
1) “Đạo Cao Đài Bị Nhà Ngô Đàn Áp Ra Sao?”:
http://thientrithucvn.blogspot.com.au/2013/01/ao-cao-ai-bi-nha-ngo-ap-ra-sao-gioi.html
2) “PHẬT GIÁO HÒA HẢO BỊ NHÀ NGÔ ĐÀN ÁP RA SAO?”:
http://hoangnamgiao.blogspot.com.au/2013/02/phat-giao-hoa-hao-bi-nha-ngo-ap-ra-sao.html
3) Bất Đồng Chính Kiến Bị Diệm Nhu Cho Tay Chân Đối Xử Ra Sao:
http://www.sachhiem.net/index.php?content=showrecipe&id=5235
Trung Tướng Trần Văn Đôn, quyền Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH dưới thời ông Diệm, qua hồi ký “Việt Nam Nhân Chứng”, Xuân Thu, USA, 1989, từ trang 171 đến 179, ông viết trong lúc mà hầu như mọi Tướng Lãnh quân nhân QLVNCH đều còn sống và phần đông là có mặt tại Hoa Kỳ:
“Đại Tướng Lê Văn Tỵ (Tổng Tham Mưu trưởng QLVNCH – tqd) đi Mỹ chữa bệnh. Đến ngày 19 tháng 8 năm 1963, ông Diệm chỉ định tôi chức quyền Tổng Tham Mưu Trưởng, rồi ông Nhu ra lịnh tấn công chùa để cho tôi và quân đội chịu trách nhiệm. Dĩ nhiên sự việc đó làm cho dư luận trong và ngoài nước kết án quân đội mà người đứng mũi chịu sào là tôi”.
Chiều ngày 20 tháng 8, ông Ngô Đình Nhu mời tôi, quyền Tổng Tham Mưu Trưởng, Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu Trưởng, Thiếu Tướng Tôn Thất Đính, Quân trấn Sài gòn, và Đại Tá Nguyễn Văn Y, Tổng giám đốc Công an Cảnh sát, đến dinh Độc Lập ra lịnh: “Tối nay sẽ bắt các sư sãi cộng sản.”
Đêm 20 tháng 8, lợi dụng lịnh giới nghiêm, dinh Độc Lập ra lịnh riêng cho Đại Tá Lê Quang Tung, chỉ huy trưởng Lực Lượng Đặc Biệt cùng Cảnh Sát Đặc Biệt của Dương Văn Hiếu, Mật vụ và Cảnh sát chiến đấu của ông Trần Văn Tư, Giám đốc Cảnh sát Đô thành bao vây tấn công các chùa trong đô thành để bắt các Thượng tọa, Đại đức, Tăng ni và Phật tử.
Lực Lượng Đặc Biệt là một tổ chức của quân đội, được thành lập từ năm 1956 gồm gần 10 Đại Đội (mỗi đại đội 120 người), võ trang súng ống tối tân nhất, được huấn luyện kỹ như Nhảy Dù, bơi lội, đột kích sau lưng địch… Một số ít chiến sĩ Lực Lượng Đặc Biệt này đã từng nhảy dù ra Bắc để hoạt động, vì vậy nên được lựa chọn rất kỹ, đòi hỏi nhiều tiêu chuẩn. Đại Tá Lê Quang Tung chỉ huy lực lượng này.
Nghe lịnh tấn công chùa như vậy, chúng tôi biết là việc này sẽ làm suy sụp thêm cho chế độ nhưng không thể can gián được. Đêm đó, tôi và Trần Thiện Khiêm theo dõi tại bộ Tổng Tham Mưu trên máy riêng Motorola của Cảnh sát nên chúng tôi biết cuộc tấn công này do Đại Tá Lê Quang Tung chỉ huy tổng quát.
Tôi và ông Khiêm lấy xe đến chùa Xá Lợi vào khoảng 1 giờ khuya. Đến nơi tôi thấy đèn còn bật sáng, cảnh sát còn đi qua lại. Bước vào chính điện, tôi giở mũ, ông Khiêm cũng giở theo. Lính cảnh sát thấy vậy cũng giở mũ và đứng im. Tôi hỏi:
-Quý Thầy đâu hết rồi?
Họ nói dẫn qua Phú Nhuận, còn Hòa thượng Thích Tịnh Khiết thì được đưa về cơ quan tình báo của Đại Tá Nguyễn Văn Y.
Tôi ra lịnh họ tắt đèn đóng cửa lại, đừng làm mất trang nghiêm nơi thờ phượng. Dặn xong chúng tôi ra về, đến cơ quan của Đại Tá Y. Ông Y cho biết Hòa thượng rất mệt, mai sáng phải cho vô bịnh viện quân sự Cộng Hòa. Chúng tôi trở ra đi thẳng đến dinh Gia Long. Lúc đó khoảng 3 giờ sáng. Gặp ông Nhu, ông ta bảo ra lịnh thiết quân luật. Lịnh này ban ra là có ý đổ trách nhiệm tấn công chùa cho quân đội, tôi hiểu ý của ông Nhu nhưng im lặng thi hành.
Lúc 5 giờ sáng, ông Diệm tập hợp Nội Các chánh phủ để trình bày sự việc. Ngay trong phiên họp đó, Ngoại Trưởng Vũ Văn Mẫu từ chức để phản đối sự đàn áp Phật giáo của anh em ông Diệm. Sự từ chức nầy của ông Mẫu làm thế giới xôn xao, Phật tử xúc động, dân chúng cảm phục một người đã thẳng thắn từ bỏ chức vụ để phản đối hành động bất công và tàn bạo.
Lúc đó ông Trần Văn Chương đang là Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Mỹ, bà Chương là Quan sát viên cho Việt Nam Cộng Hòa tại Liên Hiệp Quốc, nhận thấy anh em Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo, con gái mình tiếp tay phát ngôn hỗn xược mà mình không thể can ngăn được nên cả hai ông bà đều từ chức.
Sự từ chức của ông Mẫu và ông bà Trần Văn Chương là những ngọn đòn đau đớn cho anh em nhà họ Ngô.
Giới nghiêm là hạn chế sự lưu thông về đêm, còn Thiết quân luật là phải đem quân đội ra đường canh gác. Mỗi thứ phù hợp với một tình trạng mà Thiết quân luật chỉ áp dụng khi thật sự nguy hiểm cho nước nhà. Bởi vậy nghe lịnh Thiết quân luật, các tướng ngơ ngác.
Ngày 21 tháng 8, đài VOA loan tin quân đội nghe theo lịnh Tổng Thống đi tấn công chùa. Tôi không biết làm sao cải chính tin đó với đài VOA nên tôi cho Đại Úy Lê Văn Khấn, sĩ quan tùy viên của tôi đi mời ông Conein, sĩ quan CIA quen tôi từ năm 1946 ở Hà Nội hiện đang ở góc đường Công Lý và Nguyễn Đình Chiểu đến Bộ Tổng Tham Mưu gặp tôi đêm đó. Ông Conein sợ tôi gài bẫy nên mang theo súng tùy thân.
Chín giờ tối, ông Conein lại, chúng tôi cho biết quân đội không tham gia trong việc tấn công các chùa như đài VOA đã loan tin để ông Conein về trình lại đại sứ Mỹ. Ông Conein hỏi: “Các tướng lãnh Việt Nam có ý định đảo chánh không?” Tôi trả lời: “Chuyện này rất quan trọng sẽ nói sau.” Rồi ông Conein ra về.
Hai hôm sau đài VOA cải chính, nói rõ là quân đội Việt Nam không tấn công chùa. Ông Nhu nghe tin cải chính nầy rất tức giận, buộc mấy ông tướng phải họp lại (cái này thì quả nhiên là độc tài gia đình trị chứ còn gì nữa? – tqd), tuyên bố đứng sau lưng Tổng Thống và tôi phải ra nhật lịnh nói rằng quân đội có tham gia việc đó. Tôi phải tuân lời. Tuân lời ra nhật lịnh kêu gọi quân đội xiết chặt hàng ngũ sau lưng Ngô Tổng Thống thì được, nhưng nói làm sao cho anh em quân nhân và đồng bào hiểu mình đang tìm cách hạ một chính quyền đang bị dân oán hận! Tôi ra lịnh cho Đại Úy Phạm Văn Túy, tín đồ Thiên Chúa giáo đang làm việc ở văn phòng tôi thảo nhật lịnh. Cùng tâm trạng như tôi và hiểu ý tôi nên Đại Úy Túy viết đoạn chót mà tôi rất hài lòng:
-Cuộc chiến đấu rất nhiều gian khổ, thử thách lòng hy sinh của chúng ta cho chính nghĩa và Tổ quốc. Chúng ta phải cương quyết giữ vững ý chí, chủ động trên khắp các lãnh vực đấu tranh. Tôi (“Tôi” ở đây là Trung Tướng quyền Tổng Tham Mưu Trưởng Trần Văn Đôn – tqd) luôn luôn ở bên cạnh các anh em. Hãy tuyệt đối tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng.
Báo chí lúc ấy bất bình hành động của ông Ngô Đình Diệm và vợ chồng Ngô Đình Nhu có mấy tờ in đậm câu chót trong nhật lịnh nên nhiều người đọc tinh ý sẽ hiểu câu: “Hãy tuyệt đối tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng.”
(…)
Việc một nữ sinh (Quách Thị Trang – tqd) bị bắn chết (sáng ngày 25.8.1963 trước chợ Bến Thành, Sài gòn – tqd)làm cho chúng tôi thấy hổ thẹn với quần chúng khi khoác áo quân nhân ra đường. Việc Phật tử bị giam cầm làm cho tôi có mặc cảm tội lỗi. Nói làm sao cho dân chúng hiểu được rằng chúng tôi không làm việc đàn áp đó, chúng tôi không chủ trương giết người biểu tình bất bạo động, chúng tôi không đồng ý bắt giam người như vậy? Nhưng chúng tôi cúi đầu nhẫn nhục chờ ngày không xa chúng tôi sẽ trả lời với mọi người bằng hành động.”
Ngày 22 tháng 8, tôi đến thăm Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết. Với giọng nói mệt nhọc, ngài hỏi:
-Tại sao lại đánh chúng tôi?
Nghe hỏi tôi xót xa quá, nhưng không biết trả lời sao!
Vì thiết quân luật, chúng tôi ở trong trại không về nhà, nhiều anh em cũng như tôi nhận những cú điện thoại trách móc của vợ, không những chỉ các gia đình theo đạo Phật mà người phụ nữ thuộc các tôn giáo khác cũng có người trách chồng sao lại tham gia vào việc đàn áp Phật giáo… Đại Tá Trần Ngọc Huyến, một tín đồ Thiên Chúa giáo, người ủng hộ ông Diệm hết tình cũng chống vấn đề đàn áp Phật giáo đó của anh em ông Diệm.
Những gì chúng tôi nung nấu từ đầu năm 1960 đến nay đã đến lúc phải bộc phát. Những độc tài, bất công, đàn áp của chính quyền mà suốt mấy năm trời chúng tôi bất bình đến nay phải bùng nổ. Những chuẩn bị từ lâu nay đến lúc phải thi hành.” (bằng vào 1 giờ 30 chiều ngày 1.11. 1963 – tqd).
_______________________________________________________________________________________________
“Ông Nhu đã tỏ vẻ coi thường khi nhận được báo cáo đầu tiên về những đoàn quân tiến về dinh Tổng Thống. Ông tin rằng việc tấn công nầy nằm trong chiến lược của ông nhằm phát giác và tiêu diệt những người đối nghịch của ông.
Theo kế hoạch của ông Nhu thì vài đơn vị trung thành của ông sẽ chiếm vài nơi trọng yếu tại thủ đô. Lúc đó ông và ông Diệm sẽ bay ra Vũng Tàu. Chỉ vài ngày sau, tình trạng lộn xộn và không luật lệ đó sẽ mở ngõ cho kẻ thù của chính quyền vào. Các đơn vị trung thành với chế độ đánh chiếm lại. Lúc đó quân phản loạn của Mỹ sẽ bị sập bẩy chết trong đô thị nầy (Sài Gòn – tqd).
Một việc không may cho anh em nhà Ngô là ông Nhu đã nhờ Tướng Tôn Thất Đính thực hiện kế hoạch nầy. Trước đó (cũng trong chiều ngày 1.11.1963 - tqd) ông Nhu có điện thoại cho ông Đính nhưng không gặp. Sau đó ông ta có liên lạc với vài tướng lãnh mà ông nghĩ trung thành với chế độ, nhưng cũng không gặp ai cả. Lúc đó, ông mới biết là đảo chánh có thật” - (Trần Văn Đôn, Sđd, tr 270).
Đến 3 giờ 30 chiều ngày 1 tháng 11, Tổng Thống Ngô Đình Diệm điện thoại cho tôi lần đầu tiên và hỏi:
-Các anh làm gì đó?
-Thưa cụ, quân đội đứng lên đáp lại lòng mong mỏi của dân. Chúng tôi yêu cầu Cụ từ chức vô điều kiện. Chúng tôi sẽ lo cho Cụ và gia đình đi ngoại quốc.
Ông Ngô Đình Diệm hỏi tiếp:
-Tại sao các anh làm như vậy?
-Vì chúng tôi yêu cầu đã nhiều lần mà Cụ không chịu thay đổi gì hết. Xin Cụ cải tổ chính phủ, chấm dứt đàn áp Phật giáo và ngày hôm qua tôi có gặp Cụ thì Cụ cũng cương quyết không thay đổi.
-Nói vậy chứ tôi định ngày nay tuyên bố cải tổ chính phủ. - (Y như con nít? – tqd).
-Thưa Cụ muộn quá rồi. Đây có Trung Tướng Dương Văn Minh xác nhận lời nói của tôi.
Tôi chuyển điện thoại cho Trung Tướng Dương Văn Minh.
Khi điện đàm, các tướng tá đang đứng ngồi xung quanh nên chúng tôi nghe Trung Tướng Minh nói:
-Chúng tôi chịu đựng từ mấy năm nay rồi.
Rồi ông nói tiếp:
Anh em chúng tôi có mặt ở đây là… Trung Tướng Dương Văn Minh.
Nói đến đây, ông Minh đưa cho từng người hiện diện xưng cấp bực và tên họ của mình, rồi lần lượt các vị như:
-Trung Tướng Nguyễn Ngọc Lễ,
-Thiếu Tướng Lê Văn Kim,
-Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm,
-Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm,
-Thiếu Tướng Nguyễn Văn Là,
-Thiếu Tướng Phạm Xuân Chiểu,
-Thiếu Tướng Trần Tử Oai,
-Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân,
-Thiếu Tướng Nguyễn Giác Ngộ,
-Đại Tá Nguyễn Đức Thắng,
-Đại Tá Đặng Văn Quang,
-Đại Tá Nguyễn Văn Chuân,
-Đại Tá Nguyễn Khương,
-Trung Tá Nguyễn Văn Thiện,
-Trung Tá Lê Nguyên Khang.
Sau đó, ông Ngô Đình Nhu xin nói chuyện với tôi:
-Tại sao các anh lại phải đánh, có việc gì không bằng lòng thì nói với nhau (Ở đó mà “nói với nhau”! Nếu “có gì không bằng lòng thì nói với nhau” thì ông Nhu đã không thể đe dọa “những Tướng nào mà âm mưu đảo chánh thì sẽ treo cổ nó trên đường Công Lý” và; không thể có chuyện như bắt cóc thủ tiêu man rợ bằng hình thức dìm hai ông Nguyễn Bảo Toàn và Phạm Xuân Gia xuống lòng sông Nhà Bè? - tqd). Sao mà thiếu tình như vậy? (Tình? đối với Đảng Cần Lao, những Mật vụ, hành xử người dân qua cái gọi là “phong trào tố Cộng”, việc triệt tiêu đối lập, thanh trừng các chính khách v.v… là những điều mỉa mai, cay đắng nhất suốt khung thời gian mà nhà Ngô cầm quyền! – tqd).
Tôi trả lời:
- Chúng tôi hành động như vậy chỉ vì ý dân. Hôm qua, chính ông Cố Vấn đã nói với tôi rằng ông Cụ không chịu thay đổi gì hết, và sau đó ông Cụ đã xác nhận với tôi là tình hình tốt đẹp (“tốt đẹp” trong việc đi đêm với Bắc Việt, dùng gián điệp VC vào dinh Tổng thống, vào chức vụ Tỉnh trưởng, dùng nhà ông Tàu Mã Tuyên liên lạc với MTGPMNVN, đàn áp khốc liệt Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo v.v…nhưng “tố Cộng” giết người thì cứ làm, cứ rat ay? – tqd) không cần thay đổi gì hết…
- Thôi được! Mời mấy anh lên đây (dinh Gia Long – tqd) thương thuyết với chúng tôi. Tôi sẽ bảo đảm an ninh cho các anh.
Tôi chuyển lời mời lên thương thuyết của ông Nhu với các anh em hiện diện để biết ý kiến, đa số các anh em lắc đầu không đồng ý vì nhớ lại cuộc đảo chánh năm 1960, ông Diệm ông Nhu nói thương thuyết, thỏa thuận nhưng đó chỉ là cớ kéo dài để chờ quân tiếp cứu (đích thực là thế chứ không thể có chuyện “Tổng thống không cho quân đội đánh nhau với quân đội” bao giờ, và, việc xỉ gạt đó - 1960, na ná cái họa vua U Vương bên Tàu vào hồi nhà Chu đốt Lộc Đài ở Trung nguyên báo động giả cho chư hầu kéo quân về triều ca cứu giá để cho Bao Tỷ và Muội Hỷ cười! – tqd).
Tôi trả lời với ông Nhu:
-Các Tướng Tá ở đây không một ai đồng ý lên thương thuyết, vì biết đây là một cớ hoãn binh, một cái bẫy mà thôi.
“Cũng trong lúc 4 giờ chiều, các sĩ quan cao cấp vào thêm Bộ Tổng Tham Mưu như Đại Tá Dương Ngọc Lắm, Đại Tá Đặng Thanh Liêm, Đại Tá Bùi Hữu Nhơn…
Để yểm trợ cho đoàn quân tấn công thành Cộng Hòa, tôi cho hai khu trục phát xuất từ căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất bay lên bắn yểm trợ cho Bộ Binh.
Các Tư Lệnh Vùng I và Vùng II gọi về báo cáo tình hình và tôi cũng cho biết tình hình thủ đô.
Đến 6 giờ chiều ngày 1 tháng 11, Thiếu Tướng Đính đang chỉ huy tấn công các công sở cho tôi biết ông đã giải thoát nam nữ sinh viên, học sinh bị giam giữ vì tham gia biểu tình phản đối chính quyền đàn áp Phật giáo. Tôi yêu cầu cho chở tất cả anh em vào bộ Tổng Tham Mưu gặp chúng tôi.
Đến 7 giờ 30, các anh em sinh viên học sinh được giải thoát vào thẳng bộ Tổng Tham Mưu. Nghe tin, chúng tôi xuống tiếp họ.
Vừa xuống cầu thang, chúng tôi nghe tiếng một anh sinh viên (Về sau chúng tôi biết là anh Nguyễn Hữu Đống, sinh viên Kiến trúc) hô to:
-Anh chị em! Quỳ xuống lạy các tướng lãnh đã cứu mạng chúng ta!
Thấy họ sắp quỳ, chúng tôi vội la to:
-Thôi! Thôi! Đừng…
Chúng tôi không nói thêm được gì vì trước cảnh nầy ai cũng quá cảm động, chảy nước mắt.
Nguyễn Hữu Đống đại diện anh em bày tỏ lòng biết ơn và niền hân hoan vui sướng vì quân đội lật đổ được chế độ độc tài tàn ác của gia đình họ Ngô. Giọng anh phát biểu có lúc hét lên như trút uất hận, có lúc hùng hồn đanh thép, lúc lại run run vì cảm động”.
Về sau chúng tôi nghe một vài nhân chứng đi sát với ông Diệm và ông Nhu như Đại úy Đỗ Thọ, sĩ quan tùy viên, Đại úy An, sĩ quan cận vệ cho biết:
-sau khi nói chuyện với đại sứ Mỹ Cabot Lodge vào lúc 3 giờ chiều ngày 1.11.1963,
-sau khi nói chuyện với tôi (Trần Văn Đôn) và ông Minh,
-sau khi biết hầu hết các cấp chỉ huy cao cấp trung thành với ông đã bị bắt,
-sau khi biết hầu hết quân đội theo lịnh của các tướng lãnh đảo chánh và không có Vùng Chiến Thuật nào gởi quân tiếp cứu,
-sau khi biết quân đảo chánh đang đánh thành Cộng Hòa và sẽ tập trung tất cả quân lực đánh dinh Gia Long,
Hai ông ấy (Diệm, Nhu) quyết định đi ra khỏi dinh Gia Long.” (Trần Văn Đôn, Sđd, từ trang 221 đến 225).
Trích đoạn sách “Công cuộc tranh đấu của Phật Giáo Việt Nam”, by Quốc Tuệ, xuất bản lần thứ nhất năm 1964 tại Việt Nam; Tái bản tại Pháp năm 1987, trang 473, 474 và 475:
“Ngay sau lúc chính quyền Diệm ban hành lệnh giới nghiêm trên toàn lãnh thổ, và ủy thác cho bọn bộ hạ thẳng tay đàn áp Phật giáo, cũng như các tầng lớp trí thức, đã gây nên một bầu không khí cực kỳ hỗn loạn, đảo điên.
Một số công an, mật vụ, được lệnh của Nhu, Diệm cạo đầu, khoác áo cà sa, chiếm cứ các ngôi chùa bỏ trống, và len lỏi ở những nơi công cộng, để chứng tỏ với công luận, sư vẫn còn; sư vẫn được tự do; chỉ bắt cộng sản đội lốt tôn giáo mà thôi.
Trái lại, những vị chân tu, trốn thoát khỏi nanh vuốt Nhu Diệm, đã tự ý để tóc dài, và bận Âu phục, học đi, học đứng, học nói, y như một thanh niên ở ngoài đời, trà trộn vào trong các nhà thờ, học đường, chợ búa v.v… để tiếp tục công tác bảo vệ Phật giáo. Nhờ được lòng dân, các vị này đã được đồng bào giúp đỡ triệt để. Ông bà Nguyễn Chi ở đường Lê Lợi Sài gòn, đã nuôi tám chín vị Tăng trên một căn gác nhỏ, và cung cấp mọi phương tiện cần thiết, xe đạp, máy chữ, giấy, quần áo, cơm ăn v.v… và bao che cho mọi nguy hiểm có thể xảy đến, làm nguy hại cho gia đình ông bà, và tình trạng các thầy.
Nhờ vậy, khi Nhu Diệm phá một chùa Xá Lợi, và bắt hầu hết các vị lãnh đạo Phật giáo, thì tức khắc có hàng chục chùa Xá Lợi khác, với hàng trăm cấp bộ lãnh đạo Phật giáo, mà chúng không thể nào phá vỡ nổi, vì thiết lập ngay trong lòng dân.
Một vị cao tăng đã nói: “Chỉ lúc nào chúng tiêu diệt hết dân tộc Việt Nam, mới giết hết Phật giáo Việt Nam, vì Phật giáo là tình thương, là lẽ phải, là công bình xã hội.” Những người trước đây phỉ báng Phật giáo, thì nay lại gần gũi Phật giáo hơn ai hết, vì họ giác ngộ được chân tính tinh thần, Phật giáo là phù hợp với sự tiến bộ của nhân loại, không yếm thế tiêu cực như trước đây người ta lầm tưởng.
Bởi thế, các đoàn thể Phật giáo, hòa hợp với cao trào chống độc tài của quân chúng, đã làm cho khí thế tranh đấu mỗi lúc một quyết liệt hơn; Các tổ chức bí mật, tổ năm người, tổ bảy người tự nhiên mọc lên như nấm khắp thành thị, đến thôn quê thi nhau cổ võ quần chúng quật khởi, bằng lời kêu gọi, truyền đơn, tranh ảnh, thơ từ, ca dao v.v… Tuy chương trình của mỗi tổ chức không phù hợp với nhau, nhưng tất cả đều theo đuổi một mục đích: Ủng hộ đường lối bất bạo động của Phật giáo, và giải tỏa dân tộc thoát khỏi ách độc tài gian ác của gia đình Diệm.
Ngoài hai vụ tự thiêu của thầy Quảng Hương, và thầy Thiện Mỹ ở chợ Bến Thành, và trước nhà thờ Đức bà, còn có hàng chục vụ tự thiêu khác của tăng, ni đang chuẩn bị. Lại còn có nhiều vị hoặc Phật giáo, hoặc không Phật giáo, hay một tôn giáo khác (vì dưới thời Ngô Đình Diệm thì không tôn giáo nào mà không bị nhà Ngô đàn áp, trù dập, như Cao Đài, Hòa Hảo chẳng hạn, ngoại trừ Thiên Chúa giáo Vatican La mã – tqd), cũng nhiệt liệt tham gia các công cuộc biểu tình rải truyền đơn v.v… trong thời gian bí mật. Có nhiều người đã tìm cái chết bất khuất ngang tàng, như nhà văn Nhất Linh, cô nữ sinh Quách thị Trang, nữ sinh Mai tuyết An tự chặt tay, hay nhiều người khác, khi bị giam cầm tra tấn, và thủ tiêu (có một người trong họ ngoại của tôi đi tu làm tu sĩ Phật giáo cũng bị bắt và mất tích vĩnh viễn trong giai đoạn này – tqd), mà hiện nay vẫn chưa tìm ra manh mối.
- ………………………………………………………………”
____________________________________________________________________________________________
Không những tình hình trong nước đã tối nguy, mà tình hình Quốc tế lại hết sức trầm trọng, 21 thượng nghị sĩ Hoa kỳ, đồng ký bản kiến nghị chấm dứt viện trợ cho Việt Nam. Đến nỗi Trần lệ Xuân phải gào thét: “Thế giới chỉa mũi nhọn vào Việt Nam”.
Để đối phó với tình trạng nguy ngập, vào khoảng 17.9.1963, Giám mục Ngô đình Thục cấp tốc chạy sang La mã, rồi tiếp đến Trần lệ Xuân hoạch định một chương trình du thuyết, và giải độc dư luận quốc tế...”
Trong một buổi “học tập “ tại Bộ Tổng Tham Mưu:
“Ông Ngô Đình Nhu trực tiếp cảnh cáo các Tướng lãnh về âm mưu tổ chức đảo chánh quân sự, khi ông nói là Tướng nào làm việc đó để lật đổ chế độ thì nên “treo cổ nó trên đường Công Lý” để làm gương cho kẻ khác” – (Tôn Thất Đính, “20 Năm Binh Nghiệp”, USA, 1998, tr 419).
Chúng ta hãy theo dõi một nơi khác:
“Ông Nhu đã tỏ vẻ coi thường khi nhận được báo cáo đầu tiên về những đoàn quân tiến về dinh Tổng Thống. Ông tin rằng việc tấn công nầy nằm trong chiến lược của ông nhằm phát giác và tiêu diệt những người đối nghịch của ông.
Theo kế hoạch của ông Nhu thì vài đơn vị trung thành của ông sẽ chiếm vài nơi trọng yếu tại thủ đô. Lúc đó ông và ông Diệm sẽ bay ra Vũng Tàu. Chỉ vài ngày sau, tình trạng lộn xộn và không luật lệ đó sẽ mở ngõ cho kẻ thù của chính quyền vào. Các đơn vị trung thành với chế độ đánh chiếm lại. Lúc đó quân phản loạn của Mỹ sẽ bị sập bẩy chết trong đô thị nầy (Sài Gòn – tqd).
Một việc không may cho anh em nhà Ngô là ông Nhu đã nhờ Tướng Tôn Thất Đính thực hiện kế hoạch nầy. Trước đó (cũng trong chiều ngày 1.11.1963 - tqd) ông Nhu có điện thoại cho ông Đính nhưng không gặp. Sau đó ông ta có liên lạc với vài tướng lãnh mà ông nghĩ trung thành với chế độ, nhưng cũng không gặp ai cả. Lúc đó, ông mới biết là đảo chánh có thật” - (Trần Văn Đôn, “Việt Nam Nhân Chứng”, USA, 1989, tr 270).
DẪN NHẬP
Nửa thế kỷ trước đây, tại miền Nam Việt Nam, một biến cố bi hùng đã làm chao nghiêng lịch sử và trở thành một trong những dấu ấn quan trọng trong dòng sinh mệnh dân tộc vào hạ bán thế kỷ thứ hai mươi. Biến cố đó là sự sụp đổ của chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, kéo theo sự phá sản của một sách lược cải đạo ở cấp độ quốc gia của Công giáo La Mã tại miền Nam Việt Nam.
1963 – 2013! Năm mươi năm đã trôi qua… Một nửa thế kỷ là khoảng thời gian đủ dài để có thể soát xét và suy nghiệm xem từ biến cố đó ta rút ra được những bài học lịch sử gì. Tuy nhiên, ở trong nước, từ lâu, đã không có một công trình quy mô nào nghiên cứu và trình bày một cách toàn diện, nghiêm túc và cập nhật hơn về chế độ Ngô Đình Diệm. Còn ở hải ngoại, một vài trí thức Công giáo có nỗ lực“xét lại” bản chất và thành quả của chế độ nầy, nhưng vì phải mạo hóa lịch sử để biện minh cho ý đồ chạy tội nên những tác phẩm của họ vừa không có giá trị lịch sử vừa thiếu tiêu chuẩn trí thức.
Trong tình hình đó, sự hình thành Tuyển Tập nầy là một động thái trí thức chủ yếu nhằm đóng góp vào 4 nỗ lực:
1. Thứ nhất là đúc kết lại thành một chứng liệu lịch sử từ cả hai góc độ chứng nhânvà văn bản, đóng góp thêm vào việc kiện toàn các nghiên cứu tương lai về chế độ Ngô Đình Diệm.
2. Thứ nhì là để làm sáng tỏ một số ngộ nhận dấy lên vì những biến động sau đó trên đất nước ta, khiến sự thật đã vô tình bị biến dạng đàng sau những lăng kính và bụi mù do một số người Việt và người nước ngoài vô tình hay cố ý tạo ra.
3. Thứ ba là nhận diện để phản biện một số xuyên tạc và mạo hóa lịch sử của tàn dư chế độ Ngô Đình Diệm tại hải ngoại đang tìm cách đánh tráo sự thật để chạy tội quá khứ. Nỗ lực nầy có thể là để âm mưu, dưới hình thức nầy hay hình thức khác, thiết lập một chế độ “Diệm không Diệm” trong tương lai tại Việt Nam. Điều bất hạnh nầy, nếu xảy ra, thì sẽ chỉ vì lợi ích của một thiểu số giáo quyền mà đi ngược lại lợi ích của toàn thể Dân tộc.
4. Và thứ tư là nỗ lực trao gửi một bài học cho thế hệ tương lai để cảnh giác họ đừng bao giờ để cho một chế độ như chế độ Diệm xuất hiện trên quê hương ta nữa.
Vì bốn lý do kể trên, Tuyển Tập nầy sẽ không được bán mà chỉ in với một số lượng giới hạn để gửi tặng những cá nhân hoặc định chế nào nghiên cứu chủ đề nầy mà thôi.
Trong quá trình hình thành Tuyển Tập, việc thu thập tài liệu (mà đa số đã được phổ biến rộng rãi trên Internet từ nhiều năm qua) và liên lạc với các tác giả để xin phép là một điều vô cùng khó khăn, hầu như là bất khả thi nên xin các tác giả thông cảm và rộng lòng tha thứ. Nhất là khi có một số ít bài viết xuất xứ từ trong nước và/hoặc đã được phổ biến (trên báo giấy) từ trước 1975. Cho nên122 bài viết của 99 tác giả, và 100 lời nhận định về chế độ Ngô Đình Diệm trong Tuyển Tập nầy, dù chỉ là một số lượng rất nhỏ trong hàng núi tài liệu cả trong lẫn ngoài nước, nhưng có lẽ cũng đủ để nhận diện được nguyên nhân, mô tả được bản chất và đánh giá được công tội của chế độ nầy rồi.
Nội dung các bài viết được phân bố thành 8 Chương là để dễ truy cứu theo từng chủ đề hơn là theo một cấu trúc trình bày nhất định nào đó. Và vì Tuyển Tập dài hơn một ngàn sáu trăm trang nên sẽ được chia thành 3 Tập, phát hành trong năm 2013 để đánh dấu mốc 50 năm nhìn lại.
Cuối cùng, chúng tôi xin trân trọng cảm tạ những tác giả có bài trong Tuyển Tập “1963-2013 – Năm Mươi Năm Nhìn Lại” nầy. Những tác giả đó, đã mất hay còn sống, đa số đã là những chứng nhân và cũng đã là, trong nhiều trường hợp, những nạn nhân, cho nên tiếng nói của họ thì trung thực, cần được phổ biến rộng rãi và bảo lưu lâu dài.
Trân trọng,
Nhà Xuất bản Thien Tri Thuc PublicationsP.O. Box 4805Garden Grove, CA.92842-4805 - USAVới chủ tâm dựa vào Mỹ để duy trì quyền lực ở Việt Nam, tháng 8 năm 1950, Vatican cho người đưa ông Ngô Đình Diệm sang Hoa Kỳ để vận động liên kết với siêu cường này trong một thế liên minh mới mà các nhà viết sử gọi là Liên Minh Mỹ – Vatican hayTrục Washington – Vatican (The Vatican – Washington Axis) thay thế cho liên minh cũ Pháp và Vatican. Như vậy là Vatican đã tự động bỏ rơi nước Pháp và Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Pháp - Vatican coi như bắt đầu tan vỡ kể từ đây.
Cũng xin nói rõ là Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp-Vatican do Vatican chủ xướng, vốn bắt nguồn từ một Sắc Lệnh Romanus Pontifex được ban hành vào ngày 8/1/1454 trong thời Giáo Hoàng Nicholas V (1447-1455), khởi sự vận động vào đầu thế kỷ thứ 17, cũng do người của Giáo Hội La Mã là Linh-mục Alrexandre de Rhodes đề nghị với nước Pháp kèm theo với bản tường trình thành quả công tác tình báo tại Việt Nam và lá thư yêu cầu Pháp Hoàng Louis XIV phái quân đi chinh phục Đông Dương (đã được trình bày đầy đủ trong Chương 20.) Vì hoàn cảnh khó khăn lúc đó, Pháp Hoàng Louis XIV không đáp ứng được yêu cầu của Giáo Hội lúc bấy giờ. Trong thập 1780, lại cũng người của Giáo Hội là Giám-mục Pigneau de Béhaine lặn lội từ Việt Nam đem Hoàng Tử Cảnh mới có 5 tuổi đến triều đình Pháp Hoàng Louis XVI, thỉnh cầu viện trợ quân sự cho Nguyễn Ánh để đánh bại nhà Tây Sơn với chủ ý là Vatican và nước Pháp sẽ lợi dụng công ơn viện trợ để:
1.- Khuyến dụ Nguyễn Ánh, một khi đã chiến thắng, thì phải chiều theo những đòi hỏi Vatican và Pháp. Nếu Nguyễn Ánh chiều theo thì cả Vatican và Pháp lần lần nắm thế thượng phong, áp dụng chính sách “được đằng chân lân đằng đầu” như Vatican đã từng làm đối với Pháp trong thời Pháp Hoàng Henry IV (1589-1610), dần dần áp đảo và biến triều đình Việt Nam trở thành một thứ chính quyền tay sai cho cả Vatican và Pháp.
2.- Nếu Nguyễn Ánh không thành công hay không thỏa mãn những đòi hỏi của Vatican và của Pháp, thì các nhà truyền giáo của Giáo Hội tại Việt Nam sẽ xúi giục giáo dân Việt Nam nổi loạn, bất tuân lệnh chính quyền, nhằm tạo nên loạn lạc khắp nơi, và mỗi xóm đạo sẽ là một ổ phiến loạn, lúc bấy giờ Giáo Hội mới công khai nhẩy vào thừa nước đục thả câu, kết hợp với Pháp đem quân đến đánh chiếm và thống trị Việt Nam.[i] Giáo Hội cũng đã tiến hành sách lược nầy ở East Timor mấy năm vừa qua.
Giám-mục Pigneau de Béhaine đại diện cho phe đảng Nguyễn Ánh, tiếm danh là đại diện cho Việt Nam, thương thuyết với triều đình vua Louis XVI và đã đạt được một hiệp ước ký tại Điện Versailles vào ngày 28-11-1787. Theo hiệp ước này, Pháp sẽ viện trợ quân sự cho Nguyễn Ánh 4 chiến hạm, 1750 sĩ quan và binh sĩ, và Nguyễn Ánh phải nhượng cho Pháp và Giáo Hội La Mã một số quyền lợi. Nhưng Hiệp Ước Versailles vừa ký xong thì nước Pháp rơi vào tình trạng khủng hoảng tài chánh và kinh tế do bất công trong xã hội gây nên, rồi lan sang lãnh vực chính trị và chuyển thành Cách Mạng 1789. Vì thế mà Pháp không thể viện trợ cho Nguyễn Ánh được. Pháp bỏ cuộc, nhưng Vatican vẫn không nản lòng và vẫn còn bám lấy Việt Nam. Được Vatican triệt để ủng hộ, Giám-mục Pigneau de Béhaine nhân danh Vatican bỏ tiền ra mua sắm súng đạn và thuê mướn được một số binh lính đánh thuê đem đến viện trợ cho Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn.
Giáo Hội La Mã thường dạy là phải sống nghèo. Sao ông Giám-mục Pigneau de Béhaine của Giáo Hội tiền của đâu mà giàu thế? Nếu không phải do Vatican cung ứng để mua sắm các chiến tầu, súng đạn cũng như trang trải tiền trả lương cho quân lính, quân cụ, quân trang, quân dụng và quân nhu trên đây, thì tiền bạc ở đâu để ông giám-mục này mua sắm chiến tầu, khí giới, tuyển mộ quân lính, nuôi quân và trả lương cho lính? Nhưng, lại cũng chữ “nhưng” một lần nữa, "mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên". Công lao và tiền của bỏ ra viện trợ thì có, nhưng những yêu sách của Giáo Hội thì lại không được Nguyễn Ánh (khi thành công là Gia Long), đền bù. Giám-mục Pigneau de Béhaine và Hoàng Tử Cảnh lại sớm lên thiên đường, khiến cho Giáo Hội đã thất bại nặng nề ván bài Béhaine-Nguyễn Ánh.
Tuy nhiên, như đã nói trước đây, kế hoạch xâm thực của Giáo Hội là một kế hoạch dài hạn và trường kỳ mai phục. Thua keo này, Giáo Hội lại bày keo khác. Cuối cùng, vào đầu thập niên 1850, Giáo Hội cũng đã thành công trong việc vận động được chính quyền Pháp cùng với Giáo Hội bỏ công bỏ của đem quân đến chinh phục Việt Nam và Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Phap-Vatican thực sự thành hình và tích cực hoạt động kể từ đây.
Trở lại vấn đề vận động thành lập Liên Minh Chống Cộng Hoa Kỳ-Vatican, để cho kế hoạch này được thành công, tất cả những tín đồ của Giáo Hội tại Hoa Kỳ cũng như tại Pháp tùy theo khả năng đều được huy động để góp công vào việc vận động với chính quyền Hoa Kỳ làm áp lực với chính quyền Pháp và Quốc Trưởng Bảo Đại để đưa ông Ngô Đình Diệm về Việt Nam làm thủ tướng. Từ bà Ngô Đình Nhu ra vào thủ thỉ với ông Bảo Đại, Bà Nam Phương Hoàng Hậu với tình chăn gối trong chốn phong the, khối dân Kitô La Mã người Pháp cùng với đảng Da-tô Mouvement Republique Populaire (MRP) do ông Da-tô George Bidault làm đảng trưởng cho đến các ông Hồng Y Spellman, Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy, Thượng Nghị Mike Mansfield, Dân Biểu Walter Judd, ông Tòa Tối Cao Pháp Viện William Douglas đều được huy động để vận động vào việc làm áp lực với các thế lực liên hệ để cho ông Diệm về Việt Nam cầm quyền.
Việc Vatican cho người dẫn ông Ngô Đình Diệm sang Mỹ giao cho Hồng Y Francis Spellman vận động những tín đồ Da-tô có thế lực trong chính quyền Hoa Kỳ để đưa ông ta (Ngô Đình Diệm) về cầm quyền làm tay sai cho Giáo Hội La Mã Mã được rất nhiều sách sử trình bầy đầy đủ. Dưới đây là một số sách sử nói về sự thật lịch sử này:
1.- Sách Vịetnam: A History viết:
“Diệm rời Việt Nam vào năm 1950 với danh nghĩa đi dự lễ năm Thánh ở Vatican. Cuối cùng, ông ta đi Hoa Kỳ và lưu ngụ hai năm ở Chủng Viên Maryknoll ở Lakewood thuộc tiểu bang New Jersey, làm những công việc rửa chén, lau sàn nhà và cầu nguyện giống như một người mới đi tu. Quan trọng hơn, ông ta được giới thiệu gặp các vị chính khách nổi như Hồng Y Francis Spellman của địa phận New York, Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện William O. Douglas, Thượng Nghĩ Sĩ Mike Mansfield và Thượng Nghị John F. Kennedy. Ông Diệm biện minh cho trường hợp của ông với một lý luân đơn giản có thể lôi cuốn được cả những người bảo thủ và tự do. Lý luân đơn giản này là ông chống lại cả cộng sản và thực dân Pháp thống trị Việt Nam. Như vậy, ông trở thành người đại diện cho chủ nghĩa quốc gia. Điều hấp dẫn đối với Hồng Y Spellman là ông Diệm là một tín đồ Kitô La Mã. Nhờ vậy mà Hồng Y Spellman đã tích cực ủng hộ ông Diệm”.[ii]
2.- Sách Vietnam: A Dragon Embattled viết:
“Sau khi được chính quyền Pháp cho phép đi dự lễ Năm Thánh ở La Mã, ông Diệm rời Việt Nam vào tháng Tám năm 1950. Trạm đầu tiến, ông ghé Đông Kinh đến thăm ông Cường Để. Ông này đã lưu vong ở Nhật từ năm 1906. Đồng thời, ở Đông Kinh, ông Diệm cũng gặp một số người Hoa Kỳ. Họ dặn dò ông khi đến thủ đô Washington phải nên nói những gì với những nhân vật ông được tiếp kiến. Ông Diệm lưu lại ở Hoa Kỳ trong hai tháng 9 và 10 năm 1950. Trong thời gian này, ông được làm quen với một số chính khách người Hoa Kỳ rất quan tâm đến Việt Nam nhưng lại không hiều rõ tính cách phức tạp về tình hình chính trị và quân sự ở Đông Diương. Luận cứ đơn giản của ông Diệm là nếu chấm được chế độ thực dân và Việt Nam có được một chính quyền quốc gia thực sự thì Việt Minh sẽ bị đánh bại nhanh chóng. Hồng Y Spellman, người mà Giám-mục Ngô Đình Thục đem ông Diêm đến giới thiệu, có lẽ là người Hoa Kỳ đầu tiên đang tìm một tín đồ Kitô La Mã như ông Diệm để lành đạo chính quyền Việt Nam.
Thời kỳ ở La Mã của ông Diệm rất ngắn. Ở đây, ông được Giáo Hòang XII tiếp kiến, rồi ông đi Thụy Sĩ, Bỉ và Pháp. Tại các nước này, ông nói chuyện với những người Việt lưu vong. Những vì thấy rằng đối với Pháp, ông chẳng có cơ may nào, ông trở lại Hoa Kỳ vào đầu năm 1951 và lưu ngụ trong các Chủng Viện Maryknoll ở New Jersey và Chủng Viện Ossining ở New York. Thời gian này kéo dài tới hai năm và thỉnh thoảng ông đi thuyết trình tại các Đại Học ở miền Đông và miền Trung Tây. Nhiều lần ông đi Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn để nói chuyện vớ các chính khách người Hoa Kỳ và chiếm được cảm tình của họ đối với quan điểm của ông. Trong những chính khách ủng hộ quan điểm và khát vọng cá nhân của ông, có Thượng Nghị Sĩ.Mike Mansfield, Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy, Dân Biểu Walter Judd và Thảm Phán Tối Cao Pháp Viện William Douglas. Nhưng những việc vận động của họ cho nền độc lập của Việt Nam không được chính quyền của Tổng Thống Truman và chính quyền của Tổng Thống Eisenhower quan tâm, vì rằng lúc đó Hoa Kỳ vẫn còn theo đuổi chính sách viện trợ vô điều kiện cho người Pháp. Chán nản với những biến cố này, ông Diệm quay ra dõn nỗ lực vào việc suy tưởng và cầu nguyện, một phương cách rất thích hợp với bản chất của ông ta để tìm ra phương cách được chấp nhận đưa về Việt Nam cầm quyền hơn là tích cực tổ chức để thu hút sự ủng hộ cho việc làm của ông.
Thực ra, giả thuyết về việc ông Diêm được đưa lên làm thủ tướng được nhiều người chấp nhận là lúc bấy giờ Hồng Y Spellman với sự tiếp tay của các thành phần trong Phong Trào Cộng Hòa Bình Dân Kitô La Mã và chính quyền Pháp làm áp liực mạnh với ông Bảo Đại.”[iii]
3.- Chuyện Vatican cho người dẫn dắt ông Diệm đi Vatican và Hoa Kỳ để chạy chọt cho lên cầm quyền ở Việt Nam được tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu ghi lại trong sách Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi đầy đủ hơn cả. Dưới đây là nguyên văn:
“Trở lại năm 1950, khi tôi bắt đầu một giai đoạn nổi trôi lăn lóc trong những năm tàn khốc của cuộc chiến Pháp Việt từ Trung ra Bắc, thì tháng 8 năm đó, sau một thời gian vận động ngầm của Giám-mục Ngô Đình Thục, ông Diệm và người anh có ảnh hưởng lớn lao trên Giáo Hội Thiên Chúa Giáo Việt Nam này, lên đường đi La Mã dự lễ Năm Thánh để che đậy âm mưu đi Mỹ vận động chính trị.
Lộ trình không đi thẳng đến La Mã mà còn ghé qua Nhật Bản thăm Kỳ Ngoại Hầu Cường Để (một giải pháp hầu như không có giá trị nữa kể từ năm 1945) và nhất là để ông Diệm có cơ hội gặp giáo sư Wesley Fisher, một cựu sĩ quan tình báo hải quân thuộc Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ thời Đệ Nhị Thế Chiến và nghe nói đang là một nhân viên cao cấp của CIA. Buổi họp mặt với viên chức quan trọng này của cơ qua tình báo Mỹ đưa đến kết quả là trường Đại Học Michgan sẽ bảo trợ chuyến đi Mỹ của ông Diệm.
Sau đó, ông Diệm lên đường đi La Mã dự Năm Thánh và yết kiến Đức Giáo Hoàng, rồi từ đó bay đi Mỹ. Qua trung gian của Giám-mục Ngô Đình Thục, ông được Hồng Y Spellman, thuộc dòng Franciscain, tiếp kiến.
Từ Mỹ, ông Diệm lại quay về La Mã mấy ngày rồi mới đi Thụy Sĩ, Bỉ và Pháp để thảo luận với một số chính khách Việt Nam mà phần đông là Thiên Chúa Giáo đang cư ngụ tại các nước này. Năm 1951, Ông Diệm trở lại Hoa Kỳ hai năm, sống trong tu viện Maryknoll tại Lakewood (New Jersey) và Ossining (New York). Nhờ sự giúp đỡ của Hồng Y Spellman, thỉnh thoảng ông lại được mời đi thuyết trình tại các đại học miền Đông và Trung-Tây Hoa Kỳ. Ông cũng diễn thuyết tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn. và với lý luận rằng “chỉ cần chấm dứt chính sách thực dân Pháp và chỉ cần Việt Nam có một chính phủ do người quốc gia lãnh đạo là có thể đánh bại được Cộng Sản” mà ông đã chiếm được cảm tình và lời hứa sẽ yểm trợ của các chính trị gia Mỹ như Nghị Sĩ Mike Mansfield, John F. Kennedy, Dân Biểu Walter Judd, Chánh Án Williams Douglas và nhiều chính khách Thiên Chúa giáo khác. Phê bình câu nói của ông Diệm, giáo sư Buttinger cho rằng luận cứ này phối hợp được sự đơn giản rất hấp dẫn và sự hợp lý khó cãi được.
Chính vì “sự hấp dẫn không cãi được” đó và quyết tâm của Hồng Y Spellman muốn có một chính phủ Việt Nam do người Thiên Chúa giáo lãnh đạo mà ông Diệm đã trở thành một “giải pháp” khả dụng và khả thị cho chính sách của Mỹ tại Đông Dương trong tương lai rất gần.. Nhưng cái luận cứ “đơn giản và hợp lý” này đã chứng tỏ tính cách thiếu khoa học và không thực tế của nó khi ông Diệm, với một chính phủ quốc gia và 9 năm cai trị, ông Thiệu với một chính phủ quốc gia và 11 năm cai trị khác, vẫn không đánh bại được Cộng Sản. Nếu không muốn nói rằng chính phủ quốc gia của ông Diệm đã chính nghĩa hóa sự hiện diện ngụy trang của Cộng Sản tại miền Nam, và chính phủ quốc gia của ông Thiệu đã kiện toàn hóa chiến thắng “tự nhiên thành” của Cộng Sản tại miền Nam. Như vậy, rõ ràng hai chế độ quốc gia đã quản trị đất nước trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1975 quả thật đã không xứng đáng trên cả hai mặt nội dung cũng như thực tế để mang nhận danh từ này.
Theo dõi hành trình vận động quốc tế của ông Diệm, ta thấy gồm 6 chặng đường.(1) Đi Đông Kinh gặp một nhân viên tình báo Mỹ, (2) đến Vatican gặp Đức Giáo Hoàng, (3) đi Mỹ gặp Hồng Y Spellman, (4) trở lại Vatican không biết làm gì trong một thời gian ngắn, (5) rồi lại trở qua Mỹ gặp tiếp Hồng Y Spellman, (6) sau đó là các chính khách Hoa Kỳ. Sáu chặng đường đó thật ra chỉ gồm trong hai danh từ lẫy lừng: Vatican và Mỹ.
Tháng 5 năm 1953, theo lời mời của một số chính khách Việt Nam lưu vong mà đa số là người Thiên Chúa giáo, ông Diệm tiừ giã Hoa Kỳ về Pháp rồi đi Bỉ và trú ngụ tai tu viện Bénédictine de St. André les Purges. Đúng một năm sau, năm 1954, khi số phận Việt Nam bắt đầu bị cột chặt bởi chiến bại của Pháp tại Điện Biên Phủ vào ngày 7 tháng 5 và cuộc mặc cả tại Hội Nghị Genève thì ông Diệm trở lại Paris và sống tại ngôi nhà ông Tôn Thất Cẩn. Tại đây, với sự yểm trợ đắc lực của người em là Ngô Đình Luyện, ông bắt đầu mở các cuộc thăm dò và vận động trong giới chính khách Việt Nam cũng như với các thế lực quốc tế.
Theo giáo-sư Buttinger thì tại Sàigòn, ông Nhu biết rằng anh mình không đủ khả năng đối phó với những vận động chính trị quốc tế khó khăn và phức tạp, bèn vội vàng phái cộng sự viên thân tín là ông Trần Chánh Thành và Lê Quang Luật qua Paris để tăng cường thêm cho ông Diệm. Ông Trần Chánh Thành nguyên là tri huyện thời Pháp thuộc, sau theo Việt Minh làm chánh án Liên Khu Tư, rồi bỏ kháng chiến về Tề vào năm 1952. Còn ông Lê Quang Luật là một trí thức Thiên Chúa giáo Bắc Việt, người thân tín của Giám-mục Lê Hữu Từ.
Ba mục tiêu vận động quan trọng và quyết định nhất của ông Diệm là (1) đạt được sự yểm trợ của chính quyền Mỹ, (2) tranh thủ được sự thoả thuận của chính quyền Pháp, và (3) cuối cùng là thuyết phục được Quốc Trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm thủ tướng. Ba vận động liênh hệ chặt chẽ của hàng triệu người Việt Nam mà sức mạnh vô địch của chính hàng triệu người Việt Nam đó không hề được vận dụng tới. Thật ra ba bước vận động này tròng vào nhau như ba mắt xích mà trong bối cảnh chính trị quốc tế lúc bấy giờ, mở được mắt xích thứ nhất là hai mắt xích còn lại sẽ bị tháo tung. Mắt xích thứ nhất, Hồng Y Spellman đã giúp ông Diệm mở ra từ năm 1953 rồi cho nên Bảo Đại và chính phủ Pháp lúc bấy giờ không đồng ý “con người Ngô Đình Diệm”, nhưng dưới áp lực của Ngoại Trưởng Mỹ Foster Dulles và sự can thiệp mạnh mẽ của Hồng Y Spellman vào chính sách của Phong Trào Cộng Hòa Bình Dân Thiên Chúa Giáp Pháp (MRP), cuối cùng chính phủ Pháp và Bảo Đại đành phải chấp thuận bổ nhiệm ông Diệm làm thủ tướng.
Trong cuốn hồi ký Le Dragon d’ Annam, trang 328, ông Bảo Đại đã cố tình không nói rõ những áp lực này dù những vận động chính trị của các nước liên hệ đến chính tình Việt Nam lúc đó, (xem thêm Bên Giòng Lịch Sử 1940-1975, ấn bản Hoa Kỳ, của Cao Văn Luận). Một cách thật tinh tế, để nói lên áp lực của người Mỹ, ông Bảo Đại đã cho biết rằng “Sau khi gặp ông Foster Dulles để cho ông ta biết dự án của tôi, tôi đã gọi ông Diệm đến và nói rằng: (“Après m’ être entretenu avec Foster Dulles, pour lui faire part de mon projet...”). Sự kiện trước lúc lấy một quyết định nội bộ quan trọng (chỉ định một thủ tướng) mà vị nguyên thủ quốc gia phải hội ý với Ngoại Trưởng của Mỹ (không như trước đó, Bảo Đại đã chỉ định 5 thủ tướng không cần phải qua “thủ tục” này) đã chứng tỏ áp lực của Mỹ quả thật có tác dụng lên quyết định của Bảo Đại. Hơn nữa, ngay ở trang 329 sau đó, Bảo Đại còn viết thêm:
“Thật vậy từ nhiều năm nay, ông ta được nhiều người Mỹ biết và thích nhờ tính cứng rắn. Dưới mắt họ, ông Diệm là người hùng phù hợp một cách đặc biệt cho hoàn cảnh hiện tại, vì vậy mà Hoa Thịnh Đốn không ngần ngại gì mà không ủng hộ ông ta. (En effet, depuis de nombreuses années, il était connnu des Americains qui appréciaient son intransigeance. À leurs yeux, il était l’homme fort convenant particulièrement à la conjoncture, aussi Washington ne lui ménagerait pas son appui).
Nêu lên nhận định này, Bảo Đại ngầm cho ta biết sự can thiệp của người Mỹ trong quá trình chọn lựa Ngô Đình Diệm làm thủ tướng của ông là một sự can thiệp có thật. (Những người không hiểu rõ cá tính của ông Bảo Đại và ông Diệm, lại không nắm vững những vận động quốc tế cũng như nội bộ Việt Nam lúc bấy giờ đã nhầm lẫn và không hiểu rõ được sự can thiệp này nên đã hiểu sai luôn những biến cố lịch sử sau đó là lẽ dĩ nhiên).”
Sự kiện ông Diệm được Vatican và Mỹ ủng hộ là một yếu tố quan trọng xoay chuyển lịch sử Việt Nam trong chiến tranh Quốc Cộng nên tôi cần trích dẫn ra dưới đây những đọan sách khả tín của các ký giả, nhà văn nổi tiếng Anh, Mỹ để thêm tài liệu cho các nhà nghiên cứu sử sau này.
Theo John Cooney thì Giáo Hoàng Pius XII (1939-1958) muốn Hồng Y Spellman vận động với Hoa Kỳ tham dự vào chánh tình Việt Nam và ủng hộ cho Ngô Đình Diệm cầm quyền tại nước này:
“Theo Malachi Martin, một giáo sĩ Dòng Tên đã từng làm việc tại Vatican trong những năm Mỹ gia tăng sự tham dự vào Việt Nam, thì lập trường của Hồng Y Spellman hợp với ý của Giáo Hoàng (in accordance with the wishes of the Pope...) Giáo Hoàng muốn Hoa Kỳ ủng hộ Diệm vì Ngài bị ảnh hưởng của Giám-mục Thục là anh của Diệm. Ông Martin xác nhận rằng: “Giáo Hoàng lo ngại Cộng Sản sẽ bành trướng thêm làm suy hại đến Giáo Hội. Giáo Hoàng đã nhờ Hồng Y Spellman khuyến khích người Mỹ can dự vào Việt Nam.” (The American Pope, John Cooney, tr. 241, 242).
Vì vậy Spellman đã bắt tay vào việc điều động kỹ càng một chiến dịch xây dựng chế độ Diệm (carefully orchestrated campaign to prop up the Diem regime). Spellman và Kennedy cũng thành lập một tổ chức ở Hoa Thịnh Đốn để vận động cho Diệm. Chiêu bài vận động là Chống Cộng và Thiên Chúa Giáo (the rallying cries were anti-Communism and Catholicism). Sách đã dẫn, trang 242.
Tháng 10 năm 1950, hai anh em Thục Diệm gặp các viên chức Bộ Ngoại Giao tại khách sạn Mayflower ở Hoa Thịnh Đốn, có sự tham dự của Dean Rusk . Diệm và Thục được Linh-mục McGuire và giáo sĩ chính trị gia (political churchmen) đặc trách chính sách Chống Cộng tháp tùng, đó là Cha Emmanuel Jacque, Giám-mục Howard Carroll và Edmund Walsh của Đại Học Georgetown. Mục đích của cuộc gặp gỡ là để tìm hiểu tình hình Việt Nam và để xác định lập trường chính trị của hai anh em Diệm-Thục. Hai anh em tin rằng Diệm đã được an bài để cai trị đât nước (Both Diem and Thuc believed that Diem was destined to rule his nation). Sự kiện giáo dân Việt Nam chỉ chiếm mười phần trăm chẳng làm cho hai ông bận tâm. (The fact that Vietnam’s population was only ten percent Catholic mattered little as far as the brothers were concerned...) như Diệm đã nói trong bữa ăn tối rằng hai lập trường không lay chuyển của ông ta đã quá rõ ràng. Ông tin ràng vào quyền lực của Tòa Thánh và ông chống Cộng kịch liệt (He believed in the power of the Catholic Church and he was virulently anti-Communist). Sách đã dẫn, trang 241.
Thật vậy, ngoài cuốn “The Ameican Pope - The Life and Times of Francis Cardinal Spellman” của John Cooney do Times Books phát hành, trong quyển “Vietnam - Why did We go?” của Avro Manhattan (trang 58, ấn bản 1984), chuỗi sự kiện này cũng đã được trình bày rõ ràng:
Tạm dịch: “Hồng Y Spellman đã giới thiệu ông Diệm với ông William O. Douglas., Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện. Ông này lại giới thiệu ông Diệm với ông Mike Mansfield và ông John F. Kennedy, cả hai đều là Thượng Nghị Sĩ the Thiên Chúa Giáo. Ông giám đóc CIA Allen Dulles cũng đã đỡ đầu cho ông Diệm - tiếp theo quyết định của anh ông ta là (Ngoại Trưởng) John Foster Dulles.và của Hồng Y Spellman, người đại diện của Giáo Hoàng Phêrô XII. Ông Diệm đã được họ tuyển chọn, ông sẽ là người câm đầu chính phủ Nam Việt Nam.
Sau khi lấy quyết định xong, ông (Ngoại Trường Mỹ) Dulles khuyến cáo chính quyền Pháp hãy nói với Bảo Đại bổ nhiệm ông Diệm làm thủ tướng. Vì lưc bấy giờ đã có quyết định bỏ Việt Nam nên Pháp đồng ý. Ông Diệm trở thành thủ tướng vào tháng 6 năm 1954. Ngày 19 cùng tháng đó, Bảo Đại phong cho ông Diệm toàn quyền, không những quyền kiểm soát dân sự mà còn cả quân sự nũa trên toàn quốc. Ông Diệm về tới Sàgòn ngày 26 tháng 6 và thành lập chính phủ vào ngày 7 tháng 7 năm 1954.”
Những bí ẩn lịch sử trên đây cho ta thấy ngay từ trước năm 1950 ông Diệm vì không thể cộng tác được với Pháp và cựu hoàng Bảo Đại nữa nên hướng về Hoa Kỳ mà cuộc vận động nhịp nhàng của Vatican và cơ quan CIA đã đưa ông thành công với chức vụ thủ thướng khi Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ. Bây giờ thì ta thấy rõ ràng tại sao trên đường xuất ngoại vào năm 1950 hai ông Diệm và Thục lại gặp giáo sư Wesley Fisher tại Nhật Bản, một nhân viên cao cấp của Tình Báo Trung Ương Mỹ, tại sao trong “Bên Giòng Lịch Sử” Linh-mục Cao Văn Luận khoe khoang: “Có thể nói rằng nếu không có Cha Houssa, thì số phận Việt Nam không chừng đã khác”, tại sao khi đến Saigon thăm lính Mỹ, Hồng Y Spellman tuyên bố: “Các bạn chiến đấu cho văn minh Thiên Chúa Giáo”. Từ nay ông Diệm trở thành ngươi lính tiền đồn ngăn chặn Cộng Sản cho Vatican và Hoa Kỳ.”[iv] [Ngưng trích sách Việt Nam máu Lửa Quê Hương Tôi]
4.- Trong bài viết “Bài Học Chiến Tranh Việt Nam Nhìn Từ Hậu Trường Chính Trị Hoa Kỳ” đăng trong cuốn Sự Thật (Đặc San Xuân Đinh Sửu 1997), ông Lương Minh Sơn cho chúng ta một cái nhìn rõ ràng và đầy đủ về bàn tay của Giáo Hội La Mã trong việc chạy chọt cho ông Ngô Đình Diệm về cầm quyền ở Viêt Nam. Dưới đây là mấy đoạn văn quan trọng nói về những việc làm của Giáo Hội ở Hoa Kỳ trong những cố gắng chạy chọt với Hoa Kỳ cho ông Diệm về Việt Nam cầm quyền.
“Năm 1861, người Pháp đem quân đội và tôn giáo vào để cai trị Việt Nam nhưng năm 1954, người Pháp chỉ có thể triệt thoái quân đội mà không có một kế hoạch thỏa đáng để cứu vãn tình thế cho giáo dân Việt Nam đã từng đặt niềm tin nơi người Pháp. Trong lúc hồi tưởng về những ngày cuối cùng ở miền Bắc, Đại-tá Vanuxem của Quân Đội Viễn Chinh (Pháp) đã kể lại những lời lẽ trách cứ của Giám-mục Phạm Ngọc Chi, một người bạn thân của Vanuxem, khi đơn vị của ông sửa soạn rút khỏi giáo phận Bùi Chu, như sau:
“Chúng tôi cứ tưởng rằng chúng tôi xứng đáng được hưởng sự độc lập (1) mà chúng tôi đã có bổn phận góp công giúp đỡ, nhưng đến khi nhận ra thì đã quá muộn. Những người mà chúng tôi đã trông cậy lại là những kẻ thù đang muốn chúng tôi bị mất linh hồn” [VAN, Tr. 158-159].
Ở Vatican, Đức Giáo Hoàng Pius XII có lẽ cũng đã dự đoán được tình trạng cực kỳ nguy hiểm cho giáo dân Việt Nam một khi quân đội Pháp rút khỏi miền Bắc, nên kể từ cuối thập niên 1940, Ngài đã khuyến khích Đức Hồng Y Francis Joseph Spellman vận động chính phủ Hoa Kỳ sửa soạn can dự vào Việt Nam. Điều này có thể là một thắc mắc không nhỏ đối với những người chuyên nhìn trên phương diện tôn giáo thuần túy. Tuy nhiên, dưới khía cạnh chính trị, ngoài nhiệm vụ lãnh đạo đời sống tâm linh của giáo dân trên thế giới, Đức Giáo Hoàng của Thiên Chúa Giáo La Mã (The Roman Catholics) còn có trách nhiệm đại diện cho Hội Đồng Giáo Hội (The Council) và quốc gia Vatican để phản ảnh quan niệm và phát huy ảnh hưởng chính trị của Tòa Thánh đối với thế giới. Thành thử, muốn tìm hiểu về quan niệm và ảnh hưởng chính trị của quốc gia Vatican trong cuộc chiến tranh “Quốc Cộng” ở Việt Nam nói riêng, và trong cuộc Chiến Tranh Lạnh nói chung, lịch sử cần nhìn lại quan điểm chính trị của một số giáo hoàng, bắt đầu từ Đức Giáo Hoàng XII.
Giáo Hoàng Pius XII tên thật là Eugino Pacell, sanh năm 1876 ở Ý Đại Lợi. Năm 1930, Ngài được cử làm Ngoại Trưởng cho Đức Giáo Hồang XI (1922-1939). Năm 1933, Ngài lập công lớn với Tòa Thánh vì đạt được thỏa hiệp dung hòa với Phát Xít Đức (The 1933 Concordat). Theo thỏa hiệp này, Tòa Thánh coi như sẽ không phát biểu ý kiến về tình hình chính trị của Đức Quốc Xã, chẳng hạn như chuyện Đức Quốc Xã đang chuẩn bị guồng máy chiến tranh cho Đệ Nhị Thế Chiến. Ngược lại, Đức Quốc Xã coi như sẽ tôn trọng thực thể và chủ quyền của Tòa Thánh. Sau này, trên đường tiến vào thôn tính thủ đô La Mã, thiết đoàn chiến xa Panther của biệt đội SS Phát Xít Đức phải chẻ thành hai đường đi vòng qua Tòa Thánh thay vì có thể san bằng để băng qua, nếu họ muốn.
Trong suốt cuộc Đệ Nhị Thế Chiến, quan điểm của Đức Giáo Hoàng Pius XII về đường lối tiến tới hòa bình là duy trì tư thế trung lập cho Tòa Thánh đối với mọi phe lâm chiến. Tuy nhiên, lịch sử thế giới Tây Phương chỉ trích Ngài nặng nề nhất là vì Tòa Thánh đã không lên án Đức Quốc Xã khi quốc gia này thẳng tay tàn sát 6 triệu người Do Thái, và vì Tòa Thánh đã không tận dụng khả năng để che chở cho những người Ý gốc Do Thái khi mật vụ SS Đức lùng bắt họ ở Ý Đại Lợi.
Khi một số giới chức lãnh đạo Tây Phương khuyên Joseph Stalin, chủ tịch Đảng Cộng Sản Nga Sô nên cho người Thiên Chúa Giáo La Mã giảng đạo tự do ở Nga để lấy lòng Đức Giáo Hoàng, Stalin hỏi, “Đức Giáo Hoàng? Đức Giáo Hoàng có mấy sư đoàn?” [WIN], [CDQ]. Năm 1949, Đức Giáo Hoàng Pius XII kêu gọi giáo dân trên thế giới đứng lên chống lại chủ nghĩa Cộng Sản, và đồng thời tuyên bố “phạt tuyệt thông” (excommunicate) tất cả những giáo dân nào theo Cộng Sản [CUP, Pope Pius XII].
Nhưng, tại sao chính trị lại có tôn giáo, và tôn giáo lại có chính tri? Tổng Thống Richard M. Nixon (1969-1974) đã từng nói: “Mặc dù người Cộng Sản là những người vô thần nhưng chủ nghĩa Cộng Sản lại là một tôn giáo với hơn một phần tư tín đồ trên thế giới,” [NIX, chg. 5]. Thành thử, ngoài vấn đề “an ninh phòng thủ” cho Hiệp Chủng Quốc, sự bành trướng của khối “tôn giáo vô thần” Cộng Sản trong thập niên 1950 còn là một mối đe dọa trực tiếp đến ảnh hưởng của Vatican nói riêng, và của khối Thiên Chúa Giáo hữu thần nói chung. Giáo-sĩ Malachi Martin, người đã từng phục vụ trong Tòa Thánh Vatican cũng đã xác nhận. “Đức Giáo Hoàng (Pius XII) lo ngại Cộng Sản sẽ bành trướng và làm suy hại đến uy tín của Giáo Hội,”[COO, Tr. 241-242].
Nhưng quan điểm của quốc gia Vatican có ảnh hưởng gì đến chiến tranh Việt Nam? Các dữ kiện của đầu thập niên 1950 cho thấyNgô Đình Diệm được Đức Giáo Hoàng Pius XII gởi gắm cho Đức Hồng Y Spellman dẫn qua Hoa Kỳ để vận động chính trị vì quan niệm tôn giáo nhiều hơn là quan niệm cho phép một quốc gia nhược tiểu như Việt Nam được sống lại sau hơn 80 năm bị đô hộ.
Tháng 10 năm 1950, Đức Hồng Y Spellman, Linh-mục McGuire, và ba nhân vật Ủy Viên Chính Trị (political churchmen) của một số giáo phái Thiên Chúa Giáo ở Hoa Kỳ như Cha Emmanuel Jacque, Giám-mục Carroll và Gíáo-sư Edmund Walsh đưa Ngô Đình Diệm và Đức Cha Ngô Đình Thục đi gặp một số nhân viên của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ tại Khách Sạn Mayflower ở Washington. Ông Dean Rusk là một trong những nhân vật của Bộ Ngoại Giao có mặt trong buổi cơm tối hôm đó. Sau này, ông Rusk làm Ngoại Trưởng từ năm 1961 đến 1969. Mục đích của cuộc gặp gỡ xã giao này là để chính phủ Hoa Kỳ tìm hiểu về tình hình Việt Nam và để xác định lập trường của ông Diệm và Đức Cha Thục. Sự kiện 90% người dân Việt Nam không phải là tín đồ Thiên Chúa Giáo không làm cho ông Diệm quan tâm vì ông đã tuyên bố trong bữa cơm tối hôm đó rằng ông “tin tưởng vào quyền lực của Vatican và ông chống Cộng một cách cực lực,” [COO. Tr. 242].
Với hai yếu tố vì tôn giáo và vì chống Cộng, ông Diêm được Đức Hồng Y Spellman tiếp tục giới thiệu với William O. Douglas, Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện, Thượng Nghị Sĩ Mike Mansfield, Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy, Allen Dulles, Giám Đốc Trung Ương Tình Báo CIA, và anh của ông Dulles là Ngoại Trưởng John Foster Dulles [MAN, Tr. 58]. Từ đó, ông Diệm trở thành con đáp số gần như mỹ mãn trong bài toán chính trị của một phe phái có ý muốn can dự vào Việt Nam:
1.- Chính sách đối ngoại đang đòi hỏi Hoa Kỳ phải xây dựng một thành trì chống Cộng ở Việt Nam.
2.- Ngoại Trưởng John Foster Dulles đang muốn tìm một lãnh tụ chống Cộng theo khuôn mẫu đạo đức và xã hội Thiên Chúa Giáo.
3.- Đức Hồng Y Spellman đang cần Hoa Kỳ thay thế Pháp ở Việt Nam, và cũng cần một giáo dân trung kiên như ông Diệm để lãnh đạo công cuộc chống Cộng như lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng Pius XII.
Điều còn lại sau cùng cho kế hoạch chính trị hỗn hợp này là làm thế nào để giải thích cho Hội Đồng Chính Phủ và Quốc Hội Hoa Kỳ về kinh nghiệm chính trị và khả năng lãnh đạo của ông Ngô Đình Diệm? Tổng Thống Eisenhower cũng chỉ có thể trấn an Hội Đồng Chính Phủ bằng câu nói, “Trong đám mù, thằng chột làm vua,”.[HER]. Điều này cho thấy: một là ông Diệm không có một thành tích chính trị nào đáng kể, hai là ông Diệm không có khả năng lãnh đạo, hoặc ba là người Mỹ hoàn toàn không biết gì về ông Diệm.
Đầu năm 1954, Ngoại Trưởng John Foster Dulles khuyến dụ Pháp khuyên nhủ Bảo Đại bổ nhiệm ông Ngô Đình Diệm về Việt Nam làm thủ tướng.” [v] [Ngưng trích tài liệu của Lương Minh Sơn]
* * *
Tạm kể ra bốn tài liệu trên đây để độc giả thấy rằng vai trò của Giáo Hội trong việc chạy chọt với Hoa Kỳ cho ông Diệm lên cầm quyền ở Việt Nam nhằm để làm tay sai phục vụ cho quyền lực và quyền lợi của Vatican.
Để cho kế hoạch này được thành công, tất cả những tín đồ của Giáo Hội tùy theo khả năng đều được huy động để góp công vào việc vận động với chính quyền Hoa Kỳ làm áp lực với chính quyền Pháp và Quốc Trưởng Bảo Đại để đưa ông Ngô Đình Diệm về Việt Nam làm thủ tướng. Từ bà Ngô Đình Nhu ra vào thủ thỉ với ông Bảo Đại, Bà Nam Phương Hoàng Hậu với tình chăn gối trong chốn phong the, khối dân Kitô La Mã người Pháp cùng với đảng Da-tô Mouvement Republique Populaire (MRP) do ông Da-tô George Bidault làm đảng trưởng cho đến các ông Hồng Y Spellman, Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy, Thượng Nghị Mike Mansfield, Dân Biểu Walter Judd, ông Tòa Tối Cao Pháp Viện William Douglas đều được huy động để vận động vào việc làm áp lực với các thế lực liên hệ để cho ông Diệm về Việt Nam cầm quyền.
Về việc tín đồ Da-tô có thế lực Pháp và đảng Da-tô MRP của Da-tô Georges Bidault vận động cho ông Da-tô Ngô Đình Diệm được đưa lên cầm quyền, sách Việt Sử Khảo Luận kể lại lời cựu Luật-sư Trần Văn Tuyên với nguyên văn như sau:
“Dư luận Việt Nam thường coi ông Ngô Đình Diệm là “người của Hoa Kỳ” và việc ông lên cầm quyền là do Hoa Kỳ thúc đẩy.
Thực ra, ông Ngô Đình Diệm không phải là “con ngựa” của Hoa Kỳ mà là “người cưng” của Pháp hay đúng hơn của một đảng Công Giáo Pháp, “Mặt Trận Bình Dân” (M.R.P.), mà lãnh tụ là Bidault, bộ trưởng ngoại giao, trưởng phái đoàn Pháp ở Hội Nghị Geneve.
Năm 1953, ông Diệm được nhóm chính trị Công Giáo Pháp - Việt ở Paris mời về Pháp để “tính toán” công việc với Bidault. Khi Bảo Đại giải tán chính phủ Nguyễn Văn Tâm (tháng chạp 1953), Pháp (của đảng Da-tô MRP - NMQ) muốn vận động cho ông ta về làm thủ tướng Việt Nam. Tuy nhiên, những người tay chân của ông trong nước đã hành động vụng về hấp tấp, khi họ muốn lợi dụng Phong Trào Đại Đoàn Kết để đưa ông lên cầm quyền (muốn dùng tất cả giáo phái Cao Đài – Hòa Hảo và nhóm Bình Xuyên để làm hậu thuẫn cho ông Diệm chống Bảo Đại). Vận động đó thất bại, Bảo Đại không dùng ông Diệm mà cử ông Bửu Lộc ra lập chính phủ thay ông Nguyễn Văn Tâm.
Trước những khó khăn nội bộ cũng như trước trách nhiệm nhận chia đôi đất nước, Bửu Lộc xin từ chức, giữa lúc Hội Nghị Genève tới chỗ bế tắc (trung tuần tháng 6/1954), Bidault lại tấn công Bảo Đại, yêu cầu ông chỉ định Ngô Đình Diệm làm thủ tướng, Bảo Đại ngần ngừ. Ngày 12/6 (1954), Bảo Đại đánh điện triệu tôi và Đại-tá Lê Văn Kim xuống Cannes để hỏi công việc. Ông ra tận sân bay Nice để đón chúng tôi. Sau khi nghe báo cáo về tình hình hội nghị, ông hỏi tôi: “Bửu Lộc từ chức. Pháp (của đảng Da-tô MRP – NMQ) đề nghị ông Ngô Đình Diệm lập chính phủ. Hoa Kỳ có ủng hộ ông Ngô Đình Diệm hay không?”
Tôi trả lời: “Không thấy các đại biểu Hoa Kỳ nói gì về ông Diệm và xin về Genève hỏi ý kiến các bạn Hoa Kỳ của chúng tôi trong Hội Nghị Genève.”
Đây là một câu trả lời của nhân viên cao cấp Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ khi tôi hỏi về ông Ngô Đình Diệm: “Ông Diệm và anh ông là Thục có đến thăm Bộ Ngoại Gíao Hoa Kỳ. Sau khi nói chuyện, chúng tôi đều đồng ý là nên để ông giám mục làm chính trị và nhà chính trị làm giám mục thì đúng hơn. (ý nói ông Diệm không xứng đáng bằng cha Thục). Về ông Bedell Smith, thì cho chúng tôi biết: “Hoa Kỳ không ủng hộ một cá nhân ai cả, sẵn sàng ủng hộ chánh phủ quốc gia chánh thức chống Cộng, dù ai cầm đầu cũng được.”[vi]
Về việc Vatican vận động bà Nam Phương Hoàng Hậu thủ thỉ với Quốc Trưởng Bảo Đại bổ nhiệm ông Diệm là Thủ Tướng được, ông Đại Mạc viết trong Nguyệt San Người Dân số 77 (tháng 1/1997) như sau:
"Lại cũng có ký giả ngoại quốc (Bernard Fall) viết rằng chính bà Nam Phương, do khuyến cáo của giáo hội, đã bảo đảm với ông Bảo Đại để ông giao chính phủ cho ông Diệm. Ông Diệm đã quỳ lạy thề cùng cả hai người là trung thành với nhà Nguyễn. Sự phản bội của ông Diệm khiến bà Nam Phương giận giáo hội, và đã tự tử để chứng tỏ bà không còn thuộc giáo hội nữa. Ông ký giả lập luận rằng, trong y bạ, bà Nam Phương không hề có triệu chứng về tim. Mà bà lại mất bất ngờ, đến nỗi chính ông Bảo Đại cũng không hay biết gì. Tuy ông Bảo Đại vợ nọ con kia, nhưng vẫn là người chồng cha tốt với gia đình chính thức cũng như rất hiếu đễ với mẹ." [vii]
Tóm lại, ngay từ mùa hè năm 1950, Giáo Hội La Mã đã chạy chọt lo lót với các nhân vật quyền thế trong chính quyền Hoa Kỳ để cùng với Giáo Hội làm áp lực với chính quyền Pháp và Quốc Trưởng Bảo Đại đưa ông Ngô Đình Diệm lên làm thủ tướng chính phủ của chế độ Bảo Đại. Sự thật là Hoa Kỳ đồng ý với Vatican trong việc dùng áp lực với chính quyền Pháp và với Quốc Trưởng Bảo Đại để đưa ông Ngô Đình Diêm về Việt Nam cầm quyền với toàn quyền dân sự và quân sự. Sự kiện này cho ta thấy rõ Liên Minh Thánh Mỹ - Vatican đã được thành lập kể từ đây. Cái Liên Minh Thánh này được sử gia Chính Đạo tức Vũ Ngự Chiêu gọi là “Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng”. (Houston, TX: Văn Hoá, 2004).
Nhận xét về vai trò của Vatican trong việc vận động Hoa Kỳ đưa ông Ngô Đình Diệm về Việt Nam cầm quyền, rất nhiều sử gia và chính khách thời bấy giờ đều cùng một nhận xét đại khái như sau:
Nếu không có Hồng Y Francis Spellman và những tín đồ Kitô có thế lực và ảnh hưởng lớn trên sân khấu chính trị ở Pháp như ông Georges Bidault cũng như các chính khách Hoa Kỳ vốn là những con chiên của Giáo Hội như các ông Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy, Thượng nghị Sĩ Mike Mansfield, Dân Biểu Walter, Thẩm Tối Cao Pháp Viện William Douglas, Ngoại Trưởng John Foster Dulles, Giám Đốc Cơ Quan Tình Báo Trung Ương (CIA) là ông Allen W. Dulles đỡ đầu, thì Hoa Kỳ có thể đã đưa một trong các ông Phan Quang Đán, Phan Huy Quát, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Tường Tam và Nguyễn Hữu Trí lên làm thủ tướng rồi. Lý do dễ hiểu là ông Ngô Đình Diệm không những đã có thành tích phản quôc đối với nhân dân Việt Nam, mà lại không có tài năng chính trị, không có thành tích cách mạng và cũng không có một uy tín nào đối với nhân dân Việt Nam và nhân dân Hoa Kỳ. Cũng vì thế mà sau khi đưa ông Diệm lên cầm quyền rồi, Tổng Thống Eisenhower mới bị nhiều người cật vấn khiến cho ông lúng túng mà đành phải tuyên bố rằng "Trong đám thằng mù, thằng chột sẽ làm vua.”
Hoa Kỳ có ngờ đâu sau khi đưa "cái thằng chột" Ngô Đình Diệm này về làm vua ở Miền Nam Việt Nam thì nó lại làm hỏng hết cả chương trình viện trợ của Hoa Kỳ cho mục đích chống Cộng và làm mất hết đi cái ý nghĩa cao đẹp của lý tưởng tự do dân chủ mà nhân dân Hoa Kỳ hằng theo đuổi từ khi phát động cuộc chiến Cách Mạng (1776-1783) đánh đuổi Đế Quốc Thực Dân Anh để giành lại quyền tự chủ và quyền tự do bất khả nhượng của Trời đã ban cho. Tất cả cũng chỉ vì "cái thằng chột" Ngô Đình Diệm mang căn bệnh cuồng tín về tín ngưỡng, chỉ biết nghe lệnh Vatican, theo đuổi “chính sách bất khoàn dung" đối với các thành phần thuộc tam giáo cổ truyền của dân tộc, tiến hành "kế hoạch Da-tô hóa" miền Nam Việt Nam bằng bạo lực, cho nên chính sách viện trợ của Hoa Kỳ cho Miền Nam mới rơi vào thảm cảnh đau thương nhất trong lịch sử ngoại viện của Hoa Kỳ. Sự kiện này được ông Lương Minh Sơn nói rõ như sau:
"Năm 1971, dựa theo tập tài liệu "Hồ Sơ Ngũ Giác Đài", bình luận gia Neil Sheehan có đúc kết một phần nhận định về chính quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm như sau: "Ngay từ những ngày đầu, chính cá nhân của Tổng Thống Diệm và quan niệm chính trị của ông đã làm giảm thiểu hiệu năng của chính quyền... Được trưởng thành trong một gia đình vừa cuồng tín theo Thiên Chúa Giáo, vừa mang nặng tính cách phong kiến của giai cấp quan lại thống trị, ông Diệm là một người độc đoán, cố chấp, thơ lại, đa nghi và câu nệ về phương diện luân lý. Tinh thần của ông là tinh thần của một "Spanish Insquisitor"...," một loại hung thần của Tây Ban Nha thời Trung Cổ , [SHE, Trg 70-72].”[viii]
Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ ràng là ngày từ năm 1950, Vatican đã sử dụng tất cả những tín đồ Da-tô của Giáo Hội có thế lực ở Hoa Kỳ, ở Pháp và cả bà Nam Phương Hoàng Hậu để vận động đưa ông Ngô Đình Diệm về Việt Nam cầm quyền để làm tay sai cho Giáo Hội. Dĩ nhiên, khi đưa ông Diệm về Việt Nam cầm quyền, Hoa Kỳ cũng đã coi ông Diệm như là một thứ làm tay sai cho Hoa Kỳ và coi miền Nam như là thuộc địa của Hoa Kỳ. Đây là sự thật lịch sử và sự thật này không những các nhà viết sử chân chính đều khẳng định như vậy, mà ngay cả bọn văn nô Da-tô như Tú Gàn (một bút hiệu của cựu thầm phán Nguyễn Cần) cũng phải nhìn nhận sự thật này bằng mấy đoạn văn dưới đây:
“Coi miền Nam như thuộc Mỹ: Cảm tưởng đầu tiên của chúng tôi khi đọc Công Điện mang số Deptel 243 và các tài liệu tiếp theo của chính phủ Hoa Kỳ là Washington coi miền Nam như thuộc địa của Mỹ.
Nước Pháp ngày xưa khi đến đô hộ miền Nam và “bảo hộ” miền Bắc và miền Trung Việt Nam đều có ký hiệp ước với Triều Đình Huế. Đến năm 1887, Pháp hợp Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, và Cao Mên lại thành Liên Bang Đông Dương (Union Indochinoise) do một Toàn Quyền Đông Đương (Gouverneur Général de l’ Indochine) ở Hà Nội cai trị và đặt dưới quyền của Bộ Thuộc Địa (Ministère des Colonies). Các quan lại lở tỉnh đều đặt trực thuộc một Công Sứ (Résident) Pháp.
Đầu năm 1956, do áp lực của Mỹ, Pháp đã phải ký thỏa ước với Việt Nam rút Quân Đội Pháp khỏi miền Nam trước ngày 30/6/1956. Nhưng đến ngày 26/4/1956, Quân Đội Pháp đã rút hết khỏi miền Nam. Ngày 26/4/1956, Pháp tuyên bố bãi bỏ chức Cao Ủy Đông Dương và ngày 28/4/1955 tuyên bố giải tán Bộ Tư Lệnh Pháp tại Đông Dương. Người Mỹ âm thầm vào thay Pháp.
Tuy chính phủ Mỹ không hề ký với các chính phủ Việt Nam một hiệp ước nào về “quyền bảo hộ” như chính phủ Pháp đã ký trước đây, nhưng Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã tự động biến thành Bộ Thụôc Địa để áp đặt mọi chính sách và đường lối lên trên miền Nam và Đại Sứ Mỹ tại Sàigòn nghiễm nhiên trở thành Toàn Quyền Đông Dương hay Cao Ủy Mỹ tại Đông Dương, thường được người Việt gọi là “Quan Thái Thú”. Các lãnh sự Mỹ ở tỉnh cũng đóng vai trò của các Công Sứ Pháp. Một số đã tình nguyện làm lính Khố Xanh (Gardes Indigènes) hay lính Khố Đỏ (Tiraillers) cho Mỹ. Trạm CIA (CIA Station) của Mỹ tại Sàigòn đã hoạt động giống hệt Sở Mật Thám hay Sở Liêm Phóng Đông Dương (Service de Sureté Générale de L’Indochine của Pháp ngày xưa!
Chúng tôi xin nhắc lại: Năm 1963, khi tiếp Đại Sứ Frederick Nolting, ông Diệm có nói: “Chúng tôi không muốn thành một xứ bảo hộ của Hoa Kỳ.”[ix]
Qua mấy đoạn văn trên đây, chúng ta thấy được hai điểm: Thứ nhất, ông Da-tô Tú Gàn trách móc người Hoa Kỳ đã coi miền Nam như là thuộc địa của Hoa Kỳ. Thứ hai, ông Tổng Thống Da-tô Ngô Đình Diệm nói với Đại-sứ Hoa Kỳ Frederick Nolting rằng: “Chúng tôi không muốn trở thành một xứ bảo hộ của Hoa Kỳ.” Sự kiện này chứng tỏ rằng (1) cả hai ông Da-tô Ngô Đình Diệm và Tú Gàn đều không học sử Việt Nam (quốc sử) và sử thế giới, và (2) cả hai ông Da-tô này đều thiếu thông minh.
Vì không học quốc sử cho nên hai ông Da-tô này không biết lấy chuyên ông vua Lê Chiếu Thống để suy ra thân phận ông Da-tô Ngô Đình Diệm. Vào cuối năm 1788, khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc dẹp tên ma đầu chính trị Nguyễn Hữu Chỉnh, Lê Chiêu Thống bỏ trốn Thăng Long chạy sang Tầu cầu cứu nhà Thanh đem quân sang Việt Nam tái lập vương quyền cho ông ta. Đáp lời cầu cứu của Lê Chiêu Thống, Vua Càn Long sai Tôn Sĩ Nghi, Tổng Đốc Lưỡng Quảng, đem 280 ngàn quân Tàu đưa Lê Chiêu Thống về Thăng long cho ngồi vào ngai vàng, nhưng hàng ngày chính nhà vua và Lê Quýnh cùng mấy chục tên lính hầu phải thân hành đến phủ của Tốn Sĩ Nghị ở Tây Long Cung để chầu chực, chờ nhận lệnh cho phép làm gì thì mới được làm. Sự kiện này ông Hoa Bằng kể lại trong cuốn Quang Trung Nguyễn Huệ Anh Hùng Dân Tộc 1788-1792 với nguyên văn như sau:
“Dẫu được người Thanh “ban” cho danh hiệu hờ, vua Lê vẫn khép nép e dè, không dám đường hoàng trên văn thư dùng niên hiệu Chiêu Thống, mà vẫn phải để hiệu Kiền Long nhà Thanh (bấy giờ là năm Kiền Long thứ 53 tức năm Mậu Thân 1788).
Hằng ngày, Chiêu Thống cưỡi ngựa đi trước, Lê Quýnh cưỡi ngựa theo sau, với vài chục lính hầu, cong cóc sang Tây Long Cung, nơi Sĩ Nghị đóng, chầu chực công việc quân quốc. Có khi Chiêu Thống tiến yết, Nghị không tiếp, chỉ sai người đứng dưới gác chuông, truyền ra bảo vua Lê rằng: Nay không có việc quân quốc gì, hãy cứ về cung mà nghỉ.”[x]
Trong những năm 1950-1954, Vatican cho người dẫn ông Da-tô Ngô Đình Diêm sang Mỹ, sang Pháp rồi lại sang Mỹ để khẩn khoản nhờ Mỹ đưa về Việt Nam cầm quyền. Nhưng phải chờ tới khi có hoàn cảnh thuận tiện Mỹ mới thực hiện được. Mãi tới mùa xuân năm 1954, lúc đó, quân dân Việt Nam sắp đánh bại Liên Quân Xâm Lăng Pháp – Vatican tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, Mỹ mới ra tay hành động, gửi Đại-Tá tình báo Edward G. Lansdale tới Việt Nam dọn đường, rồi tới ngày 26/6/1954 mới đưa ông Diệm về Sàigòn cho ngồi vào ngội vị thủ tướng với toàn quyền về quân sự và dân sự, dĩ nhiên là dưới quyền chỉ đạo của Mỹ.
Trường hợp này của ông Da-tô Ngô Đình Diệm được Mỹ đưa về ngồi vào ghế thủ tướng ở Sàigòn và tổng thống trong những năm 1954-1963 giống y hệt như trường hợp Lê Chiêu Thống được nhà Thanh đưa về Việt Nam cho ngồi vào ngôi vua ở Thăng Long vào cuối năm Mậu Thân 1988. Có một điều hơi khác là vào thập niên 1950, người Mỹ tương đối khôn khéo và tế nhị hơn Tôn Sĩ Nghị:
Tôn Sĩ Nghị đòi hỏi Lê Chiêu Thống hàng ngày phải thân hành đến phủ Tôn Sĩ Nghị để chầu chực việc quân quốc. Người Mỹ khôn ngoan hơn, họ để cho anh em ông Diệm và các tu sĩ Da-tô được nắm trọn quyền quản lý nhân dân miền Nam miễn là đừng quá trớn khiến cho họ mang tiếng là thủ phạm tạo nên một thứ Spanish Inquisitor ở miền Nam Việt Nam vào giữa thế kỷ 20. Còn họ, họ lo việc biến miền Nam thành tiền đồn chống Cộng ở Đông Nam Á Châu và biến đạo quân đánh thuê người Việt do người Pháp để lại thành một đạo quân hùng mạnh nhất trong vùng này để đánh thuê cho họ trong việc đối phó với phong trào Cộng Sản đang dâng tràn từ phương Bắc.
Thế nhưng anh em ông Diệm và các ông tu sĩ Da-tô không nhớ lời quan thày Mỹ đã dặn rằng đừng quá trớn. Vì thế họ mới hăng say theo đuổi chính sách Ki-tô hóa miền Nam bằng bạo lực, tàn sát hơn 300 ngàn người dân không chịu theo đạo Da-tô ở những vùng hẻo lánh xa Sàigòn, và công khai bách hại Phật giáo ở ngay cố đô Huế, ở ngay Sàigòn và ở nhiều nơi khác trên toàn lãnh thố, Vì thế chính phủ Mỹ mới ra lệnh cho ông Đại Sứ Frederick Nolting đến Dinh Gia Long ra chỉ thị cho ông Tổng Thống Da-tô Ngô Đình Diệm phải ngưng tức khắc chính sách bách hại Phật Giáo và không được tiến hành kế hoạch Ki-tô hóa nhân dân miền Nam bằng bạo lực nũa. Do đó mới có chuyện ông Diệm nói với ông Đại Sứ Hoa Kỳ Frederick Nolting rằng: “Chúng tôi không muốn thành một xứ bảo hộ của Hoa Kỳ.”
Sự thật rõ ràng là như vậy, mà cả ông Da-tô Tú Gàn, tức Lữ Giang, tức cựu thẩm phán Nguyễn Cần lại không nhìn ra. Phải chăng vì thiếu thông minh hay vì không học quốc sử và không học lich sử thế giới, cho nên ông ta mới không nhìn ra vấn đề này? Dù là ở vào trường hợp nào đi nữa, trong thực tế, ông Tú Gàn cũng ở vào tình trạng chậm hiều về cái thân phận của ông Da-tô Ngô Đình Diệm, và chính ông Da-tô Ngô Đình Diệm cũng thiếu thông minh, cho nên mới không nhìn ra cái thân phận của ông trong những năm 1954-1963 không khác gì thân phận của Lê Chiêu Thống vào cuối năm Mậu Thân 1788. Hậu quả là anh em ông đã phải đền tội trước nhân dân Sàigòn vào sáng ngày 2/11/1963.
Nếu năm 1889, người Pháp có thể đưa Thành Thái lên làm vua bù nhìn tại triều đình Huế để làm cảnh trang tri cho nền thống trị của họ ở Việt Nam, thì năm 1907 họ cũng có thể phế bỏ ông ta khi thấy rằng ông ta trở mòi nghe lời xúi giục của thằng Việt gian Ca-tô Ngô Đình Khả ngã theo Vatican chống lại người Pháp trong mưu đồ giành thế thượng phong trong bộ máy cai trị tại Việt Nam. Tương tự như vậy, nếu năm 1954, người Mỹ đã có thể đưa tên phản thần tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm lên cầm quyền ở miền Nam để làm tay sai cho họ trong nhu cầu biến miền Nam thành tiền đồn chống Cộng ở Đông Nam Á, thì năm 1963, họ cũng có thế lôi ông xuống hay khử diệt ông khi họ thấy rằng ông đã tỏ ra khăng khăng chỉ biết phục vụ cho quyền lợi của Vatican mà bất cần đến uy tín và quyền lợi của họ, đúng như lời Giáo-sư Lý Chánh Trung ghi nhận:
“ông đã tưởng mình có thể nhẩy vào vòng tay người Mỹ trong một giai đoạn ngặt nghèo rồi thoát khỏi vòng tay đó khi tình hình sáng sủa hơn, ông đã tưởng có thể chấp nhận làm con cờ trong một ván cờ rồi ngay trong ván cờ đó, có thể tự động đi một nước cờ riêng của ông.
Khi ông nhìn thấy đó chỉ là ảo tưởng thì đã quá trễ: Ông đã chết vì ảo tưởng đó. Và cái chết bi thảm của ông cho thấy một sự thật hết sức tầm thường: Không một con cờ nào có thể tự động đi một nước cờ cho riêng nó, dầu con cờ đó mang tên Ngô Đình Diệm, và không một nước nhỏ nào có thể lợi dụng một nước lớn, nhất là nước đó mang tên Hoa Kỳ.” [xi]
Nguyễn Mạnh Quang
[Trích từ tác phẩm Lịch sử và Hồ sơ Tội ác của Giáo hội Công giáo La Mã, Phần 5, Mục VIII]
Cước chú:
i. Nguyễn Xuân Thọ. Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam 1858-1897 (Santa Ana, CA: Tác giả xuất bản, 1998, trang 17, 86-87 và 361.
ii. Stanley Karnow, Vietnam: A History (New York: Viking Press, 1983), p 217.
iii. Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled, Vol. II (New York: Frederich A. Praefer, 1967) pp, 846-848.
iv. Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Wesminster, California: Văn Nghệ, 1993), trang 87-91.
v. Lê Hữu Dản,. Sự Thật - Đặc San Xuân Đinh Sửu 1997 (Fremont, Calìornia, 1997), trang 23-24.
vi. Hoàng Cơ Thụy, Việt Sử Khảo Luận - Cuốn 5 (Paris: Nam Á, 2002), tr. 2621-22.
vii. Đại Mạc. “Bảo Đại Đời Tư Và Đời Công" Người Dân số 77 tháng 1/997.
viii. Lê Hữu Dản. Bđd., tr 27.
ix. Tú Gàn. “Ra Lệnh Đảo Chánh” Sàigòn Nhỏ, Số 568, phát ngày ngày 2/22/2007, phổ biến trên nhóm điện thư SAIGON_9 ngày1/11/2007.
x. Hoa Bằng, Quang Trung Nguyễn Huệ Anh Hùng Dân Tộc 1788-1792 (Glendale, CA: Đại Nam, không đề năm xuất bản), tr.171.
xi. Lý Chánh Trung, Những Ngày Buồn Nôn (Sàigòn: Đối Diện, 1971), tr. 137.
Truyền thống tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm:
Thấy Tây thì chạy theo Tây; Phong kiến thì cũng có luôn; Thấy Nhật thì chạy theo Nhật; Thấy Việt Minh mạnh thì chạy theo ông Hồ:
Sau đây là "Lời Đề" của 3 nhà tiền bối cho sách "CHÍN NĂM MÁU LỬA DƯỚI CHẾ ĐỘ GIA ĐÌNH TRỊ NGÔ ĐÌNH DIỆM" của hai soạn giả Nguyệt Đam và Thần Phong, xuất bản năm 1964 như sau:
1) "LỜI ĐỀ CỦA CỤ TUẦN PHỦ TRÍ SĨ VŨ CÚC SƠN
Được biết ông Ngô Đình Diệm, trong khi qua lại chốn Thần kinh, tôi vẫn thường nghe nói nhiều vềnhững hành động của ông, khi ông còn đương tại chức, nhất là trong hồi ông làm Tuần Vũ và hồi ông được thăng chức Thượng thư tại Triều Đình Huế .
Sau khi bị Phạm Quỳnh đàn hặc và bị về nghỉ, ông Diệm có tới thăm tôi tại Hà Tĩnh, và phàn nàn về sự"dữ nhân quả hợp" của ông. Tôi có an ủi ông "nên tạm lánh mình về chốn điền viên, cho được an nhàn tâm trí. Công danh phú quý chẳng qua cũng như giấc mộng kê vàng, theo đuổi mãi mà chi".
Nhưng ông không nghe, và chẳng bao lâu, tôi lại được tin ông qua Bắc Sơn, tìm đến yết kiến Hồ Chí Minh, rồi bị bắt giam tại Tuyên Quang. Tai vạ này thực là do ông tạo ra vậy!
Sau này, khi ông ở hải ngoại về, đảm nhiệm chức Tổng Thống. Tuy tôi không có dịp được gặp ông, nhưng vẫn thường theo dõi về cuộc đời thăng trầm của ông. Tôi đã được tin ông bị bắn hụt tại Ban Mê Thuột; bị đả đảo năm 1960; bị nã bom năm 1962; rồi đến lần đảo chánh năm 1963, lật đổ chế độ độc tài, để kết thúc cuộc đời của ông.
Đó, sự quá tham vọng của ông đã gây cho ông cái chết thê thảm, để đền tội trước nhân quần, xã hội.
Tuần Phủ Trí Sĩ
VŨ CÚC SƠN"
2) "LỜI ĐỀ CỦA CỤ CỬ NHÂN, THƯỢNG-THƯ TRÍ-SĨ PHẠM VĂN HANH
Đành rằng "đối với người đã khuất thì không nên nói đến". Nhưng đây, trong việc sưu tầm tài liệu, ghi vào sử sách lưu lại về sau, lẽ tất nhiên chúng ta phải giữ gìn chuyện cũ, bổ khuyết những chuyện nghi ngờ, ngõ hầu có thể giúp ích, một phần nào, cho mai hậu, trong việc khảo cứu về chuyện cũ nước nhà.
Tôi, lúc thiếu thời đã từng giong ruổi trong hoạn trường, trên ba mươi năm và đã được quen biết ông Ngô đình Diệm từ lâu. Chẳng những ông với tôi cùng là người miền Trung, lại là chỗ đồng liêu. Nên tôi đã có dịp nhận xét riêng về tính tình của ông, và thành tích của gia đình ông.
Nay được đọc qua bản thảo của cuốn "Chín năm máu lửa" nói về gia đình họ Ngô, tôi đã nhận thấy những lời ghi chép về ông, về gia đình ông, rất phù hợp với những điều mà tôi đã được mắt thấy tai nghe. Nhưvậy, đủ tỏ rằng đây là một ngòi bút đáng tin cậy, không còn nghi ngờ gì nữa.
Sự thất bại quá nặng nề của ông Ngô Đình Diệm và anh em ông âu cũng là hậu quả tai hại của những con người "làm sự bất nghĩa, tất nhiên phải đến chỗ chết", đúng với câu chữ hán (1) của các bậc hiền triết đời xưa: "Đa hành bất nghĩa tất tự tế" (Làm nhiều điều bất nghĩa, tức là tự giết mình - TQD dịch). Đó, cũng là một lẽ đương nhiên của con Tạo đã an bài. (2)
Lão Tẩu: Cử nhân, Thượng Thư Trí Sĩ -
PHẠM VĂN HANH"
Chú thích của TQD:
1) Chữ Hán? Đối với bài thơ "Sông Núi", cho là của Lý Thường Kiệt trong chiến tranh Việt - Tống năm 1076; Hịch chống quân Nguyên, và Binh Thư Yếu Lược của Trần Hưng Đạo; Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi; Hịch của Quang Trung Hoàng Đế hiệu triệu đánh quân Mãn Thanh và; Chúng ta có sửdụng dưới hình thức nào thì, đó, được xem như là "CHIẾN LỢI PHẨM" (từ của ông Charlie Nguyễn).
2) Chỗ mà nhân sinh "bó tay" về những hiện tượng Thiên Nhiên, Con Người, nói chung là Vạn Vật, thì, người ta thường dùng thán từ: "Tạo hóa an bài".
3) "LỜI ĐỀ CỦA CỤ VĂN TRAI, NGUYỄN KINH LỊCH
Ty Hiến Sát sứ Qui Nhơn (Trung Việt)
Trong hồi ông Ngô Đình Diệm làm Tuần Vũ Bình Thuận, được Khâm sứ Thibaudeau đặc cách triệu về Huế, cho đảm nhiệm chức Thượng Thư Bộ Lại, thì tôi hiện đương giúp việc tại Bộ Hộ. Nên đã được biết ông Diệm, và thường được nghe nói về ông nhiều.
Nay tôi đã ngoài 70 tuổi (vào năm 1964! - tqd). Những hành vi của ông Diệm, từ hồi ở nước ngoài về làm Tổng Thống, cho đến ngày nay, tôi vì già yếu, ít đi, ít nghe ông được rõ lắm.
Nay tôi đọc qua bản thảo cuốn "Chín năm máu lửa" trong chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm, tôi nhận thấy cuốn sách này đã nói lên được tất cả những thủ đoạn gian hùng của ông Diệm và anh em ông. Ngoài các chi tiết lặt vặt không đáng kể, cuốn sách này, đã ghi đúng những điều mà tôi đã mắt thấy tai nghe, trong khi làm việc gần ông Diệm.
Cuốn "Chín năm máu lửa" này thực là một cuốn sách đáng tin cậy và có thể giúp ích cho các nhà viết sử sau này muốn sưu tầm dấu vết của gia đình họ Ngô. Tôi xin trân trọng đề lời giới thiệu.
VĂN TRAI
LÀNG VÂN-THẾ THỪA-THIÊN"
Giám Mục NGÔ ĐÌNH THỤC: Thư Gửi Toàn Quyền Đông Dương Bùi Kha http://sachhiem.net/BUIKHA/BuiKha8.php THƯ GIÁM MỤC NGÔ ĐÌNH THỤC
Ảnh http://dcvonline.net/2013/05/21/vu-ngu-chieu-nhung-nghien-cuu-lich-su-lien-quan-den-ho-chi-minh/ Bản đánh máy lại và bản dịch theo sau.[Theo Tuyển Tập "1963-2013 Năm Mươi Năm Nhìn Lại" (2013), trang 94: "Tài liệu Pháp ngữ dưới đây do Tiến sĩ Vũ Ngự Chiêu phát hiện trong lúc ông nghiên cứu tại Trung Tâm Văn Khố Hải Ngoại (CAOM, Aix-en-Provence, Pháp) và được phổ biến lần đầu tiên trên Tạp chí Lên Đường (Houston, Texas) năm 1989"]. Vicariat Apostolique de Vinh Long (Cochinchine) Vinh Long, le 21 Aout 1944 Amiral, Je viens d’apprendre par un prêtre de ma Mission, envoyé à Saigon pour les affaires du séminaire, que deux de mes frères ont été l’objet de poursuites judiciaires à Hué. N’ayant recu de Hué depuis longtemps aucune nouvelle, je ne sais si ce qu’on m’a rapporté corespondait à la vérité. Mais, en pensant a la peine immense et à la juste indignation que vous avez du éprouvées, si ce qu’on leur imposait était fondé, je m’empresse de vous écrire, pour vous exprimer, Amiral, ma grande douleur en l’occurence.S’il était prouvé que leur activité a pu nuire aux intérêts de la France, je la désapprouve du fond du coeur, comme évêque, comme annamite, et comme membre d’une famille dont le père a servi la France dès sa première venue en Annam et a exposé maintes fois sa vie pour elle dans les expéditions memées, comme lieutenant de Nguyễn Thân, contre les rebelles commandés par Phan Đình Phùng à Nghệ An et Hà Tịnh. Cette déclaration n’a pas pour but, Amiral, de sauvegarder ma situation personnelle: car ce sera avec joie que je quitterai mon évêché si tôt qu’il sera constaté que mon humble personne pourrait porter préjudice aux intérêts de la Religion.Elle n’a pour objet que de vous montrer que vous n’avez pas accordé votre bienveillante confiance à un indigne ou à un ingrat. Amiral, je n’ai jamais tant regretté mon éloignement de Hué. Là j’aurais pu mieux conseiller mes frères et, à, l’occasion, m’opposer à leur desseins, si vraiment ils en ont concu de nuisibles aux intérêts de la France . Je puis hélas me tromper, mais je vous confesse, Amiral, que je ne puis croire, jusqu’à preuve du contraire, qu’ils se sont montrés si rebelles aus traditions de notre famille, qui s’était attachée à la France dès le début, tandis que les aieux et les pères des mandarins actuels, presque tous, combattaient contre elle, et ne s’étaient décidés pour elle que lorsqu’il n’avait plus que profit à le faire.Mes frères eux-mêmes ont exposé leur vie continuellement pour la France lors de la révolte communiste. Mon cadet Diệm a failli tomber sous les coups de révolver d’un chinois de Cholon envoyé à cet effet à Phan Rang où Diệm défendait énergiquement l’entrée de l’Annam aux émissaires communistes envoyés de la Cochinchine. Certes, leur dévouement dans le passé n’est pas l’excuse de leur imprudences actuelles; s’il est prouvé qu’elle est coupable. Mais je crois ne pas faire en vain appel à votre miséricordieuse clémence en leur faveur, qui juge du présent sans pourtant oublier le passé. Celà en considération des services que mon père Ngô Đình Khả a eu l’honneur de rendre à la France au péril de sa vie, et de la longue conduite de mes frères faite d’un dévouement sans bornes à la France , sans peur de sacrifier leur vie pour elle.En vous exprimant de nouveau, Amiral, toute la douleur que je ressens dans cette affaire, je vous prie d’agréer mes hommages les plus respectueux. NGO DINH THUC Bản dịch lá thư: Tòa Truyền Giáo Vĩnh Long ngày 21/8/1944 Thưa Đô Đốc, Một linh mục từ bổn Tòa được phái đi Sài Gòn để lo việc cho chủng viện vừa cho tôi biết rằng hai người em của tôi đang bị truy tố tại Huế. Vì đã lâu không nhận được tin tức gì từ Huế, tôi không biết là điều tôi vừa được báo cáo có đúng sự thực hay không. Tuy nhiên, nghĩ đến nỗi đau đớn và sự bất nhẫn rất đúng mà chắc là Đô Đốc đã cảm thấy – nếu sự truy tố các em tôi là có thật, tôi vội viết thư này để bày tỏ với Đô Đốc nỗi đau đớn lớn lao của tôi về việc này. Nếu hoạt động của hai em tôi được chứng tỏ là có hại cho quyền lợi nước Pháp thì – với tư cách của một Giám mục, của một người An-nam,và với tư cách là người con của một gia đình mà thân phụ tôi đã phục vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An-nam, và đã nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy, tại Nghệ-an và Hà-tịnh – tôi, tự đáy lòng, không chấp nhận [hoạt động của các em tôi]. Thưa Đô Đốc, tôi tuyên bố như vậy không phải với mục đích bảo toàn địa vị cá nhân của tôi: bởi vì nếu xét rằng cá nhân hèn mọn của tôi có thể phương hại đến quyền lợi của đạo [Thiên Chúa], tôi sẽ vui vẻ rời khỏi Tòa Giám mục nầy ngay. Lời tuyên bố của tôi chỉ có mục đích là tỏ cho Đô Đốc thấy rằng lòng tin tưởng trìu mến của Đô Đốc [đối với tôi] đã không bị đặt vào một kẻ bất xứng hay vô ơn. Thưa Đô Đốc, tôi chưa bao giờ tiếc là đã xa Huế như thế nầy. Giá có mặt ở đấy thì tôi đã có thể khuyên răn các em tôi tốt hơn, và khi chuyện xẩy đến tôi đã có thể chống lại các chủ đích của các em tôi, nếu quả thật các em tôi có nghĩ đến những dự định có thể gây hại cho quyền lợi nước Pháp. Có thể tôi lầm, tuy nhiên, thưa Đô Đốc, tôi xin thú thực là không tin – cho đến khi được chứng minh ngược lại – rằng các em tôi đã phản lại truyền thống của gia đình chúng tôi đến như thế, một gia đình đã tự mình gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu, trong khi ông cha của những quan lại bây giờ hầu hết đều chống lại Pháp và chỉ quyết định thiên về Pháp khi thấy có lợi. Ngay chính các em tôi đã từng liên tục đưa mạng sống ra vì nước Pháp, trong cuộc nổi loạn của Cộng Sản. Diệm, người em kế tôi, suýt đã phải ngã gục dưới những phát súng của một Hoa kiều Chợ Lớn được phái đến Phan-rang với mục đích hại Diệm, Phan-rang là nơi mà Diệm đã mãnh liệt chống giữ lối xâm nhập vào An-nam của các cán bộ Cộng Sản từ Nam Kỳ phái đến. Lẽ tất nhiên, sự tận tụy của các em tôi trong quá khứ không phải là điều nêu ra để làm cớ mà biện hộ cho hoạt động bất cẩn của họ ngày hôm nay, nếu sự bất cẩn nầy được chứng tỏ là điều đã gây nên tội. Tuy nhiên, tôi không nghĩ là tôi đã làm chuyện vô ích khi kêu gọi đến sự khoan hồng đầy xót thương của Đô Đốc hầu xét với hảo ý trường hợp các em tôi. Đô Đốc không phải là người chỉ xét đến hiện tại mà lại bỏ quên đi quá khứ. Tôi nêu ra điều nầy khi xét thấy rằng thân phụ tôi là Ngô Đình Khả đã từng được vinh dự phục vụ nước Pháp dù sinh mạng bị hiểm nguy, và khi xét đến quá trình lâu dài của các em tôi, một quá trình được hình thành bằng lòng tận tụy vô bờ của các em tôi đối với nước Pháp, mà không sợ phải hy sinh mạng sống của mình cho nước Pháp. Thưa Đô Đốc, một lần nữa bày tỏ với Đô Đốc tất cả niềm đau đớn của tôi trong vụ nầy, tôi xin Đô Đốc vui lòng nhận nơi đây lời kính chào trân trọng nhất của tôi. NGÔ ĐÌNH THỤC Mời đọc thêm: TAM ĐẠI VIỆT GIAN DÒNG HỌ NGÔ ĐÌNH DIỆM Ngòai việc làm tay sai cho Pháp đã được Giám Mục Ngô Đình Thục thuật lại khá rõ trong lá thư nói trên, lịch sử còn cho thấy rằng ông Ngô Đình Khả, thân sinh ông Diệm, đã cùng với tên Việt-gian Nguyễn Thân đào mã và đốt xác vị anh hùng ái quốc Phan Đình Phùng, rồi lấy tro trộn với thuốc súng mà bắn cho hả giận. http://www.giaodiem.com/doithoaiIII/09_buikha-ndd.htm ĐÂY LÀ NHỮNG "CHIẾN CÔNG" CỦA CÁC QUAN LÀM VIỆC CHO THỰC DÂN. ![]() HỎI AI KHÔNG SÔI MÁU NÓNG THƯƠNG DÂN MÌNH ? - CHỈ CÓ NHỮNG TÊN VIỆT GIAN MỚI NHẪN TÂM QUAY MẶT VỚI CĂM HỜN !!! http://www.chuyenluan.net/200311/LichSu/BK_NDDiem.htm |
Giám Mục NGÔ ĐÌNH THỤC - Thư Gửi Toàn Quyền Đông Dương:
TỘI ÁC CỦA CÔNG GIÁO LA MÃ
QUA VỤ TIÊU DIỆT TIN LÀNH WALDENSIANS
(BÀI I)
†††††††††††

BỨC TƯỢNG KỶ NIỆM PETER WALDO
LUTHER MEMORIAL, WORMS, GERMANY
(Waldensian Evangelical Church)
†††††††††††
Trong thiên niên kỷ thứ nhất, Đại đế Theodosius I, là vị Hoàng Đế La Mã cuối cùng trị vì một lãnh thổ mênh mông, từ năm 379 tới năm 395, bao gồm cả hai đế quốc phong kiến là Đông La Mã và Tây La Mã, đã chọn Công Giáo La Mã làm quốc giáo. Sau khi được chọn làm quốc giáo, Công Giáo La Mã bắt đầu tiên diệt các tôn giáo khác1. Công Giáo La Mã đã dựa trên đức tin của họ, cho rằng Đức Chúa Trời là đấng tối cao trong vũ trụ, là đấng tạo ra vũ trụ, tạo ra con người, và tạo ra vạn hữu… không có một đấng giáo chủ nào cao hơn Thiên Chúa, không có một quyền lực nào trong vũ trụ cao hơn quyền lực của Thiên Chúa. Và nhất là đứng về phương diện chủ nghĩa độc tôn, Công Giáo La Mã cho rằng: “Chỉ có đạo Công Giáo La Mã là một chánh đạo duy nhất, tất cả các đạo giáo khác đều là tà đạo, là đạo thờ ma thờ quỷ…”2
Khi nói đạo thờ ma thờ quỷ, Công Giáo La Mã muốn chỉ thẳng vào đạo Pagan. Pagan là một tôn giáo lớn. Tôn giáo này một thời đã có mặt khắp nơi trên thế giới. Từ ngữ Pagan bắt nguồn từ Âu châu, trước khi đạo Thiên Chúa xuất hiện. Người đạo Pagan có tập tục thờ cúng ông bà và các tập tục khác như đồng bóng, phù thủy… Pagan cũng là đạo thờ cúng ông bà tại Á châu. Từ ngữ “Pagan” có nguồn gốc từ chữ La Tinh là “Paganus”. Sau khi được nhận làm quốc giáo, Công giáo La Mã bắt đầu tiêu diệt đạo Pagan. Công Giáo La Mã đã nhiều lần tiêu diệt đạo Pagan Âu châu. Sự tiêu diệt đạo Pagan Âu châu được chia ra thành nhiều giai đoạn.
Giai đoạn năm 313-391: Pagan giáo tại Âu châu và Ki-tô giáo là những tôn giáo hợp pháp, với các tín đồ tuân thủ quyền lực của đế quốc La Mã. Giai đoạn chuyển tiếp còn được gọi là “chuyển tiếp Constantinian” (Constantinian shift). Năm 380, Theodosius I biến “Ki-tô Nicene” (Nicene Christianity), thành “Quốc Giáo Đế Quốc La Mã” (state church of the Roman Empire). Đạo Pagan được dung nạp thêm 12 năm cho đến năm 392. Năm 392, Theodosius ra luật cấm tất cả mọi hình thức thờ cúng. Bắt đầu từ thời điểm này, Pagan càng lúc càng bị đàn áp. Sự đàn áp kéo dài suốt thế kỷ thứ V. Việc đóng cửa học viện “Tân Platon” (Neoplatonic Academy) do nghị định của Justinian I năm 529, đánh dấu điểm kết thúc đạo Pagan cổ La Mã. Sự chuyễn tiếp từ Pagan cổ La Mã (Classical Antiquity) thành Pagan trung cổ (Middle Ages) gọi là Pagan cận đại (Late Antiquity)4.
Sang thiên niên kỷ thứ hai, thành phần bị tiêu diệt kế tiếp không phải thành phần xa lạ nào khác, mà chính là những người Công Giáo La Mã trong các phong trào cải cách Waldensians.
Theo Mục Sư Nguyễn Hữu Ninh, ngay cả đạo Công Giáo La Mã cũng không phải là đạo Thiên Chúa thuần túy, mà Công Giáo La Mã là một tổng hợp, bao gồm 1/3 đạo Công Giáo La Mã, còn lại gồm 1/3 đạo Do Thái (Jdaism) và 1/3 là đạo Paganism (Thờ Cúng Ông Bà)2.
NGUYÊN DO ĐƯA TỚI CÁC PHONG TRÀO CẢI CÁCH WALDENSIANS
Waldensians, Waldenses, Vallenses hoặc Vaudois… tất cả những từ ngữ nầy đều là những cái tên gọi, tuy phát âm khác nhau, nhưng tất cả đều nhắm vào một phong trào cải cách Công Giáo La Mã, bắt đầu ở Lyon, nước Pháp, rồi lan tràn nhanh chóng đến dãy Cottian Alps vào cuối thập niên 1170. Người khởi xướng phong trào là Peter Waldo, mà những bài giãng thuyết của Waldo đã gắn liền với phúc âm một cách tài tình, đã dẫn tới sự xung đột trong nội bộ giáo hội Công Giáo La Mã. Vì các con chiên Công Giáo La Mã không có quyền học Kinh Thánh, mà Kinh Thánh chỉ dành riêng cho các giáo phẩm đọc và giãng theo lời phán của Vatican. Tình trạng này kéo dài cho tới sau cộng đồng Vatican II (1962-1965)2, Vatican mới khuyến khích các con chiên đọc kinh thánh2. Năm 1215, những người trong Giáo Hội Waldensian bị Tòa Thánh La Mã bắt đầu lên án là “Dị Giáo” và họ bắt đầu bị trừng trị.
Trong cuộc cải cách, các nhà lãnh đạo Waldensians gia nhập giáo hội cải cách. Và do đó phong trào cải cách thông qua rất nhiều giáo lý Calvin, và những người theo giáo lý Calvin trở thành giáo phái Tin Lành.
Hiện nay, các giáo đoàn Calvin vẫn còn hoạt động ở châu Âu, ở Nam Mỹ, và ở Bắc Mỹ. Hầu hết dưới danh hiệu Giáo Hội Tin Lành Waldensian (Waldensian Evangelical Church). Các tổ chức, chẳng hạn như tổ chức của “Hội Waldensian Mỹ” (the American Waldensian Society), tồn tại để duy trì lịch sử và phong trào cải cách của giáo hội, với mục tiêu tuyên bố: “Loan báo tin mừng phúc âm Thiên Chúa, phục vụ ngoại lệ, thúc đẩy công bằng xã hội, bồi dưỡng công tác liên tôn, tôn trọng sự đa dạng của tôn giáo, và tôn trọng tự do tư tưởng”.
Theo khẩu truyền, Waldo đã tự nguyện từ bỏ tài sản của ông, ra đi để giúp đời bằng cách rao giãng Phúc Âm Thiên Chúa theo sự hiểu biết của ông. Vì Giáo Hội Waldensian xa lánh sự giàu có mà các giáo sĩ thuộc “Giáo Hội Công Giáo La Mã” đang thụ hưởng, phong trào cải cách “Giáo Hội Waldensian” đã được Giáo Hội Công Giáo La Mã coi như là những người bần tiện của Lyon và của Lombardy (The Poor of Lyon and The Poor of Lombardy), mà theo Mục Sư Nguyễn Hữu Ninh, Giáo Hội Công Giáo La Mã là một giáo hội phong phú và giàu có nhất, nhiều quyền lực nhất trên thế giới. Vì túi tham không bao giờ đầy cho nên họ vẫn còn tham vọng chinh phục và thống trị thế giới nữa.
Phong trào cải cách của Giáo Hội Waldensian đặc biệt khởi đầu bằng rao giảng phúc âm, tự nguyện bước vào cuộc sống nghèo nàn, và theo sát một cách nghiêm nhặt Kinh Thánh. Giữa năm 1175-1185, Peter Waldo, hoặc đưa một giáo sĩ từ Lyons đến dịch Kinh Thánh Tân Ước sang tiếng bản xứ tại những nơi mà Giáo Hội Waldensian rao giãng, hoặc dịch ra tiếng Arpitan (Franco-Provençal), hoặc chính ông đã thực hiện công tác dịch thuật này.
Năm 1179, Waldo và một trong các môn đệ đi đến Rome. Tại Rome, họ được Giáo Hoàng Alexander III và Giáo Triều Rôma đón tiếp. Tuy nhiên sau đó Waldo đã bị bắt buộc phải giải thích đức tin của ông trước một hội đồng gồm ba giáo sĩ, bao gồm các vấn đề mà sau này đã được tranh luận liên tục trong Giáo Hội La Mã. Chẳng hạn như chức linh mục phổ quát, phúc âm trong ngôn từ thô tục, và vấn đề tự nguyện nghèo đói… Kết quả của cuộc tranh luận không đi tới đâu cả, và những ý tưởng của Waldo, không phải là phong trào Waldo, đã bị kết án tại hội đồng Lateran III cùng năm, mặc dù lúc này các nhà lãnh đạo Giáo Hội Waldensian của phong trào vẫn chưa bị “rút phép thông công”.
Giáo Hội Waldensian không vâng lời Vatican và tiếp tục rao giảng đức tin theo sự hiểu biết của mình về Kinh Thánh. Đầu thập niên 1180, Waldo và những người theo ông đã bị “tuyệt thông” (excommunicated). Họ bị buộc phải rời khỏi Lyon. Giáo Hội Công Giáo La Mã tuyên bố Waldo và những người theo Waldo là “Dị Giáo” (heretics). Vatican buộc tội Waldo và Giáo Hội Waldensian khinh miệt quyền lực của Giáo Hội Công Giáo La Mã, và cực lực chỉ trích Giáo Hội Waldensian đã vi phạm đầy dẫy các sai lầm (theo Mục Sư Nguyễn Hữu Ninh, tất cả những gì các nhà truyền giáo làm ở bên ngoài Giáo Hội Công Giáo La Mã làm đều là lạc giáo, tà giáo (heretics)2.
Để đối phó với tình trạng bị kết án một cách bức bách, Waldo và những người theo ông đã phát triển một hệ thống đặc biệt để rao giãng phúc âm bằng một hệ thống bí mật. Theo hệ thống bí mật này, họ sẽ đi từ thị trấn đến thị trấn để họp bí mật với các nhóm nhỏ Waldensians. Ở đó, họ sẽ làm lễ xưng tội và các thánh lễ khác. Các mục sư Waldensians đi từ thị trấn này tới thị trấn khác được gọi là “Barba”. Các mhóm sẽ giúp để giấu các Barba và sắp xếp gìn giữ an toàn trong khi duy chuyển giữa các thị trấn, và sự di chuyển cũng tuyệt đối được giữ bí mật.
Trong thời gian hoạt động ngầm, có lẽ Waldo đã chết trong những năm đầu của thế kỷ thứ XIII tại Đức, nhưng ông chưa bao giờ bị bắt, và số phận của ông cho tới nay vẫn chưa có ai biết.
Những người trong Giáo Hội Waldensian lúc đầu được chia thành ba loại hoạt động: Loại Sandaliati (thường được gọi là người đi dày sandals). Những người này là những người đã nhận chức thánh và đã chứng minh lý thuyết dị giáo (heresiarchs) của Công Giáo La Mã là sai; Loại Doctores, người hướng dẫn và đào tạo các nhà truyền giáo, và Novellani, người rao giảng cho số đông quần chúng. Những người này còn được gọi là Insabbatati, Sabati, Inzabbatati Sabotiers, căn cứ theo các loại giày bất thường làm bằng gỗ (một loại guốc), mà họ đã sử dụng như đôi dép.
Phần lớn những đều được biết về những năm đầu của Giáo Hội Waldensian xuất phát từ các báo cáo, như báo cáo của các nghiệp vụ: Đức tin Valdo của Lyon (1180); Durando d'Osca Liber antiheresis (1187-1200); và hội nghị Rescriptum Bergamo (1218). Một số các văn bản khác trước đây cũng chứng thực lịch sử của Giáo Hội Waldensian, như: Ý muốn của Stefano d'Anse (1187); Manifestatio haeresis Albigensium et Lugdunensium (1206-1208); Biên niên sử của Anonymous Laon (1220). Một nguồn tài liệu khác của Reinerius Saccho, một cựu “Cathar” (Cathar là một tôn giáo tại Âu châu bị Công Giáo La Mã cho là Dị Giáo), chết năm 1259, cải đạo sang Công Giáo La Mã và đã viết hai báo cáo cho Toà Án Dị Giáo La Mã, bài viết mang tên “Summa de Catharis et de Pauperibus Lugduno”, có nghĩa là người bần cùng của Lyons (1254).
Một số người Tin Lành đầu tiên cảm thấy có một sự gắn bó tinh thần với Giáo Hội Waldensian và viết một cách tích cực về Giáo Hội Waldensian. Thí dụ John Milton đã viết bài "Cuộc Thảm Sát Cuối Cùng Piedmont" để mô tả vụ thảm sát và đàn áp người trong Giáo Hội Waldensian.
Một số tác giả như Anabaptists và Baptists đã vạch ra cho biết người trong Giáo Hội Waldensian là một ví dụ của các người đạo Thiên Chúa nguyên thủy, không phải là một phần của Giáo Hội Công Giáo La Mã, và tổ chức tín ngưỡng mà họ hiểu cũng là nguyên thủy. Thế kỷ thứ XVIII và XIX, các nhà văn Hòa Lan và Đức Mennonites, như van Braght (sách Martyrs Mirror 1660), S.B. Cate (sách Geschiedkundig Onderzock) liên kết nguồn gốc sự rửa tội với Waldensian. Tác giả như John L. Waller cũng đã liên kết nguồn gốc của họ với Waldensian. Ngày nay, theo Linh Mục Nguyễn Hữu Ninh, 2/3 giáo lý của Công Giáo La Mã đã là “Dị Giáo”2, vì vậy có lẽ giáo phái Waldensian là một giáo phái đầu tiên thấy được “chân tướng của Công Giáo La Mã là Dị Giáo”!
James Aitken Wylie (1808-1890) tin rằng Waldensian bảo tồn đức tin tông đồ trong thời Trung Cổ. Sau đó, Cơ Đốc Phục Lâm (Seventh-day Adventist) Ellen G. White dạy rằng Waldenses là người bảo quản chân lý Kinh Thánh trong Bội Giáo (Great Apostasy) vĩ đại của Giáo Hội Công Giáo La Mã. Bà tin rằng Waldenses giữ ngày Sa-bát (seventh-day Sabbath) ngày thứ bảy, tham gia vào hoạt động truyền giáo rộng rãi, và "gieo trồng hạt giống cải cách" đầu tiên tại Âu châu.
Học giả Michael W. Homer liên kết niềm tin vào một nguồn gốc cổ đại Waldensians đến ba mục sư thế kỷ thứ XVII, là Jean-Paul Perrin của Giáo hội Cải cách Pháp và mục sư Waldensian Pierre Gilles và Jean Léger, người thừa nhận Waldensian là truyền thừa nguyên thủy của Kitô giáo.
Một số tác giả cố gắng chứng minh năm tháng khởi đầu phong trào cải cách Waldensian vào thời Trung Cổ là năm 1120 để khẳng định rằng phong trào cải cách Waldensian dựa trên căn bảo giáo lý Ki-tô nguyên thủy. Tuy nhiên, cũng có người cho rằng bằng chứng lịch sử cho thấy phong trào cải cách Waldensian được soạn thảo vào năm 1531.
Những người trong giáo phái Waldensian tổ chức và giãng dạy một số sự thật mà họ tìm được trong Kinh Thánh. Một số trong số những sự thật đó là: Sự sụp đổ của con người (the fall of man); Sự đầu thai (incarnation) của con người; từ chối chuộc tội (purgatory) và cho chuộc tội là một sáng chế của những người chống Thiên Chúa; và giá trị của sự tình nguyện sống một đời sống nghèo nàn.
Họ cho rằng... chân giá trị không có nghĩa là rao giảng Tin Mừng; rằng các di tích chỉ là đống xương tàn áp đảo sự hiểu biết của con người, mà không phải là con người; phục vụ con người không bao giờ đi tới điểm kết thúc, được cất trong cái túi trống rỗng của con người; miếng thịt có thể ăn bất cứ ngày nào nếu người ăn phục vụ Thiên Chúa; nước thánh không có hiệu quả hơn nước mưa; cầu nguyện trong nhà kho cũng có hiệu quả giống như cầu nguyện trong một thánh đường. Cho tới lúc này, giáo phái Waldensian bị buộc tội nặng nề hơn bao giờ hết. Ngoài tội Dị Giáo, Waldensian còn bị buộc thêm tội chế giễu và thay đổi các học thuyết nguyên bản của Giáo Hội Công Giáo La Mã. Đối với Giáo Hội Công Giáo La Mã, Waldensian lúc này là đỉ điếm trong kinh Khải Huyền.
"LA NOBLA LEYCZON" được viết bằng ngôn ngữ Occitan giữa năm 1190 và 1240, là một mẫu đức tin của Giáo Hội Waldensian thời trung cổ. Mẩu đức tin này đang được cất giữ tại viện bảo tàng đại học Cambridge, Hoa Kỳ.
CUỘC TÀN SÁT GIÁO PHÁI WALDENSIANS BẮT ĐẦU
Cho tới giờ phút này, dưới cái nhìn của Công giáo La Mã, Giáo Hội Waldensian không phải là Ki-tô giáo. Giáo Hội Waldensian được chính thức tuyên bố là “Dị Giáo” do Giáo Hoàng Lucius III năm 1184 tại Thượng Hội Đồng Verona, và Giáo Hoàng Innocent III tại Hội Đồng Lateran IV (Fourth Lateran Council) năm 1215. Năm 1211, hơn 80 giáo dân Waldensian bị thiêu sống với tội danh “Dị Giáo” tại Strasbourg. Sau nhiều thế kỷ tàn sát để tận diệt Giáo Hội Waldensian, Giáo Hội Waldensian gần như bị tiêu diệt hoàn toàn, trừ một số ít trốn thoát chạy sang Mỹ Châu. Một phần di sản của Giáo Hội Waldensian được thế giới công nhận qua tác phẩm của nhà văn Henri Arnaud; và nhà thờ Waldensian tại Ý cũng may mắn đã sống sót cho đến ngày nay.

VATICAN MỞ ĐẦU CUỘC TÀN SÁT BẲNG CÁCH THIÊU SỐNG HƠN 80 TÍN ĐỒ TIN LÀNH WALDENSIANS
Năm 1487, Giáo Hoàng Innocent VIII cũng ban hành một giáo chỉ khác tận diệt “Vaudois”. Alberto de' Capitanei, phó giáo chủ Cremona, đáp lời của Giáo Hoàng Innocent VIII bằng cách tổ chức một cuộc thập tự chinh để hoàn tất quét sạch “Dị Giáo Waldensian” tại các tỉnh Dauphiné và Piedmont. Charles I, Duke of Savoy, cuối cùng can thiệp để cứu vãn vùng lãnh thổ của ông và ông cũng đã hứa với Vaudois là họ sẽ được bảo vệ. Nhưng cuộc tấn công của đoàn quân thập tự chinh vẫn tiếp tục tàn sát và chém giết vào sâu các khu vực của Vaudois. Rất nhiều thành viên của Vaudois phải trốn sang Provence, rồi vào tận miền Nam nước Ý.
Khi tin tức tai biến về cuộc tàn sát bay đến thung lũng Waldensian, các “Tavola Valdese” quyết định tìm kiếm sự liên kết với Giáo Hội Tin Lành Đông Phương (Nascent Protestantism) mới ra đời. Một cuộc họp được tổ chức năm 1526 tại Laus, một thị trấn ở thung lũng Chisone, và họ quyết định gửi phái viên tới để kiểm tra cuộc cải cách. Năm 1532 các thành viên của giáo phái Waldensian gặp những người Tin Lành Đức và Thụy Sĩ, và cuối cùng họ đã tìm thấy giáo phái Waldensian có cùng một niềm tin với Giáo Hội Cải Cách Tin Lành.
Các nhà thờ Cải cách Thụy Sĩ và Pháp gửi William Farel và Anthony Saunier tới tham dự các cuộc họp của Chanforan, được triệu tập vào ngày 12 tháng 10 năm 1532. Farel mời họ tham gia các cuộc họp cải cách và để lại “bí mật”. Một “Confession of Faith”, với học thuyết cải cách, đã được xây dựng và Giáo Hội Waldensian quyết định thờ phượng công khai bằng tiếng Pháp. Kinh Thánh bằng tiếng Pháp được Pierre Robert Olivétan dịch với sự giúp đỡ của Calvin và xuất bản tại Neuchâtel năm 1535, được căn cứ một phần vào Kinh Thánh Tân Ước bằng tiếng bản xứ Waldensian. Chi phí xuất bản được đài thọ bởi các nhà thờ tại Waldensia. Những người tự nguyện đóng góp tấp nập, và cuộc đóng góp thu được một số vàng khổng lồ, tổng cộng 1500 vương miện vàng (với vàng đựng đầy trong các vương miện) để dùng vào mục đích cao cả này.
Ngoài cuộc thiêu sống hơn 80 người thuộc giáo phái Waldensian năm 1211, Giáo Hội Công Giáo La Mã còn thực hiện nhiều vụ tàn sat giáo phái Waldensian tại những nơi khác. Hai nơi khác nỗi bật nhất là cuộc tàn sát Merindol (1545), và cuộc tàn sát Piedmont Easter (1655).
==CÒN TIẾP==
^^^†^^^
NGUỒN: http://en.wikipedia.org/wiki/Waldensians
DuyenSinh
[1] http://en.wikipedia.org/wiki/Theodosius_I
[2] http://vietnameselutheranchurch.net/node/299 (PHẦN I)
http://vietnameselutheranchurch.net/node/308 (PHẦN II)
[3] http://en.wikipedia.org/wiki/Persecution_of_pagans_in_the_late_Roman_Empire
[4] http://en.wikipedia.org/wiki/Historical_pagan#Historical_paganism
[5] http://en.wikipedia.org/wiki/Catholic_Church_and_the_Age_of_Discovery