Thằng phản quốc Ca tô Lữ Giang Tú Gàn lại hồ đồ. PHÁP đã làm mất lãnh hải Việt nam.

8 views
Skip to first unread message

Giác Hạnh

unread,
Mar 11, 2014, 12:59:56 AM3/11/14
to tudo-n...@yahoogroups.com, Tran Quang Dieu, lugia...@yahoo.com, damth...@y7mail.com, vida...@yahoogroups.com, daploi...@yahoogroups.com, dienda...@yahoogroups.com, nghegiao...@gmail.com, giaodie...@yahoo.com, toa...@roadrunner.com
Có lần tôi nói Lữ Giang cũng chính là Vũ Linh Châu. Tôi vẫn còn nghĩ như vậy. Hai người này là một. 

Lữ Giang là một người hoàn toàn đứng về phía lợi ích chính trị Công giáo, gắn liền trực thuộc lợi ích Vatican. Không chỉ với Phật giáo, Lữ Giang cũng chính là tên luôn miệng lên án thành phần Công giáo "làm dân chủ" đòi độc lập khỏi Giáo hội Vatican, cũng như chính tên Lữ Giang này nói rõ Ải Nam Quan là của Tàu.

Như tôi đã nói nhiều lần, lãnh thổ Trung Cộng, hay Vatican chứ Việt Nam, Lữ Giang không hề biết Dân tộc là gì. Con người này đã có tiền án nói láo bị phải xin lỗi do Toà án bắt hắn phải xin lỗi. Đã hơn mấy chục năm qua, con người này nói láo hoàn toàn bất lợi cho tình đoàn kết dân tộc của các thành phần Quốc gia chân chính. Hắn phải bị cộng đồng bảo vệ sự thật của dân tộc ta vạch mặt là đúng. 

Cám ơn Sách Hiếm, Giao Điểm và các anh chị em đồng bào đạo hữu, chiến hữu Quốc gia dân tộc. 

Tại sao phải cám ơn Pháp trong khi chính bọn Công giáo đã chiếm Việt nam. Không có bọn công giáo tay sai Pháp, thì Đại Việt và biên cương lãnh thổ Việt Nam không bị bọn Pháp bàn giao cho Trung Hoa.

Một lần nữa, Lữ Giang lại nói sai, Pháp đã ngang nhiên bàn giao lãnh hải của Việt nam cho Trung Hoa, không có Pháp thì hiệp định lãnh hải Trung Việt năm 1880s không có xãy ra. Phần lãnh hải đó cũng không bị rơi vào tay Trung hoa. 

Giác Hạnh

PHÁP đã làm mất lãnh hải Việt nam. 

Phía người Hoa tìm mọi cách để cản trở người Pháp trong việc « nhìn nhận đường biên giới trên thực địa ». Và họ đã thành công. Cuối cùng ủy ban Pháp phải « đề nghị » với Trung Hoa để hai bên hoạch định biên giới trên bản đồ. Đương nhiên phía người Hoa đồng ý. Và điều hiển nhiên các tấm bản đồ phân định đều do phía người Hoa thành lập. Một điểm chung : các bản đồ này đều vẽ rất sai so với thực tế. Người Hoa đã buộc người Pháp « chơi » trên « sân chơi » của họ. 







Biên giới Việt-Trung - vùng Quảng Đông - Hải Ninh - theo các công ước Pháp-Thanh về biên giới 1887-1895.


Nguyên nhân Việt Nam mất huyện Giang Bình và đất thuộc hai tổng Kiến Duyên và Bát Tràng thuộc tỉnh Hải Ninh.

Vào thời Pháp thuộc, tỉnh Hải Ninh, tức Quảng Ninh hiện nay (xưa là Quảng Yên), có chung biên giới với huyện Khâm Châu , phủ Liêm Châu, thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc (chứ không phải là tỉnh Quảng Tây như hiện nay). Đường biên giới lịch sử này, ngoại trừ ở một số địa điểm cụ thể đã được dân chúng hai nước Việt-Trung công nhận, như các cửa ải, con sông, ngọn núi… phần lớn chiều dài còn lại của nó thì chưa bao giờ được xác định rõ rệt. Chỉ sau khi toàn cõi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, năm 1884, đường biên giới lịch sử này mới trở thành đường biên giới qui ước, có giá trị pháp lý. Đó là nhờ ở các công trình phân định biên giới giữa nhà nước thực dân Pháp và triều đình nhà Thanh, qua hai công ước Phân định biên giới năm 1887 và công ước bổ túc về biên giới năm 1895. Công trình phân định , phân giới và cắm mốc phải mất 12 năm, từ năm 1885 đến năm 1897. 

Đây là đoạn biên giới ngắn nhất, nhưng đã gây nhiều tranh chấp nhất, giữa Pháp và nhà Thanh trong thời gian phân định (từ tháng 12 năm 1886 đến tháng 6 năm 1887) cũng như trong thời kỳ phân giới (do hai ủy-ban : 1889-1890 và 1893-1894). Ông Chiniac de Labastide, chủ tịch Ủy ban Phân Giới phụ trách vùng Quảng Đông (tức đoạn 1) nhiệm kỳ 1889-1890 viết :

« Khi các ủy ban Pháp và Thanh được thành lập vào các năm 1886 và 1887 để phân định biên giới hai nước An Nam và Trung Hoa, đoạn biên giới đã có những cuộc thương lượng dài nhất, và phe Trung Hoa đã có những đòi hỏi căng nhất, đó là đoạn thuộc vùng Quảng Ðông. Chiều dài của đoạn biên giới này dầu vậy ngắn hơn rất nhiều so với hai vùng biên giới khác là Quảng Tây và Vân Nam. Ở hai vùng đó chỉ cần vài tháng là đủ để Ủy Ban hai nước đạt được thỏa thuận về đường biên giới, trong khi vùng Quảng Ðông, phải mất đến 8 tháng để hai bên ký kết biên bản phân định…
Nhờ vào sự kiên trì, người Hoa đã dành được của An Nam một vùng đất nghèo, nhưng rộng lớn, mà họ chờ đợi để lấy ra từ đó những ưu điểm quan trọng. »

Đường biên giới vùng này được phân định, cắm mốc ra sao ? « Vùng đất nghèo nhưng rộng lớn » mà người Hoa đã thành công « dành » của Việt Nam mà ông Chiniac de Labastide đã nói là vùng đất nào ? Bài này sẽ trình bày lại một số dữ kiện tham khảo được từ Văn Khố Hải Ngoại của Pháp (Centre des Archives d’Outre Mer – Aix-en-Provence) với tham vọng soi sáng lại lịch sử thành hình đường biên giới Việt-Trung, những tranh chấp về lãnh thổ trong thời kỳ phân định và dĩ nhiên, về những vùng đất của Việt Nam đã bị mất cho Trung Hoa. 

1/ Sơ lược quá trình phân định biên giới vùng giáp ranh tỉnh Quảng Đông :

Theo điều 3 hiệp ước Thiên Tân tháng 6 năm 1885 , hai bên Pháp và nhà Thanh công nhận sự hiện hữu một đường biên giới lịch sử giữa hai nước Trung Hoa và Việt Nam (lúc đó Pháp và nhà Thanh gọi là An Nam). Công việc hành chánh của hai bên là ra thực địa, trong vòng 6 tháng, để nhìn nhận lại đường biên giới đó đồng thời đóng mốc giới ở những nơi không rõ rệt. Nguyên văn điều 3 như sau :
« Dans un délai de six mois à partir de la signature du présent traité, des commissaires désignés par les hautes parties contractantes se rendront sur les lieux pour reconnaître la frontière entre la Chine et le Tonkin ; ils poseront, partout où besoin sera, des bornes destinées à rendre apparente la ligne de démarcation ; dans le cas où ils ne pourraient se mettre d'accord sur l'emplacement de ces bornes ou sur les rectifications de détail qu'il pourrait y avoir lieu d'apporter à la frontière actuelle du Tonkin, dans l'intérêt commun des deux pays. Ils en référeraient à leurs gouvernements respectifs. 

Tạm dịch ra tiếng Việt : « Trong một khoảng thời gian 6 tháng, các ủy viên của hai bên sẽ ra thực địa để nhìn nhận đường biên giới giữa Trung Hoa và Bắc Kỳ. Những người này sẽ cắm mốc ở mọi nơi thấy cần thiết để đường biên giới được rõ ràng. Trường hợp hai bên không thống nhất về vị trí những cột mốc hay nếu có những điều chỉnh trên đường biên giới hiện trạng, vì quyền lợi hai nước, việc này sẽ đưa về hai chính phủ để giải quyết ». 

Việc « nhìn nhận » đường biên giới, như qui định, đáng lẽ được thực hiện trên thực địa. Nhưng đã không làm được, do trở ngại vì thời tiết và địa hình thì ít, mà do các cạm bẫy hiểm nghèo của phía người Hoa dựng lên thì nhiều, (ngoại trừ đoạn biên giới thuộc vùng Quảng Tây, vùng chung quanh ải Nam Quan). Thời gian dự trù 6 tháng đã phải kéo dài đến 12 năm. Việc « nhìn nhận đường biên giới » trở thành việc « phân định lại đường biên giới ». 

Ủy ban phân định biên giới của Pháp được thành lập từ tháng 8 năm 1885, lúc đầu do ông Bourcier de Saint Chaffray làm chủ tịch. Ông này đã thành công việc « nhìn nhận đường biên giới trên thực địa » khoảng trên 300km đương biên giới, từ ải Nam Quan đến ải Chí Mã và từ ải Nam Quan đến ải Bình Nhi, tức hai tiểu đoạn trong vùng biên giới Quảng Tây. Ông này sau đó từ chức vì lý do sức khỏe. Ông Dillon, nguyên tổng Lãnh Sự kiêm Thống Sứ tại Huế, được phong chức tương đương hàng thứ trưởng để thay thế ông Bourcier de Saint Chaffray. Ông Dillon đã từng đảm nhiệm công tác ở Trung Quốc trên 25 năm với chức vụ lãnh sự, thông hiểu tường tận ngôn ngữ và văn minh Trung Hoa. Theo dự kiến, hai bên tiếp tục công trình của Bourcier de Saint Chaffray, sẽ nhóm họp tại Ðồng Ðăng từ tháng giêng đến tháng 4 năm 1886 để giải quyết biên giới vùng Quảng Tây, từ tháng 6 đến tháng 11 năm 1886 tại Lào Cai cho biên giới Vân Nam và từ tháng 12 năm 1886 đến tháng 4 năm 1887 tại Móng Cái cho biên giới Quảng Ðông (và biên giới trong vịnh Bắc Việt). Nhưng dự kiến không thành hiện thực vì phía Trung Hoa đã nhận thấy những bất lợi cho họ qua kinh nghiệm « nhìn nhận đường biên giới trên thực địa » đã diễn ra từ tháng 8 năm 1885 đến tháng 3 năm 1886. Do đó họ tìm cảnh cản trở. Hai đoạn biên giới, từ Nam Quan – Chí Mã và Nam Quan – Bình Nhi, đường biên giới qui ước khá phù hợp với đường biên giới lịch sử. 

Người Pháp mới đến VN, chưa rõ phong tục tập quán của dân VN cũng như không nắm vững địa hình địa vật của đất nước VN. Họ còn phải đối phó với những viên quan Trung Hoa vừa thông hiểu thực địa, lại vừa mưu mẹo, quĩ quyệt. Họ phải đối diện với những đe dọa đến từ các băng đảng cướp người Hoa (giặc Cờ Đen, Cờ Vàng...) hoành hành ở các tỉnh miền bắc và trên vùng biên giới cũng như sự bất hợp tác của quan lại Việt Nam. Trong khi quân đội Pháp, vì có chủ trương bỏ vùng Bắc Kỳ thuợng du và chỉ giữ vùng đồng bằng, cũng không đưa quân để bình định các vùng biên giới. Việc mất an ninh thường xuyên trên biên giới là do phía Trung Hoa đứng sau giật dây những đảng cướp Tàu. Quân đội chính qui Trung Hoa cũng đội lốt giặc cướp, dàn dựng những cuộc phục kích, cản trở ác ủy viên Pháp làm trắc địa trên thực địa. Một số nhân viên cùng binh lính Pháp bị thiệt khi làm các công tác này tại Lào Cai. Một số khác bị thiệt mạng do quân Tàu đánh úp vào Móng Cái. 

Phía người Hoa tìm mọi cách để cản trở người Pháp trong việc « nhìn nhận đường biên giới trên thực địa ». Và họ đã thành công. Cuối cùng ủy ban Pháp phải « đề nghị » với Trung Hoa để hai bên hoạch định biên giới trên bản đồ. Đương nhiên phía người Hoa đồng ý. Và điều hiển nhiên các tấm bản đồ phân định đều do phía người Hoa thành lập. Một điểm chung : các bản đồ này đều vẽ rất sai so với thực tế. Người Hoa đã buộc người Pháp « chơi » trên « sân chơi » của họ. 

Đường biên giới đoạn 1, cũng như phần còn lại của đoạn 2 và 3, được thành hình qua hai giai đoạn : giai đoạn phân định và giai đoạn phân giới, cắm mốc. Giai đoạn phân định chủ yếu ở việc tạo dựng hồ sơ sau đó so sánh, thương thuyết nhằm thống nhất quan điểm. Giai đoạn phân giới chủ yếu ở việc cắm mốc trên thực địa, lập biên bản và vẽ bản đồ.

2/ Nghiên cứu hồ sơ phân định của Ủy ban Pháp :

Hồ sơ của ủy ban Pháp, vùng Quảng Đông, phần lớn đặt căn bản trên sử liệu của phía Trung Hoa, do các tác giả dưới triều nhà Thanh biên soạn, như Đại Thanh nhứt thống chí, Đại Thanh hội điển đồ… Một số tài liệu Việt Nam như Kiến văn tiểu lục của Lê Quí Đôn, các tập địa chí thời Nguyễn cũng như sổ bạ địa chính từ nha Kinh lược của triều đình… cũng được tham khảo. Công trình trắc địa của các nhà truyền giáo Dòng Tên (Jésuites) cũng được nhắc tới. (Công tác trắc địa lập bản đồ của các nhà truyền giáo Jésuites là do chủ trương của vua Khang Hi. Công trình này kéo dài 10 năm, bắt đầu vào ngày 10 tháng 7 năm 1708 và kết thúc năm 1718. Kết quả đo đạt đã được đón nhận, về sau trở thành hồ sơ cơ bản về địa chí của nhà Thanh).

Trong vùng Quảng Đông, một chi tiết đáng chú ý trong hồ sơ của Pháp, dẫn từ hồ sơ của ủy ban Trung Hoa, là sự hiện diện của một con sông mang tên An Nam giang 安南江, được xem là con sông biên giới của hai nước Việt Trung. Chi tiết này lấy từ tài liệu của các nhà truyền giáo Jésuites. Tài liệu duy nhất của Trung Hoa có ghi « An Nam Giang » là bộ « Thủy Tiêu Ðề Cương 水逍提綱 », viết năm 1761, tác giả Tề Triệu Nam 齊召, công bố năm 1796. Sách này mô tả khu vực biên giới như sau : « Phía Tây Long Môn 龍門 có cửa khẩu « Phòng Thành Hà Khẩu », xa hơn là cửa sông Thiếp Lãng, xa hơn nữa là cửa sông An Nam, bờ Tây ngạn sông này là biên giới An Nam… Sông này chảy theo hướng Ðông khoảng vài chục dặm đến Tư Lặc Ðộng 思勒峒 thì chuyển hướng về phía Nam, sau đó chảy theo hướng Ðông-Nam, sau vài mươi lí theo hướng nầy thì đổ ra Nam Hải » (Thủy Tiêu Ðề Cương, q 20, tờ 19). Con sông, cùng với bản đồ dưới đây, thì có thể trùng hợp với con sông Bắc Luân (Ka Long), tức đường biên giới hiện nay. Bộ sách này thì không phải là bộ chính sử, mặt khác, nó hầu như là bản sao của công trình của các nhà truyền giáo Jésuites.

liemchauphu4

Hình trên : bản đồ Liêm Châu phủ (Lien-Tcheou Fou) theo các nhà truyền giáo Jésuites. Trên bản đồ có ghi Ngan-nan Kiang (An Nam Giang), « frontière annamite biên giới An Nam », Thiếp Lãng giang (Tieh Lang), Pak-lung (tức mũi Bạch Long – Bailong), Khâm Châu (Kin-Tcheou). 

Trong khi đó, Đại Thanh Nhứt Thống Chí, con sông chảy theo đường biên giới Việt-Trung là Thiếp Lãng Giang 貼朗江, cách Khâm Châu 240 dặm. Sông nầy bắt nguồn từ những ngọn núi về phía Tây-Bắc huyện Khâm Châu. Sông này nhận diện được trên các bản đồ hiện nay là con sông bắt nguồn từ núi, chảy vào huyện Phòng Thành. Tập địa chí chính thức của Thanh Triều không hề ghi tên An Nam Giang, mặc dầu phía nam sông Thiếp Lãng có vài con sông không đề tên.

liemchauphu3
liemchauphu2
LiemChauPhu

Các hình trên: Liêm Châu phủ, theo Đại Thanh nhứt thống chí và Đậi Thanh hội điển đồ. Trên các bản đồ ta thấy Phòng Thành (Fang-cheng) và sông Thiếp Lãng. Sông này là biên giới hai nước Việt-Trung. Các tập địa chí này không ghi nhận con sông nào mang tên An Nam Giang.

Về địa chí của Việt Nam, cũng không có một sử liệu nào ghi tên một con sông gọi là An Nam Giang. 
Nhưng sự hiện diện (trên giấy tờ) của con sông biên giới An Nam Giang đã làm cho vấn đề vốn đã mù mờ lại càng thêm phức tạp. Giả sử rằng con sông này có thật, ở về phía nam sông Thiếp Lãng. Nếu nhìn nhận sông này là biên giới, thì làm sao giải thích được các làng xóm người Việt hiện hữu khoảng giữa hai sông Thiếp Lãng và An Nam Giang, từ nhiều thế kỷ, như Trúc Sơn, Cương Bình (nay là huyện Giang Bình), Bạch Long, hay các đảo trong vịnh Vạn Xuân ? Theo các tài liệu thời đó, dân tộc Hán chỉ mới sinh sống ở đây chỉ sống sau khi các biến động do dân Hồi hay Thái Bình Thiên quốc (hậu bán thế kỷ 19). Họ sống tụ tập thành từng làng nhỏ ở các vùng trù phú, bằng cách chiếm ngụ các vùng đất tốt của dân địa phương (thổ dân - Choang) và đuổi những người này vào rừng núi. Vào thời điểm phân định biên giới, người Hán đã tràn ngập từ Phòng Thành tới Móng Cái. Thành phố Móng Cái của VN hiện nay, hoàn toàn do người Hoa kiểm soát. Điều này tương tự ở Kỳ Lừa, đối diện với Lạng Sơn, ở khu vực Quảng Tây. Những người Hoa ở Móng Cái, đa số nếu không là cướp biển thì cũng là những lái buôn, có cửa hiệu trên con lộ chính Hòa Lạc (tên cũ của Móng Cái), chuyên buôn bán đồ ăn cướp của hải tặc, kể cả nô lệ. 

Toàn vùng, ngoại trừ huyện Giang Bình (Jiangbing, ở phía bắc Đông Hưng hiện nay), các làng ở Bạch Long (Bailong) và các đảo trong vịnh Vạn Xuân (Sơn Tâm, Vu Đầu và Vạn Vĩ) thì do người Việt sinh sống. 

Tuy vậy, hồ sơ của Ủy ban Pháp cho rằng : « dựa lên địa chí của Trung Hoa thì lãnh thổ An Nam mở rộng cho đến Long-men (Long-Môn) ». 

Để giải thích việc này, tài liệu viết rằng : khoảng từ 20 năm trước, bọn cướp Tàu đã chiếm vùng Bạch Long cũng như Long Môn để làm sào huyệt. Và đó là lý do mà vùng đất này đã ra ngoài tầm kiểm soát của Việt Nam. Trên thực địa, đường biên giới khu vực này được cụ thể hoá qua những đồn canh (ải) của Trung Hoa đã dựng lên. Ðường nối các đồn ải này chừa ra huyện Giang Bình (bao gồm luôn Packlung - Bạch Long). Vì lý do này mà huyện Giang Bình mới trở thành một « enclave », tức một vùng đất của người Việt trên đất Trung Hoa . 

Điều đáng chú ý là huyện Đông Hưng lúc đó chưa thành lập, mới chỉ là một trại lính nhỏ. Phồn thịnh nhất trong khu vực là Mang Nhai (tức Móng Cái – tên người Pháp gọi trại đi).

Những bằng chứng phía ủy ban Pháp đưa ra để chứng minh huyện Giang Bình thuộc về Việt Nam : 
Thứ nhứt, huyện Giang Bình đã được triều đình Huế bổ một vị quan cùng gia đình về cai trị và thâu thuế dân chúng từ mấy chục năm trước. Nhưng người hậu duệ cuối cùng của viên quan đã bị quân cướp Tàu giết, thân xác bị chặt làm nhiều khúc qua biến cố tháng 11 năm 1886 (biến cố nầy làm thiệt mạng một số quân đội Pháp và ông Haitce, nhân viên của Ủy Ban Phân Ðịnh Biên Giới). 

Thứ hai, những nhân chứng sống, là những người dân địa phương, người Hoa cũng như người Việt. Những người dân này đã hướng dẫn các ủy viên phân định vào tháng 11 năm 1886 và vào tháng 1 năm 1887 để làm công tác trắc địa. Những dữ kiện đo đạc thì phù hợp với những điều tra trước đó. 
Thứ ba là sổ bạ ghi chép điền địa từ các huyện, phủ trong vùng. Thứ tư là bản đồ chính thức của An Nam. 

Thứ năm là chứng nhận của nha Kinh Lược từ triều đình Huế. 

Việc nầy xác định huyện Giang Bình, bao gồm bán đảo Pack-Lung (Bạch-Long) cũng như các đảo trong vịnh Vạn Xuân thì thuộc Việt Nam. 

Đường biên giới Việt-Trung, theo hồ sơ của Ủy ban Phân định Pháp, dựa lên địa chí của Trung Hoa, xác định có đi qua các cửa ải : 1) Ải Na Tô 那蘇隘 , ở phía Tây Nam huyện Khâm Châu ; 2) Ải Nhẫm Quân 稔均隘 , cách ải Na Tô 70 lí về hướng Ðông Nam và 3) Ải Na Long 那隆隘 , cách ải Na Tô 10 lí về phía Ðông. 

Đường biên giới được xác lập trên bản đồ : từ núi Phân Mao, qua các ải Na Tô, Nhẫm Quân và Na Long, sau đó theo sông Thiếp Lãng, trước khi đến biển khoảng 10 km, biên giới rời sông, đánh một vòng cung bao bọc Giang Bình và mũi Bạch Long, để chấm dứt tại gần Long Môn. Bạch Long (và các đảo trong vịnh Vạn xuân) cũng như Giang Bình thuộc về Việt Nam theo như sơ đồ dưới đây : 

Pak lung CAOM

Ủy ban Trung Hoa không chấp nhận đề nghị của ủy ban Pháp về đường biên giới. Điều đáng tiếc là tác giả không tham khảo được hồ sơ phía bên Trung Hoa để biết thêm các lý lẽ của họ về đường biên giới lịch sử như thế nào. Họ bác bỏ đề nghị của ủy ban Pháp với những lý do gì ? Trong khi hồ sơ của Pháp thiết lập phần lớn từ từ địa chí của Trung Hoa. (Nghi án Mạc Đang Dung có thể sẽ sáng tỏ hơn nếu hồ sơ phía bên Trung Hoa được bạch hóa). 

Do bất đồng của hai bên, nội vụ phải đưa về Bắc Kinh, do Tổng Lý Nha Môn và Đặc Sứ Pháp tại Bắc Kinh, giải quyết.

3/ Kết quả phân định – Việt Nam mất đất Giang Bình, Bạch Long cùng các đảo trong vịnh Vạn Xuân :
Hồ sơ tranh chấp được chuyển về Bắc Kinh. Công Sứ Toàn Quyền Pháp tại Bắc Kinh là ông Ernest Constans. 

Hiệp ước Thiên Tân 1885 dự trù ở điều 3 về việc nhìn nhận lại đường biên giới, điều 6 dự trù một kết ước về thuơng mại. Công ước về Thuơng mại được ký ngày 25 tháng 4 năm 1886 do ông François-Georges Cogordan ký với Lý Hồng Chương. Công ước này là một thất bại lớn lao cho phía Pháp. Bởi vì tất cả những gì Pháp yêu cầu đều không chấp thuận, trong khi những đòi hỏi của Trung Quốc, cho dầu rất phi lý, thì đều được chấp nhận. Mặc dầu, trên danh nghĩa, Pháp thắng trận. Để « gỡ gạc » lại vấn đề kinh tế, chính quyền Pháp cử ông Ernest Constans một mặt phụ trách ký kết Công ước 1887 về phân định biên giới, mặt khác kiêm nhiệm luôn việc thuơng lượng để ký lại một phụ ước về thuơng mại (Convention additionnelle de Commerce).

Ông Constans như thế cùng lúc phụ trách ký kết hai công ước : một về thương mãi và một và biên giới. Vấn đề biên giới như thế bị « phụ thuộc » vào « thuơng mại ». Phía Trung Hoa do đại diện Tổng Lý Nha Môn là Lý Hồng Chương phụ trách. Ông này nổi tiếng là một con « cáo già » chính trị. 
Để nhận được ưu đãi về thuơng mại, ông Constans đã nhượng bộ cho Trung Hoa tất cả những đòi hỏi của ủy ban Trung Hoa về lãnh thổ. Ở biên giới Quảng Đông, Pháp nhượng cho Trung Hoa các vùng đất của Việt Nam mà người Pháp gọi là « enclave Paklung », tức bao gồm huyện Giang Bình và bán đảo Bạch Long (và các đảo trong vịnh Vạn Xuân). Biên giới Vân Nam thì nhượng tổng Tụ Long và toàn vùng lãnh thổ hở hữu ngạn sông Đà (tức toàn vùng Lai Châu, là vùng đất chịu ảnh hưởng của các thổ ti người Thái như Đèo (Điêu) Văn Trị). Vùng đất này chỉ lấy lại được qua công ước bổ túc về biên giới 1895. Ngoài ra, sau này, trong thời kỳ phân giới, do các bản đồ vẽ sai và do các âm mưu của quan lại người Hoa, phía Việt Nam bị thiệt hại thêm các vùng đất thuộc tổng Kiến Duyên và Bát Tràng (sẽ nói ở dưới), đất thuộc tổng Đèo Lương (Luông) thuộc tỉnh Cao Bằng, mất thêm đất ở Mường Khuơng v.v…

Nội dung công ước về biên giới ngày 26 tháng 6 năm 1887 như sau :
« Tại Quảng Ðông, hai bên thỏa thuận rằng những điểm tranh chấp ở về phía Ðông và phía Ðông Bắc Móng Cái, những điểm này ở phía bên kia của đường biên giới đã được ủy ban phân định xác định, thì chúng được giao cho Trung Hoa. »

Phần còn lại, vùng biên giới Quảng Ðông được thể hiện qua biên bản số 1, ký tại Móng Cái ngày 29-3-1887 (nhằm ngày năm tháng ba năm Quang Tự thứ mười ba). Nội dung như sau :

« Ủy ban phân định biên giới đã công nhận rằng từ Trúc Sơn 竹山, thuộc Trung Hoa, đường biên giới theo dòng sông, hướng Ðông sang Tây, cho đến Móng Cái – Ðông Hưng 東興. Ðường trung tuyến của dòng sông được dùng làm ranh giới và chia các khu vực thuộc Trung Hoa là La Phù Ðộng 羅浮峒, Ðông Hưng 東興v.v.. với các khu vực thuộc An Nam là Ngũ Sĩ 伍仕, Móng Cái v.v..

Từ Móng Cái – Ðông Hưng đến Bắc Thị 北市 – Gia Long 加隆: đường biên giới khá quanh co, có hướng chung Bắc đến Bắc Tây Bắc và theo trung tuyến của dòng sông, phân chia những vùng đất Na Chi 那芝, Ka Long v.v.. thuộc về Trung Hoa những vùng Thác Lãnh 托嶺, Nam-Lý南里, Bắc Thị v.v… thuộc An Nam.

Từ Bắc Thị - Gia Long đường biên giới theo trung tuyến sông Gia Long, là một phụ lưu tây ngạn của sông Bắc Thị 北市江, có độ dài khoảng chừng 30 lí (mỗi lí là 561 thước), và khi vượt ra ngoài 30 lí nầy đường biên giới rời sông, theo đường thẳng trực tiếp để đến điểm cách Ðộng Trung 峝中村 3 lí về hướng Bắc, tức điểm được đánh dấu A (甲) trên bản đồ số 1. Ðường biên giới chia cho phía Trung Hoa các vùng Lãnh Hòa 嶺懷, Phi Lao 披勞, Bản Hưng 板興 v.v… và một ngọn núi mang tên Phân Mao Lĩnh 分茅嶺, núi này ở phía Ðông Nam của Bản-Hưng 板興 và dựa lên đường biên giới. Các vùng Ná Dương 那陽, Ðộng Trung 峝中 và những nơi khác thì thuộc về An Nam.

Từ điểm A, đường biên giới đi về hướng ải Bắc Cương 北崗隘, núi Phái Thiên 派遷山, cách làng Bình Liêu 平寮村 của An Nam khoảng 30 lí theo đường thẳng. Ðường biên giới chia các trạm Ná Quang Ca 那光卡, Bản Thôn Ca 板吞卡v.v.. cho Trung Hoa và các vùng Na Dương 那陽, xã Trình Tường 呈祥社 v.v.. cho An Nam. »

bienbanTchouk-san_Chima
bienbanTchouk-san_Chima5
bienbanTchouk-san_Chima4
bienbanTchouk-san_Chima3
bienbanTchouk-san_Chima2

Các hình trên : hình chụp biên bản phân định biên giới ngày 29-3-1887

Bản đồ phân định dưới đây (xem phần 6, bản đồ 1) cho thấy đây là một tấm bản đồ rất sai. Đường biên giới trên bản đồ cho thấy hướng đi chung của nó là tây bắc, đến điểm A trở lại hướng tây nam để đến Bắc Cương Ải. Điểm A xác định trong biên bản ở kế cận núi Phân Mao. Những ủy viên phân dịnh Pháp, tin tưởng lên tấm bản đồ này, nghĩ rằng họ đã thiết lập được đường biên giới qui ước phù hợp với đường biên giới lịch sử, do đó không ngần ngại ký nhận vào viên bản. Nhưng sau này, khi phân giới, người ta khám phá rằng tấm bản đồ này hoàn toàn không đúng trên thực tế. Hướng tây bắc trở thành hướng tây và tây nam. Điểm A không còn ở kế cận núi Phân Mao (gần Khâm Châu) mà ở xa về phía nam. Người Hoa đã dựng lên một đền thờ giả Mã Viện gần một trái núi và nói rằng núi đó là núi Phân Mao. Những việc này sẽ nói ở phần phân giới và cắm mốc.

4/ Kết quả phân giới và cắm mốc : 

4.1 Thời kỳ 1889-1890 do Chiniac De Labastide làm chủ tịch.
Việc phân giới khu vực Quảng Đông chính thức bắt đầu vào buổi họp ngày 1 tháng 11 năm 1889. Phái đoàn Pháp do ông Chiniac de Labastide làm Chủ Tịch. Bên Trung Hoa có Li Sheou-Toung, Tri Phủ Khâm Châu làm Chủ Tịch. Trong thời kỳ này, các quyết định của hai ủy ban về biên giới không hiệu lực tức thời mà phải chờ sự chấp nhận của Tổng Lý Nha Môn. Trước đó, hai bên đã có nhiều cuộc họp để bàn luận nhằm thống nhất quan điểm về đường biên giới. Phía Pháp đặt bản doanh ở Hoành Mô. Các ủy viên Pháp ra thực địa làm công tác trắc địa và lập bản đồ. Có hai bộ bản đồ được lập ra, trên vải lụa, tỉ lệ 1/10.000. Một tấm mô tả biên giới từ biển cho đến hợp lưu sông Gia Long- Bắc Thị. Một tấm từ điểm hợp lưu này đến ải Bắc Cương.

Như đã thấy, theo nội dung biên bản phân định, đường biên giới phải đi qua ngọn núi Phân Mao. Đây là nguyên nhân đem lại khó khăn cho vấn đề phân giới. Các ủy viên người Pháp đã bỏ công tìm kiếm trên thực địa, cũng như xem lại các địa chí, hay hỏi thăm dân chúng trong vùng để xác định vị trí núi này. Phía người Hoa, trong một buổi họp, khi các ủy Pháp đặt câu hỏi về vị trí núi này ở đâu trên bản đồ, thì lộ vẻ bối rối, hẹn trả lời trong buổi họp tới. Đến lúc họp mặt lại, thì ông tri phủ Khâm Châu chỉ tay vào một trái núi trên bản đồ rồi cho rằng đó là “Phân mao lãnh”. Phía ủy ban Pháp phản đối, vì họ đã biết vị trí thật của núi này ở đâu. Trong khi đó, khoảng thời gian giữa hai buổi họp, phía người Hoa đã cho người tạo dựng một ngôi đền nhỏ, viết tên đề là đền thờ « Phục Ba tướng quân », rồi đặt tên cho ngọn núi đó là núi Phân mao. Phái đoàn Pháp kịch liệt phản đối, vì họ biết chính xác vị trí núi này ở cách xa khu vực này vài chục cây số, về phía bắc. Phía người Hoa biện luận rằng nhận xét của phái đoàn Pháp là chính xác, nhưng núi đó là núi “Đại Phân mao”, trong khi núi ở khu vực này là “Tiểu Phân mao”. Phía người Hoa lập lại một nguyên tắc đã dùng ở Tụ Long để chiếm đất của Việt Nam, qua việc dựng lên con sông Tiểu Đổ Chú. Chiniac De Labastide, trong một bản tường trình lên Toàn quyền Đông dương, tố giác việc này và yêu cầu phân định lại biên giới, nhưng không thành công.

Chiniac De Labastide nhật xét: Từ hợp lưu của sông Gia Long cho đến ải Bắc Cương, trên một chiều dài khoảng 40 cây số, người ta đã bỏ biên giới lịch sử để lấy một đường biên giới khác, ở xa về phía nam, một đường biên giới hoàn toàn qui ước. Việc nầy đã nhường cho Trung Hoa 7 xã rưỡi thuộc tổng Bát Tràng và hai xã khác thuộc tổng Kiến Duyên. Ông không chấp nhận nhượng bộ, yêu cầu phân định lại biên giới. Do đó công việc phân giới bế tắt, đến thời kỳ Đại tá Galliéni (1893-1894) mới giải quyết.

Trong buổi họp đầu tiên 1 tháng 11 năm 1889, một biên bản xác định biên giới được hai bên đồng ý thiết lập, liên quan đoạn biên giới từ biển đến hợp lưu sông Gia Long – Bắc Thị. Biên bản này chỉ có hiệu lực vào ngày 2-3-1890, ký tại Thán Sản. 

Biên bản này xác định biên giới hai nước là con sông Gia Long, tức chỉ một phần của đoạn 1. Biên bản cũng dự trù việc cắm mốc, ở bờ phía Trung Hoa cũng như phía bên Việt Nam, mà việc này dĩ nhiên là không cần thiết. Nội dung biên bản như sau :

Chủ quyền các đảo và đoạn biên giới từ biển cho đến hợp lưu sông Gia Long được xác định như sau :

1. Những hòn đảo ở phía Ðông kinh tuyến Paris, 105° 43’ của kinh độ Ðông, có nghĩa là đường Bắc Nam đi qua đông điểm của đảo Trà Cổ 茶古 thì thuộc về Trung Hoa ; những hòn đảo tên Cữu-Ðầu九頭 và những đảo khác ở phía Tây của đường kinh tuyến nầy thì thuộc về An Nam. 

2. Từ Trúc Sơn 竹山, đường biên giới theo dòng sông từ Ðông sang Tây cho tới Ðông Hưng 東興 và Mang Nhai 硭 鈣. 

Ðường trung tuyến của dòng sông là đường biên giới phân chia địa hạt La Phù 羅浮 và địa hạt Ðông Hưng 東興 thuộc Trung Hoa với vùng Xuân Lạn 春爛 (vùng này bao gồm các địa phận Mũ Sãi, còn được gọi là Ngũ Sĩ 伍仕, địa phận Tử Kinh Sơn 紫京山, địa phận Lục Lâm 陸林) và địa phận Vân Xuân 萬春 (địa phận nầy bao gồm thị trấn Mang Nhai 硭街, tức Móng Cái), những vùng nầy thuộc về An Nam.

3. Từ Ðông Hưng 東興 và Mang Nhai 硭街 cho tới Gia Long 加隆 (còn viết là嘉隆) và Bắc Thị 北市 đường biên giới khá ngoằn ngoèo và dòng sông đại để đi theo hướng Tây Bắc.

Biên giới phân chia Na Chí 那至 (còn được viết là 那芝),Vọng Hưng 望興, Gia Long 加隆 (hay 嘉隆) và những vùng khác thuộc Trung Hoa với vùng Ninh Dương 寧陽 và vùng Vạn Xuân 萬春 (vùng nầy bao gồm địa phận Thân Phan 櫬潘) và Bắc Thị 北市 thì thuộc về An Nam.

Theo các công ước đã được hai ủy ban công nhận trong phiên họp khai mạc công trình phân giới, vào ngày 1 tháng 12 năm 1889 nhằm ngày 8 tháng 10 năm Quang Tự thứ 15, người ta luôn chọn đường biên giới là đường nước tàu bè lưu thông, có nghĩa là phần sâu nhất của dòng sông, là đường giới hạn giữa hai nước.

Nếu sau nầy, vì ngập lụt hay vì cạn nước, đường tàu bè thông lưu thay chỗ, và nếu những dãi đất hay các cù lao được thành hình, đường biên giới sẽ đương nhiên dời qua đường tàu bè thông lưu mới và những dãi đất hay cù lao mới thành hình sẽ thuộc về nước mà phía bờ của nó ở đó.

Theo biên bản đã ký tại Móng Cái ngày 29 tháng 3 năm 1887 tức ngày thứ năm tháng 3 năm Quang Tự thứ 13, địa phận Thác Lãnh 托嶺 thuộc về An Nam.

Cả hai ủy ban đã không thể biết địa phận nầy ở đâu, nêu cùng quyết định sẽ không tìm kiếm thêm nữa.

Cũng trong biên bản đó chỉ định rõ rệt rằng địa phận Nam Lý 南里 thuộc An Nam.

Ðịa phận nầy ờ tả ngạn của dòng sông biên giới và tạo thành một vùng đất của An Nam nhưng ở trên nước Trung Hoa, ủy ban Pháp nhượng địa phận nầy cho Trung Hoa.

Ðể bù lại, ủy ban Trung Hoa cam kết sẽ hành động giống như vậy, nếu trong lúc phân giới đoạn thứ hai của biên giới Quảng Ðông, Trung Hoa có một vùng đất tương tự trong nội địa An Nam.

Theo hiệu lực của các điều trên đây, các ủy ban đã thi hành như sau việc cắm mốc trên đoạn thứ nhất của đường biên giới.

TRÊN LÃNH THỔ AN NAM

Cột số 1 : Trên hòn đảo nhỏ mang tên Lionceau (ltg : Sư Tử Lãnh)
Chuẩn điểm : bỏ trắng
Cột số 2 : Tại Tri Kình Sơn 紫京山.
Chuẩn điểm :
Cột số 3 : Tại Lục Lâm 陸林.
Chuẩn-điểm :
Cột số 4 : Ðối diện Na Triệu 那旐, trên đường dẫn tới Xuân Thụ 春樹.
Chuẩn điểm :
Cột số 5 : Phía trước lô cốt Móng Cáy.
Chuẩn điểm góc : b 311° 56’ 05’’ ; Mirador 315° 22’ 10’’ ; Fortin 77° 08’ 15’’
Cột số 6 : Ở đầu của con đường Phục Thiên 服扁.
Chuẩn điểm góc : Mirador 273° 44’ 10’’ ; b 33° 14’ 40’’ ; a 56° 21’ 35’’
Cột số 7 : Ðối diện Thác Lãnh 托嶺, ở trước phần dưới thấp của một dãi cát.
Chuẩn điểm :
Cột số 8 : Trước tòa Lộc Phủ 祿俛.
Chuẩn-độ góc : Signal Ðông Bắc Lộc Phù 31° 30’ 05’’ ; a 145° 30’ 50’’ ; a 199° 56’ 55’’
Cột số 9 : Phía trước nhà Tất Na 必那.
Chuẩn độ góc : a 59° 32’ 20’’ ; h 320° 16’ 40’’ ; s 321° 13’ 20’’
Cột số 10 : Trên một cù lao ở phía trước Trúc Kết, còn gọi là Ðôn Cát.
Chuẩn độ góc : f 345° 38’ 00’’ ; s 349° 16’ 30’’ ; Mã Ðầu Sơn 213° 21’ 10’’.

TRÊN LÃNH THỔ TRUNG HOA

Cột số 1 : Tại chợ Trúc Sơn 竹山.
Chuẩn độ phương vị từ : Sư Tử Lãnh 345° ; Fortin 285°
Cột số 2 : Tại điểm Trắc Ki Thán 測旗灘.
Chuẩn điểm :
Cột số 3 : Ở tại hợp lưu với con suối Kiều Ðầu Câu 橋頭溝.
Chuẩn-độ phương-vị từ : Lô-cốt 311° ; Fortin 331°
Cột số 4 : Phía trên cầu thang dẫn đến ngôi chùa nhỏ ở Ðông Hưng.
Chuẩn-điểm :
Cột số 5 : Ở ngay ngả vào của con đường trổ ra cầu Ðông Hưng.
Chuẩn-điểm :
Cột số 6 : Tại Thủng Bốc, còn được gọi là Thùng Bộc, ở tại bến phà Quá Phố 瓜甫.
Chuẩn độ góc : Fortin 185° 24’ 10’’ ; a 39° 23’ 45’’ ; b 14° 54’ 25’’
Cột số 7 : Tại hợp lưu với con suối Giang Na 江那, phía tả ngạn.
Chuẩn độ góc : b 64° 52’ 45’’ ; a 351° 53’ 55’’ ; a 292°
Cột số 8 : Tại hợp lưu với con suối Vọng Hưng望 興, phía hữu ngạn.
Chuẩn-độ góc : Signal đông bắc Lộc Phù 98° 15’ 00’’ ; s 15° 20’ 35’’ ; f 1° 57’ 15’’
Cột số 9 : Tại hợp lưu với sông Na Lương那 良, phía hữu ngạn.
Chuẩn-độ góc : f 94° 48’ 15’’ ; s 60° 29’ 45’’ ; Mã Ðầu Sơn 348° 11’ 20’’.
Cột số 10 : Tại Ðại Hà 大河, ở đầu con đường dẫn tới Bắc Thị 北市.
Chuẩn độ phương vị từ : f 114° ; Mã Ðầu Sơn 221° 00’

4.2 Thời kỳ 1893-1894 do Đại tá Galliéni làm chủ tịch.

Vấn đề tranh chấp đoạn biên giới từ hợp lưu sông Gia Long đến ải Bắc Cương không giải quyết được dưới thời Chiniac De Labastide 1890-1892, phải chờ đến năm 1893-1894, thời kỳ Đại tá Galliéni làm chủ tịch. Nội dung tranh chấp đoạn biên giới này được trình bày trong bản tường trình của Chiniac De Labastide, đính kèm trong phần phụ lục bài này. Vấn đề tranh chấp gồm các điểm:

a) đường biên giới là nhánh sông tây bắc hay nhánh sông tây nam ? Theo biên bản phân định biên giới ngày 29-3-1887, đường biên giới được mô tả: “Từ Bắc Thị - Gia Long đường biên giới theo trung tuyến sông Gia Long, là một phụ lưu tây ngạn của sông Bắc Thị 北市江, có độ dài khoảng chừng 30 lí (mỗi lí là 561 thước), và khi vượt ra ngoài 30 lí nầy đường biên giới rời sông,...” Nhưng trên thực tế thì có hai nhánh sông, đều ở về phía tây ngạn sông Bắc Thị, cùng có chiều dài khoảng 30 lí, nhưng một nhánh có hướng tây bắc, một nhánh có hướng tây nam. Chiếu theo bản đồ phân định, hướng đi của đường biên giới, từ hợp lưu sông Bắc Thị - Gia Long, đến điểm A, là hướng tây bắc. Như thế, hợp lý, đường biên giới phải là nhánh sông có hướng tây bắc. Nhưng phía Trung Hoa thì không đồng ý với nhận thức này. Họ quan niệm đường biên giới là nhánh tây nam. Theo họ, chiều dài con sông chỉ tính khi nó chảy trên đồng bằng. Phần chảy trong núi non thì không tính. Như thế, nhánh tây bắc không đủ chiều dài 30 lí! (Xem sơ đồ 1)

b) Quan niệm về đường thẳng. Biên bản phân định ngày 29 tháng 3 năm 1887 mô tả hướng đi đường biên giới : “khi vượt ra ngoài 30 lí nầy đường biên giới rời sông, theo đường thẳng trực tiếp để đến điểm cách Ðộng Trung 峝中村 3 lí về hướng Bắc, tức điểm được đánh dấu A (甲) trên bản đồ số 1.” Trên bản đồ do các trác địa viên Pháp thành lập, đường thẳng nối từ điểm “đường biên giới rời sông” cho đến điểm A trên bản đồ số 1 có hướng đông nam – tây bắc. Nhưng phía người Hoa không nhìn nhận đường này là “đường thẳng” mà là “đường nghiêng”. Theo họ, đường thẳng phải là đường “ngang” và đường “dọc”. Đường biên giới theo họ phải là đường nối ngang, từ điểm “đường biên giới rời sông” cho đến phía nam chợ Động Trung. Sau đó, từ điểm này vạch một đường thẳng đến điểm A (cách chợ Động Trung 3 lí). (Nhận diện điểm A trên sơ đồ 1 – so sánh đường biên giới theo đường thẳng trên các bản đồ 1 và 2).

c) Tranh chấp về vị trí núi Phân Mao. Biên bản phân định ngày 29 tháng 3 năm 1887 phân chia : “Ðường biên giới chia cho phía Trung Hoa các vùng Lãnh Hòa 嶺懷, Phi Lao 披勞, Bản Hưng 板興 v.v… và một ngọn núi mang tên Phân Mao Lĩnh 分茅嶺, núi này ở phía Ðông Nam của Bản Hưng 板興 và dựa lên đường biên giới.” Nhưng núi này ở cách xa vùng phân định vài chục cây số. Nhưng người Hoa đã dựng lên một đền thờ Mã Viện giả ở dưới một ngọn núi kế cận Bản Hưng, gọi đó là Phân Mao Lãnh. Sau khi bị khám phá, họ bào chữa rằng đó là núi Tiểu Phân Mao.

Đó là một số điểm tranh cãi giữa hai phái đoàn Pháp và Trung Hoa (xem them chi tiết ở phần 6). Bài học rút ra ở đây là sự trí trá và ngang ngược của phái đoàn người Hoa về phân định biên giới. Nó có thể giúp ta môt vài kinh nghiệm khi phải đối phó trong trường hợp tương tự sau này.

Ông Chiniac De Labastide đề nghị phân định lại biên giới nhưng không được chấp thuận. Những vị tiếp nối ông, là ông Flandin từ tháng 10 năm 1890 đến tháng 12 năm 1891, ông Servière từ tháng 1 năm 1892 đến tháng 12 năm 1893, đoạn biên giới này vẫn không được giải quyết. Cho đến thời đại tá Galliéni lên làm chủ tịch, từ tháng 1 năm 1894, thì vấn đề xoay chiều. Tất cả những yêu sách phi lý của phe Trung Hoa đều được Pháp đáp ứng. Lý do bề ngoài của việc nhượng bộ là « vùng tranh chấp có nhiều núi non, ít dân cư và nghèo nàn ». Nhưng thực ra, do thực tiễn và về chiến lược hơn là kinh tế. Giới quân đội Pháp, khi nhận trách nhiệm về phân giới, ưu tiên cho một đường biên giới thiên nhiên như dòng sông, đường sống núi mà bỏ qua đến đường biên giới lịch sử. Quyết định này làm cho VN mất các vùng đất gồm các xã : Bắc Nham, Hoàng Mộng, Tuy Lai, Nật Sơn, Thuợng Lai, Cỗ Hoàng và Vụ Khê thuộc tổng Bát Tràng cùng với một số xã thuộc tổng Kiến Duyên.

Kết quả phân giới và cắm mốc được ghi lại theo biên bản sau :

Ðại-tá Galliéni nhận thấy rằng :

1. Toàn vùng tranh chấp được gọi là « vùng Hoàng Mô » ở khoảng giữa Bắc Cương Ải và Bắc Phong Sinh thì có nhiều núi non, ít dân cư, và vì sự nghèo nàn của nó, vùng nầy sẽ không có một tầm quan trọng lớn đối với nước Pháp.
2. Nên áp dụng đúng với tinh-thần biên bản số 1 ngày 29 tháng 3 năm 1887 của Ủy Ban Phân Ðịnh Biên Giới mà các điều khoản chính đã được lập lại trong Công Ước Bắc Kinh ngày 26 tháng 6 năm 1887.
3. Phải tìm mọi nơi có thể được để đường biên giới giữa hai nước là đường thiên nhiên, như dòng sông, đường sống núi, v.v..

Ông Lý trả lời rằng ông cũng đã nhận được chỉ thị để thi hành đúng với các điều khoản của Công Ước nầy, và ông rất sung sướng được thấy thỏa ước về việc nầy đã được chấp thuận giữa hai chính phủ.

Vì vậy hai bên quyết định rằng, theo các chi tiết của biên bản số 1 ngày 29 tháng 3 năm 1887, sẽ chấp nhận đồ tuyến mà Ủy Ban Trung Hoa năm 1889 đòi hỏi, có nghĩa là bắt đầu từ Bắc Phong Sinh, đường biên giới trước tiên đi ngược lên nhánh Tây Nam của sông Gia Long cho đến giao điểm của nó với đường gạnh nối màu xanh ở trên bản đồ Trung Hoa do ông Labastide thiết lập.

Ðường biên giới theo đường xanh cho đến điểm A, để lại Trung Hoa, đúng như tinh thần Công Ước Bắc Kinh, các vùng Phi Lao, Bản Hưng và Lãnh Hoài.

Từ phía Bắc điểm A cho đến Bắc Cương Ải, đường biên giới sẽ được thiết lập trên đường gạch nối màu xanh. Ðường nầy được vẽ giữa hai điểm trên bản đồ Chiniac De Labastide và phản ảnh đường biên giới mà Ủy Ban Trung Hoa đòi hỏi năm 1889, nhưng để lại cho An Nam vùng Trình Tường như xác định trong biên bản số 1.

1/ Từ Bắc Thị北市, đường biên giới theo đường trung tuyến của sông Gia Long 加隆 (Kia-loung), sông nầy là một nhánh tây ngạn của sông Bắc Thị (Pe-che). Khoảng 500 m phía hạ lưu của Bắc Phong Sinh 北風生 (Pe-Foung-Chen), sông nầy chia làm hai nhánh, một nhánh đến từ hướng Đông Bắc, nhánh còn lại đến từ hướng Đông Nam.

Đường biên giới là nhánh sông Đông Nam cho đến khi nhánh sông nầy lại chia lần nữa làm hai nhánh. Chỗ chia nầy được gọi là điểm P.

Từ điểm P, đường biên giới theo nhánh Đông Bắc, nhánh nầy chảy đến từ hướng Bắc và ở phía Tây Nam của làng Việt Nam tên An Bài安排 (An-Paii). Làng An Bài thuộc về Việt Nam.

Đường biên giới là con suối mang tên An Bài cho tới một ngọn núi (côté 955) mang tên Khanh Hoài Lĩnh坑懷嶺. 

Đường biên giới thỏa thuận là trung tuyến của giòng sông và ở dòng nước mà tàu bè có thể thông lưu được. Trường hợp tàu bè không thể thông lưu thì đường biên giới là đường đi qua chỗ sâu nhất hay rộng nhất hoặc có nước nhiều nhất.

Trong trường hợp bị ngập lụt hay bị cạn nước, dòng sông bị thay đổi, đường biên giới đương nhiên sẽ là đường tính theo điều kiện ghi trên. Nếu có những cù lao hay dãi cát xuất hiện, chúng ở phía nào thì chủ quyền sẽ thuộc về quốc gia đó.

Dọc theo những dòng sông biên giới cột mốc sẽ được đóng ở cả hai phía, tại những địa điểm người ta thường qua lại, hay đối diện với những địa hạt quan-trọng, hay tại những điểm hợp lưu của những dòng sông. Tại những nơi khác của dòng sông biên giới, các cột mốc sẽ đóng mỗi lúc một xa và xen kẻ ở mỗi bên bờ.

Trong những đoạn mà đường biên giới đi ngang qua những đỉnh núi cao, sẽ chỉ có một cột mốc được đóng mà hai bên mặt của cột nầy mang những ghi chú của mỗi nước. Các cột mốc mang một con số thứ tự, tiếp theo những cột mốc đã cắm ở phần thứ nhất.

2/ Từ Khanh Hoài Lãnh坑懷嶺, đường biên giới theo hướng tổng quát Đông Tây.
Đường biên giới bắt đầu hướng chút ít về Tây Nam và đến sông 大坑尾 Đại Khanh Vĩ (Ta-Kang-Ouei), rồi theo hướng Tây, cắt các dòng sông 小坑尾 Tiểu Khanh Vĩ (Siao-Kang-Ouei) và Mã Song 馬雙 (Ma-Choang).

Tại điểm nầy, đường biên giới hướng chút ít về Tây Nam, qua đỉnh núi Thanh Long Lãnh 青龍嶺 (T’ang Loung Ling, côté 843), rồi trở lại hướng tổng quát Đông Tây và đến sông Phi Lao.

Sông Phi Lao 披勞 trở thành đường biên giới, để lại Trung Hoa phía hữu ngạn các làng Phi Lao, Bản Hưng 本興 (Pan Hing) , Na Niệp 那捻( Na Ku) ; và để lại Việt Nam phía tả ngạn, làng Cúc Li 菊涖 (Ku-Li).

3/ Đường trung tuyến của dòng sông Đông Mô 洞謨 (Toung Mou), tức là sông Tiên Yên, là đường biên giới cho tới phía bắc của làng Đông Mô.

Những làng Bồ Nam 蒲楠 (Bou Nam), Khôn Văn 坤文 (Kw’an Ouen), Động Trung 峝中 (Toung Tchoung) thuộc về Trung Hoa ; những làng Na Bô 那簿 (Na-Pou), Dinh Kiều 營 叫 (Yng Kiao), Bản Sầm 本岑 (Penn Chin), Đông Phê洞批 (Toung Pi) và Đông Mô 洞謨 (Toung-Mou) thì thuộc về Việt Nam.

Đường biên giới sau đó là sông Na Sa 那沙 (Na-Cha), phụ lưu phía hữu ngạn của sông Tiên Yên, chảy qua phía Đông làng Na Sa và phía Tây làng Đông Xã 洞舍 (Toung-Sié). 

Na Sa thuộc về Việt Nam và Đông Xã thuộc về Tàu.

Đường biên giới sau đó là cũng là phụ lưu nói trên cho tới giao điểm của sông nầy với con suối mà nguồn của nó cách Trịnh Tường呈祥 (Tcheng-Siang) 500 m ; đường biên giới theo dòng suối nầy từ giao điểm cho tới nguồn của nó. Tại đây đường biên giới theo đường thẳng cho tới Bắc Cương Ải北崗, đi ngang qua các đỉnh 675, 812 và 746 về phía Tây Bắc Trình Tường.

Làng Trình Tường thuộc về Việt Nam ; các làng Vệ Tàm 衞慙 ( Shu-Tan) và Kiểu Tào 矯曹 (Kiao Tsao) thì thuộc về Trung Hoa.

Tại đỉnh 746, đường biên giới theo đường thẳng đến đỉnh đèo 662, gặp cột mốc số 67 thuộc biên-giới Quảng Tây.

4/ Vị trí các cột mốc trên lãnh thổ Việt Nam :

Cột số 11 : Tại nơi giáp phát của sông Gia Long 加隆
Chuẩn độ Phương vị từ :
Đồn Bắc Thị (angle N.E.) 317°
signal a 51°
Cột số 12 : Đối diện Na Lang 那浪 (Na-Loung).
Chuẩn độ phương vị từ:
Blockhaus de Nam-si (angle N.E.) 286°
signal d 328°
Cột số 13 : Phía Đông Nam của đồn Trung Hoa Tam Tá 三左 (Sann Tao), va ở phía Bắc của nông trại Ðại Đông Điền 大峝田 (Ta Tiong T’inn).
Chuẩn độ phương vị từ: signal l 29°
Cột số 14 : Đối diện hợp lưu của nhánh Tây Nam của sông Gia Long và nhánh Tây Bắc Na Lưu 那流 (Na Liou) 
Cột số 15 : Trên vàm phía Tây của hợp lưu sông Gia Long với con suối Vấn Tả 文冩 (Ouen Tou).
Cột số 16 : Phía Đông Nam An Bài安排 (An Pai), trên đồi nhỏ nhìn xuống hợp lưu các nhánh nhỏ của sông Gia Long.
Chuẩn độ phương vị từ:
Ðỉnh Khanh hoài Lãnh 95°
Ðồn Bắc Phong Sinh 290°
Cột không ghi số : Được thay thế bằng một tảng đá thấy rất rõ ở trên đỉnh Khanh Hoài Lãnh, trên đó có khắc những ghi chú chung của hai nước.
Cột chung số 17 : Cắm trên vòm ở phía Đông của dòng sông Đại Khánh Vĩ 大坑尾 (Ta Kang Ouei), cách 1000 m về phía Đông Nam của Khanh Hoài-Lãnh 坑懷嶺.
Chuẩn-độ phương-vị từ:
Đỉnh Nam Vân Lãnh 南雲嶺 ( Nan Yun Ling) điểm Tam giác đạc :
cote 1157 328°
Đỉnh Khanh Hoài Lãnh 119°
Cột chung số 18 : Cắm trên vòm phía Tây của sông Đại Khánh Vĩ.
Chuẩn độ phương vị từ:
Đỉnh Tiểu Khánh Lãnh 小坑嶺 (Siao Kang Ling)
Điểm Tam Giác Đạc (point de triangulation) cote 517 187°
Đỉnh Khanh Hoài Lãnh 105°
Cột chung số 19 : Trên vàm phía Đông của sông Tiểu Khánh Vĩ 小坑尾 (Siao Kang Ouei).
Chuẩn độ phương vị từ:
Đỉnh Nam Vân Lãnh 47°
Đỉnh Khanh Hoài Lãnh 99°
Cột chung số 20 : Trên đỉnh của ngọn núi phân chia thượng nguồn của sông Tiểu Khánh Vĩ và sông Ma Song. 
Chuẩn độ phương vị từ:
Đỉnh Khanh Hoài Lãnh 101°
Đỉnh Tiểu Khánh Lãnh 145°
Cột chung số 21 : Phía Bắc của hợp lưu sông Ma-Song với một phụ lưu tây ngạn.
Cột chung số 22 : Trên đỉnh Thanh Long Lãnh 青龍嶺 (Te’ing Loung Lin) cote 843.
Chuẩn độ phương vị từ:
Đỉnh Lộc Lang Lãnh 禄嫏嶺 (Lou Teng Ling) 149°
Đỉnh Trường Nhị 長二 (Tchang Eurl) 204°
Cột số 23 : Tại hợp lưu sông Bi Lao với một phụ lưu nhỏ ở phía tả ngạn.
Chuẩn độ phương vị từ:
Đỉnh Trường Nhị 166°
Đỉnh Thanh Long Lãnh 85°
Cột số 24 : Tại điểm hợp lưu của sông Phi Lao 披勞 với một chi nhánh nhỏ bên tả ngạn, trên một cái đồi nhỏ nhìn xuống hai sông nầy.
Chuẩn độ phương vị từ:
Đỉnh Cô Mạ Lãnh 姑罵嶺 (Cao Pa Ling) point de triangulation coté 960 314°
Đỉnh Cao Ba Lãnh (Kiou Pang Ling) 9°
Cột số 25: Tại hợp lưu sông Bi-Lao, phía Nam của làng Trung Hoa Cổ Phiêu 姑漂 (Kou-Piao).
Chuẩn độ phương vị từ:
Đỉnh Cổ Ma Lãnh 18°
Đỉnh Lạp Bình Lãnh 垃甁嶺 côté 551 286°
Cột số 26 : Phía Bắc của làng Cúc Lỵ 菊蒞 (Ku Li) cách 360 m hợp-lưu của sông Tiên Yên với một phụ lưu tả ngạn.
Chuẩn độ phương vị từ:
Đỉnh Lạp Bình Lãnh (K’iou Pin Ling) cote 551 205°
Đỉnh Cô Mạ Lãnh 101°
Cột số 27 : Cách làng Na Phố 那浦 (Na Pou) 240 m về hướng Đông Nam
Chuẩn độ phương vị từ:
Đỉnh Cô Mạ Lãnh 106°
Đỉnh Lạp Bình Lãnh 180°
Cột số 28 : Cách làng Bản Sầm 本岑 (Penn Ch’in) 360 m về hướng Đông Bắc.
Chuẩn độ phương vị từ:
Đỉnh Lạp Bình Lãnh 107°
Cote 327 (hướng Đông Bắc của đồn Hoàng Mô) 226°
Cột số 29 : Trên khu rừng phía bắc của hợp lưu các sông Đông Mô và Na-Sa.
Chuẩn độ phương vị từ:
Cote 327 85°
Đồn Hoàng Mô (phía Tây) 28°
Cột số 30 : Cách làng Na Sa 那沙 60 m về phía Đông Nam.
Chuẩn độ phương vị từ:
Cote 327 65°
Đồn Hoàng Mô (phía Tây) 343°
Cột chung số 31 : Cách Trình Tường 呈祥 (Tcheng Siang) 600 m về hướng Đông.
Chuẩn độ phương vị từ:
Đồn Hoàng Mô 347°
Đỉnh Đông Lánh Lãnh 東另嶺 (Toung Linh Ling) cote 763 210°
Cột chung số 32 : Cách làng Trình Tường 1160 m về hướng Bắc Tây Bắc .
Chuẩn độ phương vị từ:
Đỉnh Đông Lánh Lãnh 176°
Đỉnh Phá Lai Lãnh (Pa Lai Ling) cote 895 73°
Cột chung số 33 : Trên đèo, khoảng giữa côtes 746 và 750, cách thung lũng Bắc Cương Ải 340 m, về hướng Nam.

5/ Vị trí các cột mốc trên lãnh thổ Trung Hoa :

Cột số 11 : Tại điểm hợp lưu của sông Gia Long 加隆
Chuẩn độ phương vị từ:
Đồn Bắc Thị (góc đông bắc) 11°
signal a 51°
Cột số 12 : Đối diện Lục Chân 六真 (Lou Chan).
Chuẩn độ phương vị từ:
signal b 84°
signal g 22°
Cột số 13 : Ở phía Đông Bắc đồn Pháp tên Niệm Thị 捻市 (Yen Che).
Chuẩn độ phương vị từ:
Đồn Nam Si (Blockhaus de Nam-Si) (góc Đông-Bắc) 307°
signal d 55°
Cột số 14 : Tại hợp lưu sông Gia Long với sông phía Đông của Thán sản (T’ann San).
Chuẩn độ phương vị từ:
Blockhaus de Nam Si (góc Tây Bắc) 31°
signal q 343°
Cột số 15 : Ở tại hợp lưu của hai nhánh Tây Bắc và Đông Nam, phía hữu ngạn của nhánh gọi là Na Lưu 那流 (Na Liou).
Cột số 16 : Ở vàm phía trên nơi hợp lưu của sông Gia Long và suối An Bài.
Chuẩn độ phương vị từ:
Khanh Hoài Lãnh 277°
Đồn Bắc Phong Sinh (góc Tây Bắc) 292°
Cột số 23 : Tại giao điểm của đường biên giới và sông Phi Lao, bên bờ hữu ngạn.
Chuẩn độ phương vị từ:
Đỉnh Thanh Long Lãnh 74°
Đỉnh Cao Ba Lãnh 342°
Cột số 24 : Cách Phi Lao 180 m về hướng Tây Nam.
Chuẩn độ phương vị từ:
Đỉnh Cao Ba Lãnh 23°
Đỉnh Cô Mạ Lãnh (Kou ma Ling) point de triangulation cote 960 339°
Cột số 25 : 
Đỉnh Cô Mã Lãnh 99°
Đỉnh Lạp Bình Lãnh (Kieu Pin Ling) 191°
Cột số 26 : Cách làng Việt Nam Dinh Khiếu 營叫 (Yng Kiao) 400 m về hướng Tây.
Đỉnh Cô Mạ Lãnh 92°
Cote 327 249°
Cột số 27 : Cách làng Việt Nam Đông Phê 洞批 (Toung-Pi) 720 m, về hướng Bắc, cote 305.
Chuẩn độ phương vị từ:
Cote 327 109°
Đồn Hoàng Mô (phía Đông Nam) 291°
Cột số 28 : Ở về phía Đông của hợp lưu các sông Đông Mô và Na Sa.
Chuẩn độ phương vị từ:
Đồn Hoàng Mô (phía Tây) 22°
Cote 327 87°
Cột số 29 : Cách làng Việt Nam Na Sa 那沙 (Na-Cha) 380 m về hướng Đông Đông Nam.
Chuẩn độ phương vị từ:
Đồn Hoàng Mô (phía Tây) 344°
Cote 327 73°
Cột số 30 : Cách làng Trung Hoa Na Xá 那舍 (Na Sié) 100 m.
Chuẩn độ phương vị từ:
Cote 327 64°
Đồn Hoàng Mô (phía Tây) 337°
Cột số 31 : Cách làng Trung Hoa Đông Xá 洞舍 (Toung Sié) 120 m.
Chuẩn độ phương vị từ:
Cote 327 22°
Poste de Hoàng Mô (cote ouest) 336°
Cột số 32 : Cách nơi hợp phát của con suối làm đường biên giới, phía Đông Nam làng Trịnh Tường.
Chuẩn độ phương vị từ:
Cote 327 22°
Khoảng cách với cột mốc ở phía Đông Nam làng Trịnh Tường : 660m
Cột số 33 : Ở tại hợp lưu của con suối đến từ làng Vệ Tàm 衛喒 (Schu-Tsan) với sông Na-Sa.
Chuẩn độ phương vị từ:
Đỉnh Đông Lang Lãnh 60°
Khoảng cách với cột mốc phía Đông Nam Vệ Tàm 400m

Vị trí các cột mốc được ghi chú trên hai bản đồ ở phần 5. 

Cột mốc vùng Quảng Đông (phía Việt Nam)

Hình trên : kiểu mẫu cột mốc biên giới khu vực Quảng Đông, phía Việt Nam.

Cột mốc vùng Quảng Đông (phía Trung Quốc)

Hình trên : kiểu mẫu cột mốc biên giới khu vực Quảng Đông, phía Trung Hoa.

5/ Bản đồ phân giới :

Hướng đi chính thức đường biên giới, đồ tuyến biên giới theo đề nghị của hai phái đoàn Pháp-Thanh đồng thời vị trí các mốc giới được hoạch định trên hai tấm bản đồ (từ hợp lưu sông Gia Long đến Bắc Cương Ải) do ủy ban Chiniac De Labastide thành lập sau đây :

indo ggi 65361 (03)
indo ggi 65361 (02)

6 / Diễn tiến phân giới trong thời kỳ 1890-1891 :

Tạm dịch biên bản 24-6-1890 :

Các Ủy Ban phân giới và cắm mốc sau khi lập một bản đồ chính xác của đoạn biên giới từ hợp lưu sông Gia Long加隆 cho đến Bắc Cương ải北崗隘,

Sau khi nghiên cứu, giữa hai cực điểm này, đồ tuyến biên giới giữa Trung Hoa và An Nam, tức là đoạn thứ hai của biên giới Quảng Ðông,

Ủy Ban Pháp chiếu đúng theo nội dung biên bản phân định biên giới ký tại Móng Cái ngày 19 tháng 3 năm 1887, nhằm ngày mồng 5 tháng 3 năm Quang Tự thứ 13, giữa Ủy Viên Hoàng Gia Tseng và Bộ Trưởng Pháp Dillon, và chiếu theo bản đồ số 1 trên tất cả các chi tiết của nó đã được công nhận là chính xác, đã vạch đồ tuyến biên giới như sau:

I. Từ Bắc Thị 北市 và Gia Long 加隆, biên giới theo đường trung tuyến của sông Gia Long mà sông này là một phụ lưu tây ngạn của sông Bắc Thị北市.

Ở khoảng hai phần ba chiều dài, sông chia ra làm hai nhánh có cùng tầm quan trọng. Một nhánh dài độ 35 lý đến từ hướng Tây Bắc, nhánh còn lại có độ dài khoảng 40 lý đến từ hướng Tây Nam.

sơ đồ hướng đi biên giới 1887

Hình trên : Sơ đồ vẽ bản đồ số 1 (bản đồ đính kèm biên bản phân định 19-3-1887)

Bản đồ số 1 chỉ có vẽ nhánh Tây Bắc, là nhánh sông có độ dài tương đương với 30 lí, được các ủy ban phân định biên giới chỉ định là chiều dài của sông Gia Long 加隆.

Sông này, đúng theo biên bản 29 tháng 3 năm 1887 và bản đồ số 1, phải là đường biên giới trên toàn thể chiều dài của nó, cũng như Ủy Ban Trung Hoa đã công nhận nó trong biên bản ký tại Thán Sản 灘散 ngày 2 tháng 3 năm 1890, nhằm ngày mồng mười tháng 2 năm Quang Tự thứ 16.

Các Ủy Ban Phân Ðịnh đã lấy đường biên giới là nhánh sông Tây Bắc cho đến nguồn của nó. Ủy Ban phân giới Pháp đã lấy điểm nguồn của sông này để làm điểm gốc cho một đường thẳng vạch đến điểm A, điểm này ở cách 3 lý về hướng Bắc ngôi chợ cũ của làng Ðộng Trung 峝中. Ðường thẳng này tạo thành đường biên giới giữa An Nam và Trung Hoa, từ điểm nguồn của sông này với điểm A (甲).

Ðiểm phải được lưu ý là đường thẳng này theo lẽ đi từ hướng Ðông Nam đến Tây Bắc, như trên bản-đồ số 1, lại đi từ hướng Ðông Bắc đến Tây Nam.

Ủy ban Pháp nhìn nhận rằng, chiếu đúng theo biên bản phân định biên giới, các địa hạt Lãnh Hoài 嶺懷, Bi Lao 狓勞, còn được viết là Phái Lâu 派樓, Bản Hưng 扳興 thuộc về Trung Hoa; nhưng chúng lại ở phía dưới đường thẳng được nhận là đường biên giới, vì vậy tạo thành một số các vùng đất Trung Hoa trên lãnh thổ An Nam.

Một trong các vùng đất này phải nhượng lại cho An Nam, để đổi lại vùng Nam Lý 南里 của An Nam đã nhượng cho Trung Hoa, theo như biên bản ký tại Ðông Hưng 東興 ngày 15 tháng 4 năm 1890, nhằm ngày 26 tháng 2 năm Quang Tự thứ 16.

Về phần trái núi Phân Mao Lãnh 分茅嶺 thì không ở về phía Ðông Bắc của Bản Hưng 扳興, cũng không ở một địa phương nào trong vùng; các vụ tìm kiếm tỉ mỉ nhất cũng đã không tìm thấy, cái tên này hoàn toàn xa lạ trong dân chúng.

Chiếu theo biên bản đã ghi trên, làng Ðộng Trung 峝中 và Na Dương thuộc về An Nam.

Làng sau cùng thì vẽ rất sai trên bản đồ số 1, đáng lẽ nó ở về phía Nam của Ðộng Trung 峝中 và phía Bắc của làng Trình Tường, thì lại ở Tây Bắc của Ðộng Trung 峝中 và phía Tây Nam của Trình Tường, đối diện với biên giới Quảng Tây.

II. Từ điểm A (甲)đường biên giới đi về hướng Bắc Cương Ải 北崗隘; bắt buộc bao bọc làng Trình Tường thuộc An Nam, vì vậy tạo thành một vòng cung mà phần lồi quay về hướng Ðông.

Ðường biên giới đi tiếp đến, buộc phải theo địa hình, đỉnh 940, sau đó đỉnh 1032, bắt vào biên giới thiên nhiên cũ của An Nam và Trung Hoa, đến đỉnh 1365 của núi Kiểu Tào Sơn 矯曹山, theo lại đường biên giới cũ là một con suối cho đến Bắc Cương Ải 北崗隘.

Có vấn đề phải làm liên quan đến làng Na Dương 那陽 được trao cho An Nam. Việc nghi nhận về làng nầy được ghi ở trên.

Về ngọn núi Phái Thiên Sơn 派遷山, theo dân địa phương thì nó ở cách nhiều ngày đường về hướng Tây chứ không phải ở vùng chung quanh Bắc Cương Ải 北崗隘. Nhưng vị trí của ải mang tên này cũng không được xác định một cách rõ ràng; nó ở khoảng 30 lí theo đường thẳng từ làng thuộc An Nam tên Bình Liêu苹寮.

Chiếu đúng theo biên bản phân định biên giới, các làng Na Quang 那光 và Bản Thân (Thôn) 板吞 ở bên phía biên giới (đối diện với An Nam) thì thuộc về Trung Hoa.

Việc nên ghi nhận, ngược với những chi tiết ghi trên bản đồ số 1, Bắc Cương Ải 北崗隘 theo lẽ ở về phía Tây Nam Ðộng Trung 峝中 thì ở phía Bắc của làng này, mà làng này ở về phía Nam chứ không phía Bắc của làng Trình Tường呈祥; hướng tổng quát của đường biên giới đáng lẽ là từ Ðông Bắc đến Tây Nam thì trước hết từ Tây Nam đến Ðông Bắc, sau đó từ Nam lên Bắc và cuối cùng từ Ðông Bắc đến Tây-Nam, có nghĩa là hầu như đi ngược lại hoàn toàn nội dung bản đồ số 1.

sơ đồ đồ tuyến đường biên giới theo đề nghị của phái đoàn Pháp

Hình trên : sơ đồ đồ tuyến của ủy ban Pháp.

Ðồ tuyến của Ủy Ban Pháp thì hoàn toàn đúng với nội dung biên bản phân định biên giới ngày 29 tháng 3 năm 1887, Ủy Ban Trung Hoa phản đối như sau:

I. Bắt đầu từ ngã rẽ của sông Gia Long 加隆, Ủy Ban Trung Hoa lấy đường biên giới là nhánh sông đến từ hướng Tây Nam, nhánh này không có vẽ trên bản đồ số 1, sau đó họ rời nhánh sông này trước rất xa điểm nguồn của nó, tại điểm mà thế nào đường thẳng bắt nguồn từ điểm này để đến điểm ở tại chợ cũ của làng Ðộng Trung 峝中 có một hướng chính xác Ðông Tây.

Từ chợ cũ của làng Ðộng Trung 峝中 cho đến điểm A cách 3 lý về hướng Bắc, Ủy Ban Trung Hoa cho rằng đường biên giới là một đường thẳng từ Nam lên Bắc.

Không có tranh chấp về vị trí của điểm A (甲).

Các ủy viên Trung Hoa đã biện luận cho đồ tuyến của họ với những lý lẽ như sau:

1. Theo họ, nhánh sông Gia Long 加隆 đến từ hướng Tây Nam thì quan trọng hơn nhánh đến từ hướng Tây Bắc; nhánh sau cùng chỉ là một phụ lưu.
2. Nếu họ không lấy biên giới là con sông cho đến tận nguồn, vì theo họ, toàn thể chiều dài của sông chỉ có nghĩa là toàn thể chiều dài trên vùng đồng bằng; tất cả phần của dòng sông chảy trong núi thì không tính.
3. Nếu họ nối đến chợ cũ của làng Ðộng Trung 峝中 mà không nối đến điểm A (甲), là điểm mà đường biên giới rời khỏi sông Gia Long 加隆, vì dưới mắt họ, chỉ có những đường thẳng đi từ Ðông sang Tây hay ngược lại. Tất cả những đường có hướng khác là những đường nghiêng.
Dựa trên căn bản này, họ nối, bằng một đường thẳng thứ hai đi từ Nam lên Bắc, từ chợ cũ Ðộng Trung 峝中 đến điểm A (甲). 

sơ đồ đồ tuyến đường biên giới theo đề nghị của phái đoàn Trung Hoa

Hình trên : sơ đồ đồ tuyến của ủy ban Trung Hoa.

Ủy Ban Pháp phản bác một cách mạnh mẽ tất cả các chi tiết của đồ tuyến nầy, nó đi ngược lại hoàn toàn các công ước quốc tế.

1. Nói rằng nhánh Tây Nam của sông Gia Long 加隆 thì quan trọng hơn nhánh Tây Bắc là không đúng; lưu lượng hai nhánh sông ở tại nơi hợp lưu thì gần giống như nhau; dân địa phương chỉ định một cách bất kỳ nhánh này hay nhánh kia là dòng chánh của con sông.

Vả lại, nhánh Tây Bắc là nhánh duy nhất hiện hữu trên bản đồ phân định số 1; cũng là nhánh mà độ dài tổng cộng của nó gần nhất với độ dài phỏng chừng được các ủy ban phân định biên giới chỉ định, như vậy không nghi ngờ nhánh này mới là đường biên giới chứ không phải nhánh Tây Nam.
2. Các Ủy Viên Pháp không thể chấp nhận lý thuyết mới cũng như lạ đời là con sông chỉ bắt đầu tính khi nào nó chảy ở đồng bằng.

Biên bản phân định biên giới chỉ định rằng sông Gia Long 加隆 là đường biên giới trên cả chiều dài của nó; như vậy là phải theo dòng sông cho đến nguồn của nó, có nghĩa là cho đến nguồn của nhánh Tây Bắc được các ủy ban phân định nhìn nhận là đường biên giới.

3. Các Ủy Viên Pháp cũng không thể chấp nhận lý thuyết còn lạ hơn lý thuyết trước là những đường thẳng chỉ có thể vạch từ Nam lên Bắc hay từ Ðông sang Tây, hoặc ngược lại.

Họ cũng giải thích một cách khó khăn, làm thế nào đường thẳng Ðông Tây bắt đầu tại chợ cũ của làng Ðộng Trung 峝中,cắt nhánh Tây Nam của sông Gia Long 加隆,đúng ngay tại điểm mà sông này rời núi. Ðây là một sự tình cờ đến từ sự huyền diệu.

Các ủy Viên Pháp cho rằng sử dụng các lý lẽ và cách thức như vậy là ngăn chận mọi tranh cãi đứng đắn và trung thực.

II. Giữa điểm A (甲) và Bắc Cương Ải 北崗隘, Ủy Ban Trung Hoa chỉ trích rằng đồ tuyến của Ủy Ban Pháp thì quá ngoằn nghoèo. Họ đòi hỏi một đồ tuyến trực tiếp giữa hai điểm trên mà không nghĩ đến việc phải tránh làng Trình Tường mà biên bản phân định biên giới đã chỉ định là của An Nam.
Về vấn đề liên quan đến làng này thì Ủy Ban Trung Hoa cho rằng nó không phải là làng đã được biên bản phân định biên giới chỉ định. Họ đặt căn bản lên việc làng này, được gọi tên trong hồ sơ trên đây là Trình Tường 呈祥, được gọi tên trong vùng là Ðịnh Tưởng 定想. Theo các Ủy Viên Thanh triều, làng Ðịnh Tưởng 定想 thuộc về Trung Hoa và phải tìm xa hơn về phía Ðông làng có tên là Trình Tường 呈祥 thuộc về An Nam.

Sự xác nhận nầy không đúng. Trình Tường 呈祥 và Ðịnh Tưởng 定想 chỉ là một làng, đó là làng đã được chỉ định trong biên bản 29 tháng 3 năm 1887, dưới cái tên thứ nhất thì sai, nó chỉ được biết đến qua cái tên thứ hai.

Trong những điều kiện như vậy, Ủy Ban Pháp không chấp nhận đồ tuyến do Ủy Ban Trung Hoa đề nghị, từ điểm A (甲)cho đến Bắc Cương Ải 北崗隘.

Mặt khác, các Ủy Viên Thanh triều, thuộc vùng Quảng Ðông, đã cho biết ý kiến của họ rằng, họ không bận tâm đến việc phân giới từ điểm A (甲)trở đi, vì giữa điểm này và Bắc Cương Ải 北崗隘, biên giới sẽ được ủy viên Quảng Tây phụ trách.

Ủy Ban Pháp chỉ biết ghi nhận lời tuyên bố này mặc dầu thấy rằng các Ủy Viên Trung Hoa dường như mâu thuẫn với các chi tiết địa lý được công nhận cho đến ngày hôm nay cũng như với nội dung của biên bản phân định 29 tháng 3 năm 1887.

Tóm lại, Ủy Ban Pháp giữ nguyên đồ tuyến của họ từ hợp lưu của sông Gia Long 加隆 cho đến Bắc Cương Ải 北崗隘, vì cho rằng nó phù hợp hoàn toàn với biên bản cũng như những phần đã được công nhận là đúng trong bản đồ số 1 kèm theo biên bản nói trên.

Ủy Ban Pháp phản đối đồ tuyến do Ủy Ban Trung Hoa đề nghị vì nó đi ngược lại hoàn toàn với công ước.

Ủy ban Trung Hoa tuyên bố giữ nguyên đồ tuyến của mình và không công nhận đồ tuyến của Ủy Ban Pháp.

Trong các điều kiện này, sự thỏa thuận không thể đạt được giữa hai Ủy Ban, họ cùng biểu quyết, trong một thỏa ước chung, hai bên sẽ đệ trình vấn đề lên Tổng Lý Nha Môn và Ðặc Sứ Pháp tại Bắc Kinh để giải quyết. Hai ủy ban chia tay và chờ đợi sự quyết định chung cuộc.

Dầu vậy, trước khi rời các Ủy Viên Trung Hoa, Ủy Ban Pháp làm một bản tuyên bố như sau:

Sự so sánh bản đồ thứ 1, đoạn từ nguồn phía Bắc của sông Gia Long 加隆 đến Bắc Cương Ải 北崗隘,với bản đồ được lập lên để dùng vào việc phân giới do các trắc địa viên thuộc ủy ban Pháp thiết lập, cho thấy những chi tiết trong bản đồ số 1 hoàn toàn sai với thực tế.

Trên bản đồ số 1, do các nhà địa dư Trung Hoa vẽ mà các Ủy Viên Pháp tin tưởng và không thể kiểm chứng lại, Ðộng Trung 峝中 được đặt cách hơn 25 cây số, khoảng 45 lí, về phía Bắc của vị trí thật sự của nó.

Như thế theo bản đồ, đường biên giới theo đường thẳng bắt đầu từ nguồn Bắc của sông Gia Long đi về hướng Tây Bắc, rồi sau đó trở lại hướng Ðông Nam về Bắc Cương Ải 北崗隘, nhưng sự thực thì ngược lại.

Từ nguồn Bắc của sông Gia Long 加隆 cho đến điểm A, đường biên giới theo đường thẳng từ Ðông Bắc đến Tây Nam, sau đó lên lại về hướng Bắc để đến Bắc Cương Ải 北崗隘. 

Lầm lẫn do bản đồ vẽ không đúng địa hình. Ủy Ban Phân Ðịnh Pháp tưởng rằng vùng đất đó thuộc An Nam, tạo thành một góc nhọn đâm sâu hơn 25 cây-số, khoảng 45 lí, vào Quảng Ðông, nhưng trên thực tế thì đất nầy đâm sâu vào lãnh thổ An Nam như một góc nhọn.

Mặt khác, sự nghiên cứu, trên bản đồ cũng như trên thực địa, về đường biên giới qui ước, cho thấy sai lầm ở khắp nơi và vì vậy không thể chấp nhận được.

Ðường biên giới này thực ra, trên toàn chiều dài của nó, theo một con đường băng qua các sườn núi, cắt những con sông, vượt ngang đồng bằng mà không theo cách cấu tạo hình thể của đất đai.
Vì thế, nếu được phân giới với những cẩn trọng, việc này cũng sẽ đem lại những tranh chấp liên tục và những khó khăn về mọi mặt giữa hai cường quốc láng giềng.

Vì các lý lẽ đó, Ủy Ban Phân Giới Pháp cho rằng:

- Ðường biên giới theo công ước xác định do biên bản 29 tháng 3 năm 1887 xác định thì mọi nơi đều sai và không nơi nào chấp nhận được.

- Ðiều quan trọng là Ủy Ban Phân Ðịnh Pháp đã chỉ công nhận biên bản trên chỉ vì sự tin tưởng của họ đã bị lạm dụng do một tấm bản đồ hoàn toàn sai, nó trình bày một cách sai lạc rằng lãnh thổ An Nam thì tiến sâu vào lãnh thổ Trung Hoa, trong lúc trên thực tế thì ngược lại, lãnh thổ của Trung Hoa lại lấn sâu vào lãnh thổ An Nam.

Vì thế, yêu cầu xét lại sự phân định của đường biên giới An Nam & Trung Hoa từ hợp lưu của sông Gia Long 加隆 cho đến Bắc Cương Ải 北崗隘 và sự chọn lựa chung cuộc trên toàn chiều dài của đoạn biên giới này, là đường biên giới cũ của An Nam và Trung Hoa, duy nhất dựa trên thiên nhiên, duy nhất thuần lý, duy nhất chấp nhận được. Có nghĩa là con sông Bắc Thị 北市 từ Gia Long 加隆 cho đến điểm mà nó không thể lưu thông bằng xuồng, và từ đó cho đến Bắc Cương Ải北崗隘, là (đường nối) các đỉnh cao nhất của dãy núi.



Trương Nhân Tuấn

Tài liệu tham khảo : hồ sơ Phân định biên giới CAOM

Tập sách : Biên giới Việt-Trung 1885-2000 Lịch sử thành hình và những tranh chấp. NXB Dũng Châu 2005. Tác giả Nhân-Tuấn Ngô Quốc Dũng.


2014-03-10 21:13 GMT-07:00 Tran Quang Dieu <tranqu...@hotmail.com>:
 


Ông con chiên Lữ Giang nói "Phải cám ơn người Pháp!..." (lần trước là con chiên Vũ Linh Châu), với lý do là nhờ họ mà Việt Nam "có biên giới Việt - Trung"?

Người Pháp họ đã cướp đất nước Việt Nam trở thành thuộc địa của họ, nhưng họ không đủ sức cướp được nước Tàu, thành ra giữa Pháp và Tàu bèn phân ranh nhau về biên giới!

Thế sao ông con chiên Lữ Giang bảo người Việt "Phải cám ơn người Pháp!..." ?

Trước khi người Pháp (do các giáo giặc cùng với giáo gian xúi giục và tiếp tay đắc lực) sang xâm lăng cướp chiếm Việt Nam thì giữa Tàu và Việt Nam, nếu không hề có biên cương lãnh thổ nhất định theo thực lực cai quản đất đai của từng mỗi thời kỳ, mỗi triều đại? Thế thì, những lúc như tiền Lê và nhà Lý đáng Tống, nhà Trần chống quân Nguyên, hậu Lê đề kháng nhà Minh, Quang Trung đại phá quân Thanh thì lũ giặc kia tháo chạy đến đâu qua phía biên giới của chúng thì quân ta mới phải dừng lại?

Tập kết chúng cho tới Thiên An Môn ngày nay?

Nói chuyện vô lý, sống sượng vậy mà Lữ Giang bảo "Phải cám ơn người Pháp!..." ?

Hàn Lâm Viện Pháp tại Paris người ta còn lương thiện, với đạo đức thời đại và sự khách quan lịch sử, họ còn hỗ trợ cho trí thức Việt Nam tiếp cận, khai quật và moi ra những trang sử liệu giá trị về việc tiền nhân của họ đã nhẫn tâm với xứ sở, với dân tộc Việt Nam. Nhưng con chiên Lữ Giang thì bảo "Phải cám ơn người Pháp!..."? 

Có những sự kiện (thực hư, hiệu quả ra sao là chuyện khác) về việc người Việt Nam trước đây muốn triều đình Trung Hoa nên giao trả lại Quảng Đông và Quảng Tây?

Việc chưa đi đến đâu theo dòng thời gian bành trướng sức mạnh chiếm cứ (Tàu) lẫn người muốn đòi lại (Việt Nam), thì, người Pháp xen vào cướp nước Việt Nam rồi cùng với Tàu phân ranh biên giới Việt - Trung mà Lữ Giang còn bảo dân tộc Việt "Phải cám ơn người Pháp!..." là nghĩa gì?

Về cái cổng Ải Nam Quan do ai xây, và xây bằng gì, từ hồi nào, đối với thời đại, khi phải kết luận? Khó lắm sao? 

Tuy nhiên, khi đã vuột khỏi tầm tay đòi lại Quảng Đông và Quảng Tây? Từ ranh cương chân tường Ải Nam Quan mà để cho mất vào tay lân bang thì đấy là vô trách nhiệm. 


Trần Quang Diệu


To: damth...@y7mail.com
From: lugia...@yahoo.com
Date: Mon, 10 Mar 2014 20:00:08 -0700
Subject: [DDCL] Phải cám ơn người Pháp!...Tái bút ...BỌN GIẶC ĐẦU...

 

Phải cám ơn người Pháp.
Bây giờ không tranh luận nữa, tôi chỉ kể vài chuyện lịch sử cho bà nghe cho vui.
Nếu bà chịu khó ngồi đọc biên bản các cuộc thảo luận về biên giới giữa Pháp và Trung Hoa từ 1883 – 1887 bà mới thấy nếu không có Pháp, Việt Nam không có biên giới Việt - Trung như ngày nay. Phải cám ơn người Pháp.
1.- Chuyện Ải Nam Quan
Sử Việt Nam ghi Ải Nam Quan được Tàu xây lúc nào và đặt tên lúc đầu là gì, đó là cuốn “Phương Đình Địa Dư Chí” của Nguyễn Văn Siêu. Chắc bà biết câu nói của Vua Tự Đức “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán” nên tôi không cần phải nói thêm về Nguyễn Văn Siêu nữa.
Khi thảo luận về đoạn biên giới trước Ải Nam Quan, Trung Hoa đòi phải cắm cột móc ở Đồng Đăng, tức cách cửa ải Nam Quan 3 cây số, nhưng Pháp không chịu. Pháp bắt phải cắm cách cửa ải 100 thước mà thôi. Trung Hoa cũng phải chịu. Và Hiệp ước Thiên Tân 1884 đã ghi đúng như vậy.
2.- Chuyện Đồng Trụ
Chuyện Đồng Trụ cũng được nói trong sách này, đọc nghe cũng rất vui. Mã Viện cắm đến 3 cột móc. Cột đầu tiên cắm ở biên giới Việt – Trung. Cột thứ hai cắm ở Đèo Ngang, biên giới giữa Việt Nam và Chiêm Thành. Nhưng sau khi đánh chiếm đất Chiêm Thành vào đến Phú Yên, Mã Viện dời cột Đồng Trụ ở Đèo Ngang vào Đèo Cả!
3.- Chuyện Vịnh Bắc Việt
Khi thảo luận về Vịnh Bắc Việt, Pháp còn chơi cha hơn nữa. Từ cửa sông Bắc Luân, Pháp vạch một đường thẳng xuống, chia phần bên phải cho Tàu còn phần bên trái của ta. Như vậy ta chiếm đến 2/3, còn Tàu chỉ có 1/2. Sau này, vì Việt Nam và Trung Quốc đều gia nhập Công Ước Quốc Tế về Luật Biển 1982, nên Vùng Vịnh phải được chia lại theo công ước này. Theo Công Ước, Vùng Vịnh được chia theo đường trung tuyến (meridiam), tức đường chạy ở giữa, nên Việt Nam được một nữa và Tàu một nữa.
4.- Chuyện Hòa Sa và Trường Sa
Năm 1887, Trung Hoa đòi bàn luôn về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng Pháp trả lời rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của Pháp, không phải bàn. Trung Hoa đành chịu.
Chúng ta phải cám ơn Pháp là như vậy.

From: THU-HUONG <damth...@y7mail.com>
To: "dienda...@yahoogroups.com" <dienda...@yahoogroups.com>
Cc: "tudo-n...@yahoogroups.com" <tudo-n...@yahoogroups.com>; "VIDA...@yahoogroups.com" <VIDA...@yahoogroups.com>
Sent: Monday, March 10, 2014 6:14 PM
Subject: [DiendanDanToc] Lại...Tái bút ...BỌN GIẶC ĐẦU...

 
Vâng; văn kiện lịch sử của Tàu đã ghi là thế và cũng có những văn kiện lịch sử của Anh, Pháp...cũng ghi theo.(sic)

Ông cho rằng Ải Nam Quan là của Tàu và tôi chày cối (như ở dưới) thì cũng cứ để cho công luận xem nhé, miễn thư riêng cho tôi? Ông mà "lý luận" và chứng minh thêm một tý nữa thì tôi e rằng ViệtNam cũng là một tỉnh lạc loài của Tàu. Ông cứ lý luận và chứng minh đi nhé? Tôi không chày cối nữa mà sẽ theo ông. Nếu VN là 1 tỉnh của Tàu thì tôi đề nghị tên của tỉnh nầy là tỉnh Nam Man nhé?

*Có một việc bên lề, nhỏ thôi là "chọi đá đường rầy", tôi và mọi người đã nghe ông giải thích về cụm từ nầy, dù thế nào đi nữa, cụm từ nầy mang đầy tánh trẻ con và ông luôn sử dụng? Cùng một ý đó, ông nên tìm ra một cụm từ nào nghe "người lớn" hơn.

Tôi xin chấm dứt "lý luận" với ông nhé? Nhường cho công luận nếu họ để ý tới.

Thu Hương

----- Forwarded Message -----
From: Lu Giang <lugia...@yahoo.com>
To: THU-HUONG <damth...@y7mail.com>
Sent: Tuesday, 11 March 2014 11:57 AM
Subject: Re: Tái bút ...BỌN GIẶC ĐẦU...

   Tôi luôn xác định Ải Nam Quan là của Tàu, vì trong lịch sử và trong văn kiện pháp lý nói Ải Nam Quan là của Tàu. Tôi đã đưa sử liệu và văn kiện pháp lý để chứng minh. Ai nói rằng tôi nói sai phải đưa ra phản chứng. Đó là nguyên tắc của tranh luận.
    Chưa có người nào có học sử và học luật phản bác được những chứng minh của tôi. Bà chỉ cãi chày cãi cối và chọi đá đường rầy xe lửa. Đó không phải là tranh luận.

From: THU-HUONG <damth...@y7mail.com>
To: "dienda...@yahoogroups.com" <dienda...@yahoogroups.com>
Cc: "tudo-n...@yahoogroups.com" <tudo-n...@yahoogroups.com>; "VIDA...@yahoogroups.com" <VIDA...@yahoogroups.com>
Sent: Monday, March 10, 2014 5:09 PM
Subject: [tudo-ngonluan] Tái bút ...BỌN GIẶC ĐẦU...

 
Tái bút...

Mấy tuần trước, tôi có nghe đâu đó về việc ông (Lữ Giang) "lý luận" rằng: Ải Nam Quan là của Tàu(?). Ông "lý luận" đại khái rằng: Ải (Nam Quan) nầy nằm về hướng nam của Tàu và về phía cực bắc của VN cho nên Ải nầy là của Tàu chớ không phải của VN? Như thế cho là lý luận? Đơn giản quá vậy? Hay lại đi lấy tài liệu của Tàu ra để chứng minh sau đó? 

Ông nên biết rằng; đất và người của giòng Bách Việt không phải chỉ có Lạc Việt (bắc Việt) và Việt Thường (Thanh, Nghệ, Tĩnh) mà còn có Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến...v...v...Ải Nam Quan không nằm về phía nam của các vùng đất nầy thì nằm về phía nào. Người Bách Việt thời đó không đặt là Ải Nam Quan thì đặt là Ải gì? Những gì bên kia bờ sông Dương Tử ông cho là Tàu hết? Cũng đơn giản quá hả?

Tôi viết cho công luận hơn là cho ông (LG), ông cũng nên viết như thế, đừng viết riêng cho tôi.

Thu Hương

----- Forwarded Message -----
From: THU-HUONG <damth...@y7mail.com>
To: "dienda...@yahoogroups.com" <dienda...@yahoogroups.com>
Cc: "tudo-n...@yahoogroups.com" <tudo-n...@yahoogroups.com>; "VIDA...@yahoogroups.com" <VIDA...@yahoogroups.com>
Sent: Tuesday, 11 March 2014 10:48 AM
Subject: BỌN GIẶC ĐẦU TRỌC DÙNG CHUỒNG LẬP MẬT KHU CHO VC ĐÁNH GIẾT NHÂN DÂN MIỀN NAM

Tôi không lý luận với bất cứ cá nhân nào; tôi vẫn cho rằng, tôi đang hướng dẫn dư luận đến một góc cạnh để có 1 tầm nhìn nào đó về cả 2 loại Việt gian, qua đó, dân tộc tôi đã bị trầm luân, tang tóc và hệ luỵ đến nay vẫn chưa dứt...

Trích....
From: Thaovy Hoang <hoang....@ymail.com>
To: 
Sent: Wednesday, 20 January 2013 11:28 AM
Subject: 
"Chúng tôi không có gì để nói chuyện trên các diễn đàn với Việt gian. Email nầy viết để cho các diễn đàn đọc chơi thôi..."  Ngưng trích

From: Thaovy Hoang <hoang....@ymail.com>
To: 
Sent: Wednesday, 20 January 2013 11:28 AM
Subject: 

Trích...
1/ Các ông chống Cộng Sản? Lũ chó đẻ Cộng Sản còn đâu mà chống? Chúng nó làm điêu tàn đất nước VN của chúng tôi 60 năm (tạm lấy mốc từ năm 1930-1990 thế kỷ trước). Năm 1975; nếu chúng nó còn là Cộng Sản "thuần chủng" thì các ông và tôi còn có ngày hôm nay ngồi trên computer để "cắn" nhau? 

Hãy ngược dòng lịch sử của nhân loại để thấy lũ chó đẻ Cộng Sản nầy giết hằng trăm triệu dân của chúng nó từ thằng nghiệt súc Lenin, đến Mao Trạch Đông, đến HCMinh ở miền bắc VN và gần hơn hết là Căm Bốt cũng ngay trong năm 1975 đó! 

Các ông có hiểu 2 chữ Cộng Sản là gì không? Bố của thằng nghiệt súc Trường Chinh-Đặng Xuân Khu là người có tài sản bằng 1/100, 1/1000 của thằng nghiệt súc Nguyễn Tấn Dũng mà chính thằng Trường Chinh giết bố nó đó. Vì sao? Vì tụi nầy là Cộng Sản thuần chủng. Đám chó đẻ đang cầm quyền sinh sát trên quê hương VN của chúng tôi hiện nay không còn là Cộng Sản nữa. Chúng nó chỉ là một bầy cướp cạn, bị hợm của Tàu mà sắp làm mất nước của chúng tôi. Hiểu chưa? Chúng nó là hậu duệ của đám chó đẻ Cộng Sản xưa. Chúng nó như những con ve đang lột xác khỏi cái vỏ Cộng Sản, nhưng chưa lột xong hẳn hòi. Các ông đánh Cộng Sản là đang đánh vào khoảng không đấy! Đồ ngu! 

Email nầy chủ yếu không nói về lũ chó đẻ nầy! Giờ nói về các ông.

2/ Các ông là ai? Các ông đã không thể biết các ông là ai cả! Các ông có hiểu 2 chữ Việt gian là gì không? Từ ngàn năm xưa, giặc Tàu xâm chiếm đất nước VN chúng tôi, những kẻ theo ngoại bang (Tàu), chúng tôi gọi là Việt gian. Gần hơn nữa, khi giặc Pháp đến và đánh chiếm quê hương của chúng tôi, những người theo ngoại bang (Pháp), chúng tôi gọi là Việt gian. 

Vào những năm của thập niên 80, thế kỷ trước, các ông gọi lũ chó đẻ kia là Cộng Sản, không dùng chữ Việt gian. Thời gian nầy, có một người ở Úc gọi Cộng Sản là Việt gian theo chủ nghĩa Cộng sản và gọi các ông là Việt gian theo Pháp, Mỹ! Từ đó, các ông dùng chữ Việt gian một cách "lộn tùng phèo" cho đến nay. Các ông "thuổng" chữ của người ta mà cũng không biết dùng? 

Trở lại việc các ông là ai? Khi giặc Pháp đã đến và gây đau thương máu lửa trên quê hương VN của chúng tôi cho đến năm 1954 (tạm cho là khoảng trên dưới 80 năm). Chúng bị thua ở Điện Biên Phủ (1954) bởi đám Việt gian Cộng Sản (ghi chú: nên nhớ rằng, trận ĐBPhủ gần như chủ yếu là quân đội và vũ khí đến từ Tàu, chứ không phải chủ yếu là CSVN. Đây là một trong những món nợ di hại cho đến ngày nay). Pháp bồng bế nhóm Việt gian theo Pháp chạy vào nam và cố giữ miền nam rồi tái trang bị cho nhóm nầy cái "lý tưởng Quốc gia chống Cộng". Mỹ nhảy vào thay Pháp để dựng lên một nước Việt Nam thứ hai và đặt danh xưng cho nhóm nầy là "tiền đồn chống Cộng". Hai lũ nghiệt súc Việt gian nầy đã rước voi về dày mả tổ, đã làm tan nát quê hương của chúng tôi, dân tộc tôi mang mãi một niềm đau của thân phận nhược tiểu và cho đến nay vẫn chưa gượng dậy được!  Các ông ôm mãi một tâm địa tàn độc với quê hương, dân tộc chúng tôi bằng cách muốn tái lập cuộc chiến tranh "Quốc-Cộng"? Nếu Cộng không còn thì cái "lý tưởng" và "tiền đồn" kia là cái đéo gì? Cũng cái ông (ở Úc) "đẻ" ra chữ Việt gian kia cũng đã nói: Tất cả mọi chủ nghĩa, lý tưởng...đều có giai đoạn, dân tộc là trường tồn. Họ sẽ phải trả lại cho dân tộc những gì thuộc về dân tộc. Hoặc; Việt gian theo Cộng Sản ra đi thì Việt gian theo Pháp, Mỹ lại về? Các ông nghĩ gì? Hãy trở về với dân tộc nếu có thể!

Dân tộc tôi chỉ có tấm lòng với quê hương của mình, trong khi 2 nhóm Việt gian kia nhận "viện trợ" hùng hậu từ ngoại bang để đàn áp chúng tôi...Ở miền bắc có những phong trào như Nhân Văn và Giai Phẩm, trận Quần Bà ở Quỳnh Lưu...trong nam thì cả thế giới cũng đã thấy đồng bào tôi chống nhóm Việt gian theo Pháp, Mỹ như thế nào rồi. Ông Phạm Trọng Luật đang gởi những cái "bạt tai" lên các diễn đàn là rất đúng, vì  ông đứng trên "lập trường" của nhóm Việt gian theo Pháp, Mỹ!

Tại sao tôi nói quê hương Việt Nam là của chúng tôi mà không phải là của chúng ta? Vì các ông mang hình hài, tiếng nói của người Việt Nam, nhưng các ông không phải là người Việt Nam. Các ông có nhiều đời làm Việt gian theo Pháp, Mỹ! Một trong những dấu hiệu đơn giản để nhận diện ra Việt gian (cả 2 loại) là trong nhà chúng không có bàn thờ ông bà, tổ tiên! Trên bàn thờ của chúng nó là những thứ khác! 

Chúng tôi không có gì để nói chuyện trên các diễn đàn với Việt gian. Email nầy viết để cho các diễn đàn đọc chơi thôi. Ngưng trích

HtTVI
********
Tái bút:
Tụi bây nói là tao bưng bô cho Cộng Sản? Nếu được hân hạnh nầy tao sẽ làm liền và huy động cả dân tộc tao làm nữa. Tụi tao bưng bô cho lũ nghiệt súc Việt gian Cộng Sản về cho lũ nghiệt súc Việt gian theo Pháp, Mỹ tụi bây ăn và nếu tụi bây cho phép, tụi tao cũng sẽ bưng bô của lũ tụi bây về cho lũ kia ăn. Cả 2 lũ tụi bây đều phải ăn và ăn cho chết mẹ tụi bây hết đi cho dân tộc tao bớt khổ.

Hãy câm mõm chó lại nếu tụi bây không muốn tao đào mồ cuốc mả tổ tiên tụi bây lên nghe chưa? Hèn chi thằng nghiệt súc Tố Hữu nó nói về tụi bây: "Liếm gót giày Tây béo mượt đầu."

Đó là văn hoá của Việt gian theo Pháp, Mỹ!
HtTVI
***

From: Lu Giang <lugia...@yahoo.com>
To: THU-HUONG <damth...@y7mail.com>
Sent: Tuesday, 11 March 2014 10:24 AM
Subject: Re: BỌN GIẶC ĐẦU TRỌC DÙNG CHUỒNG LẬP MẬT KHU CHO VC ĐÁNH GIẾT NHÂN DÂN MIỀN NAM

Bà Đàm Thu Hương lý luận vui nhĩ, gióng Giác Hạnh đúc!
Ráng lý luận thêm nữa rồi tôi viết cho mà nghe.

From: THU-HUONG <damth...@y7mail.com>
To: 
Sent: Monday, March 10, 2014 3:55 PM
Subject: [DiendanDanToc] BỌN GIẶC ĐẦU TRỌC DÙNG CHUỒNG LẬP MẬT KHU CHO VC ĐÁNH GIẾT NHÂN DÂN MIỀN NAM

 
Xin chuyển lại những điện thư có sự liên hệ trong đề tài "Bọn Giặc Đầu Trọc..." nầy...
TH

From: Ha AnhTuan 
To:  
Sent: Wednesday, 3 July 2013 1:43 PM
Subject: 
 
Kính chuyển - Tuỳ nghi
Tuấn
(*) Ở cuối điện thư này; tôi xin đính kèm vài điện thư liên hệ.
From: Thu-Huong <damth...@y7mail.com>
To:  
Sent: Wednesday, 3 July 2013 12:10 PM
Subject: 

Mọi người - trong đó có ông Hoàng Anh Tuấn - nói thế thì ông Trần Đình Ngọc và những người như ông Ngọc không hiểu vì nếu hiểu thì họ đã hiểu rồi! Ngắn gọn và đơn giản như người dân Việt thấy và nghĩ - về việc "Việt Nam lọt vào tay Cộng Sản vì Công Giáo" - như sau:

Thời Pháp thuộc, Việt gian theo Pháp để đưa đất nước Việt Nam vào vòng đô hộ của giặc Pháp hầu hết đều là người Công Giáo. Tên tuổi những người nầy còn ghi ở nhiều sách vở, quý vị tự lục tìm mà xem. 

Cuối mùa; Việt Minh lấy danh nghĩa của dân tộc Việt đánh thực dân Pháp. Họ đã được toàn dân ủng hộ (vì đánh thực dân Pháp) ngoại trừ Việt gian theo Pháp là mãnh liệt chống lại Việt Minh.Cuối cùng; Việt Minh thắng Pháp ở trận Điện Biên Phủ năm 1954. Họ (Cộng Sản VN) càng có chính nghĩa với dân tộc Việt và cả thế giới (ngoại trừ đám Việt gian theo Pháp). Pháp thấy không thể tiếp tục đô hộ cả nước Việt Nam và Việt Minh cũng thấy rằng không đủ sức tiếp thu toàn bộ đất nước Việt Nam, họ (cả Pháp và Việt Minh) cùng với vài nước khác (Anh, Mỹ...) chia đôi đất nước. Tất cả Việt gian theo Pháp chạy vào nam. Mỹ nhảy vào miền nam thay Pháp để lập ra một nước Việt Nam thứ 2 (VNCH 1+2) và lấy "Lý tưởng quốc gia" (của Pháp trang bị tinh thần cho Việt gian trước đó) để "lập cái tiền đồn chống Cộng" cho đám Việt gian theo Pháp trước đó và bây giờ - từ năm 1954 - theo Mỹ!

* Như thế, Công giáo (Việt gian theo Pháp) đã giúp giặc Pháp đánh chiếm đất nước Việt Nam, đưa đất nước mình vào vòng đô hộ của giặc Pháp gần một trăm năm. Họ (Công Giáo VN) đã tạo chánh nghĩa cho Cộng sản (vì Cộng sản nhân danh cứu nước để đánh giặc Pháp...) lập được 2 chiến thắng 1954 và 1975...và toàn bộ đất nước lọt vào tay Cộng Sản!

* Dân tộc (Việt) đã bị cả 2 phe Việt gian (Quốc, Cộng) nhân danh cho mưu đồ chánh trị. Dân tộc Việt đã kinh tởm đám Cộng Sản kia thì cũng kinh tởm đám hậu duệ của Việt gian theo Pháp, Mỹ hơn thế nữa, vì dù sao thì đám Cộng cũng "chống giặc Pháp để cứu nước"; đám Quốc thì theo Pháp chống dân tộc rồi tiếp tục theo Mỹ!

Tên Việt gian theo Pháp, Mỹ Trần Đình Ngọc nầy nói "...ăn mòn cơm Quốc Gia" (?)Quốc gia nào? Từ người lính Binh Nhì tới Tổng Thống của VNCH 1+2 đều "lãnh lương" từ (viện trợ) Mỹ và ngày nay "vẫn đang lãnh lương cựu quân nhân" của ngoại bang (tại Úc, Pháp, Mỹ...) vì là Việt gian theo ngoại bang. "...ăn mòn cơm Quốc Gia" hay ăn mòn cơm ngoại bang? Người Việt nhưng tổ quốc là ngoại bang? 

Đời loạn thế! "Người ta" không còn biết nhục khi làm Việt gian! Không còn biết đến tinh thần và tự ái dân tộc!

Thu Hương
***
From: Ho Chi Minh <h.ch...@yahoo.com>
To: > 
Sent: Saturday, 10 August 2013 6:16 PM
Subject: HOÀI NGÔ!

V/V "HOÀI NGÔ!"

Chào các cháu! Ông là Hồ Chó Minh (aka Hồ Chí Minh) đây! 

Đêm nay ông lại vượt thoát được về dương trần, đọc vội vài điện thư và cũng trả lời vội vì trời gần sáng! Nếu đứa nào chưa bao giờ đọc điện thư của ông thì hãy đọc từ dưới (chuỗi điện thư này) lên; vì ông không dài dòng được! Vắn tắt là:

- Quả là thời của con thằng Khả nắm chính quyền miền nam VN (1954-1963) người dân miền nam khá sung túc. Hãy đọc đoạn văn màu tím dưới đây trước khi tiếp ý cho đoạn màu xanh lá cây này...

* Năm 1945 vua Bảo Đại đã thoái vị, trao ấn kiếm của triều đình cho Việt Minh (chấm dứt thời nhà Nguyễn). Việt Minh phát động toàn dân kháng chiến chống giặc Pháp (9 năm; 1945-1954). Thời gian này; sĩ phu của dân tộc bị lưỡng đầu thọ địch (Việt Minh và giặc Pháp) và bị bách hại bởi 2 thế lực này. Pháp kiệt quệ bởi đệ nhị thế chiến và thua Nhật trước đó rồi đến thua Việt Minh ở trận Điện Biên Phủ năm 1954. Mỹ nhảy vào dùng hiệp định Geneve chia 2 đất nước VN và dựng lại cái "bung xung" Bảo Đại (quốc trưởng) để đưa con của thằng Khả (gốc là Việt gian của Pháp) về; không được việc, Mỹ giết nó đi và đưa đứa khác lên! Cuối cùng thì Mỹ bỏ cuộc năm 1975! 

- Về việc con của thằng Khả không được việc với Mỹ: Hiệp định Geneve có điều khoản quy định vào 2 năm sau (1956), cả 2 miền nam+bắc sẽ tổ chức tổng tuyển cử và sẽ có chính quyền của cả nước sau cuộc tổng tuyển cử đó. Nếu tổng tuyển cử xảy ra thì miền bắc sẽ thắng (vì "chính quyền miền bắc" đang có danh nghĩa đánh Pháp cứu nước, còn "chính quyền miền nam" là hậu duệ của Việt gian theo Pháp và lúc đó đang là của Mỹ"). Khi Mỹ đưa con của thằng Khả về; điều tiên quyết của nó (con thằng Khả) phải thi hành là không tổ chức tổng tuyển cử (vì nếu tổng tuyển cử thì Mỹ sẽ mất miền nam), nhưng nó (con thằng Khả) muốn nắm quyền (cho ngoại bang) và "qua mặt" Mỹ; nó "đi đêm" với Bắc Việt vì nó muốn nắm chính quyền của cả nước Việt Nam, chính quyền của miền Bắc sẽ nhập chung và nằm dưới quyền của nó ở miền nam. Nó cho biết "không muốn có cuộc chiến huynh đệ tương tàn" và tuy vũ khí của miền nam thô sơ nhưng đệ thất hạm đội Mỹ sẽ lâm chiến nếu miền bắc dám tấn công miền nam trong lúc đó.Tạm cho đó là thời bình và dân chúng miền nam có đời sống khá sung túc, bởi tiền viện trợ Mỹ không chủ yếu dùng cho chiến tranh. 

* Ở miền bắc, tính đến năm 1954, ông (HồChíMinh) đã tiêu diệt hầu như toàn bộ sĩ phu của dân tộc; số không bị tiêu diệt là số sẽ (đã) không làm được gì nữa!

* Ở miền nam, tính đến năm 1963, đám con thằng Khả (NĐDiệm) đã tiêu diệt toàn bộ sĩ phu của dân tộc; số không bị tiêu diệt là số sẽ (đã) không làm được gì nữa!

Đọc xong đoạn màu tím để tiếp tục với đoạn văn màu xanh lá cây ở trên thì: đừng tưởng sự sung túc của miền nam vào thời 1954-1963 là do tiền túi của con thằng Khả, đừng tưởng nó có tài kinh bang tế thế "vẽ giấy thành tiền" để có sự sung túc cho miền nam, mà do viện trợ Mỹ! Hoài Ngô còn có nghĩa là "hoài kiếp Việt Gian" hiểu chưa?! Người dân Mỹ không đóng thuế để chính quyền Mỹ lấy tiền đó, nuôi bất cứ một giống dân nào ngoài dân Mỹ, hiểu chưa?! Hãy giữ gìn tinh thần và tự ái dân tộc!

* Hãy nhìn về phía trước; đừng nhìn về phía sau với cả 2 loại Việt gian (Việt giang theo Cộng Sản và Việt gian theo Pháp, Mỹ, Vatican...) vì; đã là Việt gian thì không có gì để phải nói đến nữa cả!

Các cháu có hiểu 2 chữ Cộng Sản là gì không? Đứa nào đã đọc và hiểu bộ sách Tư Bản Luận thì nói cho những đứa chưa đọc, chưa hiểu! Ông không có thời gian cho việc giải thích này! Việc trước mắt là: Đám hậu duệ của ông đang cầm quyền ở VN không còn là Cộng Sản thuần tuý nữa! Hình như (?) đa số trong tụi nó đang sợ Tàu chiếm Việt Nam, chúng nó đang tìm cách để "đi" với Mỹ, nhằm giảm bớt sức ép từ phương bắc (Tàu). Tàu nó rất hài lòng khi các cháu giúp nó (Tàu) để cô lập, đánh phá...đám hậu duệ của ông trên chính trường quốc tế! Tàu muốn VN luôn nằm trong quỹ đạo của Tàu, không được có đồng minh khác, nhứt là đồng minh với Mỹ! Chắc chắn rằng đám gián điệp Tàu ở Mỹ phải "xúi" các cháu "đánh" thằng Trương Tấn Sang kỳ rồi ở Mỹ. Nhưng may thay; người Việt tại Mỹ đa số đã sáng suốt mà không bị mắc mưu, vì chỉ có vào khoảng chưa tới 1% người Việt tại Mỹ đi biểu tình chống thằng Sang? 

Sự việc không đơn giản mà ông thì không có thì giờ nên điện thư này nhất định không được rõ ràng lắm. Các cháu ráng mà hiểu. Ông Phải đi đây! Hẹn lần sau nhé?

Ông.
Hồ Chí Minh

----- Forwarded Message -----
From: Pham Quang Lon <lonq...@yahoo.com>
To: 
Sent: Thursday, 4 July 2013 5:12 PM
Subject: 

Hồ Chí Minh,

Mình bây giờ thì đã hiểu hết rồi! Thân phận Việt gian thì cũng thăng trầm như thân phận con người bình thường. 

Trước đây; thời của tao và thằng Khả thì Việt gian theo Tây bị săn lùng như súc vật; đi đâu cũng phải có bè, có lũ, nếu không là đi đoong! Đến khi Mỹ nhảy vô miền nam thì tụi nó như diều gặp gió...tao chẳng biết phải diễn tả làm sao, nhưng mày biết mà. Hậu duệ của tao và của mày sẽ có ngày bị dân tộc săn đuổi như chuột hạch. Hậu duệ của mày thì đỡ hơn. Hậu duệ của tao trước đây 100% là đạo Chúa. Đến thời Mỹ và bây giờ thì chỉ còn khoảng một nửa là đạo Chúa. Từ khi có Vatileaks thì tụi nó bỏ đạo nhiều, cũng may!

Tao chỉ mong đám hậu duệ Việt gian của mày và tao còn nhớ đến mình mà đôi khi "dâng" lên món ngon của tụi mình, mà mày có đề cập trong điện thư đầu tiên của mày có đính kèm ở dưới cùng. Đám gia đình thằng Khả háo món này lắm. Tao trích ra đây một đoạn nhé? Đọc mà phát thèm. Thằng Bút Xuân và thằng Hồng Lĩnh đang giành ăn món này với tụi mình đó Minh? 

Trích điện thư của mầy..."Hằng ngày; nếu cháu bưng phân để lên bàn thờ cho ông bà, cha mẹ của cháu, thì nhớ để cho ông một bát nhá? Cũng như cháu, ông thích món phân người còn tươi, nóng." Ngưng trích

Phạm Quang Lợn
***
----- Forwarded Message -----
From: Ho Chi Minh <h.ch...@yahoo.com>
To:
Sent: Thursday, 4 July 2013 1:22 PM
Subject: 

Tại sao đến bây giờ mà mấy đứa còn đề cập đến đám con thằng Khả? Đã là Việt gian thì không có gì để nói cả! 

Mày nghĩ sao Phạm Quang LON? 

Hồ Chí Minh
***
From: anh tuan hoang <tuan_hoa...@yahoo.com>
To: 
Sent: Wednesday, 3 July 2013 9:54 AM
Subject: 

        Cái con Chó Dại BÚT XUẪN Trần Đình Ngốc càng ngày càng Điên - hết thuốc chửa !

        À thì ra, cái bài viết của Ông Đào Văn Bình đã chạm nọc đến cái tên Phỉ Đồ Cuồng Tín Cần Lao Thiến Chúa Gáo BÚT XUẪN TRẦN ĐÌNH NGỐC - Có tịt thì quỵt đuôi - 

        BÚT XUẪN TRẦN ĐÌNH NGỐC ui - Nhục ơi là Nhục !

        Xin khẳng quyết : 

        * Việt Nam Cộng Hòa đã MẤT vào tay Cộng Sản là do Bọn Phỉ Đồ Cần Lao Thiên Chúa Giáo - trong đó có BÚT XUẪN Trần Đình Ngốc. 

        * Thực hiện, Thi hành và làm tay sai cho Nghị Quyết 36 của Cộng Sản là do Lũ Cuồng Tín Cần Lao Thiên Chúa Giáo - trong đó có BÚT XUẪN Trần Đình Ngốc. 

        * Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại bị Phân Hóa Chia Rẻ là do tập đoàn Hoài Ngô Nhớ Bắp Cần Lao Thiến Chúa Giáo - trong đó có BÚT XUẪN Trần Đình Ngốc.
 
From: Thaovy Hoang <hoang....@ymail.com>
To: 
Sent: Wednesday, 20 January 2013 11:28 AM
Subject: 

Trích...
1/ Các ông chống Cộng Sản? Lũ chó đẻ Cộng Sản còn đâu mà chống? Chúng nó làm điêu tàn đất nước VN của chúng tôi 60 năm (tạm lấy mốc từ năm 1930-1990 thế kỷ trước). Năm 1975; nếu chúng nó còn là Cộng Sản "thuần chủng" thì các ông và tôi còn có ngày hôm nay ngồi trên computer để "cắn" nhau? 

Hãy ngược dòng lịch sử của nhân loại để thấy lũ chó đẻ Cộng Sản nầy giết hằng trăm triệu dân của chúng nó từ thằng nghiệt súc Lenin, đến Mao Trạch Đông, đến HCMinh ở miền bắc VN và gần hơn hết là Căm Bốt cũng ngay trong năm 1975 đó! 

Các ông có hiểu 2 chữ Cộng Sản là gì không? Bố của thằng nghiệt súc Trường Chinh-Đặng Xuân Khu là người có tài sản bằng 1/100, 1/1000 của thằng nghiệt súc Nguyễn Tấn Dũng mà chính thằng Trường Chinh giết bố nó đó. Vì sao? Vì tụi nầy là Cộng Sản thuần chủng. Đám chó đẻ đang cầm quyền sinh sát trên quê hương VN của chúng tôi hiện nay không còn là Cộng Sản nữa. Chúng nó chỉ là một bầy cướp cạn, bị hợm của Tàu mà sắp làm mất nước của chúng tôi. Hiểu chưa? Chúng nó là hậu duệ của đám chó đẻ Cộng Sản xưa. Chúng nó như những con ve đang lột xác khỏi cái vỏ Cộng Sản, nhưng chưa lột xong hẳn hòi. Các ông đánh Cộng Sản là đang đánh vào khoảng không đấy! Đồ ngu! 

Email nầy chủ yếu không nói về lũ chó đẻ nầy! Giờ nói về các ông.

2/ Các ông là ai? Các ông đã không thể biết các ông là ai cả! Các ông có hiểu 2 chữ Việt gian là gì không? Từ ngàn năm xưa, giặc Tàu xâm chiếm đất nước VN chúng tôi, những kẻ theo ngoại bang (Tàu), chúng tôi gọi là Việt gian. Gần hơn nữa, khi giặc Pháp đến và đánh chiếm quê hương của chúng tôi, những người theo ngoại bang (Pháp), chúng tôi gọi là Việt gian. 

Vào những năm của thập niên 80, thế kỷ trước, các ông gọi lũ chó đẻ kia là Cộng Sản, không dùng chữ Việt gian. Thời gian nầy, có một người ở Úc gọi Cộng Sản là Việt gian theo chủ nghĩa Cộng sản và gọi các ông là Việt gian theo Pháp, Mỹ! Từ đó, các ông dùng chữ Việt gian một cách "lộn tùng phèo" cho đến nay. Các ông "thuổng" chữ của người ta mà cũng không biết dùng? 

Trở lại việc các ông là ai? Khi giặc Pháp đã đến và gây đau thương máu lửa trên quê hương VN của chúng tôi cho đến năm 1954 (tạm cho là khoảng trên dưới 80 năm). Chúng bị thua ở Điện Biên Phủ (1954) bởi đám Việt gian Cộng Sản (ghi chú: nên nhớ rằng, trận ĐBPhủ gần như chủ yếu là quân đội và vũ khí đến từ Tàu, chứ không phải chủ yếu là CSVN. Đây là một trong những món nợ di hại cho đến ngày nay). Pháp bồng bế nhóm Việt gian theo Pháp chạy vào nam và cố giữ miền nam rồi tái trang bị cho nhóm nầy cái "lý tưởng Quốc gia chống Cộng". Mỹ nhảy vào thay Pháp để dựng lên một nước Việt Nam thứ hai và đặt danh xưng cho nhóm nầy là "tiền đồn chống Cộng". Hai lũ nghiệt súc Việt gian nầy đã rước voi về dày mả tổ, đã làm tan nát quê hương của chúng tôi, dân tộc tôi mang mãi một niềm đau của thân phận nhược tiểu và cho đến nay vẫn chưa gượng dậy được!  Các ông ôm mãi một tâm địa tàn độc với quê hương, dân tộc chúng tôi bằng cách muốn tái lập cuộc chiến tranh "Quốc-Cộng"? Nếu Cộng không còn thì cái "lý tưởng" và "tiền đồn" kia là cái đéo gì? Cũng cái ông (ở Úc) "đẻ" ra chữ Việt gian kia cũng đã nói: Tất cả mọi chủ nghĩa, lý tưởng...đều có giai đoạn, dân tộc là trường tồn. Họ sẽ phải trả lại cho dân tộc những gì thuộc về dân tộc. Hoặc; Việt gian theo Cộng Sản ra đi thì Việt gian theo Pháp, Mỹ lại về? Các ông nghĩ gì? Hãy trở về với dân tộc nếu có thể!

Dân tộc tôi chỉ có tấm lòng với quê hương của mình, trong khi 2 nhóm Việt gian kia nhận "viện trợ" hùng hậu từ ngoại bang để đàn áp chúng tôi...Ở miền bắc có những phong trào như Nhân Văn và Giai Phẩm, trận Quần Bà ở Quỳnh Lưu...trong nam thì cả thế giới cũng đã thấy đồng bào tôi chống nhóm Việt gian theo Pháp, Mỹ như thế nào rồi. Ông Phạm Trọng Luật đang gởi những cái "bạt tai" lên các diễn đàn là rất đúng, vì  ông đứng trên "lập trường" của nhóm Việt gian theo Pháp, Mỹ!

Tại sao tôi nói quê hương Việt Nam là của chúng tôi mà không phải là của chúng ta? Vì các ông mang hình hài, tiếng nói của người Việt Nam, nhưng các ông không phải là người Việt Nam. Các ông có nhiều đời làm Việt gian theo Pháp, Mỹ! Một trong những dấu hiệu đơn giản để nhận diện ra Việt gian (cả 2 loại) là trong nhà chúng không có bàn thờ ông bà, tổ tiên! Trên bàn thờ của chúng nó là những thứ khác! 

Chúng tôi không có gì để nói chuyện trên các diễn đàn với Việt gian. Email nầy viết để cho các diễn đàn đọc chơi thôi. Ngưng trích

HtTVI
********
Tái bút:
Tụi bây nói là tao bưng bô cho Cộng Sản? Nếu được hân hạnh nầy tao sẽ làm liền và huy động cả dân tộc tao làm nữa. Tụi tao bưng bô cho lũ nghiệt súc Việt gian Cộng Sản về cho lũ nghiệt súc Việt gian theo Pháp, Mỹ tụi bây ăn và nếu tụi bây cho phép, tụi tao cũng sẽ bưng bô của lũ tụi bây về cho lũ kia ăn. Cả 2 lũ tụi bây đều phải ăn và ăn cho chết mẹ tụi bây hết đi cho dân tộc tao bớt khổ.

Hãy câm mõm chó lại nếu tụi bây không muốn tao đào mồ cuốc mả tổ tiên tụi bây lên nghe chưa? Hèn chi thằng nghiệt súc Tố Hữu nó nói về tụi bây: "Liếm gót giày Tây béo mượt đầu."

Đó là văn hoá của Việt gian theo Pháp, Mỹ!
HtTVI
***

From: Pham Quang Lon <lonq...@yahoo.com>
To: 
Sent: Thursday, 13 June 2013 11:42 AM
Subject: TRẦN ĐÌNH NGỌC

Hồ Chí Minh, lần này mày làm được đó.

Chúng mình đều là Việt gian. Mày theo Cộng Sản, tao theo Tây. Đám hậu duệ của tao được Tây bàn giao cho Mỹ để tiếp nối "nghề" của cha, ông chúng nó. Thật là bậy bạ quá! Mày lên tiếng khuyên răn là đúng! Tao có lời khen đó.

Riêng thằng NỌC (Ngọc, Trần Đình Ngọc), thằng này bất hiếu. Bố nó đặt tên cho nó là NỌC (heo nọc) mà nó dám thêm chữ g vào. Thằng L. ông nội nó thích ăn tiết canh heo nọc, nên thằng C. (bố của thằng Nọc) mới đặt nó tên là NỌC mà nó không dám nhận. Đúng là thằng khốn nạn. Khốn nạn như "văn" của nó vậy. "Văn" của Việt gian.

*Để hôm nào mình gọi đám thằng Khả, thằng Nguyễn Thân, thằng Hoàng Cao Khải...về trần gian chơi một đêm để dạy cho đám Việt gian ranh con này vài bài học?

Phạm Quang L.
***
From: Ho Cho Minh <h.ch...@yahoo.com>
To: 
Sent: Thursday, 13 June 2013 11:08 AM
Subject: TRẦN ĐÌNH NGỌC

Cháu Trần Đình Ngọc mến, 

Ông là Hồ Chó Minh (aka Hồ Chí Minh) đây. Có người gọi ông là con chó gốc Hẹ, gốc hành...có người gọi ông là Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Cung gì gì nữa, nhưng tên nào thì cũng được?

Hôm nay ông có vài hàng tâm sự với cháu. Cố gắng đọc hết lời tâm sự của ông nhá?

Thời của ông. Ông và ông nội của cháu (thằng Trần Đình L. tên nó tục quá, ông không dám viết ra) là kẻ tử thù. Ông theo Cộng Sản. Thằng L. (ông nội của cháu) theo Tây. Ông thì mượn danh nghĩa của dân tộc để "đánh Tây cứu nước". Thằng L. nhân danh Tây để đánh dân tộc Việt. Có lần nó đã cản bước của ông. May thay ông bắt được nó. Ông cho nó cơm nước đầy đủ mỗi ngày 3 bữa, nhưng nó càng ngày càng gầy còm, tinh thần bấn loạn! Sau mới biết là nó thèm phân người! Sở dĩ ông biết là vì ông cũng thèm phân người như nó. 

Việt gian loại nào cũng đều thích nhất là món phân người (Ông là Việt gian theo Cộng Sản. Thằng L. là lính của thằng Khả, Việt gian theo Tây). Nhưng ăn phân người nhiều quá hoặc ăn không đủ thì con người nó điên điên khùng khùng. Cháu cũng bị chứng bệnh này vì thằng C. bố của cháu (tên nó cũng tục quá, ông cũng không dám viết ra) cũng được nuôi bằng phân người nên đẻ ra cháu cũng khùng điên như ông vậy! Ông thấy trên các diễn đàn lâu nay, 10 điện thư của cháu, nội dung tục tằn, dơ bẩn...giống nhau cả 10!

Bây giờ thì Việt gian loại nào cũng đều là chó nghiện món phân người. Cháu ăn phân không đủ nên gây ra chứng viết lách tục tĩu dơ bẩn nhiều quá! 

Ông tâm sự với cháu vì ông là người đi trước và biết rằng cháu là giòng dõi Việt gian theo Tây và hằng ngày ăn phân người nhiều quá nên tinh thần bấn loạn. Y như ông và thằng L. lúc còn sống vậy. Nhớ ăn cho điều độ cháu nhá?

Hằng ngày; nếu cháu bưng phân để lên bàn thờ cho ông bà, cha mẹ của cháu, thì nhớ để cho ông một bát nhá? Cũng như cháu, ông thích món phân người còn tươi, nóng.

Chúc cháu viết lách bẩn thỉu, dơ dáy...đều đặn mỗi ngày (có nghĩa là phải ăn phân điều độ, nếu không sẽ bị chứng viết lách bậy bạ quá nhiều như thời gian vừa qua)

Ông.
Hồ Chó Minh 
(*) Tái bút: 
1/ Cháu cho rằng chống Cộng và chửi Hồ Chó Minh là yêu nước? Không đơn giản như thế! Cả 2 loại Việt gian - Việt gian (theo) Cộng Sản và Việt gian (theo) Pháp, Mỹ - chống lẫn nhau không vì dân tộc! Hiểu chưa? Đừng cho rằng hễ chống Cộng sản là có chánh nghĩa! Quan trọng là kẻ chống là ai? Chớ không phải là Việt gian nầy đi thì Việt gian khác lại về! Hiểu chưa?

2/ Đừng thấy những người ở Việt Nam chống đám súc vật (đám hậu duệ của ông) đang cầm quyền thì "vơ" vào là "người của mình"! Cháu phải hiểu là: Dân tộc Việt đã kinh tởm đám Việt gian Cộng Sản thì họ cũng kinh tởm đám Việt gian theo Pháp, Mỹ hơn nữaĐừng nhận vơ, hoạt đầu...hiểu chưa?

********
----- Forwarded Message -----
From: anh vo <anhvo...@gmail.com>
To: 
Sent: Tuesday, 11 March 2014 6:03 AM
Subject: [tudo-ngonluan] BỌN GIẶC ĐẦU TRỌC DÙNG CHUỒNG LẬP MẬT KHU CHO VC ĐÁNH GIẾT NHÂN DÂN MIỀN NAM

 
Tìm  một cái tên cho đề tài đưa lên internet
Chúng tôi ,một số thân hữu lập ra  “ truy tìm tội ác Việt gian tiếp tay cho  Việt Cộng  trong cuộc chiến và hậu chiến ”  với phương châm là : bất cứ cá nhân,phe nhóm, đoàn thể, đảng phái , hay tôn giáo nào… Tiếp tay cho VC dưới mọi hình thức từ vật chất, phương tiện , chứa chấp: cán bộ, vũ khí, sú ng đạn , tài liệu, truyền đơn … với mục đích chống lại chính phủ, quân đội và nhân dân VNCH.
Chúng tôi đều liệt bọn này  và diện tội đồ của dân tộc , kể cả những tay sai nơi hải ngọai viết bài phát tán tài liệu sách báo để “ca tụng Hồ CHí Minh, tập đoàn lãnh đạo CSVN, ca tụng ủng hô ngày 30-4-75….” Chúng tôi cũng điều đưa vào danh sách  tội ác chống dân tộc. Chúng tôi khám phá ra hàng hàng lớp lớp chùa từ thủ đô, ven đô, và các tỉnh phía nam vĩ tuyến 17 đã dùng làm phương tiện an toàn nhất để  phục cho Việt Cộng  chống lại chính phủ nhân dân miền Nam trong suốt thời gian chiến tranh và đã đưa đến ngày 30-4-75.
Chùa là của giáo hội nào? Các Thượng toạ, Tăng Ni, Phật tử thuộc về giáo hội nào??? Do đó chúng tôi dùng tiêu đề là “ Phật giáo dùng chùa làm mật khu cho Việt cộng hoạt động ngay tại thủ đô” với bài viết cùng tài liệu  THẬT dẫn chứng 100/100 đã được một số trang báo điện tử uy tín đăng tải với kết quả hơn trăm ngàn người đọc mổi tuần.
Gần đây chúng tôi post lên một số diễn đàn, có một số phản hồi  là “ không được dùng hai chữ Phật Giáo. Vì là một tôn giáo lớn, rồi nào là xúc phạm đến Phật Giáo coi chừng v.v.
Cám ơn một số thành viên đã phản hồi có lẻ quá đúng,’ “đụng đến Phật giáo coi chừng” . Phật giáo đã tiếp tay với VC nghiền nát hai nền Cộng Hoà của miền Nam, Phật Giáa đã được nhà nước CS ban khen “PG đồng hành cùng dân tộc, PG cũng được nhà nước ban khen “hộ quốc an dân” ban khen và ban khen.
Ông bà ta có câu tránh voi đâu xấu mặt nào, cho nên chúng tôi quyết định  để tránh hai chữ Phật Giáo và chùa nên đã đổi sang  tiêu đề  mới là : BỌN GIẶC ĐẦU TRỌC DÙNG CHUỒNG, LÀM MẬT CHU CHO VC HOẠT ĐỘNG CHỐNG CHÍNH QUYỀN VÀ NHÂN DÂN MIỀN NAM. Và chúng tôi tiếp tục nêu lên bằng chứng bọn gặc đầu trọc sau đây:
    (xã An Nhơn, huyện Thạnh Phú) là di tích cấp tỉnh về lịch sử cách mạng và tín ngưỡng tôn giáo.
Chùa An Linh tọa lạc trên khu đất giồng ấp An Hòa, xã An Nhơn có diện tích 3850,7m2; diện tích xây dựng chùa là 424,44m2.
Theo các cụ cao niên và những người hiểu biết về chùa An Linh thì chùa được xây dựng vào năm 1918 do Sư bà Thích Diệu Thắng và ông Lê Văn Quai đứng ra tổ chức xây dựng trên phần đất hiến của ông Quai tại ấp An Hoà (ấp 5) cho đến ngày nay.
Chùa An Linh. (Ảnh T.H.H.)
Lúc đầu chùa xây dựng nhỏ, cột cây vách lá đơn sơ chủ yếu là thờ cúng Phật và bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Trong khuôn viên chùa lúc bấy giờ có cây dương chín tầng.
Đến năm 1920, chùa được xây dựng rộng rãi hơn, nhưng do chiến tranh tàn phá chùa đã nhiều lần sửa chữa. Gần đây nhất năm 2006 chùa được trùng tu khang trang cho đến hôm nay.
Sư bà Trần Thị Hơn (pháp danh Diệu Thắng) là người có công đầu tiên trong việc xây dựng chùa. Ban đầu chùa An Linh được xây dựng bằng vật liệu cây rừng, mái lợp lá dừa nước để có nơi thờ cúng.
Đồng bào phật tử đến lễ bái, quy y cầu nguyện quốc thái dân an. Lần lượt thiện tín trong các xã lân cận đến ngày tam ngươn, tứ quý về lễ phật, quy y tu học ngày càng đông.
Trong những năm đầu mới xây dựng, sư bà vận động nhân dân địa phương theo mình lên miền núi tìm những cây thuốc về bốc thuốc nam chữa bệnh miễn phí cho nhân dân trong làng cũng như dân từ nơi khác đến (sư bà có tài chữa bệnh rất hay).
Năm 1932, Sư tổ Lê Khánh Hòa, pháp danh Thích Như Trí – một vị cao tăng tinh thông Phật học, chí hạnh lớn lao, tài đức kiêm toàn là trụ trì chùa Tuyên Linh (xã Minh Đức, huyện Mỏ Cày nay là huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre) thấy chùa An Linh làm được nhiều việc tốt đời, đẹp đạo nên đưa thầy giáo Thọ (Huỳnh Long Phi), pháp danh Phổ Chấn, đạo hiệu là Thái Không về làm trụ trì chùa để tiếp tục hoằng khai giáo pháp, làm sáng đạo đẹp đời.
Thầy Thái Không mở trường dạy chữ Nôm, chữ Hán, chữ quốc ngữ, dịch kinh sách,… Ngoài ra thầy còn tham gia hoạt động cách mạng cho đến khi thầy viên tịch năm 1982 tại chùa Lưỡng Xuyên (Trà Vinh).
Từ năm 1932 đến năm 1945, nhờ uy tín của sư bà Thích nữ Diệu Thắng và thầy Thái Không, phật tử thập phương trùng tu ngôi tam bảo An Linh tự bốn nóc khang trang bằng những vật liệu kiên cố: tường xây gạch, mái lợp ngói, thỉnh Chư Phật an vị.
Dưới bàn thờ Phật, sư bà Diệu Thắng cho xây hầm bí mật nuôi dấu cán bộ Huyện ủy lúc bấy giờ như ông Trứ, ông Danh, ông Ngun và nhiều cán bộ khác.
Từ năm 1945 đến năm 1954, hoạt động cách mạng tại chùa rất sôi nổi, các tu sĩ và phật tử tích cực tham gia các hoạt động cứu quốc của địa phương như vận động đồng bào góp gạo, thuốc, thức ăn,… để tiếp tế cho công binh xưởng Khu 8 và nuôi quân.
Hưởng ứng tuần lễ đồng thau chế tạo vũ khí, sư bà Diệu Thắng cùng phật tử trong chùa đem những vật tế lễ thờ cúng như lư hương, chân đèn, đại đồng chung, chiêng,… đóng góp cho công binh xưởng để sản suất vũ khí.
Năm 1946, Hạm đội 7 của địch nhìn từ hướng cây dương có tàn lớn, chúng quyết định bắn pháo tàn phá nặng nề ngôi Tam Bảo vì nằm trong chiến khu của tỉnh nhưng đại đồng chung và Chư Phật vẫn còn nguyên vẹn.
Năm 1948, Trường Dân quân Nam bộ đóng tại chùa, đào tạo quân dân cho khu vực được sự đùm bọc giúp đỡ của sư trụ trì chùa và phật tử. Các chiến sĩ cách mạng Tiểu đoàn 307, Đại đội 310 đã từng được sư bà Diệu Thắng bốc thuốc, chữa thương tại chùa An Linh.
Bố trí thờ cúng trong chính điện chùa An Linh, dưới bàn thờ này có xây dựng một hầm bí mật (trong chiến tranh). (Ảnh T.H.H.)

Trong chiến tranh nhất là những năm bình định, địch đóng đồn bót gần chùa nên cán bộ cách mạng không còn đóng tại đây nhưng thường xuyên lui tới chùa để liên hệ nắm tình hình địch hoặc nhận lương thực, thuốc men từ sư bà Diệu Thắng, của các phật tử và bà con trong làng.
Trong những lần cúng chùa, sư bà vận động phật tử và bà con đóng góp gạo nếp để gói bánh đậu, làm chao và tiền mua những vật dụng cần thiết tiếp tế cho cách mạng. Những khi có động, các đồng chí cán bộ cách mạng không về được thì bà gánh đem xuống tận căn cứ.
Tuy xuất thân trong chùa nhưng sư bà Diệu Thắng và thầy Thái Không đã giác ngộ cách mạng nên được kết nạp vào Đảng Lao Động Việt Nam, cùng chung lý tưởng là núp bóng chùa An Linh để hoạt động cách mạng.
Lúc mới xây dựng chùa, sư bà Diệu Thắng có công bốc thuốc, chữa bệnh cho dân, giúp ích cho xã hội. Từ đó sư bà tập hợp được lực lượng quần chúng rất đông phần lớn là phụ nữ.
Năm 1945 sư bà bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng, tham gia Hội mẹ chiến sĩ An Nhơn. Sư bà rất chu đáo trong vấn đề vận động, tiếp tế nuôi quân, che dấu thanh niên trốn quân dịch, tổ chức liên lạc với cách mạng.
Nhờ vậy, năm 1951 sư bà được kết nạp vào Đảng Lao Động Việt Nam, năm 1952 được công nhận chính thức. Suốt đời sư bà cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, phục vụ cho nhân dân không ngại khó khăn gian khổ trong suốt hai thời kỳ chống Pháp và Mỹ.
Năm 1965, Mỹ ném bon hủy diệt ngôi chùa vì chúng cho rằng chùa “chứa cộng sản”, sư bà do tuổi cao sức yếu không chạy được nên bị thương. Sư bà được các phật tử, đồng bào hết lòng chữa trị và chăm sóc rất chu đáo nên sớm lành bệnh, tiếp tục hoạt động cách mạng cho đến khi viên tịch vào năm 1974.
Thầy Thái Không dạy học tại chùa An Linh vào năm 1932. Năm 1945, thầy tham gia kháng chiến tại địa phương trong Mặt trận Việt Minh. Năm 1946, thầy tham gia Hội cứu quốc xã An Nhơn, trụ trì chùa An Linh. Năm 1947, thầy được Tỉnh ủy, Ủy ban tỉnh bổ nhiệm làm “Trưởng Ban chùa kiêm Vệ quốc đoàn tỉnh Bến Tre”.
Trong thời gian công tác, thầy luôn luôn đi đầu trong mọi công việc, sẵn sàng hy sinh, không màng hiểm nguy gian khổ nên được Tỉnh ủy kết nạp vào Đảng Lao Động Việt Nam năm 1950 lúc này thầy là “Trưởng Ban Hoằng pháp Phật giáo Việt Nam”. Thầy hướng dẫn lực lượng phụ nữ đi đấu tranh chính trị nhiều lần.
Một thời gian sau, cơ sở bị lộ nên thầy được đưa qua tỉnh Trà Vinh làm trụ trì chùa Lưỡng Xuyên. Ở đây thầy tiếp tục hoạt động cách mạng đến năm 1975. Sau giải phóng thầy giữ chức vụ Phó ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Trà Vinh. Năm 1982, thầy viên tịch tại chùa Lưỡng Xuyên, được phật tử tổ chức lễ tang trọng thể và an táng tại Nghĩa trang tỉnh Trà Vinh.
Hằng năm, chùa có 4 lệ cúng chính là: Lễ Thượng ngươn Rằm tháng 01 âm lịch, Lễ Phật đản 15 tháng 4 âm lịch, Lễ Trung ngươn Rằm tháng 7 âm lịch, Lễ Hạ ngươn Rằm tháng 10 âm lịch. Mỗi kỳ cúng đều do các phật tử và bà con trong xã đóng góp.
Cũng như nhiều ngôi chùa khác ở Bến Tre, chùa An Linh lúc đầu xây dựng đơn sơ: cột gỗ, vách lá, mái lá. Theo thời gian, chùa cũng được sửa chữa nhiều lần. Đến năm 2006, chùa An Linh được xây dựng khang trang như ngày nay bao gồm các hạng mục: khu chính điện, nhà nấu ăn, am trụ trì, nhà nghỉ ngơi và hệ thống sân đường.
Kiến trúc của chính điện chùa dạng tứ trụ, nóc hình chóp. Nội thất bên trong chủ yếu là những bệ thờ bằng xi-măng lát gạch ceramic và ban thờ bằng gỗ. Phía trên bệ thờ được đặt trang nghiêm tượng phật Di Lặc. Tượng Phật Di Lặc này có từ khi chùa được thành lập. Hiện nay, khu chính điện là nơi thờ Phật Di Lặc, Quan Thế Âm, Tiêu Diện, Thích Ca, Hộ Pháp, Tam Tạng,…
Ngoài ra, sân đường chùa An Linh còn được xây dựng các hạng mục như: Tháp Sư bà, tượng Phật Quan Âm trên hồ sen, Phật Thích Ca nhập Niết bàn…. Xung quanh có nhiều cây cổ thụ tạo nên quan cảnh hài hòa, yên tĩnh của cảnh chùa.
Hiện nay, chùa An Linh do Giáo hội Phật giáo tỉnh quản lý. Sư cô Thích nữ Diệu Ánh cùng các tăng ni, phật tử là những người trực














__._,_.___
Reply via web post Reply to sender Reply to group Start a New Topic Messages in this topic (1)
tudo-n...@yahoogroups.com

Dien dan Tu Do-Ngon Luan - Dien dan thong tin da chieu.

Dien dan Tu Do-Ngon Luan ton trong nhung di biet trong moi lanh vuc, bao gom ca chinh tri, ton giao...

Dien dan Tu Do-Ngon Luan khong chap nhan ngon ngu khiem nha; xin tranh luan, phan bien...trong tinh than xay dung, on hoa va tuong kinh...ngon ngu khong nen di qua xa.

Tran trong.
Chu nhiem dien dan Tu Do-Ngon Luan
D ong Hai-Nguyen Duc Hien
.

__,_._,___

Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages