Re: [tudo-ngonluan] “Nhà sư Thích Trí Quang? FW: ĐỌC SÁCH CỦA TÁC GIẢ LIÊN THÀNH: “THÍCH TRÍ QUANG, THẦN TƯỢNG HAY TỘI ĐỒ DÂN TỘC”

49 views
Skip to first unread message

Giác Hạnh

unread,
Mar 12, 2014, 12:22:24 AM3/12/14
to tudo-n...@yahoogroups.com, Tran Quang Dieu, ubtttad...@gmail.com, vida...@yahoogroups.com, daploi...@yahoogroups.com, goi...@yahoo.com, nghegiao...@gmail.com, chinhng...@yahoogroups.com, dienda...@yahoogroups.com, baovech...@googlegroups.com, giaodie...@yahoo.com, toa...@roadrunner.com
Đừng quên, chính thằng công giáo Nguyễn Ngọc Loan  tranh quyền cho phản tướng Nguyễn Cao Kỳ và Chủ tướng quân phiệt Thiệu kitô  đã đồng hành dẹp tan Phật giáo và đưa đến thảm nạn 1975. 

Còn Phật giáo do Thầy Trí Quang lãnh đạo thì VNCH không đến nổi bị đại họa 30 4 1975.

On Tuesday, March 11, 2014, Tran Quang Dieu <tranqu...@hotmail.com> wrote:
 



“Nhà sư Thích Trí Quang?

Cần phải vạch mặt thẳng thừng đối với những ai còn cứ mãi lải nhải méo mó về nhà sư Thích Trí Quang.

Những âm binh chuyên làm chuyện ruồi xuyên tạc lịch sử, vu khống bừa bãi bất cố liêm sỉ như người đứng tên Liên Thành này, nó nói rằng "Thích Trí Quang, Thần Tượng hay Tội Đồ Dân Tộc" là đủ thấy chủ đề ngu mất rồi.

Tại sao?

Nhà sư Thích Trí Quang là linh hồn tranh đấu bảo vệ Phật Giáo khi bị mấy anh em ông thầy tu của nước Vatican "Công giáo" Ngô Đình Diệm và Giám mục Ngô Đình Thục đàn áp dã man, tấn công khốc liệt đến nỗi nhiều người bị thương vong lẫn bắt cóc đem đi mất tích vào hồi Pháp nạn Phật giáo năm 1963.

Nhà sư Thích Trí Quang cũng là người đứng ra tranh đấu cùng với anh em Quân nhân Quân Đoàn I vào năm 1966 để đòi hỏi thực thi một Chính phủ Dân cử Lập hiến, thay vì Quân phiệt. Và kết quả, Hiến Pháp thời Đệ Nhị VNCH đã được soạn thảo và ban hành. Xóa bỏ Hiến Pháp cũ phản dân quyền ngày 26.10 do anh em Ngô Đình Diệm đã đẻ ra sau khi bầu cử gian lận - truất phế Cựu hoàng Bảo Đại.

Nhà sư Thích Trí Quang là nhân vật thể hiện đúng Tinh Thần Dân Tộc đối với PGVN nói riêng và tiền nhân Dân Tộc nói chung.

Còn số ít trong thiểu số 7, 8% những "thần dân của thành Rom" và đám âm binh mạt hạng như Liên Thành (mấy mươi năm im ru, ngậm họng... không dám thò mặt ra... kể từ sáng ngày 2 tháng 11 năm 1963... cho đến đến vài năm gần đây...) a tòng luận điệu theo kiểu cùng với hoài Ngô Cần Lao Nhân Vị đảng chửi rủa nhà sư Thích Trí Quang bằng 4 chữ "Tội Đồ Dân Tộc" (sic) thì y hệt lũ Việt gian vong nô, vọng ngoại, đan tâm phản bội quê hương dân tộc, cõng rắn cắn gà nhà rước voi giày mả tổ như trước đây chúng đã từng mạt sát Phong trào Văn Thân trong cuộc Khởi Nghĩa Hương Khê của Cụ Phan Đình Phùng bằng chữ "bọn"!?

Để vạch mặt đám âm binh này, tôi xin chuyển lại vài nội dung sau đây để thấy rằng, chính ngay người CSVN họ đã biết, đã đối xử, và nghĩ gì về nhà sư Thích Trí Quang, mà ở đó, chúng tôi thấy rằng, họ không đến nỗi quá tồi so với nhà Ngô Đình Diệm và đám âm binh hậu duệ hôm nay qua nhóm Liên Thành, bằng cái gọi là "ra mắt sách...":

Không có gì khó hiểu, Thích Trí Quang là một trong những linh hồn ưu việt của PGVN, đã từng chống lại “chính sách” âm mưu nhằm tiêu diệt Phật giáo ở hai đời con chiên của nước Vatican La mã giáo cho nên ngày nay có thiểu số con chiên “thần dân của thành Rome”, những tay “hoài Ngô” Đình Diệm, những đảng viên hoặc hậu duệ Cần Lao “Công giáo” ấm ức, hậm hực về sự sụp đổ của Ngô gia, cho nên chúng cứ đeo đẳng cái hồn ma Ngô Đình Diệm mà chửi rủa Thích Trí Quang chứ có chi lạ?

Rinh cái bung xung hồn ma bóng quế về các thứ ý thức hệ chủ nghĩa chính trị, kinh tế và xã hội ra sao để nhằm chửi rủa nhà sư Thích Trí Quang là trò hề vô giá trị!


Mấy ông hay thích “dẫn chứng” về ông Đỗ Trung Hiếu. Vậy sao không dám trích giùm cho hết những đoạn này cũng của ông ta (Đỗ Trung Hiếu) qua bài viết có tên là “Thống Nhất Phật Giáo” với những nội dung như sau:

“Tôi lại gặp cụ Xuân Thủy trình bày đại cương nội dung thống nhất Phật giáo Việt Nam.

Thống nhất Phật giáo Việt Nam về tôn giáo có nghĩa là:

- Thống nhất Bắc tông, Nam tông, Khất sĩ và các tổ chức Phật giáo khác.

- Thống nhất về mặt tổ chức, vẫn tôn trọng các truyền thống khác nhau.

- Thống nhất Phật giáo về chính trị có nghĩa là thêm sức mạnh của dân tộc, tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam hòa hợp với các nước Đông Nam Á.

Trọng tâm thống nhất Phật giáo Việt Nam là miền Nam Việt Nam mà trọng điểm là Tp Hồ Chí Minh. Tổ chức Phật giáo cần quan tâm là GHPGVNTN, vì đây là Phật giáo lớn nhất, tăng ni có trình độ, lực lượng Phật tử có tổ chức đông đảo và có uy tín quốc tế. Vì vậy phải thuyết phục được Viện Tăng Thống, Viện Hóa Đạo và ban Đại diện các tỉnh Giáo hội, nhất là những vị đứng đầu. Nhưng một điểm mấu chốt phải thuyết phục cho được là thượng tọa Thích Trí Quang.

Muốn vậy cần chú ý:

1) Tổ chức Phật giáo sắp tới là Giáo hội chứ không phải là một hội đoàn như các tổ chức đoàn thể. Giáo hội có tổ chức hệ thống hành chánh của nhà nước.

2) Nhân sự phải tiêu biểu về đức độ và năng lực, tức là những người chân tu có học.

3) Nội dung hoạt động của Giáo hội độc lập trong luật pháp nhà nước. Đạo pháp gắn với dân tộc là nội dung chính.

Cụ Xuân Thủy trầm ngâm hỏi đi hỏi lại nhiều việc và những nhân vật Phật giáo. Bổng cụ nhìn tôi hỏi:

- Anh nghĩ thế nào về thượng tọa Thích Trí Quang?

- Thưa bác, đây là một nhà sư uyên thâm Phật học, hoạt động chính trị thông minh.

- Quan điểm chính trị của thượng tọa Thích Trí Quang ra sao?

- Thưa bác, cháu biết thượng tọa Trí Quang từ năm 1959. Trong cuộc đấu tranh chống chính quyền Ngô Đình Diệm năm 1963, thượng tọa là linh hồn của phong trào và của Phật giáo miền Trung, và sau đó là nhà chiến lược của GHPGVNTN. Thượng tọa đứng trên lập trường dân tộc. Nhưng ý anh Tư Ánh (Trần Bạch Đằng) khác cháu.

- Trần Bạch Đằng nói sao?

- Anh Tư Ánh nói thượng tọa Trí Quang là loại CIA chiến lược. Cháu hỏi bằng cớ? Anh Tư Ánh nêu những sự kiện: 1964 nhân trận lụt lớn ở miền Trung, quân Giải phóng chuẩn bị nhổ các đồn bót ngụy, thượng tọa Trí Quang nêu khẩu hiệu “GHPGVNTN cứu lụt”. Cờ năm màu dựng trên các ca-nô, tàu, máy bay trực thăng cứu sạch bọn ngụy quân. Cũng năm 1964 nhân dân phẫn nộ trước chính quyền quân phiệt ngụy, MTGPMN nêu khẩu hiệu chống quân phiệt để đẩy mạnh phong trào đô thị, thượng tọa Trí Quang lập Hội đồng Nhân dân cứu quốc (HĐNDCQ) miền Trung đòi chính phủ dân sự, gom hết quần chúng về phía mình và đạp xẹp khẩu hiệu của ta. Năm 1965 Mỹ đổ quân trắng trợn xâm lược miền Nam Việt Nam, MTGPMN đẩy mạnh phong trào chiến tranh Cách mạng chống Mỹ xâm lược. Thượng tọa Trí Quang nêu khẩu hiệu “Cầu nguyện hòa bình” làm hạn chế cuộc đấu tranh chống Mỹ của ta. Cháu cho rằng những điều đó chưa đủ thuyết phục, vì mỗi người có thể hiểu một cách khác theo vị trí của mình. Anh Tư Ánh mỉa mai: “đi tìm bằng cớ ư? Còn khuya. Cỡ tình báo chiến lược chỉ có trung tâm CIA ở Washington và lầu năm góc mới xác nhận được”. Cháu vẫn chưa tin, anh Tư Ánh nói Anh Út (Nguyễn Văn Linh) giận Thích Trí Quang lắm, và MTGPMN chưa hề thua ai, thế mà bị Trí Quang cho đo ván ba lần. Ba lần đó Thích Trí Quang đã cứu Mỹ ngụy một cách nhẹ nhàng. Bao nhiêu triệu Dollars mới trả nổi những đòn chiến lược đó? Cháu vẫn thấy chưa đủ dữ kiện để thuyết phục cháu nghe theo nhận định của anh ấy. Thế là anh Tư Ánh nói với anh Nguyễn Quang Huy cháu là “Thích Trí Anh”.

Cụ Xuân Thủy cười sảng khoái.

- Này, cái anh lúc thì Trần Bạch Đằng, lúc thì Tư Ánh, lất khất như con lật đật, lúc nào cũng cao ngạo, tỏ ra thông minh xuất chúng, nhưng thực chất rỗng tuếch. Anh có thể bố trí cho tôi gặp thượng tọa Thích Trí Quang được không?

Câu hỏi bất ngờ của cụ Xuân Thủy làm tôi cẩn thận từng lời nói.

- Thưa bác, sau giải phóng, anh Năm Xuân (Mai Chí Thọ) và cháu đến thăm Viện Hóa Đạo tại chùa Ấn Quang. Hòa thượng Viện trưởng Thích Trí Thủ tiếp và gần đủ thành viên Viện Hóa Đạo. Thượng tọa Trí Quang ngồi cạnh hòa thượng Trí Thủ và là người phát biểu duy nhất toàn bộ nội dung hôm ấy với anh Năm Xuân. Cuộc gặp gỡ chẳng đem lại kết quả gì. Năm 1978, cháu mời thượng tọa Trí Quang đến Văn phòng Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh vào buổi tối. Anh Sáu Tường (Nguyễn Vĩnh Nghiệp) ủy viên thường vụ Thành ủy, trưởng ban Dân vận và anh Phạm Văn Ba thành ủy viên phó chủ tịch Ủy ban Mặt trận tiếp. Nhưng những nhà chiến thuật nói chuyện với những nhà chiến lược, nên chẳng đến đâu cả.

Bây giờ cháu chưa biết ý định, yêu cầu và nội dung bác muốn gặp thượng tọa Thích Trí Quang như thế nào? Nếu bác thấy được, bác có thể cho cháu biết để cháu chủ động tính toán sao cho phù hợp.

- Tôi sẽ tiếp thượng tọa Trí Quang với tư cách Bí thư Trung ương Đảng, tốt nhất là tại Hà nội. Tôi sẽ nói rõ ý kiến của Đảng đối với Phật giáo Việt Nam và sẵn sàng nghe ý kiến của thượng tọa về tình hình chính sách chung của cả nước, quốc tế. Tôi sẽ tiếp thượng tọa trang trọng, anh lo liệu được chứ?

- Thưa bác, cháu cố gắng.

Trong đầu tôi luôn luôn suy nghĩ một kế hoạch hoàn hảo để công việc được tốt đẹp. Tôi thông báo cho anh Nguyễn Quang Huy, người bạn thân của tôi ở Ban tôn giáo chính phủ biết. Một hôm anh Huy nói chuyện với anh Trần Bạch Đằng, ông ta vẫn một mực nói thượng tọa Trí Quang là CIA (có lẽ giống như lũ Cần Lao “Công giáo” nghĩ, vì lý do Tòa đại sứ Hoa Kỳ cho Thượng tọa Thích Trí Quang tị nạn nhà Ngô từ đêm 20.8.1963? – tqd). Anh Huy bật luôn “Thế mà cụ Xuân Thủy Bí thư Trung ương Đảng sẽ tiếp đấy”. Ông Trần Bạch Đằng phản ứng: “Tại sao tôi biết?” Anh Huy nói: “Cụ Xuân Thủy khen anh Mười Anh và muốn mời anh ấy ra Trung ương làm việc đấy”. Trần Bạch Đằng mỉa mai: “Ông thích thì vào thành phố Hồ Chí Minh xin với Thành ủy. Tôi không có ý kiến”. Không ngờ chuyện lại phức tạp đến thế.

Gần đến ngày thất tuần (49 ngày) của hòa thượng Trí Độ, thầy của thượng tọa Trí Quang. Tôi được tin thượng tọa muốn ra Hà nội cúng giỗ thầy để báo hiếu. Tôi đến chùa Ấn Quang thăm thượng tọa một cách tự nhiên.

Quả thật thượng tọa đang sốt ruột muốn đi Hà nội dự lễ thất tuần của Hòa thượng Trí Độ. Chỉ còn hơn một tuần nữa, thượng tọa chưa biết thủ tục hành chánh ra sao? (Bởi lúc đó đi lại rất khó khăn). Đi bằng máy bay hay tàu lửa? Thượng tọa ngỏ ý nếu không phiền, nhờ tôi giúp đỡ. Tôi hứa cố gắng giúp những gì thượng tọa yêu cầu, hy vọng là có thể được. Thượng tọa cảm ơn tiễn tôi ra về.

Tôi điện báo cáo nội dung gặp thượng tọa Trí Quang với cụ Xuân Thủy và điện cho anh Huy ở 34 Ngô Quyền Hà nội, xin ban Tôn giáo chính phủ yểm trợ. Cụ Xuân Thủy ra lệnh cho các nơi thi hành. Tôi chuẩn bị toàn bộ kế hoạch chặt chẽ, từ phương diện đi lại, thị giả (người phục vụ), điều kiện tiếp cận trên máy bay, nơi ở và tài xế xe con để thượng tọa sử dụng tại Hà nội và đi nơi nào tùy thượng tọa, đồng thời tôi tạo hoàn cảnh thật tự nhiên, chu đáo để đưa tới buổi gặp gỡ ngẫu nhiên “Xuân Thủy/Trí Quang”.

Hai hôm sau, thượng tọa Trí Quang nhắn tôi đến chùa Ấn Quang chơi. Thượng tọa cảm ơn và đổi ý kiến không đi Hà nội nữa vì sức khoẻ yếu, chỉ lập bàn thờ ngay tại chánh điện chùa Ấn Quang để cúng hòa thượng Trí Độ vào ngày rằm tháng 10 Kỷ Mùi (04-11-1979). Tôi nói với thượng tọa không có vấn đề gì phải cảm ơn, vì chưa mua vé nên chưa phải sao cả. Đúng là “mưu sự tại nhơn, thành sự tại thiên”. Tôi báo tin cho cụ Xuân Thủy và anh Huy biết. Ít hôm sau cụ Xuân Thủy gặp tôi cho biết có một cán bộ công an thành phố Hồ Chí Minh quá nhiệt tình đến xin tự nguyện mua vé máy bay và giúp mọi việc cho thượng tọa Trí Quang đi Hà nội cúng 49 ngày giỗ thầy. Thượng thọa Trí Quang lại biết người đó là công an, nên nghi có vấn đề, liền hủy cuộc đi. Cụ Xuân Thủy cười: “Cọp vừa ló đầu ra miệng hang, ta lại vụng về làm cọp thục (thụt – tqd) vào rồi. Thôi đợi lúc khác.”

Đọc xong những nội dung mà ông cán bộ Đỗ Trung Hiếu tường thuật như trên thì, những luận điệu nào là CS, nào là CIA đối với nhà sư Thích Trí Quang đều trở thành vô nghĩa. Và chuyện "ra mắt sách..." hôm nay của mấy ông nó chỉ là mớ giấy vụn kèm theo với những trò ma cạo và đểu cáng có hơn chứ không kém!

Vậy mà lại có thể nhỏ mọn mang tâm địa tiểu nhân, xách mé để nhằm hy vọng lăng nhục nhà sư theo những luận điệu rẻ tiền như sau:

-“Khi nghe Đỗ Trung Hiếu nói về vai trò cần thiết của Trí Quang trong tổ chức GHPGVN, Trần Bạch Đằng đã gạt phắt đi, và không đồng ý cho Trí Quang tham dự vào tổ chức nàỵ Vì theo nhận xét của Trần Bạch Đằng thì Trí Quang thuộc loại “CIA CHIẾN LƯỢC”,không thể nào dùng được.
Ít lâu sau Nguyễn Văn Linh thay thế Xuân Thủy lên làm Trưởng Ban Dân Vận Trung Ương, cũng hoàn toàn đồng ý với Trần Bạch Đằng, cho rằng Trí Quang là người không thể xài được.

-“Như vậy, bạn đọc đã thấy rõ, trong suốt cuộc chiến Quốc – Cộng ở VN, dù cho Trí Quang đã lập nên được rất nhiều công trạng lớn với CSVN, nhưng chỉ vì một chút nghi vấn không biện minh được của cái đêm 22. 8. 63 oan nghiệt, cuộc đời của Trí Quang đã bị các đồng chí của ông ta đem chôn vùi âm thầm vào trong bóng tốị Vậy cái đêm 22. 8. 63 là cái đêm gì?
Đêm 22. 8. 63 là đêm mà Công An, Cảnh Sát, và Mật Vụ nhà Ngô đã ập vào các chùa Xá Lợi, An Quang, Theraveda… để hốt hết các tăng ni, duy chỉ sót có một mình… Trí Quang!”

Người CSVN, tuy “giận Thích Trí Quang lắm”, mà họ còn có lương tâm để nhận xét là “Thượng tọa đứng trên lập trường dân tộc”. Còn đám Cần Lao “Công giáo” hoài Ngô của nước Vatican La mã thì vung xích chó bằng danh từ “đồng chí”?

Hãy dẹp những luận điệu phi thực và vô giá trị ấy đi! Không thuyết phục được ai đâu!

Và, cái đêm gì là đêm “22.8.63” (do tôi phản biện trong một bài viết khác...!) ?






Chân tướng của Liên Thành - Một kẻ vô luân, bất đạo
8:45, 30/05/2012

Liên Thành bây giờ.

Giác Hạnh

unread,
Mar 12, 2014, 1:23:44 AM3/12/14
to Tran Quang Dieu, duye...@live.com, qt...@ec.rr.com, hbnguy...@yahoo.com.au, tudo-n...@yahoogroups.com, dvl_...@yahoo.fr, goi...@yahoogroups.com, baovech...@googlegroups.com, daploi...@yahoogroups.com, dienda...@yahoogroups.com, giaodie...@yahoo.com, chinhng...@yahoogroups.com, toa...@roadrunner.com, nghegiao...@gmail.com, vida...@yahoogroups.com, ubtttad...@gmail.com
Tôi tin rằng với lập luận của phe Công giáo và Liên Thành nói chúng, đặt các vị Thầy Sư và Phật giáo nói chung là "Phản Dân tộc" vì họ có lập luận của họ, nhưng lập luận đó để được soi rọi thì thật tình mà nói, tôi xin chia sẽ như sau: 

VNCH không bao giờ là Dân tộc. VNCH cũng chẳng bao giờ là Quốc Gia. 

Nếu nói VNCH là Dân tộc, là Quốc Gia, là vì phe Công giáo chống Việt cộng toàn diện. Trên tâm lý này, thành phần Công giáo đã đồng hóa danh từ "Quốc Gia", "Dân Tộc" thành nước "VNCH". 

Nước VNCH là gì? Thật ra nó không tồn tại đúng với chính nghĩa Quốc gia dân tộc. Vì Diệm đã phá vỡ hiệp định Geneve để lập nước VNCH cốt cánh chỉ để bảo tồn Công giáo đã bị phe Dân tộc Việt nam là những thành phần Cách mạng chống Pháp đánh đuổi. Diệm đã phá vỡ hiệp định thống nhất đất nước. Ngụy biện VNCH là Quốc gia đã bị tuyên truyền láo trong thời kỳ chiến tranh, nhưng thật ra nó không có chính nghĩa Quốc gia Dân tộc. 

Nếu nói tất cả chúng ta phản bội VNCH. Tôi cũng cho là không đúng, sự thật là toàn dân miền Nam đã phải bị rơi vào cuộc chiến phi chính nghĩa này. Và VNCH chỉ có thể tồn tại một thời gian 20 năm. Do không có chính nghĩa Dân tộc và Quốc gia, VNCH đã bị chính người dân miền Nam đánh bại. 

Vì thế, Dân tộc, Quốc Gia cần phải được đặt về đúng vị trí của vấn đề là nhóm Quân phiệt đảng do Thiệu lập nên không có chính nghĩa Quốc gia Dân tộc, cũng như Diệm. 

Vì thế, Dân Tộc, Quốc Gia cũng không đồng nghĩa là VNCH, và bọn Liên Thành cũng như Công giáo cũng không thể và không có tư cách độc quyền nói rằng Dân tộc, Quốc Gia là VNCH. 

Dân tộc, Quốc gia là của toàn dân Việt nam, bất kể là họ theo Cộng sản, hay VNCH. Chứ chẳng bao giờ có cái gọi là "Cộng sản - chống lại - Quốc gia" hay Quốc Cộng. Mà thực chất là giữa Cộng sản với Cộng hòa là hai đối lực. 

VNCH được cho là Quốc gia, còn VC là không có Dân tộc, không có Quốc gia? Cái này là tuyên truyền láo của bọn đảng Cần lao và Đảng dân chủ Quân phiệt của Thiệu mà thôi. 

Hôm nay, Dân tộc, Quốc gia phải đặt đúng về vị trí của nó. 

Chỉ có bọn quân phiệt phản quốc đã phản bội tổ quốc dân tộc, bọn giáo phái tôn thờ chóp bu của chúng đặt ngoài lãnh thổ Việt nam mới đích thực là bọn phản quốc, phi dân tộc, không thuộc thành phần Quốc gia. Chứ không có một Ông sư nào, một người Việt cộng hay bất cứ thành phần đảng phái nào là không phải Dân tộc, Quốc gia cả.

Chính thành phần Công giáo mới không có đặt quyền lợi Dân tộc Việt và Quốc gia Việt nam. 

Điều này rất rõ ràng là hễ khi ai lên án bọn phản dân tộc này, phi quốc gia này, thì chúng chửi tất cả ai khác họ là VC. Tại sao? Tại vì họ đã đồng hóa Phi dân tộc, phản quốc gia thành phe Dân tộc Quốc gia, còn phản họ là VC theo lập trường tuyên truyền láo "VC là tam vô". 

Nhưng thực chất, khi họ chửi chúng ta là VC. đồng nghĩa họ đã nói chúng ta là người theo Dân tộc và Quốc gia Việt nam. Còn chính họ đã thật sự là thành phần Phi dân tộc rồi đấy.

Phản quốc, phi dân tộc thì không có chính nghĩa, đã mất chính nghĩa, thì làm cái gì cũng thất bại cả, điều đó ứng nghiệm đúng với bọn Diệm, Nhu, Thục, và sau này là Loan, và kể cả bọn công giáo chống cộng đang bênh vực cho Loan, theo Liên Thành.

Tất cả chúng ta phải biết bình tâm, rồi sẽ thấy những gì bọn phản quốc này nói và làm đều trái ngược để che giấu tội ác của bọn chúng. Những chiến sĩ VNCH nếu là những người yêu nước thật sự, sẽ biết bình tâm rồi họ sẽ thấy họ uống phải bùa mê thuốc lú chính họ đã bị chính sách tẩy não tuyên truyền của bọn Công giáo thực hiện với họ. 

Đại họa là ở chổ đó, sai lầm này, do chính bọn công giáo đã làm tan nát cuộc đời họ gần hai thế hệ. 

Chúng ta cần phải làm là đem ánh sáng của sự thật chiếu thẳng vào vấn đề, rồi sẽ thấy, ví dụ điển hình nhất là những tên như Lữ Gian hôm nay hiện nguyên hình là bọn vô thủ vô thục phi dân tộc đang tuyên truyền láo, lừa gạt lịch sử và chính tên này, những tên này cố tình chỉ dựa vào lập luận của thành phần phục hoạt cho tà quyền PHái để xác định rằng lãnh thổ Việt nam chỉ tồn tại từ khi có Pháp lãnh đạo Việt nam? 

Họ vất bỏ hoàn toàn lịch sự chiến tranh lãnh thổ VN mấy nghìn năm qua mà thật sự lãnh tổ tổ quốc ta đã kéo dài đến tuốt bên Hồng Kông, Đài Loan và Việt Nam hôm naỵ Những cái vấn đề nguồn gốc này nó có liên hệ đến sự an nguy tồn tại dân tộc, văn hóa, lịch sử chiến tranh và kinh nghiệm chiến đấu của dân tộc ta chứ không thể chỉ theo cái gọi là bọn ma giáo ngoại bang này chỉ là những hành vi chính trị phi dân tộc hoàn toàn có hại cho tổ quốc dân tộc Việt nam. 

Hãy cảnh giác bọn Công giáo, chúng mới là bọn phản quốc đang chạy tội ác của chúng. 
Tất cả chúng ta không ai Phản quốc, tội đồ dân tộc cả, mà chính bọn này đã đem đại bác, bom đạn ngoại quốc và tàn sát lãnh thổ, chia rẽ tổ quốc ta. 

Toàn thể dân tộc Việt cần phải biết cảnh giác toàn diện về bọn công giáo và lôi cổ chúng ra toà án lịch sử dân tộc. Phải làm thế để cảnh tĩnh thành phần giáo dân Công giáo và tránh cho dân tộc ta triền miên chém giết nhau vì tin theo lời truyền đạo của bọn quân độc thần đảng trị này, chúng không phải là một tôn giáo thánh thiện, mà chỉ là một đảng chính trị mà thôi, Côn giáo là một hệ thống chính trị xâm thực, chém giết, gây ra tội ác chiến tranh tàn sát dân tộc ta. Đó là sự thật, Bọn thánh tử đạo của đạo này đã là bọn đã tham gia gây chia rẽ dân tộc và góp tay vào tội ác làm cho VN một lần bị mất nước. 

Toàn thể dân tộc ta cần phải hết sức thận trọng. Không thể xem thường chúng bằng những lời thánh thiện ngụy trang cho tội ác tầy trời. 

Giác Hạnh




Tuyên Bố Nhiệm Vụ Chấn Hưng Dân Tộc của Tập Thể Cộng Đồng Người Việt Quốc 
Nhiệm Vụ Chấn Hưng Dân Tộc của Tập Thể Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia:
1. Vận động những thế lực cầm quyền
- Tôn trọng Chủ quyền lãnh thổ và quyền độc lập của dân tộc Việt nam.
- Tất cả mọi thế lực phi dân phải trở về với dân tộc. 
- Đặt lợi ích đoàn kết dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ phải được độc lập là nhiệm vụ trên hết của mọi thế lực quốc dân. 

2. Vận động các tôn giáo có gốc dân tộc và cộng đồng tập thể dân tộc Việt nam có cơ hội thực hiện tinh thần hiệp hòa để dân tộc có thể đoàn kết và kịp thời phát hiện giải quyết hiểm họa đe dọa đến lợi ích dân tộc do những thế lực phi dân tộc gây ra. Những phần tử phi dân tộc đó là những thế lực có tổ chức chóp bu không phải người Việt mà tổ chức họ có chủ tâm tàn phá dân tộc tổ quốc và lãnh thổ Việt nam.

3. Vận động quyết tâm bài trừ mọi thủ đoạn do những thủ phạm đảng phái, tổ chức, tông giáo có mầm tái phát những tiền đề gây ra đại họa mà họ đã có quá trình chia cắt lãnh thổ tổ quốc và là thủ phạm chia rẽ dân tộc. Tập thể dân tộc chúng ta phải biết đoàn kết, cảnh giác và thận trọng hơn để cùng nhau triệt tiêu mọi thủ đoạn phá hoại tổ quốc của bọn phản dân hại nước này. 

4. Chúng ta quyết tâm tham gia đoàn kết thống nhất dân tộc để xây dựng tổ quốc và bài trừ mọi thủ đoạn chia rẽ dân tộc dù chúng có minh danh bất cứ hình thức nào nhưng mọi âm mưu thủ đoạn của chúng chỉ là chính sách chia rẽ dân tộc, chúng phải bị vạch trần và trả giá cho những tội ác đó.

5. Những hành động cụ thể mà chúng ta phải thực hiện là:
5.1. Yểm trợ và vận động quốc tế cho Việt nam được mở rộng bang giao kinh tế và ngoại giao để Việt nam có thể hội nhập và phát triển kinh tế thị trường và tạo thế liên minh quốc tế vì hòa bình. Một nghĩa vụ cần thiết để Việt Nam thoát những hiểm hiểm họa mất nước và nghèo đói. Chúng ta có thể giúp cho dân tộc tiến đến là quốc gia tư bản giàu mạnh.
5.2. Yểm trợ và vận động người Việt tham gia nghiên cứu lịch sử và tiến trình tương lai cho một nước Việt Nam tiên tiến. Cụ thể là cần thiết phải vận dụng mọi khả năng liên kết, tổ chức tạo tình đoàn kết đồng bào để họ cảm thông hơn và để xóa bỏ những thủ đoạn tuyên truyền phản quốc của bọn phi dân tộc cố tình chia rẽ đồng bào ta chỉ vì những thủ đoạn man rợ phi dân tộc của chúng. Tổ quốc chúng ta đã bị bọn phi dân tộc này lợi dụng. Chúng ta rút ra bài học kinh nghiệm đại họa đó để toàn thể quốc dân không còn bị bọn chúng tuyên truyền, lợi dụng, đồng hóa nhầm xóa tan văn hóa và lãnh thổ tổ quốc của dân tộc ta.
5.3. Tập Thể Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Chấn Hưng Dân Tộc có nhiệm vụ vận động, tham gia thực hiện những quyết định chính nghĩa quốc gia này.

Tập Thể Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Chấn Hưng Dân Tộc.


2014-03-11 21:52 GMT-07:00 Tran Quang Dieu <tranqu...@hotmail.com>:
Ông Giác Hạnh với lập trường cụ thể như thế này là đúng:

"Thầy Thích Trí Quang của chúng ta như bao vị Tăng những đời trước. Khi giặc đến nhà, thì Nhà sư cũng phải ra tay cứu nguy dân tộc. Điều này thể hiện đúng tinh thần một vị Tăng Phật giáo vì Dân tộc được truyền thừa."

Quả vậy, Thầy Thích Trí Quang là một trong vô số những vị Tăng qua dòng truyền thừa của PGVN. Họ là người Việt Nam, phục vụ thuần túy cho PGVN gắn liền với quê hương Việt Nam qua mọi bước thăng trầm và hưng vong của lịch sử. Không hề trở thành tay sai, vong nô, vọng ngoại, bán đứng linh hồn, làm giày dép cho ngoại bang = cõng rắn đến cắn gà nhà, rước voi đào xới, giày đạp, tiêu hủy mả tổ. Và, tuyệt nhiên, Thầy Thích Trí Quang, cũng như bất cứ một nhà sư PGVN nào, người ta cũng không thể trở thành như "thần dân" của bất kỳ một tha bang ngoại chủng nào khác đã, đang và còn sẽ nắm đầu những người gốc Việt trở thành tôi đòi, rằng, "được" cúi đầu nhận lãnh những chức vụ, những quyền tước, để rồi phải phụng mệnh "làm theo" cái gọi là "đức vâng lời" như chính tôi đã từng thường hay nhắc nhở, cảnh cáo!

Nếu những người gốc Việt còn giữ lại cho mình chút ít liêm sĩ tối thiểu để nhận thức về những sự kiện thực tế như chúng tôi đã từng nêu? Thế thì: Cụm từ gian manh và đểu cáng, khi nó nói điên khùng rằng "Thích Trí Quang" mà lại có thể là "tội đồ dân tộc"?

Cái đó là táng tận lương tâm! Là vô giá trị đối với lịch sử!

Đừng có hòng rinh cái bung xung CS ra để phủ đầu người khác, nhằm chạy tội cho chính mình, nhất là những giáo giặc và các giáo gian, nói chung là "thần dân" nào đã biến thành Việt gian trên xứ Việt, trong đó cụ thể là có gia đình nhà Ngô tam đại Việt gian!?

Lịch sử quyết không cho phép như thế đâu!

Nếu bằng cái bung xung CS? Đồng thời kẻ nào thích rinh nó để hì hục tròng vào đầu những người khác?

Các vị hãy nên đến thẳng trụ sở Liên Hiệp Quốc, đến thẳng Tòa Bạch Ốc in USA, đến thẳng Vatican, đến thẳng tất cả hàng trăm quốc gia đã và đang có bang giao với cái tên nước CHXHCNVN để mà chửi rủa, mạt sát, miệt thị và vu khống, thay vì nhà sư Thích Trí Quang hay bất cứ một nhà sư, một giáo phái hay một Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam nào!!!

Trần Quang Diệu


To: tudo-n...@yahoogroups.com; tranqu...@hotmail.com
CC:
From: giacha...@gmail.com
Date: Tue, 11 Mar 2014 19:47:38 -0700
Subject: [DiendanDanToc] Re: [tudo-ngonluan] Tội đồ Dân tộc? FW: [GoiDan] ĐỖ SƠN ĐỌC SÁCH CỦA TÁC GIẢ LIÊN THÀNH: “THÍCH TRÍ QUANG, THẦN TƯỢNG HAY TỘI ĐỒ DÂN TỘC”

 

Thầy Thích Trí Quang của chúng ta như bao vị Tăng những đời trước. Khi giặc đến nhà, thì Nhà sư cũng phải ra tay cứu nguy dân tộc. Điều này thể hiện đúng tinh thần một vị Tăng Phật giáo vì Dân tộc được truyền thừa. 

Chính bọn công giáo và Hoa kỳ thành công giải tán Thầy Thích Trí Quang, và hậu quả tất nhiên là VNCH bị tan rã. Nếu Thầy Thích Trí Quang không bị bọn công giáo quân phiệt bắt, thì VNCH không đến nổi bị tan rã như vậy. Nhưng rồi sao? Khi Phong trào Phật giáo quá mạnh, Công giáo hoàn vũ biết rõ là Thục bị bay chức rồi, thì Công giáo hoàn vũ đã thất bại tại Việt nam. Quyết định cuối cùng thì Công giáo thấy không có ích lợi tại miền Nam, tất nhiên bỏ luôn VNCH mà bắt tay với CS Bắc Việt bán đứng VNCH. 

Nên nhớ rằng khi VNCH bị thảm bại, là do Công giáo và Hoa Kỳ làm cho VNCH thất thủ, lúc này thì Phật giáo và Phong trào Phật giáo đã bị bọn quân phiệt giải tán hết rồi, tình hình cũng rõ là từ 1972 trở về sau, Phật giáo bị Nguyễn Ngọc Loan dẹp, thì lấy đâu ra Phật giáo tiêu diệt VNCH? 

Chính bọn Nguyễn Ngọc Loan, Liên Thành và phần tử Công giáo đã bán đứng VNCH không thấy sao? 

Chính bọn Công giáo đã bán đứng VNCH. Từ Phạm Ngọc Thảo, Nguyễn Ngọc Loan, cho tới Nguyễn Văn Thiệu, và bộ máy cố vấn VNCH trung ương, tất cả là VC mà cũng là Công giáo. Rõ ràng là cuộc chiến VN là một cuộc chiến xâm lược do bọn Công giáo hoàn vũ bài ra cố tình để chia rẽ dân tộc là đòn tạo cho nước đục bắt cò, theo lời thề của Kinh thánh. Nhưng bắt không được cò, mà chúng còn bị phản tác dụng. 

gần 40 năm qua tại hải ngoại, chúng ta chống cộng sản. Nhưng cũng chính bọn Công giáo lại là đám chống cộng hăng nhất mà cũng làm cho đại họa thê thảm nhất. Rồi hôm nay ra sao? Công giáo Vatican bắt tay với Cộng sản. Ở hải ngoại này, có còn ai tin vào đòn chống cộng cuội của bọn Công giáo? 

Nhìn đi, Lữ Giang tuyên bố Ải Nam Quan là của Tàu, Pháp mới là ân nhân của người Việt nam? Tổ chúa vatican chúng nó, Chính bọn thánh tử đạo phản quốc này làm cho triều đình Nguyễn thảm bại, rồi trao hết quyền cho Pháp, Pháp nắm chặt chính quyền triều đình là nhờ những bàn tay tội ác của ai? Sang thời kỳ cách mạng, Pháp thảm bại, rồi cũng do ai bỏ chạy vào Nam, phá hoại hiệp định Geneve để thống nhất đất nước, rồi tạo ra một cuộc chiến mới.

Nếu không có cuộc chiến tại Việt nam do bọn Công giáo Diệm, Thục gây ra, thì cả nước được thống nhất, làm sao có chuyện mất Hoàng Sa? 

Tội ác tầy trời vẫn là do bọn Công giáo đảng này gây ra một đại họa khủng khiếp. 

Giác Hạnh.


2014-03-11 7:05 GMT-07:00 Tran Quang Dieu <tranqu...@hotmail.com>:
 

Chiến tranh Việt Nam | Chín hầm địa ngục trần gian thời Ngô Đình Diệm
Địa ngục này là sản phẩm tội lỗi của Ngô Đình Cẩn. Y là em trai Ngô Đình Diệm, con thứ tám của Ngô Đình Khả. Tên thường gọi ở nhà của y là cậu Út-Út Cẩn. Trong sáu anh em trai nhà họ Ngô, Ngô Đình Cẩn…
00:03:41
Added on 2/21/2013
7,124 views

“Nhà sư Thích Trí Quang?

Cần phải vạch mặt thẳng thừng đối với những ai còn cứ mãi lải nhải méo mó về nhà sư Thích Trí Quang.

Những âm binh chuyên làm chuyện ruồi xuyên tạc lịch sử, vu khống bừa bãi bất cố liêm sỉ như người đứng tên Liên Thành này, nó nói rằng "Thích Trí Quang, Thần Tượng hay Tội Đồ Dân Tộc" là đủ thấy chủ đề ngu mất rồi.

Tại sao?

Nhà sư Thích Trí Quang là linh hồn tranh đấu bảo vệ Phật Giáo khi bị mấy anh em ông thầy tu của nước Vatican "Công giáo" Ngô Đình Diệm và Giám mục Ngô Đình Thục đàn áp dã man, tấn công khốc liệt đến nỗi nhiều người bị thương vong lẫn bắt cóc đem đi mất tích vào hồi Pháp nạn Phật giáo năm 1963.

Nhà sư Thích Trí Quang cũng là người đứng ra tranh đấu cùng với anh em Quân nhân Quân Đoàn I vào năm 1966 để đòi hỏi thực thi một Chính phủ Dân cử Lập hiến, thay vì Quân phiệt. Và kết quả, Hiến Pháp thời Đệ Nhị VNCH đã được soạn thảo và ban hành. Xóa bỏ Hiến Pháp cũ phản dân quyền ngày 26.10 do anh em Ngô Đình Diệm đã đẻ ra sau khi bầu cử gian lận - truất phế Cựu hoàng Bảo Đại.

Nhà sư Thích Trí Quang là nhân vật thể hiện đúng Tinh Thần Dân Tộc đối với PGVN nói riêng và tiền nhân Dân Tộc nói chung.

Còn số ít trong thiểu số 7, 8% những "thần dân của thành Rom" và đám âm binh mạt hạng như Liên Thành (mấy mươi năm im ru, ngậm họng... không dám thò mặt ra... kể từ sáng ngày 2 tháng 11 năm 1963... cho đến đến vài năm gần đây...) a tòng luận điệu theo kiểu cùng với hoài Ngô Cần Lao Nhân Vị đảng chửi rủa nhà sư Thích Trí Quang bằng 4 chữ "Tội Đồ Dân Tộc" (sic) thì y hệt lũ Việt gian vong nô, vọng ngoại, đan tâm phản bội quê hương dân tộc, cõng rắn cắn gà nhà rước voi giày mả tổ như trước đây chúng đã từng mạt sát Phong trào Văn Thân trong cuộc Khởi Nghĩa Hương Khê của Cụ Phan Đình Phùng và Tướng Cao Thắng bằng chữ "bọn"!?


Tội đồ Dân tộc? 

Nhà giam 9 hầm - Địa ngục Trần gian:

http://www.youtube.com/watch?v=aJc0SaC0aQw


"Đăng Lương bị bạn Liên Thành thảm sát, thân vùi một nơi, đầu chôn một nẻo. Sau năm 1975, một đồ đệ cũ của Liên Thành (hiện còn sống gần chợ Bến Ngự) báo cho bà Thái Thị Sen biết Hồ Đăng Lương, con trai bà, đã bị thảm sát như thế nào và đã bị vùi dập nơi đâu. Nhờ thế gia đình của Hồ Đăng Lương tìm được thân và đầu của anh đem về ráp lại, an táng ngay trong khu vườn nhà."

Liên Thành bây giờ.


Muốn biết đích xác những TỘI Đ DÂN TC lẫn cả các giáo giặc, giáo gian và Việt gian trong quá khứ lẫn thời cận đại thì phải có liêm sĩ với lương tri để định thần nhận rõ những sự kiện bất khả phủ bác sau đây:


alt
alt
 Các nghĩa quân của cuộc khởi nghĩa Ba Đình bị Pháp bắt.

Trong tấm hình này, người Việt Nam đã trở thành Việt gian đang ôm vũ khí của giặc Pháp đứng canh chừng các nữ anh hùng trong cuộc khởi nghĩa ở chiến khu Ba Đình?

Ngưi đàn ông Việt gian đó là "lính" của "Cụ Sáu" Linh mục Trần Lục. 
 












tên Việt gian Giám mục Phạm Ngọc Chi và










 các bà sơ báo cáo tin tức cho Pháp





alt
‘Cụ Sáu Trần Lục’ tước của thực dân và ‘Công giáo La-mã’ ban cho : Le Baron de Phat Diem

alt
Nghĩa quân chiến khu Yên Thế kháng Pháp-Tả đạo trước khi bị hành quyết






Anh hùng Đề Thám vị quốc vong thân
Anh hùng Đề Thám vị quốc vong thân
Nghĩa quân Yên Thế bị bắt
Nghĩa quân Yên Thế bị bắt
Nghĩa   quân Yên Thế bị thực Dân và tay sai Kto gọi là
Nghĩa quân Yên Thế bị bắt
Thực dân và tay sai xử tử Nghĩa Quân
Thực dân và tay sai (xin đọc bài trên) xử tử Nghĩa Quân
Thủ cấp của một anh hùng nhóm Ðề-Thám
Thủ cấp của một anh hùng nhóm Ðề-Thám
Những anh hùng của nhóm Ðề-Thám bị xử   tử (1908)
Những anh hùng của nhóm Ðề-Thám bị xử tử (1908)
 




altNguyễn thái Học (1.12.1902 – 17.6.1930) 
 
alt
 Chiếc đầu trong vòng tròn là đầu của đảng trưởng VNQDĐ Nguyễn Thái Học!

alt
alt
 Các nghĩa quân của cuộc khởi nghĩa Ba Đình bị Pháp bắt.

Photobucket


Photobucket

17.A. Bắc Kì - Hà nội - Viên Đội người bản xứ mang số lính 1585 thuộc đại đội 6 - tham gia vụ đầu độc bị chém đầu theo kiểu Annam ngày 8 tháng Bẩy năm 1908.

Photobucket

17.B. Bắc Kì - Hà nội - Viên Đội người bản xứ mang số lính 16 - tham gia vụ đầu độc bị chém đầu theo kiểu Annam ngày 8 tháng Bẩy năm 1908

Photobucket

17.C. Bắc Kì - Hà nội - Viên Cai người Annam mang số lính 40 - tham gia vụ đầu độc bị chém đầu theo kiểu của nước này ngày 08 tháng Bẩy năm 1908. 

Photobucket

17. Bắc Kì - Hà nội - Thủ cấp các lính bản xứ, tham gia vụ đầu độc bị hành quyết ngày 8 tháng Bẩy năm 1908 theo luật Annam. Các ông đội Bình (Nguyễn Chí Bình), đội Nhân (Đặng Đình Nhân), đội Cốc (Nguyễn Văn Cốc) bị hành quyết ngày 8/7/1908 và bêu đầu ở các cửa ô. Những bức ảnh gây shock này ghi dấu những trang sử đau thương viết bằng máu của nhiều thế hệ người Việt. 

Photobucket


Ngày 3 tháng Tám năm 1908 xử tử thêm ba người: Nguyễn Văn Hiên (Bếp Hiên), Cai Ngà, và Bếp Xuân. Địa điểm chém là Vườn Bàng ở gần chợ Bưởi. Những giờ phút cuối cùng của họ được lưu lại trên bộ bưu ảnh "Triple Exécution Capitale - Hanoi, 6 Aout 1908" (Vụ tử hình ba người - Hà nội ngày 6 tháng 8 năm 1908) của hãng R. Bonal Photo (Hải Phòng).

Photobucket

1. Vụ tử hình ba người - Hà nội ngày 6 tháng 8 năm 1908. Phạm nhân bị gông cùm sau khi bị bắt.

Photobucket

2. Vụ tử hình ba người - Hà nội ngày 6 tháng 8 năm 1908. Những kẻ bị kết án bị đưa ra khỏi nhà tù đi đến nơi hành quyết. Ta dễ dàng nhận ra cổng nhà tù Hỏa Lò trong bức ảnh này. 

Photobucket

(2). Đầu bếp Hai Hiên và viên Cai mang số lính 643 bị đưa đi xử tử. Dòng tên hãng dọc mép phải bưu ảnh cho ta biết đây là bộ ảnh thứ hai của hãng R. Bonal phát hành về vụ sử trảm ngày 6 tháng Tám năm 1908. Chú thích của bộ ảnh này chi tiết hơn. Và chất lượng ảnh cũng tốt hơn. Tuy nhiên để tránh sự nhầm lẫn về trình tự khi đặt xen hai bộ ảnh vào nhau, số thứ tự của bộ ảnh thứ hai sẽ được đặt trong dấu ( )

Photobucket

3. Vụ tử hình ba người - Hà nội ngày 6 tháng 8 năm 1908. Đoàn người đi qua đường phố Hà nội để đến bãi hành quyết. Đây là phố Hỏa Lò, bên trái bức ảnh thấy rõ bức tường đá của nhà tù.

Photobucket

(2). Tử tù bị trói vào cọc

Photobucket

(5). Trong lúc tuyên án

Photobucket

5. Vụ tử hình ba người - Hà nội ngày 6 tháng 8 năm 1908. Phút khai đao

Photobucket

(4). Phút khai đao

Photobucket

(5). Đao phủ thứ hai lấy đà quăng thủ cấp lên không trung

Photobucket

6. Vụ tử hình ba người - Hà nội ngày 6 tháng 8 năm 1908. Đao phủ ném thủ cấp lên không trung

Photobucket

7. Vụ tử hình ba người - Hà nội ngày 6 tháng 8 năm 1908. Những thân người đổ sập xuống khi hành quyết

Photobucket

(8) Sau giây phút định mệnh - Chờ mang quan tài tới .

826_001

8. Vụ tử hình ba người - Hà nội ngày 6 tháng 8 năm 1908. Cho xác vào quan tài.

Photobucket

(10) Thủ cấp được cho vào quan tài cùng phần thân.

Photobucket

9. Vụ tử hình ba người - Hà nội ngày 6 tháng 8 năm 1908. Những xác người được đưa về làng Cầu Giấy

Photobucket

10. Vụ tử hình ba người - Hà nội ngày 6 tháng 8 năm 1908. Hạ huyệt.

Photobucket

12. Vụ tử hình ba người - Hà nội ngày 6 tháng 8 năm 1908. Thủ cấp của họ bị bêu trong rọ tre.


Photobucket

333. C. Quảng Yên - Hành quyết kẻ sát nhân người Annam ngày 7 tháng Ba năm 1905, trước khi bãi bỏ án tử hình.Seri bưu ảnh này gồm 4 bức, miêu tả chi tiết quá trình sử chém phạm nhân. Hai bức bưu ảnh này được một khách hàng là Xavier gửi từ bưu cục Đông Khê ngày 11 và ngày 25 tháng Ba năm 1908, thời điểm 3 tháng trước khi xảy ra vụ "Hà Thành đầu độc".

Photobucket

333. D. Quảng Yên - Hành quyết kẻ sát nhân người Annam ngày 7 tháng Ba năm 1905, trước khi bãi bỏ án tử hình. Có lẽ những hình ảnh giật gân kiểu này bán chạy, nên khi không có những hình ảnh nóng như của hãng R. Bonal, Pierre Dieulefils đã cho sử dụng lại các bức ảnh chụp cách đó 3 năm, và ghi đó năm 1908 (xem các bức ảnh dưới)

Photobucket

3121. Bắc kì - Dân bản xứ bị chém đầu trong vụ tháng 7 - tháng 9 năm 1908. Đến nơi hành quyết - Tuyên án.

Photobucket

3122. Bắc Kì -Bắc kì - Dân bản xứ bị chém đầu trong vụ tháng 7 - tháng 9 năm 1908. Khoảnh khắc định mệnh.

Photobucket

3123. Bắc Kì - Dân bản xứ bị chém đầu trong vụ tháng 7 - tháng 9 năm 1908. Thủ cấp bị chặt


4) Đế quc xâm lược Vatican phong thánh ma cho 117 tên Vit gian và giáo sĩ gián đip Tây

 

Posted on Tháng Ba 25, 2012 by nhandanvietnam

Trong cuốn Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963 cũng như trong các chương trước đây, chúng tôi đã chứng minh rằng Giáo Hội La Mã chỉ là một danh xưng bề ngoài của Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Vatican, rằng từ năm 1533 đế quốc này đã cho những tay gián điệp thuợng thặng đến Việt Nam thâu thập các dữ kiện tình báo chiến lược về tình hình Việt Nam rồi báo cáo về Tòa Thánh Vatican. Đồng thời, họ tìm đủ mọi cách móc nối và dụ dỗ những người dân cùng khổ, những thành phần có những thành tích bất hảo hay bất mãn với chính quyền đương thời và những phần tử cặn bã của xã hội vào màng lưới gián điệp trong đạo quân thứ 5 nằm hờ chờ giờ hành động. Một phần trong các hoạt động tình báo của họ là làm đảo lộn cương thường và phá rối nền trị an của Việt Nam bằng cách phỉ báng và chế diễu các lễ nghi tín ngưỡng và tập tục cổ truyền của dân tộc, miệt thị các vị thánh tổ của đạo Phật, đạo Khổng bằng những ngôn từ của những phường “đá cá lăn dưa” như gọi Đức Phật Thích Ca là “thằng hay dối người ta”, gọi Đức Khổng Tử là người “chẳng phải hiền, chẳng phải thánh”, xúi giục giáo dân bất tuân lệnh chính quyền đương thời rằng: “người Công Giáo Việt Nam đừng thừa nhận quyền lực nhà Vua và luật pháp nước họ”, rằng “ Đức Giáo Hoàng ở Rome mới là vị vua tối cao duy nhất của họ”, rằng “họ chỉ tuân phục quyền lực Tòa Thánh Vatican”.

Nhập gia tùy tục, đáo giang tùy khúc”. Từ một một phương trời xa lạ đến Việt Nam, khác với người dân về đủ mọi phương diện mà không biết câu ngạn ngữ trên đây mà lại hành xử hỗn xược, ngược ngạo như vậy thì quả thật họ là những người ngu xuẩn đến cùng mức của ngu xuẩn. Hành xử ngu xuẩn như vậy thì làm sao tránh được những chuyện đáng tiếc xẩy ra đối với họ. Giả thử vào thời đó cũng có một nhà Nho hay một ông sư đến nước Ý, nước Pháp, nước Tây Ban Nha hay nước Bồ Đào Nha cũng làm tất cả những gì mà các ông điệp viên (truyền giáo) của Tòa Thánh La Mã đã làm ở Việt Nam, thí dụ như có một nhà Nho hay ông sư nào đó cũng đem các tập tục cổ truyền và lễ nghi về đạo Gia Tô ra phỉ báng và chế diễu, cũng đem vị thánh tổ của đạo Gia Tô là Chúa Jesus ra gọi là “thằng hay dối người ta” và bảo rằng “chẳng phải Chúa, chẳng phải thánh, chẳng phải hiền”, cũng xúi giục người dân ở các nước này rằng “đừng thừa nhận quyền lực của Đức Giáo Hoàng” rằng “Đức vua của triều đình Nguyễn ở Việt Nam mới là vị vua tối cao của họ”, rằng “họ chỉ tuân phục quyền lực của triều đình Huế tại Việt Nam mà thôi”, thì quý vị có nghĩ rằng nhà Nho hay ông sư này vẫn không bị chính quyền sở tại làm khó dễ gì cả hay là họ đã bị tóm cổ đưa ra các tòa án dị giáo của Giáo Hội La Mã để xử về tội báng bổ thần thánh và phá rối trị an, rồi đem trói vào cột và thiêu sống cho đến chết giống như Giáo Hội đã xử và thiêu sống các ông John Huss (1369-1415 ), Savonarola Girolamo (1452-1498), Giordano Bruno (1548-1600) và 11 triệu nạn nhân khác cùng một số phận như các nhà trí thức trên đây mà không được may mắn bị quản thúc tại gia cho đến ngày tàn hơi thở như nhà thiên văn học Galileo Galilei (1564-1642).

Muốn biết rõ Giáo Hội La Mã sẽ có thái độ và hành động ra sao nếu có một nhà Nho hay một nhà sư đến nước Ý hay Tây Ban vào thế kỳ thứ 17 và cũng hành động như ông Linh-mục Alexander de Rhodes đã hành động ở Việt Nam vào thời kỳ này, chúng ta hãy theo dõi đoạn văn dưới đây do Giáo-sư Trần Chung Ngọc viết trong cuốn Công Giáo Chính Sử, nguyên văn như sau:

“Thật ra, những cuộc Thánh Chiến của Gia Tô La Mã Giáo (Công Giáo) không chỉ có mục đích giết dân Ả Rập mà còn giết những người Do Thái và giết luôn cả những người Ki Tô giáo khác không có cùng quan niệm tôn giáo với Gia Tô, như chúng ta đã thấy trong cuộc Thánh Chiến Albigense mô tả ở trên. Các cuộc Thánh Chiến của Gia Tô Giáo đã nhận chìm Âu Châu trong vòng chiến tranh tàn sát suốt hai thế kỷ 11 và 12, dài gần 200 năm. Nhưng, ngoài sách lược tiêu diệt văn hóa nhân loại và các cuộc Thánh Chiến, lịch sử Gia Tô La Mã Giáo còn một vết nhơ vĩ đại khác, đó là những Tòa Án xử những người Dị Giáo (khác đạo) hay những người mà Giáo Hội kết tội là lạc đạo, nghĩa là không công nhận quyền lực của Giáo Hoàng và của hàng giáo phẩm, những người Do Thái và cả những người theo Ki Tô Giáo nhưng không cùng tín ngưỡng với Gia Tô Giáo. Những tòa án xử dị giáo này kéo dài hơn 500 năm và đã làm cho trên 11 triệu người chết vì tra tấn bởi những hình cụ khủng khiếp nhất, phát minh bởi những tín đồ Gia Tô, và thiêu sống v.v… (Zindler, p. 183: The Roman Catholic Church killed over 11 million people in the course of the Inquisition)” (1).

Trở lại chuyện 117 ông thánh của Giáo Hội La Mã, Tòa Thánh và những người Việt Nam mang quốc tịch Vatican cho rằng các ông này là những thánh tử đạo, bị sát hại trong thời kỳ các chính quyền Tây Sơn và nhà Nguyễn cấm đạo. Người viết xin đặt vấn đề là: “Trong khi ở Âu Châu, Giáo Hội La Mã không cho người dân nằm trong vòng kiểm soát của Giáo Hội được quyền tự do tín ngưỡng và Giáo Hội sát hại tới 11 triệu người thuộc các tín ngưỡng khác mà Giáo Hội lại cho người đến nước chúng tôi đòi quyền tự do truyền đạo Gia Tô và quyền tự do theo đạo Gia Tô ở Việt Nam được hay sao?”

Nếu các nhà truyền giáo chỉ lo việc truyền giáo và những người Việt Nam thích theo đạo Gia Tô chỉ lo việc thờ phượng Chúa Jesus mà không có mưu đồ cướp nước với những hành động phá rối trị an, xúi giục giáo dân bất tuân thượng lệnh và nổi loạn lật đổ chính quyền để đưa người tín hữu Gia Tô lên nắm quyền hay thiết lập một vương quốc Giáo Tô thì chắc chắn là không có ai đụng đến một sợi tóc của họ, dù rằng họ đã có những hành động lỗ mãng, vô giáo dục, xấc xược ngược ngạo gọi Đức Phật Thích Ca là “thằng hay dối người ta” và gọi Đức Khổng Tử là người “chẳng phải hiền, chẳng phải thánh”.

Thực ra, các ông truyền giáo và những người Việt Nam theo đạo Gia Tô thời đó đã hành xử một cách vô cùng hỗn xược, ngược ngạo, bất chấp cả luật pháp của chính quyền đương thời, bất chấp cả lương tâm, bất chấp cả lẽ phải, bất chấp cả tình người, và chỉ muốn quấy phá làm cho nước Việt Nam rơi vào tình trạng hỗn loạn bằng cách xúi giáo dân không tuân lệnh nhà vua mà chỉ biết tuân lệnh Giáo Hoàng ở La Mã (như đã nói ở trên) và cứ tiếp tục quấy phá để thừa nước đục thả câu. Sách Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam (1858-1897) viết:

“Hơn nữa, các vị truyền giáo còn yêu cầu người Công Giáo Việt Nam đừng thừa nhận quyền lực Nhà Vua và luật pháp nước họ. Họ nói với các “con chiên”: Đức Giáo Hoàng ở La Mã (Rome) mới là vị vua tối cao duy nhất của họ, họ chỉ phải tuân phục quyền lực của tòa thánh Vatican. Vậy, đây không còn phải là vấn đề truyền giáo nữa, mà đơn giản là một mưu đồ làm cho chính quyền của xứ sở này bị mất ổn định. Vì thế, hành động của Nhà Vua, đối với trách nhiệm làm vua của ông hoàn toàn đứng đắn khi ông chống lại các hoạt động của một giáo sĩ Kitô.” (2)

Sách Các Vua Cuối Nhà Nguyễn 1883-1945 (Tập 1) viết về những tác phong và hành động bán nước của một số người Việt Nam theo đạo Gia-tô và những việc làm chống lại tổ quốc Việt Nam của các tay tổ gián điệp của Vatican như sau:

“Nhờ các giáo sĩ Kitô tiềm phục trong nước làm nội ứng, Pháp tuyển mộ được nhiều cộng sự viên bản xứ đắc lực và trung thành từ buổi đầu trong việc chinh phục cũng như bình định” [trang 91]. “Ngòai ra Rigault còn nhận được tin quân Nguyễn sẽ tấn công , với 500 tù nhân mở đường. Loại tin mật báo này phần lớn do Giám-mục Pellerin cung cấp” [trang 96-97]. “Từ tháng 11/1858, Pellerin nhiều lần thúc dục Rigault đưa quân ra đánh Huế… Điều Rigault mong đợi và từng được Pellerin cùng các giáo sĩ nhiều lần hứa hẹn – tức giáo dân Kitô sẽ nổi loạn đón tiếp những nhà giải phóng tạo thành thế nội công ngoại kích..” [trang 97-98].

“Truớc tình trạng tiến thoái lưỡng nan, các giáo sĩ lại đưa ra hai giải pháp mới. Pellerin khuyên Rigault vào chiếm Gia-định làm bàn đạp, chờ ngày đánh Huế. Retord và các giáo sĩ Espania thì thúc dục kéo ngay ra Bắc Kỳ, thiết lập một vương quốc Kitô độc lập ở miền này. Vì “thanh kiếm thập tự quân, lưỡi gươm của Charlemagne và Thánh Louis, đã trở nên quá nặng trên tay con cái Voltaire,” Rigault sinh ra bực dọc, chỉ trích Pellerin nhiều lần. Rigault cũng không ngớt than phiền về thái độ lộng hành của Pellerin trong những báo cáo về Paris” (trang 98).

“Những cuộc nổi loạn liên miên của các cộng đồng giáo dân Ki-tô, tiêu biểu bằng tổ chức hải tặc Tạ Văn Phụng (Lê Duy Minh), với khẩu hiệu thiết lập một vương quốc Kitô, …” [trang 191). “Tham vọng đã âm ỉ, nung nấu từ lâu của các giáo sĩ Kitô: hoặc chiếm đóng toàn cõi Đại Nam, lật đổ Tự Đức, hoặc tách biệt Bắc Kỳ thành một vương quốc tự trị” [trang 192].

“Vua (Tự Đức) bị cô lập dần trong hoàng thành với mối lo sợ khôn nguôi về tham tâm của Pháp. Trong khi đó, tinh thần thập tự quân của các giáo sĩ Kitô ngày một lên cao. Các giáo sĩ tìm đủ cách khiêu khích hầu tạo cơ hội cho Pháp động binh. Năm 1875, chẳng hạn, Giám-mục Gauthier và Croc đòi triều đình bồi thường thiệt hại lên tới 2,146,613 lạng bạc. Với sự yểm trợ của Rheinart, Gauthier và Croc còn mưu chiếm cả ruộng đất của các làng xã bỏ hoang để trừ bớt số tiền thiệt hại tên. Nhiều nơi, giáo sĩ công khai xúi dân làm loạn. Geoffroy ở Bình Định chỉ là một thí dụ. Tại Ninh Bình, các giáo sĩ còn lộng hành hơn nữa, cho thủ hạ quấy nhiễu, ngăn chặn cả công văn” [trang 251-252] (3).

Ở Âu Châu, người ta không hề nổi loạn chống lại chính quyền mà Giáo Hội cũng lôi cổ người ta ra tòa xử người ta về tội khác tín ngưỡng, và các tòa án của Giáo Hội đã giết hại đến hơn 11 triệu người. Ấy thế mà ở Việt Nam, Giáo Hội lại đòi phải có quyền tự do truyền đạo.

Được đằng chân, lân đằng đầu, khi được phép tự do truyền đạo rồi tới khi có một số tín hữu tin theo thì Giáo Hội lại xúi giục giáo dân không tuân hành tập tục và luật pháp của chính quyền Việt Nam, mà chỉ biết tuân lệnh Giáo Hoàng ở La Mã và xúi giục giáo dân nổi loạn, lật đổ chính quyền để thiết lập một vương quốc Gia-tô giáo. Quý vị thử nghĩ xem còn có hành động nào hỗn xược, ngược ngạo hơn những hành động này không?

Quốc hữu quốc pháp, gia hữu gia quy”. Ở đâu thì cũng phải có quan trị quan nhậm. Con người ở bất kỳ quốc gia nào ở trên trái đất này cũng đều hiểu rằng “Nhập gia tùy tục, đáo giang tùy khúc”. Đến nước người ta mà không tuân hành tục lệ của nước người ta đã là một điều trái tai gai mắt, không thể chấp nhận được. Không những thế, họ lại còn không tuân hành luật pháp quốc gia nước người ta nữa. Tệ hơn nữa, họ lại còn xúi giục dân chúng nổi loạn nhằm cướp chính quyền để thiết lập một chính quyền chuyên chính độc tôn tôn giáo thì xin hỏi, những người đó có phải là những quân thổ phỉ, những phường giặc cướp, kẻ thù của dân tộc Việt Nam hay không? “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Là người dân của một nước, sống trong mảnh đất mà ông cha tổ tiên từ bao nhiêu đời kế tiếp nhau hy sinh không biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và xương máu mới tạo dựng nên được, đã không ra công bồi đắp cho đất nước ngày một khá hơn thì thôi, ấy thế mà chỉ vì bất mãn nhất thời hay sống trong cảnh cùng khổ mà ngu xuẩn đến độ đi nghe lời xúi giục của người ngoài, nhẫn tâm “rước voi về giầy mả tổ”, phá nát cơ đồ của tổ tiên để lại, thì những hạng người đó có phải là những quân Việt gian, mãi quốc cầu vinh hay không. Những người Việt Nam mang quốc tịch Vatican hãy suy cho kỹ, nghĩ cho cùng để xem 117 người được Giáo Hội La Mã phong thánh vào ngày 19 tháng 6 năm 1988 có phải là những quân “thổ phỉ” và những phường “cõng rằn về cắn gà nhà” hay không? Chúng tôi muốn trình bày với những người Việt Nam mang quốc tịch Vatican một điều như thế này: Các ông cho rằng 117 người trên đây đã được Giáo Hội La Mã của các ông phong thánh thì họ là thánh. Đó là quyền tự do của các ông. Nhưng đối với đại khối dân tộc Việt Nam, ai cũng tin rằng 117 ông thánh này là tội đồ của dân tộc, dù người đó là người Việt Nam hay người ngoại quốc.

Xin các ông đừng buồn! Chúng tôi xin nói như thế này để các ông cảm thấy thoải mái hơn. Không ai chối cãi được Vatican là một đế quốc thực dân xâm lược đã chủ động trong việc đánh chiếm và thống trị toàn cầu mà Việt Nam chỉ là một trong những quốc gia bị Đế Quốc Vatican chiếu cố. Khi cuộc chiến bùng nổ giữa một bên là Việt Nam và một bên là Đế Quốc Vatican có Đế Quốc Pháp là Đồng Minh thì các ông giống như những người dân Nhật mang quốc tịch Hoa Kỳ sống trên đất Mỹ trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Người dân Nhật mang quốc tịch Hoa Kỳ có quyền chọn Hoa Kỳ hay Nhật làm quê huơng đích thực để rồi liều chết chiến đấu cho cái quê hương mà họ đã chọn. Tương tự như vậy, trong cuộc chiến giữa một bên là Việt Nam và một bên là kẻ thù Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Vatican và Pháp, các ông có quyền chọn Đế Quốc Vatican hay Việt Nam là quê hương đích thực của các ông để rồi liều chết chiến đấu cho cái quê hương mà các ông đã chọn. Các nhà truyền giáo người Âu Châu đến Việt Nam liều chết chiến đấu cho quê hương đích thực của họ là Đế Quốc Vatican, nếu chẳng may họ phải hy sinh vì nhiệm vụ thì đương nhiên sẽ được tổ quốc Vatican ghi ơn và phong thánh. Và các ông, những người Việt Nam mang quốc tịch Vatican, đã từ bỏ tổ quốc Việt Nam và nhận Đế Quốc Vatican là quê hương đích thực của các ông để rồi liều chết chiến đấu cho đế quốc này, nếu chẳng may mà bị chính quyền Việt Nam bắt được và bị hành hình thì tất nhiên các ông là những người đã hy sinh cho Đế Quốc Vatican và cũng được Vatican phong thánh. Phong thánh cho những người làm tay sai tai mắt cho Vatican thì Vatican có mất gì đâu. Hồng Y Silvio Oddi đã từng nói: “Vatican đã trở thành một cái xưởng chế tạo ra các ông thánh” (The Vatican has become a saint factory)” (4). Nhưng đối với đại khối dân tộc Việt Nam, những người có tên trong danh sách 117 người được tòa thánh Vatican phong thánh vào ngày 19 tháng 6 năm 1988 chỉ là những tên tội đồ của dân tộc, và nếu họ là người Việt Nam thì họ là những phường “cõng rắn về căn gà nhà” giống như Ngô Đình Khả, Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Khôi, Trần Lục, v.v…

Có ở trong chăn mới biết chăn có rận”. Giá trị các ông thánh của Vatican như thế nào, không ai biết rõ hơn là Giáo-sư Lý Chánh Trung, một nhà trí thức đã từng mang quốc tịch Vatican. Ông viết:

“Sau bốn thế kỷ giảng đạo với những phương tiện hùng hậu, những hy sinh lớn lao, phải nhận rằng số người Á Đông theo đạo thật là ít oi… Đó là chỉ nhìn đến số lượng. Nếu nhìn đến phẩm lượng (qualité) thì có lẽ kết quả còn khiêm tốn hơn nữa: Chưa có một giáo hội Á Đông nào sản xuất được một vị thánh, và trình độ đạo đức trung bình của người Công Giáo Á Đông không có gì gọi là “cao” hơn những người không Công Giáo”(5).

Có lẽ vì thế mà sau khi cân nhắc giữa “Tôn Giáo Và Dân Tộc”, Giáo-sư Lý Chánh Trung đã dứt khoát “Tìm Về Dân Tộc” giống như quyết định của các ông Phan Quốc Đông, Nguyễn Chấn, Trương Thiện, Pham Hữu Tạo, Bác-sĩ Nguyễn Văn Thọ, Linh-mục Trần Tam Tỉnh, v.v…

Trong khi các ông nhận Đế Quốc Vatican là quê hương đích thực và liều chết chiến đấu cho Vatican thì đại khối dân tộc Việt Nam chúng tôi chỉ có mỗi một nước Việt Nam là quê hương đích thực. Khi quân thù xâm lược Vatican và Pháp đem quân đến đánh cướp nước Việt Nam thân thương của chúng tôi, chúng tôi phải liều chết chiến đấu để bảo vệ cơ đồ của ông cha để lại, nếu chẳng may phải gục ngã nơi chiến trường thì chúng tôi trở thành anh hùng của dân tộc Việt Nam. Đế Quốc Vatican, Đế Quốc Pháp và những người nhận Đế quốc Vatican hay Đế Quốc Pháp là nước tổ của họ đã gọi chúng tôi và tất cả những anh hùng dân tộc của nước tôi là những quân phiến loạn và những quân tội đồ. Chính vì thế mà những vị anh hùng của dân tộc Việt Nam chúng tôi như các cụ Nguyễn Trung Trực, Lâm Quang Ky cùng 170 nghĩa quân kháng chiến tại Kiên Giang và ông Mai Xuân Thưởng ở Bình Định đã bị người của Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Vatican là Trần Bá Lộc đem quân đánh phá và bắt được, rồi xử tử như một tên tội đồ. Trong hoàn cảnh tương tự như vậy, cụ Phan Đình Phùng cùng các chiến sĩ nghĩa quân tại Vụ Quang đã bị người của Tòa Thánh Vatican là Ngô Đình Khả đánh tan, và đảo mả cụ Phan lấy xác, đem đốt thành tro, lấy tro trộn vào thuốc súng bắn xuống sông Lam Giang cho tiêu tan mất xác. Tướng tự như hoàn cảnh của cụ Phan Đình Phùng, chiến lũy Ba Đình dưới quyền lãnh đạo của cũ Đinh Công Tráng bị phá tan cũng chỉ vì tên Việt Gian cuồng tín Linh-mục Trần Lục đem 5 ngàn giáo dân đi tiếp viện và làm chỉ điểm cho giặc để tâng công. Sau này, các ông Đội Bình, Đội Cốc và Đội Nhân cũng bị người của Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Vatican là Cố Ân đi báo cáo với chính quyền bảo hộ Vatican-Pháp bắt đem đi chém chết. Những người yêu nước vào những năm giữa thập niên 1920 bị tên Việt gian Ngô Đình Diệm bắt được đem tra tấn vô cùng man rợ bằng cách cột nạn nhân vào một chiếc ghế có khoét lỗ ở giữa rồi cho đốt đèn cầy (nến) ở dưới làm cháy cả hậu môn của nạn nhân; các ông Đội Cấn và Lương Ngọc Quyền đã liều thân hy sinh thân để chống lại Vatican và Pháp ở Thái Nguyên; Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí Việt Nam Quốc Dân Đảng của ông bị những người của Giáo Hội La Mã và Pháp bắt và bị đưa lên đoạn đầu đài vào ngày 17 tháng 6 năm 1930. Tất cả những vị anh hùng dân tộc trên đây cùng với những người chống lại chính sách bạo tàn của chế độ độc tôn tôn giáo của anh em nhà Ngô và đảng Cần Lao Công Giáo, tay sai của Đế Quốc Vatican, vào những năm sau tháng 7 năm 1954, trong đó có những người đã tham dự vào cuộc chính biến 11/11/1960 và cuộc Cách Mạng 1/11/1963 đều bị Đế Quốc Vatican và người Việt Nam mang quốc tịch Vatican coi như là một thứ tội đồ nguy hiểm, nguyền rủa họ và mạt sát họ. Trong khi đó thì đại khối dân tộc Viêt Nam chúng tôi lại coi họ là những vị anh hùng dân tộc như một thứ quốc bảo của đất nước, và đem hết lòng ngưỡng mộ, trân quý và tôn vinh họ. Họ là các vị thánh của dân tộc Việt Nam của chúng tôi. Bài thơ “Những Người Ở Lại Với Non Sông” dưới đây của nhà thơ Trần Trung Đạo chứng tỏ dân tộc Việt Nam chúng tôi tôn thờ những người mà Vatican và giặc Pháp thù ghét họ và coi họ như những tên tội đồ phản loạn. Bài thơ đó như sau:

Người ở lại Hoàng Hoa Cương lịch sử,
Ngàn thông reo ru giấc ngủ anh hùng.
Tiếng bom rền rung động khắp non sông
Đời anh ngắn, nhưng tên dài vô tận.

Người ở lại mang theo niềm thống hận
Nắm xương tàn trắng lạnh đất Long Châu,
Mộng Cần Vương theo tóc bạc trên đầu,
Hờn vong quốc ghi sâu vào lịch sử.

Tôn Thất Đạm giữa núi rừng Tân Sở
Một thanh gươm chống đỡ mạch sơn hà.
Không làm tròn nguyện ước với vua, cha
Thà tự sát cho tròn câu hiếu đạo.

Người ở lại bên cổng thành Hà Nội,
Thành mất rồi, ta sống với ai đây?
Thăng Long ơi, xin ở lại nơi này
Sinh vi tướng, tử vi thần cho vẹn.

Người ở lại với sông Hương núi Ngự
Mộng chưa thành, chí cả mỏi mòn trôi
Phan Bội Châu lưu lạc bốn phương trời
Hoen máu lệ những tờ thư yêu nước.

Người ở lại rừng Thái Nguyên xuôi ngược
Hai chân què nên chẳng thể nào theo.
Anh Trịnh ơi, tôi giữ trọn lời thề
Lương Ngọc Quyến đã về cùng đất mẹ.

Trần Quý Cáp với tinh thần bất diệt
Ngẩng cao đầu chịu chém ở ngang lưng.
Trời Nha Trang chim chóc cũng đau buồn,
Trời đất Quảng một màu tang mới nhuốm.

Phan Đình Phùng kể những lời tâm nguyện:
Mộ của ta là tổ quốc Việt Nam,
Anh em ta là bao triệu đồng bào
Dù phải chết, chẳng thể nào bỏ được.

Người ở lại bên bến đò Cần Giuộc
Mắt đâu cần để thấy được niềm tin.
Chúng bay dù bẻ gẫy được bút nghiên,
Không bóp được trái tim này yêu nước.

Phan Thanh Giản trải lòng trong di chúc:
Dặn các con đừng mãi quốc cầu vinh.
Ta chết đi cho vẹn chữ trung trinh
Khi sáu tỉnh đã rơi vào tay giặc.

Dù cay đắng nhưng vô cùng diễm tuyệt
Tổ tiên ơi con nhớ mãi ơn người.

Ngược lại, chúng tôi cũng gọi tất cả những người anh hùng hay các ông thánh của đế quốc Vatican và Đế Quốc Pháp đã chết trong cuộc chiến xâm lăng và thời kỳ thống trị nước Việt Nam của chúng tôi là những quân thổ phỉ hay những tên tội đồ. Riêng những người Việt Nam tóc đen, da vàng mũi tẹt, ăn cơm gạo Việt Nam, lớn lên ở Việt Nam mà lại đứng về phía kẻ thù xâm lược là Đế Quốc Vatican hay Pháp để chống lại tổ quốc Việt Nam, dù sống hay chết, dù cho sau khi chết được Vatican phong thánh đi nữa, thì chúng tôi cũng vẫn gọi họ là những phường “rước voi về giầy mả tổ” như trường hợp Trần Ích Tắc và Lê Chiêu Thống và không thể nào thoát khỏi được cái nhìn khinh bỉ và ghê tởm của dân tộc Việt Nam. Bài thơ dưới đây của nhà thơ Lương Nhân (được ông Giuse Phạm Hữu Tạo ghi lại trong bài viết “Hai Mẹ Con”, đăng trong tờ trong Đông Dương Thời sô 73, ngày 1-8-1999, phát hành tại Houston, Texas) nói lên sự thật này:

Người thì xưng cố, kẻ xưng cha,
Gián điệp tay sai hại nước nhà,
Mãi quốc cầu vinh, phường quốc tặc,
Thương luân bại lý, bọn gian tà.
Tội đồ dân tộc tôn vinh “thánh”.
Ác bá dâm tà lãnh chức “cha”.
Tà đạo thực dân chung một Chúa.
Nhân nào quả ấy chẳng còn xa.

Bọn người cuồng nô vô tổ quốc này đã bị đại khối dân tộc Việt Nam ta đời đời nguyền rủa:
Sống chỉ mặt, chết chỉ mồ,
Xương dù chôn nát, mặt mo hãy còn.

Chính vì vậy mà người tín đồ Thiên Chúa La Mã Giuse Phạm Hữu Tạo, sau khi tỉnh ngộ và quyết tâm trở về với dân tộc, đã dõng dạc và thẳng thắn tuyên bố rằng: ”Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm thánh của Đại Công Ty Rôma”, như đã ghi ở trong Chương 9. Ngày xưa, Trần Bình Trọng sợ bị lịch sử lên án và hậu thế khỉnh rẻ là một “ông vua Việt gian”, đã lớn tiếng mắng thẳng vào mặt tên tướng giặc Thóat Hoan rằng “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Và ngày nay, sợ rằng hậu thế sẽ đời đời khinh rẻ là “một tên thánh Việt gian”, ông Giuse Phạm Hữu Tạo đã công khai và lớn tiếng nói cho Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Vatican và những người Thiên La Đắc Lộ biết rằng ông “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm thánh của Tòa Thánh Vatican”.

oOo

Cũng nên biết rằng, dân tộc Việt Nam vốn chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền đạo lý tam giáo cổ truyền, lấy nhân ái, từ bi hỉ xả và đại lượng làm phương châm hành động. Vì thế cho nên người dân Việt Nam chúng tôi rất là khoan dung, nhân từ và đại lượng. Chứng cớ là ông cố đạo Alexandre de Rhodes đến Việt Nam tìm đủ mọi cách để phỉ báng và chế diễu các lễ nghi tín ngưỡng và tập tục cổ truyền của dân tộc, miệt thị các vị thánh tổ của đạo Phật, đạo Khổng bằng những ngôn từ của những phường “đá cá lăn dưa” như gọi Đức Phật Thích Ca là “thằng hay dối người ta”, gọi Đức Khổng Tử là người “chẳng phải hiền, chẳng phải thánh” mà ông ta vẫn không bị một người Việt Nam lôi ra hạch sách hay đánh đập về tội ngu xuẩn, ngu xuẩn đến nỗi không biết tùy cơ ứng biến theo như châm ngôn “In Rome, we must act as Romans” đã dạy mà lại hỗn láo mang tội báng bổ thần thánh như vậy. Nền đạo lý tam giáo cổ truyền của dân tộc Việt Nam khác hẳn với nền đạo lý bất khoan dung (intolerant) của Giáo Hội La Mã là ở chỗ đó. Một trường hợp khác nữa là tên tướng giặc Sầm Nghi Đống trong đạo binh xâm lược của nhà Thanh tràn vào Thăng Long vào cuối năm 1788 bị quân dân Việt Nam giết chết trong Trận Đống Đa vào ngày 5 Tết Năm Kỷ Dậu 1789, mà sau đó người Việt Nam chúng tôi vẫn để cho người Trung Hoa lập đền thờ ở Hà Nội giống như những vị anh hùng khác của dân tộc Việt Nam. Về chuyện này, ông Thái Bạch viết:

“Sầm Thái Thú là một vị quan Tàu theo Tôn Sĩ Nghị sang xâm lấn nước ta, nhưng bị quân Tây Sơn đánh cho một trận thua xiểng liểng, Sầm phải kéo quân chạy từ Khương Thượng đến Gò Đống Đa rồi bị tử trận tại đó giữa hôm 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789). Sau Sầm được người Tàu lập đền thờ… cái “khí phách anh hùng” của Sầm thái thú chỉ có bấy nhiêu thôi mà người ta dám lập đền thờ bắt dân Nam khói hương sùng bái”(6).

Hồ Xuân Hương có làm bài thơ 4 câu để mỉa mai tên tướng giặc họ Sầm này, nguyên văn như sau:

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đền Thái Thú đứng cheo-leo.
Ví đây đổi phận làm trai được,
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu?

Ít ra Sầm Nghi Đống là người Trung Hoa, ông ta chiến đấu cho nước Trung Hoa và chết trong cuộc chiến cho Trung Hoa thì tất nhiên ông ta xứng đáng là anh hùng của nước Trung Hoa. Vì thế mà người Trung Hoa ở Việt Nam lập đền để thờ ông ta. Giả dụ như ông ta là người Việt Nam mang quốc tịch Trung Hoa và chiến đấu cho nước Trung Hoa mà chết như vậy thì đại khối dân tộc Việt Nam chúng tôi gọi là một tên tội đồ, một tên Việt gian phản quốc, giống như trường hợp những người Việt Nam mang quốc tịch Vatican trong số 117 người được Vatican phong thánh vào ngày 19-6-1988 vậy.

Nguyễn Mạnh Quang (“Thực Chất của Giáo Hội La Mã”, tập I, chương 10)
Chú thích:
1. Trần Chung Ngọc, Sđd., trang 98-99.
2. Nguyễn Xuân Thọ, Sđd., trang 17.
3. Vũ Ngự Chiêu. Các Vua Cuối Nhà Nguyễn 1883-1945 – Tập 1. Houston, TX: Văn Hóa, 1999.
4. Trần Chung Ngọc, Sđd., trang 268.
5. Lý Chánh Trung, Sđd., trang 77.
6. Thái Bạch. Thơ Hồ Xuân Hương. San José, CA: Nhân Văn, 1983, trang 68.

NDVN, ngày 10/2/09

 

Vụ Liên Thành chủ mưu thủ tiêu thầy giáo cũ của mình là nhà thơ Ngô Kha rồi đem phi tang mất xác đã gây ra một làn sóng phẫn uất trong giới sinh viên học sinh và trí thức phật tử Huế. Nhưng không nhiều người biết được rằng, trước đó, trong mùa hè năm Mậu Thân 1968, chính kẻ sát nhân Liên Thành đã lùng bắt và chặt đầu một người bạn thân từng ăn một mâm, nằm một chiếu với Liên Thành trong suốt những năm tháng tuổi thơ ở xứ Huế.

>> Liên Thành, kẻ sát nhân trong những ngày miền Trung biến động

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân - một chứng nhân lịch sử của những năm tháng miền Trung biến động. Chính ông đã tham gia phong trào sinh viên phật tử từ năm 1963. Năm 1966, sau khi tốt nghiệp Ban Hán - Việt Đại học Sư phạm Huế, tham gia đấu tranh và được bầu làm Đoàn trưởng Đoàn Sinh viên Quyết tử Huế, vũ trang tự vệ, chống Mỹ và chống chính quyền do Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ cầm đầu. Bị lùng bắt, ông phải ẩn náu trong các chùa: Diệu Đế, Kim Tiên, rồi phải xuống tóc để giả làm thầy tu ẩn mình trong chùa Tường Vân trước khi thoát ly theo kháng chiến ở vùng chiến khu Thừa Thiên - Huế.
Sau ngày thống nhất non sông, ông làm việc ở Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy, rồi làm Phó tổng biên tập kiêm Thư ký tòa soạn Tạp chí Sông Hương, rồi làm Báo Trưởng đại diện Báo Lao Động tại miền Trung cho đến ngày về hưu năm 1998 đã kể lại rằng: Vì biết ông là người đã tốn nhiều công sức để nghiên cứu về Kỳ ngoại hầu Cường Để và phong trào Đông Du, nên mỗi lần gặp ông, ông Hà Thúc Quyết (một người họ hàng gần với ông Hà Thúc Ký - đảng trưởng đảng Đại Việt) hay kể chuyện về người cháu nội của Kỳ ngoại hầu Cường Để là gã sĩ quan cảnh sát đặc biệt Liên Thành, một tay trùm mật vụ ở Huế giai đoạn từ 1966 đến 1974 cho ông nghe.
Ông Nguyễn Đắc Xuân bảo rằng, ông Quyết đã kể cho ông nghe rất nhiều việc làm dã tâm, tàn ác và man rợ của Liên Thành trong suốt thời kỳ ông ta nắm giữ Khối cảnh sát đặc biệt ở Thừa Thiên - Huế. Trong đó có một câu chuyện hết sức vô luân, bất đạo là chính Liên Thành đã xuống tay chặt đầu ông Hồ Đăng Lương khi ông Lương đang trốn ở xã Thủy Bằng, ngoại ô thành phố Huế. Ông Quyết còn nói thêm rằng, chuyện Liên Thành chặt đầu người bạn thân Hồ Đăng Lương còn có một người biết rất tường tận, đó là bác sĩ Hà Công Lương (sau ngày giải phóng đã sang định cư tại vùng Nam Califonia - Hoa Kỳ).
Nghe ông Quyết kể chuyện nhiều lần nhưng tình thực ông Xuân không dám tin rằng trên cõi đời này lại có một con người mất nhân tính đến như vậy. Thế rồi, một ngày cách đây chưa lâu, tình cờ ông Xuân gặp cả hai ông Hà Thúc Quyết và Hà Công Lương tại quán cà phê Sơn bên một con đường đi bộ cạnh bờ sông Hương. Lần ấy, ông Xuân đã hỏi cặn kẽ bác sĩ Hà Công Lương thực hư chuyện Liên Thành đã xuống tay giết bạn và bác sĩ Hà Công Lương đã xác tín việc làm vô luân ấy của gã đồ tể Liên Thành là có thật. Từ những thông tin của ông Quyết và bác sĩ Lương, ông Nguyễn Đắc Xuân đã lặn lội tìm gặp bà Hồ Thị Châu là em ruột của ông Hồ Đăng Lương để phối kiểm nguồn tin mà ông đã từng nhiều lần được nghe kể.
Sau khi tìm gặp được bà Châu, ông Nguyễn Đắc Xuân kể rằng: Hồi đầu những năm 60 thế kỷ trước, Hồ Đăng Lương ở thôn Dương Xuân Thượng 1 (bên phải đàn Nam Giao), có hai người bạn cùng học Trường tiểu học Nam Giao là Hà Công Lương và Liên Thành. Nhà của Hồ Đăng Lương khá, ông bà Hồ Đăng Duyên và bà Thái Thị Sen lại rất quý bạn của con. Vì thế Hà Công Lương và Liên Thành hay ở lại ăn cơm, học bài, chơi đùa ở nhà Hồ Đăng Lương. Ba người thân nhau như ruột thịt từ những năm thơ ấu cho đến những năm học trung học.  
Sau đó Hà Công Lương đỗ Tú tài rồi vào Đại học Y khoa, còn Hồ Đăng Lương mãi đến năm 1967 mới đỗ và trốn lính, ở nhà với cha mẹ. Liên Thành học kém, nhà nghèo, không học lên cao được phải đi lính địa phương quân. Đến tháng 6-1966, Liên Thành nhờ áp lực của đảng Đại Việt nên xin chuyển qua làm Cảnh sát đặc biệt, được Nguyễn Ngọc Loan tin dùng trong việc đàn áp phong trào đấu tranh đô thị mùa hè 1966 ở Huế. Vì chơi thân với Hồ Đăng Lương nên Liên Thành biết bạn mình có tư tưởng chống lại chính thể VNCH.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân.
Sau Tết Mậu Thân 1968, Liên Thành được báo tin Hồ Đăng Lương có hoạt động cho Việt Cộng trong Tết Mậu Thân. Không nghi ngờ gì nữa, Liên Thành tìm bắt Hồ Đăng Lương. Đăng Lương biết thế nên trốn khỏi địa phương. Sau một thời gian truy tìm, đến ngày 6/6/1968, Liên Thành phát hiện được hầm bí mật nơi Hồ Đăng Lương đang trốn ở gần nhà ông Kiểm Hoanh, ở vùng núi sau lưng lăng Khải Định thuộc xã Thủy Bằng.
Liên Thành cho giở nắp hầm bí mật và gọi Đăng Lương lên nộp mạng. Nhưng Đăng Lương không lên, Liên Thành rút chốt lựu đạn ném xuống hầm, Đăng Lương chụp được lựu đạn ném lên lại. Liên Thành điên tiết cho đào hầm bí mật của Đăng Lương, kéo Đăng Lương lên khỏi miệng hầm và cầm dao chặt đầu người bạn học đã từng ăn một mâm, ngồi học cùng một bàn suốt nhiều năm. Sau đó Liên Thành lấy đầu của Hồ Đăng Lương cắm vào một cái cọc chôn bên con đường từ lăng Khải Định về làng Dã Lê Thượng, xã Thủy Phương với mục đích phục kích đồng đội đồng chí của Đăng Lương ban đêm về lấy đầu Đăng Lương. Nhưng cả tuần sau Liên Thành không phục kích được ai, dân chúng địa phương đã lén lấy đầu Đăng Lương đem chôn.
Đăng Lương bị bạn Liên Thành thảm sát, thân vùi một nơi, đầu chôn một nẻo. Sau năm 1975, một đồ đệ cũ của Liên Thành (hiện còn sống gần chợ Bến Ngự) báo cho bà Thái Thị Sen biết Hồ Đăng Lương, con trai bà, đã bị thảm sát như thế nào và đã bị vùi dập nơi đâu. Nhờ thế gia đình của Hồ Đăng Lương tìm được thân và đầu của anh đem về ráp lại, an táng ngay trong khu vườn nhà.
Nếu như ở Sài Gòn, tướng cảnh sát Nguyễn Ngọc Loan được mô tả như một gã đồ tể, ngang nhiên bóp cò súng để giết chết chiến sĩ đặc công Bảy Lốp tức Nguyễn Văn Lém, làm nạn nhân ngã xuống máu lênh láng mặt đường. Việc làm man rợ này đã được nhà báo Mỹ Eddie Adams kịp thời thu vào ống kính, và phóng viên Neil Davis của Đài ABC - Úc quay những thước phim rất rõ ràng, gây sốc cho hàng triệu lương tri trên thế giới. Bức ảnh như một ngọn cuồng phong thổi bùng ngọn lửa phản chiến ở khắp nơi. Năm 1969, nhờ bức ảnh, Eddie Adams đoạt giải Pulitzer danh giá về ảnh báo chí.

Sinh viên Huế đọc lời tuyên chiến.
Cùng thời điểm này, ở cố đô Huế, để tránh lặp lại những sai lầm của đàn anh Nguyễn Ngọc Loan. Thiếu tá - Trưởng ty Cảnh sát Liên Thành đã nham hiểm hơn khi âm thầm ra lệnh cho thuộc hạ của mình bắn chết hàng chục mạng người mà không cần tra xét. Điều tồi tệ hơn là sau khi lặng lẽ giết người, Liên Thành còn đăng đàn đổ lỗi cho phía Cách mạng và đòi đưa người này, người nọ ra trước tòa án quốc tế để xét xử. Nhiều người dân ở Huế cho rằng đó là một hành vi vô liêm sỉ của một tên đồ tể vô luân mà không một ai khi đã biết rõ chân tướng của ông ta không khỏi lên tiếng.
Xin được nói thêm rằng, những cuộc hạ sát của Liên Thành đều diễn ra khi chính quyền Thừa Thiên - Huế đã vãn hồi trật tự, nghĩa là lực lượng Quân giải phóng đã rút ra khỏi nội thành. Liên Thành thường cho đàn em của mình hành động vào ban đêm, ở những địa điểm vắng và nếu có ai đó hay báo chí Hoa Kỳ phát hiện thì đổ vấy việc làm ấy cho phía bên kia, vì chắc chắn rằng chẳng có ai đứng ra làm nhân chứng...
Ngoài những việc làm trái với luân thường đạo lý là giết thầy, giết bạn... trong những năm tháng làm trùm mật vụ ở đất cố đô, Liên Thành đã xua quân mở chiến dịch Bình Minh lục tung thành phố, đàn áp, bắt bớ, giam cầm những người yêu nước. Mở đầu chiến dịch, chúng bắt và đánh đập dã man các anh Lê Văn Thuyên, Nguyễn Hoàng Thọ, Trần Đình Sơn Cước, Nguyễn Duy Hiền, Bửu Chỉ tại Trường Đồng Khánh, nơi sinh viên Huế đang giúp đỡ bà con ở Quảng Trị rời vùng chiến sự để lánh nạn.
Liên Thành còn lợi dụng quyền hạn Trưởng ty Cảnh sát của mình để bắt người nhằm trả thù cá nhân, ví dụ như vụ ông Ngô Sỹ Dinh một trung sĩ Biệt động quân được cho giải ngũ vì lý do thương tật. Về quê, được dân bầu làm chủ tịch xã Thủy Phú, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Trong giai đoạn này, ở Thừa Thiên có diễn ra bầu cử nghị viên Hội đồng cấp tỉnh, có hai liên danh ra tranh cử tại xã Thủy Phú gồm ông Tráng Cử là cha ruột của Liên Thành và ông Lê Quý Vũ. Lúc này, ông Dinh với chức vụ chủ tịch xã đã không ủng hộ ông Tráng Cử mà lại ủng hộ ông Lê Quý Vũ. Vì việc này mà Liên Thành đâm ra thù hận ông Dinh. Lợi dụng chiến dịch Bình Minh, Liên Thành đã vu cho ông Dinh là Việt Cộng nằm vùng nên cho lệnh bắt, đánh đập rất dã man rồi cho lưu đày ở Côn Đảo.
Ở Huế thời kỳ này có rất nhiều gia đình làm ăn giàu có, do không chung chi cho Liên Thành và đám tay chân cũng bị quy kết là Việt Cộng nằm vùng hoặc tiếp tay cho Việt Cộng nên bị bắt về trung tâm thẩm vấn để tra xét đến lúc nào lòi tiền ra mới thôi. Nhiều người không chịu đưa tiền hối lộ thì Liên Thành ra lệnh thủ tiêu như trường hợp ba cha con ông chủ hiệu thuốc Bắc Thiên Tường...
Lúc còn đương chức hành sự, Liên Thành đã thể hiện hết bản chất của một kẻ sát nhân khát máu, đạp lên mọi giới hạn của đạo đức và nhân tính con người. Những tưởng rằng, sau khi chính quyền miền Nam sụp đổ, những ngày dài chui nhủi trong cảnh sống lưu vong nơi đất khách quê người Liên Thành phải tĩnh tâm để nhìn lại, để sám hối trước mọi tội lỗi của mình và mưu cầu một chút thanh thản lúc cuối đời trước khi trở về thế giới bên kia. Thế nhưng, với trái tim của một kẻ vô luân, trên đất Mỹ, Liên Thành tiếp tục viết sách để bôi nhọ những bậc đại lão hòa thượng như Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, bôi nhọ những học giả, trí thức từng tham gia trong phong trào đấu tranh đô thị.
Tệ hại hơn, ông ta còn đi quyên góp tiền của những kiều bào nhẹ dạ để lập nên cái gọi là "Ủy ban truy tố tội ác Đảng Cộng sản Việt Nam" do ông ta làm chủ tịch. Gọi là ủy ban cho oách để vòi tiền thiên hạ chứ thực chất cũng chỉ quanh quẩn mấy chuyện vu oan giá họa cho thầy giáo cũ của mình là nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, rồi các bậc thức giả trong phong trào đấu tranh đô thị như Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan...
Quá chán ngấy với trò vẽ rắn thêm chân của Liên Thành, ở Mỹ, nhiều trí thức và cựu quân nhân của chế độ Sài Gòn đã bày tỏ sự bài xích và bất hợp tác với Liên Thành mỗi khi ông ta tìm đến để giới thiệu những tác phẩm xuyên tạc của mình. Nhiều người biết rõ trái tim đen dối trá của Liên Thành thì đã phản ứng bằng cách lạnh nhạt, người ta cho rằng  chẳng qua đây là một cuộc đánh trống khua chiêng của Liên Thành để tự quảng cáo mình một cách dễ dãi phù hợp với bản chất cố hữu của ông ta từ trước tới nay. Những người có quan tâm mà im lặng thường không phải là họ không biết, nhưng chỉ vì vấn đề và hoàn cảnh chẳng đáng quan tâm nên không đáng nói mà thôi.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân khẳng định: Nghiên cứu văn hóa, lịch sử Việt Nam tôi chưa hề gặp một mẫu nhân vật phản diện nào mang cái nghiệp độc ác, quỷ quyệt nặng nề như Liên Thành. Không biết đến bao giờ Liên Thành mới giải được cái nghiệp chướng nặng nề ấy...
Để kết thúc bài viết này, chúng tôi xin mượn lời cổ nhân để gửi gắm đến kẻ sát nhân trong những ngày miền Trung biến động Nguyễn Phúc Liên Thành rằng: Hàm huyết phún nhân, tiên ô ngã khẩu, thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu... có nghĩa là càng cay nghiệt lắm thì càng oan trái nhiều... càng đào sâu thì càng khó lấp...


  Phan Bùi Bảo Thy



Và, Nguồn:

23/11/2009 | 5:34 sáng | 26 phản hồi

Tác giả: Nguyễn Đắc Xuân

Chuyên mục: Chiến tranh Việt Nam
Thẻ: Biến động miền Trung > Hoàng Đăng Lương > Ngô Kha

Chủ nhật, 13 tháng 11, 2009, 18:49, tôi nhận được một e-mail của “Một người yêu Huế” với nội dung như sau:

Kính gửi nhà văn Nguyễn Đắc Xuân,

Tôi là một người dân Huế xa xứ, vì yêu Huế nên rất quan tâm đến những chuyện vui buồn của Huế. Vừa qua tôi có đọc bài viết “Trịnh Công Sơn và những hoạt động nằm vùng của ông Liên Thành và sau đó là bài phản hồi của ông Hoàng Phủ Ngọc Phan trên trang web Lề Bên Trái. Tôi cũng theo dõi những trang web hải ngoại giới thiệu quyển sách Biến động miền Trung của Liên Thành và loạt bài “Liên Thành và mắm tôm” của Bảo Quốc Kiếm… Tuy vậy, vẫn còn một số chuyện mà tôi nghĩ rằng những người trong cuộc chưa nói hết. Được biết ông Nguyễn Đắc Xuân cũng là một trong số những người trong cuộc, là nhân chứng quan trọng – hơn nữa ông còn là nhà Huế học, rất am hiểu về các biến động lịch sử nói trên. Vậy tôi xin mạo muội gửi thư này kèm một số câu hỏi có liên quan đến ông, nhờ ông giải đáp giùm. Mục đích của tôi không phải vì hiếu kỳ mà vì muốn hiểu được sự thật, nên cũng mong được nghe ông nói những điều trung thực, với lương tâm và trách nhiệm của người cầm bút để ghi chép lịch sử, nhất là lịch sử thành phố Huế.

Xin hỏi:

1) Trong sách BĐMT, tại tr. 108, Liên Thành viết ông là bạn học của Liên Thành, xin ông cho biết lúc cùng học với ông, Liên Thành là người như thế nào? Những gì Liên Thành viết về nhân thân của ông có đúng không?

2) Nghe nói ông Liên Thành là học trò của nhà giáo Ngô Kha, có đúng không? Cho đến nay bà con ở Huế có ai biết thêm thông tin gì về cái chết của thầy Ngô Kha không?

3) Ngoài việc giết thầy Ngô Kha, Liên Thành có còn phạm thêm những tội ác nào nữa không?

Xin trân trọng cảm ơn và mong được hồi âm theo địa chỉ riêng hoặc trên một phương tiện truyền thông nào đó thì càng tốt.

Một người yêu Huế

Xin trả lời:

Vào khoảng tháng 4-2007, một nhà thơ bạn cũ của tôi, nguyên là công an Việt Nam Cộng hòa, cấp trên của Liên Thành đang ở San Jose (Cali) mailcho tôi biết Liên Thành, Chỉ huy trưởng BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế, vừa khởi đăng trên một Website ở Hoa Kỳ loạt bài bôi bác Phong trào Đấu tranh chống Mỹ Vận động Hòa bình của Phật giáo và Sinh viên Học sinh Huế từ năm 1966 đến 1975, đề nghị tôi nên lên tiếng để bảo vệ sự thật. Lúc ấy tôi đang khẩn trương chuẩn bị báo cáo chuyên đề “Phong trào văn thơ âm nhạc vận động hòa bình những năm 1964-1966 ở miền Nam Việt Nam” với William Joiner Center (WJC) ở Boston nên tôi không thực hiện được lời đề nghị của anh bạn nhà thơ năm xưa. Đến tháng 5-2007, sau khi hoàn thành việc báo cáo ở WJC, ngồi ở Boston, tôi có dịp đọc loạt bài của Liên Thành với cái tít rất hấp dẫn “Biến động miền Trung – Những chuyện chưa ai nói” từ tập san Biệt Động Quân. Đọc chưa xong loạt bài đó thì hết hạn visa ở Mỹ, tôi phải về Việt Nam. Đến mùa Thu năm 2008, một anh bạn ở Houston (Texas), gởi tặng tôi cuốn Biến động miền Trung (BĐMT) của Liên Thành do tập san Biệt Động Quân xuất bản, (Westminster) tháng 5-2008, dày 440 trang, vì anh bạn đọc thấy trong sách này, Liên Thành đã dành nhiều trang viết về tôi. Rồi mới đây, hồi cuối Hè 2009, không biết ai đó ở bên Mỹ biết địa chỉ e-mail của tôi cũng đã gởi cho tôi bài “Trịnh Công Sơn và những hoạt động nằm vùng” của Liên Thành lại cũng có nhiều “thông tin” liên quan đến tôi. Dù muốn dù không tôi cũng phải đọc hết cái mớ hổ lốn mà Liên Thành đã bịa đặt và phổ biến ở hải ngoại ấy. Nhưng tôi không động bút vì những lý do sau đây:

1. Tôi là một nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa hơi đâu đi phản biện Liên Thành, một người mà tôi biết rất rõ tông chi họ hàng, học hành thi cử, đạo đức, quá trình làm công an mật vụ tay sai cho Hoa Kỳ, tội ác gây ra cho người dân Huế từ năm 1966 đến 1975 và ngay cả sau năm 1975 ở Hoa Kỳ của anh ta.

2. Tôi tin gia đình những người được Liên Thành xếp loại “trong hàng ngũ quốc gia”, được ông “Cựu Thiếu tá Chỉ huy trưởng BCH/CSQG TTH” viết là “Việt cộng nằm vùng”, như Trung tướng Tổng cục trưởng Tổng cục Chiến tranh Chính trị Trần Văn Trung (hiện ở Pháp), Đoàn Công Lập, Trưởng ty Cảnh sát Huế, từng là cấp trên trực tiếp của Liên Thành, nhân viên Công an Mật vụ VNCH làm việc với Liên Thành như Lê Văn Thiện (hiện ở Cali) v.v… sẽ có ý kiến thẳng thắn với Liên Thành.

3. Thật tình tôi cũng không muốn đề cập đến Liên Thành vì cuộc đời học hành, đi dạy giờ, tranh đấu Phật giáo, nghiên cứu nhà Nguyễn, nghiên cứu Kỳ Ngoại hầu Cường Để với Phong trào Đông Du[1], tôi thân quen với quá nhiều người trong gia đình của Liên Thành như bác Tráng Đinh, con bác là Liên Phú (tức Thượng tọa Chơn Kim ở Đơn Dương, Lâm Đồng ngày nay), Liên Đàm (đã mất), như thầy Tráng Cử (làm giám thị thời tôi dạy giờ trường Bán Công Huế, (anh Nguyễn Ngọc Minh hiện ở San Jose còn nhớ), con thầy Tráng Cử là Liên Hương (Việt Kiều Canada, đã cùng tôi giúp thực hiện cuốn phim Theo dấu Ba Vua), Liên Mai (hiện đang giữ nhà thờ Cường Để ở 9 Tân Lăng, An Cựu Huế), Tôn Nữ Thạch Hà (hiện có nhà ở sát tường phía đông chùa Từ Đàm ngày nay), ông Liên Á (cháu đích tôn của cụ Cường Để, hiện ở Gò Vấp, TPHCM) v.v…

Tác giả Nguyễn Đắc Xuân với Liên Hương trước bàn thờ  vua Duy Tân ở An Lăng (2008) Tác giả Nguyễn Đắc Xuân với Liên Hương trước bàn thờ vua Duy Tân ở An Lăng (2008)

Nói đến Liên Thành là chọc vào cái vết thương đau của hậu duệ của Kỳ Ngoại hầu Cường Để thân quen của tôi nên tôi tránh.

Nhưng nay bạn hỏi riêng về những thông tin có liên quan đến nhân thân và một vài người bạn của tôi, nếu tôi không trả lời thì thông tin về tôi sẽ không đúng với sự thực, không đúng với những gì tôi đã và đang viết trong các bài mang tính hồi ký của tôi. Vậy tôi chỉ xin trả lời giới hạn trong phạm vi ấy. Những thông tin khác xin hẹn trong một dịp khác sẽ tiếp tục nếu hoàn cảnh và thời gian cho phép.

1. Liên Thành là bạn học của Nguyễn Đắc Xuân?

Tại trang 108, BĐMT, Liên Thành viết về Nguyễn Đắc Xuân như sau:

Thế nhưng định mệnh trớ trêu, bẵng đi vài năm, khi tôi từ đơn vị tác chiến về Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế, vào tháng 6 năm 1966, đảm nhiệm chức vụ Phó Trưởng ty Cảnh Sát Đặc Biệt, để dẹp loạn miền Trung, hai người tôi phải đối đầu là thầy, và thằng bạn học cũ từ thuở xa xưa vào năm lớp nhì, lớp nhất tại trường tiểu học Nam Giao và những năm kế tiếp tại trường Quốc Học, đó là Nguyễn Đắc Xuân. [Nguyễn Đắc Xuân sinh năm 1937 tại Huế, nhưng trên giấy tờ khai sanh là 1943, hắn gốc Quảng Nam. Thuở nhỏ học trường Tiểu học Nam Giao, gần chùa Từ Đàm, Xuân và tôi cùng học với hai Thầy là, thầy Bút và thầy Liên. Nhà Nguyễn Đắc Xuân ở cuối dốc Bến Ngự, nhà tôi ở đỉnh dốc Bến Ngự, cạnh chùa Từ Đàm. Nguyễn Đắc Xuân cựu học sinh Quốc Học 1956-1961, sinh viên Văn khoa và Đại học Sư phạm 1961-1966, ban Sử địa]

Trong hồ sơ cá nhân của thầy và của Nguyễn Đắc Xuân, cả hai đều hoạt động trong ban Trí vận của cơ quan Thành ủy Huế, trực thuộc Thành ủy viên Hoàng Kim Loan. Cả hai đều là những tay tranh đấu rường cột của Phong trào Tranh đấu Phật Giáo miền Trung của ông Trí Quang, từ tháng 3 năm 1963.”

1.1. Liên Thành viết: “vào tháng 6 năm 1966”,…. “hai người tôi phải đối đầu là thầy, và thằng bạn học cũ”.

NĐX bình luận: Cuối tháng 5-1966, khi Thiệu-Kỳ ra lịnh hai bạn Hoàng Phủ Ngọc Tường và Hoàng Phủ Ngọc Phan và tôi ra trình diện, sau đó hai bạn thoát ly ngay. Còn tôi vào ẩn trong chùa Kim Tiên, chùa Tường Vân và Đình Dương Xuân Hạ, đến đầu tháng 7-1966 thì Tường gởi thư bảo tôi ra chiến khu nghỉ một thời gian. Tôi đi. Tháng 6-1966 chúng tôi đâu còn tranh đấu ở Huế nữa để Liên Thành phải đối đầu? Có phải Liên Thành hư cấu thông tin đó để  thấy vai trò quan trọng của mình lúc ấy chăng?

1.2. Liên Thành viết: “Nguyễn Đắc Xuân sinh năm 1937 tại Huế, nhưng trên giấy tờ khai sanh là 1943, hắn gốc Quảng Nam.”

NĐX bình luận: Trong các sách đã xuất bản của tôi (như Kiến thức Triều Nguyễn và Huế xưa, tập IV), trên nhiều trang Web, tiểu sử của tôi được ghi rõ ràng. Tôi sinh năm 1937, nhưng theo dượng ghẻ sống trong rừng Phụng Sơn (Đà Lạt), không được đi học. Đến khi được đi học tôi phải khai trụt tuổi xuống thành sinh năm 1943. Chuyện nầy liên quan đến sự chênh lệch trong bằng cấp và lý lịch cán bộ của tôi hiện nay, tôi đã trình bày nhiều lần, không có gì bí ẩn cả. Tôi ở trong rừng Phụng Sơn do người Quảng Nam thành lập, tôi chơi thân với các bạn Quảng Nam, bị ảnh hưởng bạn nên nói giọng Quảng, chứ tôi không phải người Quảng Nam. Mẹ tôi người Thanh Hóa, cha tôi người Dã Lê Chánh, xã Thủy Vân, Hương Thủy, Thừa Thiên, ông bà sinh tôi ra khi cha tôi đang làm thủ quỹ cho Hãng buôn Morin Huế. Liên Thành nghe tôi nói giọng Quảng nên đoán mò cho tôi gốc Quảng Nam là quá sai.

1.3. Liên Thành viết: “Thuở nhỏ (NĐX) học trường Tiểu học Nam Giao,gần chùa Từ Đàm.”

NĐX bình luận: Tôi chỉ học Tiểu học hai năm (1952-1954) với thầy Võ Quang Khương (hiện đang sống ở Bảo Lộc, Lâm Đồng) và thầy Nguyễn Tri Bật (đã qua đời ở 30A Hương Sơn, Nha Trang) tại trường Đa Phước (nay là Trường Trại Mát), Đà Lạt. Tôi không hề học Trường Tiểu học Nam Giao bao giờ.

1.4. Liên Thành viết: “Xuân và tôi cùng học với hai Thầy là, thầy Bút và thầy LiênNhà Nguyễn Đắc Xuân ở cuối dốc Bến Ngự, nhà tôi (Liên Thành)ở đỉnh dốc Bến Ngự, cạnh chùa Từ Đàm.”

NĐX bình luận: Từ Tiểu học ở Đa Phước Đà Lạt (1952) cho đến năm đỗ Tú tài II ở Quốc học (1961), trong lớp tôi không hề có một người bạn học nào có tên là Liên Thành cả, và cũng không có thầy Bút, thầy Liên nào cả. Mấy năm Đệ Ngũ – Đệ Tứ (1956-1958) Quốc học, lớp tôi có bạn Liên Đàm con bác Tráng Đinh và cô Tạ Thị Hóa ở Vỹ Dạ mà thôi. (Hỏi ông cựu phi công quân sự Đặng Văn Âu từng học một lớp với tôi và Liên Đàm, hiện đang ở Mỹ sẽ rõ.) Trước năm 1975, gia đình tôi chỉ có một ngôi nhà rường của ông nội tôi (Chánh đội Nhạc chánh Nam Triều) để lại tại làng Dã Lê Chánh, xã Thủy Vân, chưa hề có một mái nhà nào ở Huế hoặc ở “cuối dốc Bến Ngự” cả. Vì thế ở làng Dã Lê đi học, gặp những ngày cuối năm mưa lụt tôi hay ở lại nhà của Liên Đàm, (TT Chơn Kim, tức Liên Phú, còn nhớ rõ). Vì thế Liên Thành viết “Nhà Nguyễn Đắc Xuân ở cuối dốc Bến Ngự” là chuyện không có thật, hoặc ai đó hư cấu viết giúp cho Liên Thành nên trật lất, hoặc Liên Thành không biết gì về tôi, mà muốn viết vu khống tôi nên không cần sự thật cứ dựng chuyện viết bừa để lừa bịp những người chưa biết tôi!

1.5. Liên Thành viết: “Nguyễn Đắc Xuân cựu học sinh Quốc Học 1956-1961, sinh viên Văn khoa và Đại học Sư phạm 1961-1966, ban Sử địa.”

NĐX bình luận: Liên Thành là “sếp” công an mật vụ của VNCH tại Thừa Thiên-Huế, đã “lập hồ sơ cá nhân” của Nguyễn Đắc Xuân, mà không biết Nguyễn Đắc Xuân là sinh viên Ban Việt Hán Đại học Văn khoa và cả Đại học Sư Phạm đến 5 năm (1961-1966) lại bảo Nguyễn Đắc Xuân là sinh viên “ban Sử địa” thì thật buồn cười. Nếu có ai chưa tin thì cứ điện thoại hỏi ông Nguyễn Lý Tưởng – dân Sử địa ngày xưa, hiện đang rất gần gũi với Liên Thành ở Hoa Kỳ sẽ được xác nhận ngay. Qua chi tiết nhỏ nầy không rõ trình độ công an mật vụ của Liên Thành thuộc cái cấp buôn làng thôn bản nào mà kém đến vậy. Các nhân viên CIA thầy của Liên Thành, nếu họ biết cậu học trò của mình kém đến vậy, chắc họ tiếc đã lỡ bỏ công dạy cho Liên Thành.

1.6. Liên Thành viết: “Trong hồ sơ cá nhân của thầy (tức Hoàng Phủ Ngọc Tường) và của Nguyễn Đắc Xuân, cả hai đều hoạt động trong ban Trí vận của cơ quan Thành ủy Huế, trực thuộc Thành ủy viên Hoàng Kim Loan”.

NĐX bình luận: “Trong hồ sơ cá nhân… của Nguyễn Đắc Xuân” là hồ sơ nào? Hồ sơ do Liên Thành – Chỉ huy trưởng BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế lập hay hồ sơ do ngành an ninh của chính quyền Thừa Thiên-Huế ngày nay lập? Nếu hồ sơ do Liên Thành lập thì khi chạy khỏi Huế sau ngày 26-3-1975, Liên Thành có đủ thì giờ để lục tìm và mang theo không? Và có đem hồ sơ đó sang Mỹ để tham khảo khi viết BĐMT không? Chắc chắn là không. Nếu là hồ sơ cá nhân của Nguyễn Đắc Xuân do ngành an ninh Thừa Thiên-Huế ngày nay lập thì làm sao Liên Thành có được để tham khảo? Trong lý lịch cán bộ của tôi cho đến nay vẫn ghi “Ngày tham gia cách mạng 10-7-1966” tức là ngày tôi ra chiến khu theo cái thư của bạn tôi là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Cái mốc thời gian nầy rất quan trọng, nó liên quan đến thời gian tham gia Cách mạng trong lý lịch Đảng viên của tôi, liên quan đến lương bổng, không thể khai khác được. Nếu khai khác tôi phạm tội man khai lý lịch, sẽ bị kỷ luật ngay. Cho đến nay tôi chưa hề bị kỷ luật vì tội man khai lý lịch bao giờ. Lý lịch của tôi chính xác, rõ ràng. Do đó chuyện Liên Thành viết Nguyễn Đắc Xuân “hoạt động trong ban Trí vận của cơ quan Thành ủy Huế, trực thuộc Thành ủy viên Hoàng Kim Loan” là chuyện tưởng tượng, bịa đặt với ác ý kết tội tôi trong thời gian tranh đấu Phật giáo Nguyễn Đắc Xuân đã là cán bộ trí vận của Mặt trận Giải phóng rồi. Trong hồi ký của tôi, tôi đã viết rõ: Tôi chỉ gặp ông Hoàng Kim Loan trên đường tôi ra chiến khu ngày 10-7-1966 mà thôi.     

Tóm lại, chuyện học hành, tranh đấu, viết lách của tôi và tiểu sử của tôi công khai trên báo chí trong và ngoài nước mấy chục năm qua như thế, tôi cũng đang sống sờ sờ ở Huế đây, nhiều trang Web trong và ngoài nước luôn cập nhật các bài viết của tôi, thế mà Liên Thành dám mạo nhận là bạn học của tôi, hư cấu thông tin về nhân thân của tôi sai 100% như thế, thật quá liều. Chuyện thật về tôi ai cũng có thể kiểm chứng được mà Liên Thành dám phịa ra như thế, thì thử hỏi những bí ẩn chính trị, lịch sử liên quan đến những người đã chết mà Liên Thành tung ra trong BĐMT có được bao nhiêu phần trăm sự thật? Phải chăng 0 %?

2. Hỏi: “Nghe nói ông Liên Thành là học trò của nhà giáo Ngô Kha, có đúng không? Cho đến nay bà con ở Huế có ai biết thêm thông tin gì về cái chết của thầy Ngô Kha không?”

Trả lời: Liên Thành nguyên là học trò của Ngô Kha, đã công nhận với nhiều bạn bè của ông. Theo ông Lê Quang X. (PA 25, người khai thác can phạm sau năm 1975, nay đã hưu trí), cho biết hồ sơ can phạm khai còn lưu tại Công an Thừa Thiên-Huế thì vào khoảng đầu năm 1973, hai mật vụ Lê Đình Liên và Nguyễn Đình Cáp đi giám thị bằng Honda 67 thì gặp nhà thơ Ngô Kha mặc áo măng-tô trắng, đầu đội mũ phớt đi qua cầu Gia Hội. Liên và Cáp đón đầu Ngô Kha và yêu cầu Kha lên xe. Kha không chút ngạc nhiên bèn hỏi: “Lên xe nào?” Liên đáp: “Xe 67 nầy.” Kha trèo lên xe. Chiếc xe 67 chở ba vụt chạy về gặp Thiếu úy Trưởng G đặc biệt Dương Văn Sỏ tại nhà riêng ở Nguyễn Thị Giang (bên cạnh quán Bar Why not, 21 Võ Thị Sáu, Huế ngày nay). Sỏ nói: “Để tau ăn cơm xong rồi sẽ đi báo ôn.” Ăn xong Sỏ đi báo với Trương Công Ân và Ân báo với Liên Thành. Kết quả các nhân viên mật vụ vừa bắt Ngô Kha nhận được chỉ thị của Liên Thành “1.000 năm mây bay”. Đến 4 giờ chiều Ngô Kha vẫn còn ở Ty thẩm vấn. Ân đến hỏi bọn Sỏ: “Sao chưa hành động?” Chúng nói trời chưa tối. Đến tối mấy đứa Sỏ, Nghệ, Liên, Cáp chở Ngô Kha về hướng Thuận An, lấy búa đánh Kha chết ngay tại Mỹ An rồi trùm bao bố thả xuống hói gần đó. Bọn chúng báo cáo với Liên Thành: “1.000 năm…” xong và đã giải quyết ở Mỹ An. Liên Thành chửi: “Chúng bây quá ngu, như rứa dân chúng biết răng? Đi vớt lên, kiếm chỗ chôn cho thật kín đáo ngay.”

Nhà thơ Ngô Kha (1935-1973)-thầy giáo của Liên Thành (Ảnh tư liệu của tác giả) Nhà thơ Ngô Kha (1935-1973)-thầy giáo của Liên Thành (Ảnh tư liệu của tác giả)

Theo gia đình các ông bác trong họ Ngô của Ngô Kha, cùng lứa tuổi và ở gần nhà Ngô Kha (30 Lê Đình Chinh, P. Phú Hiệp ngày nay)[2], bổ sung thêm một vài chi tiết cụ thể hơn:

Hai tên mật vụ Lê Đình Liên và Nguyễn Đình Cáp phát hiện Ngô Kha qua cầu Gia Hội và vào nhà 42 Bạch Đằng – nhà của bà quả phụ Ngô Giu[3], chị dâu của Ngô Kha, chúng sục vào nhà bắt Ngô Kha. Bà Ngô Giu là công chức biết rõ luật lệ bèn hỏi:

“Các ông bắt người phải có lệnh của cấp có trách nhiệm chớ?”

Hai tên mật vụ ú ớ rồi để một tên ở lại canh giữ Ngô Kha và một tên chạy lấy lệnh của Liên Thành. Trong lúc chờ đợi bà Ngô Giu bảo Ngô Kha:

“Chú trèo tường phía sau nhà trốn đi. Để chị lo đối phó với mấy người ấy.”

Ngô Kha không đồng ý nên trả lời chị:

“Em làm việc chính đại quang minh. Có việc gì phải trốn. Cứ để cho chúng bắt!”

Quả nhiên sau đó chúng đem lệnh bắt Ngô Kha do Liên Thành ký đến và bắt Ngô Kha đem đi. Ngô Kha mất tích từ đó.

Họ hàng của Ngô Kha cũng cho biết: Theo lệnh của Liên Thành, xác của Ngô Kha được vớt lên khỏi bờ hói ở Mỹ An đem lên bỏ nằm chết trần truồng trong phòng thẩm vấn. Không rõ từ nguồn tin nào, ông Phạm Bá Nhạc, Phó Công an quận Hương Thủy, biết chuyện ấy rất đau đớn. Ngô Kha có một người chị là mẹ kế của Phạm Bá Nhạc. Dù sao trên danh nghĩa Ngô Kha cũng là cậu của Nhạc. Nhạc liền lên Huế xin Liên Thành một ân huệ cho phép Nhạc mua cho Ngô Kha một cái săng. Liên Thành đồng ý với điều kiện phải giữ tuyệt đối bí mật. Nếu để lộ Nhạc sẽ bị giết ngay. Nhạc cam kết sẽ giữ bí mật tuyệt đối. Ngô Kha được táng ở cồn mồ phía nam Huế. Để giữ mạng sống của mình, Nhạc không dám hé môi ngay với bà Cao Thị Uẩn, thân mẫu của Ngô Kha. Sau 1975, Phạm Bá Nhạc đi học tập. Nhiều năm sau nầy, trước khi đi HO, Nhạc có nói nhỏ cho gia đình biết Ngô Kha đã chết vào ngày 27 tháng Chạp năm Nhâm Tý (nhằm ngày 30-1-1973) chứ không phải ngày 25 tháng Chạp như gia đình và bạn bè của Ngô Kha thường tổ chức kỵ trong mấy chục năm qua. Còn xác Ngô Kha được táng cụ thể chỗ nào thì vẫn còn trong vòng bí mật.

Gần đây, đối chiếu từ nhiều nguồn tư liệu, tôi đã khoanh vùng được nơi táng Ngô Kha ở cồn mồ làng An Cựu. Sau năm 1975 cồn mồ đó đã bị giải tỏa san lấp để dựng xí nghiệp Gỗ Hương Giang, nay là khu kho ngoại quan phía sau trạm xăng dầu gần Bến xe phía Nam. Xác của giáo sư, nhà thơ Ngô Kha được vùi lấp cụ thể vào tọa độ nào, hay còn nằm dưới đất vùng kho ngoại quan, hay đã được dời đi đâu v.v… là những câu hỏi ám ảnh chúng tôi, những người bạn, những người học trò và gia đình Ngô Kha trong mấy chục năm qua. Không trả lời được những câu hỏi nầy, chúng tôi thật không dám ngẩng đầu nhìn anh khi gặp lại ở chốn vĩnh hằng. Chúng tôi đang có kế hoạch nhờ nhà ngoại cảm Bích Hằng (Hà Nội) chỉ hộ. Nhưng nhân đây tôi có lời khẩn thiết gởi đến các ông từng làm việc dưới trướng Liên Thành biết rõ đầu đuôi cái chết của Ngô Kha như Lê Văn Thiện, Dương Văn Sỏ (có tin đã qua đời), Trương Công Ân,  Phạm Bá Đạt, Lê Đình Liên, Nguyễn Đình Cáp, Hồ Đình Chi v.v… đang ở Hoa Kỳ hãy cởi bỏ mọi hận thù, bố thí một chút từ tâm chỉ cho gia đình Ngô Kha[4] và họ Ngô ở Thế Lại và chúng tôi biết Ngô Kha đã được chôn lấp nơi đâu để chúng tôi đến đó dựng cho Ngô Kha một tấm bia và hằng năm đến ngày 27 Tết, đến thắp cho hương hồn Ngô Kha một nén hương. Mong lắm thay.

3. Hỏi: Ngoài việc giết thầy Ngô Kha, Liên Thành có còn phạm thêm những tội ác nào nữa không?”

Trả lời: Vì giới hạn của một  lá thư trả lời bạn đọc, tôi chỉ xin kể thêm một tội ác nữa của Liên Thành sau đây:

Biết tôi là người nghiên cứu về cụ Cường Để, mỗi lần gặp tôi anh Hà Thúc Quyết (bà con với ông Hà Thúc Ký, Đảng trưởng Đảng Đại Việt) hay kể chuyện người cháu nội của cụ Cường Để là Liên Thành, sếp công an mật vụ ở Huế cuối những năm sáu mươi đầu những năm bảy mươi. Quyết kể nhiều chuyện Liên Thành ác dã man. Tôi tường thuật lại sau đây một chuyện: Chuyện Liên Thành chặt đầu một người bạn thân trốn ở Thủy Bằng hồi mùa Hè năm 1968.

Theo Hà Thúc Quyết, người biết rõ chuyện chặt đầu bạn ấy của Liên Thành là bác sĩ Hà Công Lương (hiện đang định cư ở Nam California). Nghe kể nhiều lần nhưng tôi không dám tin. Rồi một hôm, vô tình tôi gặp cả Hà Thúc Quyết và Hà Công Lương ở quán cà-phê Sơn bên bờ sông Hương, tôi hỏi trực tiếp Hà Công Lương chuyện Liên Thành chặt đầu bạn thực hư như thế nào. Hà Công Lương khẳng định chuyện ấy có thực.

Di ảnh Hồ Đăng Lương, bạn rất thân của Liên Thành ngày xưa (Ảnh tư liệu của tác giả) Di ảnh Hồ Đăng Lương, bạn rất thân của Liên Thành ngày xưa (Ảnh tư liệu của tác giả)

Qua thông tin của Hà Thúc Quyết, Hà Công Lương, tôi gặp cô Hồ Thị Châu, em ruột Hồ Đăng Lương, ở Huế, để phối kiểm lại các nguồn thông tin tôi đã nghe kể. Xin tóm tắt sự kiện đã được phối kiểm như sau:

Hồi đầu những năm sáu mươi thế kỷ trước, Hồ Đăng Lương ở Thôn Dương Xuân Thượng 1 (bên phải đàn Nam Giao), có hai người bạn cùng học Trường Tiểu học Nam Giao là Hà Công Lương và Liên Thành. Nhà của Hồ Đăng Lương khá, ông bà Hồ Đăng Duyên và bà Thái Thị Sen lại rất quý bạn của con. Vì thế Hà Công Lương và Liên Thành hay ở lại ăn cơm, học bài, chơi đùa ở nhà Hồ Đăng Lương. Ba người thân nhau như ruột thịt cho đến những năm học Trung học.

Bia mộ Hồ Đăng Lương tại thôn Dương Xuân Thượng 1, bên phải đàn Nam Giao (Ảnh của tác giả) Bia mộ Hồ Đăng Lương tại thôn Dương Xuân Thượng 1, bên phải đàn Nam Giao (Ảnh của tác giả)

Sau đó Hà Công Lương đỗ Tú tài rồi vào Đại học Y khoa, Hồ Đăng Lương mãi đến năm 1967 mới đỗ và trốn lính, ở nhà với cha mẹ. Liên Thành học kém, nhà nghèo, không học lên cao được phải đi lính địa phương quân. Đến tháng 6-1966, Liên Thành xin chuyển qua làm Cảnh sát Đặc biệt, được Nguyễn Ngọc Loan tin dùng trong việc đàn áp Phong trào Đấu tranh Đô thị mùa Hè 1966 ở Huế. Vì chơi thân với Hồ Đăng Lương nên Liên Thành biết bạn mình có tư tưởng chống VNCH. Sau Tết Mậu Thân 1968, Liên Thành được báo tin Hồ Đăng Lương có hoạt động cho Việt cộng trong Tết Mậu Thân. Không nghi ngờ gì nữa, Liên Thành tìm bắt Hồ Đăng Lương. Đăng Lương biết thế nên trốn ra khỏi địa phương. Sau một thời gian truy tìm, đến ngày 6-6-1968, Liên Thành phát hiện được hầm bí mật nơi Hồ Đăng Lương đang trốn ở gần nhà ông Kiểm Hoanh, ở vùng núi sau lưng Lăng Khải Định thuộc xã Thủy Bằng. Liên Thành cho giở nắp hầm bí mật và gọi Đăng Lương lên nộp mạng. Nhưng Đăng Lương không lên,  Liên Thành rút chốt lựu đạn ném xuống hầm, Đăng Lương chụp lựu đạn ném lên lại. Liên Thành điên tiết cho đào hầm bí mật của Đăng Lương, kéo Đăng Lương lên khỏi miệng hầm và cầm dao chặt đầu người bạn học đã từng ăn một mâm, ngồi học cùng một bàn suốt nhiều năm xưa. Sau đó Liên Thành lấy đầu của Hồ Đăng Lương cắm vào một cái cọc chôn bên con đường từ lăng Khải Định về làng Dã Lê Thượng xã Thủy Phương với mục đích nhử phục kích đồng đội đồng chí của Đăng Lương ban đêm về lấy đầu Đăng Lương. Nhưng cả tuần sau Liên Thành không phục kích được ai, dân chúng địa phương sợ hôi thối đã lén lấy đầu Đăng Lương đem chôn. Đăng Lương bị bạn Liên Thành thảm sát, thân dập một nơi, đầu chôn một nẻo. Đến sau 1975 một vài năm, một đồ đệ cũ của Liên Thành (hiện còn sống gần chợ Bến Ngự) báo cho bà Thái Thị Sen biết Hồ Đăng Lương, con trai bà, đã bị thảm sát như thế nào và đã bị vùi dập nơi đâu. Nhờ thế gia đình của Hồ Đăng Lương tìm được thân và đầu của anh đem về ráp lại táng ngay trong khu vườn, nơi Liên Thành, Hà Công Lương và người đã bị bạn thảm sát chơi đùa năm xưa.

Chuyện thảm sát đã diễn ra hơn 40 năm, nhưng mỗi lần nghe kể lại ai cũng rùng mình.

Chuyện Liên Thành giết thầy Ngô Kha, chặt đầu bạn Hồ Đăng Lương chưa được Liên Thành viết trong hồi ký Biến động miền Trung. Nhân trả lời bạn đọc, tôi đề nghị những người đang có cuốn sách này nên photocopy bài viết này kèm theo cuốn sách để thấy rõ hơn “cái công lao to lớn” của Liên Thành thời làm Chỉ huy trưởng BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế đối với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu  trước đây.

Trong quá khứ Liên Thành đã hành xử với thầy mình và bạn mình dã man như thế, đến tuổi già đáng lẽ phải hồi tâm sám hối với trời đất, với ông bà để xin được giải tội trước khi giả từ cái cõi tạm nầy, nhưng Liên Thành đã không những không hồi tâm sám hối mà còn làm ngược lại. Lưu vong ở Mỹ, Liên Thành không gây được tội ác giết người bằng da bằng thịt nữa, nay xoay qua viết sách bịa đặt bao điều xằng bậy, ác độc hòng giết tinh thần, uy tín xã hội của những người không cùng “lý tưởng” làm tay sai cho ngoại bang Mỹ như mình. Nghiên cứu văn hóa, lịch sử Việt Nam tôi chưa hề gặp một mẫu nhân vật phản diện nào mang cái nghiệp độc ác, quỷ quyệt nặng nề như Liên Thành. Đến bao giờ Liên Thành mới giải được cái nghiệp chướng ấy?

Chúng ta hãy tin vào luật nhân quả!

Huế, 20-11-2009

© 2009 Nguyễn Đắc Xuân

© 2009 talawas blog


[1] Xem Nguyễn Đắc Xuân: “Kỳ Ngoại hầu Cường Để với Phong trào Đông Du”, trong sách Việt Nam 100 năm Phong trào Đông du và hợp tác Việt Nhật để bảo tồn, Phát triển di sản văn hóa Huế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2009, tr.186-217.  Bài này nguyên là tham luận khoa học có tựa đề “Kỳ Ngoại hầu Cường Để – những điều tôi mới biết” đọc năm 2005 và đã photo tặng cho các anh Liên Á (cháu đích tôn của cụ Cường Để), cho Liên Hương, Liên Mai (anh em cùng cha khác mẹ với Liên Thành) và nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến Kỳ Ngoại hầu Cường Để.

[2] Trực tiếp với ông Ngô Luyện và ông Ngô Tuyền. Hai ông nầy thuộc hàng bác của Ngô Kha. Cùng hàng nầy có Tướng Ngô Dzu thời VNCH.

[3] Ông Ngô Giu là anh ruột của Ngô Kha, Phó Quận trưởng Hưong Trà, mất trong Tết Mậu Thân 1-1968. Nhà 42 Bạch Đằng cũng là cơ sở của Ngô Kha in ấn báo Tự Quyết và báo Mặt trận Văn hóa miền Trung trước đó.

[4] Gia đình Ngô Kha: Cha mẹ: Ông Ngô Tuyên (Tri huyện Lệ Thủy, Chánh án Quảng Bình) và bà Cao Thị Uẩn. Anh chị em: Ngô Cơ (mất sớm), Ngô Tú (hưu trí, hiện ở Chi Lăng, Đà Lạt), Ngô Thị Trang (mất), Ngô Thị Thuấn (mất), Ngô Giu (Phó Quận trưởng Hương Trà, mất trong Tết Mậu Thân 1968), Ngô Thị Huân (sinh năm 1933, hiện đang giữ nhà thờ tại Thế Lại), Ngô Kha (1935-1973).



To: Goi...@yahoogroups.com
From: dvl_...@yahoo.fr
Date: Tue, 11 Mar 2014 13:42:30 +0000
Subject: Re: [GoiDan] ĐỖ SƠN ĐỌC SÁCH CỦA TÁC GIẢ LIÊN THÀNH: “THÍCH TRÍ QUANG, THẦN TƯỢNG HAY TỘI ĐỒ DÂN TỘC”

 

Gởi qúy Vị cố tình chà đạp sự thật,
đồng kính chuyển qúy Ðồng hương lưu vong vì họa cộng sản,
 
Nhiều chục năm nay, kể từ cái mốc 30/4/1975, sử sách cận đại ghi chép là ngảy "Quốc Hận 30/4", đã có vô số sách báo, bài vở của nhiều nhân chứng sống tường thuật; nhiều sử gia ghi chép cũng như hầu hết giới truyền thông báo chí từng đề cập, phổ biến trên khắp thế giới tự do về những sự thật phủ phàng, dã man tàn bạo và lật lọng dối trá của kẻ thù cộng sản lẫn bọn "ăn cơm quốc gia thờ ma CS" đưa đến ngảy "Quốc Hận 30/4/1975".
Qua những tài liệu, hình ảnh chứng minh đã tường thuật phổ biến nói trên đều có thể xác chứng được giá trị trung thực về lịch sử cận đại của hiện tình đất nước VN. Với lý do, những nạn nhân xem như nhân chứng sống của thời cuộc vẫn còn tồn tại, hiện đang tỵ nạn trên khắp các nước tự do, cũng như còn kẹt tại quốc nội.
Tuy nhiên, để xác định một cách đứng đắn dành cho thành phần cướp nước để bán nước cùng bè lũ tiếp tay cho bọn việt gian CS bán nước, phải nói đến những tài liệu hình ảnh chứng minh (không thể chối cải) của ông Thiếu Tá Liên Thành qua những tác phẩm ông đã xuất bản như : Biến động Miền Trung, v.v... và mới nhất là tác phẩm :
 
                    “THÍCH TRÍ QUANG, THẦN TƯỢNG  
HAY
TỘI ĐỒ DÂN TỘC
 
Xuyên qua bài phân tách, góp ý rõ ràng của tác gỉa Ðỗ Sơn (bên dưới):
Vậy! còn gì nữa để qúy vị cù cưa, cù chày ra sức viết lách chửi bới, bóp méo sự thật lịch sử VN cận đại một cách hồ đồ thuộc loại chợ trời, hàng tôm, hàng cá, v.v... Cố tình bao che cho bọn tội đồ dân tộc đội lốt tôn giáo đã hãm hại, tiêu diệt chính nghĩa Quốc Gia của dân tộc VN một cách ngu xuẫn, trong lúc bọn CS Hà Nội vẫn xem những thành phần ấy như những trái chanh đã bị chúng vắt hết nước.
Ðáng tiếc !
Duong Van Loi
 
 


Le Mardi 11 mars 2014 7h19, Vie^.t Si~ <viets...@yahoo.com> a écrit :
 
 
 
 
From: UBTTTAĐCSVN <ubtttad...@gmail.com>
Date: 2014-03-10 19:43 GMT-07:00
Subject: ĐỌC SÁCH CỦA TÁC GIẢ LIÊN THÀNH: “THÍCH TRÍ QUANG, THẦN TƯỢNG HAY TỘI ĐỒ DÂN TỘC”
To: Ủy Ban <ubtttad...@gmail.com>


ĐỌC SÁCH CỦA TÁC GIẢ LIÊN THÀNH: “THÍCH TRÍ QUANG, THẦN TƯỢNG HAY TỘI ĐỒ DÂN TỘC”

3/10/2014  UBTTTADCSVN  NO COMMENTS

ĐỌC SÁCH CỦA TÁC GIẢ LIÊN THÀNH:
“THÍCH TRÍ QUANG, THẦN TƯỢNG
HAY TỘI ĐỒ DÂN TỘC”
                                                                               ĐỖ SƠN
Nguyên Sĩ Quan QLVNCH thuộc Lực Lượng Đặc Biệt


    Là một chuyên viên… nhậu, trước khi trở thành người làm báo làm đài, tôi không thích viết lách trên báo hay nói trong chương trình phát thanh về tôn giáo; vì dân nhậu chuyên nghiệp không bao giờ mang chuyện tôn giáo ra bàn bạc trong bàn nhậu. Đó là… “luật”, nếu muốn có một buổi nhậu… hòa bình.

    Lúc còn làm báo trào phúng tôi đã từng để mất một người bạn, một cộng tác viên thân cận và đắc lực nhất, cũng vì tôn giáo: Tôi nhất quyết báo của tôi sẽ không có bài nào viết về tôn giáo, hay liên quan gần – xa đến tôn giáo cả; vì vậy có lần tôi đã lột sạch bách những bài viết như thế của bạn tôi khỏi tờ báo đang sẵn sàng để mang đi in. Khi báo in xong, tôi mất một người bạn cũng là một cộng tác viên thật cần thiết đối với tôi lúc đó.

    Không phải tôi hèn gì, sợ gì mà không dám đụng đến chuyện tôn giáo, nhưng tôi thấy viết những chuyện liên quan đến tôn giáo thì không khác gì viết… chuyện dài nhân dân tự vệ. Không bao giờ đến được một kết quả khả quan và dứt khoát đối với thành phần quá khích tôn giáo. Năm năm qua tôi không còn làm báo – đài nữa, nhưng vẫn đọc đều và đọc được trên Net rất nhiều bài về tôn giáo với nội dung khích bác, nếu không muốn nói là “chửi rủa” tôn giáo của nhau. Đi đến đâu? Ngõ cụt! Chẳng có lợi gì cho nước Việt, người Việt, ngoại trừ người Việt… Cộng! Chưa đề cập đến lợi dụng, ít nhất thì họ cũng được những trận cười rất đã nhờ những bài viết loại này.

    Có thiểu số (may là vậy) tin rằng Tu Sĩ là tôn giáo, đụng đến Tu Sĩ tức đã cả gan dám đụng đến tôn giáo của họ rồi. Ông Sư, ông Cha, tức là… Phật Giáo, Công Giáo. Vì bé cái lầm như thế mà thành… lớn cái lầm. Người cầm viết mà “lớn cái lầm” thì tai hại không phải lớn nữa, chính là… loạn. Cái cộng đồng tỵ nạn nhỏ bé của chúng ta cứ bị coi là “loạn lạc” mãi, vì thế. Gần đây thì một số Tu Sĩ Công Giáo dấy lên dư luận đòi hỏi được quyền lập gia đình, đối với cá nhân tôi việc này rất thú vị, có ý nghĩa rất nhiều, có thể sánh như một thông điệp của Tu Sĩ nói rằng họ cũng chỉ là “người phàm” như giáo dân thôi. Họ chỉ khác giáo dân ở điểm dấn thân học hỏi, nghiên cứu và làm trung gian truyền bá lại giáo lý cho giáo dân. Thế thôi.

    Tuy nhiên quan niệm không viết về tôn giáo hay những chuyện liên quan đến tôn giáo của tôi chưa chắc đã đúng, nếu nghĩ về lịch sử. Lịch sử của từng quốc gia hay rộng hơn nữa là lịch sử thế giới. Lịch sử kể lể, ghi chép về những chuyện đã xảy ra, thuộc đủ mọi lãnh vực, cho lớp người đi sau nghiền ngẫm, hầu tránh được vết xe đổ trước đó. Kể cả tôn giáo. Những chuyện như vậy bao gồm cả hào quang tâm linh, nhưng cũng có cả những sai lầm khiếm khuyết khiến loài người phải khốn đốn điêu linh, máu đổ thịt rơi… Tôi muốn nói đến “thánh chiến”, “Thập tự chinh” của Công Giáo. Nhưng rồi con người vẫn lấy tôn giáo làm trọng, bởi biết tôn giáo là ánh sáng chân lành cho con người, biết tôn giáo không bậy mà chỉ có những kẻ lãnh đạo tôn giáo làm bậy mà thôi!

    Tôi đọc cuốn “Thích Trí Quang, Thần Tượng Hay Tội Đồ Dân Tộc” của Thiếu Tá Liên Thành với tinh thần vừa nói trên. Thượng Tọa (hay Hòa Thượng ?) Thích Trí Quang là một Tu Sĩ Phật Giáo, bản thân ông không phải là tôn giáo Phật Giáo. Là một Tu Sĩ, ông Thích Trí Quang làm chính trị, điều này không ai có thể chối cãi được và ngay chính ông cũng thế, vậy thì ông Thích Trí Quang đi vào lịch sử Việt Nam với tư cách một Chính Trị Gia thay vì là một Tu Sĩ. Điều khác biệt giữa Chính Trị Gia Thích Trí Quang và những chính trị gia khác là ông đã lợi dụng tôn giáo Phật Giáo để mưu đồ chính trị cho cá nhân và phe nhóm của ông. Và vì vậy, bất cứ người viết nào viết về ông, và viết ra sự thật, cũng sẽ bị nhóm thiểu số quá khích tôn giáo nhập nhằng coi là… đánh phá Phật Giáo!

    Liên Thành bị kẹt ở đây. Từ một Sĩ Quan tác chiến của quân đội, Thiếu Úy Liên Thành đã được “khám phá” bởi Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, và đã được đưa vào những vị trí khó khăn và nguy hiểm nhất của thời đó. Không chắc gì có một Sĩ Quan khác đủ can đảm để dám làm như Liên Thành. Tướng Loan đã nhìn thấy ở Liên Thành một quân nhân coi luật pháp quốc gia là trên hết, sẳn sàng chết với lý tưởng của mình, nên Liên Thành nhanh chóng trở thành một vị chỉ huy cao cấp của Cảnh Sát Quốc Gia ở Huế. Và đã đối đầu với ông Thích Trí Quang từ thưở đó. Tôi coi hai cuốn sách đã xuất bản của Liên Thành như một cuộc chiến tiếp diễn giữa Thiếu Tá Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa Liên Thành và Chính Trị Gia Thích Trí Quang, người đã làm lợi cho Cộng Sản trong cuộc chiến Quốc – Cộng vừa qua tại Việt Nam.

    Cuốn “Thích Trí Quang, Thần Tượng Hay Tội Đồ Dân Tộc” của Liên Thành là cuốn viết về lịch sử hơn là tôn giáo. Vì nó lột trần những Chính Trị Gia đội lốt tôn giáo để làm lợi cho Cộng Sản. Nó không đả phá tôn giáo Phật Giáo, ngược lại nó chứng minh được tôn giáo Phật Giáo đã bị mấy ông Chính Trị Gia ấy lợi dụng như thế nào! Đã có lúc tôi thầm nghĩ Liên Thành phí công sức vì theo tôi thì đại đa số dân chúng Việt Nam Cộng Hòa (trong đó giáo đồ Phật Giáo đông nhất) thừa biết việc này mặc dù không thèm nói ra, vậy Liên Thành viết hay không viết thì cả tập thể người dân của “Bên Thua Cuộc” vẫn biết rất rõ Chính Trị Gia Thích Trí Quang và phe nhóm của ông đã làm lợi (rất nhiều) cho Cộng Sản trong cuộc chiến vừa qua.

    “Trăm năm bia đá phải mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”.

    Cuốn “Thích Trí Quang, Thần Tượng Hay Tội Đồ Dân Tộc” của Liên Thành có một giá trị lớn của nó vì những vai trò trực tiếp kinh qua của tác giả, tuy nhiên không thể lớn hơn “bia miệng” của mấy chục triệu dân Miền Nam Tự Do!

    Vì vậy, nếu muốn đưa Liên Thành lên “giàn phóng”, phóng cho nổ tung ra, thì trước tiên phải xét lại “bia miệng” cái đã. Cộng Sản dám làm hết mọi chuyện trừ… những chuyện không thể làm được. Muốn làm mòn “bia miệng”, không được! Sửa lịch sử? Chỉ được trong một thời gian rất ngắn thôi, so với chiều dài của lịch sử. Hoài công vô ích! Có lẽ vì biết vậy nên Hoa Kỳ chủ trương “giải mật” sau một thời gian giấu diếm. Cứ vài ba mươi năm thì họ cho “giải mật” một số chuyện trước đó được coi là “tối mật”. Chi vậy? Không chi khác hơn là để lớp hậu sinh người Mỹ có thể lấy đó làm bài học không dẫm lên vết bậy bạ xấu xa xưa cũ. Việc làm này đáng được hoan nghênh. Mà phải chăng vì thế mà nước Mỹ đã trở thành siêu cường duy nhất trên thế giới?! Nói vầy thì phải nhìn qua Trung Quốc, một đất nước chỉ thích truyền tụng… huyền thoại bá láp.

    Tôi coi quyển sách mới của Tác giả Liên Thành có cùng mục đích “giải mật” như Hoa Kỳ, vì tác giả là người trực tiếp sống với những câu chuyện anh viết ra. Sách thuộc loại “người thật việc thật”, đáng được hoan nghênh, đáng được “gối đầu nằm” nếu lớp người đi sau muốn tránh lỗi lầm của lớp người đi trước!

    Sách của Liên Thành, từ cuốn “Biến Động Miền Trung” cho tới “Thích Trí Quang, Thần Tượng Hay Tội Đồ Dân Tộc” là những cuốn sách viết về lịch sử, không hề có chủ đích nào đối với tôn giáo Phật Giáo. Nó diễn tả lại nước Việt Nam Cộng Hòa đã khốn đốn ra sao trước mối nguy nội thù, từ những kẻ dùng tôn giáo để làm chính trị. Nó báo động cho chúng ta về mối nguy các tôn giáo của chúng ta có thể bị địch lợi dụng để thôn tính quốc gia yêu quý của chúng ta. Nó cho thấy quá khích tôn giáo chỉ có hại, và hại rất lớn, mà ngày nay chúng ta có thể nhìn thấy xuyên qua những bài viết quá khích tôn giáo đang tiếp tục xảy ra ở hải ngoại.

    Cuốn băng nhựa của Hòa Thượng Thích Đôn Hậu bị phơi bày trong cuốn “Thích Trí Quang, Thần Tượng Hay Tội Đồ Dân Tộc” của Tác giả Liên Thành là một cuốn băng “kinh hoàng”. Từ đó chúng ta sẽ nhìn ra các Chính Trị Gia kiêm Tu Sĩ đã lợi dụng tôn giáo Phật Giáo như thế nào trong thời kỳ suốt từ Mậu Thân 1968 cho đến 30 tháng Tư 1975. Khó thể nào phản bác các chứng minh của Liên Thành, mà phản bác để làm gì vì Liên Thành có khi nào kết án tôn giáo Phật Giáo đâu? Phật Giáo chỉ bị lợi dụng bởi các Chính Trị Gia mặc áo Tu Sĩ mà thôi!

    Sách của Liên Thành không nói về tôn giáo, anh chỉ ghi lại những gì anh biết một cách trung thực về những Chính Trị Gia lợi dụng Phật Giáo. Chấm hết! Và trước khi chấm hết thì chúng ta đành phải đau lòng nhìn nhận rằng Chính Trị Gia Thích Trí Quang và những Tu Sĩ thuộc phe nhóm của ông đã làm hại quốc gia Việt Nam Cộng Hòa nhiều, rất – rất nhiều. Miền Trung nếu không có Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, không có Thiếu Tá Liên Thành, và những quân nhân cùng lực lượng Cảnh sát hết lòng bảo vệ thì đã lọt vào tay Cộng Sản sớm hơn 30-4-75. Mấy ông Tướng còn lọt bẫy quá khích tôn giáo huống chi anh em binh sĩ của Sư Đoàn 1 Bộ Binh?

    Tôi chỉ mong anh Liên Thành “chân cứng đá mềm”, mong rằng tuổi hơn “7 bó” sẽ không làm khó dễ được anh. Và cũng mong những nhóm quá khích tôn giáo (bất kể tôn giáo nào) hãy bình tâm, hãy để phần tâm linh chân thật của mình phát huy, để tôn trọng lịch sử, tôn trọng con cháu mình, hầu cho sự thật rọi sáng con đường tương lai của họ. Họ chỉ có một con đường thành công để chọn: Cắn răng chấp nhận quá khứ để tránh lỗi lầm, đưa đến thành công trong tương lai!

    Tôi không nhìn ông Thích Trí Quang là một Tu Sĩ! Tôi chỉ thấy ông ấy là một Chính Trị Gia đã lợi dụng tôn giáo Phật Giáo hầu đạt được lợi ích riêng cho cá nhân và phe nhóm mình!

    Ông Thích Thí Quang quả thật là một tội đồ dân tộc!

==//==
Sách Mới Xuất Bản
Thích Trí Quang, Thần Tượng hay Tội Đồ Dân Tộc?

Ấn phí và cước phí:
1- Credit Card, Paypal:
- Ngoài Hoa Kỳ: $70 (kể cả cước phí, đã điều chỉnh giá biểu) - Xem chi tiết & Đặt sách
- Trong Hoa Kỳ: $40 (kể cả cước phí) - Xem chi tiết & Đặt sách

2- Check, Money Order:
Liên Thành
P.O. Box 6147 - Fullerton, CA 92834 - USA.
Điện thoại: 626-257-1057. Email: ubtttad...@gmail.com















__._,_.___
Reply via web post Reply to sender Reply to group Start a New Topic Messages in this topic (3)
Dienda...@yahoogroups.com

Dien dan Dan-Toc [D DDT] - Dien dan thong tin d a chieu.

D DDT ton trong nhung di biet trong moi lanh vuc, bao gom ca chinh tri, ton giao...

DDDT khong chap nhan ngon ngu khiem nha; xin tranh luan, phan bien...trong tinh than xay dung, on hoa va tuong kinh...ngon ngu khong nen di qua xa.

Tran trong
Chu nhiem Dien dan Dan-Toc
Dong Hai-Nguyen Duc Hien
.

__,_._,___

Giác Hạnh

unread,
Mar 11, 2014, 10:47:38 PM3/11/14
to tudo-n...@yahoogroups.com, Tran Quang Dieu, dvl_...@yahoo.fr, goi...@yahoogroups.com, baovech...@googlegroups.com, daploi...@yahoogroups.com, dienda...@yahoogroups.com, giaodie...@yahoo.com, chinhng...@yahoogroups.com, toa...@roadrunner.com, nghegiao...@gmail.com, vida...@yahoogroups.com

Còn số ít trong thiểu số 7, 8% những "thần dân của thành Rom" và đám âm binh mạt hạng như Liên Thành (mấy mươi năm im ru, ngậm họng... không dám thò mặt ra... kể từ sáng ngày 2 tháng 11 năm 1963... cho đến đến vài năm gần đây...) a tòng luận điệu theo kiểu cùng với hoài Ngô Cần Lao Nhân Vị đảng chửi rủa nhà sư Thích Trí Quang bằng 4 chữ "Tội Đồ Dân Tộc" (sic) thì y hệt lũ Việt gian vong nô, vọng ngoại, đan tâm phản bội quê hương dân tộc, cõng rắn cắn gà nhà rước voi giày mả tổ như trước đây chúng đã từng mạt sát Phong trào Văn Thân trong cuộc Khởi Nghĩa Hương Khê của Cụ Phan Đình Phùng bằng chữ "bọn"!?

__._,_.___
Messages in this topic (1)
tudo-n...@yahoogroups.com

Dien dan Tu Do-Ngon Luan - Dien dan thong tin da chieu.

Dien dan Tu Do-Ngon Luan ton trong nhung di biet trong moi lanh vuc, bao gom ca chinh tri, ton giao...

Dien dan Tu Do-Ngon Luan khong chap nhan ngon ngu khiem nha; xin tranh luan, phan bien...trong tinh than xay dung, on hoa va tuong kinh...ngon ngu khong nen di qua xa.

Tran trong.
Chu nhiem dien dan Tu Do-Ngon Luan
D ong Hai-Nguyen Duc Hien
.

__,_._,___

Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages