Fwd: TỘI ÁC CỦA CÔNG GIÁO LA MÃ QUA VỤ TIÊU DIỆT GIÁO PHÁI WALDENSIANS

158 views
Skip to first unread message

Giác Hạnh

unread,
Mar 9, 2014, 4:09:55 PM3/9/14
to


---------- Forwarded message ----------
From: DuyenSinh <duye...@live.com>
Date: 2014-03-09 13:04 GMT-07:00
Subject: TỘI ÁC CỦA CÔNG GIÁO LA MÃ QUA VỤ TIÊU DIỆT GIÁO PHÁI WALDENSIANS
To: "tudo-ngonluan@yahoogroups. com" <Tudo-n...@yahoogroups.com>


TỘI ÁC CỦA CÔNG GIÁO LA MÃ

QUA VỤ TIÊU DIỆT TIN LÀNH WALDENSIANS

(BÀI I)

BỨC TƯỢNG KỶ NIỆM PETER WALDO

LUTHER MEMORIAL, WORMS, GERMANY

(Waldensian Evangelical Church)

 

Trong thiên niên kỷ thứ nhất, Đại đế Theodosius I, là vị Hoàng Đế La Mã cuối cùng trị vì một lãnh thổ mênh mông, từ năm 379 tới năm 395, bao gồm cả hai đế quốc phong kiến là Đông La Mã và Tây La Mã, đã chọn Công Giáo La Mã làm quốc giáo. Sau khi được chọn làm quốc giáo, Công Giáo La Mã bắt đầu tiên diệt các tôn giáo khác1. Công Giáo La Mã đã dựa trên đức tin của họ, cho rằng Đức Chúa Trời là đấng tối cao trong vũ trụ, là đấng tạo ra vũ trụ, tạo ra con người, và tạo ra vạn hữu… không có một đấng giáo chủ nào cao hơn Thiên Chúa, không có một quyền lực nào trong vũ trụ cao hơn quyền lực của Thiên Chúa. Và nhất là đứng về phương diện chủ nghĩa độc tôn, Công Giáo La Mã cho rằng: “Chỉ có đạo Công Giáo La Mã là một chánh đạo duy nhất, tất cả các đạo giáo khác đều là tà đạo, là đạo thờ ma thờ quỷ…2

Khi nói đạo thờ ma thờ quỷ, Công Giáo La Mã muốn chỉ thẳng vào đạo Pagan. Pagan là một tôn giáo lớn. Tôn giáo này một thời đã có mặt khắp nơi trên thế giới. Từ ngữ Pagan bắt nguồn từ Âu châu, trước khi đạo Thiên Chúa xuất hiện. Người đạo Pagan có tập tục thờ cúng ông bà và các tập tục khác như đồng bóng, phù thủy… Pagan cũng là đạo thờ cúng ông bà tại Á châu. Từ ngữ “Pagan” có nguồn gốc từ chữ La Tinh là “Paganus”. Sau khi được nhận làm quốc giáo, Công giáo La Mã bắt đầu tiêu diệt đạo Pagan. Công Giáo La Mã đã nhiều lần tiêu diệt đạo Pagan Âu châu. Sự tiêu diệt đạo Pagan Âu châu được chia ra thành nhiều giai đoạn.

Giai đoạn năm 313-391: Pagan giáo tại Âu châu và Ki-tô giáo là những tôn giáo hợp pháp, với các tín đồ tuân thủ quyền lực của đế quốc La Mã. Giai đoạn chuyển tiếp còn được gọi là “chuyển tiếp Constantinian” (Constantinian shift). Năm 380, Theodosius I biến “Ki-tô Nicene” (Nicene Christianity), thành “Quốc Giáo Đế Quốc La Mã” (state church of the Roman Empire). Đạo Pagan được dung nạp thêm 12 năm cho đến năm 392. Năm 392, Theodosius ra luật cấm tất cả mọi hình thức thờ cúng. Bắt đầu từ thời điểm này, Pagan càng lúc càng bị đàn áp. Sự đàn áp kéo dài suốt thế kỷ thứ V. Việc đóng cửa học viện “Tân Platon” (Neoplatonic Academy) do nghị định của Justinian I năm 529, đánh dấu điểm kết thúc đạo Pagan cổ La Mã. Sự chuyễn tiếp từ Pagan cổ La Mã (Classical Antiquity) thành Pagan trung cổ (Middle Ages) gọi là Pagan cận đại (Late Antiquity)4.

Sang thiên niên kỷ thứ hai, thành phần bị tiêu diệt kế tiếp không phải thành phần xa lạ nào khác, mà chính là những người Công Giáo La Mã trong các phong trào cải cách Waldensians.

Theo Mục Sư Nguyễn Hữu Ninh, ngay cả đạo Công Giáo La Mã cũng không phải là đạo Thiên Chúa thuần túy, mà Công Giáo La Mã là một tổng hợp, bao gồm 1/3 đạo Công Giáo La Mã, còn lại gồm 1/3 đạo Do Thái (Jdaism) và 1/3 là đạo Paganism (Thờ Cúng Ông Bà)2.

 

NGUYÊN DO ĐƯA TỚI CÁC PHONG TRÀO CẢI CÁCH WALDENSIANS

Waldensians, Waldenses, Vallenses hoặc Vaudois… tất cả những từ ngữ nầy đều là những cái tên gọi, tuy phát âm khác nhau, nhưng tất cả đều nhắm vào một phong trào cải cách Công Giáo La Mã, bắt đầu ở Lyon, nước Pháp, rồi lan tràn nhanh chóng đến dãy Cottian Alps vào cuối thập niên 1170. Người khởi xướng phong trào là Peter Waldo, mà những bài giãng thuyết của Waldo đã gắn liền với phúc âm một cách tài tình, đã dẫn tới sự xung đột trong nội bộ giáo hội Công Giáo La Mã. Vì các con chiên Công Giáo La Mã không có quyền học Kinh Thánh, mà Kinh Thánh chỉ dành riêng cho các giáo phẩm đọc và giãng theo lời phán của Vatican. Tình trạng này kéo dài cho tới sau cộng đồng Vatican II (1962-1965)2, Vatican mới khuyến khích các con chiên đọc kinh thánh2. Năm 1215, những người trong Giáo Hội Waldensian bị Tòa Thánh La Mã bắt đầu lên án là “Dị Giáo” và họ bắt đầu bị trừng trị.

Trong cuộc cải cách, các nhà lãnh đạo Waldensians gia nhập giáo hội cải cách. Và do đó phong trào cải cách thông qua rất nhiều giáo lý Calvin, và những người theo giáo lý Calvin trở thành giáo phái Tin Lành.

Hiện nay, các giáo đoàn Calvin vẫn còn hoạt động ở châu Âu, ở Nam Mỹ, và ở Bắc Mỹ. Hầu hết dưới danh hiệu Giáo Hội Tin Lành Waldensian (Waldensian Evangelical Church). Các tổ chức, chẳng hạn như tổ chức của “Hội Waldensian Mỹ” (the American Waldensian Society), tồn tại để duy trì lịch sử và phong trào cải cách của giáo hội, với mục tiêu tuyên bố: “Loan báo tin mừng phúc âm Thiên Chúa, phục vụ ngoại lệ, thúc đẩy công bằng xã hội, bồi dưỡng công tác liên tôn, tôn trọng sự đa dạng của tôn giáo, và tôn trọng tự do tư tưởng”.

Theo khẩu truyền, Waldo đã tự nguyện từ bỏ tài sản của ông, ra đi để giúp đời bằng cách rao giãng Phúc Âm Thiên Chúa theo sự hiểu biết của ông. Vì Giáo Hội Waldensian xa lánh sự giàu có mà các giáo sĩ thuộc “Giáo Hội Công Giáo La Mã” đang thụ hưởng, phong trào cải cách “Giáo Hội Waldensian” đã được Giáo Hội Công Giáo La Mã coi như là những người bần tiện của Lyon và của Lombardy (The Poor of Lyon and The Poor of Lombardy), mà theo Mục Sư Nguyễn Hữu Ninh, Giáo Hội Công Giáo La Mã là một giáo hội phong phú và giàu có nhất, nhiều quyền lực nhất trên thế giới. Vì túi tham không bao giờ đầy cho nên họ vẫn còn tham vọng chinh phục và thống trị thế giới nữa.

Phong trào cải cách của Giáo Hội Waldensian đặc biệt khởi đầu bằng rao giảng phúc âm, tự nguyện bước vào cuộc sống nghèo nàn, và theo sát một cách nghiêm nhặt Kinh Thánh. Giữa năm 1175-1185, Peter Waldo, hoặc đưa một giáo sĩ từ Lyons đến dịch Kinh Thánh Tân Ước sang tiếng bản xứ tại những nơi mà Giáo Hội Waldensian rao giãng, hoặc dịch ra tiếng Arpitan (Franco-Provençal), hoặc chính ông đã thực hiện công tác dịch thuật này.

Năm 1179, Waldo và một trong các môn đệ đi đến Rome. Tại Rome, họ được Giáo Hoàng Alexander III và Giáo Triều Rôma đón tiếp. Tuy nhiên sau đó Waldo đã bị bắt buộc phải giải thích đức tin của ông trước một hội đồng gồm ba giáo sĩ, bao gồm các vấn đề mà sau này đã được tranh luận liên tục trong Giáo Hội La Mã. Chẳng hạn như chức linh mục phổ quát, phúc âm trong ngôn từ thô tục, và vấn đề tự nguyện nghèo đói… Kết quả của cuộc tranh luận không đi tới đâu cả, và những ý tưởng của Waldo, không phải là phong trào Waldo, đã bị kết án tại hội đồng Lateran III cùng năm, mặc dù lúc này các nhà lãnh đạo Giáo Hội Waldensian của phong trào vẫn chưa bị “rút phép thông công”.

Giáo Hội Waldensian không vâng lời Vatican và tiếp tục rao giảng đức tin theo sự hiểu biết của mình về Kinh Thánh. Đầu thập niên 1180, Waldo và những người theo ông đã bị “tuyệt thông” (excommunicated). Họ bị buộc phải rời khỏi Lyon. Giáo Hội Công Giáo La Mã tuyên bố Waldo và những người theo Waldo là “Dị Giáo” (heretics). Vatican buộc tội Waldo và Giáo Hội Waldensian khinh miệt quyền lực của Giáo Hội Công Giáo La Mã, và cực lực chỉ trích Giáo Hội Waldensian đã vi phạm đầy dẫy các sai lầm (theo Mục Sư Nguyễn Hữu Ninh, tất cả những gì các nhà truyền giáo làm ở bên ngoài Giáo Hội Công Giáo La Mã làm đều là lạc giáo, tà giáo (heretics)2.

Để đối phó với tình trạng bị kết án một cách bức bách, Waldo và những người theo ông đã phát triển một hệ thống đặc biệt để rao giãng phúc âm bằng một hệ thống bí mật. Theo hệ thống bí mật này, họ sẽ đi từ thị trấn đến thị trấn để họp bí mật với các nhóm nhỏ Waldensians. Ở đó, họ sẽ làm lễ xưng tội và các thánh lễ khác. Các mục sư Waldensians đi từ thị trấn này tới thị trấn khác được gọi là “Barba”. Các mhóm sẽ giúp để giấu các Barba và sắp xếp gìn giữ an toàn trong khi duy chuyển giữa các thị trấn, và sự di chuyển cũng tuyệt đối được giữ bí mật.

Trong thời gian hoạt động ngầm, có lẽ Waldo đã chết trong những năm đầu của thế kỷ thứ XIII tại Đức, nhưng ông chưa bao giờ bị bắt, và số phận của ông cho tới nay vẫn chưa có ai biết.

Những người trong Giáo Hội Waldensian lúc đầu được chia thành ba loại hoạt động: Loại Sandaliati (thường được gọi là người đi dày sandals). Những người này là những người đã nhận chức thánh và đã chứng minh lý thuyết dị giáo (heresiarchs) của Công Giáo La Mã là sai; Loại Doctores, người hướng dẫn và đào tạo các nhà truyền giáo, và Novellani, người rao giảng cho số đông quần chúng. Những người này còn được gọi là Insabbatati, Sabati, Inzabbatati Sabotiers, căn cứ theo các loại giày bất thường làm bằng gỗ (một loại guốc), mà họ đã sử dụng như đôi dép.

Phần lớn những đều được biết về những năm đầu của Giáo Hội Waldensian xuất phát từ các báo cáo, như báo cáo của các nghiệp vụ: Đức tin Valdo của Lyon (1180); Durando d'Osca Liber antiheresis (1187-1200); và hội nghị Rescriptum Bergamo (1218). Một số các văn bản khác trước đây cũng chứng thực lịch sử của Giáo Hội Waldensian, như: Ý muốn của Stefano d'Anse (1187); Manifestatio haeresis Albigensium et Lugdunensium (1206-1208); Biên niên sử của Anonymous Laon (1220). Một nguồn tài liệu khác của Reinerius Saccho, một cựu “Cathar” (Cathar là một tôn giáo tại Âu châu bị Công Giáo La Mã cho là Dị Giáo), chết năm 1259, cải đạo sang Công Giáo La Mã và đã viết hai báo cáo cho Toà Án Dị Giáo La Mã, bài viết mang tên “Summa de Catharis et de Pauperibus Lugduno”, có nghĩa là người bần cùng của Lyons (1254).

Một số người Tin Lành đầu tiên cảm thấy có một sự gắn bó tinh thần với Giáo Hội Waldensian và viết một cách tích cực về Giáo Hội Waldensian. Thí dụ John Milton đã viết bài "Cuộc Thảm Sát Cuối Cùng Piedmont" để mô tả vụ thảm sát và đàn áp người trong Giáo Hội Waldensian.

Một số tác giả như Anabaptists và Baptists đã vạch ra cho biết người trong Giáo Hội Waldensian là một ví dụ của các người đạo Thiên Chúa nguyên thủy, không phải là một phần của Giáo Hội Công Giáo La Mã, và tổ chức tín ngưỡng mà họ hiểu cũng là nguyên thủy. Thế kỷ thứ XVIII và XIX, các nhà văn Hòa Lan và Đức Mennonites, như van Braght (sách Martyrs Mirror 1660), S.B. Cate (sách Geschiedkundig Onderzock) liên kết nguồn gốc sự rửa tội với Waldensian. Tác giả như John L. Waller cũng đã liên kết nguồn gốc của họ với Waldensian. Ngày nay, theo Linh Mục Nguyễn Hữu Ninh, 2/3 giáo lý của Công Giáo La Mã đã là “Dị Giáo”2, vì vậy có lẽ giáo phái Waldensian là một giáo phái đầu tiên thấy được “chân tướng của Công Giáo La Mã là Dị Giáo”!

James Aitken Wylie (1808-1890) tin rằng Waldensian bảo tồn đức tin tông đồ trong thời Trung Cổ. Sau đó, Cơ Đốc Phục Lâm (Seventh-day Adventist) Ellen G. White dạy rằng Waldenses là người bảo quản chân lý Kinh Thánh trong Bội Giáo (Great Apostasy) vĩ đại của Giáo Hội Công Giáo La Mã. Bà tin rằng Waldenses giữ ngày Sa-bát (seventh-day Sabbath) ngày thứ bảy, tham gia vào hoạt động truyền giáo rộng rãi, và "gieo trồng hạt giống cải cách" đầu tiên tại Âu châu.

Học giả Michael W. Homer liên kết niềm tin vào một nguồn gốc cổ đại Waldensians đến ba mục sư thế kỷ thứ XVII, là Jean-Paul Perrin của Giáo hội Cải cách Pháp và mục sư Waldensian Pierre Gilles và Jean Léger, người thừa nhận Waldensian là truyền thừa nguyên thủy của Kitô giáo.

Một số tác giả cố gắng chứng minh năm tháng khởi đầu phong trào cải cách Waldensian vào thời Trung Cổ là năm 1120 để khẳng định rằng phong trào cải cách Waldensian dựa trên căn bảo giáo lý Ki-tô nguyên thủy. Tuy nhiên, cũng có người cho rằng bằng chứng lịch sử cho thấy phong trào cải cách Waldensian được soạn thảo vào năm 1531.

Những người trong giáo phái Waldensian tổ chức và giãng dạy một số sự thật mà họ tìm được trong Kinh Thánh. Một số trong số những sự thật đó là: Sự sụp đổ của con người (the fall of man); Sự đầu thai (incarnation) của con người; từ chối chuộc tội (purgatory) và cho chuộc tội là một sáng chế của những người chống Thiên Chúa; và giá trị của sự tình nguyện sống một đời sống nghèo nàn. 

Họ cho rằng... chân giá trị không có nghĩa là rao giảng Tin Mừng; rằng các di tích chỉ là đống xương tàn áp đảo sự hiểu biết của con người, mà không phải là con người; phục vụ con người không bao giờ đi tới điểm kết thúc, được cất trong cái túi trống rỗng của con người; miếng thịt có thể ăn bất cứ ngày nào nếu người ăn phục vụ Thiên Chúa; nước thánh không có hiệu quả hơn nước mưa; cầu nguyện trong nhà kho cũng có hiệu quả giống như cầu nguyện trong một thánh đường. Cho tới lúc này, giáo phái Waldensian bị buộc tội nặng nề hơn bao giờ hết. Ngoài tội Dị Giáo, Waldensian còn bị buộc thêm tội chế giễu và thay đổi các học thuyết nguyên bản của Giáo Hội Công Giáo La Mã. Đối với Giáo Hội Công Giáo La Mã, Waldensian lúc này là đỉ điếm trong kinh Khải Huyền.

"LA NOBLA LEYCZON" được viết bằng ngôn ngữ Occitan giữa năm 1190 và 1240, là một mẫu đức tin của Giáo Hội Waldensian thời trung cổ. Mẩu đức tin này đang được cất giữ tại viện bảo tàng đại học Cambridge, Hoa Kỳ.

 

CUỘC TÀN SÁT GIÁO PHÁI WALDENSIANS BẮT ĐẦU

Cho tới giờ phút này, dưới cái nhìn của Công giáo La Mã, Giáo Hội Waldensian không phải là Ki-tô giáo. Giáo Hội Waldensian được chính thức tuyên bố là “Dị Giáo” do Giáo Hoàng Lucius III năm 1184 tại Thượng Hội Đồng Verona, và Giáo Hoàng Innocent III tại Hội Đồng Lateran IV (Fourth Lateran Council) năm 1215. Năm 1211, hơn 80 giáo dân Waldensian bị thiêu sống với tội danh “Dị Giáo” tại Strasbourg. Sau nhiều thế kỷ tàn sát để tận diệt Giáo Hội Waldensian, Giáo Hội Waldensian gần như bị tiêu diệt hoàn toàn, trừ một số ít trốn thoát chạy sang Mỹ Châu. Một phần di sản của Giáo Hội Waldensian được thế giới công nhận qua tác phẩm của nhà văn Henri Arnaud; và nhà thờ Waldensian tại Ý cũng may mắn đã sống sót cho đến ngày nay.

 

VATICAN MỞ ĐẦU CUỘC TÀN SÁT BẲNG CÁCH THIÊU SỐNG HƠN 80 TÍN ĐỒ TIN LÀNH WALDENSIANS

 

Năm 1487, Giáo Hoàng Innocent VIII cũng ban hành một giáo chỉ khác tận diệt “Vaudois”. Alberto de' Capitanei, phó giáo chủ Cremona, đáp lời của Giáo Hoàng Innocent VIII bằng cách tổ chức một cuộc thập tự chinh để hoàn tất quét sạch “Dị Giáo Waldensian” tại các tỉnh DauphinéPiedmont. Charles I, Duke of Savoy, cuối cùng can thiệp để cứu vãn vùng lãnh thổ của ông và ông cũng đã hứa với Vaudois là họ sẽ được bảo vệ. Nhưng cuộc tấn công của đoàn quân thập tự chinh vẫn tiếp tục tàn sát và chém giết vào sâu các khu vực của Vaudois. Rất nhiều thành viên của Vaudois phải trốn sang Provence, rồi vào tận miền Nam nước Ý.

Khi tin tức tai biến về cuộc tàn sát bay đến thung lũng Waldensian, các “Tavola Valdese” quyết định tìm kiếm sự liên kết với Giáo Hội Tin Lành Đông Phương (Nascent Protestantism) mới ra đời. Một cuộc họp được tổ chức năm 1526 tại Laus, một thị trấn ở thung lũng Chisone, và họ quyết định gửi phái viên tới để kiểm tra cuộc cải cách. Năm 1532 các thành viên của giáo phái Waldensian gặp những người Tin Lành Đức và Thụy Sĩ, và cuối cùng họ đã tìm thấy giáo phái Waldensian có cùng một niềm tin với Giáo Hội Cải Cách Tin Lành.

Các nhà thờ Cải cách Thụy Sĩ và Pháp gửi William Farel và Anthony Saunier tới tham dự các cuộc họp của Chanforan, được triệu tập vào ngày 12 tháng 10 năm 1532. Farel mời họ tham gia các cuộc họp cải cách và để lại “bí mật”. Một “Confession of Faith”, với học thuyết cải cách, đã được xây dựng và Giáo Hội Waldensian quyết định thờ phượng công khai bằng tiếng Pháp. Kinh Thánh bằng tiếng Pháp được Pierre Robert Olivétan dịch với sự giúp đỡ của Calvin và xuất bản tại Neuchâtel năm 1535, được căn cứ một phần vào Kinh Thánh Tân Ước bằng tiếng bản xứ Waldensian. Chi phí xuất bản được đài thọ bởi các nhà thờ tại Waldensia. Những người tự nguyện đóng góp tấp nập, và cuộc đóng góp thu được một số vàng khổng lồ, tổng cộng 1500 vương miện vàng (với vàng đựng đầy trong các vương miện) để dùng vào mục đích cao cả này.

Ngoài cuộc thiêu sống hơn 80 người thuộc giáo phái Waldensian năm 1211, Giáo Hội Công Giáo La Mã còn thực hiện nhiều vụ tàn sat giáo phái Waldensian tại những nơi khác. Hai nơi khác nỗi bật nhất là cuộc tàn sát Merindol (1545), và cuộc tàn sát Piedmont Easter (1655).

==CÒN TIẾP==

^^^^^^ 

NGUỒN: http://en.wikipedia.org/wiki/Waldensians

 

DuyenSinh

[1] http://en.wikipedia.org/wiki/Theodosius_I

[2] http://vietnameselutheranchurch.net/node/299 (PHẦN I)

     http://vietnameselutheranchurch.net/node/308 (PHẦN II)

[3] http://en.wikipedia.org/wiki/Persecution_of_pagans_in_the_late_Roman_Empire

[4] http://en.wikipedia.org/wiki/Historical_pagan#Historical_paganism

[5] http://en.wikipedia.org/wiki/Catholic_Church_and_the_Age_of_Discovery

 


Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages