ĐẾ QUỐC THÁNH ĐỊA LA MÃ
(Chiến Tranh Trung Âu 1618-1648)
NGUỒN: http://en.wikipedia.org/wiki/File:The_Hanging_by_Jacques_Callot.jpg
^^^†^^^
Cuộc chiến 30 năm (1618-1648) là một loạt chiến tranh chính yếu tại Trung Âu, với sự tham dự của hầu hết các quốc gia Âu Châu. Đây là một cuộc chiến tàn phá khốc liệt trong lịch sử Âu Châu, và cũng là một cuộc chiến dài dẵng và liên tục nhất của thời đại tân tiến trên thế giới.
Đầu tiên, tôn giáo là động lực chính, mà hai vai chính là Ca-tô Rô-ma giáo và Tin Lành giáo. Cả hai tôn giáo, Ca-tô Rô-ma giáo và Tin Lành giáo, đã chống đối nhau kịch liệt, mặc dù cả hai đều sống chung trong khu vực “Đế Quốc Thánh Địa La Mã” (Holy Roman Empire). Vào thời buổi đó, lãnh thổ của Đế Quốc Thánh Địa La Mã vẫn còn rộng lớn.
Khi chiến tranh tiếp tục kéo dài, sự xung đột giữa Ca-tô Rô-ma giáo và Tin Lành giáo cũng từ từ giãm bớt. Khi xung đột giữa Ca-tô Rô-ma giáo và Tin Lành giáo từ từ giảm bớt, thì sự xung đột giữa các quốc gia Âu châu lại từ từ tăng lên. Sở dĩ xung đột giữa các quốc gia Âu Châu tiếp tục tăng lên, vì cho đến lúc này, hầu hết các cường quốc Âu Châu đều tham gia vào cuộc chiến khốc liệt này.
Phe Ca-tô Rô-ma giáo dần dà xuống dốc. Các đội quân tham chiến đồng minh với Ca-tô Rô-ma giáo gồm có đội quân thánh chiến Ca-tô Rô-ma giáo, các đội quân của Áo, của Tây Ban Nha, của Vương Quốc Croatia, của Đan Mạch, của Na Uy, của Ba Lan, v.v…
Phe Tin Lành giáo được hỗ trợ mạnh mẽ hơn, và có nhiều cường quốc Âu châu trợ lực. Các cường quốc Âu Châu trợ lực gồm có các quốc gia như Anh, Pháp, và Nga. Các quốc gia nhỏ hơn cũng tham dự rất đông, gồm Thụy Điển, Saxony, Hung, v.v… và đặc biệt là có sự tham dự của đội quân thánh chiến Đế Quốc Hồi Giáo Ottoman.
Ở giai đoạn cuối, Ca-tô Rô-ma giáo bị “thất thế” và cuộc chiến giữa Ca-tô Rô-ma giáo với Tinh Lành giáo tiến tới rất gần hồi kết thúc. Cuộc chiến này giữa các quốc gia Âu Châu rốt cuộc biến thành cuộc tranh hùng giữa triều đình Habsburg Tây Ban Nha (vua cầm quyền Đế Quốc Tây Ban Nha, cũng là vị lãnh đạo tối cao quân đội Đế Quốc Thánh Địa La Mã) và triều đình Bourbon của Pháp.
Vì lo sợ Tây Ban Nha sẽ là mối đe dọa lâu dài cho Pháp, Pháp đã dốc toàn lực vào chiến tranh, và cuối cùng đã đánh bại, đưa Tây Ban Nha cùng với Đế Quốc Thánh Địa La Mã vào hố sâu của “thân bại danh liệt”.
Kể từ thế kỷ thứ XV trở về sau, Đế Quốc Thánh Địa La Mã phải tùy thuộc rất nhiều vào hai đế quốc Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha để bảo vệ lãnh thổ của mình. Đế Quốc Thánh Địa La Mã đã phải ký với hai đế quốc này những hiệp ước được gọi là “khủng khiếp” nếu Đế Quốc Thánh Địa La Mã được nhìn dưới góc độ của một cơ sở tôn giáo.
Khủng khiếp vì Đế Quốc Thánh Địa La Mã đã ký với hai quốc gia Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha những hiệp ước, chẳng hạn như hiệp ước cho phép Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đánh chiếm các quốc gia ngoài Âu Châu làm thuộc địa1. Cho phép Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha bắt và buôn bán nô lệ các dân tộc ngoài Âu Châu2, v.v… Những hiệp ước này tuy lúc đầu có lợi ích trực tiếp cho Đế Quốc Thánh Địa La Mã, nhưng trên con đường dài, là một tác hại lớn lao kinh khủng: Các quốc gia nạn nhân của chính sách thuộc địa dần dà thấy được dã tâm của Đế Quốc Thánh Địa La Mã là một tổ chức chính trị của thực dân, mà không phải là một tổ chức tôn giáo, đã bắt đầu dè dặt và xa lánh.
NGUỒN: http://en.wikipedia.org/wiki/Holy_Roman_Empire
Ngoài ra, liên minh giữa ba quốc gia: Đế Quốc Thánh Địa La Mã, Tây Ban Nha, và Bồ Đào Nha tỏ ra không bền vững ngay từ lúc đầu. Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha luôn hiềm khích với nhau về vấn đề tranh giành thuộc địa. Trong trận chiến 30 năm, Bồ Đào Nha không thể đứng về phía Tin Lành Giáo chống lại Giáo Hoàng, cũng không thế đứng về phía Giáo Hoàng liên minh với Tây Ban Nha. Rốt cuộc Bồ Đào Nha phải đứng ngoài cuộc chiến để nhìn sự thất bại ê chề của Đế Quốc Thánh Địa La Mã và Đế Quốc Tây Ban Nha.
Chiến Tranh Trung Âu 30 năm kết thúc bằng hòa ước Peace of Westphalia. Theo hòa ước này, triều đình Habsburg của Tây Ban Nha phải chịu bị quản chế; triều đình Bourbon của Pháp và Đế Quốc Thụy Điển được nâng cấp; phong kiến bị hạ cấp tột cùng; và Đế Quốc Thánh Địa La Mã bị phân hóa (decentralization), bị chia cắt, và thế lực của Đế Quốc Thánh Địa La Mã bị “tuột dốc” một cách nặng nề hơn bao giờ hết.
Sau khi bị phân hóa, hầu hết lãnh thổ của Đế Quốc Thánh Địa La Mã đã trở thành lãnh thổ của Đức. Đế Quốc Thánh Địa La Mã chỉ còn lại một “khuỷnh” nhỏ xíu, đủ chỗ để xây cất tòa thánh Vatican. Tình trạng này ít khi người ta biết đến. Vì không biết nên người ta thường tự hỏi: Vatican là một quốc gia hay là một tôn giáo? Tôn giáo sao có quân đội? Quốc gia sao không có lãnh thổ? v.v…
NGUỒN: http://en.wikipedia.org/wiki/Prince-elector
Thật sự Vatican là một quốc gia. Quốc gia này có tên là “Đế Quốc Thánh Địa La Mã” (Holy Roman Empire), bị bại trận trong cuộc chiến tranh tôn giáo Trung Âu 30 năm (1618-1648), bị người ta cắt hết đất, chỉ còn một “khuỷnh” nhỏ xíu đủ để xây cất tòa thánh Vatican. Tuy nhiên còn một khuỷnh nhỏ là một may mắn lớn. Nếu nhìn lại lịch sử Âu Châu khoảng ba trăm năm về trước, rất nhiều quốc gia Âu Châu bị mất hẳn trên bản đồ! Hơn nữa, nếu có người nào đó muốn vào đạo Ca-tô Rô-ma, nhưng người đó thấy được chân tướng thật sự của Đế Quốc Thánh Địa La Mã là một quốc gia, không phải là một tôn giáo thuần túy, thì người ấy có cảm thấy e ngại hay không?
NGUỒN: http://en.wikipedia.org/wiki/Thirty_Years'_War
DuyenSinh
GHI CHÚ:
[1] http://en.wikipedia.org/wiki/Treaty_of_Tordesillas
[2] http://en.wikipedia.org/wiki/Dum_Diversas
PDF FILES AVAILABLE AT: HTTP://WWW.DUYENSINH.COM/PAGE-25.HTML
Vô cùng thương tiếc học giả lỗi lạc Trần Chung Ngọc
Báo Hồn Việt
http://sachhiem.net/VANHOC/Honviet_TCN.php
Những ai theo dõi tình hình thời sự Việt ở California, Mỹ, đọc Giao điểm(mạng và sách) đều biết tên tuổi GS Trần Chung Ngọc. Ông sinh năm 1931 tại Hà Nội; nguyên là sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng hòa, giảng viên Đại học Khoa học Sài Gòn, Tiến sĩ Vật lý làm việc ở phòng nghiên cứu vật lý của Đại học Wisconsin - Madison (Mỹ). Ông có nhiều tác phẩm nghiên cứu, phê bình về các chủ đề lịch sử, văn hóa, tôn giáo liên quan tới Việt Nam. Ông mất ngày 29-1-2014 tại Illinois, Mỹ.
Điều đặc biệt là tuy ông ở trong chế độ cũ, nhưng là một học giả lỗi lạc, đọc nhiều, biết rộng trên rất nhiều lĩnh vực (tôn giáo, chính trị, lịch sử…), ông đã tự mình tìm ra chân lý lịch sử, phân biệt rõ chính nghĩa, phi nghĩa, thực chất và hỏa mù…, để rồi trong các bài viết của mình, ông đã phản biện lại hàng loạt vấn đề, hàng loạt cây bút ở hải ngoại. Ông xem xét cứ liệu của các học giả Mỹ và thế giới đáng tin cậy, cứ liệu của sách báo trong nước, rồi dùng nó bác bỏ, tranh biện với các luận điệu sai trái, cũ rích… Chẳng hạn, cứ đến ngày 30-4 là hàng loạt bài viết bên ấy lại tung ra luận điệu “ngày quốc hận”, tung ra các luận điệu cuộc chiến tranh ý thức hệ. Ông Trần Chung Ngọc bác bỏ các luận điểm ấy thật sắc sảo: Nam Việt Nam là chế độ do Mỹ dựng nên, đánh thuê cho Mỹ, làm gì có “nước” để mà “hận”, để mà mất nước. 30-4 đã đập tan chế độ tay sai ấy, thống nhất đất nước và nay đất nước đang tiến lên trong hòa bình xây dựng ổn định, có gì để mà “hận”.
Hàng loạt bài báo, công trình nghiên cứu khoa học của GS Trần Chung Ngọc như: Chiến tranh… lại chuyện bất đắc dĩ, Công giáo hắc sử, Chuyện “hòa đồng tôn giáo”- các vấn nạn cần giải quyết, Cải đạo Á châu? Một ảo tưởng!... đã được viết với một tinh thần sắc sảo, một lôgích chặt chẽ không thể đảo ngược, và với một nhãn quan rất rộng… Chính nhờ thế mà nó rất thuyết phục và thấm thía.
Thật xúc động khi vừa ở trong vòng vây của bao nhiêu thế lực ngày đêm mưu toan chống phá đất nước, nguyền rủa chính nghĩa dân tộc, có một người nhờ lòng yêu nước chân thành, sáng suốt, nhờ công phu nghiên cứu khoa học… mà tìm ra chân lý và bảo vệ chân lý ấy với tất cả nhiệt huyết của mình.
Bọn chống phá xấu xa xem ông là cái gai trong mắt, là “ổ rắn độc của Việt Cộng”! Không đâu! Người yêu nước, hiểu chính nghĩa, tôn trọng chân lý như ông Trần Chung Ngọc không nhất thiết phải là “Việt Cộng”.
Chúng tôi đọc và theo dõi các công trình nghiên cứu của GS Trần Chung Ngọc, cảm phục và cảm tình với ông đã đành, mà ngay nhiều người ở Mỹ cũng xem ông là học giả kiệt xuất và vô cùng khâm phục lòng dũng cảm của ông.
Trong một dịp về Huế, GS Trần Chung Ngọc đã có nhã ý gọi điện thoại thăm hỏi và trao đổi với Hồn Việt, và chúng tôi đã chuyển những tình cảm sâu đậm của nhiều người đọc trong nước đối với ông.
Ông mất đi, đất nước mất đi một người con trung hiếu, một người con lỗi lạc, như đóa hoa sen mọc lên trong bùn nhơ của một cuộc chiến phi nghĩa - phi dân tộc, thật lạ lùng và kỳ diệu.
Xin nghiêng mình vĩnh biệt và xin chia buồn thống thiết với Giao điểm, với người thân và bè bạn của giáo sư.
Giáo sư mất đi, nhưng nhất định sự nghiệp dân tộc - sự nghiệp chính nghĩa của Tổ quốc ta sẽ được nhiều người như giáo sư tiếp tục.
Hồn Việt, số 79 tháng 3-2014
Trang Tôn Giáo