để tồn tại” (Nguyễn Kỳ Phong, hình Công Điện
bià sau sách).
Như vậy việc lật đổ Chính Phủ Ngô Đình Diệm đã được quyết định trước
ngày Maneli gặp ông Nhu. Tất cả những tin đồn, tin chính thức, báo cáo
chỉ được dựng lên hay thêm bớt nhằm thực hiện chỉ thị trên.

Tranh Chấp Giữa Hai Phe Lãnh Đạo Cộng Sản Bắc Việt.
Từ những năm đầu 1950, Trung Cộng đã trực tiếp chỉ đạo chiến tranh,
chỉ đạo cuộc chỉnh huấn (một hình thức thanh trừng nội bộ) và cuộc cải
cách ruộng đất. Mao Trạch Đông không hề che giấu ý đồ dùng Đông Dương
làm bàn đạp và Đảng Cộng Sản Việt Nam làm công cụ để bành trướng phong
trào Cộng Sản xuống các nước Đông Nam Á. Do đó không lạ gì khi thành
phần công khai thân Trung Cộng như Lê Duẩn (Bí Thư), Lê Đức Thọ (Tổ
Chức Đảng), Trần Quốc Hoàn (Công An), Nguyễn Chí Thanh (Quân Đội)… nắm
đa số lãnh đạo Miền Bắc. Phe thân Nga chỉ là thiểu số, họ lại còn bị
mang tiếng là thiếu tích cực thống nhất đất nước, không cổ vũ việc
“Giải Phóng” Miền Nam.
Về mặt chìm phe thân Trung Cộng luôn luôn thắng thế, như Hội nghị lần
thứ 15 cuả Trung Ương tháng 1/1959, bí mật ra quyết định điều động bộ
đội Miền Bắc chuyển vũ khí vào Nam, để tiến hành võ trang thống nhất
đất nước. Hay Nghị Quyết 49/NQ/TVQH, được Quốc Hội Cộng Sản ban hành
ngày 20/6/1961, cho phép bắt giam công dân 3 năm không cần thủ tục tố
tụng. Chiếu theo Nghị Quyết này hàng trăm, cán bộ lãnh đạo thân Liên
Sô sau này đã bị bắt giam không cần xét xử và nhiều người đã chết
trong tù.
Qua báo Nhân Dân có thể thấy nhiều xung đột xảy ra công khai giữa hai
phe nhóm kể trên. Qua những tài liệu có được, việc nghiên cứu quá
trình xung đột giữa hai nhóm này sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về giai
đọan lịch sử này.
Ngày 7/1/1959, trên báo Tin Tức (Liên Sô), Hồ Chí Minh chính thức xác
nhận bản chất đánh thuê của Tập Đoàn Cộng Sản Bắc Việt, (tự ví là “Bộ
Đội Biên Phòng”): “Như vậy là ở Đông Nam Châu Á, chúng tôi đã đứng ở
tiền đồn của mặt trận dân chủ và hoà bình toàn thế giới chống lại chủ
nghĩa đế quốc và chiến tranh” (HCMTT, tập 8, tr. 258).
Tháng 11/1960, Hồ Chí Minh tham dự “Đại Hội Mạc Tư Khoa”, đồng ý ký
vào Tuyên Bố Chung, đồng thuận với chiến lược thi đua hòa bình giữa
các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau do Liên Sô đề
xướng.
Ngày 2/10/1961, dự phiên họp Bộ Chính Trị, Hồ Chí Minh giải thích lý
do theo Liên Sô như sau: ”… Miền Nam đối với Mỹ rất quan trọng. Trước
nó nói “Bắc tiến”, nay nó nói “Nam trị”, nhưng vẫn không từ bỏ âm mưu
Bắc Tiến. Nó sợ mình đánh nó. Địch quân sự mạnh nhưng chính trị yếu.
Ta, chính trị mạnh nhưng quân sự yếu. Nếu lấy sức độ sức để tiêu hao
thì không lợi. Ta không lấy đấm chọi đấm mà lấy mưu mẹo diệt nó, trừ
bọn ác đi bảo vệ cơ sở, phong trào dân sẽ lên…” (HCM, BNTS, tập 8, tr.
150). Chủ trương này được các phe nhóm trong Đảng Lao Động chấp nhận
cho đến khoảng đầu năm 1963.
Ngày 1/1/1962, trên báo Nhân Dân có đăng “Lời chúc Tết đồng bào cả
nước”, trong đó Hồ Chí Minh nhận xét “… lực lượng xã hội chủ nghĩa hơn
hẳn lực lượng đế quốc, lực lượng hoà bình hơn hẳn lực lượng chiến
tranh.” Và công khai đề nghị: ”Chúng ta luôn luôn chủ trương rằng:
Thống nhất Việt Nam là sự kiện thiêng liêng cuả toàn dân Việt Nam. Đại
diện của hai miền có thể gặp nhau, cùng nhau bàn bạc, tìm con đường
tốt nhất để hoà bình thống nhất Tổ quốc, trên cơ sở độc lập, dân chủ
như Hiệp định Giơ-ne-vơ đã quy định” (HCMTT, tập 9, tr. 272).
Ngày 28/3/1962, để trả lời Phóng Viên báo “Tin Nhanh Hàng Ngày” ở Luân
Đôn (bài này đã được đăng trên báo Nhân Dân), Hồ Chí Minh khống thiết
kêu gọi: “Chính phủ nước VNDCCH đã nhiều lần đề nghị với chính quyền
miền Nam, hai bên phái đại diện gặp nhau để bàn bạc cách giải quyết
theo phương pháp hòa bình, và vưà rồi, trong bản Tuyên Bố ngày
18-2-1962, chính phủ nước VNDCCH lại một lần nữa yêu cầu hai chủ tịch
và các nước tham gia Hiệp nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương nghiên
cứu gấp những biện pháp có hiệu qủa để chấm dứt cuộc vũ trang xâm lược
của đế quốc Mỹ vào miền Nam Việt Nam, nhằm bảo vệ hòa bình cuả Đông
Dương và Đông Nam Á. Việc miền Nam theo chế độ trung lập hay một chế
độ nào khác là do nhân dân miền Nam quyết định… Chính phủ nước VNDCCH
đã từng đề nghị (Công hàm ngày 22-12-1958) với chính quyền miền Nam
bình thường hoá quan hệ giữa hai miền về mặt kinh tế và văn hóa, về
việc đi lại và thư tín giữa hai miền, v.v…” (HCMTT, tập 9, tr.
319-320).
Ngày 22/7/1962, trả lời Phóng Viên báo Tin Tức và Sự Thật Thanh Niên
(Liên Sô) về đường lối và biện pháp Hồ tuyên bố: “Chúng tôi luôn luôn
chủ trương thống nhất tổ quốc bằng đường lối hòa bình, luôn luôn đòi
phải thực hiện đúng đắn Hiệp định Giơ-ne-vờ, đòi đế quốc Mỹ phải chấm
dứt can thiệp vào chuyện nội bộ Việt Nam” (HCM, BNTS, tập 8, tr. 267).
Ngày 6/11/1962, kỷ niệm 45 năm Cách Mạng Tháng 10 Liên Sô, Hồ đã gởi
điện tới Bí thư Đảng Cộng Sản Liên Sô trong đã nhấn mạnh: “Từ ngày
thành lập Liên Sô luôn luôn thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình
và kiên trì đấu tranh cho chính sách chung sống hòa bình giữa các nước
có chế độ chính trị khác nhau” (HCM, BNTS, tập 8, tr. 317).
Ngày 22/1/1963, Chủ Tịch Novotny của Tiệp Khắc thăm Hà Nội.
Ngày 26/1, Hồ Chí Minh và Novotny đã ký một Tuyên Bố Chung phản
ảnh quan điểm của Liên Sô và ca ngợi chung Sống Hòa Bình là
“Chính Sách Đúng Đắn Nhất”. Ngay sau khi Novotny về nước, xung
đột giữa hai phe trong Đảng Lao Động căng thẳng hơn.
Ngày 17/2/1963, trong một cuộc họp Bộ Chính Trị, Hồ Chí Minh đã phải
yêu cầu “Đoàn Kết Nhất Trí Trong Đảng” trước tình hình hiện nay. Về
vấn đề Trung Lập, Hồ đã phải giải thích như sau: “Mỹ bối rối, mình đề
xướng trung lập. Đó là thắng lợi của mình. Nói hai bên đình chiến,
mình không đánh, đình chiến gì?” (HCM, BNTS, tập 8, tr. 367).
Kết quả, Ngoại Trưởng Ung Văn Khiêm bị quy trách nhiệm vì đã soạn
thảo Tuyên Bố Chung và bị thay bằng Xuân Thủy. Nguyễn Văn Trấn
cho biết Hồ Chí Minh đã đọc và sửa lại bản nháp của Bản Tuyên Bố nhưng
làm ngơ, tránh trách nhiệm (NVT, tr. 328). Đây là lần đầu Hồ Chí Minh
bán phe thân Liên Sô để nhập vào hàng ngũ thân Trung Cộng.
Nhờ đó mới dẫn đến thắng thế đầu tiên của Phe Chủ Chiến chuẩn bị cho
chuyến thăm Hà Nội vào tháng 5/1963 của Chủ Tịch Trung Cộng,
Lưu Thiếu Kỳ. Chuyến thăm này đưa Bắc Việt đứng hẳn về phía Trung
Cộng, Hồ và Lưu Thiếu Kỳ ký một Tuyên Bố Chung gọi “Chủ Nghĩa Xét
Lại” và “Cơ Hội Hữu Khuynh” là đe dọa chính cho phong trào
Cộng Sản Quốc Tế. Trong vòng chưa đầy 4 tháng, hai Tuyên Bố Chung
phản ảnh hai quan điểm trái ngược, Hồ đã chuyển hẳn từ nhóm thân Nga
sang nhóm thân Tàu.
Cần nhắc lại vào tháng 7, Maneli gặp Phạm Văn Đồng và Xuân Thủy có cả
sự hiện diện của Hồ Chí Minh. Theo Hồi Ký của Maneli, Hồ chỉ lắng nghe
hai phía và không có ý kiến gì. Trong khi Maneli gặp ông Nhu thì Hồ
Chí Minh đang nghỉ mát tại Quảng Đông, Trung Quốc. Hồ họp riêng với
Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai và đã tuyên bố như sau: “Đừng nói là
phải đánh 5 năm, 10 năm, dù có 20 năm, 30 năm, thậm chí 50 năm cũng
phải đánh, đánh cho đến khi thắng lợi hoàn toàn!” (HCM, BNTS, tập 8,
tr. 457). Câu tuyên bố trên chỉ nhái lại khẩu hiệu: “Đánh đế quốc,
đánh, đánh, đánh, đánh cho đến thắng lợi” do Mao Trạch Đông đề ra,
nhằm biểu lộ chủ trương hiếu chiến và lòng trung thành cuả Hồ với Mao.
Cùng lúc ấy, một bài báo của Lê Đức Thọ, Trưởng Ban Tổ Chức
Trung Ương, được in trên báo Nhân Dân. Trong bài, nói một số
đảng viên bị ảnh hưởng của “Chủ Nghĩa Xét Lại” và vì thế
nghi ngờ chiến lược thống nhất đất nước của Đảng. Bài báo là
một bước trong sự chuẩn bị cho Hội Nghị Trung Ương Lần Thứ 9
tiến hành vào tháng 11 cùng năm.
Ngày 20/10/1963, Hồ Chí Minh tiếp Đoàn Đại Biểu Viện Kiểm Soát Tối Cao
Liên Sô do ông R.A. Rutencô làm Trưởng Đoàn. Hồ tuyên bố: “Để hoà
bình giải quyết vấn đề miền Nam Việt Nam hiện nay, chỉ có một cách là:
Đế quốc Mỹ phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, vấn đề miền Nam Việt Nam
phải do nhân dân Việt Nam tự giải quyết lấy, như hiệp định Giơnevơ đã
quy định” (HCM, BNTS, tr. 471). Tuyên bố này được đăng báo Nhân Dân
24/10/1993, như vậy Hồ đã chính thức từ bỏ chủ trương Sống Chung Hòa
Bình cuả Liên Sô.
Tại Hội Nghị Trung Ương Lần Thứ 9, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đã
phê phán chủ trương Sống Chung Hòa Bình và Hội Nghị kết thúc
với Nghị Quyết đẩy mạnh công cuộc đấu tranh bằng vũ lực ở
Miền Nam.
Bùi Công Trừng đã kể lại cho Nguyễn Văn Trấn như sau: “ Cái thằng Lê
Đức Thọ trước giờ họp, nó đi đi, lại lại trong phòng, như thể đội
trưởng một tổ pháo đi kiểm tra đốc thúc pháo binh chuẩn bị… Tao đếm
lão Hồ, đưa tay mấy lần, lần nào thằng Thọ cũng kịp ngăn: ‘Bác hãy để
cho anh em nói mà’...” (NVT, tr. 328). Phe thân Liên Sô chưa biết họ
đã bị Hồ Chí Minh bán sống nên Lê Đức Thọ mới dám lộng quyền như trên.
Sau Hội Nghị Trung Ương Lần Thứ 9, nhóm Lê Duẩn tăng cường phê
phán “Chủ Nghĩa Xét Lại Hiện Đại” (ám chỉ chủ trương thi đua
hòa bình giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau, mà Liên
Sô, Khrushchev, cổ vũ). Trong loạt bài “Tăng cường mặt trận tư
tưởng để củng cố Đảng” của Lê Đức Thọ, được đăng trên báo
Nhân Dân, đã thừa nhận một thiểu số trong Đảng không đi theo
đường lối đã ra. Mặc dù bài báo không nêu tên cụ thể, nhưng
theo các quan sát viên, sự ám chỉ nhắm đến những người như
Bùi Công Trừng, Dương Bạch Mai, Lê Liêm, Ung Văn Khiêm… những
người đã phát biểu phản đối nhóm của ông Lê Duẩn - Lê Đức Thọ
trong Hội Nghị 9. Lê Đức Thọ cũng loan báo các đảng viên sẽ
phải dự các lớp học tập và chỉnh huấn để thấm nhuần Nghị
Quyết của Hội Nghị Trung Ương 9.
Tại Hội Trường Ba Đình, tháng 1/1964, trước các cán bộ cao và trung
cấp học tập Nghị Quyết 9, Trường Chinh tuyên bố: “Đường lối đối nội
và đối ngoại của Đảng ta và Nhà nước ta là thống nhất về cơ bản với
đường lối đối ngoại và đối nội của Đảng Cộng Sản và nhà nước Trung
Quốc” (Nguyễn Minh Cần, tr. 129).
Chiến lược kinh tế của Liên Sô cũng hoàn toàn thất bại ở Miền Bắc Việt
Nam. Qua tuyên truyền trên báo chí, Miền Bắc luôn luôn đạt kế hoạch
Đảng giao. Qua biên bản Hội Nghị Bộ Chính Trị và qua lời Hồ Chí Minh
thực tế khác xa: “Từ ngày hòa bình lập lại năm nào cũng thấy có thuận
lợi, có khó khăn và năm nào cũng không đạt kế hoạch. Tình hình mỗi
ngày một căng thẳng. Ta phải tính cách nào, nếu cần có thể phải giảm
bớt một phần xây dựng để giải quyết vấn đề ăn và mặc cho quần chúng
được tốt hơn nữa, đừng để cho tình hình đời sống căng thẳng
quá” (HCMBNTS, tập 8, tr. 272). Sau 1975, sự nghèo đói cả tinh thần
lẫn vật chất được giải thích là để Miền Bắc tập trung giải phóng Miền
Nam. Chẳng qua chiến tranh chỉ là cái cớ để Đảng Cộng Sản che dấu thất
bại về xây dựng kinh tế.

Trở Lại Chuyện Cành Đào.
Ông Cao Xuân Vỹ cũng nhớ là vào Tết Nguyên Đán năm 1963, Hồ Chí Minh
đã nhờ Đại Sứ Ấn Độ trong Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Ðình Chiến chuyển
Tết ông Diệm một Cành Đào. Tổng Thống Ngô Đình Diệm chỉ biết khi món
quà xuân đã về đến Dinh Độc Lập. Ông Diệm cho lệnh mở ra thấy có Cành
Đào, một Tấm Thiệp Chúc Tết đề đại khái “Chủ Tịch Nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hoà kính tặng, Chúc Tết Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà” và một
lá thơ ông Hồ gởi cho ông Diệm (Vĩnh Phúc, tr. 336).
Trên báo Con Ong Tỵ Nạn tại Paris, vào năm 1981, có phổ biến “Bức chúc
thư của Hồ Chí Minh” trong đó có đoạn: “Đầu năm 1963, hồi đó tôi còn
chưa bị bọn quanh tôi bao vây chặt chẽ quá, tôi có nhờ mấy nhân viên
Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Ðình Chiến chuyển vào Nam bộ hai cành đào lớn
rất đẹp để tặng cụ Ngô đình Diệm, kèm theo một bức thư, trong thư đó,
tôi có chân tình yêu cầu cụ Ngô cùng tôi thảo luận trong tình anh em,
để hai bên cùng lo cho dân chúng hai miền, trên căn bản thi đua làm
cho dân giàu, nước mạnh, theo đường lối riêng của từng người. Truyện
này lộ ra, làm cụ Ngô bị giết trong Nam”. Rất nhiều người tin đây là
Chúc Thư thật với thủ bút cuả Hồ Chí Minh. Bài viết này không đánh giá
bức Chúc Thư là thật hay giả. Nhân vật Hồ Chí Minh đã tự viết sách tự
ca ngợi là Cha Già Dân Tộc thì còn việc gì không dám làm. Nếu là thật,
Hồ Chí Minh nên dành nỗi thương tiếc “cụ Ngô” cho hằng trăm “đồng chí”
tin Hồ và thân Liên Sô đã bị Hồ bỏ rơi chết trong tù hay trong đọa đày
lao khổ.

Kết.
Qua bài có thể thấy câu chuyện hai ông Diệm và Nhu muốn thương lượng
với Miền Bắc chỉ là một Thế Cờ (Dọa Mỹ) tính sai nước. Người Mỹ đã
Phản Phé Nước cờ một cách tàn nhẫn lấy lý do trên.
Ngược lại, trong Cuộc Hội Thảo do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tổ chức vào
cuối tháng 9/2010 vừa qua, cựu Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger lần
đầu tiên thú nhận “... Hoa Kỳ thất bại ở Việt Nam là do chính người Mỹ
làm ra... Nước Mỹ muốn thỏa hiệp, Hà Nội muốn chiến thắng”. Người Mỹ
đổ quân vào Việt Nam sau khi ông Diệm đã chết cũng chỉ muốn Thỏa Hiệp
trong thế mạnh nào ngờ đã Sa Lầy tại Việt Nam.
Trong khi đó, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản công khai chấp nhận làm
“Tiền Đồn” Đánh Thuê cho phe Cộng Sản và xung đột để chọn giữa hai Ông
Chủ Liên Sô và Trung Cộng. Cả hai phe đều chủ trương Thống Nhất Việt
Nam. Phe Liên Sô, muốn dùng giải pháp chính trị thương lượng với Miền
Nam. Nếu bắt tay được với Miền Nam là một thắng lợi lớn của phe này.
Phe Trung Quốc thì chủ trương đánh để giải phóng Miền Nam và thực hiện
chiến lược bành trướng phong trào Cộng Sản xuống các nước Đông Nam Á.
Cuối bài xin dùng một hình ảnh dễ nhớ làm kết luận. Ở Miền Nam, anh em
ông Ngô Đình Diệm bị người Mỹ trói tay chỉ biết la làng. Từ Miền Bắc,
Hồ Chí Minh một tay đưa tặng Cành Đào, tay khác dấu đằng sau con dao
nhọn. Lê Duẩn và Lê Đức Thọ thì đằng đằng sát khí “Cầm Gươm Ôm Súng
Xông Tới” vượt sang Miền Nam. Ông Chủ Liên Sô, Khruschev, buồn rầu
không biết sao giúp đàn em. Ông Chủ Trung Cộng, Mao trạch Đông cười
toe toét miệng la lớn “Hẩu Hẩu” khen thưởng đàn em. Hình ảnh trên cũng
bộc lộ Toàn Bộ Cuộc Chiến Bắc-Nam 1954-1975.
Nguyễn Quang Duy Melbourne, Úc Đại Lợi 30/10/2010
Cước-Chú: Tài Liệu Tham Khảo và Trích Dẫn.
Chánh Đạo, 2004, Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, Văn Hoá, Houston, Hoa
Kỳ.
Hồ Chí Minh Biên Niên Tiểu Sử, 1996, Tập 8, Đặng Xuân Kỳ chủ biên, Nhà
Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh Toàn Tập, 1989, Tập 8 và Tập 9, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà
Nội.
Gnoinska K. Magaret, 2005, Poland and Vietnam, 1963: New Evidence on
Secret Communist Diplomacy and the “Maneli Affair”, Working Paper No
45, Cold War International History Project, Woodrow Wilson
International Center for Scholar.
Lâm Lễ Trinh, 2006, Về Nguồn Sinh Lộ Cho Quê Hương, Thủy Hoa Trang,
California, Hoa Kỳ.
Mieczyslaw Maneli, War of the Vanquished, translated from the Polish
by Maria de Gorgey, Harper & Row, New York, 1971.
Nguyễn Ngọc Giao, 1963: Tìm hiểu cuộc “Đi Đêm” giữa Sài Gòn và Hà Nội,
Diễn Đàn số 131 tháng 7/2003.
Nguyễn minh Cần, 2001, Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động
Trong Phong Trào Quốc Tế Cộng Sản, Tuổi Xanh xuất bản.
Nguyễn Tài, Khúc khuỷu đường đời - Mười một năm liên tục đấu tranh để
sự thật và lẽ phải được thừa nhận, talawas
Nguyễn Kỳ Phong, 2006, Vũng Lầy Bạch Ốc: Người Mỹ và Chiến Tranh Việt
Nam 1945-1975, Tủ Sách Tiếng Quê Hương, Virginia, Hoa Kỳ.
Nguyễn văn Trấn, 1995, Viết Cho Mẹ Việt Nam, Văn Nghệ, Hoa Kỳ.
Phạm Văn Lưu, 1994, Biến Cố Chính Trị Việt Nam Hiện Đại: Ngô Đình Diệm
và Bang Giao Việt Mỹ 1945-1963, Centre for Vietnamse Studies.
Vĩnh Phúc, 1998, Những Huyền Thoaị và Sự Thật về Chế Độ Ngô Đình Diệm,
Văn nghệ, California, Hoa Kỳ.
Vũ Ngự Chiêu, Tướng Dương Văn Minh và Đệ Nhất Cộng Hoà, Diễn Đàn số
127 tháng 3/2003.

> cựu Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và cũng là ...
>
> read more »

Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages