Cn V Mchay C

103 views
Skip to first unread message

Ngọc Nga

unread,
Apr 3, 2025, 12:26:25 AMApr 3
to teresa...@googlegroups.com
chay_5c.doc
Bài đọc trong tuần C.doc
CN 5 CHAY.C.pps

Ngọc Nga

unread,
Apr 10, 2025, 7:01:33 AMApr 10
to teresa...@googlegroups.com
lela_c.doc
Bài đọc trong tuần C (1).doc
CN Le La. C.pps

Ngọc Nga

unread,
Apr 13, 2025, 7:39:00 PMApr 13
to teresa...@googlegroups.com
 


CHÚT TÂM SỰ CÙNG GIUĐA
P/s: Gợi lại chút suy tư nhân đọc đề thi Văn - Kỳ thi Tuyển sinh Đại Chủng viện Thánh Phanxicô Xaviê khóa XIX: "Hãy viết về ông Giuđa Iscariot trong Tân Ước?" Ai trong chúng ta cảm nghiệm được rằng: mình đã từng có những khoảnh khắc giống Giuđa?
 
-------------------------------
Giuđa, anh thân mến!
Dịp Tuần Thánh vừa qua, đang khi chìm vào suy tư, tôi bồi hồi chợt nhớ về đêm tối xa xăm.  Sương mù phủ kín suối Kit rôn uốn khúc lượn lờ.  Vườn cây dầu đột nhiên ồn ào bởi tiếng lao xao.  Một cuộc bố ráp qui mô.  Kỳ cục thay, tôi thấy anh lạnh lùng, hăm hở dẫn đầu ba quân vây bắt thầy mình...
Thế rồi, màn đêm âm u đã đẩy cao tấn bi kịch.
Mỉa mai thay, sự phản trắc che đậy bởi nụ hôn nồng nàn của tình thầy trò vào sinh ra tử: “Tôi hôn ai thì đó chính là Người, các anh bắt lấy” (Mt 26, 48).  Cái bi đát là tình nghĩa hoen ố bởi cử chỉ âu yếm, thân mật nhất.  Một nụ hôn đau hơn ngàn cái tát, nhục nhằn hơn dòng nước mắt, quặn thắt hơn vết thương sâu.
Và thước phim cứu độ tiếp tục được quay với những hình ảnh chóng vánh: Thầy Giêsu bị điệu ra trước tòa Công nghị, bị các thượng tế và hội đồng kết án.  Tổng trấn Philatô của Rôma chuẩn y án tử hình thập ác.  Thầy Giêsu đã nắm chắc cái chết.  Đằng sau bản án oan khiên ấy có lỗi lầm không nhỏ của 
Giuđa ơi!
Anh đã lựa chọn lối đi dẫn về ngục tù hun hút.  Anh đã đến ở lưng chừng và rồi cũng ra đi lưng chừng: Lưng chừng giữa niềm tin và thất vọng, giữa niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và đau thương…
Ai đó bảo rằng số phận anh đã được tiền định để đi đến chỗ tiêu vong.  Điều này là một nan đề khó phân biệt đúng sai nên tôi không dám luận bà
Tuy nhiên, tôi cảm nhận mọi thứ với anh đã từng rất đẹp bên Thầy Giêsu, đúng không nhỉ?  Anh đã rong ruổi theo Thầy ngay từ đầu, chia sẻ buồn vui, đói no, thành công hay thất bại.  Không yêu sao có thể đi theo lâu đến vậy?  Không mến sao có thể hy sinh như thế?
Nhưng điều gì đã diễn ra nơi trái tim khiến anh thay đổi khủng khiếp đến vậy?  Tôi nghĩ rằng, việc ôn lại một vài biến cố quan trọng trong cuộc đời anh nhắc nhở tôi những bài học ý nghĩa về cuộc sống và tình yêu đời dâng hiến.
Thứ nhất, phải chăng anh là nạn nhân của nỗi cô độc ngay trong chính hành trình theo Chúa?  Anh và Thầy Giêsu cùng các anh em đồng hữu có duyên gặp gỡ nhưng chẳng đủ nợ để chung đường.
Phải chăng con người anh đã nhiều lúc phải đối diện với những khoảng trống vô hồn và những bất an vô định, những tháng ngày mải miết đi trong khu vườn miên viễn rồi chết nghẹt vì mãi không tìm thấy lối ra?  Trong thế giới nhỏ bé của anh bộn bề suy nghĩ khác với mọi người.  Anh chìm trong mớ cảm xúc hỗn độn, quá nhiều lựa chọn khiến anh mắc kẹt giữa tuổi thanh xuân của chính mình.
Anh cảm thấy cô độc giữa đám đông huynh đệ chi binh.  Dù quây quần bên Thầy, bên anh em mà anh vẫn thấy riêng mình “một trời tâm sự.”  Đang cùng bạn bè vui đùa sau một ngày dài di chuyển mệt nhọc mà anh vẫn nhủ thầm rằng chẳng ai hiểu lòng ta đang canh cánh một nỗi lòng phục hưng xứ sở, đánh đuổi ngoại bang.  Cô độc vì anh tự nhận mình là người Giuđêa duy nhất lọt thỏm giữa đám người Galilê xa lạ...
Thật tai hại, anh đã “lấp đầy” cô đơn bằng sự hiện diện của thế lực đen tối.  Nói đúng hơn, Satan đã nhập vào anh (Ga 13, 27).  Anh đã không thể đối phó với ông bạn kinh khủng ấy, không kịp chê chán gã ác thần như đã quay lưng với Thầy Giêsu và các bạn hữu.
Sự dữ nhanh chân chiếm giữ tâm hồn và làm anh khốn khổ.  Sự việc này nói lên một điều rằng anh đã đánh mất bài học cảnh giác, để cho kẻ thù từng bước len lỏi vào hồn mình.
Kể từ đây, con người anh thêm hoang hoải, chẳng còn gì khác ngoài đôi chân mệt mỏi, đầu óc đầy dẫy toan tính và trái tim thiếu hẳn tình thương.
Thứ hai, tôi không biết anh “trở cờ” với Thầy lúc nào nhưng tôi thấy tâm hồn anh từ lâu đã bị hoen mờ bởi đồng tiền và cả sự tham lam, ích kỷ, biển lận tầm thường, buông chiều theo sự tự do.
Thần tài là một thứ ngẫu tượng hết sức quyến rũ.  Thần tài chống lại Thiên Chúa vì nó tạo ra nơi con người một tinh thần khác, nó thay đổi mục đích của nhân đức đối thần.  Kinh Thánh đã từng nói: “Lòng yêu mến tiền bạc là căn nguyên của mọi tội lỗi” (1Tm 6, 10).
Anh cũng vậy, anh đã để đồng tiền khuynh loát bản thân.  Tính gian tham biểu lộ đặc biệt ở nhà ông Simon, khi người phụ nữ tội lỗi không được mời nhưng lại xông vào nhà rồi đổ dầu thơm trên chân Thầy Giêsu, lấy tóc mà lau, làm cho cả nhà sực nức hương thơm.  Trong cái vỏ bọc và bức bình phong hoàn hảo, anh mặc sức tô vẽ mọi thứ theo ý riêng của mình: “Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm quan tiền mà cho người nghèo” (Ga 12, 5).
Tin Mừng còn một lần nữa khắc họa sự dính bén vật chất của anh.  Anh phải kiếm chác được một cái gì đó cho thỏa tính tham của mình: “Bây giờ, một trong nhóm Mười Hai, gọi là Giuđa Iscariôt, đến gặp các thủ lãnh, tư tế và mà nói: Tôi nộp ông ấy cho quý vị, quý vị muốn cho tôi bao nhiêu?  Họ cho Giuđa ba chục đồng bạc” (Mt 26, 14-15).
Giá phản bội Chúa chẳng cân xứng với giá trị thật chút nào.  Anh đâu cần phải bán Chúa mới có được nhúm tiền mà anh có quyền tiêu pha bất cứ lúc nào trong quỹ chung?
Giá như anh đừng quá chăm chút cho riêng mình.  Giá như anh cũng hào phóng như người phụ nữ tội lỗi đã làm với Thầy Giêsu.  Giá như anh đừng để mình rơi vào khoảng tối điêu linh, huyễn hoặc của lòng đam mê tiền của.  Thật buồn là sau tất cả vẫn phải nói: “Giá như…”
Thứ ba, Tin Mừng mô tả anh đã đánh mất niềm hy vọng vào tình thương xót hải hà của Thiên Chúa. Tội ác vừa phạm xong, anh đã cảm thấy chán chường.  Tôi đã mừng hụt khi đọc đến đoạn mô tả anh hối hận.
Thế nhưng, chán chường tội lỗi không đủ, đó là bước tiến trên đường đạo đức nhưng chưa hẳn là đạo đức, phải ăn năn thống hối nữa.  Có thể anh không hối hận vì Chúa mà là vì mình.  Như vậy là giận ghét mình, mà sự giận ghét mình dẫn đến tự vẫn, vì ghét mình tức là giết mình; chỉ khi sự ghét mình kết hợp với lòng mến Chúa mới đáng được cứu rỗi.
Các bản văn Tin Mừng đề cập việc anh thức tỉnh.  Thay vì xử sự như Phêrô, cách làm của anh thật tệ hại: Anh đã chọn cho mình sợi dây thừng và tự xử.  Tôi không dám mường tượng hình ảnh hãi hùng lúc đó.  Chỉ biết là anh đã để lỡ cơ hội.
Anh nên hiểu rằng: trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa, cho dù chậm chạp hay té ngã nhiều đến đâu nữa nhưng nếu biết chỗi dậy thì Người vẫn luôn rộng lòng thứ tha.
Hỡi Giuđa, chàng trai trẻ xứ sở phương N
Đêm nay, tôi viết thư cho anh.  Một đêm mưa nhiều nên lối vắng âm u, mây giăng kín trên vòm trời. Không biết giữa khoảng trời này, đêm có còn nhớ đến kẻ tội đồ năm xưa?
Riêng tôi, nhớ về anh, lòng lại thêm phiền não, ủ dột, âu sầu.  Những biến cố của cuộc đời không lường kịp, mà phận người thì quá đỗi mỏng manh đã cuốn anh vào thiên thu.
Như sợi chỉ thanh mảnh cố níu kéo những ký ức đang chìm sâu vào nấm mồ tuổi trẻ, thư tôi viết cho anh không mong chờ dòng hồi âm ngắn n
Dẫu sao, tôi – một đồng hữu đang bước theo Thầy Giêsu – luôn cầu mong số phận sẽ đổi khác với anh, chí ít là trong tích tắc cực ngắn nào đó trên cành cây lơ lửng, Thiên Chúa dủ tình với anh như đã dủ tình với người trộm lành năm xưa.  Lúc ấy, tôi có thể nhìn thấy anh rạng rỡ hơn, đúng không?
Mến chào anh trong Thầy Giêsu!
Lm. Hạ Trân
(Bài viết trích trong sách "Lời hứa ghép tim" - NXB. Tôn Giáo, 2021)



 

Ngọc Nga

unread,
Apr 14, 2025, 11:02:48 PMApr 14
to teresa...@googlegroups.com
Có thể là hình ảnh về 1 người



10 THIẾU SÓT KHI XƯNG TỘI…

1. Xưng tội quá chung chung, thiếu chiều sâu: Nhiều người chỉ nói: “Con đã sống không tốt” hoặc “Con có lỗi” mà không chia sẻ cụ thể mình đã sai ở đâu. Xưng tội như vậy khiến ta không thật sự đối diện với chính mình, và dễ đánh mất cơ hội để chữa lành tận gốc những tổn thương bên trong.

2. Biện minh cho tội lỗi thay vì nhận lỗi: “Con làm vậy vì con buồn quá”, “Tại người khác trước…” – những lời như thế nghe tưởng nhẹ nhàng, nhưng lại làm ta tránh né trách nhiệm. Tình yêu thật sự bắt đầu từ sự can đảm nhận mình đã sai.

3. Quên mất ý nghĩa thiêng liêng của bí tích: Xưng tội không chỉ là một thói quen đạo đức mỗi tháng một lần. Đó là một cuộc hẹn đặc biệt với Chúa – nơi ta được ôm trọn bằng tình thương, được tha thứ và làm mới.

4. Che giấu tội trọng vì xấu hổ: Ai cũng có những điều khó nói. Nhưng chính khi ta dám đem ra ánh sáng những điều mình giấu kín nhất, ơn chữa lành mới thực sự đổ tràn. Đừng để nỗi sợ phán xét làm mất đi sự tự do trong tâm hồn.

5. Không quyết tâm thay đổi: Xưng tội mà trong lòng vẫn chưa muốn buông bỏ tội lỗi, chưa muốn bước đi con đường mới – thì cũng như chữa vết thương mà không giữ gìn, rất dễ tái phát. Một trái tim khao khát đổi thay sẽ luôn được Chúa nâng đỡ.

6. Thiếu sự chuẩn bị trước khi xưng tội: Nhiều người bước vào bí tích Hòa Giải mà không dành thời gian nhìn lại bản thân. Xưng tội không phải là một thủ tục vội vàng, mà đòi hỏi ta phải thành tâm xét mình, nhận ra những góc khuất trong tâm hồn. Nếu chỉ đến trước tòa giải tội mà lòng chưa sẵn sàng, ta có thể bỏ qua những lỗi lầm cần được chữa lành, và bí tích mất đi sức mạnh biến đổi.

7. Xem nhẹ lời khuyên của linh mục: Trong bí tích Hòa Giải, linh mục không chỉ lắng nghe mà còn hướng dẫn, giúp ta hiểu rõ hơn về hành trình thiêng liêng của mình. Nhưng đôi khi, ta chỉ muốn “xong việc” mà không để tâm đến những lời khuyên ấy. Lắng nghe và áp dụng những chỉ dẫn ấy là cách để ta lớn lên trong đời sống đức tin, thay vì chỉ dừng lại ở việc được tha thứ.

8. Tập trung vào số lượng hơn chất lượng: Có người xưng tội với tâm thế liệt kê thật nhiều “tội” để cảm thấy “đủ đầy”, nhưng lại thiếu sự chân thành khi đối diện với từng lỗi lầm. Bí tích Hòa Giải không phải là một danh sách cần hoàn thành, mà là một cuộc gặp gỡ sâu sắc, nơi ta để Chúa chạm đến những vết thương sâu kín nhất của tâm hồn.

9. Thiếu lòng tin vào lòng thương xót của Chúa: Một số người mang tâm trạng nặng nề khi xưng tội, nghĩ rằng tội lỗi của mình quá lớn, không thể được tha thứ. Điều này khiến ta khép lòng trước tình yêu vô biên của Chúa. Bí tích Hòa Giải là lời nhắc rằng không có vết thương nào mà ơn Chúa không thể chữa lành, miễn là ta mở lòng đón nhận.

10. Bỏ qua việc đền tội và cảm tạ: Sau khi xưng tội, ta thường dễ quên việc thực hiện những việc đền tội được linh mục giao phó, hoặc không dành thời gian để tạ ơn Chúa vì hồng ân tha thứ. Việc đền tội giúp ta sửa chữa những tổn hại do tội lỗi gây ra, còn lòng biết ơn giúp ta trân trọng hơn món quà tự do mà bí tích mang lại. Một hành trình xưng tội trọn vẹn không kết thúc ở tòa giải tội, mà tiếp diễn qua đời sống hằng ngày.

Những vấn đề này nhắc nhở rằng bí tích Hòa Giải không chỉ là một nghi thức, mà là một hành trình thiêng liêng đòi hỏi sự chân thành, can đảm và khao khát đổi mới. Khi ta đến với bí tích bằng cả trái tim, ta sẽ tìm thấy bình an và sức mạnh để sống trọn vẹn hơn trong tình yêu của Chúa.
Mặc dù bạn không hoàn hảo, bạn sẽ mắc lỗi, bạn sẽ làm hỏng mọi việc .Nhưng Chúa vẫn đang chờ đợi bạn.Ngài sẵn sàng chữa lành cho bạn, tha thứ cho bạn và luôn yêu bạn…

—Lm. Anmai, CSsR—

 

Ngọc Nga

unread,
Apr 14, 2025, 11:04:50 PMApr 14
to teresa...@googlegroups.com
Có thể là hình ảnh về 1 người



LÁ THƯ TỪ LUYỆN NGỤC…

Cha Gioan là một linh mục già sống trong một tu viện nhỏ trên núi. Suốt cuộc đời mình, cha đã tận tụy cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục. Mỗi buổi tối, sau khi dâng lễ và đọc kinh, cha luôn quỳ một mình trong nhà nguyện, thì thầm với Chúa: “Lạy Chúa, xin thương xót các linh hồn đang chịu thanh luyện. Xin ban cho họ ánh sáng và sự nghỉ ngơi muôn đời.”
Một đêm mùa đông lạnh giá, khi cha Gioan đang lần chuỗi Mân Côi trong tĩnh lặng, ngài nghe tiếng gõ cửa nhẹ nhàng. Cha ra mở cửa thì thấy một người đàn ông lạ mặt, áo quần cũ kỹ và ướt sũng mưa. Người ấy nói: “Thưa cha, con lạc đường, xin cho con trú lại một đêm.”
Cha Gioan đưa ông vào, sưởi ấm và cho ăn. Khi hai người ngồi gần lò sưởi, người lạ im lặng một lúc rồi nói:
“Thưa cha, con từng là một tín hữu, nhưng khi còn sống, con đã bỏ bê đức tin. Giờ con đang ở luyện ngục, chịu thanh luyện vì những lầm lỗi ấy. Nhưng nhờ những lời cầu nguyện và thánh lễ cha dâng mỗi ngày, con và nhiều linh hồn khác đã được an ủi rất nhiều. Đêm nay, Chúa cho phép con hiện về để nói lời tri ân.”
Cha Gioan ngỡ ngàng, tim đập mạnh. Trước khi kịp nói lời nào, người đàn ông mỉm cười hiền hậu và dần tan biến trong ánh sáng dịu dàng. Trên ghế nơi ông ngồi, cha tìm thấy một tờ giấy cháy sém, trên đó viết bằng nét mực mờ nhòe:
“Cha kính yêu,
Cảm ơn cha vì những lời cầu nguyện không mỏi mệt. Nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa và trái tim từ mẫu của Đức Mẹ, con sẽ sớm được vào Thiên Đàng. Xin cha tiếp tục cầu nguyện cho những anh chị em còn đang đau khổ nơi luyện ngục.
Ký tên: Một linh hồn đã được ơn cứu rỗi.”
Kể từ đêm đó, cha Gioan càng sốt sắng dâng lễ và lần chuỗi hơn bao giờ hết, không chỉ vì nghĩa vụ, mà vì lòng yêu thương sâu sắc với những linh hồn đang khao khát được thấy ánh sáng vĩnh cửu.

Têrêsa NgọcNga (st)







 

Ngọc Nga

unread,
Apr 15, 2025, 8:29:15 AMApr 15
to teresa...@googlegroups.com

ĐỈNH CAO CỦA MẦU NHIỆM CỨU ĐỘ LÀ TÌNH YÊU
Trong cuộc sống, nơi các gia đình, nhất là văn phong của Việt Nam, chúng ta rất coi trọng bữa ăn.  Nơi bữa ăn, niềm vui, nỗi buồn, thành công hay thất bại, thường hay được giải quyết.  Có những bữa ăn để chia tay; có những bữa ăn để lên đường.  Chia tay hoặc lên đường thường hay để lại nhiều kỷ niệm nơi người đi và kẻ ở!
Hôm nay, Đức Giêsu quy tụ các Tông đồ là những người thân tín với Ngài trong suốt chặng đường rong ruổi loan báo Tin Mừng.  Ngài quy tụ họ, để trao lại cho họ một tặng phẩm thần linh là Bí tích Thánh Thể và truyền cho các ông hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Ngài.  Qua đó, như một sự hiện hữu sau khi chết, để khi còn sống, Đức Giêsu ở cùng với các ông thế nào, thì ít ngày nữa thôi, Ngài cũng hiện diện và ở lại với các ông cách vô hình nhưng trọn vẹn nơi Bí tích cao trọng là chính Thánh Thể Ngài.  Mặt khác, qua bữa tiệc này, phần cuối cùng của bữa tiệc, Đức Giêsu hành động và  trăng trối những lời tâm huyết để xây dựng cộng đoàn Giáo Hội đó là: “Luật yêu thương.”
 
  1. Một tặng phẩm cao quý được trao tặng
 
Nếu trong cuộc sống, hai người yêu nhau, họ thường có những lời lẽ chân tình, ấm áp để thể hiện tình yêu của mình cho người mình yêu.  Khi đi xa, người ta hay trao tặng cho nhau những kỷ vật trân quý, để dù xa mặt chứ lòng thì không.  Qua món quà đó, với người đón nhận thì tặng vật đó không chỉ đơn thuần là một kỷ niệm, nhưng nó còn là sự hiện hữu của chính người tặng quà.
Cũng vậy, khi Đức Giêsu biết “giờ” của mình sắp trở về với Thiên Chúa Cha, nên Ngài đã yêu thương họ đến cùng khi trao ban chính thân mình làm của nuôi sống môn sinh.
Chiều hôm nay, chúng ta kỷ niệm việc Đức Giêsu lập Bí tích Thánh Thể.  Đây là Bí tích cao trọng nhất trong 7 Bí tích.  Cao trọng bởi vì qua Bí tích này, Đức Giêsu hiến dâng thân mình làm của  ăn của uống để nuôi sống nhân loại và ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.  Ngài yêu thương và yêu hết mình.  Yêu đến nỗi bằng lòng chịu chết để miễn sao người mình yêu được hạnh phúc.
Thật vậy, Ngài đã trao ban chính Thân Mình làm bảo vật, để mỗi khi các Tông đồ cũng như những người tin, cử hành và tưởng nhớ, thì Ngài hiện diện cách trực tiếp nơi mầu nhiệm cử hành.  Khi đó, Đức Giêsu trở nên đồng hình đồng dạng với người đón nhận, để từ đây, trong ta có Chúa và trong Chúa có ta.  Ôi, còn gì cao quý và hạnh phúc cho bằng ta được thông phần vào bản tính Thiên Chúa với Đấng là Thiên Chúa nhưng lại chia sẻ thân phận con người với chúng ta!
Lời cầu nguyện của Đức Giêsu với Chúa Cha làm toát lên đặc tính kỳ diệu này:“ … như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta.  Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17,21).  Giáo Hội tiếp diễn ý nghĩa hiệp thông với mọi thành phần khi đã liên kết với Đức Giêsu, qua Kinh Tiền Tụng Thánh Thể: “Chúng con nài xin Chúa cho chúng con khi thông phần Mình và Máu Đức Kitô, được quy tụ nên một nhờ Chúa Thánh Thần.”
Qua Bí tích này, mỗi người được hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa thông qua bản thể Đức Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, đồng thời cũng được liên kết chặt chẽ với nhau trong cùng một thân thể.
  1. Một dấu tích sống động được tiếp diễn
Sau khi Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể, ngài đã thiết lập Bí tích Truyền Chức liền sau đó như một sự liên hệ, liền mạch và mật thiết với nhau.  Đúng thế, không thể có Thánh Thể nếu không có người cử hành Thánh Thể.  Vì thế, Đức Giêsu đã trao ban thừa tác vụ đặc biệt cho các Tông đồ, để sau này, các ông sẽ đảm trách những việc làm như Đức Giêsu vừa làm cho đến ngày tận thế.
Thoạt mới nghe, chúng ta dễ tưởng lầm là Bí tích này chỉ có liên hệ hay dành riêng cho các linh mục?  Nhưng không!  Bí tích này liên hệ chặt chẽ với cộng đoàn, bởi vì Bí tích này thuộc về nhóm Bí tích xây dựng cộng đoàn.
Thật thế, chức vụ linh mục không phải cho bản thân mình, vì các ngài không thể tha tội cho mình, các ngài cũng không thể ban phát các Bí tích cho mình.  Vì thế, linh mục là của mọi người, cho mọi người và vì mọi người.
Nếu Đức Giêsu trước kia đã đến để cho con chiên được sống dồi dào, thì ngày nay các linh mục cũng được trao ban trách vụ như thế.  Ôi huyền nhiệm và cao quý vô lường!  Qua Bí tích Truyền Chức, Đức Giêsu hiện diện cách trực tiếp khi các linh mục cử hành phụng vụ trong vai trò đại diện cho Đức Giêsu là Đầu của thân thể.  Và, như thế, mỗi người chúng ta luôn được các ngài chăm sóc, nên không bị rơi vào tình cảnh bơ vơ, mồ côi vì không người chăn dắt.  Các ngài sẽ thay mặt Chúa, thi hành việc của Chúa trong vai trò lãnh đạo, phục vụ và thánh hóa vì tình yêu.
  1. Một lời trăng trối tâm huyết muôn đời nhớ mãi
Cũng chiều hôm nay, mỗi chúng ta quây quần nơi đây, để nghe đọc lại di ngôn và lệnh truyền của Đức Giêsu về tình yêu.  Lệnh truyền này mang tính khẩn trọng, người môn đệ phải có thái độ mau mắn thi hành.  Vì thế, đòi hỏi một sự bất khả từ, bởi lẽ đây là điểm sáng, là cốt lõi, là bản chất thiết yếu của người mang danh Đức Kitô trong mình.
 hật vậy, Đức Giêsu không chỉ trao ban chính Thân Mình để nuôi sống nhân loại, mà Ngài còn dạy cho các Tông đồ bài học về tình yêu, để đưa các ông vào qũy đạo của chính Ngài là “yêu và yêu đến cùng.”
Ngài nói: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34).  Yêu như Thầy là yêu như thế nào?  Thưa yêu như Thầy chính là trở thành người tôi tớ phục vụ, là chấp nhận chết cho người khác được sống.  Không những dạy các ông bằng lời, mà Ngài còn làm gương cho các ông noi theo.  Vì thế, ngay lập tức, Ngài đứng lên, cởi áo choàng, thắt lưng, lấy nước rửa chân cho từng Tông đồ trước sự ngỡ ngàng của các ông.  Ngỡ ngàng là phải, vì hành vi rửa chân là việc làm của người nô lệ dành cho ông chủ.  Nhưng hôm nay, Đức Giêsu đã làm đảo lộn vai trò và vị trí khi tự làm những việc dành cho người hầu hạ, và các Tông đồ trở nên những ông chủ.
Sau khi đã rửa chân cho các ông, Đức Giêsu nói tiếp: “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.  Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13, 14-15).  Qua hành động rửa chân cho các Tông đồ, Đức Giêsu để lại cho các ông bài học về đức khiêm nhường và phục vụ.  Tuy nhiên, để thực hiện được hai nhân đức này thì cần phải có tình yêu làm động lự
Tình yêu thương được hiện lên như một ngọn hải đăng giữa biển khơi tăm tối, giúp cho mọi người nhận ra đường để đi và đi đến nơi an toàn.  Vì thế Đức Giêsu đã dạy cho các ông biết trước viễn cảnh trong tương lai khi nói: “… mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35).
  1. Sống linh đạo Thánh Thể và thực hiện lời trăng trối của Đức Giêsu
Thánh Phaolô nói: “Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết”  (1 Cr 11, 26).
Là người kitô hữu, chúng ta tin Chúa, yêu Chúa và đều mong muốn được ơn cứu độ, thì không có lẽ gì chúng ta không sống linh đạo Bí tích này.
Nếu muôn ngàn hạt lúa kết thành tấm bánh, bao trái nho ép thành chén rượu, tượng trưng cho sự hiệp nhất của con cái Chúa, thì mỗi người chúng ta cũng phải hiệp nhất với nhau như vậy.
Muốn được như thế, tinh thần sống mầu nhiệm tự hủy của hạt lúa, trái nho luôn mời gọi và thôi thúc chúng ta thi hành.
Trong đời sống gia đình, người chồng phải là người chồng mẫu mực, sẵn sàng hy sinh gánh vác vì tình yêu với vợ và các con.  Người vợ hãy hết lòng lo cho con cái, chăm lo cho chồng và con tử tế.  Con cái biết ngoan ngoãn nghe lời cha mẹ…  Làm được như thế, ấy là chúng ta đang thực hiện di ngôn của Đức Giêsu trong tinh thần hy sinh và phục vụ.
Nếu không yêu thương nhau, thì chẳng khác chi hạt lúa mì trơ trọi một mình, không sinh hoa trái.  Nhưng yêu thương những người lân cận với mình thôi thì chưa đủ, mà phải yêu thương hết mọi người như Đức Giêsu đã yêu.  Ngài đã không loại trừ Giuđa là kẻ rồi đây sẽ bán mình; không bỏ lại Phêrô là người sẽ thề sống thề chết không biết mình; không lên án và trách móc những người hại mình, mà: “Lạy Chúa, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34)
Mong sao sứ điệp Lời Chúa hôm nay luôn ở bên tai, qua hành động và trong trái tim của chúng ta, để chúng ta yêu và yêu không giới hạn như Đức Giêsu. 
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin tạ ơn Chúa đã để lại cho chúng con Bí tích kỳ diệu là chính Thánh Thể Chúa làm của ăn của uống cho mỗi chúng con.  Xin cho chúng con biết yêu mến, tin tưởng và mau mắn loan truyền cho tới khi Chúa đến trong vinh quang.  Xin cũng cho mọi suy nghĩ và hành động của chúng con được tình yêu làm căn cốt và thúc đẩy, để như Chúa, chúng con yêu rồi mới làm.  Amen!
Jos. Vinc. Ngọc Biển




 

Ngọc Nga

unread,
Apr 16, 2025, 9:40:58 AMApr 16
to teresa...@googlegroups.com
    
           CUỘC GIẢI THOÁT VĨ ĐẠI
          (Suy niệm Chúa nhật Phục sinh)
Sau 430 năm dân Đo-thái làm nô lệ bên Ai-cập, Thiên Chúa sai Mô-sê giải thoát dân Ngài khỏi cảnh nô lệ lầm than để tiến về Đất Hứa.
Thế là dân Do-thái hàng hàng lớp lớp kéo nhau lên đường cùng với trâu bò, lừa ngựa, dê cừu của họ. Ngày ra đi vui như tết. Già trẻ lớn bé đều nô nức hân hoan.
Sau khi dân Do-thái vừa lên đường, vua quan và người dân Ai-cập lấy làm hối tiếc vì giờ đây, lấy ai làm nô lệ hầu hạ phục dịch trong đủ mọi công việc hằng ngày?
Thế là vua Pha-ra-ô truyền lệnh cho quan quân đem chiến xa, kỵ binh với đầy đủ cung tên gươm giáo rượt theo, quyết bắt dân Do-thái quay về cho kỳ được.
Bấy giờ dân Do-thái đã tiến đến bên bờ biển đỏ và thấy mình đang lâm vào ngõ cụt. Trước mặt là biển sâu sóng dồn cuồn cuộn như đe dọa chôn vùi bất cứ kẻ nào dám mạo hiểm đi qua. Sau lưng là đoàn chiến binh kiêu hùng đầy sát khí của vua Pha-ra-ô đang dồn tới, tung bụi mịt mù. Trong cơn gian nguy, ông Mô-sê giang tay khẩn cầu Thiên Chúa và Thiên Chúa đã ra tay can thiệp cách dũng mãnh để giải thoát dân Ngài. Ngài truyền cho Mô-sê giơ gậy trên biển, tức thì một trận cuồng phong nổi lên dữ dội dồn nước dựng đứng lên như hai bức tường sừng sững để cho dân Do-thái vượt qua con đường khô ráo giữa hai bức tường đó.
Và khi dân Ít-ra-en vừa thoát qua bờ bên kia thì quân Ai-cập cũng vừa chạy đến giữa lòng biển. Bấy giờ Mô-sê lại giơ gậy lên và nước nhập lại, chôn vùi ngựa xe và vô vàn binh lính Ai-cập dưới biển nước hung tàn.
Thế là dân Do-thái thoát nạn còn quân thù thì phải điêu linh. Mọi người cất tiếng ca vang mừng ngày giải thoát và ca tụng quyền năng Thiên Chúa, Đấng giải thoát họ. Cuộc vượt qua nầy kỳ diệu biết bao!
***
Thế nhưng, công cuộc giải thoát đó xem ra không là gì so với một cuộc giải thoát khác ngàn lần vĩ đại hơn. Đó là cuộc giải thoát tất cả loài người khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và khỏi án chết đời đời được thực hiện bởi Mô-sê mới là Chúa Giê-su Ki-tô.
So với cảnh nô lệ của người Do-thái ngày xưa bên Ai-cập, thì cảnh nô lệ cho tội lỗi của con người hôm nay còn tồi tệ ngàn lần hơn. Tội lỗi đã đặt ách thống trị của nó lên tất cả mọi người, biến loài người trở thành những tên nô lệ khốn cùng, nô lệ cho lòng tham, nô lệ cho dục vọng đê hèn, cho lòng hận thù ghen ghét…
Đã thế, tội lỗi còn xô đẩy loài người đến cái chết đời đời, vào cõi trầm luân không lối thoát!
Thế nên, vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã kiên quyết giải thoát mọi người khỏi ách nô lệ oan nghiệt nầy. Ngài cho Con Ngài là Chúa Giê-su xuống thế gánh lấy hết tội lỗi thế gian và nộp mình chết thay cho thế gian. Ngài chết để tiêu diệt quyền lực của sự chết, bẻ gãy móng vuốt Sa-tan. Rồi ngày thứ ba, Ngài sống lại vinh hiển để mang lại cho mọi muôn người sự sống mới. Sự sống nầy còn tuyệt vời, còn rạng ngời hơn sự sống trước khi nguyên tổ loài người phạm tội.
Thế là từ đây, Chúa Giê-su khai sinh một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên của sự sống đời đời. Loài người không còn phải bị tiêu diệt bởi lưỡi hái tử thần nhưng đã được cứu sống bởi quyền lực của Chúa phục sinh. Sự sống đã được khai thông. Cái chết đã bị đẩy lùi. Cái chết không còn là dấu chấm hết của cuộc đời nhưng là khúc dạo đầu cho bản giao hưởng trường sinh. Sự phục sinh của Chúa Giê-su đã xoá đi đêm dài tăm tối của kiếp sống đau thương để làm bừng lên bình minh của cuộc đời vĩnh cửu.
Lạy Đức Giê-su Ki-tô, muôn muôn lời ca tụng và tung hô Chúa là Đấng giải thoát và cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con từ đây biết sống như một con người đã được giải thoát chứ không như người nô lệ của thời đã qua. Alleluia!
Linh mục Inha-xi-ô Trần Ngà







 

Ngọc Nga

unread,
Apr 17, 2025, 8:03:02 AMApr 17
to teresa...@googlegroups.com

BA NỖI ĐAU KHỔ
 
Chủ đề: “Chúa Giêsu đã chịu đau khổ trong ba phương cách như chúng ta chịu về tinh thần, thể xác và tâm linh”
 
Trong thời thế chiến II, linh mục Titus Brandsma làm viện trưởng một đại học tại Hòa Lan.  Người bị Đức Quốc Xã đem về trại tập trung ở Dachau.  Nơi đây, người bị biệt giam trong một chiếc cũi nhốt chó cũ kỹ.  Bọn lính gác mua vui bằng cách bắt người phải sủa lên như chó mỗi lần chúng đi ngang qua.  Cuối cùng người bị chết vì bị tra tấn.  Bọn lính kia đâu có ngờ rằng ngay giữa cơn thử thách, vị linh mục ấy vẫn tiếp tục viết nhật ký giữa những dòng chữ in trong quyển sách kinh cũ của người.  Người kể lại rằng, sở dĩ người có thể chịu đựng được nỗi đau đớn là vì người biết rằng Chúa Giêsu cũng đã từng chịu đau khổ như thế.  Trong một bài thơ ngỏ gởi Chúa Giêsu, người viết: “Sẽ không có đau đớn nào làm con gục ngã, bởi con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy khổ đau của Chúa.  Con đường cô độc mà Chúa từng đi qua đã giúp con chịu đựng nỗi cay đắng một cách khôn ngoan.  Tình yêu của Chúa đã biến màn đêm tăm tối trong con thành nguồn sáng rực rỡ.  Lạy Chúa Giêsu, xin ở lại với con, chỉ cần ở lại thôi.  Con sẽ chẳng còn sợ hãi chi nếu khi đưa đôi tay ra con cảm thấy Chúa đang ở bên con.” (Kilian Healy, Walking with God).
 
Sự thống khổ của Chúa Giêsu được chúng ta đặc biệt nhắc lại trong ngày hôm nay đã từng là nguồn sức mạnh cho rất nhiều người trong lịch sử.  Giống như linh mục Brandsma, những người này sẽ không bao giờ chịu đựng nổi sự đau đớn nếu họ không biết rằng Chúa Giêsu đã từng chịu đau khổ như vậy, và Người hiện đang nâng đỡ họ trong giây phút thử thách.
Khi nhìn lại sự thống khổ của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Người đã chịu đau khổ dưới cả ba hình thức khác nhau.
Trước hết là đau khổ tinh thần.  Chúa Giêsu chịu đau khổ này trong vườn Cây Dầu, Người đổ mồ hôi máu khi nghĩ đến thử thách trước mặt, đồng thời Người rất đau khổ khi các môn đệ phản bội và bỏ Người chạy trốn hết.  Tất cả chúng ta đều cảm nghiệm sự đau khổ tinh thần này, tỉ như một cậu bé 15 tuổi bỏ nhà ra đi đã mô tả sự đau khổ tinh thần của mình trong cuộc phỏng vấn của tạp chí Parade như sau: “Tôi không bao giờ thực sự có được một mái nhà, tôi không bao giờ được thực sự nhìn thấy người cha của tôi.  Tôi luôn cô độc... Tôi cảm thấy có gì sái quấy nơi tôi.  Chắc là tôi tệ lắm.  Tôi cảm thấy mình không hiện hữu, vì chẳng có ai yêu mến tôi.”  Trong lúc đau khổ tinh thần như thế, chúng ta chỉ còn một nguồn an ủi duy nhất, đó là biết rằng chính Chúa Giêsu từng bị đau khổ như thế trước chúng ta, và Người hiện đang nâng đỡ chúng ta trong khi bị thử thách.
Tiếp đến, Chúa Giêsu từng bị đau khổ nơi thể xác.  Người bị đánh đập tàn bạo, bị đội mão gai và bị đóng đinh vào thập giá.  Và chúng ta, ít nhiều cũng đã từng chịu những đau đớn phần xác.  Đây là loại đau đớn mà bác sĩ Sheila Cassidy đã phải gánh chịu khi ở Chile vào đầu thập niên 1970.  Cô là một bác sĩ y khoa và đã phạm một lỗi lầm tai hại là đã chữa lành vết thương cho một phần tử chống đối chính phủ.  Cảnh sát đã bắt cô và tra tấn buộc cô phải khai tên những người dính líu đến phong trào chống đối.
Giống như Chúa Giêsu bị treo trên thập giá, cô cũng bị căng thây trong bốn ngày.  Nhớ về sự thử thách ấy cô viết:
Tôi cảm nghiệm được một cách mơ hồ về sự đau đớn mà Chúa Giêsu từng chịu.  Trong suốt cơn thử thách, tôi luôn luôn cảm thấy Người ở đó, và tôi nài xin Người giúp tôi được kiên vững.
Cũng thế, trong giờ phút chịu đau đớn thể xác, chúng ta thường chỉ còn nguồn an ủi là biết rằng Chúa Giêsu đã từng chịu đau đớn như thế, và Người hiện đang nâng đỡ chúng ta trong cơn thử thách này
Và cuối cùng, chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu cũng từng chịu đau đớn về tâm linh.  Tỉ như, khi Người bị treo bơ vơ trên thập giá, dường như chính Chúa Cha cũng đã ruồng bỏ Người.  Chúa Giêsu cầu xin: “Lạy Chúa con, lạy Chúa con, sao Ngài lại bỏ rơi con” (TV 22:1).  Tất cả chúng ta cũng từng gặp đau khổ tâm linh giống như Người.  Nhiều lần, chúng ta cảm thấy như bị Chúa bỏ rơi.  Đây là sự đau đớn mà Walter Ciszel, vị linh mục người Hoa Kỳ đã từng chịu khi bị cầm tù ở Nga suốt 23 năm.  Có lúc, tâm linh người bị suy sụp đến mức gần như tuyệt vọng.  Nhưng thay vì đầu hàng, người lại biết noi gương Chúa Giêsu trên thập giá, hướng về Thiên Chúa Cha trong cơn thử thách.  Cha Walter Ciszel viết:
Tôi thưa với Chúa rằng, ‘hiện giờ mọi khả năng của tôi đều cạn kiệt và chỉ còn Ngài là nguồn hy vọng duy nhất của con’...  Tôi chỉ có thể mô tả lại cảm nghiệm này giống như một sự ‘phó mặc’”.
Vào lúc bấy giờ, lần đầu tiên, cha Ciszel hiểu được những lời cuối cùng trên thập giá của Chúa Giêsu: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc. 23:46).  Về sau, cha Ciszel nói rằng chính quyết định phó thác ấy đã giúp người kiên định và sống sót.
Như thế, Chúa Giêsu đã từng chịu cả ba sự đau đớn mà con người có thể gặp phải.  Người đau đớn tinh thần vì bị các môn đệ phản bội.  Người đau đớn thể xác vì bị tra tấn, và sau cùng Người đau đớn tâm linh khi cảm thấy bị Chúa Cha bỏ rơi.  Đây chính là sứ điệp mà Chúa Giêsu trao lại cho chúng ta, để khi gặp bất cứ đau khổ nào, chúng ta cũng biết hướng về Chúa Giêsu.  Người hiểu được sự đau khổ của chúng ta và sẵn sàng nâng đỡ chúng ta.  Từ đó, chúng ta hãy trở lại câu chuyện mở đầu nói về Cha Brandsma.  Khi gặp đau đớn dưới bất cứ hình thức nào, không có gì tốt hơn là chúng ta hãy lập lại những lời mà Cha Brandsma đã cầu nguyện với Chúa Giêsu: “Sẽ không có đau đớn nào làm con gục ngã, bởi con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy khổ đau của Chúa.  Con đường cô độc mà Chúa từng đi qua đã giúp con chịu đựng nỗi cay đắng một cách khôn ngoan . Tình yêu của Chúa đã biến màn đêm tăm tối trong con thành nguồn sáng rực rỡ.  Lạy Chúa Giêsu, xin ở lại với con, chỉ cần ở lại thôi.  Con sẽ chẳng còn sợ hãi chi nếu khi đưa đôi tay ra con cảm thấy Chúa đang ở bên con.”
Lm. Mark Link, S.J.







 

Ngọc Nga

unread,
Apr 17, 2025, 10:00:52 AMApr 17
to teresa...@googlegroups.com

ĐỈNH CAO CỦA MẦU NHIỆM CỨU ĐỘ LÀ TÌNH YÊU
Trong cuộc sống, nơi các gia đình, nhất là văn phong của Việt Nam, chúng ta rất coi trọng bữa ăn.  Nơi bữa ăn, niềm vui, nỗi buồn, thành công hay thất bại, thường hay được giải quyết.  Có những bữa ăn để chia tay; có những bữa ăn để lên đường.  Chia tay hoặc lên đường thường hay để lại nhiều kỷ niệm nơi người đi và kẻ ở!
Hôm nay, Đức Giêsu quy tụ các Tông đồ là những người thân tín với Ngài trong suốt chặng đường rong ruổi loan báo Tin Mừng.  Ngài quy tụ họ, để trao lại cho họ một tặng phẩm thần linh là Bí tích Thánh Thể và truyền cho các ông hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Ngài.  Qua đó, như một sự hiện hữu sau khi chết, để khi còn sống, Đức Giêsu ở cùng với các ông thế nào, thì ít ngày nữa thôi, Ngài cũng hiện diện và ở lại với các ông cách vô hình nhưng trọn vẹn nơi Bí tích cao trọng là chính Thánh Thể Ngài.  Mặt khác, qua bữa tiệc này, phần cuối cùng của bữa tiệc, Đức Giêsu hành động và  trăng trối những lời tâm huyết để xây dựng cộng đoàn Giáo Hội đó là: “Luật yêu thương.”
 
  1. Một tặng phẩm cao quý được trao tặng
 
Nếu trong cuộc sống, hai người yêu nhau, họ thường có những lời lẽ chân tình, ấm áp để thể hiện tình yêu của mình cho người mình yêu.  Khi đi xa, người ta hay trao tặng cho nhau những kỷ vật trân quý, để dù xa mặt chứ lòng thì không.  Qua món quà đó, với người đón nhận thì tặng vật đó không chỉ đơn thuần là một kỷ niệm, nhưng nó còn là sự hiện hữu của chính người tặng quà.
Cũng vậy, khi Đức Giêsu biết “giờ” của mình sắp trở về với Thiên Chúa Cha, nên Ngài đã yêu thương họ đến cùng khi trao ban chính thân mình làm của nuôi sống môn sinh.
Chiều hôm nay, chúng ta kỷ niệm việc Đức Giêsu lập Bí tích Thánh Thể.  Đây là Bí tích cao trọng nhất trong 7 Bí tích.  Cao trọng bởi vì qua Bí tích này, Đức Giêsu hiến dâng thân mình làm của  ăn của uống để nuôi sống nhân loại và ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.  Ngài yêu thương và yêu hết mình.  Yêu đến nỗi bằng lòng chịu chết để miễn sao người mình yêu được hạnh phúc.
Thật vậy, Ngài đã trao ban chính Thân Mình làm bảo vật, để mỗi khi các Tông đồ cũng như những người tin, cử hành và tưởng nhớ, thì Ngài hiện diện cách trực tiếp nơi mầu nhiệm cử hành.  Khi đó, Đức Giêsu trở nên đồng hình đồng dạng với người đón nhận, để từ đây, trong ta có Chúa và trong Chúa có ta.  Ôi, còn gì cao quý và hạnh phúc cho bằng ta được thông phần vào bản tính Thiên Chúa với Đấng là Thiên Chúa nhưng lại chia sẻ thân phận con người với chúng ta! 
Lời cầu nguyện của Đức Giêsu với Chúa Cha làm toát lên đặc tính kỳ diệu này:“ … như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta.  Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17,21).  Giáo Hội tiếp diễn ý nghĩa hiệp thông với mọi thành phần khi đã liên kết với Đức Giêsu, qua Kinh Tiền Tụng Thánh Thể: “Chúng con nài xin Chúa cho chúng con khi thông phần Mình và Máu Đức Kitô, được quy tụ nên một nhờ Chúa Thánh Thần.”
Qua Bí tích này, mỗi người được hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa thông qua bản thể Đức Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, đồng thời cũng được liên kết chặt chẽ với nhau trong cùng một thân thể.
  1. Một dấu tích sống động được tiếp diễn
Sau khi Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể, ngài đã thiết lập Bí tích Truyền Chức liền sau đó như một sự liên hệ, liền mạch và mật thiết với nhau.  Đúng thế, không thể có Thánh Thể nếu không có người cử hành Thánh Thể.  Vì thế, Đức Giêsu đã trao ban thừa tác vụ đặc biệt cho các Tông đồ, để sau này, các ông sẽ đảm trách những việc làm như Đức Giêsu vừa làm cho đến ngày tận thế.
Thoạt mới nghe, chúng ta dễ tưởng lầm là Bí tích này chỉ có liên hệ hay dành riêng cho các linh mục?  Nhưng không!  Bí tích này liên hệ chặt chẽ với cộng đoàn, bởi vì Bí tích này thuộc về nhóm Bí tích xây dựng cộng đoàn.
Thật thế, chức vụ linh mục không phải cho bản thân mình, vì các ngài không thể tha tội cho mình, các ngài cũng không thể ban phát các Bí tích cho mình.  Vì thế, linh mục là của mọi người, cho mọi người và vì mọi người.
Nếu Đức Giêsu trước kia đã đến để cho con chiên được sống dồi dào, thì ngày nay các linh mục cũng được trao ban trách vụ như thế.  Ôi huyền nhiệm và cao quý vô lường!  Qua Bí tích Truyền Chức, Đức Giêsu hiện diện cách trực tiếp khi các linh mục cử hành phụng vụ trong vai trò đại diện cho Đức Giêsu là Đầu của thân thể.  Và, như thế, mỗi người chúng ta luôn được các ngài chăm sóc, nên không bị rơi vào tình cảnh bơ vơ, mồ côi vì không người chăn dắt.  Các ngài sẽ thay mặt Chúa, thi hành việc của Chúa trong vai trò lãnh đạo, phục vụ và thánh hóa vì tình yêu.
  1. Một lời trăng trối tâm huyết muôn đời nhớ mãi
Cũng chiều hôm nay, mỗi chúng ta quây quần nơi đây, để nghe đọc lại di ngôn và lệnh truyền của Đức Giêsu về tình yêu.  Lệnh truyền này mang tính khẩn trọng, người môn đệ phải có thái độ mau mắn thi hành.  Vì thế, đòi hỏi một sự bất khả từ, bởi lẽ đây là điểm sáng, là cốt lõi, là bản chất thiết yếu của người mang danh Đức Kitô trong mình.
Thật vậy, Đức Giêsu không chỉ trao ban chính Thân Mình để nuôi sống nhân loại, mà Ngài còn dạy cho các Tông đồ bài học về tình yêu, để đưa các ông vào qũy đạo của chính Ngài là “yêu và yêu đến cùng.”
Ngài nói: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34).  Yêu như Thầy là yêu như thế nào?  Thưa yêu như Thầy chính là trở thành người tôi tớ phục vụ, là chấp nhận chết cho người khác được sống.  Không những dạy các ông bằng lời, mà Ngài còn làm gương cho các ông noi theo.  Vì thế, ngay lập tức, Ngài đứng lên, cởi áo choàng, thắt lưng, lấy nước rửa chân cho từng Tông đồ trước sự ngỡ ngàng của các ông.  Ngỡ ngàng là phải, vì hành vi rửa chân là việc làm của người nô lệ dành cho ông chủ.  Nhưng hôm nay, Đức Giêsu đã làm đảo lộn vai trò và vị trí khi tự làm những việc dành cho người hầu hạ, và các Tông đồ trở nên những ông chủ.
Sau khi đã rửa chân cho các ông, Đức Giêsu nói tiếp: “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.  Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13, 14-15).  Qua hành động rửa chân cho các Tông đồ, Đức Giêsu để lại cho các ông bài học về đức khiêm nhường và phục vụ.  Tuy nhiên, để thực hiện được hai nhân đức này thì cần phải có tình yêu làm động lực.
Tình yêu thương được hiện lên như một ngọn hải đăng giữa biển khơi tăm tối, giúp cho mọi người nhận ra đường để đi và đi đến nơi an toàn.  Vì thế Đức Giêsu đã dạy cho các ông biết trước viễn cảnh trong tương lai khi nói: “… mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35).
  1. Sống linh đạo Thánh Thể và thực hiện lời trăng trối của Đức Giêsu
Thánh Phaolô nói: “Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết”  (1 Cr 11, 26).
Là người kitô hữu, chúng ta tin Chúa, yêu Chúa và đều mong muốn được ơn cứu độ, thì không có lẽ gì chúng ta không sống linh đạo Bí tích này.
Nếu muôn ngàn hạt lúa kết thành tấm bánh, bao trái nho ép thành chén rượu, tượng trưng cho sự hiệp nhất của con cái Chúa, thì mỗi người chúng ta cũng phải hiệp nhất với nhau như vậy.
Muốn được như thế, tinh thần sống mầu nhiệm tự hủy của hạt lúa, trái nho luôn mời gọi và thôi thúc chúng ta thi hàn
Trong đời sống gia đình, người chồng phải là người chồng mẫu mực, sẵn sàng hy sinh gánh vác vì tình yêu với vợ và các con.  Người vợ hãy hết lòng lo cho con cái, chăm lo cho chồng và con tử tế.  Con cái biết ngoan ngoãn nghe lời cha mẹ…  Làm được như thế, ấy là chúng ta đang thực hiện di ngôn của Đức Giêsu trong tinh thần hy sinh và phục vụ.
Nếu không yêu thương nhau, thì chẳng khác chi hạt lúa mì trơ trọi một mình, không sinh hoa trái.  Nhưng yêu thương những người lân cận với mình thôi thì chưa đủ, mà phải yêu thương hết mọi người như Đức Giêsu đã yêu.  Ngài đã không loại trừ Giuđa là kẻ rồi đây sẽ bán mình; không bỏ lại Phêrô là người sẽ thề sống thề chết không biết mình; không lên án và trách móc những người hại mình, mà: “Lạy Chúa, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34)
Mong sao sứ điệp Lời Chúa hôm nay luôn ở bên tai, qua hành động và trong trái tim của chúng ta, để chúng ta yêu và yêu không giới hạn như Đức Giêsu. 
Lạy CGiêsu, chúng con xin tạ ơn Chúa đã để lại cho chúng con Bí tích kỳ diệu là chính Thánh Thể Chúa làm của ăn của uống cho mỗi chúng con.  Xin cho chúng con biết yêu mến, tin tưởng và mau mắn loan truyền cho tới khi Chúa đến trong vinh quang.  Xin cũng cho mọi suy nghĩ và hành động của chúng con được tình yêu làm căn cốt và thúc đẩy, để như Chúa, chúng con yêu rồi mới làm.  Amen!
Jos. Vinc. Ngọc Biển









 

Ngọc Nga

unread,
Apr 17, 2025, 10:27:02 AMApr 17
to teresa...@googlegroups.com
Có thể là hình ảnh về văn bản cho biết 'TỐI THỨ NĂM TUẦN THÁNH Sau Thánh ai hát kinh Tantum Ergo (đây Nhiêm Tích Vô Cùng Cao Quý) Hoặc CHẦU MÌNH NGÀY THỨ BÁY TUẦN THÁNH Trong Đêm Vọng Phực Sinh, đủ 30 phút thì được hưởng nhờ ƠN Rửa Tội băng Tín Biếu các Tông Đo, Kinh Tin Kính Nicea Constantinople hưởng ΟνΒΑΙΧA. NGÀY THỨ SÁU TUẦN THÁNH Ai tham dự nghi lễ Thờ lay và hôn kính THÁNH thì được hưởng Các ngày kháe trong Tuần Thánh và các ngày kháe quanh năm, ai thidgchươngnho ONDAIXÁ. mỗi ngày dược hưởng nhận Hlần thể nhường các hồn.'

CÁC ƠN ĐẠI XÁ TRONG TUẦN THÁNH
1–Tối Thứ Năm Tuần Thánh, sau Thánh Lễ Tiệc Ly, ai hát kinh Tantum Ergo (đây Nhiệm Tích Vô Cùng Cao Quý ) hoặc Chầu Mình Thánh Chúa đủ 30 phút thì được hưởng nhờ ơn Đại Xá.
2– Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ai tham dự nghi lễ Thờ lạy và hôn kính Thánh Giá thì được hưởng nhờ ơn Đại Xá
3– Ngày Thứ Bảy Tuần Thánh, trong Đêm Vọng Phục Sinh, ai tuyên lại lời hứa khi Rửa Tội hoặc có thể thay bằng Kinh Tin Kính thì được hưởng nhờ ơn Đại Xá
4– Các ngày khác trong Tuần Thánh và các ngày khác quanh năm, ai viếng đủ 14 chặng Đàng Thánh Giá thì được hưởng nhờ ơn Đại Xá.
Các ơn Đại Xá mỗi ngày được hưởng nhận 1 lần và có thể nhường cho các linh hồn.
Để lãnh nhận ơn Đại Xá cần giục lòng ăn năn, chê ghét, dốc lòng chừa mọi tội trọng, tội nhẹ đã phạm, dứt lòng quyến luyến tội lỗi và theo các điều kiện hưởng ơn Đại Xả thông thường:
- Xưng Tội.
- Rước Lễ trong chính ngày hưởng ơn Đại xá.
-Cầu theo ý Đức Giáo Hoàng: có thể cầu theo ý chỉ hoặc đọc thay bằng 1 Kinh Lạy Cha để hiệp ý cùng Đức Giáo Hoàng.
Xin Anh Chị Em loan báo rộng rãi điều này để Danh Chúa cả sáng và sinh ơn ích cho các linh hồn.










 

Ngọc Nga

unread,
Apr 17, 2025, 10:54:00 PMApr 17
to teresa...@googlegroups.com
psinhc.doc
Bài đọc trong tuần C.doc
CN Phuc Sinh.pps

Ngọc Nga

unread,
Apr 18, 2025, 8:59:39 AMApr 18
to teresa...@googlegroups.com


ÁN OAN

1–Câu chuyện thứ nhất:
Một nhân chứng của một vụ án trả lời phỏng vấn: “Lúc ấy tôi đang đi bộ cách hiện trường khoảng mấy trăm mét. Tôi thấy anh ta nhào tới xô người đó rớt xuống sông, gây ra án mạng. Sau đó anh ta còn làm bộ hô lên để xin mọi người đến cứu. Giả nhân giả nghĩa! Bị bắt là đáng đời!”
2–Câu chuyện thứ hai:
Cô Ba rảnh rỗi ngồi tám chuyện: “Hôm bữa tui thấy ông tu sĩ đó chở một con nhỏ trên xe máy. Con nhỏ trông lòe loẹt lắm. Ổng để nó ôm cứng ngắc. Ổng một tay lái xe một tay nắm chặt tay nó. Nhìn tình tứ lắm. Thật là hết nói!” Lời ấy lan nhanh như rừng thu bị cháy. Vị tu sĩ điêu đứng vì miệng lưỡi của dư luận.
Chúa cũng bị oan nữa.
Ngay từ lúc khởi đầu của lịch sử này, con người qua đại diện là A-đam và Ê-va đã nghi ngờ và tức giận Đấng đã tạo nên. Họ nghe và tin Con Rắn (biểu tượng của Satan) bảo rằng Chúa không muốn họ ăn trái của “cây cho biết điều thiện điều ác” (biểu tượng của tội lỗi) vì Chúa sợ con người sẽ bằng mình. Chúa nhát đảm và ích kỉ!
****
Còn đây là sự thật của những câu chuyện trên:

1–Câu chuyện thứ nhất:
Hôm ấy anh thanh niên đang đi dạo dọc theo dòng sông chảy xiết. Bất chợt anh thấy trước mặt một người đàn ông say rượu đang lảo đảo tiến về phía mép của bờ đá. Nếu tiếp tục bước nữa thì ông ta sẽ rớt xuống sông gặp nguy hiểm. Anh vội vàng chạy thật nhanh về phía người đàn ông để ngăn lại. Không ngờ chạy đến gần thì bất chợt anh bị vấp chân vào một mô đất nhỏ, anh mất thăng bằng và ngã chúi về phía trước, đụng vào người đàn ông nọ khiến ông này bị đẩy xuống dòng sông. Chàng thanh niên không biết bơi, chỉ còn biết đứng đó kêu gào xem có ai cứu không.

2–Câu chuyện thứ hai:
Vị tu sĩ hôm ấy nhận được một cú điện thoại xin được giúp đỡ. Cú điện thoại ấy từ một cô gái là giáo dân trong xứ đạo. Cô gọi để xin thầy chạy qua cứu bạn cô, bạn cô hành nghề mại dâm. Cô bạn này trong lúc chán đời muốn tự tử đã uống rượu mạnh để lấy can đảm uống một liều thuốc độc, bây giờ trong tình trạng bấn loạn, tỉnh không tỉnh mê không mê. Tình thế khẩn cấp, vị tu sĩ bảo cô giáo dân chạy đi báo cho người nhà cô bạn này biết tin còn mình thì chở cô ta vào bệnh viện cấp cứu. Bác sĩ cho biết nếu chỉ trễ khoảng nửa tiếng nữa thì không còn hy vọng. Vị tu sĩ chợt giật mình vì mới đầu ông cũng ngại ngần, lần chần, sợ dư luận sẽ nói này nói nọ vì dư luận vốn hay có tật ‘luận dư’ mà. May quá ông đã kịp thời chọn lựa điều quan trọng hơn.
Câu chuyện Chúa bị oan:

Chúa chính là Đấng có sáng kiến tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, ban sự sống của chính mình cho họ để họ được hạnh phúc cùng Ngài. Một khi đã ban sự sống mình là ban điều quý giá nhất thì dĩ nhiên Chúa không còn tiếc với họ điều gì nữa. Ngài mong muốn họ trở nên tốt đẹp nhất, cao quý nhất, sáng láng nhất, càng giống Ngài thì càng tuyệt. Trong khi đó, con người lại đánh giá thấp Thiên Chúa tình yêu chỉ qua một câu nói của Tên Lừa Đảo. Tham vọng khiến họ đánh mất sự sáng suốt trong tim để rồi bị kẻ thù nguy hiểm đang đóng giả đồng minh lợi dụng. Một câu xúi giục ma mãnh bé tí của hắn, đánh vào ‘quyền lợi cá nhân’, đã có thể khiến họ quên mất một bức tranh tình yêu rộng lớn về Đấng đã tạo dựng nên họ và ban cho họ chính sự sống của mình. Rồi trong dòng lịch sử, chính Chúa đã bỏ tất cả vinh quang của một Thượng Đế, trút cạn chính mình, hạ mình xuống thấp nhất, trở nên không cho con người, tận hiến luôn cả sự sống mình cho họ nơi Đức Giêsu trên khổ giá, chỉ với mong ước con người sẽ trở nên tất cả. Thế mà Ngài đã bị con người nghi ngờ, chống đối. Oan!

Còn hằng hà sa số những “án oan” như thế vẫn xảy ra mỗi ngày trong tư tưởng, lời nói, cử chỉ, hành động. Đâu là nguyên nhân?
Một trong những nguyên nhân chính gây ra các bản “án oan nghiệt” đời thường như thế là: tách sự việc ra khỏi ngữ cảnh lớn hơn của nó. Khi ta lấy một chi tiết nhỏ trong một câu chuyện để giải thích cho toàn bộ câu chuyện thì ta có nguy cơ vướng vào hiểu lầm và gây ra tai hại. Những gì ta nhìn thấy hay nghe được có thể chỉ là một mẩu thông tin nhỏ xíu, một chi tiết không đáng kể trong một câu chuyện lớn hơn nhiều. Tầm nhìn, lỗ tai con người rất giới hạn. Nhiều khi, đàng sau những gì ta thấy ta nghe còn có cả một hoàn cảnh phức tạp. Chưa hiểu thấu hoàn cảnh ấy mà đưa ra đánh giá sẽ dễ dẫn đến oan khiên đáng tiếc, bất công đáng trách, hậu quả đáng buồn.

Gốc rễ của cách ứng xử nhiều sai sót này nằm ở một chữ “thiếu”: thiếu thông tin về bức tranh tổng thể của câu chuyện mà lại chủ quan vội vàng đưa ra nhận định; thiếu bình tĩnh, kiên nhẫn, lắng nghe cho hết mọi khía cạnh; thiếu lạc quan vào bản chất tốt đẹp của con người, trong đó có chính bản thân; thiếu khiêm nhường về sự giới hạn trong kiến thức của mình, nhưng lại cho mình là biết chuyện, rồi tự lấy quyền xét xử người khác; thiếu hiểu biết về bản thân mỗi khi có nỗi sợ trong lòng (lúc ấy người ta hay có khuynh hướng phóng chiếu nỗi sợ ấy ra bên ngoài lên tha nhân để tạo một cảm giác an ổn nào đó cho tâm lí mình, đây là một dạng của “suy bụng ta ra bụng người”); thiếu quân bình trong cái nhìn về con người (dễ dẫn đến tình trạng tập trung vào điều mình không thích nơi người khác thay vì ưu tiên nhìn điểm tốt đẹp nơi họ trước, vạch lá tìm sâu thì hay bị sầu tim); thiếu cái nhìn tích cực của Chúa, bởi khi con mắt tâm hồn tối tăm thì tất yếu sẽ khó nhận ra ánh sáng nơi tha nhân và dễ dàng lên án họ;…
Có một người đã từng gây ra ‘án oan’ khi ông truy lùng bắt bớ những người mang tên là Kitô hữu. Đó là Phao-lô. Lúc ấy ông cũng vội vàng kết luận và kết án họ khi chưa hiểu toàn bộ câu chuyện của họ liên quan đến Đức Giêsu. Phao-lô sau này đã viết: “Xin anh em đừng vội xét xử điều gì trước kỳ hạn, trước ngày Chúa đến. Chính Người sẽ đưa ra ánh sáng những gì ẩn khuất trong bóng tối, và phơi bày những ý định trong thâm tâm con người.” (1Cr 4:5)
Còn Đức Giêsu, Đấng duy nhất có khả năng thấu suốt mọi bí ẩn của tâm hồn, thì dạy rõ ràng: “Anh chị em đừng xét đoán người khác.” (Mt 7:1; Lc 6:37; Ga 7:24)
— Giuse Tuấn Việt, O.Carm





 

Ngọc Nga

unread,
Apr 18, 2025, 9:02:14 AMApr 18
to teresa...@googlegroups.com

CHIỀU THỨ SÁU HÔM ẤY....
Giữa cái nắng chói chan, mồ hôi pha huyết, bị đánh đập dã man, bị khinh cười, chế giễu, bị chối bỏ, chịu nỗi cô đơn, đau đớn tột cùng. Bị bọn lính tàn ác áp giải, từng bước, Chúa Jêsus lê thân lên đồi Gô-tha, và tại đó Ngài chịu đi đóng, chịu hy sinh vì tội lỗi của toàn nhân loại.
Có gì tốt đẹp để kể về một ngày như thế không?
Vậy mà hôm nay, Thứ Sáu ấy lại được nhắc đến với một cái tên vô cùng đẹp đẹp đẽ "Good Friday/Thứ Sáu Tốt Lành". Tốt lành – không phải vì nỗi đau của Chúa Jêsus được phần nào nhẹ nhàng hơn, mà vì sự chết của Chúa Jêsus trên thập tự giá là sự hy sinh tối hậu để chuộc tội cho nhân loại, mở ra một đường cứu rỗi đời đời cho nhân loại lầm than.
Nếu bạn từng xem phim Cuộc đời Chúa Cứu Thế – ghi lại những giờ phút cuối đời của Jêsus với chi tiết đau đớn – bạn có thể tự hỏi: “Sao lại gọi là Thứ Sáu Tốt Lành khi đó là ngày Ngài bị hành hình dã man?” Tôi đã có cùng câu hỏi ấy khi vừa trở thành Cơ Đốc nhân và được khuyên nên xem bộ phim này để hiểu thêm về Lễ Phục Sinh và Thứ Sáu Tốt Lành.
Tại Sao Lại Gọi Là Thứ Sáu "Tốt Lành"?
Thứ Sáu Tốt Lành hay Thứ Sáu Tuần Thánh, Ngày Thương Khó là ngày trọng đại vì đánh dấu một trong những khoảnh khắc quyết định nhất trong lịch sử nhân loại. Vào ngày này, Chúa Jêsus đã sẵn sàng chịu thương khó và chịu đinh đóng chết trên thập tự giá để làm của lễ hy sinh chuộc tội cho chúng ta (I Giăng 4:10).
Nhà thần học D.A. Carson viết:
“Không phải những chiếc đinh đã giữ Chúa Jêsus trên cây thập tự khốn khổ ấy, mà là quyết tâm không lay chuyển của Ngài – bởi tình yêu đối với Cha – để làm theo ý Cha, và vì yêu những tội nhân như tôi”.
Đây là một ngày “tốt lành” vì Chúa Jêsus đã gánh thay mọi tội của bạn và tôi. Ngài chiến thắng tội lỗi và sự chết để chúng ta không còn xa cách Đức Chúa Trời – cả trong đời này lẫn cõi đời đời.
Nếu hỏi những người thân, bạn bè, môn đồ của Chúa Jêsus vào ngày Ngài chịu chết, họ hẳn không cho rằng đó là “ngày tốt lành”. Mọi hy vọng dường như bị dập tắt, sự dữ dường như chiến thắng. Nhưng ba ngày sau, mọi thứ đổi khác – sự chết bị đánh bại, hy vọng được phục hồi, và nhân loại được tìm thấy một con đường duy nhất để đón nhận sự sống đời đời.
Dù tên gọi “Good Friday” (Thứ Sáu Tốt Lành) gây tranh cãi, một số học giả cho rằng nó bắt nguồn từ “God’s Friday” (Thứ Sáu của Đức Chúa Trời). Dù vậy, tên gọi này là thích hợp, vì sự đau khổ và cái chết của Chúa Jêsus đánh dấu đỉnh điểm trong kế hoạch cứu rỗi của Đức Chúa Trời.
Điều Gì Xảy Ra Vào Ngày Thứ Sáu Tốt Lành?
Chúa Jêsus bị phản bội bởi môn đồ Giu-đa, bị bắt tại vườn Ghết-sê-ma-nê, và đưa đến trước thầy tế lễ thượng phẩm Cai-phe – nơi một phiên xử bất hợp pháp diễn ra. Dù không tìm thấy chứng cứ để kết tội, họ vẫn tuyên án tử hình vì Chúa Jêsus tự xưng là Con Đức Chúa Trời.
Không có quyền xử tử, họ đưa Chúa Jêsus đến tổng đốc La Mã – Phi-lát – và cáo buộc Ngài phản loạn. Dù biết Chúa Jêsus vô tội, Phi-lát nhượng bộ đám đông và trao Ngài cho họ đóng đinh.
Chúa Jêsus bị đánh đòn tàn nhẫn, đội mão gai, vác thập tự giá, và bị đóng đinh giữa hai tên cướp. Ngài chịu đau đớn suốt sáu tiếng đồng hồ. Khi Ngài trút linh hồn, bóng tối bao phủ đất, màn trong đền thờ bị xé từ trên xuống, và đất động mạnh.
Vì hôm đó là ngày trước lễ Vượt Qua đặc biệt, thân xác Chúa Jêsus được mai táng trong một ngôi mộ có lính La Mã canh gác. Ba ngày sau, Chúa Jêsus sống lại từ kẻ chết – chiến thắng tử thần!
Suy niệm về 'Thứ Sáu Tốt Lành'
Thứ Sáu Tốt Lành nhắc chúng ta rằng: chúng ta cần một Đấng Cứu Rỗi. Không ai trong chúng ta là hoàn hảo. Luật pháp Đức Chúa Trời đòi hỏi sự thánh khiết – điều chúng ta không thể tự đạt được. Nhưng nhờ Chúa Jêsus, Đấng đã chết thay chúng ta, chúng ta được xưng công bình, được tha thứ, và được hòa thuận với Đức Chúa Trời.
Như Kinh Thánh chép:
“Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết.” (Rô-ma 5:8)
"Chính Đấng Christ cũng đã vì tội lỗi chịu chết một lần đủ cả, là Đấng công chính thay cho kẻ bất chính, để đem chúng ta đến cùng Đức Chúa Trời” (I Phi-e-rơ 3:18)
Lời Cầu Nguyện Cho Ngày Thứ Sáu Tốt Lành
"Lạy Cha ,
Chúng con cảm tạ Ngài vì tình yêu lớn lao mà Ngài đã bày tỏ cho chúng con – bằng cách ban Con Một của Ngài. Chúng con biết ơn vì cuộc đời của Chúa Jêsus, chức vụ của Ngài, và sự hy sinh cao cả của Ngài trên thập tự.
Trong ngày hôm nay, xin giúp chúng con suy ngẫm với lòng kính sợ và biết ơn sâu sắc. Nguyện chúng con không quên giá trả lớn lao mà Ngài đã trả vì tội lỗi của chính chúng con.
Xin cho chúng con bước đi trong sự tha thứ, sống thánh khiết và trung tín bước theo Ngài cho đến cuối cùng. Nhân danh Jêsus Christ. A-men!".
---
Bài: Heather Riggleman; dịch: SD

Ngọc Nga

unread,
Apr 18, 2025, 9:06:28 AMApr 18
to teresa...@googlegroups.com

Có thể là hình ảnh về 1 người


MẸ MARIA DƯỚI CHÂN THẬP GIÁ
           --------------------
Mẹ đứng đó,
Trong chiều sương tàn.
Nhìn con yêu,
Gục đầu tắt thở!
Mẹ...
Nát tan lòng
Quặn thắt con tim.
Mẹ! Mẹ ơi!
Con lặng ngắm Mẹ,
Yêu thương,
Vô vàn.
Lm. Paul Ngô Phi









 

Ngọc Nga

unread,
Apr 19, 2025, 10:14:20 AMApr 19
to teresa...@googlegroups.com
LẶNG THINH VÀ TRẢI NGHIỆM
“Ngài không có ở đây!”
Tại các Giáo Phận, phần lớn các họ đạo truyền thống có thói quen ngắm Mười Lăm Sự Thương Khó Đức Chúa Giêsu vào Mùa Chay.  Riêng Huế, kinh nguyện quý báu này được ngắm vào Tuần Thánh; đặc biệt, sáng thứ Năm, thứ Sáu và thứ Bảy vốn được gọi là Kinh Lễ Đèn, vì có đến 15 ngọn nến hoặc đèn được đốt lên trên cùng một giá.  Cách thức đọc được hướng dẫn đến từng chi tiết; ngắm một chặng, đọc 1 kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng, tắt một ngọn nến.  Tuy nhiên, ở Lễ Đèn 3, tức sáng thứ Bảy, ngọn nến 15 sẽ không được tắt!  Thật thú vị, nó được đem vào phòng thánh một chốc, đang khi cộng đoàn quỳ gối ngắm “Thánh Mẫu Thống Khổ Kinh;” sau đó, nến này được đem ra, đặt trên bàn thờ.  Nó tượng trưng cho Chúa Giêsu!  Ngài đã chết, nhưng thực ra, cái chết của Ngài chỉ như một sự nghỉ ngơi trong mồ.  Vì thế, thứ Bảy Tuần Thánh được coi như ngày - với Maria mẹ mình - Kitô hữu lặng thinh và trải nghiệm đợi ngày Con Chúa phục sinh!
Kính thưa Anh Chị em,
Thứ Bảy Tuần Thánh, Giáo Hội không có một nghi lễ nào, mãi cho đến buổi cử hành cực trọng Đêm Vọng Phục Sinh.  Hôm nay, trầm tư suy gẫm chậm rãi với Mẹ Maria, mỗi tín hữu tìm một ‘nơi vắng vẻ,’ dành cả một ngày để suy ngắm cuộc tử nạn của Chúa Giêsu; và nhất là, cùng Mẹ ‘lặng thinh và trải nghiệm’ các mầu nhiệm!
Phụng vụ của những ngày qua đầy cảm xúc với nhiều nghi lễ; nhưng thứ Bảy Tuần Thánh lại trôi qua lặng lẽ, thanh thản.  Đó là một ngày để tận hưởng tất cả những cảm xúc đan xen giữa trầm buồn lẫn hy vọng!  Đừng để thứ Bảy Tuần Thánh trôi qua như bao ngày khác, hay chỉ là một ngày giữa thứ Sáu Thánh và Chúa Nhật Phục Sinh.  Đó là một ngày mà bạn và tôi cùng Mẹ mình, Mẹ Hội Thánh, tĩnh lặng, chiêm ngắm và tôn thờ.
Chỉ trong sự trầm mặc này, các tông đồ và cả chúng ta mới có thể nhìn thấy mọi sự đã xảy ra phù hợp và trùng khít với nhau thế nào.  Chỉ trong sự im ắng của ngày thứ Bảy lặng yên với Mẹ của Thầy, các môn đệ mới có thể hiểu được những gì Chúa Giêsu đã nói, đã làm.  Cũng thế, với chúng ta!  Nhiều lần, chúng ta nghĩ, chúng ta biết Ngài!  Ngài là ai, dạy chúng ta điều gì, nhưng thực ra, những điều đó chưa đi vào trái tim; bằng chứng là cuộc sống của bạn và tôi chưa biến đổi!  Phải lắng nghe, cẩn thận suy ngẫm những gì Chúa Giêsu đã dạy, đã làm, may ra chúng ta mới hiểu sâu sắc để áp dụng vào cuộc sống mình!
Anh Chị em,
“Ngài không có ở đây!”  Thinh lặng của ngày hôm nay không phải là thinh lặng của thoái chí, tuyệt vọng, nhưng là ‘thinh lặng thánh’, một sự im ắng của niềm mong đợi lớn lao sẵn sàng bùng lên trong niềm vui vỡ oà của Đêm Vọng Phục Sinh.  Chúng ta sẽ ‘đến mộ’ Chúa cùng các thánh nữ, không phải để xức dầu cho một xác chết, nhưng để mừng vui với các thiên thần khi nghe họ tuyên bố, “Ngài không có ở đây.  Ngài đã sống lại!”; “Tại sao các bà lại tìm người sống nơi những kẻ chết?”  Và như thế, nhờ có một ngày cùng Mẹ ‘lặng thinh và trải nghiệm’, chúng ta mới có thể hân hoan nói với Mẹ, “Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, hãy vui mừng, Halleluia!”; và cùng Mẹ, hát khúc khải hoàn, “Chúa Đã Sống Lại, Halleluia!”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Mẹ Maria, dạy con biết chờ đợi Chúa như Mẹ.  Không chỉ hôm nay, nhưng từng ngày; không phải ngủ gà ngủ gật, nhưng hỷ hoan với đèn chói sáng trong tay!” Amen!
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế










 

Ngọc Nga

unread,
Apr 22, 2025, 8:51:20 AMApr 22
to teresa...@googlegroups.com

TÔI ÐÃ XEM THẤY CHÚA PHỤC SINH
Trong thời gian sống tại thành phố Paris, thi sĩ Viler Maria thường có thói quen đi bách bộ vào mỗi buổi chiều.  Dọc theo lối đi của thi sĩ có một bà già ngày ngày ngồi ăn xin.  Bà ta ngồi đó âm thầm câm nín, dáng vẻ trơ trơ không cảm xúc, ngay cả khi nhận quà bố thí bà cũng chẳng biểu lộ một dấu hiệu biết ơn nào.
Ngày kia, thi sĩ đi bách bộ với người bạn gái trẻ, cô ta quá đỗi ngạc nhiên khi thấy thi sĩ đi ngang qua chỗ ngồi của bà già ăn xin mà chẳng cho bà chút gì.  Ðọc được tư tưởng của bạn gái, nhà thơ trả lời: "Quà tặng phải đưa vào tận con tim, chứ không phải chỉ đưa bằng đôi tay."
Qua ngày hôm sau, thi sĩ đến chỗ hẹn với đóa hồng vừa hé nở trên tay.  Dĩ nhiên cô gái nghĩ rằng đóa hồng đó dành riêng cho cô, lòng cô rộn lên với tư tưởng: "Ôi! Thi sĩ quá quan tâm đến mình biết bao."  Nhưng không.  Thi sĩ đã đến trao đóa hồng đó vào đôi tay gầy guộc của bà già ăn xin và rồi sự lạ đã xảy ra là bà già bấy lâu trơ trơ như khúc gỗ giờ đây đã hồi sinh.  Bà vội vàng đứng dậy, bước tới cầm tay thi sĩ và hôn lên đôi tay của thi sĩ.  Rồi với cử chỉ nâng niu, bà ôm chặt lấy đóa hoa hồng vào lòng và thanh thản bước đi.
Suốt một tuần qua đi, bà mới trở lại chỗ ngồi ăn xin hằng ngày cùng với vẻ câm nín và vô hồn như trước kia.  Người bạn gái hỏi thi sĩ xem suốt tuần qua không xin ăn thì bà sống bằng gì.  Thi sĩ trả lời: "Bà sống bằng đóa hoa hồng."
Anh chị em thân mến!
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Gioan cũng thuật lại cho chúng ta câu truyện của một người đàn bà đang u buồn tuyệt vọng, nhưng bỗng nhiên nhận được món quà trao tận con tim, một niềm vui không gì đo lường được, đó là niềm vui của Tin Mừng Phục Sinh.
Ðọc lại đoạn Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy sự tuyệt vọng của Maria Madalena lúc này đến mức nào.  Theo Chúa Giêsu và các môn đệ trên đường rao giảng Tin Mừng, chắc chắn bà đã nghe nói, đã chứng kiến biết bao phép lạ Chúa Giêsu đã làm, từ việc chữa lành bệnh tật cho đến việc làm cho kẻ chết sống lại, từ việc khiến gió biển im lặng cho đến chuyện hóa bánh ra nhiều.
Thế nhưng, tất cả đều sụp đổ khi bà đếm từng vết máu và mồ hôi loang vãi trên đường tử nạn, khi theo dõi từng hơi thở thoi thóp của Chúa Giêsu trên Thập Giá, hay khi xác Ngài được mai táng trong mồ, và hôm nay cả đến thân xác cũng bị đánh cắp mất, chẳng còn gì hy vọng nữa.  Như vậy, tất cả chỉ là tuyệt vọng, nhưng chính trong tận cùng của sự tuyệt vọng ấy, chính trong thử thách mịt mù ấy, bà đã được tặng ban một món quà không phải trên đôi tay, nhưng món quà ấy được trao tặng vào chính con tim của bà.  Ðó là bà được thấy Chúa Kitô Phục Sinh và Ngài đã gọi tên bà một cách thân mật, ngọt ngào.
"Gọi tên" đó là một dấu chỉ thân mật giữa Chúa Giêsu và các môn đệ, giữa những người mục tử tốt lành và đoàn chiên.  Người mục tử tốt lành nhận biết từng con chiên của mình, và Ngài gọi tên từng con chiên một và cho chúng vào hưởng niềm vui no thỏa trong đồng cỏ xanh tươi.  Không chỉ riêng Madalena, nhưng mỗi người Kitô hữu đều được tặng ban món quà này.  Lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy là họ đã được gọi tên, được đổi mới, được nâng lên hàng con cái dấu yêu của Thiên Chúa, được thông phần vào sức sống Phục Sinh trong nhiệm thể Ðức Kitô.
Sư sống Phục Sinh này không phải chỉ là một đóa hồng tạm bợ, chỉ hồi sinh con người trong thời gian ngắn ngủi, nhưng là đóa hồng vĩnh cửu có thể cho con người sống đúng địa vị làm người, làm con Thiên Chúa đến muôn đời.  Con người chỉ trở nên buồn thảm, câm nín là vô hồn khi họ không biết nâng niu, quí chuộng mà bỏ xa sự sống Phục Sinh của Ðức Kitô.
Lạy Chúa, nếu tội lỗi làm cho con vô cảm, u buồn, tuyệt vọng, thì xin cho con được luôn nhớ rằng: Chúa đang đứng bên con và đang gọi tên con.  Con không nhận thấy, không nghe biết vì con không nhiệt tâm yêu mến, tìm kiếm như thánh nữ Maria Madalena.  Biết kiếm tìm trong tinh thần yêu mến chắc chắn con sẽ không thất vọng vì Chúa đang ở bên con, đang đợi chờ con.
Radio Veritas Asia










 

Ngọc Nga

unread,
Apr 23, 2025, 8:20:23 AMApr 23
to teresa...@googlegroups.com
108 HỒNG Y (TRONG SỐ 135 HỒNG Y CỬ TRI) ĐƯỢC ĐỨC PHANXICÔ TẤN PHONG, AI LÀ NHỮNG NGƯỜI SẼ BẦU TÂN GIÁO HOÀNG
Người trẻ nhất là Hồng y Mykola Bychok, người Ukraina, 44 tuổi; người lớn tuổi nhất là nguyên Tổng Giám mục Madrid, Carlos Osoro Sierra, sẽ tròn 80 tuổi vào ngày 16 tháng 5. Có 59 vị đến từ châu Âu (trong đó có 19 người Ý), 37 từ châu Mỹ, 20 từ châu Á, 16 từ châu Phi và 3 từ châu Đại Dương.
________________________________________
Một nghi lễ cổ xưa, nơi lịch sử, đời sống thiêng liêng và địa chính trị giao thoa trong khung cảnh tráng lệ của Nhà nguyện Sistina. Mật nghị Hồng Y để bầu tân Giáo hoàng sẽ diễn ra vào đầu tháng Năm.
Việc ấn định ngày bắt đầu mật nghị thuộc thẩm quyền của các Phiên họp Khoáng đại của Hồng Y Đoàn. Phiên họp đầu tiên đã được tổ chức sáng thứ Ba (22/4), với sự hiện diện của tất cả các Hồng y đang cư trú tại Rôma và những vị đã đến từ khắp nơi trên thế giới. Trong những ngày tới, các vị còn lại cũng sẽ đến. Các Phiên họp Khoáng đại không chỉ dành cho các Hồng y cử tri (dưới 80 tuổi) mà cả những vị đã quá tuổi và không còn quyền bầu cử.
Tổng cộng, Hồng Y Đoàn hiện gồm 252 vị, trong đó 117 vị không có quyền bầu Giáo hoàng.
Những ai sẽ bầu chọn Tân Giáo hoàng?
Hiện có 135 Hồng y có quyền bầu cử (chưa quá 80 tuổi). Trong số này, 70% được Đức Giáo hoàng Phanxicô bổ nhiệm. Trong suốt triều đại của mình (trừ năm 2021), ngài đã tổ chức mười công nghị để lập các Hồng y – vượt qua cả Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, người đã tổ chức chín công nghị trong triều đại của ngài.
Như vậy, trong Mật nghị Hồng y sắp tới, sẽ có 108 vị Hồng y được Đức Phanxicô phong bổ tham dự. Con số này sẽ là 109 nếu tính cả Đức Hồng y Angelo Becciu, nguyên Tổng trưởng Bộ Phong thánh, người vẫn còn trong độ tuổi hợp lệ để vào Nhà nguyện Sistina và đã khẳng định trong một cuộc phỏng vấn với tờ L’Unione Sarda rằng ngài vẫn giữ nguyên các đặc quyền của mình: «Khi nhắc lại Công nghị Hồng y gần đây nhất (nơi Đức Tổng Giám mục Arrigo Miglio, nguyên Tổng Giám mục Cagliari và là người đã đón tiếp Đức Phanxicô trong chuyến viếng thăm lịch sử vào tháng 9 năm 2013, được phong Hồng y), Đức Giáo hoàng đã công nhận rằng các đặc quyền Hồng y của tôi vẫn còn nguyên vẹn vì không có ý muốn rõ ràng nào nhằm loại tôi khỏi Mật nghị, cũng như không có yêu cầu chính thức nào đòi tôi phải từ bỏ bằng văn bản».
Becciu là Hồng y đầu tiên trong lịch sử bị xét xử bởi một tòa án hình sự Vatican. Phiên tòa kết thúc vào tháng 12 năm 2023 với bản án 5 năm 6 tháng tù giam vì tội tham ô và lạm dụng quyền lực, kèm theo tiền phạt. Tuy nhiên, bản án này chưa có hiệu lực chung thẩm: Đức Hồng y đã kháng cáo và vẫn tuyên bố vô tội. Văn phòng báo chí Tòa Thánh xác nhận vào thứ Ba rằng tất cả các Hồng y – kể cả Becciu – đều được mời tham dự các Phiên họp Khoáng đại.
Bản đồ địa lý của Mật nghị
Trong số các Hồng y cử tri, có 27 vị được bổ nhiệm bởi các Giáo hoàng tiền nhiệm – 5 vị do Thánh Gioan Phaolô II và 22 vị do Đức Bênêđictô XVI.
Đặc biệt trong những công nghị gần đây, Đức Phanxicô đã ưu tiên chọn những vị trẻ tuổi, chẳng hạn như Đức cha người Ukraina Mykola Bychok, mới 44 tuổi, hiện đang thi hành sứ vụ tại Úc.
Qua các bổ nhiệm của mình, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã tái định hình Giáo Hội và Hồng Y Đoàn: ngày càng ít tính trung tâm châu Âu, ít nghiêng về Ý và phương Tây, và mở rộng tầm nhìn đến các vùng ngoại biên và Giáo Hội “biên cương” trên toàn thế giới. Nhiều tổng giáo phận lớn ở phương Tây hiện không có Hồng y, như Milano, Paris, Los Angeles và thậm chí là Buenos Aires.
Phân bố theo châu lục:
• 59 Hồng y từ châu Âu (19 người Ý)
• 37 từ châu Mỹ (16 Bắc Mỹ, 4 Trung Mỹ, 17 Nam Mỹ)
• 20 từ châu Á
• 16 từ châu Phi
• 3 từ châu Đại Dương
Nhiều vấn đề sẽ được đặt lên bàn thảo luận tại các Phiên họp Khoáng đại và trong mật nghị: từ việc bảo vệ môi trường, đến việc chăm lo cho người nghèo và các bất công xã hội ở mọi cấp độ, và cả những vùng ngoại biên – như cách Đức Phanxicô từng nói – “dù là ngoại biên vật lý hay hiện sinh”.
Các đại diện dòng tu trong mật nghị: tổng cộng 34 vị:
• 5 Salêdiêng
• 4 Dòng Tên (dòng của Đức Phanxicô)
• 1 Phanxicô Capuchino
• 4 Phanxicô
• 3 Phanxicô Viện tu
• 2 Đa Minh
• 2 Vinh Sơn
• 2 Chúa Cứu Thế
• 2 Ngôi Lời
• Cùng các dòng khác, kể cả Giorgio Marengo, nhà truyền giáo Dòng Đức Mẹ Yên Ủi, người Piemonte, 50 tuổi, từ năm 2020 là Đại diện Tông tòa của Ulaanbaatar (Mông Cổ).
Người trẻ nhất trong mật nghị là Mykola Byčok, 45 tuổi (sinh ngày 13 tháng 2). Người lớn tuổi nhất là Carlos Osoro Sierra, người Tây Ban Nha, nguyên Tổng Giám mục của Madrid, sẽ tròn 80 tuổi vào ngày 16 tháng 5 tới, tiếp theo là Robert Sarah, người Guinée, nguyên Tổng trưởng Bộ Phụng Tự.
Trong số các Hồng y cử tri, Đức Hồng y Vinko Puljić, Tổng Giám mục Sarajevo từ 1990 đến 2002, đã tuyên bố không tham dự mật nghị “vì lý do sức khỏe”, theo thông báo từ chính ngài trên kênh truyền hình Croatia RTL.
Các Phiên họp Khoáng đại sẽ đóng vai trò then chốt để các Hồng y gặp gỡ, thảo luận và hiểu biết nhau trước khi bước vào bỏ phiếu bầu tân Giáo hoàng.
Với tính cách thực tế và sự hài hước nổi tiếng của mình, Đức Phanxicô từng nhiều lần đùa về người kế nhiệm. Trong chuyến bay trở về từ Mông Cổ năm 2023, ngài nói rằng chuyến tông du kế tiếp sẽ được thực hiện bởi “Giáo hoàng Gioan XXIV”. Cách đó hai năm, khi được Đức cha Giuseppe La Placa – Giám mục Ragusa – mời viếng thăm thành phố dịp kỷ niệm 75 năm thành lập giáo phận vào năm 2025, Đức Phanxicô cũng đã đùa rằng khi ấy sẽ là Gioan XXIV đi thay mình.
________________________________________


Có thể là hình ảnh về 4 người

Có thể là hình ảnh về 1 người, Vương cung thánh đường Đền thánh Quốc gia Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và văn bản


Có thể là hình ảnh về 3 người



 

Ngọc Nga

unread,
Apr 23, 2025, 8:31:43 AMApr 23
to teresa...@googlegroups.com


HY SINH LÀM CHỨNG CHO CHÚA PHỤC SINH
(Suy niệm Tin mừng thánh Gioan (Ga 20, 19-31) Chúa nhật 2 Phục sinh)
Sứ điệp: Sự kiện các tông đồ hy sinh mạng sống mình để làm chứng Chúa Giê-su sống lại, là động cơ thúc đẩy chúng ta chấp nhận hy sinh để loan Tin mừng cho Chúa.
***
Khi nghe thuật lại việc thánh Tô-ma đòi tận mắt chứng kiến Chúa Giê-su sống lại, cũng như đòi xỏ ngón tay vào lỗ đinh và thọc bàn tay vào cạnh sườn Chúa để kiểm chứng thì mới tin… nhiều tín hữu cảm thấy mất thiện cảm đối với vị tông đồ được xem là “cứng lòng tin” nầy.
Tuy nhiên, trong xã hội đầy gian dối lọc lừa và thông tin giả tràn lan khắp không gian mạng ngày nay, chúng ta dễ dàng thông cảm với thánh Tô-ma và nhận thấy thái độ của ngài có phần khôn ngoan và chính đáng.
Hôm nay, để giúp chúng ta xác tín về sự phục sinh của Ngài, Chúa Giê-su không còn hiện ra cho chúng ta thấy tận mắt, không còn cho thấy dấu đinh nơi bàn tay hay dấu vết ngọn giáo đâm thủng cạnh sườn… như xưa,  nhưng lại cho chúng ta thấy bằng chứng khác còn thuyết phục hơn.
Bằng chứng đó là các tông đồ chấp nhận hy sinh tất cả và vui lòng chịu chết để làm chứng Chúa Giê-su đã sống lại.
Giờ đây, chúng ta cùng nhau xem xét bằng chứng nầy:
Sau khi Chúa Giê-su tắt thở và được mai táng trong mồ, thì chỉ có một trong hai trường hợp sau đây xảy ra: Hoặc là Ngài sống lại, hoặc là không.
- Trường hợp thứ nhất: Nếu Chúa Giê-su không sống lại thì các tông đồ sẽ thất vọng về Chúa Giê-su, sẽ oán trách Chúa đã lừa dối các ngài, đưa các ngài vào ngõ cụt, theo Chúa 3 năm mà chẳng được tích sự gì…  Thế là các vị sẽ phải trở về quê quán để đoàn tụ với gia đình bên những người thân yêu.
Và tất nhiên các tông đồ sẽ không bịa đặt ra chuyện Chúa Giê-su sống lại để lừa dối mọi người. Không ai trên đời ngu dại, điên rồ đến nỗi phải từ bỏ mạng sống, từ bỏ an toàn bản thân, từ bỏ hạnh phúc trong cuộc đời chỉ để lừa dối người khác tin vào điều bịa đặt của mình mà rốt cuộc chẳng được tích sự gì nhưng lại mất tất cả. Thế là đạo Chúa xem như đã “bị xóa sổ”, bị tiêu diệt ngay từ trong trứng nước, làm gì có chuyện đạo Chúa tồn tại đến ngày nay?
- Trường hợp thứ hai: Nếu Chúa Giê-su sống lại thật và các tông đồ tận mắt chứng kiến Chúa phục sinh, đã cùng ăn uống, sinh hoạt với Ngài trước khi Ngài về trời, thì các tông đồ mới chấp nhận hy sinh những gì trân quý nhất trên đời, kể cả mạng sống, sự an toàn của bản thân, cả hạnh phúc gia đình… để loan báo Tin mừng Chúa sống lại; nhờ đó, các ngài mang lại ơn cứu rỗi cho mọi người. Và cũng nhờ đó, các tông đồ sẽ được phúc đời đời với Chúa Giê-su trên thiên quốc. Có như thế, đạo Chúa mới được lớn mạnh và phát triển khắp nơi trên thế giới như ngày hôm nay.
Từ nhận định đó, ta có thể kết luận rằng: Sự kiện các tông đồ của Chúa Giê-su từ bỏ hết mọi điều trân quý nhất trên đời để làm chứng rằng Chúa Giê-su đã sống lại thật, và nhờ đó đạo Chúa được lan rộng như hôm nay… thì lời chứng nầy hoàn toàn chân thực và sự kiện Chúa Giê-su sống lại là hoàn toàn chắc chắn.
Lạy Chúa Giê-su,
Sự kiện các tông đồ chấp nhận hy sinh mạng sống để làm chứng rằng Chúa đã sống lại là một bằng chứng đầy thuyết phục giúp chúng con vững tin vào sự phục sinh của Chúa.
Xin cho niềm tin nầy hằng thúc đẩy chúng con noi gương các tông đồ, tiếp tục giới thiệu Chúa đã sống lại cho mọi người mà không quản ngại gian lao khốn khó. Amen.
Linh mục Inha-xi-ô Trần Ngà
TIN MỪNG CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH. Gioan 20, 19-31
19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! "20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.21 Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em."22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."
24 Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến.25 Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tô-ma đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin."26 Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em."27 Rồi Người bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin."28 Ông Tô-ma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! "29 Đức Giê-su bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin! "
 

 









 

Ngọc Nga

unread,
Apr 23, 2025, 11:24:57 PMApr 23
to teresa...@googlegroups.com
ps_02c.doc
Bài đọc trong tuần C.doc
CN2PS_C.pps

Ngọc Nga

unread,
Apr 24, 2025, 9:01:55 AMApr 24
to teresa...@googlegroups.com

 Có thể là hình ảnh về 1 người và văn bản cho biết 'THÁNH LỄ AN TÁNG ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ THỨ BẢY -26/04/2025 •10h00 sáng (giờ Rôma) 15h00 chiều giờ Viêt Nam)'

100 USD CÒN LẠI CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG FRANCIS
Ngày 21 tháng 4 năm 2025, Đức Giáo Hoàng Francis qua đời, để lại di sản tinh thần to lớn nhưng tài sản cá nhân chỉ vỏn vẹn 100 USD. Là người đứng đầu Giáo hội Công giáo, ngài đã chọn một cuộc đời giản dị, từ chối mọi xa hoa mà chức vị có thể mang lại, để sống trọn vẹn tinh thần khó nghèo và yêu thương phục vụ.
Suốt triều đại của mình, Đức Giáo Hoàng Francis kiên quyết từ chối nhận mức lương tháng 32.000 USD mà Vatican dành cho ngài.
Thay vì cư ngụ trong khu biệt thự sang trọng tại Điện Tông tòa, ngài chọn sống trong một căn hộ đơn sơ tại Nhà khách Santa Marta. Ngài không sử dụng xe hơi đắt tiền, thay vào đó thường di chuyển bằng những phương tiện giản dị, thậm chí là xe buýt công cộng trong những dịp có thể. Những bộ trang phục và phục sức đắt tiền, vốn là biểu tượng của quyền lực, cũng bị ngài khước từ để giữ gìn sự khiêm nhường.
Phần lớn thu nhập từ việc xuất bản sách và các khoản quyên góp cá nhân, Đức Giáo Hoàng Francis đều dành cho các hoạt động từ thiện. Từ việc hỗ trợ người nghèo, người tị nạn, đến các dự án giáo dục và y tế trên toàn thế giới, ngài đã biến mọi nguồn lực có được thành hành động yêu thương cụ thể. Ngài từng nói: “Tôi muốn một Giáo hội nghèo và vì người nghèo,” và chính cuộc đời ngài là minh chứng sống động cho lời tuyên bố ấy.
Trong di chúc, Đức Giáo Hoàng Francis yêu cầu được chôn cất một cách đơn giản tại Vương cung Thánh đường Đức Bà Cả ở Rôma, nơi ngài thường xuyên đến cầu nguyện trước bức tượng Đức Mẹ. Ngài căn dặn không ghi danh hiệu “Đức Giáo Hoàng” trên bia mộ, như một lời nhắc nhở cuối cùng về sự khiêm nhường mà ngài đã sống. Với ngài, tước vị không phải là vinh quang, mà là trách nhiệm phục vụ.
Cả cuộc đời Đức Giáo Hoàng Francis là một chứng tá mạnh mẽ cho tinh thần khó nghèo, lòng trắc ẩn và sự dấn thân không mệt mỏi vì tha nhân. 100 USD còn lại của ngài không chỉ là con số, mà là biểu tượng của một cuộc sống trọn vẹn hiến dâng, nơi vật chất chẳng có giá trị bằng tình yêu và đức tin. Ngài ra đi, nhưng di sản của ngài – một Giáo hội gần gũi hơn với những người đau khổ – sẽ còn mãi.
Lm. Anmai, CSsR








 

Ngọc Nga

unread,
Apr 24, 2025, 9:04:23 AMApr 24
to teresa...@googlegroups.com



May be an image of yellow jessamine and nature



TỐT NHẤT KHÔNG BẰNG PHÙ HỢP.
Có những chiếc áo rất đẹp, nhưng mặc không vừa.
Có những đôi giày rất đẹp, nhưng khiến chân đau.
Có những giấc mơ rất đẹp, nhưng không thực tế.
Có những con người rất đẹp, nhưng không bao giờ thuộc về mình.
Trong tình cảm, không có xứng hay không xứng, chỉ có yêu hay không yêu.
Trong nhân sinh, không có dở nhất hoặc tốt nhất, chỉ có những lựa chọn vừa vặn và phù hợp với mình.
Vốn dĩ là của mình, không tranh không giành vẫn sẽ là của mình.
Vốn dĩ không phải của mình, trầy da tróc vẩy giành giật cũng chỉ nhận về một nắm hư không.
Lúc nào nên buông thì hãy buông, giữ lại cho bản thân một chút tôn nghiêm cuối cùng.
Buông xuống, mới có thể cầm lên.
Chấp nhận, mới có thể an ổn.
Mở lòng, mới có thể hạnh phúc.






 

Ngọc Nga

unread,
Apr 25, 2025, 10:33:03 AMApr 25
to teresa...@googlegroups.com



LỜI TÂM SỰ CỦA MỘT GIÁO DÂN VỀ CHA XỨ
(Đọc để cảm thông cho Cha xứ của mình)
“Đi tu làm gì con ơi. Tao thấy mấy Ông Cha đi tu có sướng gì đâu?
Sáng sớm đã dậy Dâng lễ, ngày mưa cũng như ngày nắng, mùa đông giá rét cũng như ngày hè nóng nực, vẫn đầy đủ. Rồi lại dạy giáo lý rồi tập hát,… Giảng lễ thì cả trăm người nghe, lễ xong người ta ra về tay trong tay ấm áp, bố mẹ con cái vui vẻ cười nói, còn Ông thì lủi thủi dọn đồ lễ, đóng cửa tắt điện nhà thờ một mình, lễ về mới cắm lại ít cơm nguội còn lại của bữa trưa với hâm lại ít tép khô của mấy bữa trước ăn vậy. Ăn xong dọn dẹp thu xếp cũng đã muộn, lại còn xem sách vở, giấy tờ các kiểu, rồi còn chuẩn bị bài giảng lễ sáng hôm sau.
Ngày nào cũng thế, toàn những việc không tên, chuyện giáo xứ, chuyện gia đình, chuyện trên trời dưới đất… tất cả vào Ông Cha.
Tao thấy nhà tao có 2 đứa con, để mà chiều lòng chúng nó thì quá mệt vậy mà tao thấy một mình Ông lo cho cả giáo xứ cả nghìn người giáo dân, vừa lòng người nọ thì mất lòng người kia, vừa lòng hội đoàn nọ thì mất lòng hội kia,…
Có ai hiểu và thông cảm cho Ông đâu. Khỏe mạnh thì không sao, những ngày trái gió trở trời mà chẳng may bị ốm thì rõ khổ. Người ta còn có vợ có chồng hay con cái chăm sóc, còn Ông thì phải tự một thân một mình chăm sóc cho mình, hay là những lúc buồn chắc ông cũng cần phải có người để nói chuyện hoặc là tâm sự chứ nhể?
Tao thấy có nhiều người ngồi chơi ở nhà tao, thấy Ông Cha đi qua thì chào rối rít, mà sau đó thì bàn tán nói xấu này nọ, chê Ông Cha xứ già, làm lễ lâu, đọc không rõ, còn bảo là Ông dạy giáo lý vớ vẩn, … Tao thấy ai rồi mà chả già, với lại Ông làm Cha thì được học hành đàng hoàng thì phải hơn mấy ông giáo dân chứ, thế mà họ lại còn chê là dạy vớ vẩn. Mà hình như giáo dân chỉ muốn biến Ông thành công cụ hay là nô lệ để phục vụ cho vừa ý họ, vừa lòng thì không sao, không may phật ý chút là quay lại nói này nói nọ, rồi so sánh Ông này với Ông kia,… Còn nữa chứ, chẳng biết giáo dân cho Ông được nhiều hay ít mà họ bảo là Ông này cứ có tiền là xong hết. Chắc họ nghĩ Ông Cha này là tham quan. Mà tao thấy giáo dân có cho hay biếu được cái gì thì Ông cũng cho hết vào nhà thờ hoặc là cho bọn nhỏ học giáo lý chứ có dành riêng cái gì cho Ông đâu. Tấm lòng của Ông cao cả với lại hy sinh như thế mà vẫn có người chê trách Ông. Giáo dân đã chẳng giúp đỡ thì thôi lại cứ còn chia rẽ. Tao thấy giáo dân có nhiều người ích kỷ lắm, đã chẳng làm được gì mà lại còn chê bai người khác.
Nhưng mà lạ cái là lúc nào tao cũng thấy Ông ấy vui vẻ. Chắc ông có niềm vui riêng. Tao nghĩ mà thương Ông!”
Ước gì giáo dân hiểu được điều này!!!







 

Ngọc Nga

unread,
Apr 26, 2025, 9:39:18 PMApr 26
to teresa...@googlegroups.com

 
PHÊRÔ – MỘT CUỘC ĐỜI ĐƯỢC BIẾN ĐỔI
 
Từ xưa đến nay, những nhân vật được chọn để giữ một vai trò trọng yếu nơi một tổ chức thường là những người có những biệt tài nào đấy: thông minh, có tài quản trị, có khả năng ngoại giao tốt…  Thế nhưng, nhìn đến những con người mà Chúa đã chọn để thay Chúa phân phát ơn lành từ trời cho thế giới, ta lại thấy một điều hoàn toàn ngược lại.  Ngay từ thời điểm bắt đầu đời sống công khai, Đức Giêsu đã mời gọi một số người cùng đi với Ngài, ở lại với Ngài, để Ngài huấn luyện và sai đi.  Trong số nhóm người thân tín nhất với Đức Giêsu, Phêrô được chọn làm người đứng đầu, nhờ việc ông được Chúa Cha mặc khải cho biết về căn tính Kitô của Đức Giêsu.  Phêrô không phải là người xuất sắc nhất trong nhóm, cũng không phải là người thánh thiện nhất trong nhóm.  Ông lại còn là người chối Chúa khi Chúa bước vào cuộc khổ nạn.  Đặt một ngư phủ vô học làm nền tảng cho Giáo Hội của mình, rõ ràng Đức Giêsu đã làm một chuyện thật ngược ngạo từ trước đến nay trong lịch sử nhân loại.
 
Lần đầu tiên Phêrô nghe nói về cái tên Giêsu là nhờ người anh em Anrê kể lại.  Sau khi nghe Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giêsu là chiên Thiên Chúa, Anrê và Gioan đã đi theo Đức Giêsu và đã ở lại với Người ngày hôm ấy.  Không biết chuyện gì đã xảy vào khoảng thời gian định mệnh này, nhưng sau khi trở về, Anrê đã quả quyết với Phêrô là ông đã được nhìn thấy Đấng Mêsia.  Chắc hẳn là Phêrô cũng nóng lòng, mong chờ một dịp nào đấy thuận lợi để ông cũng có diễm phúc được gặp Đấng Thánh này.
Chẳng biết là cơ duyên hay tình cờ, điều ông mong chờ đã xảy đến vào một buổi sáng đẹp trời, khi ông vừa trở về sau một đêm đánh cá chẳng thành công.  Cái nghề ngư phủ này lúc nào cũng phải tùy thuộc vào vận may như thế cả.  Đã không được con cá nào, người mỏi mệt vì một đêm thức trắng, ông và gia đình lại còn phải cặm cụi vá lại chiếc lưới rách tả tơi.  Nhưng có ai ngờ, vào cái ngày mà ông cho là ê chề thất bại, cuộc đời ông lại được mở sang trang nhờ một cuộc gặp gỡ không dự báo trước.  Đang khi ông làm việc, Giêsu từ đâu bước tới, theo sau là lũ lượt những con người.  Giêsu ngỏ lời mượn chiếc thuyền của ông làm bệ giảng, và xin ông chở Ngài ra xa một tí để có thể chia sẻ những bài học hay cho dân chúng đang đợi chờ lắng nghe.
Niềm hạnh phúc dâng cao, Phêrô chưa kịp hiểu được điều gì đang xảy ra.  Giữa biết bao con thuyền đang đỗ bến, con thuyền của ông được chọn.  Giữa biết bao ngư phủ đang ở đây, ông là người được ngỏ lời.  Giờ đây, khi Đức Giêsu đang trao ban những lời vàng quý giá, ông là người ở gần Ngài nhất, nghe rõ những gì Ngài nói nhất.  Hàng ngàn hàng vạn người đang đua nhau để tiếp cận Đức Giêsu, trong số đó, chắc là có nhiều người danh giá và giàu có hơn ông.  Vậy mà một con người đức cao vọng trọng như Giêsu lại để ý đến thân phận nhỏ bé của ông.  Trong thoáng chốc, ông quên đi hết tất cả cái mệt mỏi của mình, kể cả thất bại vừa trải qua.  Ông đang hạnh phúc!
Cứ ngỡ là sau khi mượn chỗ để giảng thuyết, Giêsu sẽ cảm ơn ông, rồi nhờ ông đưa vô bờ trở lại.  Sau đó, đường ai nấy đi, không còn gặp mặt nữa.  Nhưng thật bất ngờ, Giêsu tiếp tục trò chuyện với ông, mời gọi ông hãy chèo thuyền ra xa hơn một tí nữa, để đánh cá.  Phêrô chẳng muốn đi tí nào!  Giêsu đã khơi lại trong ông nỗi buồn của đêm trước.  Cái mệt mỏi và chán nản vừa được xua tan đi, bỗng dưng quay trở lại.  Kinh nghiệm đánh cá lâu năm của ông mách bảo ông rằng lời mời gọi ấy của Giêsu mới thật ngớ ngẩn biết bao.  Nhưng vì Thầy, vì để làm Thầy vui, ông cố gắng tận dụng chút sức lực còn lại thực hiện một cuộc mạo hiểm mới.  Ông vốn dĩ đã thần phục Đức Giêsu vì tiếng lành đồn xa của Ngài, và vì vừa được nghe những bài giảng sâu sắc của Ngài.  Nay, ông càng kinh khiếp hơn vì phép lạ mà ông vừa chứng kiến.  Ông như được dẫn vào trong một thế giới siêu nhiên, nơi đó, ông thấy mình nhỏ bé quá chừng.  Ông quỳ xuống, một cử chỉ thể hiện sự thấp kém của mình trước mặt Đấng Chí Tôn.
Ngày hôm ấy và khoảnh khắc đáng ghi nhớ ấy, chắc có lẽ sẽ đọng mãi trong tâm hồn ông, vì đó là lúc mà ông nghe rõ bằng chính đôi tai mình lời mời gọi của Thiên Chúa, muốn ông bỏ hết mọi sự mà bước theo Ngài.  Có vẻ như chẳng phải ngẫu nhiên mà Giêsu đến nhờ ông, rồi giảng cho ông nghe, rồi mời ông đi thả lưới.  Chính tại nơi bờ biển hồ thân quen hàng ngày với ông đã trở thành nơi kỷ niệm và làm chứng cho cuộc tình gắn bó keo sơn giữa ông và thầy Giêsu chí thánh của mình.  Vài năm sau, khi cuộc tình ấy đã trải qua nhiều chông chênh thử thách, kể cả bội phản, ông sẽ nghe lại lời mời gọi này một lần nữa, cũng trên một bờ biển hồ này, vào lúc bình minh chan hòa khắp chốn.
Ánh bình minh là dấu chỉ báo hiệu cái qua đi của một đêm dài âm u lạnh lẽo, của thất bại và chán chường.  Nó là khởi điểm cho một sự khởi đầu mới với những bất ngờ và niềm vui.  Lời mời gọi của Giêsu dành cho ông đã đến vào những lúc bình minh và cũng có tác dụng hệt như một ánh bình minh vậy.  Cuộc đời ông đã bắt đầu thay đổi khi nghe lời mời ấy lần đầu tiên.  Và cứ mỗi lần ông nghe lại lời ấy, một hành trình mới lại được mở ra.  Bước ngoặc cuối cùng là khi ông thấy Thầy mình vác thập giá quay trở lại thành Giêrusalem khi ông tìm cách bỏ trốn.  Nên đồng hình đồng dạng với Chúa, đó là niềm mơ ước của ông.  Ngày xưa, trên chiếc thuyền đánh cá nhỏ bé của ông, đầu ông đã một lần cúi xuống bái thờ Ngài.  Giờ đây, trên thánh giá gỗ treo thân ở đây, một lần nữa ông lại xin phép cho đầu mình được hướng xuống đất.  Một cuộc tái ngộ giữa ông và Thầy Giêsu lại tiếp tục diễn ra.  Lần này, không phải nơi bờ hồ, hay trên chiếc thuyền đánh cá, nơi ông đã từng mê mẩn hứng lấy từng lời nói của Thầy, nhưng là trên Thiên Đàng, nơi ông có thể gắn kết với Thầy trọn vẹn, nơi đánh dấu cho sự nguyên tuyền và hoàn hảo của tình yêu mà ông và Thầy đã cố gắng dựng xây.
Giêsu đã xuất hiện trong cuộc đời của Phêrô ngay trong những thất bại và ê chề ông đang nếm trải.  Chính điều đó càng làm cho ông càng thấy bất ngờ và hạnh phúc hơn.  Gắn kết cuộc đời mình với Giêsu, từ chỗ người ngư phủ lưới cá, Phêrô đã trở thành vị tông đồ lưới người.  Cùng với Chúa, ông không ngừng chèo chiếc thuyền Giáo Hội ra chỗ nước sâu, thu về cho Chúa biết bao linh hồn đang sa cơ lạc lối.  Có ai ngờ một con người tầm thường như Phêrô, sau khi đến với Giêsu, đã được trở nên một con người phi thường như thế?  Với Phêrô, Giêsu là khởi nguồn mang đến “bình minh” cho những ai luôn đặt Ngài làm điểm tựa của cuộc đời.
 
Pr. Lê Hoàng Nam, SJ







 

Ngọc Nga

unread,
Apr 27, 2025, 10:23:25 AMApr 27
to teresa...@googlegroups.com


 Ngay khi Đức thánh Cha Phan-xi-cô vừa nằm xuống, các hãng thông tấn, các kênh thông tin, các trang báo mạng khắp nơi dồn dập loan tin buồn nầy với vô vàn tiếc thương.
Ngài là vị Cha chung nhân từ của toàn thể giới Công giáo nên người giáo dân tiếc thương ngài là điều dễ hiểu; Tuy nhiên, điều khó hiểu là những kênh thông tin ngoại đạo xưa nay chưa hề đưa tin gì liên quan đến Giáo hội Công giáo, nay cũng liên tục đưa tin về sự mất mát lớn lao nầy với những lời lẽ rất cảm động, đầy thán phục và tiếc thương! Tại sao vậy?
Như mọi người đều biết: Ngài là người lãnh đạo chói ngời nhân đức. Người ta gọi ngài là vị giáo hoàng của lòng thương xót, của lòng khiêm nhường tột bậc, của sự thân thiện gần gũi với mọi người và rất nhiều đức tính cao đẹp khác…
Trong phạm vi giới hạn của nầy, người viết xin đề cập đến một điểm thôi.
Sống trên đời, ai cũng muốn nổi trội, ai cũng muốn nâng mình lên bằng mọi cách… để cho muôn người ngưỡng mộ… Thế mà có một nhân vật thật lạ thường, luôn muốn dìm mình xuống. Người đó là ai?
- Khi Đức thánh Cha Phan-xi-cô còn là Tổng giám mục tại Buenos Aires, ngài không ở trong tòa Tổng giám mục sang trọng tiện nghi mà lại ở trong căn hộ nhỏ bé đơn sơ gần đó. Việc này chưa có tiền lệ trong Hội thánh từ xưa đến nay.
- Thay vì sắm xe hơi với tài xế phục vụ, ngài chọn xe buýt và tàu điện làm phương tiện đi lại hằng ngày.
- Ngài tự nấu bữa tối cho mình, không nhờ vã, không muốn làm phiền ai.
Và từ khi trở thành Giáo hoàng vào năm 2013, Đức thánh Cha Phanxicô đã thể hiện nhiều cử chỉ khiêm nhường, phản ánh lối sống đơn sơ, giản dị và tinh thần phục vụ:
- Sau khi vừa đắc cử vào ngôi vị giáo hoàng, trước khi giơ tay ban phép lành đầu tiên cho dân Chúa, ngài đã cúi đầu xin họ cầu nguyện cho mình để được Chúa dẫn dắt.
- Khi bắt đầu đảm nhiệm trách nhiệm tại giáo triều, thay vì ở tại Dinh Tông tòa sang trọng – là nơi ở chính thức của giáo hoàng - ngài sống tại nhà khách Santa Marta là một nơi ở khiêm tốn, để gần gũi với mọi người.
- Ngài sử dụng các vật dụng giản dị, như đôi giày cũ và chiếc nhẫn bạc đơn sơ… thay vì đồ vật đắt tiền thường dành cho giáo hoàng.
- Ngài sử dụng những chiếc xe bình dân, thay vì xe sang trọng.

- Ngài quỳ xuống rửa và hôn chân những tù nhân, người tị nạn, và người Hồi giáo trong các nghi thức Thứ Năm Tuần Thánh hằng năm, thể hiện tinh thần hy sinh phục vụ không phân biệt.

- Ngài quỳ xuống hôn chân các nhà lãnh đạo Nam Sudan để nài xin họ mang lại hòa bình cho Nam Su-đan đang lâm cảnh nội chiến hung tàn khốc liệt vào năm 2019;

Cuối đời, thay vì được an táng trong đại thánh đường Phê-rô là nơi an nghỉ của tất cả các vị giáo hoàng tiền nhiệm, ngài mong muốn được chôn cất tại Nhà nguyện Pauline của Vương cung thánh đường Đức Bà Cả, - nơi ngài luôn dừng lại để cầu nguyện trước và sau những chuyến tông du.
Thay vì nằm trong quan tài có 3 lớp như các vị giáo hoàng xưa nay, ngài nằm trong quan tài gỗ đơn sơ, không chạm khắc trang điểm gì.
Và mộ phần của ngài lại nằm chìm trong lòng đất, đơn giản, không trang trí cầu kỳ mà chỉ khắc dòng chữ: Phan-xi-cô.
Thật lạ lùng, những công việc xem ra hèn hạ, làm giảm uy tín, giá trị con người, là những việc không ai mong muốn, thì Đức thánh Cha Phan-xi-cô lại chọn và chính những việc làm khiêm tốn, hèn hạ, thấp kém nầy lại trở thành hào quang tỏa sáng trong cuộc đời ngài.
Đến đây thì chúng ta mới nhận thấy lời dạy của Chúa Giê-su là xác đáng: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai tự hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Mt 23,12).

Ngọc Nga

unread,
Apr 29, 2025, 11:51:26 PMApr 29
to teresa...@googlegroups.com
5 Phút Lời Chúa Tháng 5.doc

Ngọc Nga

unread,
Apr 29, 2025, 11:54:42 PMApr 29
to teresa...@googlegroups.com
ps_03c.doc
Bài đọc trong tuần C.doc
CN3PS_C.pps

Ngọc Nga

unread,
Apr 30, 2025, 12:07:21 AMApr 30
to teresa...@googlegroups.com
 
CẦU NGUYỆN NHƯ MỘT TÍN HỮU KITÔ
Trong Kitô giáo có bốn dạng cầu nguyện khác biệt.  Có lời cầu nguyện nhập thế, lời cầu nguyện thần nghiệm, lời cầu nguyện cảm xúc và lời cầu nguyện linh mục.  Vậy những lời cầu nguyện này là gì và khác nhau như thế nào?
 
Lời cầu nguyện nhập thế.  Thánh Phaolô mời gọi chúng ta “cầu nguyện luôn mãi.”  Làm sao có thể làm được?  Chúng ta có thể hay không thể cầu nguyện luôn mãi?  Điều mà thánh Phaolô mời gọi chúng ta cũng là điều Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta khi Ngài bảo “hãy đọc dấu chỉ của thời đại.”  Khi nói thế, Chúa Giêsu không bảo chúng ta hãy đọc mọi phân tích chính trị, kinh tế, xã hội mình tìm được.  Đúng hơn, Ngài mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm ngón tay của Thiên Chúa trong mọi sự kiện trong đời chúng ta.  Thế hệ cha mẹ tôi gọi điều này là hòa hợp với “sự quan phòng tối cao”, nghĩa là nhìn vào mọi sự kiện trong đời mình và những sự kiện chính của thế giới rồi tự vấn: “Thiên Chúa nói gì với chúng ta trong những sự kiện này?”  Nhưng khi làm việc này, chúng ta phải cẩn thận.  Thiên Chúa không gây ra tai nạn, bệnh tật, thương tâm, chiến tranh, nạn đói, động đất, trái đất nóng lên hay đại dịch, Thiên Chúa cũng không cho trúng số hay cho đội bóng chúng ta yêu thích thành vô địch, nhưng Thiên Chúa nói qua những sự việc này.  Chúng ta cầu nguyện nhập thế khi tìm ra tiếng nói đó.
Lời cầu nguyện thần nghiệm.  Cầu nguyện thần nghiệm không phải là việc có trải nghiệm thiêng liêng phi thường như thị kiến, xuất thần.  Thần nghiệm không phải hướng về những điều này.  Trải nghiệm thần nghiệm của tôi đơn giản là được Thiên Chúa chạm đến cách thâm sâu hơn những gì chúng ta có thể nắm bắt và hiểu được bằng trí tuệ và tưởng tượng, một hiểu biết vượt trên cả tâm và trí.  Nhận thức thần nghiệm hoạt động như sau: Cái đầu bảo cho chúng ta biết suy nghĩ nào của chúng ta là khôn ngoan để thực hiện, trái tim cho chúng ta biết điều chúng ta muốn và trung tâm thần nghiệm cho chúng ta biết chúng ta phải làm gì.  Ví dụ như tác giả C.S. Lewis mô tả trải nghiệm trở lại đạo của ông, ông kể lần đầu tiên ông quỳ gối và công nhận Chúa Kitô, ông đã không nhiệt tâm làm.  Thay vào đó, theo lời nổi tiếng của ông, ông đã quỳ gối “trong lần trở lại gượng ép nhất trong lịch sử Kitô giáo.”  Điều gì đã buộc ông làm điều này?  Ông nói: “Sự hà khắc của Chúa thì tốt hơn là sự dịu dàng của con người, và sự ép buộc của Chúa là sự giải phóng chúng ta.”  Chúng ta cầu nguyện cầu nguyện thần nghiệm bất cứ khi nào chúng ta lắng nghe và nghe thấy tiếng nói cưỡng bức nhất trong chúng ta, tiếng nói mách bảo cho chúng ta biết điều mà Thiên Chúa và bổn phận kêu gọi chúng ta làm.
Lời cầu nguyện cảm xúc.  Đó là mọi lời cầu nguyện sốt mến (chầu Thánh Thể, đọc kinh cầu, kinh mân côi, những lời cầu nguyện xin Đức Mẹ hay các thánh cầu bàu) xét cho cùng, đây là lời cầu nguyện cảm xúc, là những dạng chiêm nghiệm và suy niệm.  Chúng đều như nhau về ý chỉ.  Đó là gì vậy?  Trong Phúc âm thánh Gioan, những lời đầu tiên Chúa Giêsu phán là một câu hỏi.  Dân chúng tò mò nhìn Ngài, và Ngài hỏi họ, “Các anh tìm gì?” Câu hỏi đó tồn tại xuyên suốt toàn bộ các phúc âm như một câu nền.  Nhiều điều diễn ra trên bề mặt, nhưng bên trong luôn có một câu hỏi day dứt, băn khoăn: “Các anh tìm gì?”
Chúa Giêsu chính xác trả lời cho câu hỏi này vào sáng ngày phục sinh.  Khi bà Maria Magđala đi tìm Ngài, đem theo thuốc thơm để xức xác Ngài.  Chúa Giêsu gặp bà, nhưng bà không nhận ra.  Rồi Ngài lặp lại cùng câu hỏi đã mở đầu Phúc âm: “Bà tìm ai?” và cho chúng ta câu trả lời thực sự.  Ngài gọi tên bà đầy yêu thương: “Maria.”  Khi làm như thế, Ngài mặc khải điều mà bà và hết thảy chúng ta đều luôn mãi tìm kiếm, đó là tiếng Chúa phán trực diện, với tình yêu thương vô điều kiện đang gọi tên chúng ta.  Mọi lời cầu nguyện sốt mến dù cho chúng ta, cho người khác hay cho thế giới, đều có mục đích tối hậu này.
Lời cầu nguyện linh mục.  Lời cầu nguyện linh mục là lời cầu nguyện của Chúa Kitô cho thế giới thông qua giáo hội.  Kitô giáo tin rằng Chúa Kitô vẫn ở với chúng ta bằng lời của Ngài và bằng phép Thánh Thể.  Và chúng ta tin rằng bất cứ khi nào chúng ta tụ họp với nhau, trong nhà thờ hay nơi nào khác, để quây quần quanh Kinh thánh hoặc để cử hành phép Thánh Thể, là chúng ta đang bước vào lời cầu nguyện này.  Lời cầu nguyện này thường được gọi là lời cầu nguyện phụng vụ, đó chính là lời cầu nguyện của Chúa Kitô chứ không phải của chúng ta.  Hơn nữa, đây không phải là lời cầu nguyện trước hết cho bản thân chúng ta hay cho hội thánh, mà là lời cầu nguyện cho thế giới – “Thịt Ta là của ăn đem lại sự sống cho thế gian.”
Chúng ta đọc lời cầu nguyện phụng vụ, lời cầu nguyện linh mục, bất kỳ lúc nào chúng ta quây quần quanh Kinh thánh, phép Thánh Thể hay bất kỳ bí tích nào.  Chúng ta cũng cầu nguyện theo cách này khi cầu nguyện các giờ kinh phụng vụ, riêng tư hay với cộng đoàn.  Chúng ta được yêu cầu hãy đều đặn cầu nguyện cho thế giới nhờ thiên chức linh mục được truyền cho chúng ta trong phép rửa.
Một tín hữu Kitô lành mạnh về mặt thiêng liêng và trưởng thành cầu nguyện theo bốn cách này, và phân biệt rõ ràng bốn dạng cầu nguyện này có thể hữu ích để chúng ta cầu nguyện luôn mãi và cầu nguyện với Chúa Kitô.
Rev. Ron Rolheiser, OMI

 

 







 

Ngọc Nga

unread,
May 1, 2025, 8:12:01 AMMay 1
to teresa...@googlegroups.com
 

PHỤC VỤ NHƯ NGƯỜI MẸ GIA ĐÌNH


(Suy niệm Tin mừng Gioan (Ga 21, 1-19) Chúa nhật 3 Phục sinh)
Sứ điệp: Thiên Chúa tiếp tục hiện diện và nuôi dưỡng chúng ta mỗi ngày.
Sau những ngày đầy biến động với cuộc thương khó và phục sinh của Thầy Giê-su, các môn đệ trở lại cuộc sống đời thường, lên thuyền đi đánh cá như xưa. Biển hồ Tiberia vẫn yên ả như ngày nào, nhưng hôm nay lòng họ lại dậy sóng: tâm hồn họ trống vắng, bối rối, hụt hẫng phần nào...
Đúng lúc đó, Đức Giê-su hiện đến, lặng lẽ đứng bên bờ, rồi nhóm một bếp than hồng, nướng vài con cá, chuẩn bị chút bánh nóng cho đoàn con. Chỉ vậy thôi – một bữa sáng đơn sơ, nhưng chứa đầy tình yêu. Và cũng chính trong khoảnh khắc giản dị đó, Chúa phục sinh đã chạm đến trái tim họ – như một người mẹ chăm con trở về nhà sau một đêm dài mệt mỏi.
 
Biết rằng các môn đệ phải thức thâu đêm chài lưới giữa biển khơi, vừa phải chịu đói lạnh, vừa mệt nhoài, Chúa Giê-su dấn bước đến với họ để chia sẻ sự nhọc nhằn vất vả của họ, ngay lúc trời hừng sáng.
Biết rằng các môn đệ vất vả suốt đêm mà không bắt được con cá nào, Ngài dạy họ thả lưới đúng nơi để bắt được nhiều cá.
Đối với người đi biển vừa mới lên bờ còn đang đói và lạnh thì không gì sung sướng bằng được thưởng thức những miếng bánh, những con cá nướng còn nóng hổi và thơm ngon. Chính vì thế Chúa Giê-su ngồi trên bãi biển như người mẹ gia đình, nhóm lửa lên, đem cá và bánh nướng trên than hồng cho sẵn, để khi các môn đệ vừa bước lên bờ là có ngay bữa ăn còn nóng hổi, vừa thổi vừa ăn!
Sau đó, Chúa Giê-su gọi các môn đệ mang thêm cá mới bắt được, để Ngài tiếp tục nướng những con cá còn tươi, trao cho từng đứa con đang đói. Thật đầm ấm như người mẹ hiền giữa đàn con ngoan, dạt dào tình từ mẫu.
 
Sự chăm sóc ân cần mà Chúa Giê-su dành cho các môn đệ hôm xưa, nay cũng được dành cho chúng ta. Hôm nay, Chúa Giê-su vẫn tiếp tục chăm sóc và dọn bữa hằng ngày cho chúng ta.
Nơi bàn tiệc thánh, Chúa Giê-su đem LỜI HẰNG SỐNG từ trời xuống ban tặng chúng ta. Nhờ Lương thực tuyệt vời nầy, tâm hồn chúng ta được dưỡng nuôi và được dồi dào sức sống.
Cũng nơi bàn tiệc yêu thương nầy, Chúa Giê-su phục sinh TRAO CHÍNH THÂN MÌNH Ngài làm bánh nuôi dưỡng chúng ta, để chúng ta được hiệp thông nên một với Ngài, và qua đó, Ngài thông ban sự sống thần linh của Ngài cho chúng ta.
Ngoài ra, Thiên Chúa còn tiếp tục nhờ MẸ MARIA TRAO BAN TÌNH TỪ MẪU CỦA NGÀI cho chúng ta. Như mặt trăng đón nhận ánh sáng mặt trời rồi phản chiếu xuống mặt đất làm cho trái đất được chiếu sáng, thì Mẹ Maria cũng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa và trao lại cho chúng ta. Qua Mẹ Maria, Thiên Chúa yêu thương ấp ủ chúng ta bằng một tình mẹ rất dịu dàng, dìu dắt chúng ta như đứa con thơ, vượt qua biển đời đầy sóng gió...
Lạy Thiên Chúa từ nhân,
Chúa yêu thương chúng con bằng tình cha bao la lẫn tình mẹ dịu dàng. Xin cho chúng con biết đền đáp lại mối tình cao cả ấy với tất cả tấm lòng hiếu thảo của một người con ngoan. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
TIN MỪNG GIOAN 21, 1-14
1Khi ấy, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế này.  2Ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau.   3Ông Si-môn Phê-rô nói với các ông : "Tôi đi đánh cá đây." Các ông đáp : "Chúng tôi cùng đi với anh." Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
4Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su. 5Người nói với các ông : "Này các chú, không có gì ăn ư ?" Các ông trả lời : "Thưa không."  6Người bảo các ông : "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.  7Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô : "Chúa đó !" Vừa nghe nói "Chúa đó !", ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.   8Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
9Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa.   10Đức Giê-su bảo các ông : "Đem ít cá mới bắt được tới đây !"  11Ông Si-môn Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách.  12Đức Giê-su nói : "Anh em đến mà ăn !" Không ai trong các môn đệ dám hỏi "Ông là ai ?", vì các ông biết rằng đó là Chúa.   13Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông ; rồi cá, Người cũng làm như vậy.   14Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.







 

Ngọc Nga

unread,
May 3, 2025, 2:11:18 PMMay 3
to teresa...@googlegroups.com
THẤY THẦY LÀ THẤY CHA
 
Được sống với Thầy, được nghe những bài giảng của Thầy về Chúa Cha, Philipphê nhận ra Chúa Cha là Đấng cao cả nhưng cũng rất tốt lành, là nguồn hạnh phúc, cho nên ông và các tông đồ khác đã ước ao được thấy Chúa Cha: Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện!  Qua đó, chúng ta thấy được tấm lòng khao khát tìm kiếm chân lý của Philipphê và các Tông đồ.
 
Ước nguyện ấy lại được Chúa Giêsu đáp ứng một cách dễ dàng không ngờ: ai Thấy Thầy là thấy Cha!  Một ước vọng có vẻ cao sang nhưng lại được được đáp ứng quá nhanh chóng đến độ bất ngờ như thế, thực sự là một Tin vui hạnh phúc cho loài người chúng ta trên hành trình tìm kiếm chân lý, nhưng nhiều khi cũng vì quá dễ dàng, nên chân lý vĩ đại này lại thường bị bỏ quên.  Người ta thích đi con đường dài và  hiểm trở (để quan trọng hóa vấn đề) hơn là chọn con đường có vẻ quá đơn giản như thế.  Người ta đi tìm Chúa nơi nao trong khi Chúa ở rất gần, ở bên cạnh, ở trong lòng ta thì lại không biết, không thấy!  Người ta thích suy tư lý luận dài dòng phức tạp nhưng lại quên rằng Thiên Chúa của chúng ta và đường lối của Ngài lại rất đơn sơ.
Có lẽ Philipphê và Giacôbê cùng các Tông đồ sau khi được Chúa dạy dỗ bài học hôm nay, đã ý thức để sống thân mật với Chúa hơn, lãnh nhận chân lý với niềm tin yêu, và sau này các Ngài đã đổ máu đào để làm chứng cho chân lý ấy.
Đối với chúng ta hôm nay, chúng ta có khát khao tìm kiếm chân lý, tìm kiếm hạnh phúc đích thực không?  Có người vất vả đi tìm hạnh phúc tạm bợ, giả tạo nơi tiền bạc, danh vọng, lạc thú…; có người đi tìm ở triết thuyết này, đạo pháp kia; có người biết là phải đi tìm Chúa nhưng không biết tìm ở đâu!  Thì đây, Chúa Giêsu cho chúng ta câu trả lời đễ dàng đến bất ngờ:  Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.  Thì ra gặp Chúa Giêsu là gặp Chúa Cha nguồn Sự thật, thấy Chúa Giêsu là thấy Chúa Cha nguồn sự sống, yêu mến Chúa Giêsu là yêu mến chính Thiên Chúa là nguồn tình yêu.  Mà làm thế nào để tìm biết Chúa Giêsu?
Nếu anh biết Thầy, anh cũng sẽ biết Cha.  Khổ nỗi, cho đến hôm nay nhiều người trong chúng ta vẫn chưa biết Chúa Giêsu, mặc dù ta mang danh là Kitô hữu, ta vẫn nghe Kinh Thánh mỗi ngày, vẫn rước Chúa mỗi ngày!  Nếu một người lương dân hỏi: Chúa Kitô là ai?  Có lẽ phần đông chúng ta cũng gặp khó khăn trong câu trả lời đấy!  Phải chăng đã đến lúc chúng ta cần nhìn lại cách sống đạo của chính mình, kẻo chúng ta cũng bị trách như Chúa Giêsu trách Philipphê: Thầy ở với anh bấy lâu mà anh không biết thầy ư?  Phải chăng chúng ta cần tiếp cận Kinh Thánh một cách ý thức hơn, dành thời giờ học hỏi Kinh Thánh nhiều hơn, để biết đọc, biết suy, biết cảm nếm, để chúng ta có thể gặp được Đức Kitô Phục sinh đang sống động trong từng trang, từng Lời Kinh Thánh và để chính Đức Kitô sống động trong cuộc sống thường ngày của ta.
Nhiều anh chị em sau khi tham gia những khóa học Kinh thánh đã phải thốt lên: bây giờ tôi mới biết Đức Kitô là ai, bây giờ tôi mới cảm nghiệm tình Chúa yêu tôi như thế nào!  Trước đó họ vẫn đọc Kinh Thánh chứ, vẫn nghe Kinh Thánh, vẫn học giáo lý, vẫn nghe giảng dậy hàng ngày, nhưng có lẽ những hiểu biết, Đức Tin, lòng yêu mến có được chỉ là vay mượn, không đích thật là của mình, cho nên nó hời hợt, không có chiều sâu và dễ bị nghiêng ngả chao đảo khi gặp thử thách đau khổ.  Chỉ khi nào chính mình khám phá, trải nghiệm thì Đức Tin vào Đức Ki tô mới kiên vững, tình mến vào Chúa Kitô mới nồng nàn, và như thế chúng ta sẽ gặp được Chúa Cha là nguồn chân lý, bình an và hạnh phúc, và khi đó, chúng ta có thể làm được những điều như Chúa Giêsu đã làm, đó là làm nhân chứng cho Tin Vui phục sinh ở mọi nơi, để Chúa Cha được tôn vinh nơi Chúa con, để nhân loại được hạnh phúc trong Tình yêu của Chúa Ba Ngôi.
Nguyện xin hai thánh Tông đồ Philipphe và Giacôbê cầu thay nguyện giúp để chúng con noi gương các Ngài, khao khát tìm Chúa, siêng năng học hỏi Kinh Thánh, rước Thánh Thể một cách ý thức hơn để chúng con thực sự găp được Chúa, có được cuộc sống thân mật với Chúa Kitô, từ đó chúng con trở thành nhân chứng sống động, dám sống và chết cho Tin mừng Phục sinh.  Amen!
Lm. Đaminh Trần Công Hiển








 

Ngọc Nga

unread,
May 5, 2025, 9:45:20 AMMay 5
to teresa...@googlegroups.com


CON ĐƯỜNG XƯA EM ĐI
Con đường xưa em đi, vàng lên mái tóc thề, ngõ hồn dâng tái tê
Anh làm thơ vu quy, khách qua đường lắng nghe chuyện tình ta đã ghi
Những mùa trăng vu quy, vì mưa gió không về
Chiến trường anh bước đi
Có nàng hoen đôi mi, ngóng theo đường vắng hoe ...Hỏi còn ai cố tri
Em ơi! nhìn gió lên khơi, lòng có trông vời một người xa cuối trời?
Nơi đây phiên gác canh dài, e ấp đôi lời mình còn nhớ thương hoài
Em ơi! màu áo phong sương, mình ước huy hoàng được bàn tay chính nàng dâng hoa, dâng hết ân tình
Tình đến bao giờ
Hỏi đường xưa mà nhớ con đường xưa em đi
thời gian có quên gì
Đá mòn kia vẫn ghi, ghi một đêm trăng thanh
quán bên đường vắng tênh
Chỉ còn em với anh.
Châu Kỳ
****************************
Anh lính chiến của nhạc sĩ Châu Kỳ nơi “canh gác phiên dài” trong tiếng súng đại bác đì đùng mập mù khói súng, đang thả hồn về “đường xưa mà nhớ, con đường xưa em đi.”  Mắt ngắm ánh trăng của giây phút hiện tại, mà hồn anh tản mạn về “một đêm trăng thanh” quá khứ, ngày đó “quán bên đường vắng tênh, chỉ còn em với anh.”  Nếu không có khoảnh khắc nhìn lại “con đường xưa em đi, vàng lên mái tóc thề, ngõ hồn dâng tái tê” thì làm sao anh có thể “làm thơ vu quy, khách qua đường lắng nghe chuyện tình ta đã ghi?”
Là bước chân mạnh mẽ của tuổi trẻ cuồng nhiệt, hay bước chân vững chãi của tuổi trung niên chín chắn nhiều suy tư, hoặc bước chân run rẩy của tuổi già mệt mỏi thương về quá khứ…. ít nhiều ai cũng có những con đường đã đi qua trong đời.  Ai cũng có một thời để yêu, một thời để nhớ, những kỷ niệm đẹp, những ký ức buồn, những bóng hình yêu ghét khắc ghi trong tim.  Một giây phút rung động trước ai đó, một khoảnh khắc bàng hoàng sững sờ trước vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, một tích tắc thanh bình ru mình trong tiếng chim hót…. tất cả đã trôi theo dòng thời gian, và nay đã chìm vào dĩ vãng. “Thời gian có quên gì, đá mòn kia vẫn ghi,” vầng trăng vẫn chờ, quán bên đường vẫn đợi, chỉ hỏi anh có thời giờ để nhìn lại quãng đường đã qua?  Có chăng những người như nhạc sĩ Châu Kỳ biết dành ra trong đời một khoảnh khắc để nhìn lại giây phút đã qua, để hỏi đường xưa mà nhớ, hỏi lòng mình còn thương, hỏi còn ai cố tri…. mới có thể dệt nên bài thơ vu quy dâng tặng cho đời.
Thánh I-nhã Loyola mời gọi mỗi người dành một vài giây phút lắng đọng trong ngày để nhìn lại “con đường xưa ta đi,” mà thánh nhân gọi là Phút Hồi Tâm.  Con đường xưa đó có thể là một đời, một thời, một ngày, hoặc một vài tiếng đã trôi qua kể từ Phút Hồi Tâm trước.  Nhìn lại con đường đã qua, giờ thành quá khứ để xem đường xưa lối cũ với những bước chân đi như thế nào, tâm tình vui buồn ra sao? Những bước chân nào đang cùng đồng hành với tôi trong cuộc sống hôm nay?  Tôi có vô tình đạp lên chân ai đó để lại cho họ vết thương khó quên trong đời?  Tôi có thể tha thứ cho những bước chân dù vô tình hay hữu ý dẫm nát chân tôi?  Khúc quanh nào đã làm tôi vấp té?  Đâu là những niềm vui chợt đến, những nỗi buồn khó quên?  Thái độ đáp trả của tôi với cuộc đời, với tha nhân ra sao?  Chúa ở đâu, tôi ở đâu trên đường xưa lối cũ đó?
Nhìn lại “con đường xưa ta đi” để không thấy mình độc hành lẻ loi trên đời, mà còn thấy những bước đi trong ân sủng.  Để thấy Chúa đang cùng tôi sánh bước mà đôi lúc tôi không cảm nghiệm được sự hiện diện thánh thiêng đó.  Nhìn lại quãng thời gian đã qua để nhận định những khúc quanh đã làm bước chân kẻ lữ hành vấp ngã, những lầm lỡ trong lựa chọn, những dang dở trong quyết định.  Nhớ rồi cái ổ gà ẩn mình dưới xác lá thu vàng tại góc quanh cuối đường, biết rồi những cám dỗ êm dịu ngất ngây làm tôi xa Chúa.  Những phút giây nhìn lại đó sẽ giúp bước chân ngày mai kiên định hơn, tránh xa những vấp ngã hôm qua, tỉnh thức hơn trước những cơn cám dỗ.  Trái tim sẽ dễ dàng rung động hơn trước vẻ đẹp của thiên nhiên, trước nỗi đau của tha nhân, và linh hồn sẽ nhạy cảm hơn với sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời.  Tôi sẽ dễ dàng nhìn ra những thiếu sót của mình trong cuộc sống, những đáp trả chưa trọn vẹn với Thiên Chúa và với tha nhân trong những tháng ngày qua.
Cái giây phút tích tắc nơi chiến trường khói lửa nhớ về người con gái “hoen đôi mi, ngóng theo đường vắng hoe” của người lính, làm cho anh cảm thấy gần gũi hơn với người yêu phương xa, tuy còn “e ấp đôi lời” nhưng thấy lòng “mình còn nhớ thương hoài,” thì một vài giây Phút Hồi Tâm cũng sẽ giúp tôi cảm thấy tuy xa mặt, nhưng không cách lòng với một Thiên Chúa huyền bí vô hình, sẽ làm cho hai lòng nên một, và vấn vương nhớ thương hoài.  Qua Phút Hồi Tâm, một Thiên Chúa xa vời vợi sẽ trở nên sống động gần gũi hơn trong đời sống hiện tại, sẽ giúp cuộc sống tôi luôn quy hướng về một đích điểm duy nhất, nơi tôi đã khởi đầu sự sống.  Anh lính thả hồn thoát ra cái hiện tại nghiệt ngã, một cuộc sống kề bên cái chết để hồn mộng mơ nhớ về “con đường xưa em đi” để ước mơ anh được chắp cánh bay xa, một mơ “ước huy hoàng, được bàn tay chính nàng dâng hoa, dâng hết ân tình...” thì giây Phút Hồi Tâm cũng giúp hồn tôi thoát ra khỏi thực trạng khó khăn của giây phút hiện tại để chắp cánh bay xa… bay cao mãi đến tận trời xanh…. để những lo lắng vất vả trần tục không kéo ghì hồn tôi xuống đất đen.  Như ước mơ của anh lính chiến khi mọi sự đã qua “chỉ còn em với anh” thì tôi cũng mơ về ngày đoàn viên, khi những khốn khó lao đao vất vả của đời này qua đi, ngày đó chỉ còn Cha với Con.
Nhớ về “con đường xưa em đi,” nơi “có nàng hoen đôi mi, ngóng theo đường vắng hoe…” anh chợt nhận ra mình là một người hạnh phúc vì đang yêu và được yêu.  Cuộc sống dù cam go hiểm nguy nơi chiến trường gian khổ, với những “phiên gác canh dài,” ngày tháng buồn phương xa với “những mùa trăng vu quy, vì mưa gió không về” nhưng anh nhận ra cuộc sống có giá trị, cuộc đời vẫn đáng yêu và đáng sống.  Phút Hồi Tâm là nhìn lại “con đường xưa ta đi” để nhận dạng tình yêu trong cuộc sống, để thấy tôi đang được yêu và đáng được yêu mến.  Chính vì tình yêu đó, có Đấng đã từ bỏ ngôi vị Thiên Chúa chết cho tôi được sống.  Còn bao nhiêu khuôn mặt tình yêu khác trong cuộc sống này, bao nhịp đập trái tim đang hướng về tôi: chồng, vợ, con cái, cha mẹ, người yêu, anh em, bạn hữu…. tha nhân.  Tôi có đáp trả lại tình yêu đó hay không, tôi có đang yêu mến họ như họ mến yêu tôi hay không, giây phút Hồi Tâm sẽ giúp tôi trả lời câu hỏi đó.  Đời chỉ đẹp khi có tình yêu, cuộc sống chỉ có giá trị khi tôi tìm thấy giá trị của mình trong trái tim người khác, đặc biệt là trong trái tim của Chúa Tể muôn loài muôn vật.  Nếu không dừng lại vài phút mỗi ngày trong cuộc sống, thì làm sao tôi có thể nhận diện được ân sủng từ trời cao tuôn đổ xuống trên cuộc đời tôi từ những con đường xưa cũ đó, cho đến con đường hôm nay?
Phút Hồi Tâm không chỉ dành riêng cho các linh mục tu sĩ dòng Tên hay những ai đang theo linh đạo I-Nhã mà dành cho tất cả mọi người, mọi giới, mọi nơi… những người đang mong mỏi có Chúa đi bên đời với mình.  Chỉ vài phút mỗi ngày nhìn lại con đường đã qua để giúp tôi ý thức sự hiện diện của Chúa qua những biến cố lớn nhỏ buồn vui trong cuộc sống, để lòng với lòng gắn bó gần gũi với nhau hơn.  Nhẹ nhàng là thế, quyến rũ là thế sao tôi không liều mình vài phút để thử???
****************************
Lạy Chúa, trong cuộc sống tốc độ của thế kỷ 21 này, người ta thà nhắm mắt chạy liều về tương lai mà không biết chạy đi đâu, còn hơn mất một vài giây phút để ngồi nhìn lại quãng đường đã qua.  Xin cho con biết dành ra vài phút mỗi ngày làm Phút Hồi Tâm để bước chân ngày mai bớt lầm lạc, để biết tạ ơn Trời, cám ơn tha nhân đã cùng đồng hành với con.  Chúa ơi, xin chữa lành những vết thương, những dang dở thiếu sót của tháng ngày qua, xin nhận lấy những niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống chưa trọn vẹn hôm nay.  Hôm nay đã xong, mọi sự đã thành quá khứ, con không thể thay đổi được gì nữa nhưng ngày mai… tương lai… thời gian trước mặt… xin Chúa thánh hoá và giúp con sống trọn vẹn hơn, thánh thiện hơn như Cha trên trời là Đấng Thánh.
Lang Thang Chiều Tím






 

Ngọc Nga

unread,
May 6, 2025, 10:08:37 AMMay 6
to teresa...@googlegroups.com
 MÃI NO THOẢ
“Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”
Cha linh hướng của Catarina Siêna kể, “Một hôm, có việc phải đi sớm, tôi không dâng lễ; chiều về, Catarina đến thưa, “Thưa cha, con đói lắm!”  Tôi bảo, “Rất nhọc, không dâng lễ được!”  Catarina buồn rầu rời đi; nhưng vài phút sau, trở lại, thưa như trước.  Không cầm lòng, tôi ra kéo chuông và dâng lễ.  Lạ lùng thay, khi vừa bẻ Mình Thánh, một nửa trong tay tôi biến mất.  Tôi lo sợ tìm kiếm, nhưng Catarina nói, “Chúa đã đến với con!”  Lúc ấy, mặt chị sáng như mặt thiên thần!”
Kính thưa Anh Chị em,
‘Cơn đói của linh hồn’ chị thánh Catarina Siêna được Chúa Giêsu khai triển trong Tin Mừng hôm nay.  Ngài nói đến cơn đói siêu nhiên, nói đến “lương thực thường tồn” cho con người ‘mãi no thoả’; và ai tiếp nhận Ngài, mặt người ấy sẽ sáng như mặt thiên thần.
Trước hết, hãy xét xem bối cảnh!  Kìa, mới hôm qua, Chúa Giêsu nhân bánh cá ra nhiều để thết hàng ngàn người; và bây giờ, họ muốn điều đó tái diễn.  Nhân cơ hội này, Ngài dạy họ về Bánh Ban Sự Sống; Ngài cũng muốn làm như thế cho bạn và tôi!
Vậy bạn đói khát điều gì?  Có lẽ bạn có nhiều thức ăn, hoặc cũng có thể là không.  Nhưng như Catarina, một khi xác định được cơn đói sâu xa nhất của mình - đói Giêsu - bạn hãy cho phép Ngài nói với bạn về Bánh Hằng Sống.  Hãy nói với Ngài, “Đó là những gì con đói!”  Sau đó, hãy để linh hồn lắng nghe Ngài, “Ta muốn cho con nhiều hơn.  Ta là những gì con thực sự đói.  Hãy đến với Ta, con sẽ ‘mãi no thoả!’”  Đây là nội dung diễn từ Bánh Hằng Sống - suốt chương 6 Tin Mừng Gioan - Chúa Giêsu đã nói với người đương thời.
Đừng quên, Thánh Thể có khả năng biến đổi bạn ở mức độ sâu xa nhất!  Vậy mà chúng ta thường đến với Bí tích này cách uể oải và hay sao nhãng; kết quả, bạn và tôi thường không thực sự tiếp nhận Chúa Giêsu ở mức độ mang lại niềm vui, sự phấn khích, cũng như sự no thoả vô tận sâu sắc nhất.  Như Catarina, Têphanô - mặt sáng như mặt thiên thần - cho thấy sự no thoả đó, “Kìa, tôi thấy trời mở ra và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa” - bài đọc một.  Thánh Vịnh đáp ca có chung một tâm tình, “Trong tay Ngài, lạy Chúa, con xin phó thác hồn con!”.
Anh Chị em,
“Ai đến với tôi, không hề phải đói!”. “Bánh Ban Sự Sống” cho con người để nó không còn đói chính là Chúa Kitô, một quà tặng không chỉ có khả năng nâng đỡ tâm hồn và thể xác mà còn lôi kéo chúng ta vào niềm vui bất tận của thiên đàng.  “Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đừng quên rằng, nếu cần phải lo lắng về lương thực, thì điều quan trọng hơn nữa là nuôi dưỡng mối quan hệ của chúng ta với Ngài, củng cố đức tin của chúng ta vào Ngài, “Bánh Hằng Sống”, Đấng đã đến để thoả mãn cơn đói chân lý, cơn đói công lý và cơn đói tình yêu của chúng ta!” - Phanxicô.  Đến lượt mình, chúng ta hãy đi, mang theo bánh Giêsu và làm no thoả cơn đói tinh thần và vật chất của anh chị em mình; để như chúng ta, họ cũng ‘mãi no thoả’.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, con đói lắm!  Bao anh chị em con trong thế giới đói lắm!  Cho con ‘no Chúa’ và con sẽ đi đến tận mút chân trời, mang bánh Giêsu đến cho anh chị em con!”  Amen.

Ngọc Nga

unread,
May 7, 2025, 9:13:17 AMMay 7
to teresa...@googlegroups.com


BÍ QUYẾT ĐẠT TỚI SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI

(Suy niệm Tin mừng thánh Gioan (Ga 10, 27-30) Chúa nhật 4 phục sinh)
Sứ điệp: Muốn được sống đời đời thì phải vâng theo lời Chúa Giê-su dạy và sống theo đường lối Ngài.
***
Khát vọng lớn nhất đời người là gì?
Tất cả mọi người trên dương gian nầy, từ những vị vua đầy quyền lực ngự trên ngai cao, những nhà lãnh đạo tài năng thống lĩnh muôn người, những đại phú gia dư đầy tiền bạc cho đến những người dân đen khốn khổ… tất cả đều có chung một khát vọng, một khao khát rất sâu xa và mãnh liệt bùng lên từ sâu thẳm tâm hồn, đó là mong sao mình không phải chết nhưng được sống đời đời.
Thế nhưng, không một thứ thần dược hay một quyền lực nào trên đời có thể giúp con người đạt tới khát vọng đó.
Chỉ có Chúa Giê-su là Thiên Chúa, là Đấng ban sự sống cho nhân loại, mới có thể đáp ứng những khát vọng thâm sâu và mãnh liệt nầy mà thôi.
Chúa Giê-su đã khẳng định điều nầy với cô Mác-ta như sau:
"Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11,25).
Còn trong Tin mừng hôm nay, dựa vào hình ảnh thân thiết giữa người chủ chăn tốt và đoàn chiên ngoan, Chúa Giê-su nói với mỗi người chúng ta là những con chiên yêu quý của Ngài rằng:
Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10, 28).
Qua những lời nầy, Chúa Giê-su hứa ban cho những ai theo Ngài 2 hồng phúc trọng đại, đáp lại khát vọng muôn thuở của con người,
Thứ nhất: cho họ sống đời đời;
Thứ hai: không để họ bị diệt vong.
Điều kiện để được hồng phúc Chúa ban
Tuy nhiên, muốn được Chúa Giê-su ban cho hai hồng phúc quý báu nầy thì chúng ta phải đáp ứng 2 điều kiện Ngài đưa ra, đó là trở nên “chiên ngoan” và đi theo sự dẫn dắt của Ngài, như lời Ngài nói:
“Chiên của tôi thì NGHE TIẾNG TÔI; tôi biết chúng và CHÚNG THEO TÔI” (Ga 10, 27).
Điều kiện Chúa Giê-su đưa ra thật ngắn gọn và trong sáng, đó là ai muốn sống đời đời thì phải vâng theo lời Chúa Giê-su dạy và sống theo đường lối Ngài.
Sống trên đời, muốn đạt được bất cứ thành quả quan trọng và tốt đẹp nào thì người ta cũng phải trả giá, chứ không phải là “nằm há miệng chờ sung”. Muốn đỗ đạt học vị cao thì phải miệt mài đèn sách, muốn thu hoạch nhiều hoa màu ruộng đất thì phải ra công chăm bón, muốn trở thành thương gia thành đạt thì phải cật lực làm việc đêm ngày…
Vậy thì muốn được sống đời đời, ta cũng phải trả giá bằng VÂNG GIỮ LỜI DẠY VÀ SỐNG THEO GƯƠNG LÀNH CỦA CHÚA GIÊ-SU.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con trở nên chiên ngoan trong đoàn chiên của Chúa, vâng giữ lời Chúa truyền dạy, bước đi theo đường lối Ngài, để được Ngài dẫn vào cõi sống đời đời trên thiên quốc. Amen.
Linh mục Inha-xi-ô Trần Ngà

Tin mừng Gioan (Ga 10, 27-30)
Khi ấy, Chúa Giê-su nói với người Do Thái rằng: 27 Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi.28 Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.29 Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.30 Tôi và Chúa Cha là một."



 

Ngọc Nga

unread,
May 8, 2025, 8:10:58 AMMay 8
to teresa...@googlegroups.com
ps_04c.doc
Bài đọc trong tuần C.doc
CN4PS_C.pps

Ngọc Nga

unread,
May 8, 2025, 8:13:26 AMMay 8
to teresa...@googlegroups.com

CHUYỆN TÌNH
Chủ Ðề: “Thiên Chúa mời gọi chúng ta tìm hiểu về Người, đi vào cuộc tình với Người, và sống hạnh phúc mãi mãi với Người.”
Nhiều năm trước đây có một cuốn phim nổi tiếng tên là Laura.  Cuốn phim nói về một thám tử trẻ được giao cho công tác điều tra cái chết của một phụ nữ trẻ đẹp tên là Laura mà một đêm kia, có người đã dùng súng sát hại cô ngay trong căn phòng của cô.
Trong năm ngày tiếp đó, người thám tử trẻ ở suốt trong phòng của Laura để tìm tòi, lục soát đủ mọi thứ của cô: quần áo, sách vở, hình ảnh.  Ngay cả đọc thư từ và nhật ký của cô để cố tìm ra manh mối đã dẫn đến cái chết của người phụ nữ này.
Và rồi điều lạ lùng xảy đến.  Viên thám tử thực sự bận tâm với Laura.  Anh bắt đầu có cảm tình.  Anh thấy mình yêu Laura.  Anh thấy mình yêu một người đã chết.
Một đêm kia khi đang trong phòng của Laura để tìm tòi, bỗng dưng anh nghe có tiếng chìa khóa lạch cạch ở cửa.  Và khi cửa mở, anh không tin nổi ở mắt mình, cô Laura đang đứng ngay đó.
Cô hạch hỏi, “Ông đang làm gì trong phòng của tôi?”  Viên thám tử giải thích cho cô những gì đã xảy ra.
Để rút ngắn câu chuyện, trong vài ngày qua cô Laura đã ra ngoại quốc, để lánh xa mọi sự.  Trong thời gian đó, cô không nghe phát thanh và cũng chẳng đọc báo.  Cô không biết gì về cái chết của chính mình.
Thì ra người phụ nữ bị giết là người đã dùng căn phòng của Laura trong thời gian cô đi vắng.
Cuốn phim kết thúc với cuộc tình của Laura và chàng thám tử, họ lấy nhau và sống hạnh phúc suốt đời.
Cuốn phim gồm ba cảnh.
Cảnh thứ nhất là chàng thám tử tìm tòi căn phòng của Laura, từ đó dẫn đến lòng thương yêu cô này.
Cảnh thứ hai là sự xuất hiện của Laura ở cửa phòng và chàng thám tử nhận ra cô.
Cảnh thứ ba là sự tỏ tình của chàng thám tử và anh kết hôn với Laura.
Ba cảnh này cũng là ba cảnh mà Thiên Chúa đã hoạch định cho mỗi người chúng ta.
Trước hết, Thiên Chúa đã tạo nên chúng ta và đặt chúng ta vào thế giới để tìm hiểu về Người, cũng như chàng thám tử được đặt trong phòng của Laura để tìm hiểu về cô này.
Thứ đến, Thiên Chúa, qua con người của Đức Giêsu Kitô, đã đi vào thế gian để được nhận biết bởi chúng ta, cũng như Laura đi vào căn phòng và được nhận biết bởi chàng thám tử.
Sau cùng, Thiên Chúa hoạch định để chúng ta đi vào cuộc tình với Người và sống hạnh phúc mãi mãi với Người, cũng như chàng thám tử đã yêu Laura và sống hạnh phúc bên cô.
Cảnh phim Laura và cảnh hoạch định của Thiên Chúa giúp chúng ta quý trọng hơn bài Phúc Âm hôm nay mà nó cũng phản ảnh một cảnh có ba phần.
Trước hết, Thiên Chúa đã đặt dân được chọn của Người trong Cựu Ước để tìm hiểu về Người.
Thứ hai, vào đúng thời đúng buổi, chính Thiên Chúa đã xuất hiện ở cửa ngõ lịch sử trong con người Đức Giêsu Kitô.
Sau cùng, những ai nhận Đức Giêsu là Chúa thì sẽ nghe tiếng Người, theo Người và được lãnh nhận sự sống đời đời từ Người.
Đây là điều Chúa Giêsu muốn nói trong bài phúc âm hôm nay, khi Người nói về những ai nhận biết Người:
Chiên ta thì nghe tiếng ta; và chúng theo ta.  Ta ban cho chúng sự sống đời đời.”  Vì “Chúa Cha và ta là một.”
Hãy xem thử chúng ta áp dụng điều này vào cuộc sống như thế nào.  Trước hết, hãy nhớ lại chàng thám tử trong cuốn phim và anh ta đã khảo sát thật kỹ lưỡng mọi thứ trong phòng cô Laura.  Không có ngõ ngách nào mà không được tìm kiếm để anh biết mọi sự về cô ta.
Kết quả là anh yêu cô nàng, dù chưa bao giờ gặp mặt.
Đó cũng là điều chúng ta phải thi hành trong thế giới.  Chúng ta phải nghiên cứu mọi sự. Và qua sự nghiên cứu thế giới và những bí ẩn cũng như sự mỹ miều của nó, và ngay cả những đau khổ, chúng ta phải đi vào cuộc tình với Thiên Chúa, mặc dù chúng ta chưa bao giờ diện đối diện với Người.
Thứ đến, chúng ta cũng phải nghiên cứu mọi thứ về Đức Giêsu Kitô.  Chúng ta phải học hỏi mọi thứ về Người nếu có thể.  Vì trong Đức Giêsu chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa diện đối diện, cũng như viên thám tử gặp gỡ Laura diện đối diện ở ngưỡng cửa căn phòng.
Chúa Giêsu nói, “Ai thấy ta là thấy Chúa Cha” (Gioan 14:9).
Sau cùng, chúng ta phải cố gắng tận tụy cuộc đời cho Chúa Giêsu, lãnh nhận sự sống đời đời nơi Người, và sống hạnh phúc mãi mãi với Người, cũng như chàng thám tử tận tụy cuộc đời cho Laura, kết hôn với cô, và sống hạnh phúc mãi mãi bên cô.
Nói cách khác, bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta tìm hiểu về Thiên Chúa qua những gì Người đã tạo nên trong vũ trụ.  Đó là những mấu chốt để chúng ta biết về Thiên Chúa, cũng như quần áo sách vở của cô Laura là các mấu chốt để chàng thám tử biết cô ta như thế nào.
Bài Phúc Âm hôm nay cũng mời gọi chúng ta tìm hiểu về Chúa Giêsu Kitô, đi vào cuộc tình với Người, theo Người, và sống hạnh phúc mãi mãi với Người, cũng như chàng thám tử yêu cô Laura, kết hôn với cô, và sống hạnh phúc bên cô.
Hãy kết thúc với lời cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con,
Ngài đã dựng nên chúng con và ban sự sống cho chúng con.
Ngài đã đặt chúng con trong thế giới mỹ miều và đầy bí ẩn này
để tìm tòi, nghiên cứu và hiểu biết về Ngài.
Nhưng thường thì chúng con lại đi ngược.
Sự mỹ miều của đời sống đã khiến chúng con xa cách Ngài,
thay vì lôi kéo chúng con đến Ngài.
Nhưng Chúa đã không bỏ rơi chúng con.
Ngài gọi chúng con, Ngài la hét vào tai chúng con;
Ngài phá vỡ sự câm điếc của chúng con.
Ngài loé sáng trước mặt chúng con, Ngài lấy đi sự đui mù của chúng con.
Và bỗng dưng, chúng con bắt đầu nghe được tiếng Chúa
trong mọi cảnh tượng và trong mọi tiếng hát.
Chúng con bắt đầu thấy ánh sáng của Ngài
trong mọi ngôi sao và mọi bông hoa.
Và rồi cái ngày không thể nào quên được đã đến,
khi chúng con nghe tiếng Ngài
và thấy sự hiện diện của Ngài trong Đức Giêsu, Con Ngài.
Xin giúp chúng con lắng nghe Chúa Giêsu, đi theo Người,
và lãnh nhận sự sống đời đời từ Người.
Xin giúp chúng con chu toàn kế hoạch của Chúa dành cho chúng con
và sống hạnh phúc mãi mãi bên Chúa.
Lm. Mark Link, S.J.

 




 

Ngọc Nga

unread,
May 10, 2025, 5:48:12 PMMay 10
to teresa...@googlegroups.com
THÁNG NĂM - NHỮNG ĐÓA HOA DÂNG MẸ
Tháng Năm về, một tháng trong năm với tên gọi thật thơ mộng, thật tươi vui: Tháng Hoa.
Mỗi độ tháng Hoa về, các Nhà thờ rộn rã mùa dâng hoa kính Đức Mẹ.  Phụng vụ Mùa Hoa tưng bừng nhộn nhịp với nhiều thể loại phong phú Rước hoa và Dâng hoa tuỳ mỗi tập quán mỗi đặc trưng văn hoá địa phương.
Nói tới hoa là nghĩ về một kỳ công của Thiên Chúa.  Hoa muôn màu muôn sắc, hoa tươi xinh, hoa thơm ngào ngạt.  Hoa tô thắm vũ trụ nên xinh tươi.  Hoa mời gọi ong bướm đến hút mật.  Hoa khoe sắc thắm, nhoẻn cười với con người.  Lời của hoa thật dịu huyền giữa thiên nhiên.  Hoa hòa vào lòng người dâng lời cảm tạ Thiên Chúa.
Loài hoa nào cũng đẹp. Loài hoa nào cũng gởi cho ta một sứ điệp yêu thương.  “Hoa Hướng Dương biểu trưng cho mặt trời toả sáng, sưởi ấm lòng người.  Hoa Mười Giờ gởi ta một tình yêu thuỷ chung, son sắt.  Dù đời em chỉ toả sáng lúc mười giờ, nhưng trọn đời em vẫn yêu thương.  Thật vấn vương khi nhắc đến loài Hoa Phượng.  Loài hoa gợi ta nhớ lại những phút giây vui đùa trên sân trường thuở nhỏ, một tuổi thơ mơ tiên, hồn nhiên, trong trắng, thơ ngây, tuổi ô mai, tuổi vấn vương, tuổi học trò.  Màu hoa tươi tắn là tình yêu chan chứa cho cuộc đời khô cằn nắng cháy và cũng là ước nguyện, sức sống cho tương lai.  Hoa Lưu Ly là lời tha thiết yêu thương “xin đừng quên tôi.”  Cuộc đời là muôn đời liên kết “xin đừng quên tôi” hỡi người tôi yêu!  Đó phải chăng là những ai còn nhớ và những ai đã quên, nhất là khi ta vắng mặt sau cuộc đời trần thế.” (Sứ điệp loài hoa, trg 11.)
Hoa đã trở thành bạn thân thiết với con người.  Khi vui người ta tặng hoa để chúc mừng nhau.  Khi buồn người ta cũng trao gởi lẵng hoa như trao gởi tấm lòng đồng cảm thân thương.  Hoa khích lệ lòng người.  Hoa hướng con người nhớ tới Đấng tạo hoá đã xoay vần vũ trụ bốn mùa xinh tươi.  Hoa mơn man lòng người đau khổ.  Hoa khích lệ những ai thất bại.  Hoa chúc mừng những ai chiến thắng.  Hoa ca vang kỳ công kiệt tác của Thiên Chúa.  Đôi khi, chỉ một cánh hoa đủ trào dâng lòng mến của Thánh Têrêxa Hài Đồng.  Nhiều lần, một dàn hoa làm tâm hồn Thánh Phanxicô ngây ngất tình Chúa.
Lắng nghe tiếng nói huyền diệu của hoa, Thánh Bênađô biết được tâm trạng của hoa.  Chẳng hạn, Hoa Hồng giàu lòng yêu mến.  Hoa Huệ biểu tượng đức Khiết trinh, Hoa Tím là duyên đức đoan trang khiêm tốn.  Thánh nhân ca ngợi các nhân đức Đức Mẹ qua ý nghĩa các loài hoa.  Hoa Hồng đức mến, Hoa Huệ đức Khiết trinh, Hoa Tím đức Khiêm nhường.  Đức Mẹ là Hoa Huệ khiết trinh.  Đức Mẹ là Hoa Hồng yêu mến.  Hương thanh khiết và tình yêu của Mẹ đã làm cho mùa xuân trần gian được hồi sinh.  Ơn cứu độ được ban tặng cho trần đời nhờ hoa lòng của Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa.
Sứ Thần Gabriel đã cung kính thưa với Mẹ rằng: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng bà!" (Lc 1,28).  "Ðấng đầy ơn phước" là tên gọi đẹp nhất của Mẹ Maria, tên gọi mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, để chỉ cho biết rằng từ muôn thuở và cho đến muôn đời, Đức Mẹ được yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn.  Đức Mẹ tuyệt đẹp vì không vương vấn tội, vẻ đẹp của sự thánh thiện vô tỳ tích, một vẻ đẹp không chỉ do con người nỗ lực thanh tẩy mà còn do ân sủng Thiên Chúa trao ban.
Tháng Năm về, mỗi lần thưởng thức hương hoa, ta hãy hướng về Đức Mẹ, xin Mẹ tỏa hương thiên đàng của người, ấp ủ ta thành những đóa hoa tươi thắm của Mẹ.  Mỗi khi hái hoa dâng tiến Đức Mẹ, ta hãy mượn hương sắc và lời huyền diệu của hoa để ca tụng hoặc cầu xin người.  Dâng Hoa Hồng, xin Mẹ cho ta được yêu mến Mẹ nhiều hơn.  Dâng Hoa Huệ, ta ca ngợi đức khiết trinh của Mẹ.  Xin Mẹ lấy hương huệ trinh nguyên của hồn Mẹ ướp hồn ta nên trong trắng.
Tháng Năm về, mỗi tín hữu yêu mến Hoa Mân Côi cách đặc biệt hơn.  Hoa Mân Côi là sứ điệp Yêu Thương, sứ điệp Ơn Cứu Độ, là kinh nguyện Phúc Âm được kết dệt từ các mầu nhiệm chính trong đạo: Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, Mầu Nhiệm Cuộc Đời Dương Thế, Vượt Qua và Thăng Thiên, được suy gẫm qua 20 Mầu Nhiệm “Hoa Mân Côi” : Năm Sự Vui, Năm Sự Sáng, Năm Sự Thương, Năm Sự Mừng.
Mỗi khi cất lên lời kinh: Kính mừng Maria đầy Ơn Phước… là chúng ta kết thành Hoa Mân Côi kính dâng Mẹ.  Từ trời cao, Đức Mẹ mừng vui và ban muôn ơn lành cho đoàn con cái sốt mến thành tâm hướng về Mẹ.
Ở thành Nancêniô trong nước Pháp, có một gia đình trung lưu.  Vợ đạo đức, chồng hiền lành nhưng khô khan.  Vợ luôn cầu xin Chúa mở lòng cho chồng sửa mình, nhưng chồng cứng lòng mãi.
Năm ấy, đầu tháng Hoa Đức Mẹ, bà sửa sang bàn thờ để mẹ con làm việc tháng Đức Mẹ.  Chồng bà bận việc làm ăn, ít khi ở nhà, và dù ông ở nhà cũng không bao giờ cầu nguyện chung với mẹ con.  Ngày lễ nghỉ không bận việc làm thì cũng đi chơi cả ngày, nhưng ông có điều tốt là khi về nhà, bao giờ cũng kiếm mấy bông hoa dâng Đức Mẹ.
Ngày 15 tháng Sáu năm ấy, ông chết bất thình lình, không kịp gặp linh mục . Bà vợ thấy chồng chết không kịp lãnh các phép đạo, bà buồn lắm, nên sinh bệnh nặng, phải đi điều trị ở nơi xa.  Khi qua làng Ars, bà vào nhà xứ trình bày tâm sự cùng cha xứ là cha Gioan Maria Vianey.
Ngài là người đạo đức nổi tiếng, được mọi người xem là vị thánh sống.  Bà vừa tới nơi chưa kịp nói điều gì, cha Vianey liền bảo:
- Đừng lo cho linh hồn chồng bà.  Chắc bà còn nhớ những bông hoa ông vẫn đem về cho mẹ con bà dâng cho Đức Mẹ trong tháng Hoa vừa rồi chứ?
Nghe cha nói, bà hết sức kinh ngạc, vì bà chưa hề nói với ai về những bông hoa ấy, nếu Chúa không soi cho cha, lẽ nào người biết được?
- Cha Vianey nói thêm: Nhờ lời bà cầu nguyện và những việc lành ông ấy đã làm để tôn kính Đức Mẹ, Chúa đã thương cho ông ấy được ăn năn tội cách trọn trong giờ chết.  Ông ấy đã thoát khỏi hỏa ngục, nhưng còn bị giam trong luyện ngục, xin bà dâng lễ, cầu nguyện, làm việc lành thêm cầu cho ông chóng ra khỏi nơi đền tội nóng nảy mà lên Thiên đàng.  Nghe xong lời cha Vianey, bà hết sức vui mừng tạ ơn Đức Mẹ. (trích từ: Sách Tháng Đức Bà, Hiện Tại xuất bản, 1969, trg 10).
Chỉ có mấy bông hoa nhỏ dâng kính Đức Mẹ mà người đàn ông khô khan ấy cũng được Đức Mẹ ban ơn cứu rỗi lớn lao như vậy.  Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở, yêu thương nâng đỡ.  Chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của bậc thầy lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa.  Hãy luôn vững lòng cậy trông với niềm tin yêu.  Đức Mẹ hằng yêu thương phù trợ mỗi người chúng ta.
Trong tháng Năm này, chúng ta tham dự những buổi dâng Hoa, rước kiệu, lần hạt Mân Côi… dâng lên Mẹ những hoa tin, cậy, mến, hi sinh, đau khổ, bệnh tật… chắc sẽ được Đức Mẹ ban nhiều ơn lành.  Mẹ thích những bông hoa Xanh của lòng cậy, hoa Đỏ của lòng mến, hoa Trắng của lòng trong sạch, hoa Tím của hy sinh hãm mình, hoa Vàng của niềm tin, hoa Hồng của tình yêu sắt son chung thủy.
Xin dâng lên Mẹ hoa Trắng của sự trinh trong, xin Mẹ giúp chúng con gìn giữ tâm hồn luôn trong trắng, thánh thiện.
Xin dâng lên Mẹ hoa Xanh của niềm cậy trông và hy vọng, xin đừng để chúng con thất vọng chùn bước trước bất cứ khó khăn nghịch cảnh nào của cuộc sống.
Xin dâng lên Mẹ hoa Vàng của niềm tin kiên vững, xin Mẹ dạy chúng con sống phó thác tin tưởng vào tình thương và sự quan phòng của Chúa như Mẹ.
Xin dâng lên Mẹ hoa Hồng của lòng yêu mến, xin Mẹ dạy chúng con biết yêu Chúa hết lòng và yêu anh chị em mình như Chúa đã yêu chúng con.
Xin dâng lên Mẹ hoa Tím của những đau khổ, bệnh tật, thất bại, xin Me dạy chúng con biết vui lòng chấp nhận Thánh Giá Chúa gởi đến để trung thành bước theo Đức Kitô, Con của Mẹ.
Lạy Mẹ Maria, những đoá hoa lòng đơn sơ, chân thành nhưng đượm tình yêu mến, chúng con xin dâng lên Mẹ, xin Mẹ thương nhận lấy và chúc lành cho chúng con.  Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 




 

Ngọc Nga

unread,
May 14, 2025, 9:59:01 AMMay 14
to teresa...@googlegroups.com


CHÚA GIÊ SU MANG TÌNH YÊU SƯỞI ẤM ĐỊA CẦU
(Suy niệm Tin mừng Gioan (Ga 13, 31-33a. 34-35) Chúa nhật 5 Phục sinh năm C)

Sứ điệp: chỉ có TÌNH YÊU MỚI CÓ THỂ CỨU THẾ GIỚI
* * *
Khi tình yêu thiếu vắng và hận thù lên ngôi
Đến Campuchia, du khách thường cảm thấy “lạnh gáy” và “rợn người” khi đến thăm “Cánh đồng chết”. Nơi đây có một Đài tưởng niệm dành cho các nạn nhân bị Khmer Đỏ giết hại trong các vụ thảm sát hàng loạt từ năm 1975 đến 1979.
Đài tưởng niệm nầy hiện còn lưu giữ khoảng 8.000 đầu lâu của các nạn nhân, được đặt trong các tủ kính lớn để du khách và người dân có thể thấu hiểu tội ác khủng khiếp của Khmer Đỏ. Những đầu lâu nầy được khai quật từ các hố chôn tập thể tại khu vực nầy, nơi có khoảng 129 hố chôn với hàng chục ngàn thi thể.
Pol Pot và chế độ Khmer Đỏ (từ năm 1975- đến1979) đã giết hại từ 1,5 đến 2 triệu người Campuchia, chiếm khoảng 20-25% dân số nước nầy vào thời điểm đó !!
Ngoài ra, trong thế chiến lần thứ 2 vào năm 1939-1945, Hitler và bộ máy chiến tranh do ông ta điều khiển đã giết hại chừng 6 triệu người Do-thái trong các lò hơi ngạt và gần chục triệu người mang quốc tịch khác trong các vùng bị Đức chiếm đóng!!
Những sự kiện kinh hoàng như thế chứng tỏ rằng một khi nhân loại để cho tình yêu vắng bóng và hận thù lên ngôi… thì những thảm họa khủng khiếp và hết sức kinh hoàng sẽ vùi giập con người trong đại dương đau thương và chết chóc!
Đối mặt với những đau thương đó, nhân loại chỉ còn hy vọng vào tình yêu, chỉ có TÌNH YÊU MỚI CÓ THỂ CỨU THẾ GIỚI.
Chính vì thế, bận tâm hàng đầu của Chúa Giê-su khi đến trần gian là MANG YÊU THƯƠNG SƯỞI ẤM ĐỊA CẦU.
Ngài dâng hiến trọn cuộc đời để sống cho tình yêu và chết cho tình yêu. Đặc biệt, trước khi từ giã các môn đệ để nộp mình chịu chết, Chúa Giê-su thổ lộ can tràng với các ông và ban cho các ông điều răn mới: “Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau.”
Khát vọng của Chúa Giê-su là tình yêu bừng cháy trong tim Ngài cũng sẽ được khơi dậy trong tim mọi người. Chính vì thế, Ngài nhấn mạnh: “Thầy yêu thương các con thế nào, thì các con cũng hãy yêu thương nhau như vậy.” Ngài mong ước Lửa yêu thương nung đốt trái tim Ngài cũng phải bừng lên trong tim mọi người.
Lạy Chúa Giê-su,
Nhân loại sẽ rơi vào cảnh điêu linh, sẽ chìm đắm trong đại dương đau khổ và chết chóc nếu không tuân giữ điều răn mới Ngài truyền dạy.
Xin cho đoàn con cái Chúa ghi tâm khắc cốt điều răn yêu thương Chúa dạy và quyết tâm thực hiện mỗi ngày, nhờ đó, thế giới sẽ được sống trong hòa bình bền vững và mọi người sẽ vui hưởng hạnh phúc an vui. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
TIN MỪNG GIOAN 13, 31-33a. 34-35
Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc, Chúa Giêsu liền phán: "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển.
"Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau".   

 




 

Ngọc Nga

unread,
May 15, 2025, 8:56:04 AMMay 15
to teresa...@googlegroups.com
ps_05c.doc
Bài đọc trong tuần C.doc
CN5PS_ C.pps

Ngọc Nga

unread,
May 16, 2025, 9:48:47 AMMay 16
to teresa...@googlegroups.com
HƯỚNG DẪN CỦA THÁNH LINH
 
Một phi công trẻ tuổi vừa bay qua điểm "không thể trở lại" thì thời tiết bỗng thay đổi. Ðộ nhìn thấy rõ tụt xuống chỉ còn vài thước khi sương mù bắt đầu tràn xuống mặt đất.
Ðặt hết niềm tin vào dụng cụ trong phòng máy là một kinh nghiệm mới đối với chàng. Chàng chỉ còn có khả năng bay nhờ dụng cụ điều khiển tự động. Ðáp xuống làm cho chàng lo hơn cả. Nơi đến của chàng là một phi trường đô thị đông đảo mà chàng chưa quen. Trong vài phút nữa chàng sẽ liên lạc máy với tháp điều khiển bay. Cho đến lúc đó thì chàng một mình với tư duy.
Người huấn luyện viên đã ép chàng phải học thuộc lòng cuốn sách luật lệ bay. Lúc ấy chàng không thích nhưng bây giờ chàng cảm thấy biết ơn người thầy đó.
Sau cùng chàng nghe tiếng người kiểm soát không lưu: "Tôi sẽ để anh vào vị thế chờ nhé".
- "Tốt!" Chàng phi công suy nghĩ.
Nhưng chàng biết việc đáp xuống hoàn toàn nằm trong tay người kiểm soát. Chàng phải rút ra tất cả những lời dạy từ trước, và tin cậy tiếng nói của người kiểm soát, dù rằng không nhìn thấy người đó. Biết đây không phải là lúc khoe tài, nên chàng báo cho người kiểm soát:
- Tôi chưa quen bay trong thời tiết này, xin anh vui lòng chỉ dẫn cho tôi, cám ơn.
- "Cứ yên trí". Người kiểm soát nói.
Trong suốt 45 phút sau đó, người kiểm soát nhẹ nhàng chỉ dẫn chàng phi công trẻ tuổi qua làn sương dày đặc. Hướng bay và độ cao được chỉ bảo điều chỉnh từng hồi từng lúc. Chàng phi công nhận thấy rằng mình được căn dặn tránh nhiều vật cản và khỏi bị va chạm vào các máy bay khác. Nhờ lời dạy trong sách và tiếng nói nhẹ nhàng của người kiểm soát, không lâu chàng đáp xuống sân bay an toàn.
***
Thánh Linh dẫn dắt chúng ta qua cung mê của cuộc đời cũng y như người kiểm soát không lưu vậy. Người ấy cho rằng chàng phi công đã hiểu mọi lời giáo huấn của tập cẩm nang hướng dẫn bay, vì người ấy chỉ căn cứ vào đó mà hướng dẫn.
Ðó cũng y hệt như việc Thánh Linh làm. Ngài có thể hướng dẫn chúng ta, nếu chúng ta hiểu biết Lời Thánh Kinh, và nếu chúng ta quyết tâm muốn đi theo ý muốn của Thiên Chúa.
***
Lạy Chúa Thánh Thần,
xin ban sức sống cho chúng con.
Xin cho cuộc đời kitô hữu của chúng con
đừng rơi vào sự đơn điệu nghèo nàn,
vào những lối mòn quen thuộc,
nhưng xin canh tân
và tái tạo chúng con mỗi ngày.
 
Xin nuôi chúng con bằng những thức ăn mới,
cho chúng con khám phá ra
những chiều sâu khôn dò của Ðức Kitô
và ý nghĩa thâm thúy của Tin Mừng.
 
Lạy Chúa Thánh Thần là Ðấng ban sự sống,
thế giới hôm nay luôn bị đe dọa
bởi bạo lực, khủng bố, chiến tranh ;
mạng sống con người bị coi rẻ.
 
Xin cho chúng con biết say mê sự sống,
và gieo vãi sự sống khắp nơi.
 
Ước gì Chúa ban cho nhân loại
một lễ Hiện Xuống mới
để con người có thể hiểu nhau hơn
và đón nhận nhau trong yêu thương
 
Amen
~

 

 




 

Ngọc Nga

unread,
May 16, 2025, 10:01:02 PMMay 16
to teresa...@googlegroups.com
XIN CẦU NGUYỆN CHO CÁC LINH HỒN 

Vào ngày 3 tháng 5 năm 2025, một tai nạn giao thông nghiêm trọng đã cướp đi sinh mạng của 7 tu sĩ Dòng Phanxicô Capuchin tại Nigeria khi họ đang trên đường đến một kỳ tĩnh tâm. Sự mất mát này không chỉ là nỗi đau của Dòng Capuchin mà còn là cú sốc lớn đối với cộng đồng Công giáo Nigeria, vốn đã chịu nhiều thử thách trong những năm gần đây.

Theo thông tin từ Dòng Capuchin tại Nigeria, vào tối ngày 3 tháng 5, 13 tu sĩ đã rời Cộng đoàn Ridgeway ở bang Enugu để đến Obudu, bang Cross River, tham dự một kỳ tĩnh tâm.

Trên đường đi, xe chở họ gặp tai nạn nghiêm trọng, khiến bảy tu sĩ thiệt mạng và sáu người khác bị thương ở nhiều mức độ khác nhau. Những tu sĩ bị thương đã được chuyển về Enugu để điều trị.

Trong một tuyên bố chia sẻ với ACI Africa, đối tác tin tức của CNA tại Phi Châu, vào ngày 5 tháng 5, ban lãnh đạo của dòng tại Nigeria đã cung cấp thông tin chi tiết về vụ tai nạn xảy ra vào ngày 3 tháng 5 tại Cộng đồng Ridgeway ở tiểu bang Enugu của Nigeria.

“Với nỗi buồn sâu sắc nhưng trong niềm hy vọng vào Ngày Phục sinh, Dòng Phanxicô Capuchin thuộc Nigeria xin thông báo về cái chết của một số anh em trong một sự việc bi thảm xảy ra vào tối ngày 3 tháng 5 năm 2025,” tuyên bố có chữ ký của Cha John-Kennedy Anyanwu, người quản lý của dòng cho biết.

“Mười ba anh em của chúng tôi đã rời khỏi Cộng đồng Ridgeway, tiểu bang Enugu, đến Obudu, tiểu bang Cross Rivers, Nigeria, nhưng không may đã gặp phải một tai nạn chết người. Bảy anh em đã tử vong do tai nạn, trong khi sáu người trong số họ bị thương ở nhiều mức độ khác nhau. Những anh em bị thương đã được chuyển đến Enugu để điều trị thích hợp.”

Trong tuyên bố, Cha Anyanwu đã phó thác linh hồn của những người đồng cấp đã khuất cho “tình yêu thương của Chúa” và mời mọi người “cùng chúng tôi cầu nguyện cho linh hồn các anh em được siêu thoát”. Ngài cho biết việc tổ chức tang lễ sẽ được “thông báo kịp thời”.

Các tu sĩ Capuchin đã khuất được xác định là:

Tu sĩ Somadina Ibe-Ojuludu, OFM Cap

Tu sĩ Chinedu Nwachukwu, OFM Cap

Tu sĩ Marcel Ezenwafor, OFM Cap

Tu sĩ Gerald Nwogueze, OFM Cap

Tu sĩ Kingsley Nwosu, OFM Cap

Tu sĩ Wilfred Aleke, OFM Cap

Tu sĩ Chukwudi Obueze, OFM Cap

---
Lạy Chúa, xin ban cho họ sự nghỉ ngơi vĩnh cửu, và xin ánh sáng vĩnh cửu chiếu soi họ. Xin cho họ được nghỉ ngơi trong bình an. Amen 

.
Theo Catholic World Report // CGVST.COM dịch
 #TinCongGiao24h #cgvst


 

 




 

Ngọc Nga

unread,
May 17, 2025, 8:12:24 AMMay 17
to teresa...@googlegroups.com
PHIM NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN
Tôi chắc chắn nhiều người đã biết loạt phim truyền hình The Chosen (Người Được Chọn) về cuộc đời Chúa Giêsu.  Phim phát hành từ năm 2019, đã ra rạp, đã phát trên mạng và đã có hơn 200 triệu người xem.  Phim được dịch ra 50 ngôn ngữ và có 13 triệu người theo dõi trên mạng xã hội, với khoảng 30% khán giả không phải là tín hữu Kitô.
Phim được được nhà sản xuất Dallas Jenkins dàn dựng, ông là tín hữu kitô phái Phúc âm với sự hiểu biết về đại kết và liên tôn rất sâu đậm.  Jonathan Roumie, người công giáo La-mã sốt sắng, đóng vai Chúa Giêsu.  Chúa Giêsu trong phim có cái gì đó khác với Chúa Giêsu chúng ta thường thấy trong các minh họa và các phim khác.  Trong phim này, đạo diễn giới thiệu một Chúa Giêsu gần gũi và dễ gần và vì thế có một tác dụng rất hữu ích.
Đó là tác dụng nào?  Linh mục Dòng Tên Joe Hoover viết trên báo America: “Tôi được rửa tội, là tín hữu Kitô đã 53 năm, học trường công giáo và ở Dòng Tên đã 30 năm… loạt phim The Chosen đem lại cho tôi nhận thức, gắn kết với cuộc đời Chúa Kitô và các môn đệ mà tôi không có được ở bất cứ đâu khác.  Không có bài giảng, không có lời tán tụng thần học, không có bằng thạc sĩ, không có lớp học về thánh Gioan, Thánh Máccô hay Thánh Luca, không có hội thảo linh đạo, không có khóa tĩnh tâm Kinh Thánh 30 ngày nào, nhưng bộ phim đã tái hiện Kinh Thánh, làm cho Đức Kitô và dân của Ngài trở nên rất thật và dễ gần với tôi.”
Tôi cũng cảm thấy như vậy.  Người Được Chọn cũng có ảnh hưởng tương tự như vậy trên tôi.  Như linh mục Joe Hoover, tôi được rửa tội khi mới sinh, được dạy theo truyền thống công giáo La-mã, là tu sĩ của một hội dòng, có bằng cấp thần học, đã dự nhiều khóa hội thảo về linh đạo, đã nghiên cứu Phúc âm dưới sự hướng dẫn của một vài học giả có tầm vóc thế giới, nhưng loạt phim này cho tôi thấy gương mặt của Chúa Giêsu mà tôi không thấy được trong những gì tôi đã từng học, nó giúp tôi nhiều trong việc cầu nguyện và trong tương quan với Chúa Kitô.
Về căn bản, đó là những gì bộ phim Người Được Chọn mang lại cho tôi, giới thiệu một Chúa Giêsu mà tôi muốn ở bên cạnh Ngài.  Có phải tất cả chúng ta đều muốn ở bên cạnh Ngài đó không?  Đúng như vậy, nhưng nếu chúng ta thành thật với chính mình, thì Chúa Giêsu thường được giới thiệu không phải là người chúng ta muốn dành nhiều thì giờ để ngồi riêng với Ngài, là người chúng ta cảm thấy thoải mái, tự nhiên không cần phải màu mè gì.
Nhìn chung trong các phim, Chúa Giêsu thường bị cho là thiếu hơi ấm tình người, xa cách, nghiêm nghị, thoát tục, quá sùng kính, có ánh mắt làm chúng ta cảm thấy áy náy vì tội của mình mà Chúa bị đóng đinh.  Chúa Giêsu đó cũng không vui, gần như Chúa không bao giờ đem nụ cười đến với thế gian, không bao giờ đem sự nhẹ nhàng vào giữa mọi người.  Ngài không phải là Chúa Giêsu mà chúng ta thấy thoải mái khi ở bên cạnh Ngài.
Đáng tiếc thay, đó lại là Chúa Giêsu thường thấy trong các bài giảng, bài giáo lý, trong các khóa thần học và trong linh đạo bình dân.  Chúa Giêsu chúng ta thấy ở đó, với mọi chân lý và mặc khải Ngài đem lại cho thế gian, thường vẫn quá thần thánh và quá sùng kính để chúng ta có thể thoải mái ở bên cạnh theo kiểu con người.  Ngài là Chúa Giêsu chúng ta ngưỡng mộ, có khi còn ái mộ, người mà chúng ta tin tưởng đủ để dâng cả tâm hồn cho những điều lớn lao.  Nhưng Ngài cũng là Chúa Giêsu mà chúng ta không cảm thấy thoải mái khi ở gần, người chúng ta sẽ không chọn để ngồi bên cạnh trong bàn ăn, để cùng đi nghỉ mát, người quá cách biệt với chúng ta đến nỗi chúng ta dễ dàng xem Ngài là người thầy đáng kính hơn là người bạn thân thiết, lại càng không phải là người yêu để chúng ta gắn kết tâm hồn.
Tôi nói vậy không phải để nhân bản hóa Chúa Giêsu (như thỉnh thoảng thời nay người ta vẫn thường làm) bằng cách biến Ngài thành người tử tế rao giảng về tình yêu nhưng không nói lên chân lý bất di bất dịch của Thiên Chúa.  Phim Người Được Chọn không làm vậy.  Hoàn toàn không.
Phim Người Được Chọn giới thiệu một Chúa Giêsu với sự thần thánh mà chúng ta không bao giờ nghi ngờ, dù Ngài nồng hậu và cuốn hút, Ngài có một nhân tính làm chúng ta cảm thấy thoải mái khi ở bên Ngài, thực sự là lôi cuốn chúng ta vào sự hiện diện của Ngài.  Khi xem Người Được Chọn, khán giả không bao giờ có khoảnh khắc nào hoài nghi về chuyện Chúa Giêsu có mối liên kết đặc biệt và bất khả phân ly với Chúa Cha, Ngài cho chúng ta chân lý và sự mặc khải của Thiên Chúa một cách toàn vẹn, không suy suyển.  Nhưng Chúa Giêsu này cũng đem lại cho chúng ta nụ cười của Thiên Chúa, sự nồng hậu, sự chúc phúc của Thiên Chúa trên cuộc đời vốn thường xuyên thiếu vắng những điều này.
Nhà thần nghiệm Julian thành Norwich đã mô tả Thiên Chúa: Thiên Chúa ngồi trên trời, hoàn toàn buông thả, gương mặt Ngài như một bản hòa âm tuyệt diệu.
Người Được Chọn cho chúng ta thấy được khuôn mặt thư thái của Thiên Chúa nhưng tiếc thay, chúng ta lại quá hiếm khi được thấy.
Rev. Ron Rolheiser, OMI


 




 

Ngọc Nga

unread,
May 20, 2025, 8:48:26 AMMay 20
to teresa...@googlegroups.com

NHỮNG LỜI CẦU NGUYỆN THẬT SỰ CÓ ÍCH KHÔNG?
 
Nếu Thiên Chúa biết điều chúng ta cần trước khi chúng ta xin Người, vậy mục đích của lời cầu nguyện là gì?

Tất cả chúng ta đều biết lời cầu nguyện không phải là câu “thần chú” mà con người sử dụng đối với Thiên Chúa.  Hành vi cầu nguyện không phụ thuộc vào việc kể lể dài dòng hoặc phát minh ra một vài công thức phép thuật cho phép chúng ta điều khiển thời gian và những biến cố để giảm bớt nỗi sợ hãi, cũng như thỏa mãn mong muốn của mình.  Chúa Giêsu đã dạy rất rõ về điểm này: “Khi cầu nguyện anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời” (Mt 6, 7).  Điều lạ lùng là lời cầu nguyện không tác động nhiều trên Thiên Chúa, nhưng nó lại tác động nhiều trên chúng ta.
 
Đó là lý do tại sao Thánh Tông đồ Phaolô kêu gọi chúng ta “cầu nguyện luôn” (1Tx 5, 17).  Chúng ta phải luôn cầu nguyện để: quay về với Thiên Chúa, mở lòng hướng về sự hiện diện của Người, lắng nghe điều Người nói với chúng ta, đặt Người vào trong cuộc sống chúng ta và trong anh chị em chúng ta, kết hiệp chúng ta với Thánh ý Người.  Đằng sau mỗi lời cầu xin cá nhân, cần có một điều cơ bản, đó là ước muốn của chúng ta phải vì Chúa.  Không có điều đó, chúng ta có nguy cơ rơi vào mâu thuẫn thiêng liêng, và đời sống thiêng liêng của chúng ta sẽ bị suy yếu.  Thật vậy, lời cầu xin vì Chúa bao gồm việc mong đợi tất cả mọi sự theo Chúa, nhưng sẽ là mâu thuẫn khi trong thực tế chúng ta không mong đợi gì theo Chúa
Thiên Chúa rất vui khi chúng ta cầu nguyện
Thánh Gioan Thánh giá khuyến cáo chúng ta: chúng ta nên yêu mến Thiên Chúa là Đấng ban ơn, hơn là yêu thích ơn mà Người ban cho ta.  Trong cùng một logic như thế, chúng ta nên hiểu những lời đầu tiên của Đức Giêsu trong Tin Mừng thứ tư: “Các anh tìm gì?”  Chúng ta đang háo hức tìm kiếm quá nhiều thứ!  Nhưng chính Đức Giêsu là Đấng cho chúng ta câu trả lời đúng đắn: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (Mt 6, 33).  Điều này cũng soi sáng cho chúng ta về “những ý nguyện” rõ ràng trong lời cầu nguyện của mình.
Chúng ta có thể dễ dàng xin Thiên Chúa hàng ngàn điều liên quan đến những vấn đề toàn cầu trong đời sống chúng ta, cũng như đến những chi tiết nhỏ bé, dựa trên tình huống mà những điều này liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến vinh quang Thiên Chúa.  Như Thánh Augustinô đã viết ở phần kết trong lá thư gửi Proba về cầu nguyện: “Chúng ta không xin gì, nhưng những điều chúng ta xin đã thật sự chứa trong Kinh Lạy Cha.”  Lời Kinh mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta cũng là lời nguyện của chính Ngài, đã trở thành lời nguyện của chính chúng ta: “Xin cho Ý Cha được thể hiện.”  Vì thế, lúc này chúng ta có thể trở lại với vấn đề ban đầu của chúng ta: Nếu Cha chúng ta ở trên Trời biết con cái Người cần gì ngay cả trước khi họ nói với Người, và nếu Người luôn mong muốn ban cho họ điều tốt nhất, thì tại sao chúng ta phải thưa với Người về những ước muốn của chúng ta?
Chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa Cha không phải là người cha theo chủ nghĩa gia trưởng.  Người không muốn chống lại ý muốn của chúng ta, kể cả khi cứu chúng ta.  Vì thế, Thiên Chúa hạnh phúc khi chúng ta biết kết hợp và thêm tình yêu và sự dấn thân của chúng ta vào lời cầu nguyện mạnh mẽ, thuần khiết và hoàn hảo của Con Yêu Dấu của Ngài, một lời cầu nguyện vốn luôn được nhậm lời.  Và Thiên Chúa cũng hạnh phúc khi chúng ta cầu nguyện nhân Danh Chúa Giêsu Kitô và Chúa Thánh Thần – Đấng chuyển cầu cho chúng ta được theo như ý Thiên Chúa muốn.
 
Lm Alain Bandelier - Dung Hạnh chuyển ngữ từ aleteia.org


 

 




 

Ngọc Nga

unread,
May 22, 2025, 8:38:41 AMMay 22
to teresa...@googlegroups.com


HẠNH PHÚC NÀO LỚN NHẤT
(Suy niệm Tin mừng Gio-an (14, 23-29) Chúa nhật 6 Phục sinh năm C)
Sứ điệp: Được Ba Ngôi Thiên Chúa ở cùng là hồng phúc vô giá.
                                                           ***
Cháu bé bất chợt thức dậy giữa đêm khuya, bóng tối dày đặc bao trùm… Cháu quơ tay tìm mẹ nhưng chẳng thấy đâu. Thế là cháu khóc thét lên, khóc trong sợ hãi, kinh hoàng, khóc mãi không ngừng… cho đến khi nghe tiếng mẹ à ơi vỗ về, cho đến khi có tay mẹ dịu dàng ôm ấp…
Được-mẹ-ở-cùng, bé cảm thấy an toàn và hạnh phúc trọn vẹn, không phải sợ hãi gì; hạnh phúc nầy không gì đánh đổi được. Dù là ngọc ngà, châu báu và tất cả mọi sự trên đời… không có gì bằng có mẹ ở kề bên!
Đứa con thơ được ở với người mẹ trần gian hèn kém, mỏng giòn và yếu đuối… mà còn được hạnh phúc đến thế, thì những ai được Thiên Chúa là Chúa tể trời đất, là Cha đầy quyền năng, là suối nguồn hoan lạc, là tình yêu vô bờ vô tận ở cùng… sẽ được hạnh phúc biết bao!
Thân phận chúng ta hôm nay cũng như thân phận đứa bé thơ cần có mẹ ở cùng. Sống trong đêm tối cuộc đời, đầy dẫy đau thương tang tóc mà sức người không thể vượt qua… chúng ta rất cần được Thiên Chúa ở cùng, để nâng đỡ, dìu dắt chúng ta vượt qua bão tố cuồng phong, gian nan chồng chất.
Nhưng vấn đề quan trọng là làm sao để được Thiên Chúa ở cùng?
Qua trích đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su chỉ cho chúng ta bí quyết để đạt được hồng phúc nầy: Đó là YÊU MẾN VÀ TUÂN GIỮ LỜI NGÀI.
Ngài nói: "Ai YÊU MẾN THẦY, thì sẽ GIỮ LỜI THẦY, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. CHA THẦY VÀ THẦY SẼ ĐẾN VÀ Ở LẠI VỚI NGƯỜI ẤY” (Ga 14, 23).
Như vậy, hai điều kiện yêu mến và tuân giữ lời dạy của Chúa Giê-su là 2 ĐIỀU KIỆN TỐI CẦN THIẾT, nhờ đó, không những Chúa Giê-su, mà còn cả Chúa Cha, Chúa Thánh Thần đến ngự trị trong chúng ta. Thế là thân xác phàm hèn của chúng ta được trở thành cung điện của Thiên Chúa Ba Ngôi! Được hạnh phúc như thế quả là trên cả tuyệt vời!
Tiếc thay, còn rất nhiều người chưa khám phá được hồng phúc cao quý nầy, nên thay vì ra sức yêu mến và vâng lời Chúa dạy để được Chúa ở cùng, họ chỉ biết mơ ước và chiếm hữu những lợi lộc phù du mà lãng quên hồng phúc lớn lao là được ở cùng Ba Ngôi Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con cảm nghiệm rằng: được Chúa ở cùng là hạnh phúc tuyệt vời không gì trên dương gian có thể sánh được, để từ hôm nay, chúng con dốc lòng yêu mến Chúa trên hết mọi sự và ra công tuân giữ mọi lời Chúa truyền dạy để đạt được hồng ân cao quý nầy. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Tin mừng Gio-an 14, 23-29
Khi ấy, Chúa Giê-su phán cùng các môn đệ rằng: 23"Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. 24Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.   25Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em.   26Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.
27Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.   28Anh em đã nghe Thầy bảo: 'Thầy ra đi và đến cùng anh em'. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy.   29Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin.




 

 




 

Ngọc Nga

unread,
May 22, 2025, 8:39:57 AMMay 22
to teresa...@googlegroups.com
ps_06c.doc
Bài đọc trong tuần C.doc
CN6PS_C.pps

Ngọc Nga

unread,
May 22, 2025, 9:08:53 AMMay 22
to teresa...@googlegroups.com

 ĐƠN GIẢN THẾ THÔI…

Nếu tôi dành cả ngày 
để phục vụ anh chị em mình
nhưng chẳng có nổi một ai nhìn nhận 
và cám ơn
vì những việc tốt tôi đã làm,
liệu tôi có tức tối mà dừng lại
việc phục vụ của mình?

Lẽ thường
Nếu có ai, một người thôi cũng được
biết ơn tôi đã sống tình nghĩa
điều đó sẽ làm tôi phấn chấn
và phục vụ 
với nhiều yêu thương hơn.

Điều Đức Giê-su muốn nói tới 
trong bài Tin Mừng tôi vừa đọc
không phải là có ai đó biết ơn tôi không
nhưng Người muốn tôi 
tìm xem 
động cơ thúc đẩy tôi làm những điều tốt ấy là gì:
Có phải tôi đang tìm cách 
khoe những công trạng của mình 
trước Thiên Chúa
để được Người khen thưởng?

Có lẽ
Đức Giê-su muốn nhắc tôi điều này: 
Khi phục vụ
con chỉ đơn giản 
đang làm 
những công việc bổn phận,
con phải làm.

Thế thôi!



Có thể là hình ảnh về 1 người


 

 




 

Ngọc Nga

unread,
May 24, 2025, 9:46:12 AMMay 24
to teresa...@googlegroups.com
NHÂN LOẠI ĐANG RẤT CẦN BÌNH AN GIÊSU
Trong suốt chiều dài của lịch sử nhân loại, bình an luôn là khát vọng thiêng liêng và bất tận của con người.  Đây không chỉ là trạng thái không có chiến tranh, mà còn là điều kiện tiên quyết để con người sống và yêu thương nhau.  Quả thật, con người ở mọi nơi mọi thời luôn khao khát bình an, muốn sống tự do, hạnh phúc, không có chiến tranh.  Thế giới hòa bình giúp con người ngồi lại với nhau, bắt tay nhau xây dựng địa cầu.
Trải qua bao thăng trầm, nhất là trong thế kỷ XX đầy biến động với hai cuộc chiến tranh thế giới và hàng loạt cuộc xung đột khu vực, nhân loại đã rút ra một chân lý không thể chối cãi: chiến tranh chưa bao giờ là lối thoát, hòa bình mới là đích đến.
 
Thực tế cho thấy, chiến tranh dưới bất kỳ hình thức nào, luôn đi kèm với những hệ lụy, không chỉ tàn phá cơ sở vật chất, chiến tranh còn để lại những vết thương tinh thần kéo dài qua nhiều thế hệ.  Từ những thành phố đổ nát ở Ukraine, Dải Gaza, Sudan đến Yemen, Lebanon, Myanma…, hàng chục triệu người đã buộc phải rời bỏ nhà cửa, trở thành nạn nhân của các cuộc chiến mà họ không hề lựa chọn.
 
Báo cáo mới nhất của Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn cho biết, thế giới hiện có hơn 114 triệu người phải di tản, con số cao nhất trong lịch sử hiện đại.  Nạn nhân luôn là kẻ yếu người thua, dân thường, trẻ em và phụ nữ.
Giữa tiếng bom rơi và các loại máy bay tối tân gào rít trên bầu trời ở một số quốc gia, máu của người dân ở dải Gaza và ở Trung Đông cùng cuộc xung đột Nga – Ukraina kéo dài hơn 2 năm nay, đã và đang cướp đi hàng triệu người dân vô tội.
Nền hòa bình của nhân loại đang bị đe dọa nghiêm trọng.  Những người có lương tri trên thế giới luôn theo dõi sát sao và kêu gọi các bên liên quan ngừng bắn để ngồi lại với nhau giải quyết thông qua đàm phán hòa bình.
Trong bối cảnh đó, “bình an” càng trở nên có ý nghĩa.  Bởi lẽ, trong thế giới ngày nay, bình an không còn là điều hiển nhiên, mà là một lựa chọn có ý thức.  Bình an cần được nâng niu, trân trọng và gìn giữ Chúa đã nói với các tông đồ rằng: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con…” (Ga 14,27).  Thế giới hiện nay đang khao khát bình an của Chúa.
Bình an của Đức Ki-tô
Bình an cho anh em!” (Lc 24,36) là lời đầu tiên của Chúa Giêsu sau khi sống lại và hiện ra với các môn đệ ngày thứ nhất trong tuần.
Câu hỏi được đặt ra: Tại sao là ‘bình an’ mà không phải là giàu sang, tài giỏi, sức khỏe hay điều gì khác?
Thưa, vì nếu con người có tất cả những thứ đó mà không có bình an thì coi như chẳng có gì.  “Bình an” là quà tặng cao quý của Thầy để lại cho các học trò trước lúc ra đi.  Đó cũng là “Bình an” sau khi sống lại Chúa Giêsu sẽ tặng cho các môn đệ đang cửa đóng then cài vì sợ hãi.  “Bình an” là điều các ông đang cần đến hơn bao giờ hết.  Thế nên, với nghĩa nặng tình sâu trong tình thầy trò, đang lúc các môn đệ ưu sầu lo lắng.  Chúa Giêsu nói với các ông: “Anh em đừng xao xuyến!  Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1); “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.   Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian.  Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14,27).  Người ban cho họ bình an, sự bình an mà thế gian không thể ban tặng.
Tại sao bình an của Chúa Giêsu thế gian không thể ban tặng?
Thưa, vì Chúa Giêsu chính là bình an; là nguồn bình an, Người ban cho các các môn đệ chính bình an của Người, bình an nội tâm, bình an tuyệt đối, bình an vượt xa sự hiểu của con người.  Có bình an Giêsu, con người các ông hoàn toàn đổi mới, ngờ vực trở nên vững tin, nhút nhát nên người can đảm, sống cửa đóng then cài, nay đi rao giảng Chúa Giêsu chết bị chôn trong mồ đã sống lại hiển vinh, mà chính các ông làm chứng, không sợ chết.
Bình An có tên là Giêsu
Chúa Giêsu chính là bình an đích thực.  Có bình an của Chúa Giêsu đồng nghĩa với có chính Chúa, “Bình An Giêsu.”  Có được Bình An Giêsu người ta sẽ cảm nhận được tâm hồn thanh thản, thể xác lành mạnh, bình an cả xác hồn.  Bình an này hướng các môn đệ về mầu nhiệm cách chung, nhiệm cục cứu độ, chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban bình an này.
Bình an nội tâm của con tim, của con người với chính mình và với Thiên Chúa.  Đây là sự bình an nền tảng nhất.  Không có sự bình an này, thì không bình an nào khác có thể tồn tại.  Chúa Giêsu đã chào các môn đệ: “Bình an cho các con,” Người cũng truyền cho các ông: “Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: Bình an cho nhà này” (Lc 10, 5-6).
Chúa Giêsu là chính sự bình an: “Thầy ban cho các con sự bình an của Thầy.”  Các ông chỉ có được khi tuân giữ lệnh Chúa truyền là “yêu thương nhau” (Ga 13, 34).  Về vấn đề này, Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II nói: “Con đường của bình an chung cục phải đi qua trong tình thương và hướng tới việc tạo nên một nền văn minh tình thương.  Giáo hội chăm chú nhìn về Đấng là Tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con và bất chấp mọi đe dọa không ngớt gia tăng, Giáo hội không ngừng hy vọng, Giáo hội không ngừng kêu cầu và phục vụ hoà bình của nhân loại trên trái đất” (Dominum et Vivificantem đoạn 67).
Không thể có bình an nếu không có sự tha thứ.  Hãy tuân giữ luật yêu thương, và tha thứ cho nhau, ngay cả kẻ thù của mình (Mt 5, 44), thay vì luật báo thù.  Bạo lực sẽ dẫn đến bạo lực.  Báo thù không dẫn đến hoà bình.  Chỉ có tình thương mới đem lại bình an thực sự, vì Thiên Chúa là Tình yêu là nguồn bình an (Ga 4, 8, 16; Rm 16, 20).
Lạy Chúa, xin thương ban cho Hội Thánh được hiệp nhất và bình.  Amen.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
May 27, 2025, 8:21:03 AMMay 27
to teresa...@googlegroups.com
NƯỚC MẮT VÀ HẠNH PHÚC
Tôi cười khi tôi vui.  Tôi khóc lúc khổ đau.  Nụ cười biểu hiệu cho hạnh phúc.  Nước mắt tượng trưng cho nỗi buồn.  Như thế, trong hạnh phúc không có nước mắt.  Nhưng nước mắt có thể mời gọi hạnh phúc trở về.  Nước mắt là những lời giải thích về đau khổ.  Tôi có đau khổ tuyệt vọng, tôi có đau khổ ăn năn.  Bởi đấy, nước mắt cũng có hai dòng, một dòng tuyệt vọng, một dòng sám hối.
Nước mắt tuyệt vọng là nước mắt của con tim oán than chối từ một niềm tin.  Càng chối từ niềm tin bao nhiêu thì nỗi đắng cay càng oan nghiệt bấy nhiêu.  Nước mắt tuyệt vọng là ngọn than hồng thắp lửa thêm cho đau khổ và khi đau khổ bùng cháy sẽ tiêu diệt đời mình.
Nước mắt ăn năn là nỗi nhớ thương của một tâm hồn gởi một tâm hồn. Nước mắt ăn năn sẽ lôi kéo tình yêu trở về và nước mắt ăn năn là mời gọi duy nhất tình yêu không thể chối từ.
Lầm lẫn và yếu đuối giăng mắc đó đây, do đó tình yêu hoen ố, bởi đấy hạnh phúc chông chênh.  Vì lầm lẫn, tôi có thể làm người yêu tôi buồn.  Vì yếu đuối, tôi có thể phản bội người yêu tôi.  Yếu đuối và lầm lẫn như những thành tố làm nên cuộc đời.  Tôi chẳng thể tránh được yếu đuối.  Tôi không thể thoát khỏi lầm lẫn.  Dù không muốn, chúng vẫn chẳng thiếu vắng trong đời tôi.  Có yếu đuối là có bất toàn, có lầm lẫn là không trọn vẹn.  Vì thế không có tình yêu tuyệt hảo và hạnh phúc vô song trên cõi đời này.  Chỉ có hạnh phúc tương đối nên hạnh phúc nên hạnh phúc ấy có thể nhạt nhòa.  Không có hạnh phúc tuyệt hảo thì cũng không có đau khổ vô cùng.  Bởi đó, trong dại dột tôi có thể học được khôn ngoan.  Trong đau đớn tôi vẫn có hy vọng tìm về niềm vui.
Lầm lẫn và yếu đuối gây thương tích cho hạnh phúc.  Thương tích nơi hạnh phúc chỉ được xoa dịu và tái sinh bằng nước mắt ăn năn.  Xin cho tôi biết khóc, biết chua xót ăn năn.  Bởi nếu tôi không biết khóc, biết xót xa hối hận thì tôi chẳng bao giờ mời gọi được hạnh phúc tôi đã đánh mất trở về.  Và như thế, đời tôi nghèo nàn, cơ cực.
Tình yêu là giây đàn rung lên hạnh phúc.  Chỉ cần sẽ chạm tay cũng đủ làm giây đàn im tiếng.  Chỉ cần một tư tưởng phản bội cũng làm cho tình yêu hoen ố.  Chỉ cần một chút oán thù cũng đủ làm cho mặt hồ bình an thành mờ đục.  Nhưng cái mầu nhiệm của tình yêu là chỉ cần một giọt nước mắt ăn năn cũng đủ để tình yêu tha thứ gọi hạnh phúc trở về.  Tình yêu nào khi nghe nước mắt sám hối nhớ thương mời gọi mà không trở về thì đấy không còn là tình yêu nữa.
Nước mắt rơi trong im lặng nhưng tiếng nói của nước mắt lại sâu như lòng biển, lại dài như chiều cao của trời.
Nhìn khóe mắt Phêrô, nước mắt đã chảy, và Chúa Yêsu chẳng còn cách nào khác là yêu thương bằng một tình yêu rộng lớn hơn.
Nhìn khóe mắt Mai Ðệ Liên, nỗi u buồn đọng đó, và Chúa Yêsu chẳng còn cách nào khác là để nỗi buồn đó thấm vào tim mình bằng những dòng máu tha thứ và yêu thương vô bờ.
Tội và đau khổ là định mệnh trong cuộc đời.  Tôi phải khiêm tốn nhìn nhận mình chẳng thể tránh khỏi.  Nhưng tội và đau khổ không có toàn năng lực chế ngự vĩnh cửu cuộc sống, chúng bị phá đổ bởi nước mắt.
Lạy Cha, xin cho con biết khóc mỗi khi tội trần con phạm.
Xin cho con được rửa tội hồn con bằng nước mắt ăn năn.
Và lạy Cha,
Ðừng bao giờ để con tuyệt vọng vì mất niềm tin là mất cả cuộc đời.
 
LM Nguyễn Tầm Thường S.J





 

 




 

Ngọc Nga

unread,
May 29, 2025, 8:45:13 AMMay 29
to teresa...@googlegroups.com
LỄ THĂNG THIÊN.doc
Bài đọc trong tuần C.doc
Le Thang Thien C.pps

Ngọc Nga

unread,
May 29, 2025, 9:11:29 AMMay 29
to teresa...@googlegroups.com
KHÔNG CÓ KẾ HOẠCH HẬU THUẪN
Chúa Giêsu trao cho các môn đệ nhiệm vụ hoàn tất công trình của Người bằng cách chia sẻ Tin Mừng cho toàn thể thế giới.
Có một huyền thoại xưa về việc lên trời của Đức Giêsu.  Theo huyền thoại này, khi Đức Giêsu đến thiên đường, thân thể của Người vẫn còn các vết thương của khổ hình thập giá.
Chân tay của Người vẫn còn mang vết đinh.  Cạnh sườn Người vẫn còn dấu vết của cây giáo.  Lưng của Người vẫn còn các vết sẹo vì roi vọt, và đầu của Người vẫn còn các thương tích vì gai nhọn.
Khi các thánh trên trời nhìn thấy các dấu vết này, họ phủ phục trước mặt Chúa Giêsu.  Họ bàng hoàng khi thấy sự đau khổ Người đã gánh chịu.  Sau đó thiên thần Gabrien đứng lên nói với Chúa Giêsu:
“Lạy Chúa, sự đau khổ mà Ngài gánh chịu ở thế gian thật lớn lao chừng nào!  Nhưng tất cả mọi người dưới thế có biết và có cảm kích những gì Ngài đã kinh qua vì họ, và yêu thương họ như thế nào không?”
Chúa Giêsu trả lời:
“Ô, không! Chỉ có một ít người ở Palestine biết điều đó.  Phần còn lại thì không nghe biết gì về ta.  Họ không biết ta là ai.  Họ không biết ta phải đau khổ thế nào, và ta yêu thương họ thế nào.”
Thiên thần Gabrien bàng hoàng khi nghe thế. Sau đó người nói với Chúa Giêsu:
“Làm thế nào những người còn lại ở dưới thế có thể biết về sự đau khổ và tình yêu của Ngài?”
Chúa Giêsu nói:
“Trước khi từ giã, ta có nói với Phêrô, Giacôbê, và Gioan, và một vài người bạn của họ, là hãy đi nói với toàn thể thế giới về ta.
“Họ nói với nhiều người mà họ có thể.  Những người ấy, đến lượt họ, sẽ nói với người khác.  Theo cách ấy, sau cùng toàn thể thế giới sẽ biết về tình yêu của ta dành cho họ.”
Bấy giờ thiên thần Gabrien lại càng bối rối hơn nữa.  Vì thiên thần biết loài người dễ thay đổi chừng nào.  Người biết họ dễ quên chừng nào.  Người biết họ dễ hồ nghi chừng nào.  Do đó người quay sang Chúa Giêsu và nói:
“Nhưng, lạy Chúa, nếu Phêrô, Giacôbê, và Gioan mệt mỏi hay thất bại thì sao?  Nếu họ quên Ngài thì sao?  Nếu họ bắt đầu có những hồ nghi về Ngài thì sao?
“Và ngay cả khi không có điều gì xảy ra, nếu những người được nghe họ nói trở nên thất vọng thì sao? Nếu họ quên đi thì sao?  Nếu họ bắt đầu có những hồ nghi về Ngài thì sao?
“Ngài không nghĩ đến các điều này hay sao?  Ngài không có một kế hoạch hậu thuẫn hay sao – nếu trong trường hợp?”
Chúa Giêsu trả lời:
“Ta có nghĩ đến tất cả những điều này, nhưng ta quyết định không có một kế hoạch hậu thuẫn.  Đây là kế hoạch duy nhất ta có.
“Ta trông nhờ vào Phêrô, Giacôbê, và Gioan không làm ta thất vọng.  Ta trông nhờ vào những người mà họ nói không làm ta thất vọng.”
Hai mươi thế kỷ sau, Chúa Giêsu vẫn không có kế hoạch nào khác.  Người trông nhờ vào Phêrô, Giacôbê, và Gioan, và họ đã không làm Người thất vọng.  Người trông nhờ vào những người mà các tông đồ nói với họ, và họ đã không làm Người thất vọng.  Và giờ đây Chúa Giêsu trông nhờ vào chúng ta.
Lễ Thăng Thiên là một trong những lễ quan trọng nhất của niên lịch phụng vụ.
Đó là ngày mà chúng ta cử hành việc Chúa Giêsu trở lại với Chúa Cha.
Chúng ta có thể so sánh Lễ Thăng Thiên với việc chuyền gậy từ lực sĩ này sang lực sĩ kia trong cuộc chạy đua tiếp sức.
Vào ngày này 2,000 năm trước, Chúa Giêsu đã chuyền chiếc gậy công việc của Người cho ông Phêrô, Giacôbê, và Gioan.  Sau đó, đến lượt họ chuyền gậy này sang những người sau họ.  Lần lượt, những người này chuyền gậy cho chúng ta.  Và giờ đây đến lượt chúng ta chuyền gậy cho những người khác.
Nói về thực tế, điều này có nghĩa gì?
Có phải nó có nghĩa chúng ta hãy ra đi và rao giảng về Chúa Giêsu, như các ông Phêrô, Giacôbê, và Gioan đã làm?  Có phải điều đó có nghĩa hãy đặt loa phóng thanh trong các thương trường và nói với mọi người về Chúa Giêsu?
Nó có thể có nghĩa như thế cho một số người, nhưng với hầu hết chúng ta nó có nghĩa căn bản hơn việc này.  Nó có nghĩa cơ bản hơn.  Nó có nghĩa sống lời giảng dạy của Chúa Giêsu ngay trong đời sống của mỗi người chúng ta.
Cách bắt đầu rao giảng về Chúa Giêsu cho thế gian là bắt đầu rao giảng về Chúa Giêsu cho chính mình.  Một ngạn ngữ Trung Hoa có nói:
“Nếu có điều đúng trong tâm hồn, sẽ có sự mỹ miều trong con người.
Nếu có sự mỹ miều trong con người, sẽ có sự hài hòa trong gia đình.
Nếu có sự hài hòa trong gia đình, sẽ có trật tự trong quốc gia.
Nếu có trật tự trong quốc gia, sẽ có hòa bình trên thế giới.”
Cách mở đầu rao giảng về Chúa Giêsu cho thế gian là bắt đầu sống lời Chúa trong cuộc đời mình.  Một khi chúng ta bắt đầu thi hành điều này, thông điệp của Chúa Giêsu sẽ bắt đầu gợn sóng trong thế giới.  Và nếu có đủ Kitô Hữu làm điều này, gợn sóng đó sẽ trở nên một cơn thủy triều, và thủy triều đó sẽ thay đổi mặt đất trong một phương cách mà chúng ta không bao giờ mơ tưởng có thể được.
Đây là thông điệp của buổi lễ hôm nay.  Đây là thách đố mà các bài đọc hôm nay đề ra cho chúng ta. 
Chúa Giêsu trông nhờ vào chúng ta.
Hãy kết thúc với những lời của Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong Bài Giảng Trên Núi.  Trong ánh sáng của những gì chúng ta vừa nói, những lời này có một ý nghĩa đặc biệt.  Chúa Giêsu nói:
“Các con giống như muối cho toàn thể nhân loại.  Nhưng nếu muối mất vị mặn của nó, không cách chi làm cho nó mặn lại.  Nó trở nên vô dụng, bị quăng ra ngoài và người ta chà đạp lên.
“Các con giống như ánh sáng cho toàn thế giới.  Một thành xây trên núi thì không thể che giấu được.  Cũng thế, ánh sáng của các con phải chiếu tỏa trước mọi người, có như thế họ sẽ thấy những điều tốt lành các con làm và ngợi khen Cha các con ở trên trời.” (Mt 5:13-16).
 
Lm. Mark Link, S.J.

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
May 29, 2025, 4:56:58 PMMay 29
to teresa...@googlegroups.com
Có thể là hình ảnh về 1 người và hoa


Có thể là hình ảnh về 1 người và cỏ


Huy hiệu của Đức Leo làm bằng hoa ở Vườn Vatican: hoa huệ tượng trưng cho Đức Mẹ, một trái tim bị đâm thủng phía trên một quyển sách, biểu tượng của Dòng Thánh Augustinô.
Công trình này được làm trong hai tuần lễ.
- Theo chân Giáo Hoàng Leo -



 

 




 

Ngọc Nga

unread,
May 30, 2025, 9:15:02 AMMay 30
to teresa...@googlegroups.com
5 Phút Lời Chúa Tháng 6.doc

Ngọc Nga

unread,
Jun 3, 2025, 8:34:27 AMJun 3
to teresa...@googlegroups.com
hxuongc.doc
Bài đọc trong tuần C.doc
CNLeCTTHX.pps

Ngọc Nga

unread,
Jun 4, 2025, 9:03:03 AMJun 4
to teresa...@googlegroups.com

KHI NHỮNG GÌ QUÝ GIÁ BỊ TƯỚC ĐI
 
Có lẽ thực tế khó chấp nhận nhất trong đời là sự thực bất di bất dịch rằng, cuối cùng, những gì quý nhất của chúng ta sẽ bị tước đi, theo một cách nào đó.  Con cái lớn lên xa nhà, bạn bè đi xa, người thân mất đi, sức khỏe giảm sút, và rồi cuối cùng chúng ta ra đi.  Ngay cả những gì quý giá nhất của chúng ta là đức tin và các giá trị chúng ta có suốt cả cuộc đời cũng phải chịu chung số phận: sự vật thay đổi, suy nghĩ và cảm xúc đổi thay, các nền tảng từng là chỗ nương tựa vững chắc cho chúng ta bị lung lay, nỗi hoài nghi len vào, nền móng sụp đổ, còn lại chúng ta trơ trọi và tự hỏi: mình thật sự tin vào cái gì và cái gì thật sự có thể tin tưởng được.
 
May mắn thay, đây mới chỉ là một vế của phương trình: Những gì mất đi, cuối cùng sẽ quay trở lại với chúng ta một cách sâu đậm hơn.  Con cái trưởng thành đến không ngờ và bắt đầu phụng dưỡng cha mẹ, bạn bè liên lạc lại dù ở cách xa, chúng ta lại có những mối liên hệ sâu xa và bền vững hơn đến những người thân yêu đã mất, chúng ta tìm thấy một điều gì đó sâu kín và lâu bền hơn là sức khỏe thể chất.  Cái chết mở ra cho chúng ta chạm đến vô tận, và nền móng những niềm tin xưa cũ sụp đổ đưa chúng ta rơi tự do xuống tới một nơi mà ở đó chúng ta đặt chân lên nền đá, một nền tảng vững chắc, an toàn tới nỗi không bao giờ còn bị lung lay nữa.
Chúng ta thấy điều này trong Sách Thánh, qua câu chuyện của cộng đồng dân Do-Thái và cuộc lưu đày ở thành Ba-bi-lon.  Câu chuyện như sau:
Sau khi đến Pa-lét-xtin (“Đất Hứa”), dân Do-Thái mất nhiều thế hệ mới gây dựng được cơ nghiệp, thống nhất các bộ lạc về một mối, xây dựng đền thờ Giê-ru-sa-lem thành trung tâm thờ phượng.  Các vị vua vĩ đại Đa-vít và Sa-lô-môn đã thực hiện điều này, và người dân cảm thấy an tâm cả về chính trị lẫn tôn giáo.  Đặc biệt họ cảm thấy vững mạnh trong đức tin.  Thiên Chúa hứa ban đất, bây giờ họ có đất; Thiên Chúa hứa ban một vị vua, bây giờ họ có vua; Thiên Chúa hứa ban đền thờ, bây giờ họ có đền thờ.  Họ thấy ba thực tế: đất hứa, vua, đền thờ là bằng chứng chắc chắn cho sự hiện diện và thánh ý Thiên Chúa đối với họ.  Những lời hứa của Thiên Chúa rõ ràng đã trở thành hiện thực.
Nhưng ngay khi dân Do-Thái mãn nguyện trong vỏ bọc an toàn này, thì người At-xi-ri đến, chiếm lấy đất đai, đày họ đến Ba-bi-lon, giết vua, phá hủy đền thờ cho đến viên đá cuối cùng.  Với những chuyện như vậy, đất đai, vua, đền thờ bị mất đi, thế giới của họ bị sụp đổ, cả về nghĩa đen lẫn về mặt tôn giáo.  Những gì từng bảo đảm an toàn cho họ đã bị tước đi và họ cảm thấy mình bị lưu vong, không những đối với quê hương mình, mà đối với cả Chúa và tôn giáo của mình.  Nếu sự hiện diện của Chúa được bảo đảm ở đất hứa, vua, và đền thờ, mà những điều này bị mất đi, vậy Chúa ở đâu?  Làm sao bạn có thể tiếp tục tin, tin tưởng và hân hoan sống khi tất cả những gì từng làm chỗ dựa vững chắc cho niềm tin, lòng tin tưởng và niềm vui của bạn bị tước đi?
Câu trả lời của Thiên Chúa lúc đó là: Các con sẽ lại tìm thấy Ta khi các con tìm một cách sâu sắc hơn, với tất cả trái tim, khối óc và tâm hồn.  Ngày nay Chúa cũng cho chúng ta câu trả lời đó bất cứ lúc nào chúng ta cảm thấy mình bị phản bội, bơ vơ, và mất phương hướng.

Và đây là bài học sâu sắc: Trong các giá trị và đức tin của chúng ta, những gì không thuộc về Thiên Chúa, cho dù tuyệt vời và chính xác tới đâu, cuối cùng sẽ đi ra khỏi cuộc đời chúng ta.  Tại sao?  Vì chúng không thuộc về Thiên Chúa.  Chúng có thể là biểu tượng của chúng ta trong nhất thời, nhưng những biểu tượng được nắm giữ quá chặt, quá lâu đã trở thành các thần tượng mà chúng ta cần dẹp bỏ.
Điều này cũng đúng kể cả đối với những gì quý giá nhất trong tôn giáo chúng ta – Sách Thánh, giáo lý đức tin, Giáo Hội, các vị thánh lớn, các tư tưởng gia vĩ đại.  Dù cho tất cả những điều đó có tuyệt vời đến thế nào, rốt cuộc đó cũng không phải là Chúa.  Đó có thể là những phương tiện tuyệt diệu để đưa chúng ta đến với Chúa, là những biểu tượng, là các bài trình bày PowerPoint về Chúa, nhưng không phải là Chúa.  Và bao giờ cũng vậy, bằng cách này hay cách khác, cuối cùng, cần phải đập vỡ thần tượng, không phải là không đau đớn và thất vọng sâu xa, nhưng chúng ta sẽ học được bài học này qua kinh nghiệm cay đắng.  Tất cả các sách vở thiêng liêng, kể cả Sách Thánh đều nói rõ ràng về điều này.
Các biểu tượng trợ dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa, còn thần tượng ngăn cản chúng ta tiếp cận Thiên Chúa.  Một thần tượng chỉ đơn giản là một biểu tượng bị nắm giữ quá lâu.  Và chính vì thế trong bản chất truyền thừa của đức tin đã ghi rõ động năng giúp thanh lọc: Chúng ta được trao một số điều nào đó để nương theo trong một thời gian: một ngôn ngữ nhất định, những lễ nghi nhất định, giáo lý và tín điều nhất định, một cách hiểu nhất định về đức tin của chúng ta, những vị thánh nào đó làm hình mẫu, những sách thánh để nuôi dưỡng chúng ta, và, không kém phần quan trọng, một cảm thức tin tưởng và an toàn nhất định trong sâu xa rằng tất cả những điều này là tốt lành, đúng đắn, và trong một cách nào đó chính là Thiên Chúa
Tất cả điều này là tốt, trong một thời gian.  Nhưng rồi ngày đó sẽ đến, thường là đi kèm với nỗi đau và mất mát sâu xa, khi nền móng sụp đổ và chúng ta suy sụp trong trạng thái rơi tự do, ta cố gắng bám vào cái gì cũng không được, cho tới khi chúng ta cuối cùng chạm chân vào một cái gì vững chắc như nền đá tảng, và đó chính là Thiên Chúa.

Rev. Ron Rolheiser, OMI


 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jun 4, 2025, 9:07:27 AMJun 4
to teresa...@googlegroups.com

NGỌN LỬA THÁNH THẦN SOI CHIẾU
(Suy niệm Lễ Chúa Thánh Thần)
Sứ điệp : Không có Chúa Thánh Thần soi sáng, không ai có thể nhận biết và yêu mến Chúa Giê-su.
***
Vào năm 1976, trong xóm tôi có một em gái nghèo chừng mười lăm tuổi đi giúp việc nhà cho một gia đình người Hoa giàu có. Gia đình nầy mới nhận được một bức hoành phi (là bức tranh quý sơn son thiếp vàng thường được chưng bày phía trên bàn thờ) do người thân trao tặng, nên cho hạ bức hoành phi cũ có mấy chữ lớn mạ vàng xuống, để nhường chỗ cho bức tranh quý báu nầy. Chủ nhà tưởng rằng bức tranh cũ chỉ có mấy chữ lớn mạ vàng rẻ tiền, chẳng có giá trị là bao, nên trao cho cô gái giúp việc đem về nhà tuỳ nghi sử dụng.
Cô gái đem bức hoành phi về cho mấy em nhỏ làm đồ chơi. Chơi chán, bọn trẻ phá nát bức tranh, xả rác đầy nhà, khiến người mẹ phải ra công quét dọn và đem đi đốt.
Khi đốt rác vào lúc trời tối, bọn trẻ phát hiện những dòng chữ vàng trên bức tranh không bị thiêu rụi mà lại sáng ngời lên trong lửa. Hoá ra những dòng chữ này lại bằng vàng thật dát mỏng chứ không phải là giấy mạ vàng!
Thế là người nhà hăm hở xăm xoi đào bới, sàng sảy đống tro tàn để tìm kiếm và cuối cùng thu lại được hai lượng vàng! Cả nhà vui mừng khôn xiết, vì vào thời đó, kiếm được chừng ấy vàng chẳng khác gì trúng số độc đắc.
May thay, nhờ ngọn lửa cháy lên, người ta mới phát hiện ra giá trị của những dòng chữ bằng vàng quý báu!
Hôm nay, mỗi người chúng ta cũng được Chúa Giê-su trao tận tay một cuốn Tin mừng, là cuốn sách đáng giá ngàn vàng. Đó là một kho báu không hề vơi cạn, chứa đựng những điều khôn ngoan của Thiên Chúa được Chúa Giê-su mang từ trời xuống ban tặng cho thế gian. Đây là một cuốn sách chứa đựng những bí quyết đem lại bình an hạnh phúc cho muôn người, đem lại sự sống đời đời cho nhân loại, là một kiệt tác được kết tinh bằng tình yêu, bằng trí tuệ, bằng tim óc của Chúa Giê-su và được hình thành trong suốt 33 năm dương thế của Ngài.
Nhưng tiếc thay, nhiều người đón nhận cuốn Tin mừng nầy cách hờ hững, xem đó là một tác phẩm khô khan, vô bổ, chứa đựng những dòng chữ vô hồn.
Sở dĩ kho tàng Tin mừng của Chúa Giê-su không được xem là quan trọng và quý giá vì những dòng chữ của cuốn sách nầy chưa được ngọn lửa của Chúa Thánh Linh soi chiếu.
Thượng Phụ Athénagoras nhận định rằng: "Nếu Hội Thánh vắng bóng Thánh Linh, thì Thiên Chúa trở nên nghìn trùng xa cách, Đức Giê-su trở thành một huyền thoại và Phúc âm của Ngài chỉ là một mớ chữ không hồn."
Quả vậy, vì không có lửa của Chúa Thánh Thần soi sáng nên lời dạy của Chúa Giê-su như: “Những gì các ngươi làm cho các anh em bé mọn của Ta đây là làm cho chính Ta” (Mt 25,40) trở thành những dòng chữ chết, không thể lay động lòng người. Tuy nhiên, đối với mẹ thánh Tê-rê-xa Calcutta, nhờ ánh sáng Thánh Linh tác động, lời đó trở thành châm ngôn vàng ngọc thúc đẩy mẹ hiến cả đời mình yêu mến và phung sự Chúa Giê-su nơi những con người bất hạnh và đau thương.
Cũng vì không có lửa của Thánh Linh soi chiếu nên những lời nhắc nhở như: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì chẳng được ích gì” (Mt 16, 26) được xem như những lời vô nghĩa. Tuy vậy, đối với thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e, nhờ ngọn lửa của Thánh Linh soi sáng, lời đó trở thành sức mạnh vạn năng giúp ngài từ bỏ công danh địa vị tại kinh đô ánh sáng Paris, để dấn thân vào những miền đất lạ xa xôi, đem ơn cứu độ đến cho nhiều dân tộc Á châu.
Không có Chúa Thánh Thần soi sáng, không ai có thể nhận biết và yêu mến Chúa Giê-su.
Không có ánh sáng của Chúa Thánh Thần chiếu soi, những trang Tin mừng chỉ là những dòng chữ chết.
Không có Chúa Thánh Thần dạy dỗ, Thiên Chúa trở thành Đấng nghìn trùng xa cách.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin ban Thánh Thần Chúa cho chúng con, để nhờ ánh sáng Thánh Linh soi dẫn, chúng con nhận biết, yêu mến Chúa và tìm được nơi kho tàng Tin mừng những lời thần thiêng đem lại cho chúng con sức sống mới. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà  
Tin mừng Gioan 20,19-23
19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! "20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.21 Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em."22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."




 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jun 4, 2025, 9:24:05 PMJun 4
to teresa...@googlegroups.com
Huong sac cua gai.JPG
HƯƠNG SẮC CỦA GAI
 
Đôi hoa tai lấp lánh hai hạt ngọc nhỏ, sáng màu sao trời, nằm ngoan hiền trong bàn tay người thiếu nữ.  Người thiếu nữ biết mình sẽ đẹp hơn nếu đeo đôi hoa tai ấy lên đôi tai mịn màu da tuổi dậy thì.  Xoa xoa vành tai, nhưng mỗi lúc đầu gai nhọn châm vào da thịt, nàng lại thấy đau buốt.  Nhìn mặt mình trong chiếc gương bạc, nàng thấy mình như một đóa hoa lưu ly.  Hẩy nhẹ mớ tóc xoã ngang vai ra sau lưng rồi nhìn vào vành tai còn trống trơn.  Ướm thử đôi hoa lên vành tai.  Chiếc khuyên vàng nổi trên làn da trắng.  Hạt kim cương óng ánh như giọt sương ngũ sắc.  Nàng đẹp.  Người thiếu nữ mỉm cười.  Nhưng làm sao để đeo đôi bông ấy được?  Người thiếu nữ nhìn cành gai.  Nhọn quá.  Mỗi khi định bấm chiếc gai vào vành tai, nàng lại nhăn mặt.  Đau đớn.
 
Nắng gắt hơn mọi ngày.  Giêsu ngồi nghỉ, mồ hôi thấm ướt chiếc áo mẹ may cho thưở nào.  Ba mươi tuổi đời, tuổi của chàng trai mới bóc lớp vỏ thanh niên để chuyển mình thành cây tre bước ra gánh vác việc làng.  Giờ sắp đến.  Chung quang nôn nao về một ngày bất định.  Những ngày trước mặt sẽ là tang chế.  Mặt đất chuyển về đôi chân sắp bước tới một cuộc động đất kinh hoàng.  Chân người thanh niên trẻ Giêsu không vững.  Cố mà giữ khỏi nghiêng ngả.  Mơ hồ đã có máu và nước mắt, mồ hôi và cát.  Tâm tư người thanh niên ba mươi tuổi đời ngộp thở cho những quyết định vô cùng táo bạo.  Mây đang vần vũ trên bầu trời tâm hồn, lối nghĩ nào cũng là kẹt cứng khô cằn.  Âm vọng từ đường xá đi vào, từ con tim thở ra, những âm vọng sắc như dao nhọn.  Không còn văn chương và thơ.  Không còn trăng mềm và đãi ngộ của đất trời.  Đã đến ngõ làng vào Jêrusalem.  Tiếng thở chần chừ: Lạy Cha, nếu được xin cất chén đắng này khỏi con.
 
Đường Nước Trời cũng giống như người thiếu nữ và đôi hoa tai.  Lối ở phía trước nhan sắc.  Nơi đó, mây trời đang chờ đợi hơi sương của đất.  Tình trời như đôi hoa tai sẽ làm người con gái thêm đẹp.  Tình đất là bàn tay vẫy gọi, là chân đi tới.  Nhưng làm sao lãnh nhận tình trời, cũng như người thiếu nữ làm sao đeo được đôi bông tai lên tai nếu không đủ can đảm bấm chiếc gai nhọn qua vành tai chờ đợi.
 
Giêsu đã một thưở mơ tình trời giao hòa cùng tình đất, đã có lúc ngại ngần vì khổ đau.  Nhưng Giêsu đã bấm cành gai nhọn.  Vòng gai trên đầu Giêsu đã sáng ngời mũ quân vương thắng trận.  Muốn có vẻ đẹp phải chấp nhận đớn đau.
 
Người thiếu nữ lại ướm khuyên vàng với vòng tai mình trong ước mơ thèm muốn.  Đôi tai vẫn trống trải đợi chờ.  Tất cả hệ tại đôi tay can đảm và lòng muốn thiết tha của nàng.  Những sợi tóc thánh thiện đang nôn nao đợi, những sợi tóc mai mong manh chờ.  Lại nhìn mình trong dáng gương thật trong.  Một nỗi cô đơn nào đó thoang thoảng trên khuôn mặt xinh.  Vẫn u hoài một thiếu vắng nào đó trên khuôn mặt đẹp.  Nàng biết nỗi u hoài ấy, nàng thấy cái thiếu vắng ấy chính là thiếu vắng của đôi hoa tai.  Nhưng cành gai nhọn quá.  Nàng có thể chần chừ cho giây phút trang điểm.  Nhưng thời gian không đợi chờ nàng.  Cứ nhìn mình trong gương và cành gai, nhưng không vì thế mà cành gai thông cảm bớt sắc đau.
 
“Lạy Cha, đừng theo ý con, nhưng theo ý Cha.”  Trăng đêm ấy là trăng nhỏ màu.  Ánh trăng chênh chếch không dám nhìn thẳng.  Giữa những cành ôliu già sần sùi gắng gượng, Giêsu đã phó mình trong tay Cha, hoàn tất cho một yêu thương nhất định.  Chỉ có tình yêu mới đẩy tảng đá che mồ mà bước vào.  Đất đã lở cho lửa thiêu đốt những lưỡng lự ngái ngủ.  Hệ luỵ điêu linh người thanh niên Giêsu đã anh dũng lãnh nhận.  Đêm Giêtsimani.  Đêm nghiệt ngã.  Cành gai nhọn đã trùm lên đầu đau đớn.  Đêm linh thiêng.  Đau đớn của thập giá và vinh quang của phục sinh là nhan sắc mà mất một mà là mất cả hai.   Lời nguyện xin vâng là chuyến đi tìm nhan sắc xuyên qua rừng gai dầy.  Đôi hoa tai sẽ nhạt duyên nếu không gắn trên vành tai người con gái.  Và cất giấu đôi hoa thì khuôn mặt người thiếu nữ cũng bình thường lặng lẽ mà thôi.
 
Người thiếu nữ nhìn cành gai nhọn trong tay thon nhỏ.  Tiếng gọi của cành gai là nhan sắc ở đằng sau.  Trong tim người thiếu nữ có bài ca của lời thánh vịnh thênh thang.  Người thiếu nữ hiểu rằng không phải nhan sắc trong gương mà mình muốn nhận mũi nhọn của cành gai.  Đằng sau nhan sắc là tình yêu mà nàng đang chờ.  Đôi hoa tai chỉ là tiếng thơ cho một giọng ngâm rất ấm mà nàng đang rủ Hoàng Tử Bình An của nàng vào thơ.  Người thiếu nữ, trước ranh giới, không phải gian nan và nhan sắc nữa mà là giữa bến đau thương và bờ đậu hạnh phúc.  Nhan sắc chỉ là bậc thang cho chân đi vào hoàng cung với Người Yêu Muôn Thưở.  Bởi đó, lựa chọn đưa đôi hoa lên vành tai bây giờ là lựa chọn thử thách của Thiên Đàng và Sự Chết.  Hiểu được chiều sâu của nét đẹp con gái thì đôi hoa tai vàng duyên sắc như thế nào.  Tuy thế, sự hiểu biết ấy chẳng làm cho cành gai bớt nhọn và bớt đau thương.  Đường về Thượng Trí vẫn chẳng tùy thuộc trí hiểu mà là ý chí.
 
Giêsu không xin luật trừ cho vòng gai tử nạn.  Cha Ngài cũng im lặng.  Trong ý sâu nhất của linh hồn, Giêsu đã hiểu, và giục giã hồi chiêng trống, Giêsu vào tình sử.  Trọn vẹn.  Có ngại ngùng nhưng không thiếu thiết tha...  Có thách đố nhưng không vắng bóng lòng dũng cảm.  Giêsu đi trọn đường trần.  Gió bay muôn hướng buông vãi ánh sáng phục sinh xuống khắp nhân gian.  Trầm trầm rừng hương ca tụng một trái tim thanh niên, rất cao sang, rất thánh.
 
Người thiếu nữ ngồi đây, phân vân trên tay cành gai nhọn với đôi hoa tai tuyệt đẹp.  Đôi má xuân thì đang thèm muốn.  Ngoài kia đời đang chờ tiếng sáo bay lên.  Lời mời gọi về đường nhân đức cũng vây, là lựa chọn không thể từ chối từ can đảm mà có chiến thắng vượt qua.  Trái tim người thanh niên đang tìm nét đẹp cho êm lòng, cho khơi nguồn sáng tạo trong cuộc đời thiếu nữ.  Đức Kitô cũng đang chờ chân bước tới của kẻ muốn theo Ngài làm môn sinh.
 
Làm sao để người thiếu nữ đeo được đôi hoa tai ấy?  Nàng biết có câu trả lời ở bên kia bờ.  Nhưng từ bên này qua bờ bên kia có cách biệt bởi dòng sông thương đau của cành gai.  Đường về thánh thiện cũng thế thôi.  Liệu kẻ theo Đức Kitô có dám chèo qua dòng sông, rẽ gai bước tới?
 
Nguyễn Tầm Thường, SJ.
 


 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jun 10, 2025, 10:28:53 AMJun 10
to teresa...@googlegroups.com
TRỪ QUỶ BẰNG THINH LẶNG
 
Kinh Thánh tường thuật câu chuyện các môn đệ của Chúa Giêsu không thể trừ được một con quỷ. Khi họ hỏi Chúa Giêsu tại sao lại như vậy, Ngài trả lời có những con quỷ không thể trục xuất bằng lời cầu nguyện.  Con quỷ Chúa Giêsu nói đến trong chuyện này đã nhập vào một người câm điếc.
 
Tôi muốn nêu tên một con quỷ khác có vẻ cũng không thể bị trục xuất bằng lời cầu nguyện, đó là con quỷ luôn phá hoại các mối liên hệ cá nhân, gia đình, cộng đồng và Giáo hội của chúng ta bằng hiểu lầm và chia rẽ, làm chúng ta mãi mãi khó khăn trong việc hiệp thông mang sự sống đến cho người khác.
 
Chúng ta cần lời cầu nguyện đặc biệt nào để trục xuất con quỷ này?  Đó là lời cầu nguyện thinh lặng chung, gần giống với lời cầu nguyện Thinh lặng Quaker.
Lời cầu nguyện Thinh lặng Quaker là gì?
Tôi xin nói qua về lịch sử Quaker: Quaker là một nhóm các giáo phái Tin Lành, với các thành viên gọi nhau là giáo hữu, nhưng họ thường được gọi là Quaker vì một tuyên bố lừng danh của nhà sáng lập George Fox (1624-1691).  Chuyện kể rằng trước mặt một vài quan chức chính quyền đang cố uy hiếp ông, ông cầm quyển Kinh Thánh lên và nói: Đây là lời của Thiên Chúa, hãy run rẩy đi! (run rẩy = quake).
Với những người Quakers, nhất là ở thời kỳ đầu, việc cầu nguyện chung của họ chủ yếu là ngồi lại với nhau trong thinh lặng, chờ Thiên Chúa phán với họ.  Họ thinh lặng ngồi, chờ quyền năng Thiên Chúa đến và cho họ điều gì đó mà họ không thể tự đem lại cho mình, cụ thể là sự hiệp thông thực sự để cùng nhau vượt lên các chia rẽ đang chia cách họ.  Dù họ ngồi riêng từng người, nhưng lời cầu nguyện của họ là chung một cách triệt để.  Họ ngồi đó như một thân thể duy nhất, cùng nhau chờ Thiên Chúa cho họ sự hiệp nhất mà họ không thể tự đem lại cho mình.
Có lẽ đây là việc mà tín hữu Kitô giáo chúng ta có thể thực hành hôm nay, khi thấy mình bất lực trước sự chia rẽ ở khắp nơi (trong gia đình, giáo hội và đất nước)?  Suy cho cùng, tín hữu Kitô chúng ta là một cộng đồng trong Thân thể Chúa Kitô, một cơ thể hữu cơ duy nhất, và khoảng cách vật chất không thật sự phân chia chúng ta được, vì thế có lẽ tín hữu Kitô chúng ta nên bắt đầu cầu nguyện thường xuyên, ngồi lại với nhau trong thinh lặng của phái Quaker, như một cộng đồng, thinh lặng ngồi đó, cùng nhau chờ đợi, chờ Thiên Chúa đến và cho chúng ta sự hiệp thông mà chúng ta không không đủ sức để mang lại cho mình.
Về mặt thực tế, làm thế nào để được như vậy?  Tôi xin đề nghị: mỗi ngày, chúng ta dành một thời gian để ngồi thinh lặng, một mình hoặc lý tưởng nhất là với người khác, trong một thời gian cố định (15 hoặc 20 phút), với dự định trước hết không phải là nuôi dưỡng sự mật thiết với Thiên Chúa (như trong việc suy niệm riêng), nhưng ngồi với nhau trong sự hiệp thông với tất cả mọi người trong Thân thể Chúa Kitô (và với tất cả những ai thiện tâm ở khắp nơi) để xin Thiên Chúa đến và cho chúng ta sự hiệp thông vượt lên chia rẽ.
Đây cũng có thể là một nghi thức mạnh mẽ cho hôn nhân và gia đình.  Có lẽ một trong những liệu pháp chữa lành nhất trong hôn nhân chính là hai người thường xuyên ngồi lại với nhau trong thinh lặng, xin Thiên Chúa cho họ điều mà họ không thể tự cho mình, cụ thể là hiểu nhau vượt lên căng thẳng của cuộc sống hằng ngày.  Tôi nhớ hồi nhỏ, gia đình tôi lần hạt chung với nhau mỗi tối, và nghi thức này cũng có hiệu quả như lời cầu nguyện Thinh lặng Quaker, xoa dịu các căng thẳng tích tụ trong ngày, làm gia đình chúng tôi bình an hơn.
Tôi gọi đây là lời cầu nguyện Thinh lặng Quaker, nhưng có nhiều dạng suy niệm và chiêm niệm khác nhau cũng có cùng ý này.  Chẳng hạn Thánh Eugene de Mazenod nhà sáng lập Dòng Hiến sĩ đã để lại cho chúng tôi lời cầu nguyện gọi là Hương nguyện Oraison.  Ý nghĩa của việc cầu nguyện này là: các Hiến sĩ phải sống với nhau trong cùng một cộng đoàn, nhưng chúng tôi là Hội dòng trải rộng trên 60 quốc gia trên thế giới.  Làm sao chúng tôi có thể hiệp thông với nhau bất chấp khoảng cách?
Bằng lời cầu nguyện Oraison.  Thánh Eugene khuyên chúng tôi dành nửa tiếng mỗi ngày để ngồi trong thinh lặng, một thời gian để không chỉ hiệp thông với Thiên Chúa, mà còn hiệp thông với mọi Hiến sĩ trên toàn thế giới.  Cũng giống như lời cầu nguyện Thinh lặng Quaker, đây là lời cầu nguyện mà mỗi người ngồi một mình, trong thinh lặng, nhưng hiệp thông, xin Thiên Chúa hình thành nên sự hiệp thông nối kết mọi khoảng cách và khác biệt.  Khi Chúa Giêsu nói có những con quỷ không thể bị trục xuất bằng lời cầu nguyện, là Ngài đang nói về chuyện này.  Có lẽ con quỷ được nhắc đến cụ thể nhất chính là con quỷ hiểu lầm và chia rẽ.  Chúng ta đều biết mình bất lực thế nào trong việc trục xuất nó. Ngồi lại với nhau trong thinh lặng chung, xin Thiên Chúa làm cho chúng ta một điều vượt quá sức chúng ta, như vậy có thể trừ đi con quỷ hiểu lầm và chia rẽ.
 
Rev. Ron Rolheiser, OMI


 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jun 11, 2025, 11:36:40 PMJun 11
to teresa...@googlegroups.com
 

HIỆP THÔNG NÊN MỘT
(Suy niệm Lễ Chúa ba ngôi)
Sứ điệp: Mỗi gia đình tín hữu phải là hình ảnh sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Hình ảnh nào minh họa Thiên Chúa Ba Ngôi?
Khi dạy về Chúa Ba Ngôi, người dạy giáo lý thường trưng ra hình tam giác có ba góc, hoặc hình ngọn lửa có 3 yếu tố cháy, sáng và nóng… để minh họa về Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là những hình ảnh thô thiển và sai lạc về ba Ngôi Thiên Chúa.
Vậy thì đâu là hình ảnh thích hợp?
Một gia đình đầm ấm có cha, có mẹ, có con ngoan hiền vui sống chan hòa trong tình yêu thương là hình ảnh tuyệt vời nhất minh họa cho ba Ngôi Thiên Chúa.
Thánh giáo hoàng Gioan Phao-lô II cũng như Đức thánh Cha Phan-xi-cô đưa ra một hình ảnh rất đẹp và phù hợp để minh họa về Chúa Ba Ngôi, đó là hình ảnh MỘT GIA ĐÌNH.[1]
Tông huấn Niềm vui của Tình yêu viết rằng: Thiên Chúa không đơn độc nhưng là MỘT GIA ĐÌNH. “Gia Đình” nầy gồm có 3 Vị là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.[2]
Gia đình Thiên Chúa: Ba Ngôi một Chúa  
Giáo lý Hội thánh Công giáo dạy rằng: “Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần thực sự phân biệt với nhau… Chúa Con không phải là Chúa Cha và Chúa Cha không phải là Chúa Con, Chúa Thánh Thần không phải là Chúa Cha hoặc Chúa Con” (GLHTCG số 254).
Mặc dù Chúa Cha không phải là Chúa Con, nhưng cả hai hiệp nhất nên một trong tình yêu thương như lời Chúa Giê-su nói: “Thầy với Chúa Cha là một” (Ga 10,30). 
Chúa Thánh Thần tuy không phải là Chúa Cha, cũng chẳng phải là Chúa Con, nhưng được xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con, là một với Chúa Cha và Chúa Con.[3]
Đừng hiểu từ “một” theo nghĩa đen (nhằm chỉ số lượng), nhưng phải hiểu theo nghĩa bóng, nhằm diễn tả sự hiệp nhất. Chẳng hạn như khi Chúa Giê-su nói: “Người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.” (Mc 10,8). Từ “một” ở đây phải hiểu theo nghĩa bóng, chứ không phải nghĩa đen.
Gia đình tín hữu yêu thương hiệp nhất như Gia Đình của ba Ngôi Thiên Chúa
Hôm xưa, trước khi rời xa các môn đệ để chịu khổ nạn, Chúa Giê-su mong ước các môn đệ Ngài yêu thương gắn bó nên một với nhau như ba Ngôi Thiên Chúa hằng hiệp nhất trong yêu thương, nên Ngài tha thiết cầu nguyện với Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, xin cho tất cả chúng nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha…. để họ được nên một như Chúng Ta là một…” (Ga 17, 20-23).
Và hôm nay, Chúa Giê-su cũng mong ước gia đình chúng ta luôn sống trong yêu thương và hiệp nhất như Thiên Chúa ba Ngôi nên Ngài hướng nhìn về mỗi thành viên trong gia đình chúng ta và cầu xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cho người cha, người mẹ và đứa con nầy nên một, “như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha… để họ được nên một như Chúng Ta là một” (Ga 17,21-23).
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con quyết tâm chọn “Gia đình” ba Ngôi làm mẫu mực lý tưởng để xây dựng gia đình chúng con, xây dựng giáo xứ chúng con thành gia đình yêu thương và hiệp nhất bền chặt như “Gia đình” ba ngôi Thiên Chúa, nhờ đó mỗi gia đình sẽ trở nên hình ảnh sống động về Thiên Chúa ba ngôi. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà  
TIN MỪNG LỄ CHÚA BA NGÔI (Ga 16, 12-15)
12“Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi q. 13Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới osự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến r. 14Người sẽ tôn vinh Thầy s, vì Người sẽ lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em. 15Mọi sự oChúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói : Người lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em.


[1] Xem Tông thư Niềm vui của gia đình số 11của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô
[2] Tông thư Niềm vui của gia đình số 11của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô
 
[3] GLHTCG số 245








 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jun 11, 2025, 11:37:57 PMJun 11
to teresa...@googlegroups.com
chuabangoic.doc
Bài đọc trong tuần C.doc
Le Chua Ba Ngoi. C.pps

Ngọc Nga

unread,
Jun 12, 2025, 9:05:59 AMJun 12
to teresa...@googlegroups.com

 
CHÚC TỤNG THIÊN CHÚA BA NGÔI
 
“Chúc tụng Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần,
Vì Chúa đã tỏ lòng từ bi đối với chúng ta.”
 
Đó là mở đầu thánh lễ mừng kính Chúa Ba Ngôi.  Các bản văn phụng vụ không nhằm giải thích tại sao một Thiên Chúa duy nhất mà lại có Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.  Mạc khải trọn vẹn về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được hoàn tất nơi Chúa Giêsu Kitô, nhưng cả khi mạc khải cho các môn đệ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu cũng đã không giải thích tại sao Thiên Chúa duy nhất mà lại có Ba Ngôi.
 
Chúa Giêsu đã mạc khải cho các tông đồ, nhất là trong bài diễn văn từ biệt dài trong bữa Tiệc Ly về sự hiện diện và tác động của từng ngôi: Cha, Con và Thánh Thần, và về mối tương quan hiệp nhất giữa Ba Ngôi mà không giải thích lý do tại sao.  Các tông đồ lúc đó cũng đã không thắc mắc tại sao như vậy, nhưng các ngài đã yêu mến, chấp nhận và sống mầu nhiệm với hết lòng chân thành.
 
“Ta và Cha Ta, Chúng ta chỉ là một.  Ai tuân giữ giới răn Ta truyền thì Chúng ta sẽ đến ngự trong người đó.”  Trong Phúc âm thánh Gioan được dùng trong thánh lễ kính Chúa Trời Ba Ngôi là những lời của Chúa Giêsu mạc khải về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa: Cha, Con và Thánh Thần.  Chúa Giêsu đã mạc khải cho các môn đệ như sau: “Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ chúng con không thể lĩnh hội được.  Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy chúng con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói như vậy và Người sẽ dạy bảo các con biết những việc tương lai.  Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người đã lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con.  Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói là Người sẽ lãnh nhận nơi Thầy mà loan truyền cho các con.”
 
Đó là những lời trích từ bài diễn văn dài được ghi lại nơi ba chương của Phúc âm thánh Gioan, từ chương XIV-XVI, trong đó mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được Chúa Giêsu nhắc đến mà không giải thích cho các tông đồ.  Vấn đề quan trọng nhất không phải là biết hết tất cả mọi sự về Thiên Chúa mà là sống mầu nhiệm Thiên Chúa.  Sự hiểu biết của con người tuy có thể đạt được phần nào về Thiên Chúa nhưng không thể nào biết trọn được cả.
 
Sự việc đã xảy ra cho thánh Augustinô khi thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là một lời dạy cho chúng ta ngày nay.  Trí khôn con người hữu hạn làm sao có thể hiểu hoàn toàn về Thiên Chúa vô cùng, nếu muốn hiểu thì chẳng khác nào muốn đem nước của đại dương mênh mông mà đổ vào trong một lỗ nhỏ như trò đùa của em bé mà thánh Augustinô gặp nơi bờ biển.
 
“Thầy con nhiều điều phải nói với chúng con, nhưng bây giờ chúng con không thể lĩnh hội được.  Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy chúng con biết tất cả sự thật, Ngài sẽ đưa các con vào trong trọn cả sự thật.”  Mỗi ngày chúng ta cần lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa, cần được Chúa Thánh Thần soi sáng, hướng dẫn chúng ta tiến sâu vào trong mầu nhiệm bao la của Thiên Chúa Ba Ngôi.  Đây là một sự khám phá vô cùng và mãi không bao giờ ngừng, cả cho đến khi chúng ta được đối diện với Thiên Chúa trong cõi đời đời.
 
Mỗi ngày chúng ta càng được hướng dẫn hay để cho mình được hướng dẫn tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thì chúng ta càng trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, càng được thần thiêng hóa trở nên giống Thiên Chúa hơn và đối xử với anh chị em xung quanh như chính Thiên Chúa muốn.
 
Càng được thấm nhuần trong mầu nhiệm Thiên Chúa bằng đời sống cầu nguyện, kết hiệp thân tình với Thiên Chúa thì chúng ta càng có tâm hồn quảng đại, mở rộng đón nhận anh chị em xung quanh và phục vụ họ trong mọi hoàn cảnh cụ thể.  Đây là kinh nghiệm sống đức tin của những vị thánh mà không chứng minh hay giải thích nào của lý trí có thể đủ sức trình bày.
 
Nguyện xin Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần, mà dấu thánh giá chúng ta mang lấy hy sinh mình hàng ngày trước mỗi công việc quan trọng ban cho chúng ta được mỗi ngày một tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, được ẩn mình trong Thiên Chúa, được biến đổi trong Thiên Chúa để sống trọn cuộc sống con người của mình trên trần gian này và mãi mãi trong cõi vĩnh phúc mai sau.
 
R. Veritas
Trích trong “Mỗi Ngày Một Tin Vui”

 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jun 13, 2025, 10:02:16 PMJun 13
to teresa...@googlegroups.com








Tưởng nhớ những người đã mất…

Hãng hàng không Air India đã chính thức xác định danh tính mười hai thành viên phi hành đoàn trong số 241 người thiệt mạng trong vụ tai nạn thảm khốc trên Chuyến bay 171 của Air India. Chiếc Boeing 787 Dreamliner, trên đường từ Ahmedabad đến London Gatwick, đã rơi ngay sau khi cất cánh vào ngày 12 tháng 6 năm 2025, đâm vào một khu dân cư gần sân bay. Vụ việc đánh dấu vụ tai nạn chết người đầu tiên liên quan đến Dreamliner và khiến cộng đồng hàng không toàn cầu thương tiếc cho sự mất mát.

Thành viên phi hành đoàn Chuyến bay 171 của Air India

Phi công:

1. Cơ trưởng Sumeet Sabharwal – 55 tuổi, Powai, Mumbai
Một trong những cơ trưởng 787 giàu kinh nghiệm nhất của Air India, được nhớ đến vì sự lãnh đạo điềm tĩnh và nhiều thập kỷ bay an toàn.

2. Cơ phó Clive Kunder – 26 tuổi, Mangalore
Một phi công trẻ và đầy triển vọng xuất thân từ gia đình hàng không với hơn 1.100 giờ bay.

Tiếp viên hàng không:

3. Manisha Thapa – 27 tuổi, Patna
Trước đây làm việc cho IndiGo và Akasa Air; nổi tiếng với sự chuyên nghiệp và xinh đẹp trên các tuyến bay quốc tế.

4. Kongbrailatpam Nganthoi Sharma – 22 tuổi, Thoubal, Manipur
Mới gia nhập Air India vào tháng 4 năm 2023; được nhớ đến vì tinh thần tươi sáng và sự tận tụy của cô.

5. Maithili Moreshwar Patil – 22 tuổi, làng Nhava, Maharashtra
Một tiếp viên hàng không đã gia nhập Air India hai năm trước.

6. Irfan Shaikh – 22 tuổi, Pimpri-Chinchwad (Pune), Maharashtra
Tham vọng và tốt bụng, anh mới bắt đầu sự nghiệp hàng không của mình hai năm trước.

7. Shraddha Dhavan – 44 tuổi, Mulund West, Mumbai
Một thành viên phi hành đoàn thương gia với 21 năm làm việc tại Air India, được nhiều thế hệ đồng nghiệp kính trọng và ngưỡng mộ.

8. Aparna Mahadik – 42 tuổi, Goregaon East, Mumbai
Một trưởng nhóm tận tụy và người đam mê thể dục, nổi tiếng với tính kỷ luật và lòng trắc ẩn.

9. Deepak Pathak – 36 tuổi, Badlapur, Maharashtra
Một tiếp viên kỳ cựu 11 năm làm việc tại Air India, luôn đặt sự an toàn và dịch vụ lên hàng đầu.

10. Roshni Rajendra Songhare – 27 tuổi, Dombivli, Maharashtra
Một người có ảnh hưởng trong ngành du lịch và là tiếp viên hàng không chuyên nghiệp, đã đính hôn.

11. Lamnunthem Singson – 24 tuổi, Manipur
Một thành viên phi hành đoàn mới được tuyển dụng tràn đầy hy vọng và năng lượng, vừa mới bắt đầu sự nghiệp của mình.

12. Saineeta Chakravarty – 35 tuổi, Santacruz West, Mumbai
Một cựu thành viên phi hành đoàn của Go Air, người gần đây đã chuyển sang Air India với kinh nghiệm và lòng tự hào.

 
 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jun 14, 2025, 12:09:13 PMJun 14
to teresa...@googlegroups.com

CHA FELIPE GÓMEZ, S.J. – NGƯỜI CHIẾN SĨ THẦM LẶNG TRONG CHÚA

 

Không ai chọn nơi mình sinh ra, nhưng có những người dám chọn nơi để gắn bó cả cuộc đời.

 

Cha Felipe Gómez Gonzalo, SJ hay như nhiều người Việt quen gọi là cha Ngô Minh, không sinh ở Việt Nam, nhưng ngài đã sống như thể được sinh ra để phục vụ mảnh đất này.

 

Cha Felipe Gómez sinh tại Tây Ban Nha vào năm 1935, vào Dòng Tên năm 1953, giữa những năm hậu chiến đầy biến động.  Nhưng không phải châu Âu mời gọi trái tim ngài.  Không phải giảng đường, cũng không phải những vinh quang học thuật.  Nhưng đó lại là một đất nước nhỏ tại vùng trung Đông Nam Á, nơi người ta còn đang học cách cầu nguyện bằng tiếng mẹ đẻ, với phong trào bình dân học vụ thời ấy.  Và đó mới chính là nơi mà Thiên Chúa kêu gọi và mời cha đến.

 

Năm 1960, cha đặt chân đến Việt Nam.  Không ai biết cha sẽ ở lại bao lâu, cũng không ai biết ngài sẽ âm thầm gieo những hạt giống gì.  Ngài bắt đầu bằng việc học tiếng Việt, rồi dạy tiếng Latinh, tiếng Hy Lạp cho lớp tập sinh đầu tiên của Dòng Tên Việt Nam.  Từng chữ cái, từng dấu sắc huyền ngã nặng, ngài kiên nhẫn lượm lặt như thể đang học chính ngôn ngữ của đức tin tại một vùng đất mới.

 

Ngày 29 tháng 4 năm 1966, tại Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, cha được truyền chức linh mục.  Từ đó, ơn gọi của ngài không chỉ là tu sĩ, mà là một linh mục truyền giáo, trao truyền Chúa Ki-tô nơi các thừa tác vụ bí tích.

 

Ngài là người góp phần dịch các văn kiện Công đồng Vaticanô II sang tiếng Việt, một công việc âm thầm nhưng mang chiều sâu thần học và ảnh hưởng lâu dài đến đời sống Giáo hội tại Việt Nam.  Những năm làm bề trên Học viện Dòng Tên, rồi Khoa trưởng Phân khoa Thần học tại Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X Đà Lạt (1971–1975), cha đã hiện diện như là người thầy, người bạn, người chứng nhân trong những chuyển giao của thế hệ, của thời cuộc như một ngọn đèn không rực sáng, không ồn ào, nhưng bừng cháy lặng lẽ và liên lỉ.

 

Từ năm 1971 cho đến khi qua đời, cha vẫn tiếp tục đọc, viết, dạy, nghe và yêu mến Giáo hội Việt Nam bằng tiếng Việt.  Cha đã xuất bản nhiều tác phẩm thần học bằng tiếng Việt: từ Chúa Ba Ngôi đến Kitô học, từ Truyền Giáo học đến Thánh Mẫu Học, rồi đến những tác phẩm về Kinh Tin kính, về Chúa Thánh Thần trong Thần học và Linh đạo.  Ngôn ngữ cha chọn trình bày chính là ngôn ngữ của người bản địa để nói với người bản địa, vừa cố gắng giữ được những triết lý và học thuyết cao siêu, vừa có thể diễn giải để nhiều người có thể hiểu được.

 

Khi nhìn lại cuộc đời và ơn gọi của mình nhân dịp kịp niệm 50 năm linh mục, ngài từng nói: “Ơn gọi của tôi không chỉ là đi tu.  Mà là đi truyền giáo.”

 

Ban đầu, cha xin đi truyền giáo tại châu Mỹ và Trung Hoa, nhưng Bề trên không đồng ý.  Và cuối cùng, cha đến Việt Nam, không theo tính toán và dự định của mình, nhưng theo điều mà cha gọi là “sự quan phòng dịu dàng của Thiên Chúa.”  Cha nói:

 

“Chúa luôn có cách của Người.  Nhìn lại cuộc đời, tôi chỉ có thể thốt lên lời cảm tạ.”

 

Với những ai hỏi cha làm sao để truyền giáo, cha trả lời bằng sự đơn sơ của người từng sống trọn đời giữa những người chưa biết Chúa:

 

“Đừng giảng giáo lý. Hãy kể cho họ nghe niềm hy vọng của bạn.”
“Hãy để Lời Chúa tự lên tiếng.  Còn chúng ta, cứ làm phần của mình, phần còn lại… để Chúa lo.”

 

Có những người truyền giáo bằng tài giảng thuyết của mình, cũng có những người truyền giáo bằng cả một đời sống trung tín và kiên cường trong những điều nhỏ bé.  Nơi cha Gómez, người ta tìm thấy một nhà giảng thuyết và một vị tông đồ trung tin, một người tìm Chúa nơi một đất nước không phải của mình, nhưng cuối cùng lại trở thành quê hương của tâm hồn mình.

 

Cha Felipe Gómez Gonzalo, S.J. thực sự là một nhà truyền giáo Tây Ban Nha với một trái tim Việt Nam, người kể về Chúa cho người Việt Nam.  Giữa thời đại mà người ta dễ mỏi mệt với những lời mời gọi “ra đi,” đời sống của cha nhắc nhở chúng con rằng ra đi không có nghĩa là bỏ lại, nhưng là quyết sống trọn vẹn ở một nơi không quen thuộc, cho một dân tộc không phải ruột thịt, và bằng một tình yêu không hề ép buộc.

 

Nguyện xin Chúa là Đấng ngài từng hết lòng yêu mến và phục vụ, đón nhận ngài vào nơi bình an vĩnh cửu.  Và xin tiếp tục gửi đến cho Giáo Hội chúng con những chứng nhân của các nhà truyền giáo bằng tình yêu, sự trung tín, niềm vui và hy vọng.  Xin cho chúng con cũng học cách sẵn sàng ra đi, học ngôn ngữ mới, yêu những con người mới, và trao dâng cả cuộc đời như một chứng tá sống động cho Tin Mừng.

 

Trần Đỉnh, S.J.


 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jun 17, 2025, 8:28:39 AMJun 17
to teresa...@googlegroups.com

LỜI NGUYỆN XIN TĨNH LẶNG
 
Hãy làm thinh và biết Ta là Đức Chúa.
Kinh thánh quả quyết với chúng rằng nếu chúng ta làm thinh thì sẽ biết Chúa, nhưng có được sự lặng yên thì nói dễ hơn làm.  Như Blaise Pascal từng nói, “Mọi khốn khổ của con người là do chẳng ai có thể ngồi yên trong một tiếng đồng hồ.”  Đạt được sự tĩnh lặng có vẻ là việc quá tầm chúng ta, và như thế chúng ta gặp một song đề: chúng ta cần tĩnh lặng để tìm Chúa, nhưng cần Chúa giúp để tìm sự tĩnh lặng.  Nghĩ như thế, tôi xin đưa gởi gắm các bạn một lời nguyện xin sự tĩnh lặng.
Lạy Thiên Chúa của tĩnh lặng…
Xin làm tĩnh lặng những bồn chồn tuổi trẻ của con, tĩnh lặng cơn đói khát cứ ập vào con, cơn đói khát muốn nối kết với mọi người, muốn thấy và thưởng nếm mọi thứ, cơn đói khát khiến con mất bình an những buổi tối cuối tuần.  Xin tĩnh lặng những giấc mơ tự đại muốn mình nổi bật với người khác.  Xin cho con ơn sống hài lòng hơn với bản thân con.

Xin tĩnh lặng cơn bồn chồn khiến con thấy mình quá nhỏ bé.  Xin cho con biết rằng đời con là đủ, và con không cần đòi hỏi về mình, dù cho cả thế giới đang cố lôi kéo con làm thế với vô vàn những hình ảnh tiếng động khắp nơi.  Xin cho con ơn sống bình an trong cuộc đời mình.
Xin làm tĩnh lặng tính dục của con, chỉnh đốn những khao khát bừa bãi, dục vọng của con, nhu cầu không ngơi muốn được thân mật hơn nữa của con.  Xin tĩnh lặng và chỉnh đốn những dục vọng trần tục của con mà không cần phải xóa bỏ chúng đi.  Xin cho con biết nhìn người khác mà không phải với con mắt tình dục ích kỷ.
Xin tĩnh lặng những lo âu, trăn trở của con và đừng để con lúc nào cũng sống ngoài giây phút hiện tại.  Xin cho con biết ngày nào có mối lo của ngày ấy.  Xin cho con ơn biết rằng Chúa đã gọi con trong yêu thương, viết sẵn tên con trên thiên đàng, và con được tự do sống mà không cần lo lắng.
Xin tĩnh lặng nhu cầu muốn bận rộn luôn mãi của con, muốn kiếm việc gì đó để làm, muốn lên kế hoạch cho ngày mai, muốn hoạt động mọi phút giây, muốn tìm cái gì đó để lấp đầy khoảng thinh lặng. 
Xin cho con biết thêm tuổi thêm khôn ngoan.  Xin làm nguôi đi những cơn giận âm ỉ vô thức của con vì thấy quá nhiều mong muốn của mình chưa thành sự.  Xin tĩnh lặng sự chua cay vì thất bại của con.
 Xin giữ con khỏi ghen tương khi con cay đắng chấp nhận những giới hạn của cuộc sống mình.  Xin cho con ơn chấp nhận những thất bại và hoàn cảnh của mình.
Xin tĩnh lặng nỗi sợ chính mình, nỗi sợ trước những thế lực tăm tối đang đe dọa con trong vô thức.  Xin cho con can đảm để đối diện với bóng tối cũng như ánh sáng của chính mình.  Xin cho con ơn đừng sợ sự phức tạp của mình.
Xin tĩnh lặng nỗi sợ bẩm tại của con là sợ mình không được yêu thương, sợ con không xứng đáng để yêu.  Xin làm tĩnh lặng sự hoài nghi dằn vặt rằng con luôn là kẻ ngoài cuộc, rằng cuộc sống thật bất công, rằng con không được tôn trọng và thừa nhận.  Xin cho con ơn biết rằng con là con yêu dấu của Chúa, Đấng yêu thương con vô điều kiện.
Xin tĩnh lặng trong con nỗi sợ vô cớ đối với Chúa, để con đừng thấy Chúa xa cách và đáng sợ, mà thay vào đó là nhìn thấy Chúa nồng ấm và thân thiện.  Xin cho con ơn liên kết với Chúa thật hồn nhiên, như một người bạn mà con có thể chuyện trò, đùa giỡn, vui vẻ và thân thiết.
Xin tĩnh lặng trong con những suy nghĩ bất dung, về những giận hờn từ quá khứ, những bội bạc, lăng mạ mà con phải chịu.  Xin tĩnh lặng trong con những tội mà chính con đã phạm.  Xin tĩnh lặng trong con những tổn thương, cay đắng và giận hờn.  Xin cho con sự tĩnh lặng từ sự tha thứ, từ con và cho con.
Xin tĩnh lặng những nghi ngờ, lo lắng về sự hiện diện của Chúa, về lòng trung tín của Chúa.  Xin tĩnh lặng trong con xung lực muốn để lại dấu ấn, muốn tạo nên gì đó bất tử cho bản thân mình.  Xin cho con ơn biết tin tưởng, ngay cả trong tối tăm và nghi hoặc, rằng chính Chúa sẽ cho con sự sống đời đời.
Xin tĩnh lặng tâm hồn con để con biết Chúa là Thiên Chúa, và cho con biết Chúa đã tạo dựng và gìn giữ mọi hơi thở của con, rằng Chúa yêu thương con cũng như hết thảy mọi người, rằng Chúa muốn cuộc sống chúng con bừng nở, Chúa muốn chúng con hạnh phúc, Chúa yêu thương và chăm lo hết mọi người, rằng chúng con sẽ được an bình trong bàn tay nhân từ của Chúa, ở đời này và đời sau.  Amen!
Rev. Ron Rolheiser, OMI

 
 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jun 18, 2025, 11:15:10 PMJun 18
to teresa...@googlegroups.com
leMinhmauChua_c.doc
Bài đọc trong tuần C.doc
LeMMTC_C.pps

Ngọc Nga

unread,
Jun 18, 2025, 11:24:26 PMJun 18
to teresa...@googlegroups.com


HỒNG ÂN THÁNH THỂ

 (Suy niệm Lễ Mình Máu thánh Chúa)
Sứ điệp: Kết hợp nên một với Chúa Giê-su để được sống đời đời.
***
Sự sống quý hơn mọi báu vật trên đời
 
Trên cõi đời nầy, không gì quý bằng sự sống. Được sống vui, sống khỏe là mơ ước, là khát vọng mãnh liệt và thâm sâu nhất của con người. Vì thế, khi mắc những chứng bệnh nguy hiểm đe dọa mạng sống, người ta tìm cách chạy chữa với bất cứ giá nào, miễn là được khỏi bệnh và được sống.
Tuy nhiên, cuộc sống con người trên dương gian chỉ như bông hoa sớm nở tối tàn, có thể tan biến bất cứ lúc nào như sương, như khói…
Vì thế, ai cũng muốn sống lâu và tìm cách kéo dài tuổi thọ. Tuy vậy, con người không thể thắng được sự chết và sớm muộn gì cái chết cũng đến cướp đi sự sống của từng người trên dương gian.
 
Thiên Chúa thông ban sự sống đời đời   
Thiên Chúa là Cha của mọi người và Ngài hết lòng yêu thương họ. Ngài cũng là chủ của sự sống, là cội nguồn thông ban sự sống cho muôn vật, muôn loài.
Ngoài việc thông ban cho loài người sự sống đời nầy, Thiên Chúa còn muốn ban sự sống vĩnh cửu của chính Ngài cho con người, để họ được sống đời đời với Ngài, để họ được hạnh phúc vĩnh cửu như Ngài
Nhưng làm sao thực hiện được điều tuyệt vời nầy?
Muốn cho cành nho tiếp nhận được sự sống của thân nho, thì nó phải được tháp nối nên một với thân nho.
Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể.
Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giê-su thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giê-su.
Để thực hiện điều nầy, Chúa Giê-su lập nên bí tích Thánh thể, hiến ban Thịt và Máu Ngài, dưới hình bánh rượu, làm của ăn cho nhân loại, để những ai lãnh nhận Mình Máu thánh Ngài cách xứng đáng, thì được hòa nhập nên một với Ngài như giọt nước hòa trong chén rượu, được ở lại trong Ngài như lời Ngài phán:“Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy”(Ga 6,56).
Và những ai “ở lại trong Chúa Giê-su và có Chúa Giê-su ở lại với mình”, thì người đó là một với Chúa Giê-su và tất nhiên Sự Sống của Chúa Giê-su sẽ được thông ban cho người ấy.
Điều tuyệt vời là Sự Sống mà Chúa Giê-su thông ban cho những ai tiếp nhận Mình Máu Ngài không phải là sự sống sinh vật có thể bị lụi tàn theo năm tháng mà là Sự Sống vĩnh cửu không bao giờ tàn phai.
Đức Giê-su khẳng định điều nầy khi nói rằng: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh nầy, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 51).
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời…” (Ga 6, 54).
Thế là thông qua việc tiếp nhận Mình và Máu Chúa Giê-su khi rước lễ, con người được nên “cùng một thân mình, cùng một dòng máu”[1] với Chúa Giê-su và do đó, Sự Sống thần linh của Chúa Giê-su sẽ được thông ban cho họ. Họ sẽ được sống đời đời với Chúa! Hạnh phúc biết bao!
Lạy Chúa Giê-su,
Chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con cơ hội để hiệp thông nên một với Chúa, hòa tan trong Chúa như giọt nước hòa trong chén rượu và nhờ đó Sự Sống đời đời của Chúa được thông truyền cho chúng con.
Xin cho chúng con sốt sắng tham dự Thánh lễ hằng ngày để đón nhận hồng phúc vô cùng cao quý nầy. 
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

PHÚC ÂM: Lc 9, 11b-17 năm C
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân chúng về nước Thiên Chúa và chữa lành những kẻ cần được cứu chữa. Vậy khi đã xế chiều, nhóm mười hai đến thưa Người rằng: "Xin Thầy giải tán dân chúng, để họ đi vào trong các làng mạc và trại quanh đây mà trú ngụ và kiếm thức ăn, vì chúng ta đang ở nơi hoang địa". Nhưng Người nói với các ông: "Các con hãy cho họ ăn đi". Các ông trả lời: "Chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, trừ phi chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám đông này". Số đàn ông độ năm ngàn. Người nói với các môn đệ rằng: "Hãy cho họ ngồi xuống từng nhóm độ năm mươi người". Các ông đã làm như thế, và bảo tất cả ngồi xuống. Chúa Giêsu cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, nhìn lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và phân phát cho các môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Tất cả đều ăn no nê, và người ta thu lượm được mười hai thúng miếng vụn còn dư lại.  

[1] Trích từ bài giảng của thánh Lê-ô cả Giáo ho



 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jun 19, 2025, 8:54:07 PMJun 19
to teresa...@googlegroups.com

THẦN LƯƠNG

 

Vào năm 1263, tại nhà thờ thánh Catherine, thành Bolsène nước Ý, có một linh mục trong khi dâng lễ, sau khi đọc lời truyền phép đã nghi ngờ về bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa.  Xảy ra là Máu Thánh chảy ướt khăn thánh và khăn bàn thờ.  Đức Giáo Hoàng nghe tin và đã rước khăn thánh về để tạm tại nhà thờ Orviette.  Sau đó, xây nhà thờ để thờ kính Máu Chúa nơi Khăn Thánh này.  Ngày 8 tháng 9, 1264, Đức Giáo Hoàng Urbanô IV (1262-1268) đã ban hành tự sắc Transiturus, lập lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô và cử hành sau tuần 8 ngày của lễ Chúa Thánh Thần.  Thánh Tôma Aquinô đã sáng tác bài Pange Lingua và Adoro Te để tôn kính Mình Máu Thánh Chúa.

 

Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ muôn loài và quan phòng mọi sự một cách lạ lùng.  Mọi thụ tạo trong hoàn vũ đều thay đổi mỗi giây phút.  Các loài có sự sống từ thực vật, động vật đến sinh vật đều theo một tiến trình phát triển, có sinh và có tử.  Trong mọi loài Chúa đã dựng nên, được phát triển và nẩy nở theo thời gian năm tháng tùy theo mỗi loại.  Nơi mọi loài có sự sống, đều phải hấp thụ dưỡng chất qua môi trường chung quanh để sinh tồn.  Có nghĩa mọi loài hiện hữu cần có ăn uống, hấp thụ, tiêu hóa, đào thải, phát triển, già nua và tiêu diệt.  Ăn uống là nhu cầu cần thiết để sống và sinh tồn.  Ngày xưa dân Do-thái lữ hành trong sa mạc trên đường về miền Đất Hứa, Thiên Chúa đã nuôi dân bằng Manna, thịt chim cút và nước nguồn.  Chúa đã nuôi dân suốt thời gian: Trong hoang địa, Người đã nuôi các ngươi bằng Manna mà cha ông các ngươi chưa từng biết tới (Đnl 8, 16a).  Manna lương thực nuôi dưỡng hằng ngày là hình ảnh của bánh trường sinh.

 

Khi ra rao giảng tin mừng, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân.  Cả bốn phúc âm đều kể lại sự kiện biến hóa năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ.  Chúa Giêsu đã cầm bánh và cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn và bẻ ra trao cho các tông đồ và các tông đồ trao cho hơn năm ngàn người ăn no nê và còn dư thừa.  Chúa rộng ban một cách dồi dào dư giả.  Chúa Giêsu nhận biết các nhu cầu cả tâm linh lẫn thể xác của những người đang đi theo Chúa.  Chúa Giêsu đã dậy dỗ họ và đã nuôi dưỡng họ.  Nhưng chúng ta biết Chúa đến trần gian không nhằm đáp ứng mọi nhu cầu đòi hỏi về thân xác của con người.  Chúa làm phép lạ để minh chứng về sứ mệnh cứu độ của Chúa và để chuẩn bị tinh thần họ đón nhận của ăn cao quí hơn.  Đó chính là của ăn nuôi hồn và là thần lương tinh tuyền.  Chúa muốn dùng chính thân mình Ngài làm của ăn ban sự sống đời đời.

 

Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể trong bữa tiệc ly, trước khi Ngài chịu chết.  Như đã hứa, Chúa Giêsu đã chọn bánh miến và rượu nho làm của ăn nuôi hồn.  Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể: Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ và nói: Tất cả các con hãy nhận lấy mà ăn vì này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con.  Rồi Ngài cầm lấy chén rượu, tạ ơn, dâng lời chúc tụng, trao cho các môn đệ và nói: Tất cả các con hãy nhận lấy mà uống, vì này là chén máu Thầy, máu giao ước mới và vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được ơn tha tội.  Và truyền: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.  Khi Chúa nói: Đây là Mình Thầy và đây là Máu Thầy, thì bản thể của bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa.  Chúng ta hiểu Chúa Giêsu nói: Đây là Mình Thầy, chứ không phải là dấu chỉ của Mình Thầy.

 

Chúng ta có thể nhận biết hình dáng bên ngoài của bánh và rượu như mầu sắc, mùi vị, hình thù và kích cỡ.  Trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta không thể nhìn thấy Chúa Kitô với con mắt trần.  Chúng ta chỉ có thể nhìn với con mắt đức tin.  Chúng ta tin rằng Chúa Kitô hiện diện trọn vẹn trong hình bánh rượu, bởi vì Chúa đã sống lại và không còn chết nữa (Rm 6, 9).  Với quyền năng vô biên, Chúa đã biến đổi bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa.  Chúng ta học biết chính Chúa đã tạo dựng vũ trụ muôn loài từ hư vô.  Chúa hóa bánh nuôi năm ngàn người.  Chúa biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana.  Chúa cho kẻ chết sống lại.  Chúa đã làm rất nhiều phép lạ để chứng minh quyền năng vô biên.  Bí tích Thánh Thể là sự lạ vượt trên tầm trí hiểu của con người.  Đây là mầu nhiệm của đức tin.

 

Chúng ta có thực sự tin Chúa Giêsu ngự thật trong Bí tích Thánh Thể không?  Chúng ta có tin bánh và rượu thực sự trở nên Mình và Máu Thánh Chúa Kitô sau khi linh mục đọc công thức truyền phép trong thánh lễ không?  Trong cuộc thăm dò ý kiến (Gallup poll) mới đây về thái độ của một số người Công giáo về Bí tích Thánh Thể.  Kết qủa làm cho nhiều người Công giáo bị lo lắng xôn sao về một trong những niềm tin căn bản nhất của Giáo Hội.  Nói rằng chỉ có 30 phần trăm những người được hỏi ý kiến, tin là họ đã lãnh nhận Mình và Máu Thánh, linh hồn và thần tính của Chúa Giêsu Kitô dưới hình bánh và rượu trong khi rước lễ.

 

Trải qua truyền thống của hai ngàn năm, lời Kinh Thánh và giáo huấn của Giáo Hội luôn dậy rằng Bí tích Thánh Thể chính là Mình và Máu của Giêsu Kitô, không còn là bánh và rượu bình thường.  Phúc âm thánh Gioan chương 6 đã nêu rõ: Bấy giờ, Chúa Giêsu nói với họ: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Người, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi (Ga 6, 53).  Chúa Giêsu nhấn mạnh về Thịt và Máu, chứ không phải chỉ là biểu tượng.  Vì có một số môn đệ nghe lời Chúa nói về ăn thịt và uống máu Ngài, họ đã không thể chấp nhận và đã bỏ đi.  Chúa Giêsu không kêu gọi các ông trở lại để giải thích rằng Ngài chỉ có ý nói một cách biểu trưng.  Chúa Giêsu xác tín lời thật: Ai ăn thịt và uống Máu Ta, thì có sự sống đời đời và Ta, ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết (Ga 6, 54).

 

Thời kỳ Giáo Hội sơ khai đã khắc cốt ghi tâm những lời truyền này một cách rất cẩn thận.  Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu thành Corintô đã làm rất sáng tỏ: Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa (1Cor 11, 27).  Phaolô đã tin nhận bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô thực sự.  Giáo Hội luôn luôn dạy rằng qua lời truyền phép của linh mục trong Kinh Nguyện Thánh Thể, bánh và rượu đã được biến đổi bản thể.  Mặc dầu hình dạng bề ngoài vẫn là bánh và rượu, nhưng bởi quyền năng của Chúa, bánh rượu đã trở nên Mình và Máu Thánh Chúa.  Làm sao chúng ta có thể hiểu biết điều này?  Đòi hỏi niềm tin.  Sau khi truyền phép, linh mục nâng Mình Máu Chúa và tuyên xưng: Đây là mầu nhiệm đức tin.  Là mầu nhiệm, giống như tình yêu, chúng ta không bao giờ hiểu thấu hoàn toàn.  Tất cả mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thần tính của Chúa Giêsu, sự Chết và Sống lại của Chúa Kitô đều là những mầu nhiệm.

 

Nhận lãnh Bí tích Thánh Thể, chúng được thông hiệp với Chúa và với nhau: Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra chẳng phải là thông hiệp vào Mình Chúa đó sao? (1Cor 10, 16b).  Thánh Thể liên kết chúng ta nên một.  Thánh Phaolô diễn tả rất rõ: Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm bánh (1Cor 10, 17).  Chúa Giêsu đã dùng của ăn cụ thể nuôi thân xác để biến đổi trở thành của ăn nuôi hồn.  Chúa hiện diện với đoàn con cái mọi nơi và mọi lúc qua Bí tích Thánh Thể trong Nhà Tạm.

 

Lạy Chúa, với quyền năng vô biên, Chúa đã nuôi dưỡng chúng con bằng bánh hằng sống.  Xin cho chúng con biết chuẩn bị tâm hồn xứng đáng để lãnh nhận của ăn thiêng liêng và hồng phúc này.  Xin cho chúng con đáng hưởng phần gia nghiệp Chúa hứa ban: Ai ăn thịt và uống Máu Ta, thì có sự sống đời đời.

 

Lm. Giuse Trần Việt Hùng



 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jun 19, 2025, 8:56:32 PMJun 19
to teresa...@googlegroups.com
leMinhmauChua_c.doc
Bài đọc trong tuần C.doc
LeMMTC_C.pps

Ngọc Nga

unread,
Jun 19, 2025, 9:10:33 PMJun 19
to teresa...@googlegroups.com
Không có mô tả ảnh.


 
CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT
Ý nghĩa của việc linh mục bỏ một miếng bánh thánh nhỏ vào chén thánh trước khi rước lễ.
Sau khi bẻ bánh thánh, ngay trước lúc rước lễ, linh mục bỏ một mẫu bánh thánh nhỏ vào trong chén thánh.
Nghi thức này được ghi nhận từ thế kỷ thứ II. Sách lễ không giải thích nghi thức này, nhưng có thể đưa ra 2 lý giải.

1. Nghi thức này có thể liên quan đến thời gian đầu của Giáo Hội. Các mẫu bánh thánh trong thánh lễ của Đức Giáo Hoàng được phân chia cho các cha xứ tại các nhà thờ nội thành Rôma. Những vị này không thể đến dự lễ Đức Giáo Hoàng cử hành do phải dâng lễ cho giáo dân. Việc chia bánh thánh này muốn diễn tả sự hợp nhất của linh mục đoàn thành Rôma với vị giáo hoàng của mình.

2. Cũng có thể cho rằng đây là những bánh thánh được giữ lại để cho những người bệnh và những người hấp hối rước lễ. Người ta thay thế lại mỗi khi bánh thánh trở nên khô cứng, bằng cách nhúng vào rượu thánh cho mềm bớt để chịu lễ cho dễ dàng hơn.
Mặc dù chưa có giải thích chính thức nào, người ta thường nói đến sự hiệp nhất trọn vẹn của thịt và máu, là hai yếu tố không thể tách rời của sự sống. Do đó, hòa lẫn Mình Thánh và Máu Thánh trong chén thánh để diễn tả rằng Chúa Kitô hằng sống.

Khi bỏ một mẫu bánh thánh nhỏ vào trong chén thánh, chủ tế đọc nhỏ : "Xin Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô hòa lẫn với nhau mà chúng con sắp lãnh nhận cho chúng con được sống muôn đời".

LM Giuse Vũ Thái Hòa



 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jun 20, 2025, 10:10:50 AMJun 20
to teresa...@googlegroups.com


BIẾT MÌNH LÀ GÌ – ĐỪNG ĐỂ SAI CHỖ

Kim cương không nằm trong ngăn kéo.
Nó xứng đáng nằm trên ngón tay khiến người ta tự hào giơ cao.
Cái cuốc không sinh ra để trưng ở sân sau.
Nó phải ở tay người biết gieo trồng, biết tạo ra mùa màng.
Một đĩa cơm không nên đặt trước người no nê,
mà nên đến đúng lúc – đúng người – đúng nhu cầu.

Bạn cũng vậy.
Bạn không sinh ra để làm cảnh,
mà để được công nhận – được dùng đúng – và được toả sáng.

Bạn không cần giống ai cả.
Bởi bạn là bản gốc – là phiên bản không lặp lại.
Cố trở thành ai đó chỉ khiến bạn đánh mất điều đặc biệt nhất: chính mình.

Trong tình yêu:
Chọn người hiểu, trân trọng, và tự hào vì có bạn – chứ không phải người chỉ muốn bạn để lấp khoảng trống.
Trong công việc:
Chọn nơi bạn được dùng đúng kỹ năng, đúng đam mê, đúng giá trị – bạn sẽ không cần “cạnh tranh”, bạn sẽ tự phát sáng.

Dù là kim cương, cuốc, hay tấm vải –
ở đúng nơi, chúng đều là báu vật.




 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jun 21, 2025, 8:00:30 AMJun 21
to teresa...@googlegroups.com

THÁNH THỂ, MỘT ƠN BAN TỘT ĐỈNH CỦA THIÊN CHÚA

 

Lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô mà chúng ta cử hành Chúa nhật hôm nay là một biểu lộ hân hoan đối với sự hiện diện thường hằng của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể.  Lễ này được cử hành theo truyền thống với một cuộc rước Thánh Thể khắp khu vực xung quanh nhà thờ sau thánh lễ.  Kết thúc cuộc rước, Thánh Thể được đưa trở lại Nhà thờ để Chầu.  Đó là một việc tôn sùng lớn lao hướng về Chúa Kitô hiện diện trong Bí tích Thánh Thể.

 

  1. Vài nét lịch sử

 

Trong Giáo Hội Sơ Khai, việc tôn thờ Mình và Máu Chúa Kitô chỉ giới hạn trong việc cử hành Thánh Thể và rước lễ, và các Giáo Phụ như Augustinô và Ambrôsiô khuyến khích thái độ thờ lạy trong Thánh Lễ.  Tuy nhiên, vào thế kỷ 13, để đền tạ những phạm thánh và bất kính của những người phủ nhận Bí tích Thánh Thể, nhiều phong trào giáo dân ở Bắc Âu đã cổ động lòng sùng kính bí tích này.  Họ tổ chức những giờ chầu Thánh Thể, linh mục ban phép lành với Mình Thánh Chúa, kéo chuông nhà thờ khi linh mục thánh hiến bánh và rượu.  Tại Liège, Bỉ, nhờ thánh nữ Juliana (1193-1258), một nữ tu khiêm hạ và thánh thiện của dòng Augustinô tại Mont-Cornillon, họ đã xin Đức cha Robert de Thorete, là giám mục địa phương, cử hành một lễ kính Mình Thánh vào ngày thứ năm sau Chúa nhật kính Chúa Ba Ngôi.  Mặc dù ban đầu còn do dự, nhưng vào năm 1246, Đức Giám Mục Thorete chấp thuận lời thỉnh cầu cho phép cử hành lễ Mình Máu Chúa Kitô trên toàn giáo phận.  Như vậy, Lễ Mình Máu Thánh Chúa được cử hành lần đầu tiên tại Liège, Bỉ, vào năm ấy.  Sau này tại Ý, năm 1263, trong nhà thờ thánh Catarina, tại Bolsena, phía bắc thành phố Rôma và phía nam thành phố Orvieto, một linh mục sau khi đọc lời truyền phép đã nghi ngờ về bánh và rượu trở thành Máu và Thịt Chúa Giêsu.  Tức thì Máu Thánh chảy đẫm khăn thánh và khăn bàn thờ.  Ðức Giáo Hoàng nghe tin này, bèn ra lệnh đem khăn về để tạm tại nhà thờ Orviette.  Chính Phép Lạ này khiến Ðức Giáo Hoàng Urbano IV (1262-1268) ban hành Tông sắc Transiturus de hoc mundo, năm 1264, thành lập lễ kính Mình Thánh Chúa Giêsu, như một ngày lễ cho toàn thể Giáo hội Latinh.  Trong bức Tông Sắc của mình, Đức Urbano IV đã viết rằng: “Để củng cố và đề cao Đức Tin chân thật, sau khi cân nhắc cẩn thận, Ta truyền lệnh rằng, ngoài những cuộc tưởng nhớ hằng ngày mà Giáo hội thể hiện đối với Bí Tích rất thánh này, mỗi năm sẽ còn có một Đại Lễ đặc biệt nữa được cử hành vào một ngày nhất định, và cụ thể là vào ngày thứ Năm sau tuần Bát Nhật kính Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.  Trong ngày đó, dân thánh thiện sẽ sốt sắng và mau chóng tập trung lại trong các ngôi Thánh Đường của chúng ta, và tại đó, các bài Thánh Ca sẽ được vang lên bởi các Giáo sĩ và các Giáo dân với trọn niềm vui thánh thiện.” [1]  Khi Đức Giáo Hoàng Piô V (1504-1572) sửa đổi Lịch Rôma chung, Lễ Mình Máu Thánh Chúa – Corpus Christi – được ngài giữ lại cùng với Lễ Chúa Ba Ngôi.

 

Ðức Giáo Hoàng Urbano IV giao cho Thánh Tôma Aquinô, đang là nhà thần học của Giáo hoàng, soạn thảo những bản văn phụng vụ cho ngày lễ trọng này.  Thánh Tôma Aquinô đã sáng tác một bài thánh ca dành cho Kinh Chiều của ngày lễ này, Pange Lingua, cũng được hát vào Thứ Năm Tuần Thánh trong cuộc rước Mình Thánh Chúa đến bàn thờ tạm.  Hai câu cuối của Pange Lingua [2] trở thành bài thánh ca Tantum Ergo, được sử dụng cho các Giờ Chầu Mình Thánh Chúa.

 

  1. Tin mừng và ý nghĩa của Thánh Thể

 

Mặc dù Thứ Năm Tuần Thánh cũng được coi là Lễ Mình và Máu Chúa Kitô, nhưng ngày đó dành để nhớ đến việc Chúa Giêsu thiết lập Chức Linh mục: “Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22: 19) và giới răn yêu thương qua việc rửa chân phục vụ nhau: “Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa.  Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.  Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 3: 13-15).

 

Lễ Mình Máu Thánh Chúa được thiết lập là để dành ra một ngày lễ chỉ tập trung vào Bí tích Thánh Thể: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống.  Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.  Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6: 51).

 

Khi chúng ta quy tụ trong Thánh Lễ, chúng ta biết rằng với tư cách là những người đã được rửa tội, chúng ta tạo thành cộng đoàn Thánh Thể, cộng đoàn này với việc chủ sự của linh mục, sẽ tưởng niệm Mầu Nhiệm Vượt Qua – cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh – của Chúa Giêsu Kitô.  Chúng ta hiệp dâng lễ vật của chúng ta với lễ vật của linh mục, Đấng đại diện cho Chúa Kitô, để lễ vật bánh và rượu được biến đổi thành Mình và Máu Chúa Kitô, mà chúng ta lãnh nhận khi Rước lễ, để chúng ta có được sự sống thần linh muôn đời của chính Chúa Kitô: “Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6: 58).

 

Sự sống này bắt nguồn từ tâm điểm của Thánh Lễ: hiệp thông với Chúa Kitô trong Bí Tích Thánh Thể: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6: 56).  Thánh lễ – cuộc cử hành Bí Tích Thánh Thể – là sự tái hiện hành động của Chúa Giêsu vào đêm trước khi Ngài chịu chết.  Trong Bữa Tiệc Ly: “Ngài cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em.  Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy.”  Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Ngài cũng làm như vậy và nói: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22: 19-20).

 

Trong những lời nói và hành động đó, trong giây phút trao hiến thiêng liêng đó, Chúa Giêsu đã hình dung trước hành động cao cả nhất của Ngài là hiến thân trên Thập giá.  Hội thánh tin tưởng và lặp lại hành động thánh thiêng đó để tuân theo mệnh lệnh của Ngài mỗi khi chúng ta tập trung quanh bàn thờ, kết hợp lại với nhau, để cùng nhau đón nhận Bánh được bẻ ra và Chén được chia sẻ, chính là Thân Mình bị tan nát và Máu bị đổ ra của Chúa Kitô, để đem lại sự sống đích thực đời đời cho những ai tin vào sự hiện diện của Ngài trong Giáo hội và trong Bí tích Thánh Thể: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình.  Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống” (Ga 6: 53-55).

 

Việc nâng tâm hồn chúng ta lên Thiên Chúa chắc chắn là một yếu tố quan trọng trong sự thờ phượng của chúng ta.  Nhưng việc thờ phượng Thiên Chúa mà chúng ta dâng lên qua bí tích thánh thiêng này không chỉ đơn thuần là việc của riêng con người.  Chính việc Chúa Giêsu biến đổi bánh, là “hoa mầu ruộng đất,” và rượu là “sản phẩm từ cây nho,” mà chúng ta được mời gọi tham dự vào bằng việc dâng “công lao của con người,” trở thành Mình và Máu của Ngài, mới làm cho việc thờ phượng của chúng ta trở nên việc thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực: là sự tự hiến của Chúa Giêsu Kitô trên Thập giá qua lời tuyên bố “Cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2: 19) báo trước về mầu nhiệm thập giá, về cái chết và sự phục sinh của Ngài.  Giờ đây con người gặp gỡ Thiên Chúa không cần phải qua trung gian nào khác, kể cả Đền thờ và Lề luật, nhưng qua Chúa Kitô.  Bánh và rượu được cộng đoàn dâng lên, tượng trưng cho lao động, cuộc sống với tất cả những khiếm khuyết của chúng ta, và chúng ta liên kết chúng với sự tự hiến của Chúa Kitô cho Chúa Cha để trở nên hy tế tột đỉnh: hy tế Thánh Thể.  Nhờ đó, chúng ta được biến đổi và trở nên điều mà thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ nhất: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Chúa Kitô ư?  Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Ngài sao?” (1Cr 10: 16).

 

  1. Sống ý nghĩa Thánh Thể

 

Một trong những cảnh gây xúc động nhất trong Tin Mừng của Thánh Gioan là cảnh Chúa Giêsu Biến Hình trên Núi Tabor.  Các môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn níu giữ giây phút chiêm niệm đó. “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay!  Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Lc 9: 33).  Nhưng giống như mọi khoảnh khắc xuất thần, thời gian trôi qua.  Chúng ta phải trở về với những điều bình thường của cuộc sống.

 

Lễ Mình Máu Thánh Chúa là một cơ hội đặc biệt để chúng ta không chỉ chứng kiến mà còn tham dự vào sự biến hình của Chúa Giêsu khi chúng ta chiêm ngắm sự hiện diện luôn mãi của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể.  Nhưng giây phút thiêng liêng này không thể kéo dài mãi được.  Bởi vì chúng ta phải quay trở lại sự phức tạp của cuộc sống hiện tại.  Nhiệm vụ của chúng ta là biến đổi thế giới mà chúng ta đang sống, như những lời của Thánh Irênê, tiến sĩ Hội Thánh: “Gloria Dei est vivens homo – Vinh quang của Thiên Chúa là con người sống.”

 

Được nuôi dưỡng bằng Lương Thực từ Thiên Đàng này, chúng ta nhờ ân sủng của Thiên Chúa qua ân huệ của Chúa Thánh Thần, được trang bị và tăng thêm sức mạnh để tiếp tục sứ mệnh của Chúa Giêsu Kitô trong các khu phố, nơi làm việc, bệnh viện, trường học và các khu vực khác trong cộng đồng của chúng ta.  Đây là ơn kêu gọi của chính chúng ta – trở thành bánh bẻ ra cho người khác, như Thân Mình Chúa Kitô tự hiến cho tất cả mọi người mọi nơi.

 

Vào ngày lễ trọng Mình Máu Thánh Chúa này, một lần nữa chúng ta hãy nhận ra và quý trọng hơn nữa đặc ân được tham dự Bí tích Thánh Thể và tự do lãnh nhận món quà Mình và Máu Chúa Kitô để chúng ta luôn nghiệm được sự hiện diện đồng hành của Chúa Giêsu trên hành trình cuộc sống trần thế này: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã trối lại cho chúng con bí tích Mình và Máu Thánh Chúa, để chúng con đời đời tưởng nhớ Chúa đã chịu khổ hình và sống lại vinh quang.  Xin cho chúng con biết một niềm sùng kính mến yêu bí tích kỳ diệu này để luôn được nghiệm thấy ơn Chúa cứu chuộc chúng con.” [3]


Phêrô Phạm Văn Trung


 


 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jun 24, 2025, 8:38:25 AMJun 24
to teresa...@googlegroups.com

 
NGHĨ VỀ ƠN GỌI
Sinh ra sống ở trên đời, mỗi một người trong chúng ta đều có những ơn gọi và sứ mạng trong sự quan phòng của Thiên Chúa.  Hết thảy chúng ta đều được sáng tạo trong yêu thương với ơn gọi làm người giống hình ảnh Chúa là Chân, Thiện, Mỹ, được chính Thiên Chúa gọi trong tình yêu và mong một ngày nào đó người ấy nghe được tiếng Chúa gọi và đáp lại với tình yêu.  Đây là tiếng gọi từ muôn thủa, nói theo kiểu linh mục nhạc sĩ Duy Thiên là: “Từ khi chưa có đồi non, từ khi chưa có trời cao, chưa có vầng trăng với ngàn sao.  Gọi con giữa muôn muôn người tìm con giữa nơi bùn nhơ” (Trích bài hát: Tình Chúa Cao Vời).  Nghĩa là từ khi chưa có loài người sống trên mặt đất, chưa có đất trời, núi đồi, biển cả…  Thiên Chúa đã yêu từng người, gọi và đặt từng người vào những nẻo đường khác nhau
Ơn gọi của mỗi người
Thiên Chúa còn trao cho mỗi người một sứ mạng, dù là hèn mọn, bất tài, hay chống đối Chúa.  Cụ thể như Abraham được gọi để trở thành tổ phụ của một dân tộc.  Môsê, đứa trẻ dòng dõi Lêvi được gọi để trở thành người giải phóng dân tộc Do Thái.  Samuel được gọi để trở thành ngôn sứ và thủ lãnh.  David cậu bé chăn cừu được gọi để trở thành vua của một dân tộc.  Giona được gọi để trở thành ngôn sứ trong sự chối từ và giận dỗi, đến Maria, người phụ nữ được chọn gọi để trở thành mẹ của Thiên Chúa.
Ơn gọi của Gioan
 
Giêrêmia trong bài đọc I Lễ Vọng Sinh Nhật thánh Gioan là một nhân chứng về ơn Chúa kêu gọi, cho dù ông từ chối trước ơn gọi Thiên định: “A, a, a, lạy Chúa là Thiên Chúa, con đâu có biết ăn nói, vì con còn con nít” (Gr 1 ), nhưng Chúa quả quyết: “Trước khi tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi, Ta đã đặt ngươi làm tiên tri cho các dân tộc” (Gr 1 )
Ngôn sứ Isaia và Thánh vịnh nói về giá trị cao cả của con người trước mặt Thiên Chúa: “ Ðức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi.  Người đã làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, giấu tôi dưới bàn tay của Người.  Người đã biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người” (Is 49, 1-3).  Thánh vịnh trở lại với ý niệm này, tức là, Chúa biết chúng ta từ trong lòng mẹ: “Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con…  Khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu” (Tv 138, 13).  Như thế Thiên Chúa đã an bài sắp đặt mỗi người chúng ta ngay từ khi còn trong dạ mẹ
Theo Kinh Thánh, con người là kẻ được Thiên Chúa nhận biết, gọi tên; và Thiên Chúa biết chắc chúng ta từ khi còn trong lòng mẹ.  Mắt Ngài thấy chúng ta: “Con mới là bao thai, mắt Ngài đã thấy ” (Tv 138,16).  Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả hoàn toàn được phác họa trước lúc sinh ra: “Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao, con sẽ đi trước Chúa mở lối cho Người” (Lc 1, 76).  Tất cả những ơn gọi ấy làm nên một lịch sử cứu độ mà Thiên Chúa tác động trong lịch sử con người.
Này ông Dacaria, đừng sợ, vì ông đã được nghĩa với Chúa” (Lc 1,13).  Đó là lời Sứ Thần nói với ông Dacaria.  Ông đã được nghĩa với Chúa.  Được nghĩa với Thiên Chúa là được Thiên Chúa yêu thương.  Chúa yêu đến ngỡ ngàng, bản thân Giacaria là bằng chứng.  Ngỡ ngàng vì không phải do ông không tin Thiên Chúa, nhưng bởi vì Thiên Chúa đã can thiệp vào lịch sử cuộc đời và ơn gọi của Gioan nói riêng và của mỗi người chúng ta nói chung.
Huyền nhiệm ơn gọi của người Kitô hữu
Mỗi người chúng ta được tạo dựng một cách độc đáo, không ai giống ai, cả về thể xác, tâm hồn, tính tình và năng khiếu.  Bởi đó, không có ơn gọi nào giống ơn gọi nào.  Mỗi người là tác phẩm nghệ thuật độc đáo và độc nhất vô nhị của Thiên Chúa.  Theo tư tưởng thần học về Nhiệm Cục Cứu Độ của Von Balthasar, thì cuộc hành trình ơn gọi của mỗi chúng ta như một kịch bản.  Thiên Chúa Cha đã cài đặt môt chương trình.  Chúa Thánh Thần là huấn luyện viên.  Thiên Chúa Con là gương mẫu.  Bản thân ta thực hiện chương trình, và cộng đoàn là những môi trườn
Cuộc sống con người tự nó đã là một huyền nhiệm, huyền nhiệm vì con người được tạo dựng trong ý định của Thiên Chúa: “chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” (St 1, 26-28).  Như thế, nơi sâu thẳm thân phận con người đã có một huyền nhiệm và con người không tồn tại do chính ý định của mì
Ơn gọi của Gioan Tẩy Giả là kiểu mẫu điển hình cho ý định của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta.  Thiên Chúa đã rõ rệt trong lịch sử đời người.  Mang danh hiệu là Tiền hô của Đấng Cứu Thế, Gioan có sứ mạng “đem nhiều con cái Israel trở về cùng Chúa” (Lc 1, 16).  Cũng thế, loan báo Đấng Cứu Thế bằng lời, đặc biệt bằng lối sống, để đưa nhiều người về với Thiên Chúa là ơn gọi và sứ mạng của chúng ta trong thời đại hôm nay.
Gioan đã sống xứng danh người loan báo về Đấng Cứu Thế.  Là Kitô hữu, chúng ta được Chúa tạo dựng và trao cho sứ mạng giúp nhiều người biết và tin vào Chúa.  Chúng ta đã ý thức vai trò và sứ mạng của mình chưa?  Sứ mạng ấy giúp chúng ta sống xứng danh Kitô hữu của mình.  Tiếc thay, trong thực tế, có nhiều Kitô hữu không sống xứng với danh hiệu ấ
Để khám phá ra mục đích đời ta, ta phải qui chiếu về Lời Chúa. Qua miệng Phaolô, Chúa chỉ cho chúng ta thấy: “Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Chúa Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” (Ep 2,10).
Xin Chúa qua lời chuyển cầu của thánh Gioan giúp chúng con quyết tâm sống sao cho xứng với ơn gọi là Kitô hữu.  Amen!
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jun 26, 2025, 9:49:18 AMJun 26
to teresa...@googlegroups.com


 THÀNH QUẢ CỦA LÒNG YÊU THƯƠNG
(Suy niệm lễ hai thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô)
Sứ điệp: “Chỉ có TÌNH YÊU mới làm cho các phần tử của Hội thánh hoạt động” (thánh nữ Tê-rê-xa Hài đồng Giê-su)
***
Lòng hận thù là ngòi nổ chiến tranh, gây ra vô vàn đau thương khốn khổ cho nhân loại; trái lại, lòng yêu thương là mối giây đoàn kết thuận hòa, là động cơ thúc đẩy nhân loại tiến đến hòa bình và hạnh phúc.
Trong đại lễ thánh Phê-rô và Phao-lô tông đồ, chúng ta cùng tìm hiểu xem lòng yêu thương nồng nhiệt của hai thánh Phê-rô và Phao-lô đã mang lại thành quả nào cho Thiên Chúa và Hội thánh?
 
THÁNH PHÊ-RÔ
Trước hết, chúng ta hướng về thánh Phê-rô.
Tình yêu tha thiết của thánh Phê-rô đối với Chúa Giê-su được bày tỏ qua lời nói cũng như việc làm.
Khi được Chúa Giê-su hỏi: “Con có yêu mến Thầy không?” Phê-rô khẳng định mạnh mẽ rằng: “Thầy biết mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy.”
Chính tấm lòng yêu mến nầy đã khiến Phê-rô bỏ thuyền, bỏ lưới, lìa xa gia đình cha mẹ, từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa Giê-su để làm môn đệ Ngài, sống chết cho Ngài.
Cũng vì yêu mến Chúa Giê-su nên khi quân lính đến bắt Chúa Giê-su trong vườn Cây Dầu, thánh Phê-rô đã không ngần ngại rút gươm ra sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Thầy mình.
Sau lễ Ngũ Tuần, bất chấp sự bắt bớ của nhà cầm quyền, thánh Phê-rô mạnh dạn rao giảng và làm chứng cho người Do-thái biết Chúa Giê-su đã sống lại[1] và ngài vui lòng chấp nhận tù đày và chịu chết vì Chúa[2].
Nhờ lòng yêu mến nồng nhiệt, thánh Phê-rô đã có công đầu trong việc xây dựng Hội thánh Chúa ở trần gian.
THÁNH PHAO-LÔ
Sau ngày được Chúa Giê-su phục sinh cảnh tỉnh trên đường Đa-mát, thánh Phao-lô liền quay về phụng sự Chúa. Lòng yêu mến Chúa như lửa cháy bừng bừng trong tim thánh Phao-lô và chính ngọn lửa nầy đã thôi thúc ngài vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ để chu toàn sứ mạng mà Thiên Chúa đã trao phó cho ngài. Ngài xác nhận rằng: "Vì Tình yêu Đức Ki-tô thúc bách tôi[3]
Nhờ lửa yêu mến thôi thúc, ngài thực hiện nhiều chuyến hành trình truyền giáo không mệt mỏi qua nhiều nước như Tiểu Á, Hy Lạp, Ma-xê-đô-ni-a, Giê-ru-sa-lem và Rô-ma (Công vụ 13–28).
Ngài vui lòng đón nhận vô vàn đau khổ, chịu bách hại, gian nan vì Chúa như bị đánh đòn, bị ném đá, tù đày, đắm tàu, chịu đói khát, chịu gian lao, vất vả mệt nhọc… để lo cho các giáo đoàn được lớn mạnh (2 Cr 11, 23-28).
Ngài xem việc chu toàn sứ vụ rao giảng Tin mừng còn trọng hơn cả mạng sống mình, như lời ngài nói: “Chúa Thánh Thần cho tôi biết rằng hễ tôi đến đâu thì xiềng xích và gian truân đang chờ tôi ở đó. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi chẳng đáng gì, miễn sao chu toàn công cuộc loan báo Tin mừng mà Chúa đã giao cho tôi” (Cv 20, 24).
Như thế, lòng yêu mến Thiên Chúa nơi hai vị Tông đồ trưởng mà Hội thánh Chúa được phát triển rộng khắp như hôm nay.
Đến đây, chúng ta cùng lắng nghe tâm sự của thánh nữ Tê-rê-xa Hài đồng Giê-su về sức mạnh của tình yêu trong lãnh vực xây dựng Hội thánh. Thánh nữ viết: “Em hiểu rằng Hội Thánh có một trái tim và trái tim đó bừng cháy tình yêu. Em hiểu rằng CHỈ CÓ TÌNH YÊU MỚI LÀM CHO CÁC PHẦN TỬ CỦA HỘI THÁNH HOẠT ĐỘNG và nếu tình yêu tắt ngúm thì các tông đồ sẽ chẳng loan báo Tin mừng nữa, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình ra nữa...[4].”
Lạy Chúa Thánh Thần,
Xin đốt lên trong lòng chúng con ngọn lửa nhiệt thành yêu mến Thiên Chúa, nhờ đó, chúng con sẽ can đảm noi gương hai thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô góp phần xây dựng Nước Chúa. Amen.
 
Linh mục Inha-xi-ô Trần Ngà


[1] Cv 2,14-41
[2] Cv 4,3 và 12, 3-5
[3] 2 Cr 5,14
 
[4] Trích sách Một tâm hồn của thánh nữ Tê-rê-xa

TIN MỪNG MÁT-THÊU (Mt 16, 13-19)

[1] Cv 2,14-41
[1] Cv 4,3 và 12, 3-5
[1] 2 Cr 5,14
 
[1] Trích sách Một tâm hồn của thánh nữ Tê-rê-xa

13 Khi Ðức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Người hỏi các môn đệ rằng: "Người ta nói Con Người là ai?" 14 Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ". 15 Ðức Giêsu lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" 16 Ông Simon Phêrô thưa: "Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". 17 Ðức Giêsu nói với ông: "Này anh Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Ðấng ngự trên trời. 18 Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Ðá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. 19 Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy".





 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jun 29, 2025, 11:12:52 PMJun 29
to teresa...@googlegroups.com
Có thể là hình ảnh đen trắng về 1 người và bệnh viện



CÁI CHẾT CỦA MỘT NGƯỜI MẸ
Cái chết của một người mẹ không chỉ là một mất mát...
Đó là một vết nứt. Một “trước” và một “sau”.
Nó không giống với bất kỳ nỗi đau nào khác.
Ngay cả khi mất đi tình yêu lớn nhất đời mình…
cũng không giống.
Bởi khi mẹ qua đời…
là người phụ nữ từng mang ta trong bụng rời xa,
là người đã trao cho ta sự sống ra đi,
và cùng với bà…
một phần của chính ta cũng lặng lẽ tan biến.
Thịt của ta là thịt của bà.
Máu của ta là máu của bà.
Thân thể ta là sự tiếp nối của thân thể bà.
Khi bà rời đi,
thứ đứt lìa không phải là dây rốn...
mà là gốc rễ.
Là cái chết gõ cửa thật khẽ… như một lời thì thầm của điều không thể tránh.
Và lúc đó…
tôi đã muốn ngưng lại khoảnh khắc ấy.
Tôi đã muốn níu giữ hơi thở cuối cùng của bà,
chỉ thêm vài giờ thôi…
Để trì hoãn điều không thể tránh,
tôi thức trắng đêm.
Và để không ngủ quên,
tôi đã giữ cho bà cũng thức cùng tôi.
Tôi nói.
Tôi kể cho bà nghe tất cả những điều trước giờ chưa từng dám nói.
Tôi nói về những nỗi sợ,
những sai lầm,
những điều khiến tôi hối tiếc.
Và dù nặng nề…
nó lại đẹp lạ thường.
Vì đó là sự sống.
Đó là câu chuyện của hai mẹ con tôi,
cuối cùng được đặt lên bàn — không mặt nạ, không kiêu hãnh.
Tôi thú nhận rằng, dù từng đau đớn,
tôi vẫn yêu cuộc đời này một cách mãnh liệt.
Và rằng tôi hạnh phúc vì đã được sinh ra.
Lúc đó, tan vỡ từ bên trong,
tôi quỳ xuống…
và nói với bà: Cảm ơn.
Cảm ơn mẹ đã trao cho con món quà thiêng liêng nhất:
sự sống.
Xin hãy nhớ điều này:
Không có tình yêu nào định hình con người ta sâu sắc như tình mẹ.
Và khi mẹ ra đi…
bà không đi một mình.
Một phần trong ta cũng lặng lẽ tắt theo.
Nếu mẹ bạn còn sống, xin hãy ôm bà thật chặt.
Và nếu bà đã không còn…
hãy tôn vinh cuộc đời bà
bằng cách sống cuộc đời của chính bạn
với yêu thương, biết ơn, và dũng cảm.






 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jun 30, 2025, 11:02:33 PMJun 30
to teresa...@googlegroups.com
5 Phút Lời Chúa Tháng 7.doc

Ngọc Nga

unread,
Jul 1, 2025, 9:01:57 AMJul 1
to teresa...@googlegroups.com

MỘT LỜI CẢNH TỈNH CẦN THIẾT

 

Một tu sĩ dòng Biển Đức chia sẻ câu chuyện này với tôi.  Trong những năm đầu đời tu, tu sĩ bị phẫn uất vì cần bất cứ gì cũng phải xin phép Đan viện phụ.  “Tôi nghĩ làm vậy thật ngốc.  Một người trưởng thành như tôi, muốn một cái áo mới cũng phải xin phép bề trên.  Tôi thấy mình như trẻ con vậy.”

 

Nhưng khi lớn thêm vài tuổi, cái nhìn của người tu sĩ khác đi. “Tôi không chắc lắm về mọi lý do, dù tôi chắc chắn chuyện này có liên quan đến ân sủng.  Nhưng đến một ngày, tôi thấy ‘chuyện cái gì cũng phải xin’ có một khôn ngoan sâu sắc.  Chúng ta chẳng sở hữu gì cả, chẳng có gì mặc định là của chúng ta cả.  Tất cả đều là ơn ban.  Nên về mặt lý thuyết, phải xin tất cả mọi thứ, chứ không lấy như thể chúng ta có quyền.  Chúng ta cần biết ơn Thiên Chúa và vũ trụ vì mọi sự đã được ban cho chúng ta.  Bây giờ khi tôi cần một cái gì đó cần xin phép, tôi không còn cảm thấy mình là con nít.  Thay vào đó, tôi cảm thấy mình hòa hợp thích đáng hơn với cách thức điều hành mọi sự trong vũ trụ theo ơn ban mà trong đó không một ai có quyền tối hậu trên cái gì.”

 

Điều mà tu sĩ này hiểu ra chính là nguyên tắc nền tảng cho mọi linh đạo, mọi luân lý, và mỗi một điều răn, cụ thể là tất cả mọi sự đến với chúng ta như một tặng vật, chứ chẳng có gì là của chúng ta.  Chúng ta nên biết ơn Thiên Chúa và vũ trụ vì cho chúng ta những gì chúng ta có, và chúng ta cẩn thận đừng đòi thêm như thể mình có quyền.

 

Nhưng điều này rất trái ngược với cái tôi bản năng và văn hóa của chúng ta.  Trong cả hai điều này có những tiếng nói mạnh mẽ bảo chúng ta nếu không thể lấy được điều mình muốn thì mình là kẻ yếu đuối, yếu đuối theo cả hai nghĩa.  Thứ nhất là tính cách yếu đuối, quá hèn nhát không dám giành lấy cuộc đời.  Thứ hai, là bị sự dè dặt của tôn giáo và luân lý làm cho yếu đuối, không thể giành lấy một cách thích đáng và sống cho thật trọn vẹn.  Những tiếng nói này bảo chúng ta phải lớn lên, vì trong chúng ta có quá nhiều thứ sợ hãi và ấu trĩ, vì chúng ta là đứa trẻ bị những thế lực mê tín giam giữ.

 

Chính bởi những tiếng nói như vậy mà ngày nay, trong một văn hóa tự nhận là Kitô hữu và luân lý, những nhân vật chính trị và xã hội lại hoàn toàn thật lòng tin, cho rằng sự cảm thông là sự yếu đuối của con người.

 

Chúng ta cần một lời cảnh tỉnh quan trọng.

 

Tiếng của Chúa Giêsu là phản đề hoàn toàn đối với những tiếng nói này.  Cảm thông là nhân đức gần như tối hậu của con người, là phản đề của sự yếu đuối.  Chúa Giêsu nhìn vào những gì là dứt khoát, hùng hổ và tích lũy trong xã hội chúng ta, cho dù chúng được ngưỡng mộ đến như thế nào, Ngài cũng sẽ nói rõ rằng đó không phải là ý nghĩa của việc đến bàn tiệc ở tâm điểm vương quốc Thiên Chúa.  Chúa Giêsu sẽ không có chung sự ngưỡng mộ của chúng ta dành cho những người giàu có và nổi tiếng vốn quá thường xuyên giành lấy, như thể họ có quyền, tài sản và địa vị quá mức của mình.  Khi nói rằng người giàu vào nước trời còn khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim, có lẽ Chúa Giêsu sẽ làm rõ hơn khi nói thêm: “Dĩ nhiên trừ khi người giàu giống như trẻ con, xin phép vũ trụ, cộng đoàn và Thiên Chúa khi muốn một chiếc áo mới!”

 

Khi tôi ở nhà tập, linh mục phụ trách tập viện đã cố gây cho chúng tôi ấn tượng về ý nghĩa của sự khó nghèo đời tu, ngài bảo chúng tôi viết mấy chữ la-tinh: ad usum, để bạn dùng trong mỗi quyển sách được phát.  Dù quyển sách này được giao cho chúng tôi dùng riêng, nhưng chúng tôi không sở hữu nó.  Nó chỉ được để cho chúng tôi dùng, quyền sở hữu thì ở người nào đó khác.  Rồi chúng tôi được dạy, điều này cũng đúng với bất kỳ vật gì được giao cho chúng tôi dùng riêng, từ bàn chải đánh răng cho đến chiếc áo mặc trên người.  Chúng không thật sự là của chúng tôi, mà chỉ đơn thuần được giao cho chúng tôi dùng.

 

Một tập sinh thời đó cùng tôi, sau này đã rời dòng và bây giờ là bác sĩ, anh vẫn là bạn thân của tôi, anh chia sẻ với tôi, dù bây giờ là bác sĩ, anh vẫn viết mấy chữ ad usum trong mọi quyển sách của anh.  Lý luận của anh: “Tôi không ở dòng tu.  Tôi không có lời khấn khó nghèo, nhưng tôi thấy khi ở thế giới này, nguyên tắc linh mục dạy chúng tôi thật xác đáng không khác gì khi ở tập viện.  Chúng ta chẳng sở hữu gì hết.  Những quyển sách này không hẳn là của tôi.  Chúng được giao cho tôi, tạm thời, để tôi dùng.  Chẳng có gì hoàn toàn thuộc về bất kỳ ai.  Và tốt nhất là đừng bao giờ quên điều đó.”

 

Bất kể chúng ta giàu có, uy lực và trưởng thành đến thế nào, thì trong chuyện xin phép để mua một chiếc áo mới luôn có một điều gì đó thật lành mạnh.  Nó giữ chúng ta hòa hợp với sự thật rằng vũ trụ thuộc về tất cả mọi người, và tối hậu là thuộc về Thiên Chúa.  Mọi thứ đến với chúng ta đều là tặng vật, cho nên chúng ta đừng bao giờ mặc định xem cái gì là của mình, mà hãy mặc định xem là đã được ban cho!

 

Rev. Ron Rolheiser, OMI



 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jul 2, 2025, 11:15:57 PMJul 2
to teresa...@googlegroups.com
Image result for chua nhat 14 thuong nien

PHÚC ÂM HOÁ BẢN THÂN MÌNH TRƯỚC HẾT

(Suy niệm Tin mừng Luca (10, 1-9) Chúa nhật 14 thường niên
Người chủ ruộng sẽ rất lo âu và sốt ruột khi nhìn thấy đồng lúa mênh mông bát ngát của mình đang vào thời kỳ chín rục mà chẳng tìm đâu ra thợ gặt để thu hoạch lúa về.
Chúa Giê-su cũng cảm thấy tâm hồn xao xuyến khi phần đông nhân loại đang cần được cứu độ một cách khẩn thiết, nhưng chẳng mấy ai dấn bước đem ơn cứu độ cho họ.
Thế nên, khi sai 72 môn đệ ra đi, Chúa Giê-su căn dặn các ông: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ ruộng sai thợ ra gặt lúa về."  Lời căn dặn nầy hôm nay cũng được lặp lại với mỗi người chúng ta.
Đáp lời Chúa mời gọi, chúng ta sẵn sàng cầu xin có thêm thợ gặt, nhưng vấn đề là chúng ta sẽ cầu cho ai đi làm thợ gặt đây?
Ai là thợ gặt của Chúa?
Khi cầu xin ơn bình an, sức khoẻ và may mắn, thì chúng ta cầu cho bản thân ta trước; còn khi cầu cho có người làm thợ gặt trong cánh đồng của Chúa, thì chúng ta cầu Chúa ban ơn đó cho những người khác, ngoại trừ ta!
Nhưng, dù muốn dù không thì chúng ta đã là thợ gặt chính danh ngay từ khi được lãnh Bí tích Thánh tẩy. Nhờ Bí tích nầy, chúng ta trở nên chi thể của Chúa Giê-su, nên được thông dự vào chức vụ ngôn sứ, tức sứ vụ loan Tin mừng của Ngài. Vậy thì trách nhiệm ‘gặt lúa’ là trách nhiệm của chúng ta, không thể thoái thác được, trừ phi chúng ta tự tách lìa mình khỏi Thân Thể Chúa.
Là thợ gặt của Thiên Chúa, chúng ta cũng được sai đi để loan Tin mừng Nước Trời như 12 tông đồ và 72 môn đệ xưa.
Ai là người cần được rao giảng trước tiên ?
Đứng trước đồng lúa mênh mông, thợ gặt không biết phải bắt đầu từ đâu? Nói khác đi, phải loan Tin mừng cho ai trước hết ?
Giáo điểm đầu tiên cần được rao giảng Tin mừng là thế giới nội tâm của chúng ta, vì dù mang danh là ki-tô-hữu nhưng có thể chúng ta còn xa lạ với Tin mừng.
Xa lạ với Tin mừng vì chúng ta chưa đọc hết bốn Tin mừng và chưa từng khám phá kho tàng khôn ngoan chứa đựng trong đó.
Xa lạ với Tin mừng vì đời sống chúng ta và những giáo huấn của Tin mừng còn cách biệt rất xa!
Nếu Tin mừng của Chúa Giê-su chưa sáng lên trong cuộc đời ta, chưa bừng cháy trong tim ta… thì làm sao chúng ta có thể đem lửa Tin mừng ấy thắp lên cho người khác được. Không ai có thể cho điều mình không có.
Thế nên, chính bản thân chúng ta phải được phúc âm hoá trước, rồi ta mới có thể phúc âm hoá tha nhân
Lạy Chúa Giê-su,
Sau khi sống lại, Chúa hiện ra với các môn đệ và phán: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20, 21). Thế là từ hôm đó, Chúa chuyển giao trọn vẹn sứ mạng loan báo Tin mừng mà Chúa nhận lãnh từ Chúa Cha cho các môn đệ cũng như cho chúng con là chi thể trong Thân mình Chúa.
Xin cho chúng con luôn ý thức sứ mạng thiêng liêng cao cả Chúa trao và ra công gắng sức thực hiện trong cuộc sống hằng ngày, để muôn người khắp nơi được đón nhận Tin mừng và ơn cứu độ của Chúa. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca (Lc 10, 1-9).
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa, và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: 'Bình an cho nhà này'. Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
"Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: 'Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi'.

 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jul 3, 2025, 9:18:37 AMJul 3
to teresa...@googlegroups.com

TÂM BÃO

 

Trong năm 1980, một tờ báo phát hành trên toàn quốc có đăng một câu chuyện khác thường.  Một người kia ra xe của ông đang đậu trước một trung tâm thương mại lớn.  Ngay trên ghế ngồi, có một mẩu giấy viết:

 

“Thưa ông/bà;
Tôi đã định ăn cắp chiếc xe này cho đến khi tôi chợt nhìn thấy hàng chữ 'Peace-Be-to-You' (Bình An-Cho-Bạn) dán trên kính xe.  Nó làm tôi do dự và suy nghĩ.  Tôi nghĩ nếu tôi ăn cắp chiếc xe này, ông bà chắc chắn sẽ không có bình an, và ngược lại, tôi cũng không cảm thấy bình an, vì đây là 'chuyến ăn hàng' đầu tiên của tôi.

 

Do đó, 'bình an cho bạn' và cho tôi.  Nhớ lái xe cẩn thận và lần sau đừng quên khóa cửa.”

Ký tên: “Người Muốn Ăn Cắp Xe.”

 

Câu chuyện khác thường đó làm sáng tỏ mệnh lệnh khác thường của Chúa Giêsu mà Người đã ban cho các môn đệ trong bài phúc âm hôm nay:

 

Vào bất cứ nhà nào, trước hết các con hãy nói, 'Bình an cho nhà này.'  Nếu một người yêu chuộng bình an sống ở đó, lời chúc bình an của các con sẽ ở với họ; nếu không, hãy lấy lại lời chúc bình an.

 

Áp dụng điều này vào câu chuyện nói trên, chúng ta thấy câu “Bình An-Cho-Bạn” đã nới rộng sự bình an của Đức Kitô đến cho người muốn ăn cắp xe.  Tên trộm này là người bình an trong tâm hồn, và bình an của Đức Kitô đã ngự trên hắn ta.

 

Điều đó nêu lên một câu hỏi: Chúng ta muốn nói gì về “bình an của Đức Kitô”?  Bình an đó được cấu tạo bởi những gì?

 

Khi Kinh Thánh dùng chữ bình an, nó có bốn ý nghĩa khác nhau.

 

Thứ nhất, nó được dùng trong ý nghĩa quân sự – để chỉ về sự thiếu vắng chiến tranh giữa các quốc gia.  Do đó, chúng ta nói, “Các quốc gia đang sống bình yên.”

 

Thứ hai, nó được dùng ý nghĩa cá nhân – để chỉ về một cảm giác hạnh phúc của con người.  Do đó, chúng ta nói, “Chúng tôi hòa thuận với nhau.”

 

Thứ ba, Kinh Thánh dùng chữ bình an trong ý nghĩa tôn giáo – để chỉ về một tương giao đúng đắn giữa Thiên Chúa và con người.  Do đó, chúng ta nói, “Chúng ta hài hòa với Thiên Chúa.”

 

Sau cùng, Kinh Thánh dùng chữ bình an để chỉ một tình trạng mà trong đó mọi người trên mặt đất hài hòa với Thiên Chúa, tha nhân, và với chính mình.  Đây là điều chúng ta muốn nói qua chữ “bình an của Đức Kitô.”

 

Đây cũng là điều Đức Giêsu muốn nói khi Người tuyên bố, “Thầy để lại bình an cho các con; chính bình an của Thầy mà Thầy ban cho các con” (Gioan 14:27).  Vị linh mục nhắc lại lời này khi cử hành Thánh Lễ.  Sự bình an này thì không gì khác hơn là Nước Thiên Chúa được trị đến trên mặt đất – là vương quốc mà chúng ta thường cầu xin trong kinh Lạy Cha khi chúng ta đọc, “Xin cho Nước Cha trị đến...”

Chính sự bình an này mà Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ hãy đem vào thế gian trong thời ấy.  Chính sự bình an này mà Đức Giêsu truyền cho chúng ta đem vào thế gian trong thời đại chúng ta. 

Chúng ta sẽ là các khí cụ mà sự bình an của Đức Kitô sẽ được trải rộng đến mọi người trong mọi quốc gia trên thế giới.

 

Một suy diễn sau đây có thể giúp chúng ta biết ý Chúa muốn chúng ta thi hành điều này như thế nào. 

 

Khi gió của cơn bão nhiệt đới lên quá 75 dặm một giờ, người ta gọi nó là “typhoon” (bão lớn) khi xảy ra ở Thái Bình Dương, và gọi là “hurricane” (cuồng phong) khi xảy ra ở Đại Tây Dương.

 

Để có một ý niệm thế nào là trận cuồng phong, hãy tưởng tượng ra đĩa “frisbee” với một lỗ hổng ở giữa.

 

Bây giờ, thử tưởng tượng đĩa ấy lớn dần cho tới khi nó rộng đến 100 dặm và lỗ hổng ở giữa rộng đến 10 dặm. Và rồi hãy tưởng tượng cái đĩa khổng lồ ấy xoay tròn với tốc độ 100 dặm một giờ.  Đó là cơn cuồng phong hay cơn bão.

 

Phần đáng chú ý của cơn bão là tâm điểm của nó – cái lỗ hổng ở giữa đĩa “frisbee.”  Mặc dù gió lốc đang gào thét chung quanh tâm bão với tốc độ 100 dặm một giờ, nhưng ở tâm bão thì lại êm ả.  Không có một chút gió lốc.

 

Nếu bạn đứng trong tâm bão và nhìn lên, bạn sẽ thấy bầu trời xanh và ánh nắng chói chang.

 

Tâm bão là một hình ảnh tốt để nói lên điều Đức Giêsu nhắn nhủ chúng ta trong Tiệc Thánh Thể, khi chúng ta quy tụ để chia sẻ bữa tiệc ấy vào mỗi Chúa Nhật.

 

Có biết bao cơn bão chung quanh chúng ta ở trong thế giới này.  Con người gào thét và lấy của nhau; các nhóm dấy loạn và cướp bóc; quốc gia này đánh nhau với quốc gia khác.

 

Tuy nhiên, ở bàn Tiệc Thánh Thể thì lại êm ả.  Chúng ta nhìn lên và thấy bầu trời xanh cùng ánh nắng chói chang.  Chúng ta đang ở tâm bão.  Chúng ta vui hưởng “bình an của Đức Kitô.”

 

Đức Giêsu ban cho chúng ta sự bình an này không phải để chúng ta ở mãi trong đó, nhưng để bồi dưỡng trong giây lát.

 

Cũng như tâm bão chỉ kéo dài chừng một giờ đồng hồ khi bão đi qua, bữa Tiệc Thánh Thể cũng chỉ khoảng một giờ.

 

Đức Giêsu không bao giờ muốn chúng ta ở mãi trong tâm bão.  Người muốn chúng ta đi vào cơn bão.  Đức Giêsu muốn từ bàn Tiệc Thánh Thể, chúng ta tiến bước để trở nên tâm bão giữa các trận cuồng phong của thế gian.

 

Người muốn chúng ta chia sẻ sự bình an của Người, mà chúng ta được cảm nghiệm trong Thánh Lễ, với toàn thế giới.

 

Người muốn chúng ta trở thành các khí cụ mà qua đó sự bình an của Đức Kitô được trải rộng trên toàn thế giới.

 

Và vì thế Kinh Thánh nói về bốn loại bình an: sự bình yên giữa các quốc gia, sự hòa thuận giữa chúng ta, sự hài hòa với Thiên Chúa, và bình an của Đức Kitô – đó là một tình trạng mà mọi người trên thế giới hài hòa với Thiên Chúa, tha nhân và chính mình.

 

Sự bình an sau cùng này, bình an của Đức Kitô, thì không gì khác hơn là sự trị đến của Vương Quốc Thiên Chúa.

 

Chính sự bình an này mà Đức Giêsu đã thể hiện khi làm người.

Chính sự bình an này mà Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ phải đem vào thế gian trong thời đại của họ.

Chính sự bình an này mà Đức Giêsu truyền chúng ta phải đem vào thế gian trong thời đại chúng ta.

Chính sự bình an này mà chúng ta cầu xin Chúa Giêsu tuôn đổ trên chúng ta vào sáng hôm nay:

 

Lạy Chúa, xin giúp con trở nên khí cụ bình an của Chúa,
Để nơi thù hận, con đem đến tình yêu;
nơi xúc phạm, con đem đến tinh thần tha thứ;
nơi nghi kỵ, con đem đến niềm tin;
nơi bất hoà, con đem đến sự hoà hợp;
nơi thất vọng, con đem đến hy vọng;
nơi bóng tối, con đem đến sự sáng;
nơi buồn sầu, con đem đến niềm vui.

Lạy Chúa, xin hãy dạy con
tìm an ủi người hơn được người ủi an,
tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết;
tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.

Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ;
chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân;
chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.”

(Thánh Phanxicô Assisi)

 

Lm. Mark Link, S.J.



 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jul 4, 2025, 12:07:20 AMJul 4
to teresa...@googlegroups.com
tn_14c.doc
Bài đọc trong tuần C.doc
CN 14 TN C.ppt

Ngọc Nga

unread,
Jul 5, 2025, 12:52:53 PMJul 5
to teresa...@googlegroups.com

THINH LẶNG

 

Ngày nay người ta sợ thinh lặng.  Người ta chạy trốn thinh lặng bằng đủ mọi cách khác nhau vì nghĩ rằng thinh lặng là trống rỗng và vô nghĩa, là phí phạm thời giờ cách vô ích.  Phải chăng chúng ta sợ thing lặng vì chúng ta đã quá quen với cuộc sống ồn ào và náo nhiệt của việc làm, của âm nhạc, của phim ảnh và mọi thứ âm thanh.  Nhưng thực sự lắm lúc, chúng ta cảm thấy mình cần phải rút lui khỏi chốn nhộn nhịp, ồn ào ấy để tìm nơi cho riêng mình.  Nơi đó chỉ có mình đối diện với tâm hồn của mình và chỉ còn mình đối diện với Chúa.  Nhất là, nơi đó để thinh lặng vang lên những giá trị liêng liêng mà ta đã bỏ quên hay ngó lơ trong những góc nội tâm của mình.

 

Vậy thinh lặng là gì?  Thinh lặng không phải là không nói gì nhưng thinh lặng thực sự chính là cảm nhận sự lắng đọng trong con người của mình.  Thinh lặng không phải là tách xa những thứ ồn ào bên ngoài là đủ nhưng thinh lặng cũng là phải tách xa những khuấy động bên trong nội tâm.

 

Khi nói đến thinh lặng có rất nhiều trạng thái để nói về sự thinh lặng.  Thinh lặng để lắng nghe, thinh lặng để suy nghĩ, thinh lặng để hồi tâm.  Thinh lặng mang cho ta rất nhiều lợi ích.  Chỉ có trong thinh lặng con người mới trở về với cõi lòng, nghe được tiếng nói của Thiên Chúa trong lương tâm.  Có thinh lặng, con người mới đi sâu vào cõi lòng mình.  Có thinh lặng, con người mới nhận ra con người tội lỗi bất toàn của mình.  Có thinh lặng, con người mới có thể tha thứ cho người khác.

 

Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta thing lặng như trong câu chuyện “Người đàn bà ngoại tình” (Ga 8, 1-11).  Ngài dạy chúng ta học cách thinh lặng để tha thứ.  Khi những kinh sư và Pharisiêu dẫn người đàn bà ngoại tình đến trước mặt Chúa Giêsu để thử Người, Chúa Giêsu chỉ viết gì đó trên đất và Ngài cũng giữ thinh lặng trong suốt phiên tòa của Ngài.  Cử chỉ thinh lặng ấy chính là sự tha thứ của Ngài.  Hay khi bị treo trên thập giá, Chúa Giêsu đã thể hiện sự tha thứ của Ngài bằng thinh lặng.  Từ trên thập giá, Ngài mời gọi chúng ta trở về cõi lòng để nhận ra thân phận tội lỗi của chúng ta, để nghe được lời tha thứ của Ngài và nhất là để tha thứ cho người khác.  

 

Chúng ta sao có thể lắng nghe được tiếng Chúa nói lời tha thứ và yêu thương trìu mến với mình nếu ngày sống chỉ toàn là những ồn ào của công việc, học tập; những lắng lo việc này việc kia?  Lúc đó, chắc chắn chúng ta không những không nghe thấy tiếng Chúa nói mà còn đang xa dần với tình yêu của Ngài.

 

Thật vậy, chỉ trong thinh lặng chúng ta mới có thể nghe và chú ý đến lời Chúa đang nói, đang làm hầu giúp chúng ta cảm nhận được lời của Chúa, để Chúa đánh động và bước vào cõi lòng chúng ta.  Chỉ khi ấy, chúng ta mới cảm nhận được sự hiện diện của Chúa là khoảng không gian như ở nhà của mình, của sự an toàn, của sự chở che; sự hiện diện ấy như bao bọc và làm chúng ta được Chúa thấm nhập vào thân thể mình.  Khi ấy, chúng ta sẽ cảm nhận được: “Thinh lặng là thái độ bên trong để tôi mở lòng ra đón Chúa vào, để tôi được buông bỏ, được thư giãn vì đã có Chúa chở che cũng như được Ngài ôm ấp tôi vào lòng.”

 

Ngày nay, xã hội ngày càng phát triển, nhiều thiết bị, dịch vụ mang tính công nghệ đang dần lôi kéo con người vào sự náo động, ồn ào.  Nó đang trở thành cám dỗ, thách đố to lớn với mỗi chúng ta, nhất là những người sống đời thánh hiến.  Nó lôi chúng ta ra khỏi sự thinh lặng, sự liên kết mật thiết với Chúa.  Thay vì nói Chúa với tôi và tôi với anh em thì lại nói chiếc điện thoại, chiếc máy tính với tôi và tôi với nó.  Thử hỏi: khi ấy, Chúa ở đâu?  Anh em tôi ở đâu?  Sống trong những thách đố đó, chúng ta cần phải nỗ lực rèn luyện và học sống thinh lặng nhiều hơn.  Nhờ đó, chúng ta mới tìm được, nghe thấy, nhận biết Chúa đang nói, đang ở trong chúng ta.  Đạt được điều đó, người sống thánh hiến mới có thể thăng tiến bản thân và thực hiện sứ vụ mang Chúa đến cho nhiều người cách hiệu quả hơn.  Tâm tình trong lời bài hát “Lặng” của nhạc sĩ của Trần Tuấn cũng cho ta thấy vai trò của việc thinh lặng trong đời sống mỗi người Kitô hữu.  Hãy cảm nhận từng lời trong bài hát để ta có thể nhận ra ý Chúa trong cuộc đời ta.

 

“Lặng để nghe tiếng Chúa, nói trong trong tâm hồn ta
Lặng để nghe Chúa nói, thánh giá ta mang vì ai
Lặng để nghe Chúa khóc, khóc khi ta vô tình quay đi....”

 

Tập sinh Jos. Quốc Huy


 



 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jul 9, 2025, 9:20:12 AMJul 9
to teresa...@googlegroups.com

LÀM GÌ ĐỂ ĐƯỢC SỐNG ĐỜI ĐỜI

(Suy niệm Tin mừng Luca 10, 25-37 – Chúa nhật 15 Thường niên)
Sứ điệp Tin mừng: “Hội thánh không thể lơ là việc phục vụ bác ái cũng như không thể lơ là việc ban bí tích và rao giảng tin mừng”
***
 
Được sống đời đời là khát vọng sâu xa mãnh liệt nhất của con người và việc quan trọng nhất đời là làm sao đạt cho bằng được nguyện vọng đó.
Biết rằng Chúa Giê-su là người khôn ngoan thông thái, nên một thầy thông luật tìm đến hỏi Ngài: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?” Bấy giờ, Chúa Giê-su gợi ý cho ông ta tìm ra câu trả lời chính xác, đó là: “Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi và hãy thương mến anh em như chính mình."
Như loài chim cần cả 2 cánh mới có thể để bay lên, thiếu một trong hai, chim không thể cất cánh được, thì mỗi người cũng cần phải giữ cả luật mến Chúa và yêu người mới có thể đạt tới sự sống đời đời.
Vì sao phải làm cả hai?
Đức Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô 16 cho ta biết lý do:
Ta phải chọn cả hai, vừa yêu mến Thiên Chúa, vừa phải yêu thương phục vụ những người quanh ta, vì Thiên Chúa và con người chỉ là một. Ngài viết như sau :
“Chúa Giê-su đồng hóa mình với những người cùng quẫn, những người đói khát, những khách lạ, những kẻ trần truồng, đau yếu và những người đang trong vòng lao lý. "Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25, 40). Mến Chúa và yêu người đã trở thành một: Trong những người anh em bé nhỏ nhất, chúng ta tìm thấy chính Chúa Giêsu.” (Thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” số 15 của Đức thánh Cha Bê-nê-đích-tô)
Và chính vì thế, ngài dạy:
“Việc bác ái cũng như việc ban phát bí tích và rao giảng Lời Chúa đều là hoạt động cốt yếu của Hội thánh;
Do đó, HỘI THÁNH KHÔNG THỂ LƠ LÀ VIỆC PHỤC VỤ BÁC ÁI CŨNG NHƯ KHÔNG THỂ LƠ LÀ VIỆC BAN BÍ TÍCH VÀ RAO GIẢNG TIN MỪNG” (Thông điệp “Thiên Chúa Là Tình Yêu” số 22 của Đức thánh Cha Bê-nê-đích-tô).
Lạy Chúa Giê-su,
Lâu nay chúng con nghĩ rằng chỉ cần thờ phượng Chúa cho sốt sắng là đủ để được lên thiên đàng, hóa ra không phải thế. Nếu chúng con lơ là không quan tâm chăm lo cho người người bất hạnh thì chúng con sẽ bị Chúa lên án nặng nề (Mt 25,41).
Xin ban cho chúng con đức tin và lòng yêu mến để chúng con tin Chúa hiện diện nơi mọi người, đặc biệt là nơi những người đau khổ và đem hết khả năng để phục vụ, yêu mến họ. Có như thế, chúng con mới được hưởng phúc thiên đàng. Amen.
Linh mục Inha-xi-ô Trần Ngà
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Lc 10, 25-37
Khi ấy, có một người thông luật đứng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời". Người nói với ông: "Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?" Ông trả lời: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình". Chúa Giêsu nói: "Ông đã trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống". Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Nhưng ai là anh em của tôi?" Chúa Giêsu nói tiếp:
"Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo rằng: 'Ông hãy săn sóc người ấy và ngoài ra, còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả lại ông'. Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?" Người thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy". Và Chúa Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy".



 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jul 11, 2025, 10:08:36 AMJul 11
to teresa...@googlegroups.com
tn_15c.doc
Bài đọc trong tuần C.doc
CN 15 TN.C.pps

Ngọc Nga

unread,
Jul 12, 2025, 8:48:06 AMJul 12
to teresa...@googlegroups.com

TÂM HỒN CHÚNG TA MẠNH HƠN NHỮNG THƯƠNG TÍCH

 

Mười năm trước khi qua đời, cha Henri Nouwen đã chịu một cơn trầm cảm gần như đánh gục ngài.  Trong thời gian trị liệu, ngài đã viết một quyển sách rất hùng hồn, Tiếng Nói Bên Trong Của Tình Yêu (The Inner Voice of Love), trong đó, ngài khiêm nhượng và thẳng thắn chia sẻ những đấu tranh và nỗ lực của mình để vượt qua căn bệnh trầm cảm.  Nhiều lúc, ngài cảm thấy không chịu nổi những nỗi đau và ám ảnh của mình đến mức gần như bị nhận chìm, bị sụp đổ, và những lúc như thế, ngài chỉ biết khóc.  Dù cho cuối cùng ngài đã tìm lại được sức mạnh nội tâm và sức bật kiên cường, sẵn sàng trở lại cuộc sống với sinh lực được tân tạo.  Khi nói về những gì ngài đã học được trong sự sụp đổ nội tâm và sự phục hồi của mình, ngài đã viết rằng, đến tận cùng, tâm hồn chúng ta mạnh hơn những vết thương của chúng ta.

 

Đấy là một lời khẳng định từ một chân lý phải gian khổ mới ngộ ra, nhưng liệu nó có luôn đúng?  Tâm hồn chúng ta luôn mạnh hơn những vết thương của chúng ta sao?  Chúng ta luôn có những nguồn lực trong mình để thắng vượt những thương tích của mình sao?

 

Có lúc đúng như thế, như trong trường hợp của cha Nouwen, nhưng có lúc lại không, như chúng ta đã chứng kiến nơi cuộc sống tan vỡ của biết bao nhiêu người.  Có lúc dường như thương tích mạnh hơn tâm hồn.  Tôi có một ví dụ thấm thía của trường hợp này: Trong bài hát Tôi Mơ Có Một Giấc Mơ (I Dreamed a Dream) của vở nhạc kịch lừng danh Những Người Khốn Khổ, có một dòng đầy đau buồn, bi thương, ám ảnh.  Câu chuyện trong vở Những Người Khốn Khổ được dựa trên tiểu thuyết cùng tên của văn hào Pháp Victor Hugo, kể một loạt câu chuyện về cách sự nghèo khổ và áp bức có thể làm tan nát cõi lòng, suy sụp sức sống và hủy hoại cuộc đời của người nghèo đến như thế nào.  Fantine, một nhân vật trong truyện, một người mẹ đơn thân, bị phụ tình và quả tim tan nát.  Cô cũng phải vật lộn để nuôi đứa con gái, vật lộn với công việc và điều kiện làm việc đã dần dần hủy hoại sức khỏe cô, vật lộn với sự quấy rối tình dục từ ông chủ vốn tích tụ dần và dẫn đến chuyện cô bị đuổi việc một cách bất công.  Có lúc, mọi chuyện quá sức chịu đựng, cô đã sụp đổ, và trong lúc hấp hối, cô đã hát một bài từ biệt với những lời nói lên rằng tâm hồn chúng ta không phải lúc nào cũng mạnh hơn những thương tích, đôi khi có những cơn bão không thể chống nổi.  Đôi khi tâm hồn không thể chống nổi cơn bão và sụp đổ trước sức nặng của những thương tích.

 

Ai nói đúng, cha Nouwen hay Fantine?  Tôi cho là cả hai đều đúng, dựa trên hoàn cảnh, sức khỏe nội tâm và nguồn lực cảm xúc của mỗi người.  Như câu ngạn ngữ: Cái gì không giết được ta sẽ làm ta mạnh hơn!

 

Đúng là thế, với điều kiện nó không giết ta.  Đáng buồn thay, có những lúc nó lại giết ta thật.  Tôi cho rằng tất cả những ai đang đọc bài này đều đã từng mắt thấy tai nghe một người chúng ta quen biết hay yêu thương đã bị sụp đổ và chết, hoặc tự sát hoặc sụp đổ theo kiểu khác, do cuộc sống tan nát, con tim tan nát, tâm thần tan nát, do một thương tích mạnh hơn tâm hồn của họ.

 

Do đó, khi nhìn vào hai khẳng định đối lập nhau này, chúng ta cần thêm một sự thật nữa có thể thêm một sự thật có thể bao hàm cả hai.  Ơn Chúa, sự tha thứ, và tình yêu thì mạnh hơn những thương tích, sụp đổ, thất bại và cái dường như là tuyệt vọng của chúng ta.

 

Có lúc, khi đấu tranh, chúng ta có thể tìm được sức mạnh nội tại chôn sâu dưới những thương tích của mình, và nó cho chúng ta có thể vươn lên, vượt qua những thương tích, trở lại với sự lành mạnh, sức mạnh và tinh thần hăng hái nhiệt tình.  Tuy nhiên, có lúc những vết thương của chúng ta làm tê liệt tâm hồn và chúng ta không thể nào đến được với sức mạnh ẩn sâu trong lòng mình.  Trong đời này, sự tan nát đó có thể bị cảm nhận như là sự sụp đổ tối hậu, một nỗi đau buồn không thể chữa lành, một tuyệt vọng, một cuộc đời vứt đi.  Tuy nhiên, bất kỳ lúc nào hoàn cảnh cay đắng và sự mỏng manh tinh thần ập đến cùng lúc, khi nào tâm hồn chúng ta không còn mạnh hơn những thương tích, chúng ta đều có thể nương ẩn nơi một chân lý sâu sắc ơn, một sự an ủi thâm sâu hơn, cụ thể là sức mạnh nơi trái tim Thiên Chúa.  Ơn Chúa, sự tha thứ, và tình yêu thì mạnh hơn những thương tích, sụp đổ, thất bại và cái dường như là tuyệt vọng của chúng ta.

 

Điều khiến đức tin Kitô khác với các tôn giáo khác (cũng như khác với các phúc âm thịnh vượng) chính là Kitô giáo là một tôn giáo của ơn sủng chứ không phải của nỗ lực tự thân (dù cho nó cũng có tầm quan trọng).  Là người tín hữu Kitô, chúng ta không cần phải tự cứu rỗi mình, không cần phải tự lực cứu vớt cuộc sống mình.  Thật sự là không một ai cần làm thế.  Như thánh Phaolô đã nói rõ trong thư gửi tín hữu Rôma, không một ai trong chúng ta tự cứu vớt cuộc sống mình bằng chính sức mình.  Điều này cũng đúng khi muốn thắng vượt những thương tích của mình.  Tất cả chúng ta đều có những lúc yếu đuối và sụp đổ.  Tuy nhiên, chính lúc này đây, chính khi cơn bão đè bẹp chúng ta, khi chúng ta tìm sức mạnh để đương cự cơn bão nhưng rồi chỉ để thấy rằng cơn bão mạnh hơn chúng ta, chính lúc như thế, chúng ta cần tìm tìm sâu hơn nữa và sẽ thấy được rằng trái tim của Thiên Chúa mạnh hơn những vỡ nát của chúng ta.

 

Rev. Ron Rolheiser, OMI

 


 



 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jul 15, 2025, 9:17:52 AMJul 15
to teresa...@googlegroups.com

THÁNH BÔNAVENTURA, GIÁM MỤC TIẾN SĨ HỘI THÁNH (1221-1274)

 

Thánh Bônaventura sinh năm 1221 tại Bagnorea, gần Viterbo, là con ông Giovanni di Fidanza và bà Ritella.  Ngài được đặt tên là Giovanni, lúc lên bốn, Ngài lâm trọng bệnh vô phương cứu chữa.  Người mẹ vội ẵm Ngài tới gặp thánh Phanxicô khó khăn.  Thánh nhân thương cha mẹ dâng lời cầu nguyện và Giovanni hết bệnh.  Sung sướng, người mẹ kêu lên: “O buona Ventura” (Ôi biến cố phúc hậu).  Từ đó Giovanni mang tên Bônaventura.  Ngài theo học tại dòng anh em hèn mọn.

 

Tới tuổi 15, Bonaventura theo học tại Paris, trung tâm ánh sáng thời đó.  Ngài sống thanh trong đến nỗi Alexandre de Hales nhận xét: Anh giống như Adam chưa hề phạm tội.

 

Ngài kết thân với sinh viên tài ba khác là Thomas Aquinô.  Ngỡ ngàng về sự hiểu biết của bạn mình.  Thomas hỏi Bonaventura xem Ngài đã học sách nào?  Bonaventura chỉ cây thánh giá trả lời: Đây là nguồn mọi hiểu biết của tôi.  Tôi học Chúa Giêsu bị đóng đinh.

 

Năm 1257, Ngài được chọn làm bề trên cả dòng Phanxicô.  Tình thế Ngài phải đối diện rất là phức tạp.  Trong dòng đang có sự phân rẽ giữa những người nhiệt tâm muốn tuân giữ nghiêm nhặt luật dòng và những người muốn chước giảm.  Nhờ sự thánh thiện và tài khéo léo, Bonaventura đã giải quyết các vấn đề cách ổn thỏa, đến nỗi Ngài đang được gọi là Đấng sáng lập thứ hai của dòng.  Trong kỳ đại hội ở Narbonne 1250, Ngài đã ban hành hiến pháp đầu tiên cho dòng.  Sau đó Ngài liên tiếp thăm viếng không biết mệt các tỉnh dòng để quan sát việc thực hiện bản quy luật này.  Chính Ngài tổ chức việc học hành cho các giáo sĩ trong dòng, làm cho công cuộc tông đồ được phổ biến rộng rãi đến cả những bậc thức giả lẫn giới bình dân.  Chính Bonaventura là một nhà dòng giảng thuyết có biệt tài.  Ngài đã giảng thuyết từ các tu viện, tới các thành phố ở Âu Châu, trước mặt vua Louis IX, Đức Giáo Hoàng.

 

Luôn luôn Ngài thu phục được cảm tình của thính giả.  Một thầy dòng khiêm tốn tên là Gilles hỏi Ngài: Các cha thông thái, được Chúa ban cho nhiều tài năng.  Còn chúng con, chúng con có thể làm gì được?

 

Bonaventuratrả lời: Nếu Chúa ban cho một người tài năng khác là ơn yêu mến Ngài thế là đủ rồi, và là kho tàng quí báu nhất.

 

Thầy dòng hỏi tiếp: Một người không biết đọc biết viết có thể yêu mến Thiên Chúa như một nhà thông thái biết mọi sự không?

 

Thánh nhân trả lời: Chắc chắn rồi, một bà già có thể yêu Chúa hơn cả một nhà tiến sĩ thần học.

 

Thầy dòng vui vẻ la lớn: Một bà già có thể yêu Chúa hơn cả cha Bonaventura của chúng ta nữa.

 

Ngài còn tiếp: Biết một chút về Chúa còn hơn là biết mọi sự trong trời đất.

 

Ngoài những hoạt động bên ngoài ấy.  Bonaventura còn lo viết sách để huấn luyện các tu sĩ và những sách về triết học, thần học và thánh kinh.  Chúng ta có thể kể đến cuốn “Chú giải luật dòng Phanxicô,” “Hạnh tích thánh Phanxicô” nhất là cuốn “Hành trình của linh hồn hướng về Thiên Chúa.”

 

Trong nỗ lực xây dựng Hội Thánh, Bonaventura luôn tỏ ra khiêm tốn. Người ta kể rằng: Đức Giáo Hoàng Grêgoriô X truyền cho thánh Thomas và Bonaventura soạn thảo bộ kinh lễ Thánh Thể. Khi hai vị vào yết kiến Đức Giáo Hoàng trình bày công việc, thánh Bonaventura xé nát bản văn của mình.

 

Cùng với lời khiêm tốn ấy, Bonaventura đã từ chối chức Tổng Giám mục thành York mà Đức Giáo Hoàng Clêment IV đề nghị, lòng khiêm tốn ấy không ngăn cản sự cương quyết và can đảm của Ngài chống lại thuyết sai lầm của thuyết Aristote và Avéoes...  Nhưng Đức Giáo Hoàng Grêgoriô X đã quyết định đặt Ngài làm hồng y cai quản giáo phận Albanô và truyền Ngài về Roma ngay.  Khi hai sứ thần mang mũ hồng y đến, Ngài còn đang rửa chân.  Ngày 28 tháng 5 năm 1273 Ngài nhận chức và là cánh tay đắc lực của Đức Giáo Hoàng.  Phần đóng góp của Ngài vào sự hợp nhất Giáo hội Hy lạp và Roma tại công đồng Lyon thật lớn lao.

 

Nhưng khi công đồng Lyon còn đang nhóm họp thì Bonaventura từ trần ngày 14 tháng 7 năm 1274.  Đức Sixtô IV phong Ngài lên bậc hiển thánh năm 1482 và đức Sixtô V đã đặt Ngài làm Tiến sĩ Hội Thánh năm 1858.  Người ta gọi Ngài là “Tiến sĩ sốt mến.”

 

Thánh Bônaventura đầy lòng thánh thiện và khiêm tốn.  Với lòng yêu mến Chúa, yêu mến Giáo hội. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mỗi chúng ta cũng biết sống gắn bó với Chúa và Giáo hội bằng tất cả tấm lòng yêu mến chân thành, nhờ lời cầu bầu của thánh nhân.


 



 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jul 15, 2025, 9:23:08 AMJul 15
to teresa...@googlegroups.com
 

ĐỂ LÀ LINH MỤC CỦA CHÚA CHỨ KHÔNG PHẢI LÀM LINH MỤC

Trở Thành một Linh Mục Công Giáo Rôma được xếp vào một trong bốn “Công Việc” khó nhất trên thế giới.
Bởi vì điều này buộc mỗi một Linh mục Công giáo Rôma phải đồng thời:
- Là nhà giảng thuyết
- Là người mẫu mực, gương mẫu
- Là người cố vấn
- Là người có khuôn khổ
- Là người lập kế hoạch
- Là người của sứ vụ
- Là người mục tử
- Là người nhìn xa trông rộng
- Là người lãnh đạo
- Là người hướng dẫn
- Là một người bạn
- Là người chăm sóc
- Là người hòa giải
- Là người tư vấn hôn nhân
- Là người cố vấn khuyên bảo giới trẻ
- Là người huấn luyện làm lãnh đạo
- Là Thầy dạy Kinh Thánh
- Là nhà tâm lý học
- Là người liên lạc, v.v., v.v., v.v.
Bên cạnh đó Linh Mục còn là:
- Người giữ cửa nhà thờ
- Người khuân vác của Chúa
- Người quản lý giáo xứ
- Người kỹ sư các công trình
- Người thợ nề xây dựng giáo xứ
- Người khởi xướng mọi hoạt động sinh hoạt
- Người đầu tiên đến và là người cuối cùng rời đi...
Tuy nhiên, tất cả các Linh Mục Công Giáo Roma đều phải đối mặt với những lời chỉ trích, lên án liên tục như:
- Thánh Lễ khiến ai đó không hài lòng
- Bài giảng Lễ quá dài khiến buồn ngủ và nhàm chán
- Là người chỉ biết nghĩ về tiền và danh vọng
- Lúc nào cũng gây quỹ này gây quỹ kia
- Chỉ dành thời gian riêng cho những gì thích
- Không đối xử công bằng với nhiều người...
- Làm nhiều điều sai trái với đời sống...
Một trong những điều khó khăn nhất trong cuộc đời của một Linh Mục Công Giáo Rôma là nhận biết và thấy rằng những người mà các ngài dành cả cuộc đời giúp đỡ trân trọng quý mến sẽ phản bội các ngài.
Linh Mục Công Giáo Rôma thường là người cô đơn nhất trong cộng đoàn: chúng ta thậm chí có thể thấy một Linh Mục Công Giáo Roma luôn được mọi người vây quanh, nhưng hiếm khi được mọi người quan tâm đến các vấn đề, nhu cầu hoặc thậm chí trong cuộc sống của các ngài, chứ chưa nói đến những yêu cầu chính cộng đoàn đặt trên các ngài.
Nếu bạn có một Linh Mục hoặc các Tu Sĩ Công Giáo Rôma làm bạn, thì hãy chăm sóc các ngài, bảo vệ các ngài, cầu nguyện cho các ngài, hiểu tầm nhìn của các ngài, hỗ trợ cho các ngài, nhưng trên hết hãy yêu thương các ngài, đừng quên lời hứa của chính Chúa Giêsu vậy. Hãy yêu thương cho đến cùng...
- Ta sẽ cho các ngươi những mục tử đẹp lòng Ta ; chúng sẽ khôn ngoan sáng suốt chăn dắt các ngươi. (Gr 3,15).
- Vì vậy, anh em hãy vâng lời những người lãnh đạo anh em và hãy phục tùng họ, vì họ chăm sóc linh hồn anh em như những người sẽ phải trả lẽ với Thiên Chúa. Như thế, họ sẽ vui vẻ thi hành phận sự của mình mà không than thở, bởi vì điều đó chẳng ích gì cho anh em.(Dt 13,17).
Chúng ta hãy tôn vinh các ngài bằng cách cầu nguyện cho cuộc sống của tất cả những “người con của Chúa qua sự hy sinh của các ngài” với rất nhiều thứ, bao gồm một số nhu cầu của bản thân các ngài và của gia đình các ngài, để các Linh Mục dâng hiến Ơn Gọi của mình hoàn toàn cho Thiên Chúa.
Hãy quý trọng thời gian mà các Linh Mục Công Giáo dành cho bạn, chia sẻ cùng bạn và yêu mến bạn.





 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jul 15, 2025, 8:56:06 PMJul 15
to teresa...@googlegroups.com
“KHI BẠN IM LẶNG, BẠN MỚI BIẾT AI THẬT LÒNG VỚI MÌNH”

Trong cuộc đời mỗi người, có những lúc ta buộc phải lặng lẽ rút lui – không nói, không than thở, không kể lể gì nữa. Có thể là sau một biến cố, một lần bị hiểu lầm, hay đơn giản chỉ là… mệt rồi, không muốn giải thích gì thêm.
Và rồi, chính trong khoảng lặng đó, ta mới nhận ra bộ mặt thật của rất nhiều mối quan hệ xung quanh mình.
Khi bạn im lặng…
– Người thật lòng sẽ tìm đến bạn, nhẹ nhàng hỏi han, dù bạn không nói gì.
– Người thương bạn sẽ không để bạn tự mình đối mặt cô đơn, họ sẽ ở lại bên bạn – dù chẳng cần lời giải thích.
– Còn người “chỉ tò mò” hoặc chỉ biết lợi dụng, họ sẽ bỏ đi khi bạn không còn kể lể, không còn làm trò tiêu khiển hay cung cấp điều gì cho họ nữa.
Im lặng là phép thử của tình cảm
Khi còn ồn ào, người ta vây quanh vì niềm vui, vì lợi ích.
Khi lặng im, bạn giống như ngọn đèn tắt sáng, chỉ những người thực sự quan tâm mới lần mò tìm đến.
Có những người lúc bạn khóc – họ nói bạn “yếu đuối”.
Lúc bạn kể – họ nói bạn “than thân trách phận”.
Và đến khi bạn không nói gì nữa, họ… biến mất.
Người thật lòng không cần nhiều lời
Họ hiểu bạn qua ánh mắt, qua sự im lặng, qua khoảng trống mà bạn để lại.
Họ không trách bạn lạnh lùng. Họ biết bạn đang giữ cho mình một phần đau.
Và đôi khi, tình thương không cần nói bằng miệng – mà là bằng sự có mặt, bằng một ly trà, một cái nắm tay, hay chỉ là một tin nhắn ngắn ngủi: “Có chuyện gì thì gọi cho tôi nhé.”
Lời kết
Đừng tiếc những mối quan hệ rời đi khi ta im lặng.
Vì ai ở lại trong lúc ta trầm lặng nhất – mới chính là người xứng đáng có mặt trong những ngày rực rỡ nhất.
Nếu ai đã từng trải qua điều này,  hiểu được giá trị của sự im lặng – và tình người thật lòng là như thế nào.



 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jul 16, 2025, 8:21:41 AMJul 16
to teresa...@googlegroups.com
tn_16c.doc
Bài đọc trong tuần C.doc
CN 16 TN.C.pps

Ngọc Nga

unread,
Jul 17, 2025, 9:58:26 AMJul 17
to teresa...@googlegroups.com

CẦN NGƯỜI NHƯ MÁCTA CÓ TRÁI TIM MARIA

 

Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu thăm nhà hai chị em Mácta và Maria.  Hàng ngày gia đình của họ ra sao chúng ta không hay biết, chỉ khi cô chị Mácta  rước Chúa Giêsu vào nhà và tất bật làm cơm thiết đãi Chúa, còn cô em thì ngồi bên chân Chúa và nghe lời Người chúng ta mới có chuyện (x. Lc 10,38-42).  Gia đình Mácta  và Maria còn có cậu em trai là Ladarô không thấy nói tới.

 

Chúng ta cùng tưởng tượng cảnh diễn ra trong nhà này: người chị chạy lên chạy xuống, còn người em ra như bị lôi cuốn vào việc chuyện trò với Khách.  Một lúc sau, người chị Mácta , chắc cảm thấy mệt nhọc, nên đã lên tiếng nói với vị Khách: “Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình, mà không quan tâm sao sao?  Xin Thầy bảo em con giúp con với?” (Lc 10, 40).  Xem ra cô chị Mácta không những bất bình với cô em là Maria mà còn cả với Khách mời nữa.  Nhưng Chúa Giêsu nhẹ nhàng đáp, kèm theo lời khen Maria: “Mácta, Mácta, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện.  Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất” (Lc 10, 41-42).  Chính câu nói này của Chúa Giêsu làm nảy sinh những khuynh hướng khác nhau.

 

Có người cảm thấy tiếc cho Mácta , vì Maria đã bỏ mặc tất cả mọi công việc cho Mácta , trong lúc cô ta vui hưởng cuộc nói chuyện với Chúa Giê-su.  Khuynh hướng khác cho rằng, Chúa Giêsu không có ý phê phán thái độ hiếu khách của Mácta  khi Người nêu bật hành vi của Maria “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người” (Lc 10, 39).  Tuy nhiên, khi phải chọn lựa thì Chúa Giêsu vẫn thích kẻ “nghe” lời Người hơn là loay hoay chuyện cơm nước…  Người cũng cho biết đây là “phần tốt nhất.”

 

Hẳn Chúa Giêsu không làm một cuộc so sánh về hai thái độ: một của Mácta  tất bật với việc tiếp đãi Khách, và một của Maria ngồi bên chân Khách để trò chuyện.  Trong thực tế, cả hai thái độ này đều cần thiết.  Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy gẫm về một điều căn bản trong đời sống Kitô hữu: lắng nghe và sống Lời Chúa giữa một thế giới đầy bận rộn và phân tâm.

 

Hai thái độ sống

 

Mácta và Maria không đại diện cho điều đúng, điều sai, mà là hai thái độ sống cần được điều chỉnh và quân bình.  Mácta yêu mến Chúa, nên lo chuẩn bị chu đáo đồ ăn thức uống, như tổ phụ Ápraham trong bài đọc I (x.St 18, 1-15) đã tiếp đón ba vị khách lạ (mà truyền thống hiểu là hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi) với lòng hiếu khách, tận tâm phục vụ.  Tuy nhiên, vấn đề của Mácta  là ở chỗ bị cuốn vào những lo toan, đến mức đánh mất sự hiện diện và Lời Hằng Sống là chính Chúa Giêsu ngay trước mặt mình.

 

Thánh Augustino nói: “Mácta  bị Chúa khiển trách không phải vì bà phục vụ, nhưng vì bà quá bận rộn với việc phục vụ.” (Bài giảng 103, 1-2).  Còn Maria, người “ngồi bên chân Chúa mà lắng nghe lời Người” (Lc 10, 39), được Chúa khen là đã “chọn phần tốt nhất” (Lc 10, 42).

 

Trong một thế giới đầy lo toan và công việc như hôm nay, người Kitô hữu dễ trở thành “Mácta ” bận rộn với việc đời, ngay cả trong các công việc đạo đức, nhưng lại thiếu sự gắn bó và tương quan cá vị với Chúa.

 

“Chỉ có một sự cần mà thôi”

 

Chúa Giêsu nói với Mácta : “Chỉ có một sự cần mà thôi” là một mạc khải quý giá.  Điều cần thiết nhất, chính là lắng nghe và sống Lời Chúa.

 

Thánh Biển Đức, vị sáng lập đời sống đan tu đã mở đầu Luật Dòng bằng câu: “Nghe đây, hỡi con, lắng nghe lời Thầy dạy, hãy nghiêng tai lòng con và đón nhận.”  Lắng nghe Lời Chúa là thái độ của người môn đệ đích thực.  Người môn đệ ấy không chỉ nghe bằng tai, mà bằng cả trái tim để Lời trở thành ánh sáng soi đường, như Thánh vịnh viết : “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105).

 

Quân bình giữa hoạt động và chiêm niệm

 

Origène viết: “Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu, đó là hình ảnh của linh hồn đang khao khát chân lý thần linh” (Trích bài giảng Tin Mừng Lu-ca).  Maria đại diện cho Hội Thánh chiêm niệm, đặt Lời Chúa lên trên mọi hoạt động khác.

 

Công đồng Vaticanô II cũng nhấn mạnh: “Giáo Hội luôn tôn kính Kinh Thánh như chính Mình Thánh Chúa… Vì trong Sách Thánh, Cha trên trời âu yếm gặp gỡ con cái Ngài và đối thoại với họ” (Trích: Hiến Chế Lời Chúa, số 21).  Đời sống đức tin không thể tách rời khỏi việc lắng nghe Lời Chúa, nhất là trong Thánh lễ và đời sống cầu nguyện hằng ngày.

 

Dẫu Maria được khen là chọn phần tốt nhất, nhưng không vì thế mà chúng ta bỏ bê hành động.  Giáo hội cần cả Mácta lẫn Maria, cần người phục vụ cũng như người chiêm niệm.  Sự trưởng thành trong đức tin nằm ở sự quân bình: chiêm niệm để phục vụ hiệu quả hơn, và phục vụ để cụ thể hóa tình yêu ta dành cho Chúa.

 

Giảng trong Thánh lễ ngày 17/7/2026, Đức cố Giáo Hoàng Phanxicô nói: “Chiêm niệm không loại trừ hoạt động, và hoạt động không được làm nghẹt thở đời sống thiêng liêng.”  Người Kitô hữu hôm nay được mời gọi trở nên những “Mácta có trái tim Maria”, luôn dấn thân phục vụ nhưng bắt nguồn từ việc lắng nghe Lời Chúa và sống gắn bó mật thiết với Người.

 

Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho chúng ta biết trở nên những môn đệ khôn ngoan như Maria, nhưng không bỏ quên sự phục vụ như Mácta.  Và trong mọi sự, luôn đặt Chúa là trung tâm của đời sống mình.

 

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ



 



 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jul 17, 2025, 6:21:07 PMJul 17
to teresa...@googlegroups.com

NGUYÊN LIỆU THÔ
“Thời gian là nguyên liệu thô không thể giải thích của mọi thứ. Với thời gian, tất cả đều có thể; không có nó, sẽ không có gì! Nguồn vốn ‘thời gian’ thực sự là một phép mầu mỗi ngày; một điều thực sự đáng kinh ngạc khi người ta xem xét nó!” - Arnold Bennett.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay đặt ra cho chúng ta một câu hỏi. Với thời gian - ‘nguyên liệu thô’ - Chúa ban, Chúa muốn tôi làm gì?”. Ngài muốn tôi - cùng Ngài - kiến tạo yêu thương với lòng biết ơn.
Trước hết, hãy nhìn lại nguồn ‘nguyên liệu thô’ trong đời mình để cảm tạ, “Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ!” - Thánh Vịnh đáp ca. Ơn cứu độ được tiên báo qua việc Chúa dắt Israel vượt qua Biển Đỏ - bài đọc một. Cuộc Vượt Qua này báo trước cuộc vượt qua bóng đêm tội lỗi và sự chết của mỗi người nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô. “Vượt qua không chỉ là một hành trình lịch sử, nhưng là mẫu thức cho mọi cuộc hoán cải: từ bóng tối đến ánh sáng, từ nô lệ đến tự do, từ thập giá đến phục sinh!” - Von Balthasar.
Với bài Tin Mừng, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sử dụng thời gian để gieo trồng yêu thương. Bởi lẽ, yêu thương luôn làm phấn khích, nâng cao tâm hồn và lấp đầy trái tim với năng lượng mới; nó thúc đẩy việc thờ phượng, một sự thờ phượng đích thực làm vui lòng Thiên Chúa. “Chúng ta không thể dâng cho Chúa điều gì tốt hơn là một tâm hồn yêu thương - yêu Ngài và yêu cả những ai Ngài yêu. Và điều đó bao gồm cả nhân loại khổ đau!” - Simone Weil.
Các biệt phái thiếu lòng nhân đối với những người đang đói, họ coi việc các môn đệ đưa tay hái lúa trong ngày Sabbat là phạm luật. Tất cả chúng ta đều có thể bị cám dỗ như họ để đánh giá người khác một cách không công bằng và không cần thiết. Phần Chúa Giêsu, Ngài tận dụng thời gian để xót thương. Không lên án tội nhân, Ngài đồng bàn với họ, những người lỗi luật theo nhiều cách khác nhau, kể cả luật ngày Sabbat. “Chúa Giêsu không bị thời gian thúc bách, nhưng tận dụng từng khoảnh khắc để bày tỏ tình yêu. Người khác vội vàng xét đoán, còn Ngài thì ở lại và đồng bàn!” - Jacques Philippe.
Anh Chị em,
“Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế!”. Lời Chúa mời gọi chúng ta biết sử dụng thời gian để gieo trồng những hạt mầm yêu thương đang khi vượt qua ‘những đồng lúa’ cuộc đời; ở đó, rất nhiều anh chị em đói lả cả tinh thần lẫn thể xác trong một nhân loại khổ đau. Chúa muốn chúng ta thấu cảm bao nỗi khốn cùng của những con người đang tổn thương. Vì lẽ, lịch sử cứu độ là lịch sử của ‘những cuộc vượt qua’ đầy thương xót! Hãy vượt qua cuộc sống lắm gian truân này trong tâm tình tạ ơn và xót thương; tận dụng nguồn ‘nguyên liệu thô’ Chúa ban để ươm mầm những gì Chúa đang kỳ vọng. “Đừng sợ thời gian. Nó không vô nghĩa. Trong tay Chúa, thời gian là khung dệt nên ý định đời đời!” - Carlo Carretto.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, với con - giờ đây - thời gian không còn đi bộ, nó đang chạy, đang bay. Cho con biết tận dụng để kịp làm một điều gì đó có ý nghĩa cho Chúa và cho tha nhân!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

 



 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jul 17, 2025, 6:34:50 PMJul 17
to teresa...@googlegroups.com
 NGƯỜI BÁN SÁCH ĐƯỢC CHỤP ẢNH NHIỀU NHẤT THẾ GIỚI

Đây là Mohamed Aziz, 72 tuổi, người bán sách được chụp ảnh nhiều nhất thế giới, ở thủ đô Rabat, Maroc !!

Bán sách ở một đất nước mà 26% dân số vẫn chưa biết đọc là một hành động yêu thương thành phố ,nền văn học của đất nước mình và thế giới.Mồ côi cha mẹ từ năm 6 tuổi, Aziz có cuộc sống khó khăn; ông thậm chí còn không thể học hết cấp 3 vì sách giáo khoa quá đắt đối với ông ấy. Ở tuổi 15 vào năm 1963, ông bắt đầu sự nghiệp bán sách chỉ với một tấm thảm trải dưới gốc cây với 9 cuốn sách.
Giờ đây hiệu sách của ông bán được hàng nghìn cuốn sách và ông dành cả ngày đắm chìm trong sách và đọc ngấu nghiến những câu chuyện trong đó.Ông dành từ 6 đến 8 tiếng mỗi ngày để đọc và chỉ dừng lại để ăn, cầu nguyện, hút thuốc và giúp đỡ khách hàng. Thời gian còn lại, ông đi dạo quanh các khu phố để tìm kiếm những cuốn sách mà sau này ông sẽ rao bán trong cửa hàng của mình. Ông ấy nói rằng đây là sự trả thù của ông ấy đối với tuổi thơ và sự nghèo đói của mình: “Tôi đã đọc hơn 4000 cuốn sách bằng tiếng Ả Rập, tiếng Pháp, tiếng Anh hay tiếng Tây Ban Nha, điều đó có nghĩa là tôi đã sống hơn 4000 cuộc đời. Mọi người nên có cơ hội đó! Tôi chỉ cần hai chiếc gối và một cuốn sách để tận hưởng một ngày của mình."

Sau hơn 43 năm ở cùng một nơi, ông là người bán sách phục vụ lâu nhất ở Rabat.
Ps:Khi được hỏi tại sao ông lại để sách ở bên ngoài nơi có thể bị đánh cắp, ông trả lời rằng những người không biết đọc thì không ăn trộm sách, còn những người biết đọc thì không phải là kẻ trộm...

My Lan Phạm



 



 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jul 19, 2025, 10:29:15 AMJul 19
to teresa...@googlegroups.com

LỜI MỜI GỌI ĐẾN VỚI ĐIỀU CAO HƠN

 

Tội là gì?  Không đi lễ ngày Chúa nhật là tội ư?  Gian lận thuế là tội?  Say xỉn là tội?  Nuôi thù hận là tội?  Thủ dâm là tội?  Không chung thủy trong hôn nhân là tội?

 

Trong một thời gian quá dài, các nhà giảng thuyết, các nhà giáo lý, giáo lý viên, hàng giáo phẩm và các thần học gia luân lý đã quá tập trung vào tội lỗi.  Quả thật là có tội, nhưng nó không nên là trọng tâm của chúng ta khi muốn hiểu ý nghĩa của việc sống đời sống người tín hữu Kitô đạo đức.  Chúng ta nên nắm bắt từ lời của Chúa Giêsu.

 

Trong Bài giảng trên núi (Mt 5) Chúa Giêsu giảng, “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ.  Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.”  Về cơ bản, ý Chúa Giêsu là: Thầy không đến để loại bỏ Mười Điều răn, Thầy đến để mời gọi anh em đến với một điều cao hơn.

 

Tiếc là chúng ta có khuynh hướng nghĩ về đời sống đạo đức theo kiểu giữ Mười Điều răn và tránh tội.  Cái mà chúng ta gọi là “thần học luân lý” tập trung vào các vấn đề luân lý, về đúng và sai.  Nhưng Chúa Giêsu, thầy dạy luân lý, lại không nói như vậy.  Trong Bài giảng trên núi (có lẽ là bộ luật luân lý lớn nhất) chú trọng vào lời mời gọi đến với một điều cao hơn.  Bài giảng trên núi giả định chúng ta đã sống những điều căn bản của luân lý là Mười Điều răn rồi, thế nên Bài giảng mời gọi chúng ta đến với một điều gì đó vượt trên những điều căn bản này, cụ thể là trở nên người lớn và giúp thế giới gánh vác sự căng thẳng của nó.

 

Chúa Giêsu không cho chúng ta một thần học luân lý theo kiểu kinh điển hay phổ biến.  Thay vào đó, Ngài mời gọi chúng ta vào một tinh thần môn đệ sâu sắc hơn nữa (vốn là mục tiêu của thần học luân lý, giáo lý học và việc học giáo lý).

 

Đây là ví dụ của một lời mời nằm ở trung tâm Bài giảng trên núi.  Chúa Giêsu mời chúng ta đến với “một nhân đức sâu sắc hơn của kinh sư và Biệt phái.”  Chúng ta dễ bỏ lỡ ý chính ở đây, hầu như chúng ta luôn có khuynh hướng cho rằng Chúa Giêsu đang nói đến sự giả hình của kinh sư và Biệt phái.  Không phải.  Hầu hết kinh sư và Biệt phái là những người tốt, lương thiện thành tâm, thực hành đức hạnh.  Với họ, sống đạo đức và ngoan đạo là giữ Mười Điều răn (không sót điều nào) và trở nên người vô cùng công bằng với mọi người, là nên người chính nghĩa.

 

Vậy họ thiếu điều gì?  Nếu tôi là một người giữ hết các Điều răn, công bằng và chính nghĩa khi ứng xử với tha nhân, vậy tôi thiếu gì về mặt luân lý?  Tại sao như vậy vẫn chưa đủ?

 

Câu trả lời của Chúa Giêsu đưa chúng ta vượt xa hơn Mười Điều răn và các yêu cầu về chính nghĩa. Ngài mời gọi chúng ta đến với một điều vượt cao hơn.

 

Ngài chỉ ra rằng yêu cầu của chính nghĩa vẫn cho phép chúng ta ghét kẻ thù, nguyền rủa ai nguyền rủa chúng ta, và giết người (mắt đền mắt).  Ngài mời gọi chúng ta đến với một điều vượt lên trên, cụ thể là yêu thương người ghét ta, chúc phúc cho ai nguyền rủa ta, và tha thứ cho ai làm tổn thương ta.  Đây là thực chất của thần học luân lý.  Và hãy nhớ, nó đến với chúng ta như lời mời, mời gọi chúng ta luôn đến với điều cao hơn.  Nó không bận tâm đến chuyện cái gì là tội và cái gì không. Thay vào đó, nó là lời mời gọi tích cực vẫy gọi chúng ta đến với một điều cao hơn, vượt ngoài những xung động tự nhiên, vượt lên trên một người chỉ giữ các điều răn và tránh tội.

 

Tôi nhớ có lần nghe bài giảng của Michael Hines quá cố, ông cho chúng ta một hình ảnh về Thiên Chúa luôn mãi mời gọi chúng ta đến với một điều cao hơn: Cứ hình dung một người mẹ đang mời gọi đứa con tập đi.  Bà ngồi xổm trên nền trước mặt đứa trẻ, cách một sải tay, những đầu ngón tay của bà chỉ cách đầu ngón tay con mình mấy phân, bà nhẹ nhàng dỗ đứa trẻ mạo hiểm tiến tới một bước, khi đứa trẻ đi bước đó rồi, bà rụt tay lại mấy phân, lại nhẹ nhàng dỗ đứa trẻ mạo hiểm tiến thêm bước nữa.  Thế là đứa trẻ đi qua hết phòng.

 

Đây là hình ảnh chúng ta cần cho tinh thần môn đệ Kitô hữu và thần học luân lý.  Bận tâm trên hết của chúng ta không nên là chuyện “đây có phải là tội hay không.”  Không đi lễ ngày Chúa nhật là tội ư?  Có những suy nghĩ dâm dục là tội?  Nuôi thù hận là tội ư?

 

Thay vào đó, câu hỏi mà chúng ta cần đặt ra cho mình là tôi được mời gọi đến với điều gì?  Tôi cần vươn lên đến với điều cao hơn trong chuyện gì?  Tôi có yêu thương vượt quá những xung động tự nhiên của mình không?  Và cụ thể hơn: Tôi có yêu thương những người ghét tôi không?  Tôi có chúc phúc cho người nguyền rủa tôi không?  Tôi có tha thứ cho kẻ giết người không?

 

Thầy không đến để loại bỏ Mười Điều răn, Thầy đến để mời gọi anh em đến với một điều cao hơn – và cứ thế từng bước Ngài đưa chúng ta như đứa trẻ tập đi đi qua hết phòng.

 

Rev. Ron Rolheiser, OMI





 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jul 22, 2025, 8:52:37 AMJul 22
to teresa...@googlegroups.com

MARIA MAĐALÊNA, BÀ LÀ AI?

Maria Mađalêna có một ảnh hưởng bền bỉ lâu dài, gợi hứng cho nhiều nghệ sĩ, tội nhân lẫn các thánh và cả những môn đệ của Đức Kitô qua nhiều thời đại.  Tiếng tăm này không thể dễ dàng giải thích dựa vào các thông tin về bà trong Kinh Thánh.  Điều Tân Ước nói về bà thật ít ỏi và gây thất vọng, đơn giản chỉ gọi bà là Maria Mađalêna hay Maria thành Magđala, nhưng có một chi tiết nhỏ thật có ý nghĩa và thách đố.  Cả bốn Tin Mừng đều khẳng định bà là môn đệ gương mẫu cho mọi thời đại.

Có điều gì đó bí ẩn và hấp dẫn về người phụ nữ này trong các Tin Mừng.  Một người phụ nữ mà tên riêng không đi kèm với tên một người đàn ông nào khác ngay trong Tân Ước thì đó là điều thật có ý nghĩa.  Khi xếp bà riêng ra thì hoặc bà là một nhân vật ngoại thường hoặc có vấn đề gì ở đây.  Có lẽ chính vì thế mà óc tưởng tượng bình dân đã “điền vào chỗ trống” và gán ghép bà với những phụ nữ khác trong Tân Ước, tạo nên một khối tù mù.  Trước khi xem các Tin Mừng nói gì thì chúng ta hãy xem thử những gì mà các Tin Mừng không hề nói.

 Bà không phải là ai

Thỉnh thoảng Maria Mađalêna bị đồng hóa cách sai lầm với người phụ nữ xức dầu thơm lên chân Chúa Giêsu.  Sự đồng hóa này lại càng thêm phức tạp bởi vì người ta thường nhầm lẫn câu chuyện xức dầu với một người phụ nữ tội lỗi, một cô điếm.  Và góp phần khiến vấn đề trở nên tệ hại hơn là hình ảnh của Maria Mađalêna và một người phụ nữ bị cáo buộc ngoại tình trong Tin Mừng Thánh Gioan lại nhập nhằng với nhau.

Trong câu chuyện Khổ Nạn, dầu mục đích sử dụng câu chuyện khác nhau, cả bốn Tin Mừng đều nói về một phụ nữ xức dầu thơm chân Chúa Giêsu (Mc 14, 3-9; Mt 26, 6-13), Thánh Marcô và Matthêu đưa trình thuật nói về một phụ nữ vô danh xức dầu cho Chúa Giêsu có ý nói về cuộc mai táng của Ngài.  Lúc ấy Chúa Giêsu đang ở nhà của ông Simon người phung hủi, ở Bêthania gần Giêrusalem.  Thánh Gioan cũng thuật lại câu chuyện xức dầu chân Chúa Giêsu không lâu trước cái chết của Ngài, xác định người phụ nữ là Maria thành Bêthania, bà làm thế để tỏ lòng biết ơn Chúa Giêsu đã làm cho em bà là Lazarô sống lại.  Maria là một tên gọi rất thông dụng và có lẽ chính vì thế mà hai bà tên Maria đã bị hòa lẫn vào nhau trong truyền thống Kitô giáo sau đó.

Thánh Luca kể về một phụ nữ vô danh đã xức dầu chân Chúa Giêsu khi Ngài đang ngồi bàn ăn trong khi đang thực hiện sứ vụ (Lc 7, 36-50) chứ không phải lúc cuối đời.  Lúc ấy Chúa Giêsu đang dùng bữa tối tại nhà ông Simon người Pharisiêu.  Có lẽ Maria Mađalêna đã bị nhầm lẫn với người phụ nữ này bởi vì Maria Mađalêna lần đầu tiên được gọi đích danh trong câu chuyện tiếp liền ngay sau trình thuật xức dầu của Thánh Luca (Lc 8, 2).  Góp phần để tạo thêm nhầm lẫn là người phụ nữ này đôi khi được miêu tả là người tội lỗi công khai (một cái tên thanh tao để gọi nghề làm điếm), người đã đổ nước mắt vì thống hối và hành động vì lòng hối hận.  Thế nhưng người phụ nữ xức dầu chân Chúa Giêsu là một phụ nữ vô danh trong Tin Mừng Thánh Luca, và nếu bà được ghi nhớ chỉ vì “tội lỗi” của mình hơn là tình yêu đưa dẫn đến hành động xức dầu chân Chúa, thì điều đó vừa trái với ý nghĩa của dụ ngôn mà Chúa Giêsu vừa mới nói đến trong dịp này lại vừa không phải là mục đích của Thánh Luca khi kể lại câu chuyện.

Vấn đề càng thêm phức tạp khi có một vài thủ bản Tin Mừng Thánh Gioan (7, 53 – 8, 11) nói về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình và gán ghép chị này với Maria Mađalêna.  Một truyền thống lâu đời trong văn chương và nghệ thuật Kitô giáo đã vẽ nên một Maria Mađalêna là người tội lỗi ăn năn, sau khi gặp được Chúa Giêsu thì bà đã trải hết phần đời còn lại để khóc than tội lỗi mình.  Thế nhưng các Tin Mừng không hề gán ghép Maria Mađalêna với người phụ nữ tội lỗi, hoặc tệ hơn nữa là một cô điếm.

Các Tin Mừng nói gì

Trong các Tin Mừng Matthêu, Marcô và Luca, bà được gọi là Maria Mađalêna hay “Maria Magđala” (xem Mt 27, 56.61; 28, 1; Mc 15, 40.47; 16, 1,9; Lc 8, 2; 24, 10).  Thánh Gioan gọi bà là “Maria thành Magđala”, một thành phố vô danh trong Kinh Thánh (xem Ga 19, 25; 20, 1.18).  Vài người cho rằng đó là thành phố Magađan (xem Mt 15, 39; Mc 8, 10), một thành phố nằm bên bờ Tây của Biển hồ Galilê, giữa Tiberia và Capharnaum.

Maria thành Magđala được ghép với một địa danh chứ không phải với tên của bất kỳ người đàn ông nào bên cạnh Chúa Giêsu.  Trong thế giới Tân Ước, người phụ nữ thường gắn liền với chồng, cha, con trai hoặc anh em của họ.  Như vậy, người phụ nữ vô danh đã theo Chúa Giêsu và hiện diện dưới thập giá đơn giản chỉ được gọi là “bà mẹ của các con trai ông Zêbêđê.”  Tên gọi Zêbêđê xuất hiện ở đây không phải vì ông hiện diện dưới chân thập giá cùng với vợ con ông, những người đã theo Chúa Giêsu từ Galilê cho đến Giêrusalem.  Song chính ông được nêu tên chứ không phải bà vợ đầy lòng tin của ông.

Maria thành Nazareth, Maria và Martha thành Bêthania được gắn liền với thành phố quê hương của họ nhưng đồng thời cũng được gắn liền với người đàn ông:  Maria với Giuse, Maria và Martha với Lazarô.  Còn Maria Mađalêna chính là môn đệ và tông đồ của Chúa Giêsu.  Không có hàng chữ nào nói lên vai trò này của bà trong Tân Ước.  Đúng ra, các Tin Mừng chỉ phác họa Chúa Giêsu là người thâu nhận “những người học việc” (“môn đệ”).  Sau thời gian học tập với vị Tôn Sư, các môn đệ này được “sai đi” (ý nghĩa của từ “tông đồ”) để rao giảng và hành động với thẩm quyền của Chúa Giêsu.  Từ các Tin Mừng, chúng ta biết rằng các môn đệ được kêu gọi. Chúa Giêsu dạy các môn đệ rằng họ phải làm nhân chứng, tiếp tục sứ mệnh mà Chúa Giêsu đã khởi đầu.  Các môn đệ được đòi hỏi phải theo Chúa Giêsu và kiên trì cho đến chết.  Họ đã tin và rao giảng sự phục sinh.

Ơn gọi của Maria

Có vài môn đệ được kêu gọi từ bỏ cuộc sống đang đà thuận lợi.  Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan đã “bỏ mọi sự” mà theo Chúa Giêsu (Mc 1, 18).  Lêvi (hay Matthêu) là người thu thuế đã lập tức đứng dậy đi theo Chúa Giêsu (Mc 2, 13-14; Mt 9, 9).  Những người khác đã bỏ lại bệnh tật và khiếm khuyết của mình và “ơn gọi” của họ thật sự là một phép lạ đúng nghĩa.  Người mù gặp được Chúa Giêsu và được chữa lành.  Kể từ đấy ông đã “đi theo Người trên con đường người đi” (xem Mc 10, 52).  Tương tự như vậy, Maria Mađalêna sau khi được trừ “bảy quỷ,” đã đi theo Chúa Giêsu (xem Lc 8, 2; Mc 16, 9).  Thánh Luca kê tên bà trong số mấy phụ nữ được trừ quỷ và chữa lành bệnh tật đã đi theo Chúa Giêsu từ Galilê đến Giêrusalem, chăm sóc cho Ngài.

Các chứng nhân làm chứng cho điều họ thấy và nghe.  Các môn đệ được kêu gọi làm chứng cho Nước Trời đã đến trong lời nói và hành động của Chúa Giêsu.  Họ được trao ban nhiệm vụ (xem Mt 10; Lc 9 - 10) và được sai đi để làm điều Chúa Giêsu đã làm (Lc 10, 1.3.9).  Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải trở nên đất tốt để “khi nghe Lời Chúa với tấm lòng cao thượng và quảng đại, họ nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả” (Lc 8, 15).  Lời dạy này phù hợp với những miêu tả về Maria Mađalêna, sau khi được trừ quỷ, đã kiên trì và trung thành theo Chúa Giêsu cho đến khi Ngài chết trên thập giá, ngoài ra còn lấy nguồn lợi tức của riêng mình để chăm sóc cho Ngài và các môn đệ khác với tình chân thật và lòng quảng đại.

Theo Thánh Marcô, lời dạy cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ trước cuộc Khổ Nạn là “Hãy tỉnh thức!” (Mc 13, 36).  Họ đã chứng kiến sự đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu và cuối cùng là sự phục sinh của Ngài.  Thế nhưng các tác giả Tin Mừng nhìn nhận rằng các đấng môn đệ nam nhi đã không thể “tỉnh thức” với Chúa Giêsu dầu chỉ một thời gian ngắn ngủi trong Vườn Cây Dầu.  Vậy mà bà Maria Mađalêna và vài phụ nữ khác đã “tỉnh thức” để trông xem cuộc đóng đinh và rồi nán lại để “nhìn xem” xác Ngài được đặt ở đâu.  Thánh Matthêu nói rằng Maria Mađalêna và vài phụ nữ khác đã ra mộ từ sáng sớm ngày Phục Sinh để “trông chừng” ở đấy (xem Mt 27, 55-56.61; 28, 1.8-10).  Họ đã “xem thấy” ngôi mộ trống.  Cuối cùng, theo ba Tin Mừng Nhất Lãm, những phụ nữ này đã nghe sứ điệp phục sinh và về thuật lại cho những người khác.  Họ đã được “sai đi” làm sứ giả hay tông đồ cho các môn đệ khác.

Chứng nhân và sứ giả

Marcô đã xếp đặt bà Maria Mađalêna và những phụ nữ khác đứng dưới chân thập (Mc 15, 40-41).  Sử dụng Tin Mừng Marcô, Thánh Luca đã đặt ngay tâm điểm sứ vụ của Chúa Giêsu đoạn văn nói về những phụ nữ đi theo Ngài từ Galilê cho đến Giêrusalem để nói lên đức tin và sự kiên trì của họ (Lc 8, 1-3).  Còn theo Thánh Luca, tại Bữa Ăn Tối Cuối Cùng, Chúa Giêsu nhắc đến các môn đệ như là những người cùng đứng với Ngài trong cơn thử thách, “một lòng gắn bó với Thầy giữa lúc gian nan” (Lc 22, 28).  Maria Mađalêna chắc chắn là một trong số người đó.

Bất kỳ khi nào được nêu tên (ngoại trừ Ga 19, 25-27), Maria Mađalêna đứng đầu danh sách những phụ nữ đi theo và hầu hạ Chúa Giêsu.  Trong Tin Mừng Thánh Gioan, các phụ nữ này đã rời bỏ tuyến hậu phương để xuất hiện dưới chân thập giá.  Chỉ trong Tin Mừng Thánh Gioan thì nhóm phụ nữ này gồm có cả “thân mẫu Chúa Giêsu,” cùng với chị của thân mẫu Chúa Giêsu là bà Maria vợ ông Clopas, và Maria Magđala” (Ga 19, 25).  Được sự ttháp tùng của các phụ nữ này cũng như người Môn đệ Chúa yêu (theo chứng từ của Tin Mừng thứ tư), “thân mẫu Chúa Giêsu” đến sát cây thập giá đủ gần để nghe Chúa Giêsu trăn trối mình cho người môn đệ ấy chăm sóc.  Maria Mađalêna cũng đứng gần đấy, chứng kiến cái chết và lắng nghe Ngài như bà đã từng làm trong suốt cuộc đời mình.

Trái hẳn với các môn đệ nam nhi đã bỏ Chúa Giêsu mà chạy trốn, Maria Mađalêna cùng những người đồng hành phụ nữ không chỉ chứng kiến cái chết của Chúa Giêsu mà còn nán lại để đã xác minh nơi chôn cất.  Và các bà đã quay trở lại ngôi mộ để xức dầu thơm xác Ngài vào lúc sáng sớm sau ngày Sabbath.  Sau khi được Chúa Giêsu hiện ra, Tin Mừng Nhất Lãm nói rằng bà Maria Mađalêna đã đi và nói cho các môn đệ khác biết sự việc đã xảy ra thế nhưng họ không tin phụ nữ (Mc 16, 20; Lc 23, 49).  Dường như các môn đệ không tin vì họ xưa nay vốn chẳng tin chuyện phụ nữ.

Trong Tin Mừng Gioan, Maria Magđala đi ra mồ “từ lúc sáng sớm khi trời còn tối.”  Thấy tảng đá che cửa mồ đã lăn sang một bên, bà chạy đi báo cho Simon Phêrô và Người môn đệ Chúa yêu (Ga 20, 1-2).  Cả ba chạy trở lại ngôi mộ rồi các môn đệ trở về (Ga 20, 9).  Maria vẫn ở lại, khóc lóc (Ga 20, 11).  Cuối cùng, Chúa Giêsu hiện ra và nói chuyện với bà (20, 11-18).  Bà đã về và báo cho các môn đệ rằng: “Tôi đã thấy Chúa” và kể lại những gì Ngài nói với bà (Ga 20, 18).  Trong Tin Mừng Thánh Gioan, không thấy có ám chỉ nào nói rằng Phêrô và những môn đệ khác không tin Maria hoặc bà là một chứng nhân không đáng tin vì là phụ nữ.  Gioan chỉ nói rằng Phêrô và Môn đệ Chúa yêu đã chạy ra mộ để nhìn tận mắt, và người môn đệ Chúa yêu đã tin.  Gioan dường như bóng gió rằng Phêrô không tin ngay lập tức.  Maria Mađalên đã thấy chính Chúa Giêsu và lòng tin của bà được khẳng định trong nhiệm vụ được giao là nói cho những người khác biết về sự phục sinh của Chúa.

Vài kết luận

Các Tin Mừng đã phản ảnh một tranh luận trong xã hội ở thế kỷ đầu tiên về giá trị chứng từ của những người phụ nữ.  Sự chắc chắn và nhất quán của các Tin Mừng về tính đáng tin cậy của những phụ nữ và đặc biệt của Maria Mađalêna cho thấy rằng các cộng đoàn tín hữu của Chúa Giêsu đã có một nhãn quan mới về phụ nữ và chỗ đứng của họ trong một xã hội mới và trong Giáo Hội.  Một cách rất có ý nghĩa, các Tin Mừng đã ghi lại sự thất bại thảm hại của các đấng môn đệ nam nhi trong “giờ khắc” gay cấn nhất, rồi tiếp theo đó là họ đã không tin Maria Mađalêna cùng những phụ nữ khác đã vội vã chạy về loan tin Chúa Giêsu phục sinh cho họ.

Kinh Thánh thoát thai trong một nền văn hóa gia trưởng phụ quyền.  Trong nền văn hóa như vậy, người ta nói về phụ nữ không mấy tích cực. Để vượt qua bối cảnh này, cần phải thẳng thắn khi nói về các đấng môn đệ nam nhi cư xử như thế nào vào thời khắc cao điểm trong cuộc tự hiến của Đức Giêsu và giải thích vai trò cần thiết của các phụ nữ cũng trong thời điểm ấy. Trong suốt Tân Ước, đặc biệt là các Tin Mừng, hình ảnh tích cực của các phụ nữ vẫn còn là một tiếng nói muốn được giải thích và trả lại tính xác thực.

Maria Mađalêna đã bị đánh giá sai thậm chí bị khinh khi, qua nhiều thế kỷ chúng ta đã đánh mất hoặc bỏ qua vai trò của bà như là người tông đồ đầu tiên.  Mặc dầu các bình luận về bà vẫn còn dè dặt để chỉ nói điều ít nhất, cả bốn Tin Mừng đều đồng ý rằng bà Maria Mađalêna đã ở dưới chân thập giá, nơi ngôi mộ trống và là một trong những chứng nhân đầu tiên về sự phục sinh của Chúa Giêsu.  Bà đã trở thành người mà phụng vụ mùa Phục Sinh gọi là “Apostola Apostolorum” (Tông đồ của các Tông đồ).
  
Mary Ann Getty

LM Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ




 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jul 23, 2025, 8:21:38 AMJul 23
to teresa...@googlegroups.com

CHÚA HẰNG BAN ƠN TRỢ GIÚP TA
(Suy niệm Tin mừng Luca (11, 1-13) Chúa nhật 17 thường niên)
***
Sứ điệp : Chúa nhân lành hằng ban ơn nâng đỡ ta trong cuộc sống.
Khi kể dụ ngôn người bạn vay bánh giữa đêm khuya cũng như chuyện người cha sẵn sàng cho con cái mình những gì tốt nhất, Chúa Giê-su khẳng định với chúng ta rằng nếu chúng ta liên lỉ nài xin thì chắc chắn sẽ được Thiên Chúa nhận lời. Ngài dạy: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho…”
Tuy nhiên, có bao lần chúng ta cầu xin mà dường như Chúa chẳng nhận lời, rồi đâm ra thất vọng và oán trách Chúa một cách sai lầm. Thực ra, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương và nhận lời chúng ta cầu nguyện một cách khôn khéo.
Chúng ta cần lưu ý 2 điều sau để khỏi oán trách Chúa cách sai lầm:
1. Chúa ban cho ta điều tốt hơn điều ta xin
Một chú bé lên mười xin cha mẹ cho xe đạp điện để đi học như bạn bè cùng trang lứa, nhưng thay vì cho xe đạp điện, cha mẹ khôn ngoan lại cho em xe đạp thường để tạo cho em cơ hội trau dồi sức khỏe nhờ vận dụng đôi chân, tập rèn tinh thần vượt khó, tập tính không đua đòi với bạn bè có xe đạp điện đắt tiền và tập sống khiêm tốn…
Tương tự như thế, khi ta xin một ơn nào đó, Chúa không ban điều ta xin vì không có lợi cho ta, nhưng lại ban cho điều khác  tốt đẹp hơn mà ta không ngờ.
2. Thay vì cho “cá”, Chúa lại cho “cần câu”
Khi người con xin cá, người cha khôn ngoan không đi câu cá rồi về nấu dọn cho con ăn, vì làm như thế, đứa con sẽ ỷ lại, đâm ra lười biếng, không thể sống tự lập được, không phát huy được năng lực bản thân; trái lại, thay vì cho cá, ông trao cho đứa con chiếc cần câu và  khuyến khích người con hãy tự câu cá nuôi thân. Bằng cách nầy, ông đào tạo đứa con trở nên người trưởng thành, tự lập, không cần cậy dựa vào người khác mà phải cậy dựa vào chính mình, phải tự đứng trên đôi chân của mình. Sau nầy, nếu người cha qua đời, đứa con vẫn có thể sống tự lập được.
Thiên Chúa là người Cha khôn ngoan. Ngài không muốn chúng ta cậy dựa hoàn toàn vào Ngài để rồi không làm việc, không tự lo cho bản thân, trở thành người yếu đuối và lệ thuộc… Vì thế, khi ta xin “cá”, Ngài trao cho ta những “chiếc cần câu”, nghĩa là ban cho ta đôi tay để lao động, ban cho ta trí tuệ để tìm tòi, phát minh và sáng chế, ban những phương tiện để ta hoạt động hằng ngày…
Nhờ vận dụng những thứ “cần câu” nầy, trí tuệ chúng ta được mở mang, thân xác được khoẻ mạnh, con người được phát triển vẹn toàn.
Ý tưởng này đã được một tác giả diễn tả cách chí lý như sau:
“Tôi xin sức mạnh...
Và Ngài đã cho tôi gặp khó khăn để trui rèn tôi nên mạnh mẽ.
Tôi xin khôn ngoan...
Và Ngài cho tôi gặp những vấn đề nan giải - tựa như những bài toán khó - để giải quyết, nhờ đó tôi trở thành người khôn ngoan.
Tôi xin tiền của...
Và Ngài cho tôi khối óc và bắp thịt để làm việc, nhờ đó tôi trở nên giàu có. (…)
Thế là, tuy không trực tiếp lãnh nhận những gì tôi xin...
Nhưng tôi có được tất cả những thứ tôi cần” (Khuyết danh).
Lạy Chúa Giê-su,
Nhờ tình thương và muôn vàn ân sủng Chúa, chúng con mới được sống đến ngày hôm nay. Xin cho chúng con biết đền đáp tình thương Chúa bằng cách sử dụng ân huệ Chúa ban để phụng sự Chúa và phục vụ mọi người. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca (11, 1-13).
Ngày kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi kia. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông". Người nói với các ông:
"Khi các con cầu nguyện, hãy nói: 'Lạy Cha, nguyện xin danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ'".
Và Người còn bảo các ông rằng: "Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: 'Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thết đãi anh ấy'. Và từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: 'Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh được'. Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần.
"Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho.
"Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá, lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy, nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người

 

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jul 24, 2025, 8:29:41 AMJul 24
to teresa...@googlegroups.com
tn_17c.doc
Bài đọc trong tuần C.doc
CN 17 TN.C.pps

Ngọc Nga

unread,
Jul 26, 2025, 1:09:32 AMJul 26
to teresa...@googlegroups.com

ĐẤU TRANH VỚI TÍNH TỰ ĐẠI
Chúng ta sống trong một thế giới mà mọi thứ đều kích động mạnh đến thói tự đại của chúng ta, trong khi đó thì càng ngày càng ít công cụ để cự lại với nó.
 
Vài năm về trước, Robert L. Moore đã viết một quyển sách rất ý nghĩa, với tựa đề Đối diện Con Rồng [Facing the Dragon].  Moore tin rằng con rồng đe dọa chúng ta nhất, chính là con rồng của tính tự đại trong chúng ta, nó khuấy động nội tâm chúng ta khiến chúng ta tin rằng mình đặc biệt phi thường và mang số mệnh cao cả.  Tình trạng này bủa vây tất cả chúng ta.  Nói đơn giản, mỗi người chúng ta, mỗi một trong bảy tỷ người trên trái đất, không thể nào không cảm thấy mình là trung tâm của vũ trụ.  Và bởi điều này gần như vô thức, đồng thời chúng ta lại thiếu khí cụ để giải quyết nó, nên nó gây ra một tình trạng đáng lo sợ.  Tự đại không phải là công thức cho hòa bình và hòa hợp, mà là cho ghen tương và xung đột.
 
Mà tình trạng này không phải lỗi của chúng ta, và tự nó cũng không phải là là một khiếm khuyết đạo đức trong bản tính của chúng ta.  Sự tự đại của chúng ta phát xuất từ cách Thiên Chúa tạo thành chúng ta.  Chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh và giống với Thiên Chúa.  Đây là chân lý giáo điều căn bản nhất trong nhận thức Do Thái - Kitô giáo về nhân thể.  Tuy nhiên, không thể hiểu nó theo kiểu đơn giản hóa, như kiểu một biểu tượng đẹp đẽ được đóng dấu vào linh hồn chúng ta.  Đúng hơn, cần phải hiểu thế này: Thiên Chúa là lửa, lửa bất diệt, một sinh lực không ngừng tìm kiếm để ôm trọn và thổi bùng mọi tạo vật.  Và ngọn lửa đó có trong chúng ta, khơi lên trong chúng ta những cảm thức thần linh, một trực giác rằng chúng ta cũng có sinh lực thần thiêng, và cũng là một áp lực muốn trở nên đặc biệt phi thường và đạt được một sự cao cả nào đó.
Có thể nói, được tạo thành theo hình ảnh và giống với Thiên Chúa, nghĩa là có một con chíp thần thiêng bên trong chúng ta.  Nó thiết lập cho chúng ta phẩm giá cao cả nhất nhưng cùng lúc tạo nên những vấn đề lớn lao nhất.  Sự vô hạn không nằm yên trong cái hữu hạn.  Bởi có sinh lực thần thiêng bên trong, nên chúng ta không dễ bình yên trong thế giới này, những khao khát và mong mỏi của chúng ta quá vĩ đại.  Chúng ta không chỉ sống trong sự bất an triền miên mà thánh Augustine nêu bật trong châm ngôn lừng danh: “Ngài đã tạo thành chúng con cho Ngài, lạy Chúa, và lòng chúng con khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Ngài.”  Mà sự tự đại bẩm sinh này còn khiến chúng ta không ngừng nuôi dưỡng một niềm tin rằng chúng ta đặc biệt, có số mệnh độc nhất vô nhị, và được sinh ra để trội vượt, được công nhận, được biết đến với những sự phi thường của mình.
Và do đó tất cả chúng ta đều được một mã di truyền thần thiêng điều hướng để, có thể nói là tạo lập một cáo thỉnh trong đời, tạo lập sự bất tử cho riêng mình, và tạo nên một giả tượng phi thường mà thế giới phải để mắt đến.  Đây không phải là một khái niệm trừu tượng, nó tuyệt đối thực tế.  Chúng ta có thể thấy bằng chứng cho chuyện này trên mọi bản tin, trong mọi vụ đánh bom, trong mọi mưu đồ xấu xa táo tợn, và trong mọi tình huống khi ai đó muốn mình trội vượt.  Chúng ta cũng thấy nó trong sự đói khát danh vọng, trong khát khao được nổi tiếng, và trong nhu cầu muốn được nhìn nhận là độc nhất vô nhị và đặc biệt.
Nhưng sự tự đại này, tự nó không phải là lỗi lầm của chúng ta, và cũng không nhất thiết là một khiếm khuyết đạo đức.  Nó đến từ cách chúng ta chúng ta được tạo thành, thật nghịch lý thay, nó đến từ những gì cao cả và tốt đẹp nhất trong chúng ta.  Vấn đề là, ngày nay, chúng ta thường không có khí cụ để vận dụng nó sao cho sinh sôi những điều tốt đẹp.  Vì nhiều lý do, chúng ta ngày càng sống trong một thế giới kích động quá đáng tính tự đại của mình, ngay cả khi chúng ta không nhận ra tình trạng này và nhất là khi chúng ta ngày càng ít công cụ tôn giáo và tâm lý để xử lý nó.  Những công cụ này là gì?
Về tâm lý, chúng ta cần những hình ảnh con người cho phép mình hiểu bản thân một cách lành mạnh, nhưng cũng bao gồm cả việc chấp nhận những giới hạn, những sự nản lòng, sự vô danh của chúng ta, và cả việc cuộc sống chúng ta phải dành không gian cho cuộc sống người khác nữa.  Về mặt tâm lý, chúng ta phải có những công cụ để hiểu cuộc đời mình, thừa nhận rằng mình đặc biệt và độc nhất vô nhị, nhưng vẫn là một trong số hàng tỷ cuộc đời đặc biệt và độc nhất vô nhị khác.  Về mặt tâm lý, chúng ta cần những công cụ tốt hơn để vận dụng tính tự đại của mình.
Về tôn giáo, đức tin và giáo hội chúng ta cần phải đem lại một nhận thức về nhân thể sao cho chúng ta có thấu suốt và khuôn khổ để có thể sống sự độc nhất vô nhị và đặc biệt của mình, trong khi biết bình an với tinh thần, những giới hạn, những thất bại, sự vô danh, và dành không gian cho sự độc nhất vô nhị và đặc biệt của cuộc đời người khác.  Về căn bản, tôn giáo phải cho chúng ta những công cụ để nắm bắt cách lành mạnh ngọn lửa thiêng bên trong bản thân mình, và hành động lành mạnh với những tài năng và thiên tư mà Chúa ban cho chúng ta, nhưng là trong khuôn khổ đi kèm để khiêm tốn nhận biết các thiên tư này không phải của chúng ta, mà là của Chúa, và tất cả những gì chúng ta là, và những gì chúng ta đạt được đều là ơn Chúa.  Chỉ khi đó, chúng ta mới không gục ngã vì thất bại và tự đắc vì thành công.
Robert Lax cho rằng, bổn phận trong đời không phải là tìm được lối mòn trong khu rừng, cho bằng đi tìm một nhịp điệu để bước đi.
Rev. Ron Rolheiser, OMI
--

 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jul 29, 2025, 8:52:11 AMJul 29
to teresa...@googlegroups.com

 THÁNH MÁC-TA, MA-RI-A VÀ LA-DA-RÔ

 

Hôm nay, Giáo hội kính nhớ các thánh Mát-ta, Ma-ri-a và La-da-rô là 3 chị em ở làng Bê-ta-ni-a.  Lễ này đã được Đức Thánh Cha Phan-xi-cô thêm vào lịch phụng vụ chung của Giáo hội Công giáo Rô-ma, ngày 2/2/2021.  Ngày này trước đây, chỉ được sử dụng để kính nhớ duy nhất thánh Mát-ta.

Sắc lệnh của Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích đã giải thích rằng Đức Thánh Cha thêm ba vị thánh vào lịch phụng vụ chung của Giáo hội Công giáo Rô-ma “vì chứng tá Phúc âm quan trọng của họ trong việc đón rước Chúa Giê-su vào nhà họ, chăm chú lắng nghe Người, tin rằng Người là sự sống lại và là sự sống.”

 

Sắc lệnh khẳng định: “Trong ngôi nhà ở Bê-ta-ni-a, Chúa Giê-su cảm nghiệm tình gia đình và tình bạn của Marta, Maria và La-da-rô, và vì lý do này, Phúc âm thánh Gio-an khẳng định rằng Chúa yêu thương họ.  Bà Mát-ta đã rộng lượng tiếp đãi Người, bà Ma-ri-a ngoan ngoãn lắng nghe lời Người và ông La-da-rô nhanh chóng đi ra khỏi mộ theo lệnh của Đấng đã chiến thắng sự chết.”

 

Bài Phúc âm trích đọc trong thánh lễ này (Lc 10, 38-42) minh chứng tình cảm mà chị em nhà này đã dành cho Chúa.  Họ tận tình tiếp đãi Chúa mỗi người một cách thế.  Dầu vậy, Bài Phúc âm cũng mời gọi chúng ta suy nghĩ về trật tự của những việc chúng ta làm cho Chúa.

 

Mát-ta đón thầy trong tư cách chị cả.  Chị tất bật trong bếp lo bữa ăn để tiếp đãi Thầy, chị lo lắng phải làm sao để tiếp đón Thầy cho xứng.  Còn Ma-ri-a đón tiếp Chúa bằng cách thanh thản, lặng lẽ ngồi bên chân Thầy để lắng nghe.

 

Mát-ta là người đảm đang, thạo việc, nhanh nhẹn.  Nhưng chị không muốn khách phải chờ đợi lâu, và chị cũng muốn đãi khách một bữa ăn tương đối thịnh soạn.  Nhưng trong tình thế này, chị thấy rất cần sự giúp đỡ của cô em.

 

Chị đề nghị: “Xin Thầy bảo em giúp con một tay!”  Ước mơ của Mát-ta rất đỗi bình thường.  Tiếc thay, Thầy Giê-su lại đang kể chuyện cho Ma-ri-a, và cô này đang lắng nghe một cách thích thú.  Nhờ Thầy kêu em xuống bếp là phá vỡ câu chuyện còn dang dở của Thầy.  Mát-ta bị mối lo về bữa ăn chi phối khiến chị quên cả lịch sự cần có.  Chị quên rằng Thầy Giê-su không chỉ cần bữa ăn, mà còn cần tình bạn.  Và tiếp khách cũng là một cách phục vụ không kém giá trị.

 

Thầy Giê-su nhìn thấy sự căng thẳng, lúng túng của Mát-ta, và nhận ra lòng tốt của chị, khi chị muốn dọn một bữa ăn xứng đáng.  Thầy gọi tên chị hai lần cách trìu mến: Mát-ta, Mát-ta.  Ngài nhẹ nhàng trách chị vì đã lo lắng băn khoăn về nhiều chuyện quá.  “Chỉ cần một chuyện thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt hơn.”

 

Thầy Giê-su không bảo rằng điều Mát-ta làm là điều không tốt.  Nhưng ngồi nghe Thầy vẫn là điều tốt hơn, cần hơn.

 

Cuộc sống hôm nay dễ làm chúng ta bị cuốn vào chọn lựa của Mát-ta, bị đè nặng bởi công việc.  Chúng ta quên mất: điều cần hơn là dành thời giờ để gặp Chúa, ở bên chân Chúa mà lắng nghe. 

 

Đời sống của người Ki-tô hữu là kết hợp hài hoà giữa chọn lựa của Mát-ta và Ma-ri-a.  Vừa làm việc của Chúa, vừa gặp gỡ chính Chúa.

 

Lm. Giu-se Vũ Công Viện



 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Jul 30, 2025, 5:32:08 PMJul 30
to teresa...@googlegroups.com
tn_18c.doc
Bài đọc trong tuần C.doc
CN 18 TN.C.pps

Ngọc Nga

unread,
Jul 30, 2025, 5:35:11 PMJul 30
to teresa...@googlegroups.com
5 Phút Lời Chúa Tháng 8.doc

Ngọc Nga

unread,
Jul 30, 2025, 11:48:00 PMJul 30
to teresa...@googlegroups.com
 
Image result for chua nhat 18 thuong nien c



HÃY CÔNG BẰNG VỚI LINH HỒN TA

(Suy niệm Tin mừng Lu-ca (12,13-21) Chúa nhật 18 TN)

Sứ điệp: Thân xác nầy nay còn mai mất thì ta chăm sóc vừa đủ, còn linh hồn sống mãi muôn đời thì phải được chăm lo chu đáo hơn.
***
Chúa Giê-su kể dụ ngôn người phú hộ tích lũy được nhiều của cải, tiêu xài cả đời không hết, nên tự nhủ lòng rằng: “Hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!”
Nhưng rồi, Thiên Chúa bảo ông ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”

Chỉ lo vun đắp cho thân xác đời nầy, chăm lo cho cuộc sống đời nầy mà lãng quên linh hồn, đánh mất sự sống đời đời mai sau thì quả là ngốc thật.

CẦN ĐỐI XỬ CÔNG BẰNG
Nhà kia có hai đứa con: một đứa thì được cha mẹ chăm sóc tối đa: cho ăn cho mặc, cho tiêu xài, được cung cấp đủ thứ… Cha mẹ không từ chối nó bất cứ điều gì nó muốn, thậm chí nó đòi hỏi những điều trái khoáy thì cha mẹ cũng nuông chiều.
Còn đứa con thứ hai thì không được cha mẹ đoái hoài: không cho ăn, không cho mặc, không cho thuốc men… không đếm xỉa gì đến nó.
Làm cha mẹ mà cư xử như thế có đáng bị lên án không?

Bản thân tôi cũng có hai đứa con: một đứa là linh hồn và đứa kia là thân xác. Bao nhiêu năm qua tôi quá chú trọng thân xác mà quên mất linh hồn. Chủ trương của tôi là: Tất cả cho thân xác nầy, tất cả cho cuộc sống đời nầy và thế là từ ngày nầy qua ngày khác, hết tháng nầy đến tháng kia, tôi chỉ biết chăm lo cho thân xác mà thôi.

Còn linh hồn thì bị bỏ rơi, không được đoái hoài. Suốt chiều dài cuộc sống… tôi chẳng dành cho linh hồn một phút nào.
Tôi dồn hết thời giờ, tiền bạc, công sức, tài năng, trí tuệ, nghị lực của tôi cho thân xác, y như nhà đầu tư dốc hết 100% vốn liếng của mình vào một dự án kinh doanh quan trọng.

Thế rồi mai đây thân xác tôi sẽ ra sao? Tôi sẽ thu hoạch được gì?
Sớm muộn gì tôi cũng phải nằm xuống, nhắm mắt xuôi tay.
Thế là cuối cùng, thân xác tôi chỉ còn là một nắm tro bụi li ti ẩn sâu dưới nấm mồ hoang lạnh hay chỉ là một lọ tro sau khi thiêu xác!

Không lẽ hôm nay tôi đầu tư hết tất cả thời gian, công sức, trí tuệ, tài năng, nghị lực, tiền bạc của mình cho thân xác này để rồi cuối cùng chỉ thu hoạch được một nắm tro!
Không lẽ tôi đầu tư 100% vốn liếng của mình cho thân xác và cho cuộc sống tạm bợ đời nầy, để rồi cuối cùng chỉ thu hoạch được một bộ xương khô!
Biết thế thì TA PHẢI CÔNG BẰNG VỚI LINH HỒN. THÂN XÁC NẦY NAY CÒN MAI MẤT THÌ TA CHĂM SÓC VỪA ĐỦ, CÒN LINH HỒN SỐNG MÃI MUÔN ĐỜI THÌ PHẢI ĐƯỢC CHĂM LO CHU ĐÁO HƠN.

Lạy Chúa Giê-su,
Xin dạy chúng con biết chăm lo, nuôi dưỡng linh hồn mình ngay từ hôm nay bằng cách dành thời giờ để thờ phượng Chúa cũng như để yêu thương phục vụ những anh chị em chung quanh. Nhờ đó, mai đây chúng con sẽ được Chúa ban thưởng hạnh phúc muôn đời trên thiên quốc. Amen.


Linh mục Inha-xi-ô Trần Ngà

Tin mừng Lu-ca (12,13-21)
13 Có người trong đám đông nói với Đức Giê-su rằng: "Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi."14 Người đáp: "Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh? "15 Và Người nói với họ: "Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu."
16 Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này: "Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi,17 mới nghĩ bụng rằng: "Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!18 Rồi ông ta tự bảo: "Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó.19 Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!20 Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: "Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?21 Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó."


 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Aug 3, 2025, 9:08:39 AMAug 3
to teresa...@googlegroups.com

 
SỨC MẠNH CỦA CẦU NGUYỆN
 
Đã bao nhiêu lần bạn nghe nói rằng cầu nguyện chẳng có tác dụng gì?  Người ta thường chế nhạo vì khi điều bất hạnh xảy ra, cách duy nhất chúng ta thường làm đó là cầu nguyện.  Thực tế cho thấy rằng, nhiều khi chúng ta chẳng thể thay đổi tình hình, chẳng hạn như: chúng ta chẳng thể chữa khỏi ung thư, chẳng thể cho kẻ chết sống lại, và cũng chẳng thể ngăn ngừa tác hại của một trận hỏa hoạn, lũ lụt, ... 
 
Nhưng rõ ràng là, dù chạm đến sự giới hạn cuối cùng đó, chúng ta vẫn có thể thưa chuyện với Chúa, nài xin lòng thương xót, sự phù trợ, giúp giảm bớt phần nào đau khổ mà con cái Ngài đang phải chịu đựng. Trích dẫn lời của Thánh Gioan Damascene, Sách Giáo lý Công giáo dạy rằng: “Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa hay là cầu xin Thiên Chúa ban cho những điều xứng hợp” (GLCG 2590).
 
Cầu nguyện là một điều tuyệt vời và cần thiết trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.  Không cầu nguyện, chúng ta không có mối tương quan với Thiên Chúa.  Không cầu nguyện, chúng ta sẽ lạc lối.  Cầu nguyện là cách thế tốt nhất để chúng ta mở lòng ra với Thiên Chúa, nhờ đó, chúng ta có thể và sẽ tạo ra sự khác biệt trong thế giới.
  1. Cầu nguyện củng cố quyết tâm của chúng ta.
Chúng ta có thể nhận được sức mạnh lớn lao từ cầu nguyện.  Chỉ cần dành thời giờ thân thưa với Chúa về điều khiến chúng ta vui, buồn và tạ ơn Ngài vì những ơn lành chúng ta đã lãnh nhận sẽ mang lại cho chúng ta tầm nhìn quan trọng về cuộc sống và về những gì chúng ta được mời gọi để làm cho người khác.  Trong thực tế, chúng ta dễ cảm thấy chán nản khi mọi việc không như ý mình, nhưng với một chút thời gian yên tĩnh ở một mình với Chúa có thể giúp chúng ta cảm nhận được sự thanh thản, nhìn mọi việc theo một nhãn quan khác và tăng thêm sức mạnh để làm điều tốt cho người khác.
  1. Cầu nguyện mang lại cho chúng ta sự hiểu biết sâu sắc.
Thời gian cầu nguyện trước sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể biến đổi tâm hồn khi chúng ta biết suy tư về cuộc sống, hành vi của mình, và quyết tâm thay đổi theo chiều hướng tích cực.  Chúng ta có thể thưa chuyện với Chúa về những gì Ngài muốn dành cho chúng ta và Ngài muốn chúng ta tạo ra sự khác biệt trong cuộc sống của mình và người khác như thế nào.  Việc ngồi tĩnh lặng thưa chuyện với Chúa hoặc đọc Kinh thánh giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc về cách thế Thiên Chúa muốn chúng ta hành động khi chúng ta có thể noi theo gương của các Thánh và của những người nam nữ tốt lành trong Kinh Thánh.
  1. Cầu nguyện thúc đẩy chúng ta hành động.
Hành động bắt đầu bằng việc cầu nguyện.  Chúng ta thưa chuyện với Chúa và Ngài lắng nghe.  Chúng ta có thể hỏi Thiên Chúa rằng Ngài muốn chúng ta ở đâu, Ngài muốn chúng ta làm gì và làm sao để chúng ta có thể làm theo ý muốn của Ngài.  Chắc chắn Thiên Chúa sẽ nói với chúng ta, mặc dù nhiều khi chúng ta không nghe được tiếng nói trực tiếp của Ngài.  Tuy nhiên, chúng ta có thể cảm nhận ý muốn của Thiên Chúa được đặt vào lòng chúng ta và khi Ngài giúp chúng ta đưa ra những quyết định vì lợi ích của chúng ta hoặc của người khác.
  1. Cầu nguyện đưa người khác đến gần Chúa hơn.
Khi người khác thấy chúng ta cầu nguyện, chúng ta đang làm gương về cách hành động.  Và khi cầu nguyện cho người khác, chúng ta có thể tin chắc rằng Thiên Chúa lắng nghe chúng ta.  Chúng ta có mẫu gương của Thánh Monica, người đã cầu nguyện ròng rã nhiều năm cho người con trai là Augustino được ơn hoán cải, và bà đã được toại nguyện.  Noi gương thánh nữ Monica, chúng ta hãy cầu nguyện cho những người chúng ta yêu thương và khi cảm thấy mệt mỏi, buồn bã vì lời cầu nguyện của mình không được nhậm lời, sự kiên trì của thánh nữ là nguồn khích lệ lớn lao.
Cầu nguyện không chỉ củng cố mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa mà còn biến đổi con người chúng ta.  Cầu nguyện uốn nắn chúng ta thành người trung thành hơn, quảng đại hơn để giúp đỡ người khác, và dấn thân hơn để biến thế giới thành một nơi tốt đẹp hơn, đáng sống hơn.
Thiên Chúa là Cha và Ngài yêu thương chúng ta sâu xa hơn những gì chúng ta có thể hình dung.  Hãy dành thêm thời gian để thân thưa với Ngài, và xây dựng mối tương quan mà cả Thiên Chúa và chúng ta đều khao khát.
Susan Ciancio
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP Chuyển ngữ từ: catholicworldreport.com (15. 04. 2024)



 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Aug 5, 2025, 9:07:21 AMAug 5
to teresa...@googlegroups.com

 XÉT LẠI ĐỘNG CƠ CỦA CHÚNG TA

 

Nhân vật chính trong vở kịch Murder in the Cathedral của T.S. Eliot là Thomas a Beckett – một giám mục, người theo mọi vẻ bề ngoài đều là một vị thánh.  Ông cực kỳ trung thực, rộng lượng đến mức hy sinh, và là người bảo vệ đức tin đã chịu chết vì đạo.  Tuy nhiên, vào một thời điểm nào đó trước khi tử đạo, ông nhận ra rằng có thể mình chưa phân biệt rõ giữa cám dỗ và ân sủng.


Nhiều người trong chúng ta quen thuộc với lời diễn tả nổi tiếng của ông:


Cám dỗ cuối cùng là sự phản bội lớn nhất:

Làm điều đúng vì lý do sai…
Vì những ai phục vụ cho đại nghĩa
Có thể biến đại nghĩa thành công cụ cho chính mình.

Vậy đâu là cám dỗ có thể dễ bị nhầm lẫn với ân sủng?

 

Nói đơn giản, chúng ta có thể đang làm rất nhiều việc tốt – nhưng với động cơ sai.  Hơn nữa, điều này có thể rất tinh vi, đặc biệt nơi những người phục vụ cho “đại nghĩa,” bởi như T.S. Eliot nhấn mạnh, chúng ta rất dễ biến đại nghĩa ấy thành phương tiện phục vụ chính mình.

 

Làm thế nào chúng ta lại có thể khiến đại nghĩa phục vụ mình?  Làm sao lại có thể làm điều tốt nhưng vì lý do sai?

 

Ví dụ: Tôi có thể đang làm rất nhiều điều tốt – giúp đỡ người khác, phục vụ mục đích của Thiên Chúa nơi trần gian.  Tôi có thể quảng đại đến mức chấp nhận hy sinh như một vị tử đạo.  Nhưng nếu lý do chính tôi làm tất cả những điều đó là vì chúng khiến tôi được ngưỡng mộ, cảm thấy đạo đức và chính trực, được khen ngợi, để lại một cái tên tốt đẹp sau này – thì sao?

 

Những câu hỏi ấy đi sâu vào ranh giới giữa cám dỗ và ân sủng.  Tôi có thể làm điều đúng đắn, và dù không phải vì lý do xấu, tôi vẫn chủ yếu đang làm cho bản thân mình.  Tôi có thể đang khiến đại nghĩa phục vụ tôi nhiều hơn là tôi phục vụ đại nghĩa.

 

Cha Dòng Tên quá cố Michael J. Buckley – một trong những người hướng dẫn tâm linh quan trọng trong đời tôi – từng thúc giục chúng ta phải can đảm xét mình một cách đau đớn: Tôi làm điều này để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân – hay đang làm để mình cảm thấy và trông có vẻ tốt đẹp?

 

Trong quyển sách Bạn Tìm Gì Thế? – Những Câu Hỏi của Đức Giêsu Như Một Thách Đố và Lời Hứa, Buckley viết:

 

“Bằng hàng ngàn cách khác nhau, những người phục vụ cho đại nghĩa có thể khiến đại nghĩa ấy quay lại phục vụ họ.  Điều này có thể vô cùng tinh tế.  Đôi khi chỉ một sự lệch nhẹ ở bước khởi đầu của một hành động hay một đời sống cũng có thể dẫn đến một chuyển hướng sâu sắc nhưng không được nhận ra: lòng nhiệt thành che giấu một tham vọng ngấm ngầm nhưng tàn nhẫn.  Tham vọng ấy được giấu kỹ vì ban đầu nó có vẻ giống với lòng nhiệt thành – dù thật ra hai điều này hoàn toàn đối lập.  Khao khát đạt được một điều gì đó có thể trộn lẫn giữa giá trị nội tại của một dự án với hào quang phản chiếu từ thành quả đạt được.”

 

Là một linh mục đã phục vụ hơn 50 năm, tôi thấy đây là một lăng kính đầy thách thức để nhìn lại chính mình và hành trình mục vụ ấy.  Tôi đã phục vụ cho đại nghĩa bao nhiêu – và tôi đã, trong vô thức, biến nó phục vụ cho chính mình bao nhiêu?  Ai là người “được lợi” hơn: Thiên Chúa và Hội Thánh – hay tôi và danh tiếng của mình?

 

Tất nhiên, động cơ là điều rất khó nhận diện, và trong cuộc đời này, động cơ hiếm khi nào hoàn toàn thuần khiết.  Ta là một hỗn hợp phức tạp của nhiều động lực – có cái phục vụ người khác, có cái phục vụ chính mình – và như Buckley nhấn mạnh, ban đầu chúng trông rất giống nhau.  Hơn nữa, có những lời dạy của Đức Giêsu dường như cho thấy rằng đôi khi việc làm đúng điều còn quan trọng hơn động cơ rõ ràng đằng sau nó.

 

Chẳng hạn, Đức Giêsu nói: “Không phải những ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy” (Mt 7,21).  Và trong bài học về việc phán xét cuối cùng, Đức Giêsu dạy rằng chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên cách ta đối xử với người nghèo – “Điều gì các con làm cho một trong những người bé mọn nhất này, là làm cho chính Ta” (Mt 25).   Điều đáng chú ý là cả nhóm được thưởng lẫn bị phạt đều không ý thức rõ việc mình làm.  Họ được xét xử hoàn toàn dựa trên hành động.

 

Vậy, liệu ta có thể đang làm điều đúng với lý do sai?  Và nếu đúng là ta làm như vậy – vì muốn được ngưỡng mộ, được kính trọng, được tiếng tốt hay cảm thấy tự hào – thì điều đó có nghiêm trọng không?  Nó có làm giảm hoặc phá hủy giá trị của điều tốt ta đang làm?  Khao khát được công nhận, có danh tiếng tốt và cảm thấy dễ chịu về bản thân – có thật sự đối nghịch với lòng vị tha?  Hay cả hai có thể đồng hành?  Thiên Chúa đánh giá ta nhiều hơn dựa vào động cơ – hay dựa vào hành động?

 

Tôi đang phục vụ cho đại nghĩa – hay đang khiến đại nghĩa phục vụ mình?


Đó là một câu hỏi sống còn để tự xét mình.

 

Tại sao?  Vì chúng ta rất dễ mù quáng trước sự giả hình của chính mình – cũng như rất dễ khắt khe quá mức với bản thân.

 

Rev. Ron Rolheiser, OMI



 






 

 




 

Ngọc Nga

unread,
Aug 6, 2025, 11:40:57 PMAug 6
to teresa...@googlegroups.com
tn_19c.doc
Bài đọc trong tuần C.doc
CN 19 TN.pps

Ngọc Nga

unread,
Aug 6, 2025, 11:52:30 PMAug 6
to teresa...@googlegroups.com

KHÔNG CÓ GÌ TỒN TẠI MÃI

 

Chủ đề: “Chúng ta có chuẩn bị tốt đẹp cho đời sau không?”

 

Frank Kendig và Richard Hutton viết một cuốn sách có tựa đề Quãng Thời Gian Sự Sống, hoặc Những Đồ Vật Tồn Tại Bao Lâu.  Trong đó, bạn sẽ khám phá ra nhiều sự thật thú vị.

 

Chẳng hạn, bạn sẽ biết rằng tuổi trung bình của đôi giày bóng chày (baseball) của một cầu thủ chuyên nghiệp chỉ lâu khoảng hai tháng.

 

Bất ngờ hơn nữa, tuổi trung bình của cây gậy khúc côn cầu (hockey) mà cầu thủ chuyên nghiệp sử dụng chỉ sau hai trận đấu.

 

Bạn cũng thấy rằng đôi giày của một người lính trong thời bình là mười lăm tháng, nhưng trong thời chiến nó chỉ còn ba tháng.

 

Trong khi tuổi thọ của một số thứ ngắn hơn chúng ta tưởng, những thứ khác lại tồn tại rất lâu.

 

Thí dụ, một lon bia bị bỏ quên trên núi bởi người cắm trại thì vẫn còn nguyên sau đó 80 năm.  Và chiếc giày da để lại ở cùng nơi đó sẽ vẫn còn sau 50 năm.

 

Sau cùng, một tảng đá nhô ra khỏi mặt đất sẽ vẫn còn nguyên sau một nghìn năm.

 

Nhưng dù là thứ gì - gậy khúc côn cầu, lon bia, hay tảng đá - các tác giả Kendig và Hutton khẳng định rằng mọi thứ rồi cũng sẽ biến mất.  Không có gì tồn tại mãi mãi.

 

Và điều đúng với gậy khúc côn cầu, lon bia và tảng đá thì cũng đúng với loài người.  Chúng ta rồi cũng sẽ biến mất.  Không ai trong chúng ta sẽ sống mãi.

 

Và đó chính là điểm mà Chúa Giêsu nói đến trong Tin Mừng hôm nay.  Đó là lý do vì sao Người cảnh báo chúng ta:

 

Hãy sẵn sàng… với đèn cháy sáng trong tay… vì Con Người sẽ đến vào giờ các con không ngờ.

 

Dù ở đây Chúa Giêsu đang nói về lần Quang Lâm Thứ Hai, các nhà thần học quả quyết rằng lời của Người có thể hiểu theo hai nghĩa:

 

Theo nghĩa hẹp, là ngày tận thế.  Tuy nhiên, theo nghĩa rộng, chúng ám chỉ ngày cuối cùng của cuộc đời chúng ta.

 

Và chính vì ngày kết thúc cuộc đời - hay cái chết - mà chúng ta phải đặc biệt chuẩn bị.  Tất cả chúng ta đều biết là nó sẽ xảy đến.  Chúng ta không sống mãi.

 

Sigmund Freud, nhà thần kinh học người Áo nổi tiếng và là người khai sinh ngành phân tâm học, qua đời ngay trước Thế Chiến II.

 

Freud có một câu chuyện thú vị rất phù hợp với ý nghĩa của sự chuẩn bị.

 

Câu chuyện kể về một người thủy thủ bị đắm tàu và dạt vào một hòn đảo ở Nam Thái Bình Dương.

 

Anh ta được dân bản địa tiếp đón nồng nhiệt.  Họ vỗ tay, hát ca, rước anh ta lên vai, đưa về làng và đặt anh ngồi lên một ngai bằng vàng.

 

Từ từ, người thủy thủ hiểu được những gì đang xảy ra.

 

Người bản địa có một tập tục là thỉnh thoảng đặt một người làm vua trong một năm.  Trong năm đó, ông vua có thể ra lệnh cho dân làng thi hành điều gì đó trong khả năng, và họ sẽ tuân lệnh mà không thắc mắc.

 

Người thủy thủ thật vui sướng vì được chọn làm vua.  Anh không thể tin được sự may mắn của mình.  Nhưng một ngày kia, anh bắt đầu tự hỏi điều gì xảy ra cho một ông vua khi vương quyền của ông chấm dứt.

 

Đó là khi sự phấn khởi và hăng hái của anh đột ngột chấm dứt.

 

Anh khám phá rằng vào cuối vương quyền, anh sẽ bị trục xuất đến một hoang đảo, được gọi là Đảo Vua.  Ở đó anh sẽ bị bỏ mặc cho chết đói như một vật hiến tế cho các thần linh.

 

Sau khi người thủy thủ bừng tỉnh sau tin chấn động này, từ từ anh bắt đầu đưa ra một kế hoạch.

 

Là vua, anh ra lệnh cho thợ mộc trên đảo đóng một đoàn tàu nhỏ.  Khi đoàn tàu đã sẵn sàng, anh ra lệnh cho các nông dân đào gốc cây ăn quả và rau củ, mang theo ra Đảo Vua để trồng lại.

 

Cuối cùng, anh ra lệnh cho thợ xây dựng một căn nhà bằng đá trên Đảo Vua.

 

Bằng cách đó, người thủy thủ đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho ngày mà vương quyền kết thúc và khi anh bị đày ra Đảo Vua.

 

Câu chuyện đó là một minh họa thật hay cho điều Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta trong Tin Mừng hôm nay.

 

Ở nơi khác trong Tin Mừng, Chúa Giêsu dạy: “Hãy tích trữ kho báu trên trời, nơi không mối mọt hay kẻ trộm nào có thể lấy mất.” (Lc 12,33)

 

Người nói với chúng ta hãy làm như người thủy thủ kia.

 

Tin Mừng hôm nay mời chúng ta tự hỏi chúng ta có chuẩn bị tốt đẹp cho ngày mà cuộc sống trần thế của chúng ta sẽ chấm dứt như người thủy thủ kia không.

 

Nó mời chúng ta hãy tự hỏi, “Nếu đêm nay chúng ta lìa đời, chúng ta có sẵn sàng gặp Chúa chưa?”

 

Và nếu câu trả lời vẫn còn điều gì đó đáng ao ước, thì chắc chắn Chúa đang nói với mỗi người chúng ta một cách đặc biệt qua Tin Mừng hôm nay.  Người nói:

 

Hãy như những đầy tớ luôn tỉnh thức chờ chủ về… Và các con cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì Con Người sẽ đến vào lúc các con không ngờ.” (Lc 12:35–40).

 

Đó chính là sứ điệp mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta trong Tin Mừng hôm nay.  Đó là sứ điệp mà Người muốn chúng ta ghi lòng tạc dạ trong phụng vụ này.

 

Chúng ta hãy kết thúc bằng một đoạn trong tác phẩm Kèn của Chúa (God’s Trombones) của nhà văn James Weldon Johnson.

 

Trong đoạn văn, Johnson mô tả cái chết của một phụ nữ đã sống đúng như lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay, và đã sẵn sàng khi giờ chết đến.  Ông viết:

 

“[Chị Caroline] đã thấy điều mà chúng tôi không thể thấy;
chị đã thấy Tử Thần xưa.
Chị thấy Tử Thần đến như một ngôi sao băng.
Nhưng cái chết không làm chị Caroline sợ hãi;
nó hiện ra như một người bạn thân quen.
Và chị thì thầm với chúng tôi:
‘Tôi đang về nhà.’
Rồi chị mỉm cười và nhắm mắt lại.”

Chị Caroline đã sẵn sàng về nhà.

 

Lm. Mark Link, S.J.

 


 






 

 




 

It is loading more messages.
0 new messages