Hôm nay, tấm ảnh này vẫn còn hữu ý.

14 views
Skip to first unread message

Giác Hạnh

unread,
Mar 8, 2014, 1:05:03 PM3/8/14
to tudo-n...@yahoogroups.com, Tran Quang Dieu
Hôm nay, tấm ảnh này vẫn còn hữu ý. 


Thay vì chống cộng, bọn Công giáo tiếp tục chống Phật giáo. Tại sao?

Tại vì chúng chỉ biết giáo huấn khi còn thời cầm súng năm xưa là chỉ biết tấn công Phật giáo theo ma thuật của bọn Công giáo.

Càng chống Phật giáo, thì hậu quả của chúng ra sao? 
1. Toàn thể lịch sự tội ác của đạo chúng tại Việt nam và trên thế giới bị vạch trần sẽ lần lượt được toàn dân Việt nam biết tới.
2. Thay vì chống Việt cộng, chúng lo chống Phật giáo, hôm nay, Hoa Kỳ còn phải nể sợ Phật giáo vì chính sách tại Biển Đông và Á Châu Thái Bình Dương nói chung. Cuộc tiến triển của Mỹ tại Á châu, nhất là với Trung quốc và Việt nam, Miến, Thái. Hoa Kỳ cũng phải biết kính trọng tất cả các dân tộc này có một nền văn hóa hòa bình. Một khi bọn công giáo Việt nam chống cộng sản mà cũng không thể tập trung chống cộng sản VN, chúng chỉ có thể làm là chống Phật giáo. Thì tội ác của toàn thể tôn giáo chúng, từ triết lý, lịch sử, tới hành động hiện tại sẽ vẫn là thảm bại.

Chúng ta phải tự hỏi chính chúng ta, vì sao chúng ta (người Việt quốc gia) 40 năm rồi mà vẫn thua? 

Lẽ dĩ nhiên, là vì chúng ta tin lầm vào đường lối chống cộng của bọn công giáo thực tâm chỉ là để làm trò phá hoại dân tộc ta, làm mất lòng dân Việt nam, và cố tình gây ra ác nghiệp. Cái ác nghiệp phá hoại nhà Chùa đó, thì toàn khối Quân lực VNCH phải lãnh hậu quả do cái nhân quả tiếp ứng với bọn Ác.  Thay vì họ làm đúng vai trờ quân nhân theo cách của Mỹ, họ đã sai lầm thi hành mệnh lệnh của bọn Công giáo lợi dụng sức và tâm của họ để giết chính người dân mình. Nhân quả rõ ràng báo ứng. 

Còn nếu chúng ta nói rõ hơn, thì ngay cái thời bọn Phản quốc này tiêu diệt nhà Tây sơn, cho đến thời Chiến chúng giết dân lành, qua thập niên 70s, 80s khi Quân đội nhân dân lo Chống Tàu, thì tại hải ngoại, QLVNCH lo chửi VC, chửi luôn QĐNDVN. Những linh hồn chiến binh hai miền, nạn nhân, dân lành, các nhà yêu nước. Hồn Thiêng Sông Núi đứng hẳn về phía Phật giáo và Dân tộc chúng ta sẽ phải khiến cho bọn phản quốc này phải vĩnh viễn nhận lãnh những tội ác chúng gây ra. 

Đã là cái nhân với cái quả. Nếu ai thật sự muốn hóa giải cái ác nghiệp này, thì chính họ phải biết nhận ra rằng, chính họ đã bị bọn công giáo lợi dụng cho mưu đồ thánh chiến giả man của đạo bọn chúng. Và người Việt anh em chúng ta sẽ nhìn ra được tất cả chân lý và tội ác của bọn chúng. 

Giác Hạnh

2014-03-08 6:19 GMT-08:00 Tran Quang Dieu <tranqu...@hotmail.com>:
 


Ông/bà "the...@yahoo.com" gì đầy viết:
"Cũng may mà các đơn vị TQLC và Biệt Cách Dù của chúng ta dám đánh thẳng, chứ nếu họ mà kiêng nể cửa thiền thì chúng ta còn gặp nhiều khó khăn hơn nữa."
Thì ra, dưới thời Ngô Đình Diệm, với lính tráng của nhà Ngô:

"Lực Lượng Đặc Biệt là một tổ chức của quân đội, được thành lập từ năm 1956 gồm gần 10 Đại Đội (mỗi đại đội 120 người), võ trang súng ống tối tân nhất, được huấn luyện kỹ như Nhảy Dù, bơi lội, đột kích sau lưng địch… Một số ít chiến sĩ Lực Lượng Đặc Biệt này đã từng nhảy dù ra Bắc để hoạt động, vì vậy nên được lựa chọn rất kỹ, đòi hỏi nhiều tiêu chuẩn. Đại Tá Lê Quang Tung chỉ huy lực lượng này." (Trần Văn Đôn). 


Vậy mà anh em nhà Ngô lại dùng để tấn công ác liệt Chùa Xá Lợi như thế này:


Nhà Ngô Đàn Áp Phật Giáo Đêm 20 tháng 8 năm 1963

Trần Quang Diệu 

http://sachhiem.net/LICHSU/TR/TQD33_danap.php

01-Sep-2013

Với luồng dư luận đen đồng loạt "chối trắng" những sự việc xảy ra 50 năm trước mà chế độ Ngô Đình Diệm đã để lại trong lịch sử, không những ở Việt Nam mà còn của thế giới, tác giả Trần Quang Diệu đã phải trích lại những đoạn sử liên hệ để chứng minh cho những ai có thể bị hoang mang vì những ngụy biện để chạy tội cho chế độ kỳ thị tôn giáo này. Lần này ông Trần Quang Diệu trích của Quốc Tuệ, "Công Cuộc Tranh Đấu của Phật Giáo Việt Nam - Từ Phật Đản đến Cách Mạng", Sài gòn năm 1964. Khánh Anh, Paris, tái bản năm 1987, trang 394 đến 396. Ngoài ra, vì là trích đoạn, những dữ kiện có thể bị mất liên tục, nên tác giả Trần Quang Diệu phải thêm nhiều chú thích để bạn đọc dễ hiểu. Trong bài này có kèm theo lá thư của một độc giả nhân chứng: Nguyễn Hữu Tín, và một số tranh biếm họa của người ngoại quốc về cuộc đàn áp nổi danh này. Xin mời bạn đọc (SH)

"Tối hôm đó, 20.8.1963, nếp sinh hoạt thường nhật của chùa Xá Lợi có thay đổi đôi chút (1). Khác với mọi khi, đêm nay, mới 9 giờ giữa lúc các thiện tín, sau khi lễ Phật xong còn đang đứng nói chuyện trước sân chùa, trao đổi tin tức và chờ tin giờ chót để về phổ biến cho bà con xóm phường được rõ, thì một Đại Đức tới nhủ họ ra về. Thấy ý các thầy như vậy họ chỉ nghe theo không cần biết lý do và cũng không thắc mắc đến việc trái với thường lệ là 11 giờ đêm mới tới giờ tín đồ buộc phải ra về để chư Tăng nghỉ ngơi.

Thời gian cứ chậm chạp trôi qua, tới 10 giờ đêm thì nếp sinh hoạt nhộn nhịp sôi nổi của ngày thường đã biến đi, trả lại sự tĩnh mịch cho chùa Xá Lợi.  Cổng chùa, mặt tiền, bên hông đều được đóng lại kỹ lưỡng. Ngoài đường, người qua lại bắt đầu thưa thớt, thỉnh thoảng mới có một chiếc xe hơi hoặc gắn máy lướt nhanh trên đại lộ, phát ra những tiếng nổ ròn tan rồi chìm trong đêm vắng.

Trong sân chùa, trái với thường lệ, về khuya, các ngọn đèn thường được tắt bớt; nhưng hôm nay, ánh sáng đèn néon như rực rỡ hơn. Giữa màn đêm u tịch, chùa Xá Lợi tỏa ra muôn ánh hào quang, làm cho mảnh trăng non thành phố mờ đi như ánh sao mai trong buổi bình minh.

11 giờ đêm, thời gian vẫn lặng lẽ trôi. Trên gác, các Thượng tọa hầu hết đã vào phòng riêng an nghỉ. Thỉnh thoảng mới có một Đại đức lướt nhanh qua hành lang hướng về phòng Thượng tọa Thích Tâm Châu, nơi duy nhất còn tiếng máy đánh chữ nhè nhẹ.

Dưới nhà hậu, phần lớn chư Ni đã đi nghỉ, chỉ còn có một số đang lom khom, lặng lẽ lau nốt mấy bực thềm hoa. Số khác bận rộn trong việc quay ronéo, đóng thành từng bản tin tức để phân phối vào sáng hôm sau. Họ yên lặng làm việc, thận trọng, nhẹ nhàng như sợ phát ra tiếng động làm mất giấc ngủ của Hòa thượng và chư Thượng tọa trên lầu. Ngoài động tác của những bàn tay, tiếng giấy sột soạt, tiếng máy ronéo xè xè, không còn thấy gì hơn trên những gương mặt điềm đạm và bình thản đến độ không ai có thể ngờ rằng trong giây lát nữa đây, giông tố bão bùng sẽ đến với những người tuổi còn trẻ mà đã sớm ý thức và sớm vì tình thương của nhân loại, rũ bỏ lợi danh nhận trọn cuộc đời khổ hạnh trong cảnh an bần lạc đạo.

Đồng hồ thư viện điểm 12 tiếng, âm thanh văng vẳng ngân dài trong đêm thanh vắng. Mọi hoạt động đều ngừng, ánh điện quang chùa Xá Lợi sáng chói lên. Trên đại điện, dưới nhà hậu, chư Tăng Ni đều đã đi nghỉ. Riêng một số thanh niên Tăng sĩ trong ban trật tự còn ngồi gác sau hai cổng chùa. (2)

Theo lệ thường của chùa Xá Lợi, ban trật tự này chia làm 6 chúng. Đêm  nay, chúng 5 phụ trách trong khoảng từ 1 đến 3giờ 15. 

Khi chúng 5 vừa tới thay phiên gác và ngồi trông chừng hai mặt cửa chùa được độ 3 phút, thì trên đường phố đang vắng lặng, bỗng xuất hiện một toán người mặc áo sơ mi bỏ ngoài quần tây. Họ ngồi trên xe đạp, từ từ lượn quanh, ngó vào chùa dò xét...

Thế rồi, trong giây lát, một hồi còi ré lên và một đoàn trên 200 người, tay lăm lăm súng cắm lưỡi lê ào tới bao vây quanh chùa. Đoàn người này mặc đồ trận rằn ri, mũ sụp xuống lấp trán. Họ thi nhau xông tới phá hai cổng chùa. Trong chốc lát, các cổng đều bật tung và đoàn người võ trang hùng hổ tràn vào chùa. Họ cúi lom khom, lủi nhanh, núp vào các gốc cây, bờ tường, giống như đoàn quân thiện chiến đang xung kích trên trận địa sống chết với kẻ thù.

Lúc này chư Tăng, Ni đều đã dậy cả, ai nấy vội vã leo cầu thang rút lên thượng điện. 

Các Thượng tọa gấp rút gọi giây nói cho các ký giả, sứ quán, nhưng đường giây đã bị cắt đứt, đồng thời hơi điện trong chùa cũng bị cúp luôn. Thế là, trong màn đêm, lờ mờ qua ánh điện đường sân chùa tràn ngập bọn người hung dữ, sát khí đằng đằng. Họ ồ ạt xông vào chính điện, đập phá cánh cửa, đạp đổ bàn thờ Hòa thượng Thích Quảng Đức và phá tan hộp đựng tiền công đức của thiện tín thập phương rồi cướp hết (3). Họ như điên cuồng, đập phá bàn ghế, xô đạp Hương đài, chặt cánh tay và móc mắt Phật lấy cặp nhãn (cặp mắt - tqd) kim cương trị giá trên hai triệu đồng.

Trong khi đoàn người mệnh danh "quân đội chính phủ" (4) đang đột nhập làm chủ tình hình và phá phách ở phía trước chùa, thì trên Thượng điện, tất cả Tăng, Ni đều quây quần vây bọc chung quanh Hòa thượng và các Thượng tọa. Người người nhất trí, khoẻ trước yếu sau trấn đóng hai đầu cầu thang không cho bọn người hung dữ tiến lên xâm phạm vào các Thượng tọa.

Ngay từ phút đầu của cuộc tấn công, cảnh chùa đã trở nên huyên náo, bên dưới bọn người hung dữ phá phách rầm rầm (5); ở trên Thượng điện, chư Tăng, Ni khua trống, đánh chuông, đập thùng thiếc cùng kêu la inh ỏi làm náo động cả một góc thủ đô.

Khi thanh toán xong dưới nhà, bọn người hung dữ nương theo hai cầu thang xông lên Thượng điện. Nhưng, họ gặp ngay phản ứng của hàng ngũ thanh niên Tăng sĩ; ngoài những bàn ghế chất đầy hai đầu cầu thang dùng làm chướng ngại vật, Tăng, Ni còn đem ấm chén, bát đĩa và tất cả các vật dụng trong phòng ra xếp thành một đống phía sau; hễ kẻ nào nhô đầu lên từ phía chân cầu thang lên, lập tức các đồ vật dụng được ném xuống xối xả, khiến bọn người hung dữ không sao tiến lên được. Lập tức lựu đạn cay từ dưới thi nhau tung lên sân Thượng điện, tiếng nổ chát chúa vang ra, cả trăm Tăng, Ni bị khói cay ho sặc sụa, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng. Một số người sức yếu, ngất đi nằm vật xuống.

Bọn người hung dữ lại từ dưới xông lên. Các thanh niên Tăng sĩ, mặc dù nước mắt nước mũi chảy ràn rụa làm mù mịt không trông thấy gì, nhưng họ vẫn liên tiếp thay phiên nhau nhắm hướng cầu thang liệng vật dụng xuống. Lựu đạn cay lại từ dưới nhất loạt tung lên, khói đen tỏa dày đặc, nhiều Tăng, Ni bị lựu đạn nổ ngay trên mình hoặc bị vỏ thủy tinh bắn ra cắt đứt da thịt, máu chảy quá nhiều nên ngã quỵ xuống.

Để đối phó lại, hàng tiền đạo Tăng sĩ được võ trang bằng khăn ướt, bịt trên mặt để ngăn bớt khói cay.

Lần thứ ba, sau khi lưu (or hưu? - tqd) chiến 15 phút, bọn người không tim không óc lại nhất loạt xông lên, lần này họ đội trên đầu mỗi người một chiếc ghế tựa để ngăn "đạn" từ trên xả xuống; đồng thời, họ vừa xung kích vừa tung lựu đạn cay.

Nhưng, kẻ xung kích dùng đòn độc, lấy ghế làm mộc, thì người bị tấn công, cũng đổi chiến lược, các "đạn" hạn nặng, như bàn giấy, chậu cảnh được quăng xuống và bất kỳ một thứ gì như thermode nước sôi, vỏ chai, hễ vớ được là họ quăng liên hồi...

Nhưng bọn người phía dưới hung dữ quyết bám sát trận địa, hết lớp này đuối sức thì lớp kia xông lên (6) và lựu đạn vẫn nổ liên tiếp làm inh tai điếc óc chư Tăng (có nghĩa là những ông thầy! - tqd). Tuy vậy, trận chiến vẫn diễn ra ác liệt, chư Ni một số ngã gục, một số bị ho sặc sụa, phải chạy vào phòng tắm, đóng chặt cửa tránh khói, còn một số vẫn hăng hái tìm kiếm vật dụng cho chư Tăng ném xuống...

Thời gian khủng khiếp nặng nề trôi... chư Tăng đã gần kiệt sức mà lực lượng cứu viện không có. Kẻ ngoại cuộc duy nhất ủng hộ là hãng U.S.O.M, từ các cửa sổ trên lầu cao, những bàn tay người ngoại quốc, đàn bà có, đàn ông có, đưa ra vẫy liên hồi, rồi cũng những bàn tay đó, nắm chặt lấy nhau đấm vào không khí ngụ ý tán trợ và cổ võ (7). Thế rồi, từ trên đỉnh ngôi nhà lầu hãng USOM ánh điện của máy chụp hình loé lên ánh sáng, lại càng chớp nháy liên tiếp khi một bóng người đàn bà vận quân phục từ trên xe Háp-tơ-rắc nhảy xuống (8). Người đàn bà này đứng giữa đường, hai tay chống ngang hông ngó vào cổng chùa Xá Lợi (9). Lập tức viên chỉ huy bọn người hung dữ được báo động và y chạy tới khúm núm trước thân người đàn bà này. Người đàn bà vận quân phục chỉ trỏ và quát tháo một hồi rồi lên xe đi thẳng. (10)

Trong sân chùa, trận chiến khởi đầu từ 1 giờ tới 2 giờ 45 phút thì thế cờ bắt đầu chuyển hướng. Lực lượng võ trang xông lên hùng hổ bao nhiêu thì sức kháng cự của Tăng, Ni yếu dần đi bấy nhiêu. Các vật dụng của nhà chùa dùng làm vũ khí đã hết... Thậm chí, chư Tăng phải xử dụng đến cả những bàn ghế trước đây dùng làm chướng ngại vật để quăng xuống... 

Thế là mọi người chỉ còn hai bàn tay trắng, đưa ra đón lấy những mũi nhọn của lưỡi lê ào ạt từ dưới lao lên. Lần lượt những người tu hành bị bọn người hung dữ thúc lưỡi lê vào ngực, vào lưng dồn tới một xó chùa.

Đàn áp Phật giáo tháng 8 1963

Tranh biếm họa của tờ Washington Post, 
Herblock mai mỉa chính quyền nhà Ngô:
"Ồ! Ông ta chống Cộng dử lắm đó. Có điều, ông ta thấy rằng Phật tử dễ bắt hơn nhiều.
 (sưu tầm của sachhiem.net)

Khi đã chiếm xong thượng điện, bọn người hung dữ tiếp tục khủng bố. Họ tràn vào thư viện bắt trói đánh đập các Thầy ở đây rồi dẫn đi, Thầy Hoàng Lạc, không chịu để chúng bắt, Thầy chạy ra sân lầu đại điện, nhào xuống đất để chết. Không ngờ lại rớt trúng đầu bọn hung dữ ở phía dưới; chúng hoảng hốt nổ súng (11), nhưng thầy Hoàng Lạc đã rơi xuống sân nằm bất tỉnh, khiến những viên đạn này lại bắn lộn vào đám đông, mấy mạng gục xuống. Sau đó chúng lục xạo khắp các phòng, chân đạp tung cửa, tay chuẩn bị bóp cò súng, miệng gầm thét chửi rủa tục tĩu...

Có nhiều thầy vừa ra tới cửa bị chúng còng tay, rồi đẩy đi. Qua một trận ngửi hơi ngạc các Thầy mệt mỏi, bước đi chậm chạp bị chúng tống báng súng vào lưng, khiến các Thầy ngã sấp xuống gạch. Tay lại bị còng ra phía sau, không thể chống đỡ nên các thầy đành chịu cảnh dập mày dập mặt, máu tuôn ướt áo, ướt đường.

Như để hả giận, vừa dồn các thầy ra chỗ ngồi tập trung trước sân thượng điện, bọn người hung dữ vừa chửi rủa vừa đánh đập, chúng bất kể già trẻ, ngôi vị trong chùa.

Kế đó, đèn được bật sáng; mọi người mới biết đoàn người hung dữ này không ai xa lạ chính là bọn mật vụ, cảnh sát và lực lượng đặc biệt do Trần văn , Giám đốc cảnh sát Đô thành chỉ huy tổng quát. Riêng Dương văn Hiếu, tay chân đắc lực của lãnh chúa miền Trung được đặc biệt phái vào Sài gòn, chỉ huy mật vụ của Ngô đình Nhu và Lê quang Tung, tư lệnh lực lượng đặc biệt thì chỉ thấy quân mà không thấy mặt chúng. Không rõ chúng chỉ huy đánh chiếm mạn nào hay nằm ở "Bộ tư lệnh chiến dịch đánh chùa"?

Theo lệnh Trần văn Tư, bọn mật vụ lần lượt bắt Hòa thượng Hội chủ, các Thượng tọa, Đại đức, dẫn ra xe. Chúng vừa tìm kiếm vừa reo lên "a thằng Tâm Châu đây rồi... cả thằng Giác Đức nữa, may quá...". Lập tức chúng xúm lại khiêng hai Thượng tọa xuống lầu. Đại đức Thích Đức Nghiệp cũng bị chúng nó lôi đi xền xệt trên cầu thang. Thế rồi các vị bị chúng đưa đi, giam mỗi người một phương nào không ai được biết.

Sau khi chúng kiểm soát kỹ lưỡng khắp chùa một lần nữa, thấy không còn sót ai, bọn mật vụ, cảnh sát, lực lượng đặc biệt, xếp hàng hai bên lối đi, mỗi đứa cách nhau một thước, nối tiếp nhau từ trên Phật điện xuống cầu thang vòng ra cổng. Chúng quay mặt đối diện với nhau, rồi một bọn khác tới lùa mấy trăm Tăng, Ni, ra xe.

Chư Tăng, Ni líu díu bước theo nhau thành một đoàn người rách rưới tả tơi, máu me lem luốc đầy mặt, khắp mình." 

"Vì Tăng, Ni đông quá nên cầu thang trở nên chật chội, không thể nào đi nhanh được. Điều đó lại để cho bọn mật vụ có cơ hội tức giận nguyền rủa. Từ phía sau, chúng chửi bới, xô đẩy và dùng báng súng thúc mạnh vào lưng chư Tăng. Trong đoàn Tăng, Ni bị xô đạp này, nhiều người yếu quá ngã xuống, nhất là chư Ni, chân không (không có giày dép - tqd) dẫm (giẫm) lên những đống máu đông đặc lầy nhầy đọng trên cầu thang, khiến không gượng được nên ngã vật xuống. "Mặc kệ", "chết bỏ", chúng vừa quát tháo vừa xô mạnh cho những người phía sau dày (giày) xéo lên những người phía trước vừa ngã dưới bực cầu thang. Có nhiều vị Tăng chỉ vì cố dừng lại khiêng mấy Ni cô bị ngã, nhưng vì sức yếu không sao gượng dậy được giữa đám chân người lủng củng, dồn dập từ trên cao lấn xuống, nên bị chúng dùng gậy đập trên đầu đến váng (choáng váng - tqd) óc té xỉu đi.

Cho tới 3 giờ rưỡi sáng, bọn người gian ác này hoàn toàn thành công trong việc đánh phá chùa Xá Lợi.

   

Những ảnh biếm họa khác của Herblock /Washington Post về việc đàn áp Phật giáo của chính quyền Diệm Nhu (SH sưu tầm, ảnh http://www.authentichistory.com/1961-1974/4-vietnam/1-overview/3-1955-1963/)

Ngoài những Thượng tọa bị đưa đi, giam riêng, còn bao nhiêu Tăng Ni chúng chất lên xe chở về Rạch Cát nhốt trong một cái đồn hoang dại, hẻo lánh thuộc quận bảy, thuộc ngoại ô Chợ Lớn.

Sau đó, chúng đem xe hơi tới hốt các Tăng Ni bị chết, bị ngất hoặc bị thương trầm trọng, nằm la liệt trên sân thượng điện về bệnh viện Cộng Hòa. Chúng chở luôn cả những "chiến lợi phẩm" mà chúng không "nuốt" được như máy móc, giấy tờ về quận III, còn bao nhiêu thứ có thể bỏ túi được thì chúng "chia bùi sẻ ngọt" với nhau.

Chùa Xá Lợi sau hơn ba tiếng đồng hồ sóng gió kinh hoàng, lúc này hoàn toàn tan hoang. Thứ duy nhất còn lại ngoài mấy vách tường, đồ đạc hư nát, và máu tươi, thịt bấy của Tăng Ni loang lổ khắp sân chùa.

Sáng ra, người ta mới biết, người đàn bà đêm qua mặc quân phục, hằn học nhìn vào chùa Xá Lợi là bà Ngô đình Nhu tức Trần lệ Xuân.

Trần lệ Xuân tới để chứng kiến cảnh tan nát cho hả lòng căn giận đối với những người độc nhứt trên đất nước này dám công khai đả kích bà ta và công khai chống lại uy quyền của nhà họ Ngô.

Ngoài ra, Trần lệ Xuân còn tới để đôn đốc bọn tay sai phá chùa, chiếm lại bức thư của thân phụ bà ta mới gởi về (từ Hoa Kỳ - tqd) tạ lỗi với các vị Thượng tọa cách đây mấy ngày về việc Trần lệ Xuân đã vô lễ xúc phạm tới mấy thầy, mạt sát Phật giáo, một tôn giáo mà họ Trần tôn thờ.

Trong khi chùa Xá Lợi chìm trong cảnh tang tóc máu lửa, thì hầu hết các chùa trên lãnh thổ gia đình Ngô đình Diệm thống trị đều chung một số phận như vậy.

Riêng tại chùa Từ Đàm, Huế, trong đêm 20-8-1963, với 5.000 Phật tử túc trực bao quanh nhục thân cố Thượng tọa Thích Tiêu Diêu đã là một cản trở rất lớn cho bọn tay chân Ngô đình Cẩn. Ngô đình Cẩn phải huy động 2000 quân, chiến đấu từ 1 giờ đêm đến 8 giờ sáng mới thanh toán xong chiến trường (12) . Sở dĩ có trận chiến đấu ác liệt như vậy là vì Phật giáo đồ tưởng rằng lực lượng Ngô đình Cẩn tới cướp thi hài Thượng tọa Thích Tiêu Diêu như chúng đã từng làm đối với các Tăng ni tự thiêu trước đây. Và cũng vì vậy nên chư Thượng tọa có mặt trong chùa để yên cho Phật giáo đồ cầm cự, cố sống cố chết bảo vệ lấy thi hài duy nhất của bốn vị tự thiêu tại miền Trung còn lại. (13)

Trong những phút cuối cùng của cuộc giao tranh, Phật giáo đồ đã có lần phóng hỏa đốt chùa để cùng nhau chết trong vòng vây nguy khốn chứ không chịu khuất phục trước bạo quyền...

Nhưng, việc làm này bị thất bại bởi lực lượng Ngô đình Cẩn quá đông, chúng ào vào dập tắt lửa và tấn công dữ dội hơn, làm cho Phật giáo đồ rối loạn, xô lấn, ngã xuống chất lên nhau.

Trong chùa, lúc nầy Phật tử chỉ còn hai bàn tay không dơ (giơ) ra chống đỡ với lưỡi lê của những kẻ bạo tàn. Bao nhiêu củi đuốc bàn ghế, ấm, chén, nồi nêu, bát, đĩa, xoong, chảo trong chùa, Phật giáo đồ đều dùng thay vũ khí và đã ném đi hết sạch. Vì thế, lực lượng võ trang của Ngô đình Cẩn chỉ còn việc lần lượt bắt trói từng người dẫn đi.

bắt bớ sau ngày tấn công chùa

Thế rồi sáng hôm sau, 21-8-1963, tại thủ đô Sài gòn, thành phố Huế và khắp các tỉnh , khi mọi người thức dậy ra đường, đã thấy nhan nhản những truyền đơn, hiệu triệu và sắc lệnh thiết quân luật  (14) dán đầy trên tường. Xe thông tin gắn loa phóng thanh chạy khắp phố phường thôn xã loan tin: "Chính phủ đã diệt trừ xong bọn phản động"

Trích nguyên văn sách đã dẫn ở phần trước, từ trang 394 đến 396.

Ngày 11.11.2011. (15)

Trần Quang Diệu

________________________

Chú thích của Trần Quang Diệu:

1) Vì chùa Xá Lợi đã nhận được tin "mật" vào lúc 5 giờ chiều ngày 20.8.1963 cho biết rằng "đêm nay chính quyền Ngô Đình Diệm sẽ tấn công , tàn phá các chùa". Như vậy, rõ ràng đã có người ngay trong những tay chân được nhận lệnh chuẩn bị tấn công chùa đã không nỡ, nên họ đã lén mật báo cho Ủy ban Liên Phái Bảo vệ Phật giáo biết chuyện này.

2) Nếu không gác, canh, trông chừng, thì tài liệu giả VC sẽ được mang vào thảy đâu đấy rồi cho người hô lên đặng tóm bắt "CS".

3) Y hệt đoàn quân Thập Tự chinh hồi thời Trung cổ. Và đang có sẵn đấy chứ khỏi cần ông NVC đệ trình văn thư xin thành lập.

4) Không phải, quân đội VNCH lúc đấy không đồng lõa chuyện này!

5) Ông Ngô Đình Nhu bảo ông "sẽ tiêu diệt Phật giáo trong 5 phút" có lẽ là như vậy?

6) Lực lượng võ trang của chính phủ dùng để chống giặc mà trưng dụng, khi lén quần chúng quốc dân, ban đêm huy động để tấn công nhà chùa thì làm sao không đủ lực lượng, làm sao có thể không "thiện chiến" để chiến thắng? 

7) Người ngoại quốc chứng kiến tận mắt cảnh tượng chế độ Ngô Đình Diệm đàn áp PG là như vậy, chứ không phải họ chỉ có ngồi mà đọc báo hay xem TV, nghe Radio ở Washington D.C, hay ở đâu tận những nơi đèo heo hút gió của trái đất.

8) Bà Trần Lệ Xuân!

9) Phải chi người đàn bà nầy, đang đứng phía bên này cầu Hiền Lương, vĩ tuyến 17 - nơi ngăn đôi hai bên bờ đất nước - "hai tay chống ngang hông" chỉ qua phía bên kia mà ra lịnh cho quân sĩ... thì quả thực là nữ "thư" hùng.

10) Vì chiến dịch, gọi là "diệt trừ ma quỉ" chưa xong.

11) Trong những phút giây lúc ngồi đánh ra, đến chỗ này, tôi bỗng "thắc cười" đến thót ruột vậy.

12) Đó là cảnh đã làm cho Linh mục Cao văn Luận, Viện trưởng Viện Đại học Huế mắng thẳng vào mặt những người lãnh đạo: "Các ông vô đạo, Phật giáo có chính nghĩa".

13) Chế độ Ngô đình Diệm đã cướp đi mất dạng tất cả bốn thi thể của những Tăng, Ni đã tự thiêu. Đó là: Thích Nguyên Hương, Thích Thanh Tuệ, Ni cô Diệu Quang và Đại Đức Thích Thiện Mỹ - người tự thiêu cuối cùng trong thời 1963, trước nhà thờ Đức Bà tại Sài gòn ngày 27.10.1963. Xem bài "Chân dung những nhà sư vị pháp thiêu thân"

14)  Đưa quân đội ra đường, bố phòng, canh giữ khi nào quốc gia có "biến". Quân đội VNCH hồi đó, buộc lòng phải làm theo lệnh của anh em nhà Ngô, nhưng, hầu hết là họ bất bình. Và, điều đó, càng làm cho phần đông các tướng lãnh phải quyết tâm liên kết để lên kế hoạch cho một cuộc đảo chánh lật đổ chế độ mà họ đã nung nấu từ hồi năm 1960 như Nguyễn Chánh Thi đã làm và Trần Văn Đôn đã viết trong hồi ký của ông. 

15) Đúng cả ngày, tháng mà năm mươi (50) năm trước đây, binh chủng Nhảy Dù VNCH đã làm đảo chánh (11.11.1960). Nhưng, nhờ Đại tá Trần Thiện Khiêm đem quân từ Mỹ Tho về "cứu giá" ông Ngô đình Diệm cho nên cuộc đảo chánh thất bại. Đấy rõ ràng là cảnh "quân đội đánh nhau với quân đội" mà tổng thống Diệm không ngăn cản. Nó chứng minh một cách hùng hồn để bác bỏ lý cứ mà khi Vĩnh Phúc phỏng vấn ông Cao Xuân Vỹ; hoặc trên diễn đàn có người thuật lại rằng "tổng thống Ngô Đình Diệm không cho quân đội đánh nhau" khi cuộc đảo chánh 1.11.1963 xảy ra (Vĩnh Phúc, "Những Huyền Thoại & Sự Thật Về Chế Độ Ngô Đình Diệm", Văn Nghệ, USA, 1998, trang 317, 318, 319).


Mời theo dõi lại các sự kiện sau đây:


1) “Đạo Cao Đài Bị Nhà Ngô Đàn Áp Ra Sao?”:

http://thientrithucvn.blogspot.com.au/2013/01/ao-cao-ai-bi-nha-ngo-ap-ra-sao-gioi.html

2) “PHẬT GIÁO HÒA HẢO BỊ NHÀ NGÔ ĐÀN ÁP RA SAO?”:

http://hoangnamgiao.blogspot.com.au/2013/02/phat-giao-hoa-hao-bi-nha-ngo-ap-ra-sao.html

3) Nhà Ngô Đàn Áp Phật Giáo Đêm 20 tháng 8 năm 1963 ra sao?:

http://sachhiem.net/LICHSU/TR/TQD33_danap.php


4) Nhà Ngô thủ tiêu các chính khách đối lập ra sao?:

"Ôi Nhân Vị và Duy Linh!" 
 
"Tác giả Lê Trọng Văn đã cho xuất hiện quyển hồi ký "Những Bí Ẩn Lịch Sử Dưới 
Chế Độ Ngô Đình Diệm" vào năm 1989. Đây là một quyển sách rất quan trọng của 
một nhân vật quan trọng đã tham dự vào nhiều việc tối mật dưới thời Tổng Thống 
Diệm. Tác giả với nhiệm vụ theo dõi, hoặc trực tiếp hành động, đúc kết và tường 
trình cho ông cố vấn Ngô Đình Nhu những công tác tối mật mà cả cơ quan mật vụ 
chánh thức cũng không hề hay biết. Tất cả đều nằm xấp trong bóng tối. Những dữ 
kiện lịch sử này tưởng đã chìm sâu trong dĩ vãng nếu tác giả không khai quật lại. 
Điều này hiển nhiên giúp các sử gia sau này có những phán xét khoa học và khách 
quan hơn cho một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Trong lời giới thiệu tập sách trên, 
ông Bùi Ngọc Lâm có đưa ra một nhận xét sau đây: "Tác giả đã biểu lộ được cái đạo 
đức chính trị của Thánh hiền trong mọi hành động. Tác giả đã hơn hẳn nhiều khuôn 
mặt một thời khoác áo lãnh đạo Quốc gia". 
 
(...) 
 
Ông Lê Trọng Văn, "Bề ngoài là một Tham vụ ngoại giao bặt thiệp trí thức, nhưng 
ông không làm việc cho Bộ Ngoại Giao. Ông cũng không làm việc cho Sở Nghiên 
Cứu Xã Hội và Chính Trị Phủ Tổng Thống (thực chất là Mật Vụ). Không làm việc cho 
Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo. Không làm việc cho Nha Tổng Giám Đốc Cảnh 
Sát Quốc Gia hoặc Nha An Ninh Quân Đội. Vậy ông đã làm gì? Xin thưa: Ông Nhu 
xử dụng ông như một thứ siêu mật vụ. Một thứ mật vụ tối mật bao trùm lên mọi 
ngành mật vụ khác để theo dõi, kiểm tra và báo cáo trực tiếp cho ông Nhu. Và với 
công tác này, ông là con người trong bóng tối. Một loại bóng tối thật đậm đặc. (...). 
Ông nói lưu loát được nhiều ngoại ngữ Thái, Lào, Miên, Pháp nên địa bàn hoạt động 
của ông trải rất rộng. Chính vì cuộc đời phiêu bồng đó mà một người đẹp xứ Thái đã 
trở thành hiền thê của một điệp viên trẻ tuổi Việt Nam. Cuộc tình kéo dài tới nay đã 
có đủ cháu nội ngoại của hai dòng máu. Và vì được giao những công tác tối mật nên 
từ lâu ông rõ nhiều mặt trái mà ít ai được thấy. Bên ngoài cái vỏ hoạt động, cái vỏ 
chánh trị, lý tưởng đẹp đẽ ấy chứa chấp những âm mưu, bịp bợm, hèn kém trơ tráo 
bỉ ổi đến cùng tận. Người thân, bạn bè thường khuyên ông hãy quên đi. Ông cố thử 
câm lặng, đui điếc. Mà rồi ông tâm sự là có cái gì "réo gọi" tự lương tâm phải đứng 
dây." 
 
Như trên, là trích đoạn nội dung lời "Vào đề" của Dược sĩ Bùi Khiết cho sách "Lột 
Mặt Nạ Những Con Thò Lò Chính Trị" của ông Lê Trọng Văn, xb tại Hoa Kỳ năm 
1991. 
 
Đó là "làm chính trị" (?). Là quyền lực, là địa vị và danh vọng!!! 
 
Ở chỗ khác, ông Lê Trọng Văn trong "hồi ký" mang tên "Những Bí Ẩn Lịch Sử Dưới 
Chế Độ Ngô Đình Diệm" ( xb năm 1989, USA, từ trang 263 đến 267), thì một số 
những nét đặc trưng "bí ẩn" đó là gì? Là những bí ẩn khủng khiếp, rùng rợn khi 
thanh trừng, thủ tiêu các đảng phái đối lập, những thành phần được xem là những 
đối thủ chính trường, nhưng lại cùng chung chiến tuyến chống Pháp lẫn chống Cộng 
như mình trong lúc gia đình ông Tổng Thống thể hiện "tình yêu thương", "Thiên Chúa lòng lành vô cùng". Nhân danh và thể hiện tinh thần "Tiết Trực Tâm Hư", "Cần 
Lao Nhân Vị", "Ngô Tổng Thống anh minh", sẽ "muôn năm" (?) v.v... như sau: 
 
"Nguyễn Bảo Toàn Và Đồng Chí Bị Thủ Tiêu Ra Sao? 
 
"Nội vụ được kết thúc bằng khẩu cung của các nạn nhân dày đến trên trăm trang 
giấy. Nguyễn Văn Y cùng với Nguyễn Văn Hay trình nội vụ lên ông Nhu. Một tuần 
sau, ông Nhu cho đòi Y và Hay vào dinh ra lịnh thủ tiêu ông Toàn và những người 
quan trọng có liên hệ mật thiết với ông. Tôi (Lê Trọng Văn) vừa đi công tác ở xa về 
thì nhận được lịnh là phải gặp ông Nhu ngay chiều hôm đó. Gặp tôi, ông Nhu cười 
và khoe với tôi là đã bắt được Nguyễn Bảo Toàn và đồng bọn, nhiều lắm, toàn là cán 
bộ cao cấp của Dân Xã Đảng cả. Tôi định báo cáo miệng sơ qua những công tác tôi 
được giao phó đã hoàn tất, nhưng ông Nhu chận lại và nói: "Nhớ đến đêm mùng 3 
tháng 1, đúng 12 giờ đêm, thì toa phải đến ban Hoạt Vụ 4 để theo dõi xem bọn thuộc 
hạ của Đại Tá Nguyễn Văn Y đem bọn Toàn đi thủ tiêu. Toa phải để ý xem bọn nó có 
làm không hay lại làm láo và nhớ cho moa biết". Tôi phải rút quyển sổ tay trong túi ra 
và ghi vắn tắt bằng mật ngữ ghi trong lịch: 12 giờ đêm 3 tháng 1 năm 1963 tiêu 
N.B.T. Theo dõi tại Hoạt Vụ 4. Để cho chắc chắn, ông Nhu hỏi tôi: "mà toa có biết 
ban Hoạt Vụ 4 ở đâu không?". Tôi nói với ông là tôi không lạ gì nơi đó, tên trưởng 
bót là Khưu Văn Hai (một hung thần giống như Trần Bửu Liêm). Xong vụ Nguyễn 
Bảo Toàn rồi, ông Nhu mới để cho tôi báo cáo sơ qua thành quả chuyến công tác đi 
xa vừa qua. 
 
"Ông Nhu đi vào phòng biệt thự, vừa đi vừa bảo tôi khoan hãy về. Chờ ông một lát. 
Tôi đứng đợi ở ngoài phòng khách, không đến 5 phút sau, ông Nhu trở ra và đưa tôi 
một bao thư lớn và nói: "Tiền đó toa cầm lấy mà tiêu". Tôi nhận lấy bao thư thấy 
nặng nên phải kẹp vào nách rồi chào ông Nhu ra về. Tôi nhớ là trước khi đi công tác, 
ông Nhu đã đưa tiền cho tôi dư dả rồi. Chắc có lẽ bắt được ông Toàn nên ông vui vẻ 
mà đưa thêm tiền cũng không biết chừng. 
 
"Mấy ngày trôi qua, đã thấy đến ngày 3 tháng 1 năm 1963 rồi. Sáng sớm tôi đến tìm 
Phương, người cộng tác tin cẩn của tôi. Tôi cho anh biết rằng đêm nay tôi với anh ta 
phải theo dõi Ban Hoạt Vụ để xem chúng làm gì? Tối nay Phương đến đón tôi đúng 
11 giờ và xe Jeep mang bảng số VN, vì xe của tôi phải mang vào garage cho thợ 
xem. Trước khi ra về, tôi còn dặn Phương là phải mang theo hai khẩu súng, một 
ngắn, một dài và mấy băng đạn để phòng khi hữu sự. 
 
"Tôi không cho Phương biết là tối nay họ mang ông Nguyễn Bảo Toàn đi thủ tiêu. Sở 
dĩ rủ Phương đi theo để đề phòng bọn thuộc hạ của Y và Hay làm ẩu khi chúng thấy 
có người theo dõi chúng. Ăn cơm chiều xong, tôi đánh một giấc đến khi nghe tiếng 
chị giúp việc mở cửa trước nhà cho Phương vào. Tôi đi thay quần áo và mang một 
lúc hai khẩu súng lục và 8 băng đạn, mỗi khẩu 4 băng. Giắt (tôi chỉ sửa chữ đó khi 
ông LTV dùng chữ "Dắt") trong mình một khẩu, còn một khẩu thì cầm tay. Lúc chúng 
tôi đến trước bót Hoạt Vụ thì đúng 11 giờ rưỡi. Tôi bảo Phương lái xe đậu tránh ra 
một chút và tắt máy, tắt hết đèn. Khoảng chừng 15 phút sau tôi thấy Nguyễn Văn 
Hay cùng mấy tên thuộc hạ ngồi trên xe Jeep Cảnh Sát đến đậu trước bót. Đàn em 
của Hay ở ngoài, Hay vào một mình. Độ nửa giờ sau Hay ra xe về. 
 
"Những bóng đèn đường hôm nay sao trông èo uột và xanh xao như những con đom 
đóm lập loè. Bầu trời u ám không trăng sao. Hai mươi phút sau, chúng tôi nghe thấy 
tiếng máy xe hơi của nhiều chiếc ở trong bót và ánh đèn pha của xe rọi sáng. Tôi nói với Phương lên xe và để chúng nó chạy trước một khúc, mình tắt đèn chạy sau, giữ 
khoảng cách vừa phải để bọn chúng không chạy hút. 
 
"Ở trong bót chạy ra, đi đầu là một xe Jeep thứ cảnh sát thường dùng, chiếc thứ hai 
là một xe bịt bùng loại mà cảnh sát thường dùng để bắt người, chiếc thứ ba cũng là 
một chiếc Jeep cảnh sát mới tinh. Ra khỏi Sài gòn, đi về hướng Phú Xuân và Nhà 
Bè. Đến gần Nhà Bè thì đi dọc bờ sông. Đến một khúc vắng vẻ, thì chiếc xe đầu 
dừng lại, tuy nhiên xe vẫn nổ máy và để đèn. 
 
"Khi thấy bọn chúng ngừng lại, và ra hiệu cho hai chiếc xe đi sau đứng lại thì tôi bảo 
Phương rẽ vào một bụi cây ở bên đường và tắt máy xe. Chúng tôi xuống xe, súng 
cầm tay, tôi đi trước, Phương theo sau. Chúng tôi lom khom đi đến gần chỗ bọn 
chúng đỗ xe, nhờ chung quanh toàn bụi cỏ hôi và cỏ hoang mọc cao nên chúng tôi 
dễ dàng ẩn mình và quan sát. Theo ánh đèn pin của chúng rọi trong lúc làm việc nên 
chúng tôi thấy chúng đưa hai người bị còng tay xuống xe. Một tên trong bọn lấy ở 
đâu ra một khoanh giây kẽm và một cái kìm. Chúng lấy giây kẽm buộc tay, buộc 
chân hai người lại, đoạn mở còng ra. 
 
"Một trong hai người bị trói lên tiếng: "Các ông làm gì vậy?". Tên Liêm nạt đàn em: 
"Lấy giẻ nhét miệng chúng nó lại", tức thì một tên đàn em Liêm ra xe lấy giẻ nhét vào 
miệng hai người, rồi thấy một tên khác ôm một đống gì trong xe vứt xuống, lúc đầu 
tôi tưởng là chăn, sau mới nhận rõ ra là bao bố đựng gạo. 
 
Hai tên cầm bao bố, hai tên khác xách nách người bị trói nhét vào trong bao bố, 
xong chúng đè hai người xuống và lấy giây kẽm luồn như người ta may miệng bao 
bố bằng chỉ cho kín lại. Hai người giẫy giụa trong bao, bọn chúng thi nhau đá túi bụi 
vào hai cái bao. Có một đứa trong bọn hỏi: "Giây và đá có sẵn chưa?", có tiếng đáp: 
"có sẵn dưới ghe rồi". Dưới ánh đèn pha của xe hơi, tôi thấy còn có cả sự hiện diện 
của Khưu Văn Hai bên cạnh Trần Bửu Liêm. 
 
"Có lẽ hai người bị tra tấn đã nhiều nên không còn sức giẫy giụa tiếp nữa, mặt khác 
bị trói bằng gây kẽm gai cả tay lẫn chân. Sau đó cứ bốn tên xúm vào ôm một bao bố 
xuống sông, hai tên xuống ghe, hai tên ở lại chỗ đậu xe. Liêm và Hai đi theo cầm 
đèn pin và chiếu xuống dưới ghe. 
 
"Tôi và Phương phải lùi ra xa vì chỗ đường mòn đi xuống dưới ghe không có chỗ 
nấp. Một lát chúng tôi nghe tiếng mái chèo khua nước, ánh đèn pin vẫn theo chiếc 
ghe. Ghe chèo đến giữa sông thì thấy chúng hè nhau quăng hai cái bao xuống nước 
nghe tiếng "Bõm, bõm". 
 
"Giữa bốn bề cảnh vật lặng ngắt, chỉ còn lại những tiếng chèo khua nước. Xa xa, 
dọc bờ sông, một hai ánh sáng lập loè không rõ là của nhà người ta hay của ghe 
thuyền nào. Một luồng khí lạnh chuyển động từ ót tôi xuống xương sống dưới lưng. 
Tôi nghe tiếng thở dài của Phương và thấy anh ta rút khăn tay ra lau nước mắt. 
Chúng tôi như hai tên ăn trộm, lặng lẽ đi vòng lại chỗ đậu xe của chúng tôi. Để cho 3 
chiếc xe của bọn chúng về trước, Phương hỏi tôi: "Anh có biết hai người bị chúng 
thủ tiêu là ai không?". Tôi vì quá xúc cảm nên không giấu, đáp giọng run run: 
"Nguyễn Bảo Toàn và Phạm Xuân Gia". 
 
"Bây giờ tôi mới biết, thì ra chúng đã chuẩn bị chu đáo từ trước, từ những cục đá, 
những vòng giây, chiếc ghe, những bao bố, giây kẽm để chuẩn bị thủ tiêu hai người 
như hai con mèo mà người ta thường nhốt vào trong giỏ, hay vào bao, cột lại, trấn nước cho chết trước khi làm thịt mà không muốn đập đầu. Các bạn cũng như tôi, 
nếu chứng kiến cảnh thê lương hãi hùng đó thì không sao cầm được nước mắt. 
Đồng thời cũng là một cái chết, nhưng tại sao ông Lê Quang Vinh, tự Ba Cụt không 
bị xử bắn mà lại chém đầu? Giờ đây đến lượt ông Nguyễn Bảo Toàn và ông Phạm 
Xuân Gia sao cũng không được chết một cách êm đềm? 
 
"Suốt quãng đường từ Nhà Bè về đến Sài gòn, Phương và tôi vẫn im lặng (như sấm 
sét? - TQD), không trao đổi với nhau một lời nào. Tôi nghĩ, sự im lặng đó là một kính 
cẩn của chúng tôi trước vong linh người chết mà chúng tôi đã chứng kiến, sự tàn ác 
có một không hai của thời đại văn minh này. Ôi Nhân Vị và Duy Linh! Mi đang ở 
phương nào?" (Cửu Long Lê Trọng Văn). 
// 
Nguyệt Đam và Thần Phong trong quyển "Chín Năm Máu Lửa Dưới Chế Độ Gia 
Đình Trị Ngô Đình Diệm" , với giấy phép xuất bản ngày 17.9.1964 - số 340/XB cũng 
đã có nêu vụ Nguyễn Bảo Toàn và Phạm Xuân Gia bị thủ tiêu từ trang 187 đến 192. 
 
Tưởng chúng ta cần hiểu lại, ông Nguyễn Bảo Toàn là một trong những chính khách 
ủng hộ ông Ngô Đình Diệm mới chân ướt chân ráo quay về nước từ hải ngoại. Trong 
những ngày cuối tháng 4 năm 1955, ông Toàn là Chủ tịch "Ủy Ban Thường Vụ Đại 
Hội" đại diện cho trên 15 hội đoàn, đoàn thể, các đảng phái nhằm ủng hộ ông Ngô 
Đình Diệm thành lập chính phủ, cầm quyền miền Nam. 
 
Thế rồi, trong vụ đảo chánh hụt ngày 11.11.1960 thì sở Trung ương Tình báo Tổng 
Nha Cảnh sát nhận lệnh của ông Diệm, ông Nhu cho truy nã, xử tử hình khiếm diện 
ông Nguyễn Bảo Toàn khi ông ấy có chân trong thành phần đảo chánh. 
 
Anh em trong gia đình của tổng thống Ngô Đình Diệm "xử trị" những thành phần âm 
mưu lật đổ lãnh tụ, lật đổ chính quyền là như thế đó. 
 
Ngày 27.4.2011 
 
Trần Quang Diệu 



Date: Sat, 8 Mar 2014 05:37:01 -0800
From: the...@yahoo.com
Subject: Re: Góp ý thêm về Phật giáo dùng chùa lập mât khu cho VC hoạt động tại thủ đô Saigon
To: tranqu...@hotmail.com; anhvo...@gmail.com; dienda...@yahoogroups.com; tudo-n...@yahoogroups.com; diendan...@yahoogroups.com; vuo...@hotmail.com; thichq...@gmail.com; damth...@y7mail.com; drle...@gmail.com; lug...@yahoogroups.com; thekhie...@yahoo.com; sach...@sachhiem.net; duyenda...@yahoo.com; duye...@live.com; giaod...@yahoo.com; hangian...@gmail.com; sand...@yahoo.com; sontru...@gmail.com; tuan_hoa...@yahoo.com; thuc.v...@wanadoo.fr; uyenvut...@gmail.com; pho...@yahoogroups.com; hoangmi...@yahoo.com; hoang....@ymail.com; bqki...@gmail.com; thichc...@yahoo.com; thichkho...@gmail.com; thnh...@yahoo.com.au; thich.thic...@gmail.com; jdo...@yahoo.com; thich_kh...@yahoo.com; dr.th...@gmail.com; baovech...@googlegroups.com; vida...@yahoogroups.com; daploi...@yahoogroups.com; giaodie...@yahoo.com; toa...@roadrunner.com

Ô la là.
Tôi đã viết rõ ràng rằng "những kẻ đội lốt tăng ni" chứ tôi không viết hay ám chỉ rằng đó là những tu sĩ. Còn cái tựa đề là của người khác, tôi không dám tự ý đục bỏ mà chỉ thêm mấy chữ đầu cho độc giả dễ nhận ra nội dung email của tôi.
Vì bài này được post lên diễn đàn mà có liên quan đến tôi nên tôi viết vài hàng cho tất cả các vi hữu rõ thêm, chứ tôi không viết cho TQD.
Lập trường bất di bất dịch của tôi là không bao giờ đối thoại với những kẻ súc sanh (và những tên tương cận). Chính vì thế mà chúng nó phun nọc độc đã bấy lâu nay nhưng chẳng bao giờ tôi đối đáp với chúng nó.
Khiet


From: Tran Quang Dieu <tranqu...@hotmail.com>
To: "the...@yahoo.com" <the...@yahoo.com>; "anhvo...@gmail.com" <anhvo...@gmail.com>; "dienda...@yahoogroups.com" <dienda...@yahoogroups.com>; "tudo-n...@yahoogroups.com" <tudo-n...@yahoogroups.com>; "diendan...@yahoogroups.com" <diendan...@yahoogroups.com>; Duc Vu Tran <vuo...@hotmail.com>; Tran Quang Dieu <tranqu...@hotmail.com>; "thichq...@gmail.com" <thichq...@gmail.com>; thuhuong aust <damth...@y7mail.com>; Le Huynh <drle...@gmail.com>; "lug...@yahoogroups.com" <lug...@yahoogroups.com>; thekhiem36 tran <thekhie...@yahoo.com>; "sach...@sachhiem.net" <sach...@sachhiem.net>; "duyenda...@yahoo.com" <duyenda...@yahoo.com>; FậtZáoGhenTỵ- Tay sai Zao Diem <duye...@live.com>; "giaod...@yahoo.com" <giaod...@yahoo.com>; "hangian...@gmail.com" <hangian...@gmail.com>; San Le D. <sand...@yahoo.com>; Son Truong <sontru...@gmail.com>; "tuan_hoa...@yahoo.com" <tuan_hoa...@yahoo.com>; "thuc.v...@wanadoo.fr" <thuc.v...@wanadoo.fr>; Uyen Vu <uyenvut...@gmail.com>; "pho...@yahoogroups.com" <pho...@yahoogroups.com>; "hoangmi...@yahoo.com" <hoangmi...@yahoo.com>; "hoang....@ymail.com" <hoang....@ymail.com>; "bqki...@gmail.com" <bqki...@gmail.com>; "thichc...@yahoo.com" <thichc...@yahoo.com>; "thichkho...@gmail.com" <thichkho...@gmail.com>; "thnh...@yahoo.com.au" <thnh...@yahoo.com.au>; "thich.thic...@gmail.com" <thich.thic...@gmail.com>; PS Giac Duc Thich <jdo...@yahoo.com>; "thich_kh...@yahoo.com" <thich_kh...@yahoo.com>; "dr.th...@gmail.com" <dr.th...@gmail.com>; "baovech...@googlegroups.com" <baovech...@googlegroups.com>; "vida...@yahoogroups.com" <vida...@yahoogroups.com>; "daploi...@yahoogroups.com" <daploi...@yahoogroups.com>; "giaodie...@yahoo.com" <giaodie...@yahoo.com>; "toa...@roadrunner.com" <toa...@roadrunner.com>
Sent: Sunday, 9 March 2014 12:14 AM
Subject: FW: Góp ý thêm về Phật giáo dùng chùa lập mât khu cho VC hoạt động tại thủ đô Saigon


Kẻ nào viết:

"Phật giáo dùng chùa lập mât khu cho VC". "Cũng may mà các đơn vị TQLC và Biệt Cách Dù của chúng ta dám đánh thẳng, chứ nếu họ mà kiêng nể cửa thiền thì chúng ta còn gặp nhiều khó khăn hơn nữa?" ?

Vậy thì, gói trọn cuộc chiến: trên nửa triệu quân Hoa Kỳ? Bao nhiêu trăm ngàn hay một triệu quân nhân QLVNCH? Bao nhiêu sư đoàn của các nước như Úc, Tân Tây Lan, Thái Lan, Phi Luật Tân, Nam Triều Tiên, Đài Loan? Bao nhiêu số lượng và tầm mức sát hại khủng khiếp của các phương tiện chiến tranh, nhưng đều trở thành hư vị, mộng du, ảo hóa, và là quân ăn hại???

Nói mà không biết ngượng miệng!

Tôi đã nói:

Nói cho Võ Long Ẩn biết!

Võ Long Ẩn với ngay nơi chủ đề "Phật giáo dùng chùa lập mât khu cho VC hoạt động tại thủ đô Saigon" cũng đã thấy khập khing và què qut rồi

Sao không nói cho đúngAnh em nhà Ngô, qua ngả Nhà thờ, đã lập mkhu cho CSBV ngay tại dinh Độc Lậptrong Bộ Tổng Tham Mưuvà với đầnão quân sự Tỉnh (Tiểu Khuvới các vai trò như Vũ Ngọc Nhạ, PhạXuân Ấn, Phạm Ngọc Thảo v.v...

Đồng thời, không thể chối cãi là trên 80% đồng bào nơi các vùng nông thôn đều là mt khu của CS. Nếu không, họ không thể tn tại với sự "lùng và ditbởi Hoa Kỳ. Chỉ có anh em nhà Ngô là thất ch (do cuồng tín và mê)! Tại sao?

Vì do sứ thần của thành Rom (Hồng y Spellmantích cực vn động để ông thầy tu Ngô Đình Diệm được về Việt Nam, xé bỏ Hiệp Định Genève, "bcử" gian ln, truất phế cựu hoàng Bảo Đại, tự ng làm tng thống; đoạng với ông anh (cũng sứ thần của thành Rom - Ngô Đình Thụcvà mcậu em như Nhu, Cẩnnhững tay chân bộ hạ "ng giáo" Cần Lao Nhân Vị đảng, giết người man rợ, đàn áp khốc liệt nhằm tiêu dit Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo; nghiền nát ý hệ, thể thức đa nguyên đa đảng là hủy ditcác đảng phái đối lậptruy lùngbt c, thủ tiêu hết ráo những chính khách của Nam Việt Nam đến cực điểm tàn bạo v.v... Trong khi đó anh emnhà Ngô lại cúi đầu hôn nhẫn sứ thần của thành Rom và n hạ tuyênbố đem dâng mt nửa nước VN từ Vĩ tuyến 17 đến Mũi Cà Mau cho mngười đàn bà Do Thái vợ ông thợ mộc Joseph.

Ngoài chuyện đi đêm bt tay với CS, "chính ch" phán quan Trung cổ củanhà Ngô chính là sự thất bại cho Nam Việt Nam - xô tuyệt đại đa số thanh niên nơi các vùng nông thôn vô bưng (vùng đồng bng sông Cửu Long), nhảy núi (Duyên hải và trên các vùng Cao nguyên Trung Việt).

Nói chungvới cuộc chiến gch nối từ khi giặc Pháp trở lại tái chiếm Đông Dương (người ta gọi là "chiến tranh Đông Dương ln thứ hai"), Hoa Kỳ vàVatican đã hất Pháp ra rìa rồi tự mình ủng hộ, kinh viện và cố vn chỉ huycuộc chiến cho đến khi họ liệng sang mt bên, "đừng nói đến chuyện đó nữa" (chuyện Việt Nam), rút chân trong danh dự, đưa những phi công tù binh ăn cơm và ngủ nghỉ ở khách sạn Ha Lò về nước?

y giờ thì, sau 19 năm (1975 - 1994) cấm vnVatican và Hoa Kỳ, ng tcả các nước đồng minh (với Nam VN) cu thù (với CS BV) người ta đều trở lại bt tay bang giao "hữu nghị" với VNCS! Họ ngò nghè ủng hộ cho VN về thái độ ỷ ln, ỷ mạnh làm chuyện bá quyền gian manh và xảo ẩu của mthằng Tàu Hán tặc Bắt Kinh với cố tt xem các nước lân bang đều là man di mọi rợ (Nam = Man, Tây = NgưuBắc = Hồ và Đông =  Địchnữa là?

Vậy thì, hôm nay, Võ Long Ẩn n nói chuyện như mớ ngủ rằng "Phật giádùng chùa lập mât khu cho VC hoạt động tại thủ đô Saigonlà trò hề vô giá trị!!!

Trần Quang Diệu
 
____________________________________


NGÔ ĐÌNH DIỆM  

TRONG LIÊN MINH Mỹ - VATICAN 

Nguyễn Mạnh Quang


Với chủ tâm dựa vào Mỹ để duy trì quyền lực ở Việt Nam, tháng 8 năm 1950, Vatican cho người đưa ông Ngô Đình Diệm sang Hoa Kỳ để vận động liên kết với siêu cường này trong một thế liên minh mới mà các nhà viết sử gọi là Liên Minh Mỹ – Vatican hayTrục Washington – Vatican  (The Vatican – Washington Axis)  thay thế cho liên minh cũ Pháp và Vatican. Như vậy là Vatican đã tự động bỏ rơi nước Pháp và Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Pháp - Vatican coi như bắt đầu tan vỡ kể từ đây.
Cũng xin nói rõ là Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp-Vatican do Vatican chủ xướng,  vốn bắt nguồn từ một Sắc Lệnh Romanus Pontifex được ban hành vào ngày 8/1/1454 trong thời Giáo Hoàng Nicholas V (1447-1455), khởi sự vận động vào đầu thế kỷ thứ 17, cũng do người của Giáo Hội La Mã là Linh-mục Alrexandre de Rhodes đề nghị với nước Pháp kèm theo với bản tường trình thành quả công tác tình báo tại Việt Nam và lá thư yêu cầu Pháp Hoàng Louis XIV phái quân đi chinh phục Đông Dương (đã được trình bày đầy đủ trong Chương 20.) Vì hoàn cảnh khó khăn lúc đó, Pháp Hoàng Louis XIV không đáp ứng được yêu cầu của Giáo Hội lúc bấy giờ. Trong thập 1780,  lại cũng người của Giáo Hội là Giám-mục Pigneau de Béhaine lặn lội từ Việt Nam đem Hoàng Tử Cảnh mới có 5 tuổi đến triều đình Pháp Hoàng Louis XVI, thỉnh cầu viện trợ quân sự cho Nguyễn Ánh để đánh bại nhà Tây Sơn với chủ ý là Vatican và nước Pháp sẽ lợi dụng công ơn viện trợ để:
1.-  Khuyến dụ Nguyễn Ánh, một khi đã chiến thắng, thì phải chiều theo những đòi hỏi Vatican và Pháp. Nếu Nguyễn Ánh chiều theo thì cả Vatican và Pháp lần lần nắm thế thượng phong, áp dụng chính sách “được đằng chân lân đằng đầu” như Vatican đã từng làm đối với Pháp trong thời Pháp Hoàng Henry IV (1589-1610), dần dần áp đảo và biến triều đình Việt Nam trở thành một thứ chính quyền tay sai cho cả Vatican và Pháp.
2.- Nếu Nguyễn Ánh không thành công hay không thỏa mãn những đòi hỏi của Vatican và của Pháp, thì các nhà truyền giáo của Giáo Hội tại Việt Nam sẽ xúi giục giáo dân Việt Nam nổi loạn, bất tuân lệnh chính quyền, nhằm tạo nên loạn lạc khắp nơi, và mỗi xóm đạo sẽ là một ổ phiến loạn, lúc bấy giờ Giáo Hội mới công khai nhẩy vào thừa nước đục thả câu, kết hợp với Pháp đem quân đến đánh chiếm và thống trị Việt Nam.[i]  Giáo Hội cũng đã tiến hành sách lược nầy ở East Timor mấy năm vừa qua.
Giám-mục Pigneau de Béhaine đại diện cho phe đảng Nguyễn Ánh, tiếm danh là đại diện cho Việt Nam, thương thuyết với triều đình vua Louis XVI và đã đạt được một hiệp ước  ký tại Điện Versailles vào ngày 28-11-1787. Theo hiệp ước này, Pháp sẽ viện trợ quân sự cho Nguyễn Ánh 4 chiến hạm, 1750 sĩ quan và binh sĩ, và Nguyễn Ánh phải nhượng cho Pháp và Giáo Hội La Mã một số quyền lợi. Nhưng  Hiệp Ước Versailles vừa ký xong thì nước Pháp rơi vào tình trạng khủng hoảng tài chánh và kinh tế do bất công trong xã hội gây nên, rồi lan sang lãnh vực chính trị và chuyển thành Cách Mạng 1789. Vì thế mà Pháp không thể viện trợ cho Nguyễn Ánh được.  Pháp bỏ cuộc, nhưng Vatican vẫn không nản lòng và vẫn còn bám lấy Việt Nam. Được Vatican triệt để ủng hộ, Giám-mục Pigneau de Béhaine nhân danh Vatican bỏ tiền ra  mua sắm súng đạn và thuê mướn được một số binh lính đánh thuê đem đến viện trợ cho Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn.
Giáo Hội La Mã thường dạy là phải sống nghèo. Sao ông Giám-mục Pigneau de Béhaine của Giáo Hội tiền của đâu mà giàu thế? Nếu không phải do Vatican cung ứng để mua sắm các chiến tầu,  súng đạn cũng như trang trải tiền trả lương cho quân lính, quân cụ, quân trang, quân dụng và quân nhu trên đây, thì tiền bạc ở đâu để ông giám-mục này mua sắm chiến tầu, khí giới, tuyển mộ quân lính, nuôi quân và trả lương cho lính? Nhưng, lại cũng chữ “nhưng” một lần nữa, "mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên". Công lao và tiền của bỏ ra viện trợ thì có, nhưng những yêu sách của Giáo Hội thì lại không được Nguyễn Ánh (khi thành công là Gia Long), đền bù. Giám-mục Pigneau de Béhaine và Hoàng Tử Cảnh lại sớm lên thiên đường, khiến cho Giáo Hội đã thất bại nặng nề ván bài Béhaine-Nguyễn Ánh.
Tuy nhiên, như đã nói trước đây, kế hoạch xâm thực của Giáo Hội là một kế hoạch dài hạn và trường kỳ mai phục.  Thua keo này, Giáo Hội lại bày keo khác. Cuối cùng,  vào đầu thập niên 1850, Giáo Hội cũng đã thành công trong việc vận động được chính quyền Pháp cùng với Giáo Hội bỏ công bỏ của đem quân đến chinh phục Việt Nam và Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Phap-Vatican thực sự thành hình và tích cực hoạt động kể từ đây.
Trở lại vấn đề vận động thành lập Liên Minh Chống Cộng Hoa Kỳ-Vatican, để cho kế hoạch này được thành công, tất cả những tín đồ của Giáo Hội tại Hoa Kỳ cũng như tại Pháp tùy theo khả năng đều được huy động để góp công vào việc vận động với chính quyền Hoa Kỳ làm áp lực với chính quyền Pháp và Quốc Trưởng Bảo Đại để đưa ông Ngô Đình Diệm về Việt Nam làm thủ tướng. Từ bà Ngô Đình Nhu ra vào thủ thỉ với ông Bảo Đại,  Bà Nam Phương Hoàng Hậu với tình chăn gối trong chốn phong the, khối dân Kitô La Mã người Pháp cùng với đảng Da-tô Mouvement Republique Populaire (MRP) do ông Da-tô George Bidault làm đảng trưởng cho đến các ông Hồng Y Spellman, Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy, Thượng Nghị Mike Mansfield, Dân Biểu Walter Judd, ông Tòa Tối Cao Pháp Viện William Douglas đều được huy động để vận động vào việc làm áp lực với các thế lực liên hệ để cho ông Diệm về Việt Nam cầm quyền.
Việc Vatican cho người dẫn ông Ngô Đình Diệm sang Mỹ giao cho Hồng Y Francis Spellman vận động những tín đồ Da-tô có thế lực trong chính quyền Hoa Kỳ  để đưa ông ta (Ngô Đình Diệm) về cầm quyền làm tay sai cho Giáo Hội La Mã Mã  được rất nhiều sách sử trình bầy đầy đủ. Dưới đây là một số sách sử nói về sự thật lịch sử này:
 1.- Sách Vịetnam: A History  viết:
“Diệm rời Việt Nam vào năm 1950 với danh nghĩa đi dự lễ năm Thánh ở Vatican. Cuối cùng, ông ta  đi Hoa Kỳ  và lưu ngụ hai năm ở Chủng Viên  Maryknoll  ở  Lakewood thuộc tiểu bang New Jersey, làm những công việc rửa chén, lau sàn nhà và cầu nguyện giống như một  người mới đi tu. Quan trọng hơn, ông ta được giới thiệu gặp các vị chính khách nổi như Hồng Y Francis Spellman của địa phận New York, Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện William O. Douglas, Thượng  Nghĩ Sĩ  Mike Mansfield và  Thượng Nghị John F. Kennedy. Ông Diệm biện minh cho trường hợp của ông với một lý luân đơn giản có thể lôi cuốn được cả những người bảo thủ và tự do. Lý luân  đơn giản này là ông chống lại cả cộng sản và thực dân Pháp thống trị  Việt Nam. Như vậy,  ông trở thành người đại diện cho chủ nghĩa quốc gia. Điều hấp dẫn đối với Hồng Y Spellman là  ông Diệm  là  một tín đồ  Kitô La Mã. Nhờ vậy mà Hồng Y Spellman đã  tích cực ủng hộ ông Diệm”.[ii] 
2.-  Sách Vietnam: A Dragon Embattled viết:
“Sau khi được chính quyền Pháp cho phép đi  dự lễ Năm Thánh ở La Mã, ông Diệm rời Việt Nam vào tháng Tám năm 1950. Trạm đầu tiến, ông ghé Đông Kinh đến thăm  ông Cường Để. Ông này  đã lưu vong ở Nhật từ năm 1906. Đồng thời, ở Đông Kinh, ông Diệm cũng gặp một số người Hoa Kỳ. Họ  dặn dò ông khi đến thủ đô  Washington phải nên  nói những gì với những nhân vật ông được tiếp kiến. Ông Diệm lưu lại ở Hoa Kỳ trong hai tháng 9 và 10 năm 1950. Trong thời gian này,  ông được làm quen với một số chính khách người Hoa Kỳ rất quan tâm đến Việt Nam nhưng lại không hiều rõ tính cách phức tạp về tình hình chính trị và quân sự ở Đông Diương. Luận cứ  đơn giản của ông Diệm là nếu chấm được chế độ thực dân và Việt Nam có được một chính quyền quốc gia thực sự thì Việt Minh sẽ bị đánh bại nhanh chóng. Hồng Y Spellman, người mà Giám-mục  Ngô Đình Thục đem ông Diêm đến giới thiệu, có lẽ là người Hoa Kỳ đầu tiên đang tìm một tín đồ Kitô La Mã như ông Diệm để lành đạo chính quyền Việt Nam.
Thời kỳ ở La Mã của ông Diệm rất ngắn.  Ở đây, ông được Giáo Hòang XII tiếp kiến, rồi ông đi Thụy Sĩ, Bỉ và Pháp. Tại các nước này, ông nói chuyện với những người Việt lưu vong. Những vì thấy rằng  đối với Pháp, ông chẳng có cơ may nào, ông trở lại  Hoa Kỳ vào đầu năm 1951 và lưu ngụ  trong các Chủng Viện Maryknoll ở  New Jersey và Chủng Viện  Ossining ở  New York. Thời gian này  kéo dài tới hai năm và thỉnh thoảng ông đi thuyết trình tại các Đại Học ở  miền Đông và miền Trung Tây. Nhiều lần ông đi Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn để nói chuyện vớ các chính khách người Hoa Kỳ và  chiếm được cảm tình của họ đối  với quan điểm của ông. Trong những chính khách ủng hộ quan điểm và khát vọng cá nhân của ông, có Thượng Nghị Sĩ.Mike Mansfield, Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy, Dân Biểu Walter Judd  và Thảm Phán Tối Cao Pháp Viện William Douglas. Nhưng  những việc vận động của họ cho nền độc lập của Việt Nam không được chính quyền của Tổng Thống Truman và  chính quyền của Tổng Thống  Eisenhower  quan tâm, vì rằng lúc đó Hoa Kỳ vẫn còn theo đuổi chính sách viện trợ vô điều kiện cho người Pháp. Chán nản với những biến cố này, ông Diệm quay ra dõn nỗ lực vào việc suy tưởng và cầu nguyện, một phương cách rất  thích hợp với bản chất của ông ta  để tìm ra phương cách  được chấp nhận đưa về Việt Nam cầm quyền hơn là tích cực tổ chức để thu hút sự ủng hộ cho việc làm của ông.
Thực ra,  giả thuyết về việc ông Diêm được đưa lên làm thủ tướng được nhiều người chấp nhận là  lúc bấy giờ   Hồng Y Spellman  với sự tiếp tay của các thành phần trong  Phong Trào Cộng Hòa Bình Dân Kitô La Mã và chính quyền Pháp làm áp liực mạnh với ông Bảo Đại.”[iii]
3.- Chuyện Vatican cho người dẫn dắt ông Diệm đi Vatican và Hoa Kỳ để chạy chọt cho lên cầm quyền ở Việt Nam được tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu ghi lại trong sách Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi đầy đủ hơn cả. Dưới đây là nguyên văn:
“Trở lại năm 1950,  khi tôi bắt đầu một giai đoạn nổi trôi lăn lóc trong những năm tàn khốc của cuộc chiến Pháp Việt từ Trung ra Bắc, thì tháng 8 năm đó, sau một thời gian vận động ngầm của Giám-mục Ngô Đình Thục, ông Diệm và người anh có ảnh hưởng lớn lao trên Giáo Hội Thiên Chúa Giáo Việt Nam này, lên đường đi La Mã dự lễ Năm Thánh để che đậy âm mưu đi Mỹ vận động chính trị.
Lộ trình không đi thẳng đến La Mã mà còn ghé qua Nhật Bản thăm Kỳ Ngoại Hầu Cường Để (một giải pháp hầu như không có giá trị nữa kể từ năm 1945) và nhất là để ông Diệm có cơ hội gặp giáo sư  Wesley Fisher, một cựu sĩ quan tình báo hải quân  thuộc Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ thời Đệ Nhị Thế Chiến và nghe nói đang là một nhân viên cao cấp của CIA. Buổi họp mặt với viên chức quan trọng này của cơ qua tình báo Mỹ đưa đến kết quả là trường Đại Học Michgan sẽ bảo trợ chuyến đi Mỹ của ông Diệm.
Sau đó, ông Diệm lên đường đi La Mã dự Năm Thánh và yết kiến Đức Giáo Hoàng, rồi từ đó bay đi Mỹ. Qua trung gian của Giám-mục Ngô Đình Thục, ông được Hồng Y Spellman, thuộc dòng Franciscain, tiếp kiến.
Từ Mỹ, ông Diệm lại quay về La Mã mấy ngày rồi mới đi Thụy Sĩ, Bỉ và Pháp để thảo luận với một số chính khách Việt Nam mà phần đông là  Thiên Chúa Giáo đang cư ngụ tại các nước này. Năm 1951, Ông Diệm trở lại Hoa Kỳ hai năm, sống trong tu viện Maryknoll tại Lakewood (New Jersey) và Ossining (New York). Nhờ sự giúp đỡ của Hồng Y Spellman, thỉnh thoảng ông lại được mời đi thuyết trình tại các đại học miền Đông  và Trung-Tây Hoa Kỳ. Ông cũng diễn thuyết tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn.  và với lý luận rằng “chỉ cần chấm dứt chính sách thực dân Pháp và chỉ cần Việt Nam có một chính phủ do người quốc gia lãnh đạo là có thể đánh bại được Cộng Sản” mà ông đã chiếm được cảm tình và lời hứa sẽ yểm trợ của các chính trị gia Mỹ như  Nghị Sĩ Mike Mansfield, John F. Kennedy, Dân Biểu Walter Judd, Chánh  Án Williams Douglas và nhiều chính khách Thiên Chúa giáo khác. Phê bình câu nói của ông Diệm, giáo sư Buttinger cho rằng luận cứ này phối hợp được sự đơn giản rất hấp dẫn và sự hợp lý khó cãi được.
Chính vì “sự hấp dẫn không cãi được” đó và quyết tâm của Hồng Y Spellman muốn có một chính phủ Việt Nam do người Thiên Chúa giáo lãnh đạo  mà ông Diệm đã trở thành một “giải pháp” khả dụng và khả thị cho chính sách của Mỹ tại Đông Dương trong tương lai rất gần.. Nhưng cái luận cứ “đơn giản và hợp lý” này đã chứng tỏ tính cách thiếu khoa học và không thực tế của nó khi ông Diệm,  với một chính phủ quốc gia và 9 năm cai trị, ông Thiệu với một chính phủ quốc gia và 11 năm cai trị khác, vẫn không đánh bại được Cộng Sản. Nếu không muốn nói rằng chính phủ quốc gia của ông Diệm đã chính nghĩa hóa sự hiện diện ngụy trang của Cộng Sản tại miền Nam, và chính phủ quốc gia của ông Thiệu đã kiện toàn hóa chiến thắng “tự nhiên thành” của Cộng Sản tại miền Nam. Như vậy,  rõ ràng hai chế độ quốc gia đã quản trị đất nước trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1975 quả thật đã không xứng đáng trên cả hai mặt nội dung cũng như thực tế để mang nhận danh từ này.
Theo dõi hành trình  vận động quốc tế của ông Diệm, ta thấy gồm 6 chặng đường.(1) Đi Đông Kinh gặp một nhân viên tình báo Mỹ, (2) đến Vatican gặp Đức Giáo Hoàng, (3đi Mỹ gặp Hồng Y Spellman, (4) trở lại Vatican không biết làm gì trong một thời gian ngắn, (5) rồi lại trở qua Mỹ gặp tiếp Hồng Y Spellman, (6) sau đó là các chính khách Hoa Kỳ. Sáu chặng đường đó thật ra chỉ gồm trong hai danh từ lẫy lừng: Vatican và Mỹ.
Tháng 5 năm 1953,  theo lời mời của một số chính khách Việt Nam lưu vong mà đa số là người Thiên Chúa giáo, ông Diệm tiừ giã Hoa Kỳ về Pháp rồi đi Bỉ và trú ngụ tai tu viện Bénédictine de St. André les Purges. Đúng một năm sau, năm 1954, khi số phận Việt Nam bắt đầu bị cột chặt bởi chiến bại của Pháp tại Điện Biên Phủ vào ngày 7 tháng 5 và cuộc mặc cả tại Hội Nghị Genève thì ông Diệm trở lại Paris và sống tại ngôi nhà ông Tôn Thất Cẩn. Tại đây, với sự yểm trợ đắc lực của người em là Ngô Đình Luyện, ông bắt đầu mở các cuộc thăm dò và vận động trong giới chính khách Việt Nam cũng như với các thế lực quốc tế.
Theo giáo-sư Buttinger thì tại Sàigòn,  ông Nhu biết rằng anh mình không đủ khả năng đối phó với những vận động chính trị quốc tế khó khăn và phức tạp, bèn vội vàng phái cộng sự viên thân tín là ông Trần Chánh Thành và Lê Quang Luật qua Paris để tăng cường thêm cho ông Diệm. Ông Trần Chánh Thành nguyên là tri huyện thời Pháp thuộc, sau theo Việt Minh làm chánh án Liên Khu Tư, rồi bỏ kháng chiến về Tề vào năm 1952. Còn ông Lê Quang Luật là một trí thức Thiên Chúa giáo Bắc Việt, người thân tín của Giám-mục Lê Hữu Từ.
Ba mục tiêu vận động quan trọng và quyết định nhất của ông Diệm là (1) đạt được sự yểm trợ của chính quyền Mỹ, (2) tranh thủ được sự thoả thuận của chính quyền Pháp, và (3) cuối cùng là thuyết phục  được Quốc Trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm thủ tướng. Ba vận động liênh hệ chặt chẽ của hàng triệu người Việt Nam mà sức mạnh vô địch của chính hàng triệu người Việt Nam đó không hề được vận dụng tới.  Thật ra ba bước vận động này tròng vào nhau như ba mắt xích mà trong bối cảnh chính trị quốc tế lúc bấy giờ,  mở được mắt xích thứ nhất là hai mắt xích còn lại sẽ bị tháo tung. Mắt xích thứ nhất, Hồng Y Spellman đã giúp ông Diệm mở ra từ năm 1953 rồi cho nên Bảo Đại và chính phủ Pháp lúc bấy giờ không đồng ý “con người Ngô Đình Diệm”, nhưng dưới áp lực của  Ngoại Trưởng Mỹ Foster Dulles và sự can thiệp mạnh mẽ của Hồng Y Spellman vào chính sách của Phong Trào Cộng  Hòa Bình Dân Thiên Chúa Giáp Pháp (MRP), cuối cùng chính phủ Pháp và Bảo Đại đành phải chấp thuận bổ nhiệm ông Diệm làm thủ tướng.
Trong cuốn hồi ký Le Dragon d’ Annam, trang 328,  ông Bảo Đại đã cố tình không nói rõ những áp lực này dù những vận động chính trị của các nước liên hệ đến chính tình Việt Nam lúc đó, (xem thêm Bên Giòng Lịch Sử 1940-1975, ấn bản Hoa Kỳ, của Cao Văn Luận). Một cách thật tinh tế,  để nói lên áp lực của người Mỹ, ông Bảo Đại đã cho biết rằng “Sau khi gặp ông Foster Dulles để cho ông ta biết dự án của tôi, tôi đã gọi ông Diệm đến và nói rằng: (“Après m’ être entretenu avec Foster Dulles, pour lui faire part de mon projet...”). Sự kiện trước  lúc lấy một quyết định nội bộ quan trọng (chỉ định một thủ tướng) mà vị nguyên thủ quốc gia phải hội ý với Ngoại Trưởng của Mỹ (không như trước đó, Bảo Đại đã chỉ định 5 thủ tướng không cần phải qua “thủ tục” này) đã chứng tỏ  áp lực của Mỹ quả thật có tác dụng lên quyết định của Bảo Đại. Hơn nữa, ngay ở trang 329 sau đó, Bảo Đại còn viết thêm:
Thật vậy từ nhiều năm nay, ông ta được nhiều người Mỹ biết và thích nhờ tính cứng rắn.  Dưới mắt họ,  ông Diệm là người hùng phù hợp một cách đặc biệt cho hoàn cảnh hiện tại, vì vậy mà Hoa Thịnh Đốn không ngần ngại gì mà không ủng hộ ông ta. (En effet, depuis de nombreuses années, il était connnu des Americains qui appréciaient son intransigeance. À leurs yeux, il était l’homme fort convenant particulièrement à la conjoncture, aussi Washington ne lui ménagerait pas son appui).
Nêu lên nhận định này,  Bảo Đại ngầm cho ta biết sự can thiệp của người Mỹ trong quá trình chọn lựa Ngô Đình Diệm làm thủ tướng của ông là một sự can thiệp có thật. (Những người không hiểu rõ cá tính của ông Bảo Đại và ông Diệm, lại không nắm vững những vận động quốc tế cũng như nội bộ Việt Nam lúc bấy giờ đã nhầm lẫn và không hiểu rõ được sự can thiệp này nên đã hiểu sai luôn những biến cố lịch sử sau đó là lẽ dĩ nhiên).”
Sự kiện ông Diệm được Vatican và Mỹ ủng hộ  là một yếu tố quan trọng xoay chuyển lịch sử Việt Nam trong chiến tranh Quốc Cộng nên tôi cần trích dẫn ra dưới đây những đọan sách khả tín của các ký giả, nhà văn nổi tiếng Anh, Mỹ để thêm tài liệu cho các nhà nghiên cứu sử sau này.
Theo John Cooney thì Giáo Hoàng Pius XII (1939-1958) muốn Hồng Y Spellman vận động với Hoa Kỳ tham dự vào chánh tình Việt Nam và ủng hộ cho Ngô Đình Diệm cầm quyền tại nước này:
“Theo Malachi Martin, một giáo sĩ Dòng Tên đã từng làm việc tại Vatican  trong những năm Mỹ gia tăng sự tham dự vào Việt Nam, thì lập trường của Hồng Y Spellman hợp với ý của Giáo Hoàng (in accordance with the wishes of the Pope...) Giáo Hoàng muốn Hoa Kỳ ủng hộ Diệm vì Ngài bị ảnh hưởng của Giám-mục Thục là anh của Diệm. Ông Martin xác nhận rằng: “Giáo Hoàng lo ngại Cộng Sản sẽ bành trướng thêm làm suy hại đến Giáo Hội. Giáo Hoàng đã nhờ Hồng Y Spellman  khuyến khích người Mỹ can dự vào Việt Nam.” (The American Pope, John Cooney, tr. 241, 242).
Vì vậy Spellman đã bắt tay vào việc điều động kỹ càng một chiến dịch xây dựng chế độ Diệm (carefully orchestrated  campaign to prop up the Diem regime). Spellman và Kennedy cũng thành lập một tổ chức ở Hoa Thịnh Đốn để vận động cho Diệm. Chiêu bài vận động là Chống Cộng và Thiên Chúa Giáo (the rallying cries were anti-Communism and Catholicism). Sách đã dẫn, trang 242.
Tháng 10 năm 1950, hai anh em Thục Diệm gặp các viên chức Bộ Ngoại Giao tại khách sạn Mayflower ở  Hoa Thịnh Đốn, có sự tham dự của Dean Rusk . Diệm và Thục được Linh-mục McGuire và giáo sĩ chính trị gia (political churchmen) đặc trách chính sách Chống Cộng tháp tùng, đó là Cha Emmanuel Jacque, Giám-mục  Howard Carroll và Edmund Walsh của Đại Học Georgetown. Mục đích của cuộc gặp gỡ là để tìm hiểu tình hình Việt Nam và để xác định lập trường chính trị của hai anh em Diệm-Thục. Hai anh em tin rằng Diệm đã được an bài để cai trị đât nước  (Both Diem and Thuc believed  that Diem was destined to rule his nation). Sự kiện giáo dân Việt Nam chỉ chiếm mười phần trăm chẳng làm cho hai ông bận tâm. (The fact that Vietnam’s population was only ten percent Catholic mattered little as far as the brothers were concerned...) như Diệm đã nói trong bữa ăn tối rằng hai lập trường không lay chuyển của ông ta đã quá rõ ràng. Ông tin ràng vào quyền lực của Tòa Thánh và ông chống Cộng kịch liệt (He believed in the power of the Catholic Church and he was virulently anti-Communist). Sách đã dẫn, trang 241.
Thật vậy, ngoài cuốn “The Ameican Pope - The Life and Times of Francis Cardinal Spellman” của  John Cooney do Times Books phát hành, trong quyển “Vietnam - Why did We go?” của Avro Manhattan (trang 58, ấn bản 1984), chuỗi sự kiện này cũng đã được trình bày rõ ràng:
Tạm dịch: “Hồng Y Spellman đã giới thiệu ông Diệm với ông William O. Douglas., Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện. Ông này lại giới thiệu ông Diệm với ông Mike Mansfield và ông John F. Kennedy, cả hai đều là Thượng Nghị Sĩ the Thiên Chúa Giáo. Ông giám đóc CIA Allen Dulles cũng đã đỡ đầu cho ông Diệm - tiếp theo quyết định của anh ông ta là (Ngoại Trưởng) John Foster Dulles.và của Hồng Y Spellman, người đại diện của Giáo Hoàng Phêrô XII. Ông Diệm đã được họ tuyển chọn, ông sẽ là người câm đầu chính phủ Nam Việt Nam.
Sau khi lấy quyết định xong, ông (Ngoại Trường Mỹ) Dulles khuyến cáo chính quyền Pháp hãy nói với Bảo Đại bổ nhiệm ông Diệm làm thủ tướng. Vì lưc bấy giờ đã có quyết định bỏ Việt Nam nên Pháp đồng ý. Ông Diệm trở thành thủ tướng vào tháng 6 năm 1954. Ngày 19 cùng tháng đó, Bảo Đại phong cho ông Diệm toàn quyền,  không những quyền kiểm soát dân sự mà còn cả quân sự nũa trên toàn quốc. Ông Diệm về tới Sàgòn ngày 26 tháng 6 và thành lập chính phủ vào ngày 7 tháng 7 năm 1954.”
Những bí ẩn lịch sử trên đây cho ta thấy ngay từ trước năm 1950 ông Diệm vì không thể cộng tác được với Pháp và cựu hoàng Bảo Đại nữa nên hướng về Hoa Kỳ mà cuộc vận động nhịp nhàng của Vatican và  cơ quan CIA đã đưa ông thành công với chức vụ thủ thướng khi Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ. Bây giờ thì ta thấy rõ ràng tại sao trên đường xuất ngoại vào năm 1950 hai ông Diệm và Thục  lại gặp giáo sư  Wesley Fisher tại Nhật Bản, một nhân viên cao cấp của Tình Báo Trung Ương Mỹ, tại sao trong “Bên Giòng Lịch Sử” Linh-mục Cao Văn Luận khoe khoang: “Có thể nói rằng nếu không có Cha Houssa, thì số phận Việt Nam không chừng đã khác”, tại sao khi đến Saigon thăm lính Mỹ, Hồng Y Spellman tuyên bố: “Các bạn chiến đấu cho văn minh Thiên Chúa Giáo”. Từ nay ông Diệm trở thành ngươi lính tiền đồn ngăn chặn Cộng Sản cho Vatican và Hoa Kỳ.”[iv] [Ngưng trích sách Việt Nam máu Lửa Quê Hương Tôi]
4.- Trong bài viết “Bài Học Chiến Tranh Việt Nam Nhìn Từ Hậu Trường Chính Trị Hoa Kỳ”  đăng trong cuốn  Sự Thật (Đặc San Xuân Đinh Sửu 1997), ông Lương Minh Sơn cho chúng ta một cái nhìn rõ ràng và đầy đủ về bàn tay của Giáo Hội La Mã trong việc chạy chọt cho ông Ngô Đình Diệm về cầm quyền ở Viêt Nam. Dưới đây là mấy đoạn văn  quan trọng nói về những việc làm của Giáo Hội ở Hoa Kỳ trong những cố gắng  chạy chọt  với Hoa Kỳ cho ông Diệm về Việt Nam cầm quyền.
“Năm 1861, người Pháp đem quân đội và tôn giáo vào để cai trị Việt Nam nhưng năm 1954,  người Pháp chỉ có thể triệt thoái quân đội mà không có một kế hoạch thỏa đáng để cứu vãn tình thế cho giáo dân Việt Nam đã từng đặt niềm tin nơi người Pháp. Trong lúc hồi tưởng về những ngày cuối cùng ở miền Bắc,  Đại-tá Vanuxem của Quân Đội Viễn Chinh (Pháp) đã kể lại những lời lẽ trách cứ của Giám-mục Phạm Ngọc Chi, một người bạn thân của Vanuxem, khi đơn vị của ông sửa soạn rút khỏi giáo phận Bùi Chu, như sau:
Chúng tôi cứ tưởng rằng chúng tôi xứng đáng được hưởng sự độc lập (1) mà chúng tôi đã có bổn phận góp công giúp đỡ,  nhưng đến khi nhận ra thì đã quá muộn. Những người mà chúng tôi đã trông cậy lại là những kẻ thù đang muốn chúng tôi bị mất linh hồn” [VAN, Tr. 158-159].
Ở Vatican,  Đức Giáo Hoàng Pius XII có lẽ cũng đã dự đoán được tình trạng cực kỳ nguy hiểm cho giáo dân Việt Nam một khi quân đội Pháp rút khỏi miền Bắc, nên kể từ cuối thập niên 1940, Ngài đã khuyến khích Đức Hồng Y Francis Joseph Spellman vận động chính phủ Hoa Kỳ sửa soạn can dự vào Việt Nam. Điều này có thể là một thắc mắc không nhỏ đối với những người chuyên nhìn trên phương diện tôn giáo thuần túy. Tuy nhiên,  dưới khía cạnh chính trị, ngoài nhiệm vụ lãnh đạo đời sống tâm linh của giáo dân trên thế giới, Đức Giáo Hoàng của Thiên Chúa Giáo La Mã (The Roman Catholics) còn có trách nhiệm đại diện cho Hội Đồng Giáo Hội (The Council) và quốc gia Vatican để phản ảnh quan niệm và phát huy ảnh hưởng chính trị của Tòa Thánh đối với thế giới. Thành thử, muốn tìm hiểu về quan niệm và ảnh hưởng chính trị của quốc gia Vatican trong cuộc chiến tranh “Quốc Cộng” ở Việt Nam nói riêng,  và trong cuộc Chiến Tranh Lạnh nói chung, lịch sử cần nhìn lại quan điểm chính trị của một số giáo hoàng, bắt đầu từ Đức Giáo Hoàng XII.
Giáo Hoàng Pius XII tên thật là Eugino Pacell, sanh năm 1876 ở Ý Đại Lợi. Năm 1930, Ngài được cử làm Ngoại Trưởng cho Đức Giáo Hồang XI (1922-1939). Năm 1933, Ngài lập công lớn với Tòa Thánh vì đạt được thỏa hiệp dung hòa với Phát Xít Đức (The 1933 Concordat). Theo thỏa hiệp này, Tòa Thánh coi như sẽ không phát biểu ý kiến về tình hình chính trị của Đức Quốc Xã, chẳng hạn như chuyện Đức Quốc Xã đang chuẩn bị guồng máy chiến tranh  cho Đệ Nhị Thế Chiến. Ngược lại, Đức Quốc Xã coi như sẽ tôn trọng thực thể và chủ quyền của Tòa Thánh. Sau này, trên đường tiến vào thôn tính thủ đô La Mã, thiết đoàn chiến xa Panther của biệt đội SS Phát Xít Đức phải chẻ thành hai đường đi vòng qua Tòa Thánh thay vì có thể san bằng để băng qua, nếu họ muốn.
Trong suốt cuộc Đệ Nhị Thế Chiến, quan điểm của Đức Giáo Hoàng Pius XII về đường lối tiến tới hòa bình là duy trì tư thế trung lập cho Tòa Thánh đối với mọi phe lâm chiến. Tuy nhiên, lịch sử thế giới Tây Phương chỉ trích Ngài nặng nề nhất là vì Tòa Thánh đã không lên án Đức Quốc Xã khi quốc gia này thẳng tay  tàn sát 6 triệu người Do Thái, và vì Tòa Thánh đã không tận dụng khả năng để che chở cho những người Ý gốc Do Thái khi mật vụ SS Đức lùng bắt họ ở Ý Đại Lợi.
Khi một số giới chức lãnh đạo Tây Phương khuyên Joseph Stalin,  chủ tịch Đảng Cộng Sản Nga Sô nên cho người Thiên Chúa Giáo La Mã giảng đạo tự do ở Nga để lấy lòng Đức Giáo Hoàng, Stalin hỏi, “Đức Giáo Hoàng? Đức Giáo Hoàng có mấy sư đoàn?” [WIN], [CDQ]. Năm 1949, Đức Giáo Hoàng Pius XII kêu gọi giáo dân trên thế giới đứng lên chống lại chủ nghĩa Cộng Sản, và đồng thời tuyên  bố “phạt tuyệt thông” (excommunicate) tất cả những giáo dân nào theo Cộng Sản [CUP, Pope Pius XII].
Nhưng, tại sao chính trị lại có tôn giáo, và tôn giáo lại có chính tri?  Tổng Thống Richard M. Nixon  (1969-1974)  đã từng nói: “Mặc dù người Cộng Sản là những người vô thần nhưng chủ nghĩa Cộng Sản lại là một tôn giáo với hơn một phần tư tín đồ trên thế giới,” [NIX, chg. 5]. Thành thử, ngoài vấn đề “an ninh phòng thủ” cho Hiệp Chủng Quốc, sự bành trướng của khối “tôn giáo vô thần” Cộng Sản trong thập niên 1950 còn là một mối đe dọa trực tiếp đến ảnh hưởng của Vatican nói riêng,  và của khối Thiên Chúa Giáo hữu thần nói chung. Giáo-sĩ Malachi Martin,  người đã từng phục vụ trong Tòa Thánh Vatican cũng đã xác nhận. “Đức Giáo Hoàng (Pius XII)  lo ngại Cộng Sản sẽ bành trướng và làm suy hại đến uy tín của Giáo Hội,”[COO, Tr. 241-242].
Nhưng quan điểm của quốc gia Vatican có ảnh hưởng gì đến chiến tranh Việt Nam? Các dữ kiện của đầu thập niên 1950 cho thấyNgô Đình Diệm được Đức Giáo Hoàng Pius XII gởi gắm cho Đức Hồng Y Spellman dẫn qua Hoa Kỳ để vận động chính trị vì quan niệm tôn giáo nhiều hơn là quan niệm cho phép một quốc gia nhược tiểu như Việt Nam được sống lại sau hơn 80 năm bị đô hộ.
Tháng 10 năm 1950, Đức Hồng Y Spellman, Linh-mục McGuire, và ba nhân vật Ủy Viên Chính Trị (political churchmen) của một số giáo phái Thiên Chúa Giáo ở Hoa Kỳ như Cha Emmanuel Jacque, Giám-mục Carroll và Gíáo-sư Edmund Walsh  đưa Ngô Đình Diệm và Đức Cha Ngô Đình Thục đi gặp một số nhân viên  của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ tại Khách Sạn Mayflower ở  Washington. Ông Dean Rusk  là một  trong những nhân vật của Bộ Ngoại Giao có mặt trong buổi cơm  tối hôm đó. Sau này, ông Rusk làm Ngoại Trưởng từ năm 1961 đến 1969. Mục đích của cuộc gặp gỡ xã giao này là để chính phủ Hoa Kỳ tìm hiểu về tình hình Việt Nam và để xác định lập trường của ông Diệm và Đức Cha Thục.  Sự kiện 90% người dân Việt Nam  không phải là tín đồ Thiên Chúa Giáo không làm cho ông Diệm quan tâm vì ông đã tuyên bố trong bữa cơm tối hôm đó rằng ông “tin tưởng vào quyền lực của Vatican và ông chống Cộng một cách cực lực,” [COO. Tr. 242].
Với hai yếu tố vì tôn giáo và vì chống Cộng, ông Diêm được Đức Hồng Y Spellman tiếp tục giới thiệu với William O. Douglas, Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện, Thượng Nghị Sĩ Mike Mansfield, Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy, Allen Dulles, Giám Đốc Trung Ương Tình Báo CIA,  và anh của ông Dulles  là Ngoại Trưởng John Foster Dulles [MAN, Tr. 58].  Từ đó, ông Diệm trở thành con đáp số gần như mỹ mãn trong bài toán chính trị của một phe phái có ý muốn can dự vào Việt Nam:
1.- Chính sách đối ngoại đang đòi hỏi Hoa Kỳ phải xây dựng một thành trì chống Cộng ở Việt Nam.
2.- Ngoại Trưởng John Foster Dulles đang muốn tìm một lãnh tụ chống Cộng theo khuôn mẫu đạo đức và xã hội Thiên Chúa Giáo.
3.- Đức Hồng Y Spellman đang cần Hoa Kỳ thay thế Pháp ở Việt Nam, và cũng cần một giáo dân trung kiên như ông Diệm để lãnh đạo công cuộc chống Cộng như lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng Pius XII.
 
Điều còn lại sau cùng cho kế hoạch chính trị hỗn hợp này là làm thế nào để giải thích cho Hội Đồng Chính Phủ và Quốc Hội Hoa Kỳ  về kinh nghiệm chính trị và khả năng lãnh đạo của ông Ngô Đình Diệm? Tổng Thống Eisenhower cũng chỉ có thể trấn an Hội Đồng Chính Phủ bằng câu nói, “Trong đám mù, thằng chột làm vua,”.[HER]. Điều này cho thấy: một là ông Diệm không có một thành tích chính trị nào đáng kể, hai là ông Diệm không có khả năng lãnh đạo, hoặc ba là người Mỹ hoàn toàn không biết gì về ông Diệm.
Đầu năm 1954, Ngoại Trưởng John Foster Dulles  khuyến dụ Pháp khuyên nhủ Bảo Đại bổ nhiệm ông Ngô Đình Diệm về Việt Nam làm thủ tướng.” [v] [Ngưng trích tài liệu của Lương Minh Sơn]
 
*  *  *
 
Tạm kể  ra bốn tài liệu trên đây để độc giả thấy rằng vai trò của Giáo Hội trong việc chạy chọt  với Hoa Kỳ cho ông Diệm lên cầm quyền ở Việt Nam nhằm để làm tay sai  phục vụ cho quyền lực và quyền lợi của Vatican.
Để cho kế hoạch này được thành công, tất cả những tín đồ của Giáo Hội tùy theo khả năng đều được huy động để góp công vào việc vận động với chính quyền Hoa Kỳ làm áp lực với chính quyền Pháp và Quốc Trưởng Bảo Đại để đưa ông Ngô Đình Diệm về Việt Nam làm thủ tướng. Từ bà Ngô Đình Nhu ra vào thủ thỉ với ông Bảo Đại,  Bà Nam Phương Hoàng Hậu với tình chăn gối trong chốn phong the, khối dân Kitô La Mã người Pháp cùng với đảng Da-tô Mouvement Republique Populaire (MRP) do ông Da-tô George Bidault làm đảng trưởng cho đến các ông Hồng Y Spellman, Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy, Thượng Nghị Mike Mansfield, Dân Biểu Walter Judd, ông Tòa Tối Cao Pháp Viện William Douglas đều được huy động để vận động vào việc làm áp lực với các thế lực liên hệ để cho ông Diệm về Việt Nam cầm quyền.
Về việc tín đồ Da-tô có thế lực  Pháp và đảng Da-tô MRP của Da-tô Georges Bidault vận động cho ông Da-tô Ngô Đình Diệm được đưa lên cầm quyền, sách Việt Sử Khảo Luận kể lại lời cựu Luật-sư Trần Văn Tuyên với nguyên văn như sau:
Dư luận Việt Nam thường coi ông Ngô Đình Diệm là “người của Hoa Kỳ” và việc ông lên  cầm quyền là do Hoa Kỳ thúc đẩy.
Thực ra,  ông Ngô Đình Diệm không phải là “con ngựa” của Hoa Kỳ mà là “người cưng” của Pháp hay đúng hơn của một đảng Công Giáo Pháp, “Mặt Trận Bình Dân” (M.R.P.), mà lãnh tụ là Bidault, bộ trưởng ngoại giao, trưởng phái đoàn Pháp ở Hội Nghị Geneve.
Năm 1953, ông Diệm được nhóm chính trị Công Giáo Pháp - Việt ở Paris mời về Pháp để “tính toán” công việc với Bidault. Khi  Bảo Đại giải tán chính phủ Nguyễn Văn Tâm (tháng chạp 1953), Pháp (của đảng Da-tô MRP - NMQ) muốn vận động cho ông ta về làm thủ tướng Việt Nam. Tuy nhiên,  những người tay chân của ông trong nước đã hành động vụng về hấp tấp, khi họ muốn lợi dụng Phong Trào Đại Đoàn Kết để đưa ông lên cầm quyền (muốn dùng tất cả giáo phái Cao Đài – Hòa Hảo và nhóm Bình Xuyên để làm hậu thuẫn cho ông Diệm chống Bảo Đại). Vận động đó thất bại, Bảo Đại không dùng ông Diệm mà  cử ông Bửu Lộc ra lập chính phủ thay ông Nguyễn Văn Tâm.
Trước những khó khăn nội bộ cũng như trước trách nhiệm nhận chia đôi đất nước,  Bửu Lộc xin từ chức, giữa lúc Hội Nghị Genève tới chỗ bế tắc (trung tuần tháng 6/1954), Bidault lại tấn công Bảo Đại, yêu cầu ông chỉ định Ngô Đình Diệm làm thủ tướng, Bảo Đại ngần ngừ. Ngày 12/6 (1954), Bảo Đại  đánh điện triệu tôi và Đại-tá Lê Văn Kim xuống Cannes để hỏi công việc. Ông ra tận sân bay Nice để đón chúng tôi. Sau khi nghe báo cáo về tình hình hội nghị,  ông hỏi tôi: “Bửu Lộc từ chức. Pháp (của đảng Da-tô MRP – NMQ) đề nghị ông Ngô Đình Diệm lập chính phủ. Hoa Kỳ có ủng hộ ông Ngô Đình Diệm hay không?”
Tôi trả lời: “Không thấy các đại biểu Hoa Kỳ nói gì về ông Diệm và   xin về Genève hỏi ý kiến các bạn Hoa Kỳ của chúng tôi trong Hội Nghị Genève.”
Đây là một câu trả lời của nhân viên cao cấp Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ khi tôi hỏi về ông Ngô Đình Diệm: “Ông Diệm và anh ông là Thục có đến thăm Bộ Ngoại Gíao Hoa Kỳ. Sau khi nói chuyện, chúng tôi đều đồng ý là nên để ông giám mục làm chính trị và nhà chính trị làm giám mục thì đúng hơn. (ý nói ông Diệm không xứng đáng bằng cha Thục). Về ông Bedell Smith, thì cho chúng tôi biết: “Hoa Kỳ không ủng hộ một cá nhân ai cả, sẵn sàng ủng hộ chánh phủ quốc gia chánh thức chống Cộng, dù ai cầm đầu cũng được.”[vi]
Về việc Vatican vận động  bà Nam Phương Hoàng Hậu thủ thỉ với Quốc Trưởng Bảo Đại bổ nhiệm ông Diệm là Thủ Tướng được, ông Đại Mạc viết trong Nguyệt San Người Dân số 77 (tháng 1/1997) như sau:
"Lại cũng có ký giả ngoại quốc (Bernard Fall) viết rằng chính bà Nam Phương, do khuyến cáo của giáo hội,  đã bảo đảm với ông Bảo Đại để ông giao chính phủ cho ông Diệm. Ông Diệm đã quỳ lạy thề cùng cả hai người là trung thành với nhà Nguyễn. Sự phản bội của ông Diệm khiến bà Nam Phương giận giáo hội, và đã tự tử để chứng tỏ bà không còn thuộc giáo hội nữa. Ông ký giả lập luận rằng, trong y bạ, bà Nam Phương không hề có triệu chứng về tim. Mà bà lại mất bất ngờ, đến nỗi chính ông Bảo Đại cũng không hay biết gì. Tuy ông Bảo Đại vợ nọ con kia, nhưng vẫn là người chồng cha tốt với gia đình chính thức cũng như rất hiếu đễ với mẹ.[vii]
 Tóm lại, ngay từ mùa hè năm 1950,  Giáo Hội La Mã đã chạy chọt lo lót với các nhân vật quyền thế trong chính quyền Hoa Kỳ để cùng với Giáo Hội làm áp lực với chính quyền Pháp và Quốc Trưởng Bảo Đại đưa ông Ngô Đình Diệm lên làm thủ tướng chính phủ của chế độ Bảo Đại.  Sự thật là Hoa Kỳ  đồng ý với Vatican trong việc dùng áp lực với chính quyền Pháp và với Quốc Trưởng Bảo Đại để đưa ông Ngô Đình Diêm về Việt Nam cầm quyền với toàn quyền dân sự và quân sự.  Sự kiện này cho ta thấy rõ Liên Minh Thánh Mỹ - Vatican đã được thành lập kể từ đây. Cái Liên Minh Thánh này được sử gia Chính Đạo tức Vũ Ngự Chiêu gọi là “Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng”. (Houston, TX: Văn Hoá, 2004).
Nhận xét về vai trò của Vatican trong việc vận động Hoa Kỳ đưa ông Ngô Đình Diệm về Việt Nam cầm quyền,  rất nhiều sử gia và chính khách thời bấy giờ đều cùng một nhận xét đại khái như sau:
Nếu không có Hồng Y Francis Spellman và những tín đồ Kitô có thế lực và ảnh hưởng lớn trên sân khấu chính trị ở Pháp như ông Georges Bidault cũng như các chính khách Hoa Kỳ vốn là  những con chiên của Giáo Hội như các ông Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy, Thượng nghị Sĩ Mike Mansfield, Dân Biểu Walter, Thẩm Tối Cao Pháp Viện William Douglas, Ngoại Trưởng John Foster Dulles, Giám Đốc Cơ Quan Tình Báo Trung Ương (CIA) là ông Allen W. Dulles  đỡ đầu, thì Hoa Kỳ có thể đã đưa một trong các ông Phan Quang Đán, Phan Huy Quát, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Tường Tam và Nguyễn Hữu Trí lên làm thủ tướng rồi. Lý do dễ hiểu là ông Ngô Đình Diệm  không những đã  có thành tích phản quôc  đối với nhân dân Việt Nam, mà lại không có tài năng chính trị, không có thành tích cách mạng và cũng không có một uy tín nào đối với nhân dân Việt Nam và nhân dân Hoa Kỳ. Cũng vì thế mà sau khi đưa ông Diệm lên cầm quyền rồi, Tổng Thống Eisenhower mới bị nhiều người cật vấn khiến cho ông  lúng túng mà đành phải tuyên bố rằng "Trong đám thằng mù, thằng chột sẽ làm vua.”   
Hoa Kỳ có ngờ đâu sau khi đưa "cái thằng chột" Ngô Đình Diệm này về làm vua ở Miền Nam Việt Nam  thì nó lại làm hỏng hết cả chương trình viện trợ của Hoa Kỳ cho mục đích chống Cộng và làm mất hết đi cái ý nghĩa cao đẹp của lý tưởng tự do dân chủ mà nhân dân Hoa Kỳ hằng theo đuổi từ khi phát động cuộc chiến Cách Mạng (1776-1783) đánh đuổi Đế Quốc Thực Dân Anh để giành lại quyền tự chủ và quyền tự do bất khả nhượng của Trời đã ban cho. Tất cả cũng chỉ vì "cái thằng chột" Ngô Đình Diệm mang căn bệnh cuồng tín về tín ngưỡng,  chỉ biết nghe lệnh Vatican, theo đuổi “chính sách bất khoàn dung" đối với các thành phần thuộc tam giáo cổ truyền của dân tộc, tiến hành "kế hoạch Da-tô hóa" miền Nam Việt Nam bằng bạo lực, cho nên chính sách viện trợ của Hoa Kỳ cho Miền Nam mới rơi vào thảm cảnh đau thương nhất trong lịch sử ngoại viện của Hoa Kỳ. Sự kiện này được ông Lương Minh Sơn nói rõ như sau:
 "Năm 1971, dựa theo tập tài liệu "Hồ Sơ Ngũ Giác Đài", bình luận gia Neil Sheehan có đúc kết một phần nhận định về chính quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm như sau:  "Ngay từ những ngày đầu, chính cá nhân của Tổng Thống Diệm và quan niệm chính trị của  ông đã làm giảm thiểu hiệu năng của chính quyền... Được trưởng thành trong một gia đình vừa cuồng tín theo Thiên Chúa Giáo, vừa mang nặng tính cách phong kiến của giai cấp quan lại thống trị, ông Diệm là một người độc đoán, cố chấp, thơ lại, đa nghi và câu nệ về phương diện luân lý. Tinh thần của ông là tinh thần của một "Spanish Insquisitor"...," một loại hung thần của Tây Ban Nha thời Trung Cổ , [SHE, Trg 70-72].”[viii]
Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ ràng là ngày từ năm 1950, Vatican đã sử dụng tất cả những tín đồ  Da-tô của Giáo Hội có thế lực ở Hoa Kỳ, ở  Pháp và cả bà Nam Phương Hoàng Hậu để vận động đưa ông Ngô Đình Diệm về Việt Nam cầm quyền để làm tay sai cho Giáo Hội. Dĩ nhiên, khi đưa ông Diệm về Việt Nam cầm quyền, Hoa Kỳ cũng đã coi ông Diệm như là  một thứ làm tay sai cho Hoa Kỳ và coi miền Nam như là thuộc địa của Hoa Kỳ. Đây là sự thật lịch sử và sự thật này không những các nhà viết sử chân chính đều khẳng định như vậy, mà ngay cả bọn văn nô Da-tô như Tú Gàn (một bút hiệu của cựu thầm phán Nguyễn Cần) cũng phải nhìn nhận sự thật này bằng  mấy đoạn văn dưới đây: 
Coi miền Nam như thuộc Mỹ:  Cảm tưởng đầu tiên của chúng tôi khi đọc Công Điện mang số Deptel 243 và các tài liệu tiếp theo của chính phủ Hoa Kỳ là Washington coi miền Nam như thuộc địa của Mỹ.
Nước Pháp ngày xưa khi đến đô hộ miền Nam và “bảo hộ” miền Bắc và miền Trung Việt Nam đều có ký hiệp ước với Triều Đình Huế. Đến năm 1887, Pháp hợp Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, và Cao Mên lại thành Liên Bang Đông Dương (Union Indochinoise) do một Toàn Quyền Đông Đương (Gouverneur Général de l’ Indochine) ở Hà Nội cai trị và đặt dưới quyền của Bộ Thuộc Địa (Ministère des Colonies). Các quan lại lở tỉnh đều đặt trực thuộc một Công Sứ (Résident) Pháp.
Đầu năm 1956, do áp lực của Mỹ, Pháp đã phải ký thỏa ước với Việt Nam rút Quân Đội Pháp khỏi miền Nam trước ngày 30/6/1956. Nhưng đến ngày 26/4/1956, Quân Đội Pháp đã rút hết khỏi miền Nam. Ngày 26/4/1956, Pháp tuyên bố bãi bỏ chức Cao Ủy Đông Dương và ngày 28/4/1955 tuyên bố giải tán Bộ Tư Lệnh Pháp tại Đông Dương. Người Mỹ âm thầm vào thay Pháp.
Tuy chính phủ Mỹ không hề ký với các chính phủ Việt Nam một hiệp ước nào về “quyền bảo hộ” như chính phủ Pháp  đã ký trước đây, nhưng Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã tự động biến thành Bộ Thụôc Địa để áp đặt mọi chính sách và đường lối lên trên miền Nam và Đại Sứ Mỹ tại Sàigòn nghiễm nhiên trở thành Toàn Quyền Đông Dương hay Cao Ủy Mỹ tại Đông Dương, thường được người Việt gọi là “Quan Thái Thú”. Các lãnh sự Mỹ ở tỉnh cũng đóng vai trò của các Công Sứ Pháp. Một số đã tình nguyện làm lính Khố Xanh (Gardes Indigènes) hay lính Khố Đỏ (Tiraillers) cho Mỹ. Trạm CIA (CIA Station) của Mỹ tại Sàigòn đã hoạt động giống hệt Sở Mật Thám hay Sở Liêm Phóng Đông Dương (Service de Sureté Générale de L’Indochine của Pháp ngày xưa!
Chúng tôi xin nhắc lại: Năm 1963, khi tiếp Đại Sứ Frederick Nolting, ông Diệm có nói: “Chúng tôi không muốn thành một xứ bảo hộ của Hoa Kỳ.[ix]
Qua mấy đoạn văn trên đây, chúng ta thấy được hai điểm: Thứ nhất, ông Da-tô Tú Gàn trách móc người Hoa Kỳ đã coi miền Nam như là thuộc địa của Hoa Kỳ. Thứ hai,  ông Tổng Thống Da-tô Ngô Đình Diệm nói với Đại-sứ Hoa Kỳ Frederick Nolting rằng: “Chúng tôi không muốn trở thành một xứ bảo hộ của Hoa Kỳ.”  Sự kiện này chứng tỏ  rằng (1) cả hai ông Da-tô Ngô Đình Diệm và Tú Gàn đều không học sử Việt Nam (quốc sử) và sử thế giới, và (2) cả hai ông Da-tô này đều thiếu thông minh.
Vì không học quốc sử cho nên hai ông Da-tô này không biết lấy chuyên ông vua Lê  Chiếu Thống để suy ra thân phận ông Da-tô Ngô Đình Diệm. Vào cuối năm 1788, khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc dẹp tên ma đầu chính trị Nguyễn Hữu Chỉnh, Lê Chiêu Thống bỏ trốn Thăng Long chạy sang Tầu cầu cứu nhà Thanh đem quân sang Việt Nam tái lập vương quyền cho ông ta. Đáp lời cầu cứu của Lê Chiêu Thống, Vua Càn Long sai Tôn Sĩ Nghi, Tổng Đốc Lưỡng Quảng, đem 280 ngàn quân Tàu đưa Lê Chiêu Thống về Thăng long cho ngồi vào ngai vàng, nhưng hàng ngày chính nhà vua và Lê Quýnh cùng mấy chục tên lính hầu phải thân hành đến phủ của Tốn Sĩ Nghị ở Tây Long Cung để chầu chực,  chờ  nhận lệnh cho phép làm gì thì mới được làm. Sự kiện này ông Hoa Bằng kể lại trong cuốn Quang Trung Nguyễn Huệ Anh Hùng Dân Tộc 1788-1792 với nguyên văn như sau:
Dẫu được người Thanh “ban” cho danh hiệu hờ,  vua Lê vẫn khép nép e dè, không dám đường hoàng trên văn thư dùng niên hiệu Chiêu Thống, mà vẫn phải để hiệu Kiền Long nhà Thanh (bấy giờ là năm Kiền Long thứ 53 tức năm Mậu Thân 1788).
Hằng ngày,  Chiêu Thống cưỡi ngựa đi trước, Lê Quýnh cưỡi ngựa theo sau, với vài chục lính hầu, cong cóc sang Tây Long Cung, nơi Sĩ Nghị đóng, chầu chực công việc quân quốc. Có khi Chiêu Thống tiến yết, Nghị không tiếp, chỉ sai người đứng dưới gác chuông, truyền ra bảo vua Lê rằng: Nay không có việc quân quốc gì, hãy cứ về cung mà nghỉ.”[x] 
Trong những năm 1950-1954, Vatican cho người dẫn ông Da-tô Ngô Đình Diêm sang Mỹ, sang Pháp rồi lại sang Mỹ để khẩn khoản nhờ Mỹ đưa về Việt Nam cầm quyền. Nhưng phải chờ tới khi có hoàn cảnh thuận tiện Mỹ mới thực hiện được. Mãi tới mùa xuân năm 1954, lúc đó, quân dân  Việt Nam sắp đánh bại Liên Quân Xâm Lăng  Pháp – Vatican tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, Mỹ mới ra tay hành động, gửi Đại-Tá tình báo Edward G. Lansdale tới Việt Nam dọn đường, rồi tới ngày 26/6/1954 mới đưa ông Diệm về Sàigòn cho ngồi vào ngội vị thủ tướng với toàn quyền về quân sự và dân sự, dĩ nhiên là dưới quyền chỉ đạo của Mỹ.
Trường hợp này của ông Da-tô Ngô Đình Diệm được Mỹ đưa về ngồi vào ghế thủ tướng ở Sàigòn và tổng thống trong những năm 1954-1963 giống y hệt như trường hợp Lê Chiêu Thống được nhà Thanh đưa  về Việt Nam cho ngồi vào ngôi vua ở Thăng Long vào cuối năm Mậu Thân 1988. Có một điều hơi  khác là vào thập niên 1950, người Mỹ tương đối  khôn khéo và tế nhị hơn Tôn Sĩ Nghị:
Tôn Sĩ Nghị đòi hỏi Lê Chiêu Thống hàng ngày phải thân hành đến phủ Tôn Sĩ Nghị để chầu chực việc quân quốc. Người Mỹ khôn ngoan hơn, họ để  cho anh em ông Diệm và các tu sĩ Da-tô được nắm trọn quyền quản lý nhân dân miền Nam miễn là đừng quá trớn khiến cho họ mang tiếng là thủ phạm tạo nên một thứ Spanish Inquisitor ở miền Nam Việt Nam vào giữa thế kỷ 20. Còn họ, họ  lo việc biến miền Nam thành tiền đồn chống Cộng ở Đông Nam Á Châu và biến đạo quân đánh thuê người Việt do người Pháp để lại thành một đạo quân hùng mạnh nhất trong vùng này để đánh thuê cho họ trong việc đối phó với phong trào Cộng Sản đang dâng tràn từ phương Bắc.
Thế nhưng anh em ông Diệm và các ông tu sĩ Da-tô không nhớ lời quan thày Mỹ đã dặn rằng đừng quá trớn. Vì thế họ mới  hăng say theo đuổi  chính sách Ki-tô hóa miền Nam bằng bạo lực, tàn sát hơn 300 ngàn người dân không chịu theo đạo Da-tô ở những vùng hẻo lánh xa Sàigòn, và công khai bách hại Phật giáo ở ngay cố đô Huế, ở ngay Sàigòn và ở nhiều nơi khác trên toàn lãnh thố, Vì thế chính phủ Mỹ mới ra lệnh cho ông Đại Sứ Frederick Nolting đến Dinh Gia Long ra chỉ thị cho ông Tổng Thống Da-tô Ngô Đình Diệm phải ngưng tức khắc chính sách bách hại Phật Giáo và  không được tiến hành kế hoạch Ki-tô hóa nhân dân miền Nam bằng bạo lực nũa. Do đó mới có chuyện ông Diệm nói với ông Đại Sứ Hoa Kỳ Frederick Nolting rằng: “Chúng tôi không muốn thành một xứ bảo hộ của Hoa Kỳ.”
Sự thật rõ ràng là như vậy, mà cả ông Da-tô Tú Gàn, tức Lữ Giang, tức cựu thẩm phán Nguyễn Cần lại không nhìn ra. Phải chăng vì thiếu thông minh hay vì không học quốc sử và không học lich sử thế giới, cho nên ông ta mới không nhìn ra vấn đề này? Dù là ở vào trường hợp nào đi nữa, trong thực tế, ông Tú Gàn  cũng ở vào tình trạng chậm hiều về cái thân phận của ông Da-tô Ngô Đình Diệm, và chính ông Da-tô Ngô Đình Diệm cũng thiếu thông minh, cho nên mới không nhìn ra cái thân phận của ông trong những năm 1954-1963 không khác gì thân phận của Lê Chiêu Thống vào cuối năm Mậu Thân 1788. Hậu quả là anh em ông đã phải đền tội trước nhân dân Sàigòn vào sáng ngày 2/11/1963.
Nếu năm 1889, người Pháp có thể đưa Thành Thái lên làm vua bù nhìn tại triều đình Huế để làm cảnh trang tri cho nền thống trị của họ  ở Việt Nam, thì năm 1907 họ cũng có thể phế bỏ ông ta khi thấy rằng ông ta trở mòi nghe lời  xúi giục của thằng Việt gian Ca-tô Ngô Đình Khả ngã theo Vatican chống lại người Pháp trong mưu đồ giành thế thượng phong trong bộ máy cai trị tại Việt Nam.  Tương tự như vậy, nếu năm 1954, người Mỹ đã có thể đưa tên phản thần tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm lên  cầm quyền ở miền Nam để làm tay sai cho họ trong nhu cầu biến miền Nam thành tiền đồn chống Cộng ở Đông Nam Á, thì năm 1963, họ cũng có thế lôi ông xuống hay khử diệt ông khi họ thấy rằng ông đã tỏ ra khăng khăng chỉ biết phục vụ cho quyền lợi của Vatican mà bất cần đến uy tín và quyền lợi của họ, đúng như lời Giáo-sư Lý Chánh Trung ghi nhận:
“ông đã tưởng mình có thể nhẩy vào vòng tay người Mỹ trong một giai đoạn ngặt nghèo rồi thoát khỏi vòng tay đó khi tình hình sáng sủa hơn, ông đã tưởng có thể chấp nhận làm con cờ trong một ván cờ rồi ngay trong ván cờ đó, có thể tự động đi một nước cờ riêng của ông.
Khi ông nhìn thấy đó chỉ là ảo tưởng thì đã quá trễ: Ông đã chết vì ảo tưởng đó. Và cái chết bi thảm của ông cho thấy một sự thật hết sức tầm thường: Không một con cờ nào có thể tự động đi một nước cờ cho riêng nó, dầu con cờ đó mang tên Ngô Đình Diệm, và không một nước  nhỏ nào có thể lợi dụng một nước lớn, nhất là nước đó mang tên Hoa Kỳ.” [xi]
 
Nguyễn Mạnh Quang
[Trích từ tác phẩm Lịch sử và Hồ sơ Tội ác của Giáo hội Công giáo La Mã,  Phần 5, Mục VIII]
 
 
Cước chú:
i. Nguyễn Xuân Thọ. Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam 1858-1897 (Santa Ana, CA: Tác giả xuất bản, 1998, trang 17, 86-87 và 361.
ii. Stanley Karnow, Vietnam: A History (New York: Viking Press, 1983), p 217.
iii. Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled, Vol. II (New York:  Frederich A. Praefer, 1967) pp, 846-848.
iv.  Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Wesminster, California: Văn Nghệ, 1993), trang 87-91.
v. Lê Hữu Dản,. Sự Thật - Đặc San Xuân Đinh Sửu 1997 (Fremont, Calìornia, 1997), trang  23-24.
vi. Hoàng Cơ Thụy, Việt Sử Khảo Luận - Cuốn 5 (Paris: Nam Á, 2002), tr. 2621-22.
vii. Đại Mạc. “Bảo Đại Đời Tư Và Đời CôngNgười Dân số 77 tháng 1/997.
viii. Lê Hữu Dản. Bđd., tr 27.
ix. Tú Gàn. “Ra Lệnh Đảo Chánh”  Sàigòn Nhỏ, Số 568, phát ngày ngày 2/22/2007, phổ biến trên nhóm điện thư SAIGON_9 ngày1/11/2007.
x. Hoa Bằng, Quang Trung Nguyễn Huệ Anh Hùng Dân Tộc 1788-1792 (Glendale, CA: Đại Nam, không đề năm xuất bản), tr.171.
xi. Lý Chánh Trung, Những Ngày Buồn Nôn (Sàigòn: Đối Diện,  1971), tr. 137.
 



Date: Sat, 8 Mar 2014 04:38:48 -0800
From: the...@yahoo.com
Subject: Góp ý thêm về Phật giáo dùng chùa lập mât khu cho VC hoạt động tại thủ đô Saigon
To: Pho...@yahoogroups.com
CC: dienda...@yahoogroups.com; tudo-n...@yahoogroups.com; Diendan...@yahoogroups.com; vuo...@hotmail.com; tranqu...@hotmail.com; thichq...@gmail.com; damth...@y7mail.com; drle...@gmail.com; lug...@yahoogroups.com; thekhie...@yahoo.com; Sach...@sachhiem.net; duyenda...@yahoo.com; duye...@live.com; giaod...@yahoo.com; hangian...@gmail.com; sand...@yahoo.com; sontru...@gmail.com; tuan_hoa...@yahoo.com; thuc.v...@wanadoo.fr; uyenvut...@gmail.com; hoangmi...@yahoo.com; hoang....@ymail.com; bqki...@gmail.com; Thichc...@yahoo.com; thichkho...@gmail.com; thnh...@yahoo.com.au; thich.thic...@gmail.com; jdo...@yahoo.com; thich_kh...@yahoo.com

Kính thưa tất cả những vị quan tâm đến đề tài này.
Nếu nhớ lại Biến Cố Tết Mậu Thân, hẳn nhiều vị còn nhớ rằng nếu không có đám giặc đội lốt tăng ni thì chúng nó không thể nào có được các cuộc tấn công đợt hai và ngày 5 tháng Năm. Các trận tấn công dợt này khởi đầu bằng việc cộng quân ẩn náu trong chùa bắn vào các đơn vị tuần tiễu của ta và sau đó hàng loạt các vụ tấn công khác bùng nổ.
Nơi chứa chấp bọn chúng nhiều nhất và rõ ràng nhất là Trung Tâm Tịnh Xá với 10 chùa lớn nhỏ phía sau Bổ Tổng Tham Mưu chạy dài lên đến gần Bà Chiểu. Bọn chúng làm các công sự chiến đấu rất kiên cố trong đó, dự trữ rất nhiều đạn dược gây tổn thất nặng cho bên ta.
Cũng may mà các đơn vị TQLC và Biệt Cách Dù của chúng ta dám đánh thẳng, chứ nếu họ mà kiêng nể cửa thiền thì chúng ta còn gặp nhiều khó khăn hơn nữa.
Khiet


From: Nguyen Thi Thanh <dr.th...@gmail.com>
To: Pho...@yahoogroups.com
Cc: diendandantoc <dienda...@yahoogroups.com>; "tudo-n...@yahoogroups.com" <tudo-n...@yahoogroups.com>; DDCT <Diendan...@yahoogroups.com>; Duc Vu Tran <vuo...@hotmail.com>; Tran Quang Dieu <tranqu...@hotmail.com>; quang ba thich <thichq...@gmail.com>; thuhuong aust <damth...@y7mail.com>; Le Huynh <drle...@gmail.com>; t lugiang giang <lug...@yahoogroups.com>; thekhiem36 tran <thekhie...@yahoo.com>; "sach...@sachhiem.net" <Sach...@sachhiem.net>; Duyendang Trinh <duyenda...@yahoo.com>; FậtZáoGhenTỵ- Tay sai Zao Diem <duye...@live.com>; giaod...@yahoo.com; "hangian...@gmail.com" <hangian...@gmail.com>; San Le D. <sand...@yahoo.com>; Son Truong <sontru...@gmail.com>; anh tuan hoang <tuan_hoa...@yahoo.com>; thúc vũ quốc thuc vu <thuc.v...@wanadoo.fr>; Uyen Vu <uyenvut...@gmail.com>; Dr Nguyen Hoang <pho...@yahoogroups.com>; hoangmi...@yahoo.com; thaovy hoang <hoang....@ymail.com>; Hoang Le <bqki...@gmail.com>; Chánh-Lạc Thích <Thichc...@yahoo.com>; Chua LienTri <thichkho...@gmail.com>; Thich Nhat Tan <thnh...@yahoo.com.au>; Thich Thichthienminh <thich.thic...@gmail.com>; PS Giac Duc Thich <jdo...@yahoo.com>; khongtanh thich <thich_kh...@yahoo.com>
Sent: Saturday, 8 March 2014 9:00 AM
Subject: [PhoNang] Re: Phật giáo dùng chùa lập mât khu cho VC hoạt động tại thủ đô Saigon

 
Khách quan mà nói : Quá đúng!!!!!!!!!


2014-03-08 0:10 GMT+07:00 anh vo <anhvo...@gmail.com>:
Phật Giáo dùng chùa  lập mật khu cho Việt Cộng Hoạt Động ngay tại Thủ Đô Saigon.
                                                                                                            Võ Long Ẩn
Nhằm mục đích  để đưa ra ánh sáng chúng tôi  cố gắng tìm hiểu ,nghiên cứu xem có bao nhiêu  lý do cốt lỏi, đưa đến việc chính quyền miền Nam rơi vào tay CS.
Đã có nhiều nhà sử học, giáo sư, tiến sĩ, nhà văn nhà báo đã đưa ra lý do “ chúng ta (VNCH) bị đồng minh chính là Hoa Kỳ bỏ rơi…” Điều này hoàn toàn đúng trăm phần trăm; Nhưng điều chúng tôi muốn tìm hiểu sâu xa hơn nguyên nhân nào “khiến Hoa Kỳ bỏ rơi” ?
Nhiều nhà sử học đã quả quyết  “ Vì anh đồng minh Hoa Kỳ đã liên kết bắt tay với Tàu, Nga nên không ngại CS bành trướng xâm lấn các quốc gia đông nam Châu Á” Điều này cũng đúng nhưng với tầm rộng lớn quá, có tầm mức bang giao quốc tế nên ngoài khả năng của kẻ hèn này.
Chúng tôi chỉ sử dụng sự hiểu biết của “thuyết” thực tế  là sự viện trợ của Hoa Kỳ cho VNCH chống cộng sản Bắc Việt có đem lại kết quả hay không ?
Quân lực VNCH là một đại bộ phân chiến đấu dũng cảm, kiên cường và oai hùng, trong cuộc chiến từ năm 1955 đến 30-4-75. Người chiến sĩ của quân lực VNCH đã anh dũng tái chiếm: Cổ thành Quảng Trị, Kontum, Bình Long. Cũng đã oai hùng tiêu diệt địch khắp 26 tỉnh thành phố trong biến cố Tết Mậu Thân 1968, gây tổn thất lớn cho quân đội VC…Điều đó không thể chối cải được, chiến công của người lính VNCH đã ghi vào chiến sữ oai hùng . Tháng hai,3 và 4 mnăm 75 những người chiến sĩ “oai hùng” kia đã không được quyền chiến đấu, từ 55 ngày trước theo lệnh của thượng cấp là  “triệt thoái” và buông súng đầu hàng.
Với một quân đội hào hùng, chiến đấu anh dũng tại sao đồng minh cắt quân viện?
NGUYÊN NHÂN CHÍNH ĐƯA ĐẾN VIỆC ĐỒNG MINH “BỎ RƠI CẮT VIỆN TRỢ ” LÀ PHẬT GIÁO
Các nước Tây phương, văn minh tiên tiến chính quốc hội là nới tâp trung  quyền lực tối cao quyết định tất cả mọi kế hoạch chi phí, viện trợ, chiến tranh… Tổng thống, thủ tướng hành pháp chỉ là cơ chế điều hành, quyế định là  Quốc Hội.
Trong suốt cuộc chiến Quốc Cộng,  Phật Giáo Thống Nhất Viêt Nam là ẩn chứa bao biết bao nhiều bí ẩn có công khai có :
Bên trong Việt Nam thì họ,  nhân danh hoà bình, chống chiến tranh đã có những cuộc bạo động tự thiêu, xuống đường tuyệt thực, chống Mỹ đố xe Mỹ, đốt lãnh sự quá, đốt trung tâm văn hoá Hoà Kỳ, Đà Nẳng, Huế, Nha Trang, Saigon… Phật Giáo tranh đấu suốt từ tháng 5 năm 1963.
Bên ngoài Việt Nam nhất là các quốc gia Mỹ, Đức, Pháp … lực lượng “phản chiến” của các thượng Toạ, Đại Đức, Cư sĩ… Những thỉnh nguyện thư, những buồi diễn thuyết, những bài viết đăng trên các báo lớn ở Hoa Kỳ như New York Time, Washington Post…yêu cầu quốc hội Mỹ chấm dứt viện trợ cho VNCH và yêu cầu Mỹ rút quân tức khắc…
Điều nguy hiểm cho VNCH, đối với nhân dân Hoa Kỳ, Quốc Hội Hoa kỳ là những nhân vật này là ai, từ đâu đến ? Họ không đến từ miền Bắc, họ không phải là đảng viên “chính thức” của trung ương đảng, của bộ chính trị CSVN :Họ là những nhân vật đến từ nam vĩ tuyến tức là họ chống đối quyết liệt, viện trợ cũng như sự hiện diện của Hoa kỳ gíup đở cho chính quyền và nhân dân  Nam vĩ tuyến đương đầu với CSBV.
Quốc hội cũng như nhân dân các nước lớn họ thường “xem mặt để bắt hình dong” nhìn vào bộ mặt ổn định chính trị của chính quyền, của quốc gia để họ duyệt xét viện trợ và duy trì mối bang giao, dó là lý do họ (Hoa Kỳ) phải triệt chính quyền do TT Ngô Đình Diệm lãnh đạo vì nếu để ông tiếp tục lãnh đạo thì sẽ không yên với Phật Giáo vì “ông là người Thiên Chúa Giáo đàn áp dã man Phật Giáo, một trong  danh sách có tên 100 bạo chúa trên thế giới” (nguồn GS Trần Quang Thuận thư viện Hoa Sen) Có ai điên dại gì tôi cho tiền anh cùng 58,000 công dân Mỹ hy sinh trên đất nước anh mà anh mạt sát chúng tôi thì chúng tôi (người Mỹ )qúa ngu sao. Đòn này của Phật Giáo quá siêu chắc có chỉ đạo từ bộ Chính Trị, hay Trung ương Cục.
Cơ quan tình báo CIA, CID của Hoa kỳ tại Saigon  chắc  nắm vững tình hình ? Một số chùa của các quận quanh Saigon có lập “mật Khu” chứa hấp vũ khí, cán bộ, in truyền đơn chống phá chính quyền VNCH .v.v nhưng đành bó tay vì nếu động tới thì  những ông đảng viên cộng sản đầu trọc áo vàng, áo nâu áo lam kia sẽ dùng  loại vũ khi lơị hại hơn bom nguyên tử là  TỰ THIÊU, tuyệt thực, biểu tình.
Trong bài trước người viết có cống hiến đến quý độc giả HNPĐ “chùa mật khu Pháp  Quang quận 8 Saigon…
 Bài này người viết xin cống hiến đến quý vị độc giả “mật khu thứ hai tại quận 8 chùa Thiên Phước: tại số 1586  Phạm Thế Hiển phường 6 , quận 8. Nơi đây cũng thiết lập hệ thống  kiên cố : hầm  trú ẩn, giao thông hào, kho  chôn dấu vũ khí, sung đạn bom mìn… Vàch tường của chùa là nơi cất dấu tài liệu, bệ tượng Phật cũng là “bệ kê sung bắn nguỵ”  Sư trù trị là “đồng chí” cán bộ cao cấp lên quận 3,4,5,7,8…
Giới thiệu
01 Tháng Mười Một 2010 10:50:00 SA
Chùa Thiên Phước
 
 
Mặt tiền chùa Thiên Phước
 
I.              Sơ nét:
Chùa Thiên Phước tọa lạc tại số 1581 Phạm Thế Hiển, phường 6, quận 8.      
Chùa Thiên Phước do phật tử di cư từ miền Bắc vào Nam lập nên năm 1956 với những vật liệu thô sơ. Thượng tọa Thích Đạt Hảo tiếp quản chùa năm 1963, đến năm 1964 Thượng tọa Thích Nhật Hiện về trụ trì chùa.
 
 
Thượng tọa Thích Nhật Hiện – Trụ trì chùa Thiên Phước
 
 
Bà  Nguyễn Thị Phướng  - Đặc trách Quận ủy liên quận 7 - 8
 
II.              Nhân vật và di tích lịch sử:
Chùa Thiên Phước là cơ sở cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Năm 1964, chùa được sửa chữa lại, đúc bê tông toàn bộ chùa. Đây là thời kỳ chùa được xây dựng lại nhằm phục vụ cho cách mạng (chứa vũ khí, in ấn tài liệu bí mật phục vụ cho cách mạng và nuôi dấu cán bộ cách mạng), nhất là trong hai cuộc tiến công nổi dậy năm 1968.
Nhiều cán bộ cách mạng đến trú ẩn và hoạt động hợp pháp tại chùa như: đồng chí Nguyễn Kim Xuân (Mười Xuân) - nguyên Bí thư Quận ủy quận 7, đồng chí Lê Quốc Sử (Bảy Sử) - nguyên Quận ủy viên liên quận 4, 7, 8, đồng chí Lê Quang Kim (Tư An) - nguyên Bí thư Quận ủy quận 8, đồng chí Đỗ Quang Minh (Hai A) - Quận ủy viên liên quận 7, 8, đồng chí Nguyễn Thị Phướng - đặc trách Quận ủy liên quận 7, 8 và các nhà sư hoạt động hợp pháp như: Thượng tọa Thích Nhật Hiện (Nguyễn Ngọc Ảnh), nhà sư Thích Huệ Hiền (Nguyễn Ngọc Ẩn), nhà sư Thích Huệ Văn,…         
Năm 1965, chùa Thiên Phước sửa chữa đúc bê tông chính diện, thiết kế các loại hầm trú ẩn, cất giấu vũ khí  kiên cố và tạm thời như:
        - Dưới bàn thờ chính điện có hầm trú ẩn diện tích 3,4m x 2m x 1,8m, miệng hầm 0,4m x 0,4m. Trên miệng hầm được ngụy trang bằng tủ đựng kinh phật. Hầm có cửa ăn thông với phòng nghỉ của tăng ni để có thể từ đó thoát ra ngoài.
         - Bệ phật lộ thiên và sân thượng được đúc bê tông nhằm quan sát địch tình và dùng bệ phật lộ thiên để làm bệ bắn. Sân thượng có diện tích 10m x 12m x 10m, bệ phật cao 12m.
 
Sân thượng để làm nơi quan sát địch và đặt súng bắn (nay bị phá bỏ)
 
       - Hầm ở dãy nhà vệ sinh bên trái đền Tứ Phủ là một thùng phi chôn âm dưới đất, miệng hầm bằng với mặt đất được ngụy trang bằng lu nước tráng men trơn màu vàng đặt ở trên.
       - Giếng nước gần nhà bếp khi cần thiết cũng được tận dụng làm nơi giấu vũ khí (dùng bịt ny lon cột lại rồi cho xuống giếng).
       - Trong dãy phòng học cũng được thiết kế một số hầm dưới dạng thùng phi cao 1m, đường kính 60cm chôn âm dưới đất, trên miệng được ngụy trang kỹ lưỡng.
       -Vách chùa được xây bằng gạch lóc 20cm x 30cm hình khối chữ nhật rỗng ở giữa được tận dụng để cất giấu tài liệu.
 
 
Miệng hầm bí mật dưới chính điện, dưới lu nước là miệng hầm bí mật
 
 
Vách chùa dùng để giấu tài liệu
 
Chùa là nơi hoạt động vừa công khai vừa bí mật của cách mạng, cất giấu vũ khí để chuẩn bị cho đợt tổng tiến công nổi dậy Mậu Thân 1968. Những chiến tích đạt được là nhờ sự lãnh đạo của cán bộ cách mạng đó là các đồng chí Nguyễn Văn Thuyền ( Đồng chí Ba Tôn) - nguyên bí thư liên quận 7, 8, đồng chí Nguyễn Thị Phướng – đặc trách quận ủy liên quận 7, 8 và các đồng chí Nguyễn Ngọc Ảnh, Nguyễn Ngọc Ẩn - người của phân ban Tây Nam phân công hoạt động trong giới phật giáo. Lịch sử chùa Thiên Phước cho thấy sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng trong quần chúng nhân dân nói chung trong Phật giáo nói riêng và sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân đối với cách mạng.
 
 
Quang cảnh tại buổi lễ trao bằng di tích
 
Là di tích có giá trị lịch sử, chùa Thiên Phước là nơi học tập truyền thống yêu nước của dân tộc ta, là nơi ghi nhớ những đóng góp của nhân dân đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc.
 
 
Trao Bằng di tích lịch sử chùa Thiên Phước
                
        III.  Khảo tả di tích:
Chùa  quay về hướng Đông Nam và có tổng diện tích mặt bằng là  700m2 . Mặt tiền có cổng tam quan, phía trên có hình lưỡng long triều nguyệt, hai bên cổng phụ có hai miếu thờ Ngũ Hành Nương Nương. Bên trái chính điện có đền Tứ Phủ. Giữa sân chùa có tượng Nam Hải Quan Âm Bồ Tát đứng trên con kình ngư. Phía trước chính điện có 2 lớp cửa, xây liền với chính điện là bệ phật lộ thiên, chính giữa là phòng nghĩ (tăng xá).
Năm 1965, chùa Thiên Phước sửa chữa đúc bê tông chính điện, thiết kế các loại hầm trú ẩn, cất giấu vũ khí kiên cố và tạm thời ở một có điểm như:
-             Dưới bàn thờ chính điện có hầm trú ẩn , miệng hầm được ngụy trang đặt tủ dựng kinh Phật, có cửa ăn thông với phòng nghĩ của tăng ni để có thể từ đó thoát ra ngoài.
-             Bệ Phật lộ thiên và sân thượng được đúc bê tông với ý định của Cách mạng là quan sát địch tình và dùng bệ Phật lộ thiên làm bệ bắn.
-             Hầm ở dãy nhà vệ sinh bên trái đền Tứ Phủ là một thùng phi chôn âm dưới đất, miệng hầm bằng với mặt đất được nguỵ trang bằng lu nước tráng men trơn màu vàng đặt ở trên.
-             Giếng nước gần nhà bếp khi cần cũng được tận dụng làm nơi giấu vũ khí (dùng bịch ni lông cột lại rồi cho xuống giếng).
-             Trong dãy phòng học cũng được thiết kế một số hầm dưới dạng thùng phi chôn âm dưới đất, trên miệng được ngụy trang kỹ lưỡng.
-             Vách chùa được xây bằng gạch lóc hình khối chữ nhật rỗng ỡ giữa được tận dụng để cất giấu tài liệu.
Nhìn chung chùa Thiên Phước được xây theo kiểu hiện đại, đúc bê tông chắc chắn, ngoài mục đích thờ Phật, chùa còn được xây dựng với hầm bí mật và các vị trí bí mật khác  để phục vụ cho việc che giấu cán bộ Cách mạng và giấu tài liệu mật, vũ khí. Chùa đã thực sự hoàn thành nhiệm vụ của mình.
 
    IV.     Giá trị của di tích:
Chùa Thiên Phước là cơ sở Cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ:
Chùa là nơi in ấn tài liệu bí mật phục vụ cho Cách mạng.
Chùa là nơi cất giấu vũ khí để chuẩn bị đợt tổng tiến công nổi dậy Mậu Thân 1968. Như vậy chùa vừa hoạt động công khai vừa bí mật ủng hộ Cách mạng. Lịch sử chùa Thiên Phước cho ta thấy sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng trong quần chúng nhân dân nói chung và trong Phật giáo nói riêng, cho ta thấy sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân đối với Cách mạng.
Chùa Thiên Phước là di tích có giá trị lịch sử. Đây sẽ là nơi học tập truyền thống yêu nước của dân tộc ta, là nơi ghi nhớ những đóng góp  của nhân dân đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc.
                                       
   V.     Cơ sở pháp lý bảo vệ di tích:
Ngày 24/4/2009 Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định số 1763/QĐ-UBND về xếp hạng di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh thành phố. Chùa Thiên Phước được khoanh vùng bảo vệ theo Luật Di sản văn hóa Việt Nam.   
                                            
   VI.     Những tư liệu bổ sung, tham khảo:
-               Phiếu sưu tầm tư liệu (viết tay) - Nguyễn Ngọc Ảnh (Thích Nhật Hiện).
-               Phiếu sưu tầm tư liệu (bản đánh máy) - Nguyễn Thị Phướng.
-               Phiếu sưu tầm tư liệu (bản đánh máy) - Nguyễn Thị Hai.
-               Phiếu sưu tầm tư liệu (bản đánh máy) - Nguyễn Ngọc Ẩn (Thích Huệ Hiền).
-               Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh tập II (1954 - 1975) sơ thảo – NXB TPHCM.
-               Lịch sử truyền thống chống Mỹ của Đảng bộ và nhân dân quận 8 (1954 – 30/04/1975)
(nguồn di tích lịch sử quận 8)
Những “mật khu” dưới mái chùa là cách ngụy trang đại siêu của các thầy Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. qua  kinh nghiệm Phật Giáo tranh đấu 1963 chế độ Đệ Nhất VNCH sụp đổ, thêm vào đó là 3 cái chêt thảm của Tổng Thống và hai bào huynh làm cho chính quyền Đệ Nhị VNCH phải chùng bước với lực cán bộ đầu trọc áo vàng nằm vùng núp dưới mái chùa, núp dưới bệ Phật Thích Ca, búp dưới tượng Phật Bà Quan Âm..
  Long Ẩn
Thưa các ngài tiến sĩ, giáo sư, nhà báo, đốc sự, cư sĩ, cựu  tướng  “chó cắn chủ” Tôn Thất Đính…trong ngày lễ “ phong thánh” HT Thích Quảng Đức, thế danh Lâm Văn Tức. Ông Lâm Văn Tức có nghi vấn là một cán bộ công an ? đội lớp nhà tu , lý do là chỉ có đồng nghiệp công an với nhau vì tình đồng chí mới có lực lượng công an hùng hậu tới dự lễ “kỷ niểm 50 năm pháp nạn tại chùa  Quán Sứ  Hà nội:
Về phía chính quyền có ông Lê Bá Trình – Phó chủ tịch Ủy ban TW MTTQ Việt Nam; ông Bùi Thanh Hà – Phó trưởng Ban BTG Chính phủ; Trung tướng Nông Văn Lưu – Phó tổng cục trưởng Tổng cục An ninh 2 – Bộ Công an; bà Đào Thị Hương – Phó vụ trưởng vụ Tôn giáo; ông Lê Văn Cửu – Phó Giám đốc Sở Nội vụ - Trưởng Ban BTG thành phố cùng các cơ quan ban ngành, chính quyển trung ương và địa phương cùng về tham dự buổi lễ” ( Nguồn Hà Nội tưởng niệm 50 năm BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC VI PHÁP THIÊU TÂN tại chùa Quán Sứ)
 
(Nguồn Hà Nội tưởng niệm 50 năm BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC VI PHÁP THIÊU TÂN tại chùa Quán Sứ)
Tại Hoà kỳ thì cũng tổ chức hùng hậu của các ngài nhằm mục đích vu cá nhà lãnh đảo nền d65 nhất VNCH nào là: “  
 
 ( Nguồn Thư Viện Hoa Sen : Bài diễn văn của giáo sư Trần Quang Thuận trong ngày lễ “kỹ niệm 50 năm pháp nạn tại Hoa Kỳ )
Thưa các ngài sự tố cáo vu khống chính quyền VNCH với mục đích gì trong lúc này, có lẽ  các ngài coi thường  gười dân Việt “ngu” như thời ông Hồ Chí Minh “cướp chính quyền” năm 1945 . Sư khôi hài của ông Giáo sư mà tuyên bố trước công chúng là không biết ngượng  mồn  : “ …Súng trường súng máy từ trên năm chiến xe thiết giáp do thiếu tá Đặng  Sĩ Phó Tỉnh Trưởng Nội An chỉ huy, nhả đản vào đám đông làm chết 8 em tuổi từ 14 đến 20 và bị thương 14 …. (ngưng trích Nguồn gs Trần Quang Thuận” Ông Trần Quang Thuận phẫm hàm giáo sư sự hiểu biết dưới mức trung bình kẻ hèn này nêu lên biện chứng:
Xe thiết giáp mổi xe chở một tiểu đội là 12 người và người không kể người lái, 5 xe là 60 tay súng “Súng trường súng máy…. nhả đạn vào đám đông chết 8 em và bị thương 14 người…” Đám đông đứng bảo cỏ trước đành phát thanh, không có công sự trú ẩn họ  đang đứng thản nhiên với 60 tay súng nhả đạn  mà sao có 8 người chết, chắc họ bắn đạn giả như trong ciné phải không thưa ông. Nói láo không lẹo lưởi, nói láo không nhắy mắt.
Trong vụ Phật Giáo tranh đấu 1963  trong ngày Phạt Đản tại Huế chỉ duy nhất có một vụ nổ chết người tại thềm đài phát thanh gây tử vong cho 8 người và bị thương môt số người. Mà chất nổ có sức công phá mạnh mà lúc đó chính quyền và quân lực VNCH không có vì Mỹ chua cung cấp. 50 năm qua chắc các ngài trí thức, tiến sĩ, đốc sự giáo sư cư sĩ mới “đẻ” thêm ra vụ bắn người “súng trường súng máy nhả đạn từ 5 xe thiết giáp vào đám đông…”  Tục ngữ Việt Nam có câu “ngậm cứt phun người dơ miệng mình”
 
 
 
 
 
 
 Ts Huỳnh Tấn Lê
 
 
Hàng trên: GS Cao Văn Hở, nhà báo Nguyễn Thanh Huy, Tâm Duy Phan Duy Chiêm, Trần Quý Hùng, Cựu Tướng Tôn Thất Đính, HT Thích Thắng Hoan, GS Trần Quang Thuận, Ni sư Chúc Hiếu + Hàng dưới: Nguyễn Huy Sỹ, Diệu Đức, ca sĩ Triệu Mỹ Ngân, Nguyễn Phú Hùng, GS Nguyễn Văn Sâm, nhà báo Vũ Ánh, cựu Đ. Tá Đặng Nguyên Phả, và nhà văn Đào Văn Bình, 23.6.2013 *
V õ Long Ẩn
 
 
 





__._,_.___
Reply via web post Reply to sender Reply to group Start a New Topic Messages in this topic (1)
tudo-n...@yahoogroups.com

Dien dan Tu Do-Ngon Luan - Dien dan thong tin da chieu.

Dien dan Tu Do-Ngon Luan ton trong nhung di biet trong moi lanh vuc, bao gom ca chinh tri, ton giao...

Dien dan Tu Do-Ngon Luan khong chap nhan ngon ngu khiem nha; xin tranh luan, phan bien...trong tinh than xay dung, on hoa va tuong kinh...ngon ngu khong nen di qua xa.

Tran trong.
Chu nhiem dien dan Tu Do-Ngon Luan
D ong Hai-Nguyen Duc Hien
.

__,_._,___

Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages