Tìm một cái tên cho đề tài đưa lên internet
Chúng tôi ,một số thân hữu lập ra “ truy tìm tội ác Việt gian tiếp tay cho Việt Cộng trong cuộc chiến và hậu chiến ” với phương châm là : bất cứ cá nhân,phe nhóm, đoàn thể, đảng phái , hay tôn giáo nào… Tiếp tay cho VC dưới mọi hình thức từ vật chất, phương tiện , chứa chấp: cán bộ, vũ khí, sú ng đạn , tài liệu, truyền đơn … với mục đích chống lại chính phủ, quân đội và nhân dân VNCH.
Chúng tôi đều liệt bọn này và diện tội đồ của dân tộc , kể cả những tay sai nơi hải ngọai viết bài phát tán tài liệu sách báo để “ca tụng Hồ CHí Minh, tập đoàn lãnh đạo CSVN, ca tụng ủng hô ngày 30-4-75….” Chúng tôi cũng điều đưa vào danh sách tội ác chống dân tộc. Chúng tôi khám phá ra hàng hàng lớp lớp chùa từ thủ đô, ven đô, và các tỉnh phía nam vĩ tuyến 17 đã dùng làm phương tiện an toàn nhất để phục cho Việt Cộng chống lại chính phủ nhân dân miền Nam trong suốt thời gian chiến tranh và đã đưa đến ngày 30-4-75.
Chùa là của giáo hội nào? Các Thượng toạ, Tăng Ni, Phật tử thuộc về giáo hội nào??? Do đó chúng tôi dùng tiêu đề là “ Phật giáo dùng chùa làm mật khu cho Việt cộng hoạt động ngay tại thủ đô” với bài viết cùng tài liệu THẬT dẫn chứng 100/100 đã được một số trang báo điện tử uy tín đăng tải với kết quả hơn trăm ngàn người đọc mổi tuần.
Gần đây chúng tôi post lên một số diễn đàn, có một số phản hồi là “ không được dùng hai chữ Phật Giáo. Vì là một tôn giáo lớn, rồi nào là xúc phạm đến Phật Giáo coi chừng v.v.
Cám ơn một số thành viên đã phản hồi có lẻ quá đúng,’ “đụng đến Phật giáo coi chừng” . Phật giáo đã tiếp tay với VC nghiền nát hai nền Cộng Hoà của miền Nam, Phật Giáa đã được nhà nước CS ban khen “PG đồng hành cùng dân tộc, PG cũng được nhà nước ban khen “hộ quốc an dân” ban khen và ban khen.
Ông bà ta có câu tránh voi đâu xấu mặt nào, cho nên chúng tôi quyết định để tránh hai chữ Phật Giáo và chùa nên đã đổi sang tiêu đề mới là : BỌN GIẶC ĐẦU TRỌC DÙNG CHUỒNG, LÀM MẬT CHU CHO VC HOẠT ĐỘNG CHỐNG CHÍNH QUYỀN VÀ NHÂN DÂN MIỀN NAM. Và chúng tôi tiếp tục nêu lên bằng chứng bọn gặc đầu trọc sau đây:
(xã An Nhơn, huyện Thạnh Phú) là di tích cấp tỉnh về lịch sử cách mạng và tín ngưỡng tôn giáo.
Chùa An Linh tọa lạc trên khu đất giồng ấp An Hòa, xã An Nhơn có diện tích 3850,7m2; diện tích xây dựng chùa là 424,44m2.
Theo các cụ cao niên và những người hiểu biết về chùa An Linh thì chùa được xây dựng vào năm 1918 do Sư bà Thích Diệu Thắng và ông Lê Văn Quai đứng ra tổ chức xây dựng trên phần đất hiến của ông Quai tại ấp An Hoà (ấp 5) cho đến ngày nay.
Chùa An Linh. (Ảnh T.H.H.)
Lúc đầu chùa xây dựng nhỏ, cột cây vách lá đơn sơ chủ yếu là thờ cúng Phật và bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Trong khuôn viên chùa lúc bấy giờ có cây dương chín tầng.
Đến năm 1920, chùa được xây dựng rộng rãi hơn, nhưng do chiến tranh tàn phá chùa đã nhiều lần sửa chữa. Gần đây nhất năm 2006 chùa được trùng tu khang trang cho đến hôm nay.
Sư bà Trần Thị Hơn (pháp danh Diệu Thắng) là người có công đầu tiên trong việc xây dựng chùa. Ban đầu chùa An Linh được xây dựng bằng vật liệu cây rừng, mái lợp lá dừa nước để có nơi thờ cúng.
Đồng bào phật tử đến lễ bái, quy y cầu nguyện quốc thái dân an. Lần lượt thiện tín trong các xã lân cận đến ngày tam ngươn, tứ quý về lễ phật, quy y tu học ngày càng đông.
Trong những năm đầu mới xây dựng, sư bà vận động nhân dân địa phương theo mình lên miền núi tìm những cây thuốc về bốc thuốc nam chữa bệnh miễn phí cho nhân dân trong làng cũng như dân từ nơi khác đến (sư bà có tài chữa bệnh rất hay).
Năm 1932, Sư tổ Lê Khánh Hòa, pháp danh Thích Như Trí – một vị cao tăng tinh thông Phật học, chí hạnh lớn lao, tài đức kiêm toàn là trụ trì chùa Tuyên Linh (xã Minh Đức, huyện Mỏ Cày nay là huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre) thấy chùa An Linh làm được nhiều việc tốt đời, đẹp đạo nên đưa thầy giáo Thọ (Huỳnh Long Phi), pháp danh Phổ Chấn, đạo hiệu là Thái Không về làm trụ trì chùa để tiếp tục hoằng khai giáo pháp, làm sáng đạo đẹp đời.
Thầy Thái Không mở trường dạy chữ Nôm, chữ Hán, chữ quốc ngữ, dịch kinh sách,… Ngoài ra thầy còn tham gia hoạt động cách mạng cho đến khi thầy viên tịch năm 1982 tại chùa Lưỡng Xuyên (Trà Vinh).
Từ năm 1932 đến năm 1945, nhờ uy tín của sư bà Thích nữ Diệu Thắng và thầy Thái Không, phật tử thập phương trùng tu ngôi tam bảo An Linh tự bốn nóc khang trang bằng những vật liệu kiên cố: tường xây gạch, mái lợp ngói, thỉnh Chư Phật an vị.
Dưới bàn thờ Phật, sư bà Diệu Thắng cho xây hầm bí mật nuôi dấu cán bộ Huyện ủy lúc bấy giờ như ông Trứ, ông Danh, ông Ngun và nhiều cán bộ khác.
Từ năm 1945 đến năm 1954, hoạt động cách mạng tại chùa rất sôi nổi, các tu sĩ và phật tử tích cực tham gia các hoạt động cứu quốc của địa phương như vận động đồng bào góp gạo, thuốc, thức ăn,… để tiếp tế cho công binh xưởng Khu 8 và nuôi quân.
Hưởng ứng tuần lễ đồng thau chế tạo vũ khí, sư bà Diệu Thắng cùng phật tử trong chùa đem những vật tế lễ thờ cúng như lư hương, chân đèn, đại đồng chung, chiêng,… đóng góp cho công binh xưởng để sản suất vũ khí.
Năm 1946, Hạm đội 7 của địch nhìn từ hướng cây dương có tàn lớn, chúng quyết định bắn pháo tàn phá nặng nề ngôi Tam Bảo vì nằm trong chiến khu của tỉnh nhưng đại đồng chung và Chư Phật vẫn còn nguyên vẹn.
Năm 1948, Trường Dân quân Nam bộ đóng tại chùa, đào tạo quân dân cho khu vực được sự đùm bọc giúp đỡ của sư trụ trì chùa và phật tử. Các chiến sĩ cách mạng Tiểu đoàn 307, Đại đội 310 đã từng được sư bà Diệu Thắng bốc thuốc, chữa thương tại chùa An Linh.
Bố trí thờ cúng trong chính điện chùa An Linh, dưới bàn thờ này có xây dựng một hầm bí mật (trong chiến tranh). (Ảnh T.H.H.)
Trong chiến tranh nhất là những năm bình định, địch đóng đồn bót gần chùa nên cán bộ cách mạng không còn đóng tại đây nhưng thường xuyên lui tới chùa để liên hệ nắm tình hình địch hoặc nhận lương thực, thuốc men từ sư bà Diệu Thắng, của các phật tử và bà con trong làng.
Trong những lần cúng chùa, sư bà vận động phật tử và bà con đóng góp gạo nếp để gói bánh đậu, làm chao và tiền mua những vật dụng cần thiết tiếp tế cho cách mạng. Những khi có động, các đồng chí cán bộ cách mạng không về được thì bà gánh đem xuống tận căn cứ.
Tuy xuất thân trong chùa nhưng sư bà Diệu Thắng và thầy Thái Không đã giác ngộ cách mạng nên được kết nạp vào Đảng Lao Động Việt Nam, cùng chung lý tưởng là núp bóng chùa An Linh để hoạt động cách mạng.
Lúc mới xây dựng chùa, sư bà Diệu Thắng có công bốc thuốc, chữa bệnh cho dân, giúp ích cho xã hội. Từ đó sư bà tập hợp được lực lượng quần chúng rất đông phần lớn là phụ nữ.
Năm 1945 sư bà bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng, tham gia Hội mẹ chiến sĩ An Nhơn. Sư bà rất chu đáo trong vấn đề vận động, tiếp tế nuôi quân, che dấu thanh niên trốn quân dịch, tổ chức liên lạc với cách mạng.
Nhờ vậy, năm 1951 sư bà được kết nạp vào Đảng Lao Động Việt Nam, năm 1952 được công nhận chính thức. Suốt đời sư bà cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, phục vụ cho nhân dân không ngại khó khăn gian khổ trong suốt hai thời kỳ chống Pháp và Mỹ.
Năm 1965, Mỹ ném bon hủy diệt ngôi chùa vì chúng cho rằng chùa “chứa cộng sản”, sư bà do tuổi cao sức yếu không chạy được nên bị thương. Sư bà được các phật tử, đồng bào hết lòng chữa trị và chăm sóc rất chu đáo nên sớm lành bệnh, tiếp tục hoạt động cách mạng cho đến khi viên tịch vào năm 1974.
Thầy Thái Không dạy học tại chùa An Linh vào năm 1932. Năm 1945, thầy tham gia kháng chiến tại địa phương trong Mặt trận Việt Minh. Năm 1946, thầy tham gia Hội cứu quốc xã An Nhơn, trụ trì chùa An Linh. Năm 1947, thầy được Tỉnh ủy, Ủy ban tỉnh bổ nhiệm làm “Trưởng Ban chùa kiêm Vệ quốc đoàn tỉnh Bến Tre”.
Trong thời gian công tác, thầy luôn luôn đi đầu trong mọi công việc, sẵn sàng hy sinh, không màng hiểm nguy gian khổ nên được Tỉnh ủy kết nạp vào Đảng Lao Động Việt Nam năm 1950 lúc này thầy là “Trưởng Ban Hoằng pháp Phật giáo Việt Nam”. Thầy hướng dẫn lực lượng phụ nữ đi đấu tranh chính trị nhiều lần.
Một thời gian sau, cơ sở bị lộ nên thầy được đưa qua tỉnh Trà Vinh làm trụ trì chùa Lưỡng Xuyên. Ở đây thầy tiếp tục hoạt động cách mạng đến năm 1975. Sau giải phóng thầy giữ chức vụ Phó ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Trà Vinh. Năm 1982, thầy viên tịch tại chùa Lưỡng Xuyên, được phật tử tổ chức lễ tang trọng thể và an táng tại Nghĩa trang tỉnh Trà Vinh.
Hằng năm, chùa có 4 lệ cúng chính là: Lễ Thượng ngươn Rằm tháng 01 âm lịch, Lễ Phật đản 15 tháng 4 âm lịch, Lễ Trung ngươn Rằm tháng 7 âm lịch, Lễ Hạ ngươn Rằm tháng 10 âm lịch. Mỗi kỳ cúng đều do các phật tử và bà con trong xã đóng góp.
Cũng như nhiều ngôi chùa khác ở Bến Tre, chùa An Linh lúc đầu xây dựng đơn sơ: cột gỗ, vách lá, mái lá. Theo thời gian, chùa cũng được sửa chữa nhiều lần. Đến năm 2006, chùa An Linh được xây dựng khang trang như ngày nay bao gồm các hạng mục: khu chính điện, nhà nấu ăn, am trụ trì, nhà nghỉ ngơi và hệ thống sân đường.
Kiến trúc của chính điện chùa dạng tứ trụ, nóc hình chóp. Nội thất bên trong chủ yếu là những bệ thờ bằng xi-măng lát gạch ceramic và ban thờ bằng gỗ. Phía trên bệ thờ được đặt trang nghiêm tượng phật Di Lặc. Tượng Phật Di Lặc này có từ khi chùa được thành lập. Hiện nay, khu chính điện là nơi thờ Phật Di Lặc, Quan Thế Âm, Tiêu Diện, Thích Ca, Hộ Pháp, Tam Tạng,…
Ngoài ra, sân đường chùa An Linh còn được xây dựng các hạng mục như: Tháp Sư bà, tượng Phật Quan Âm trên hồ sen, Phật Thích Ca nhập Niết bàn…. Xung quanh có nhiều cây cổ thụ tạo nên quan cảnh hài hòa, yên tĩnh của cảnh chùa.
Hiện nay, chùa An Linh do Giáo hội Phật giáo tỉnh quản lý. Sư cô Thích nữ Diệu Ánh cùng các tăng ni, phật tử là những người trực