HƯỚNG DẪN CỦA THÁNH LINH
|
Một phi công trẻ tuổi vừa bay qua điểm "không thể trở lại" thì thời tiết bỗng thay đổi. Ðộ nhìn thấy rõ tụt xuống chỉ còn vài thước khi sương mù bắt đầu tràn xuống mặt đất.
Ðặt hết niềm tin vào dụng cụ trong phòng máy là một kinh nghiệm mới đối với chàng. Chàng chỉ còn có khả năng bay nhờ dụng cụ điều khiển tự động. Ðáp xuống làm cho chàng lo hơn cả. Nơi đến của chàng là một phi trường đô thị đông đảo mà chàng chưa quen. Trong
vài phút nữa chàng sẽ liên lạc máy với tháp điều khiển bay. Cho đến lúc đó thì chàng một mình với tư duy.
Người huấn luyện viên đã ép chàng phải học thuộc lòng cuốn sách luật lệ bay. Lúc ấy chàng không thích nhưng bây giờ chàng cảm thấy biết ơn người thầy đó.
Sau cùng chàng nghe tiếng người kiểm soát không lưu: "Tôi sẽ để anh vào vị thế chờ nhé".
- "Tốt!" Chàng phi công suy nghĩ.
Nhưng chàng biết việc đáp xuống hoàn toàn nằm trong tay người kiểm soát. Chàng phải rút ra tất cả những lời dạy từ trước, và tin cậy tiếng nói của người kiểm soát, dù rằng không nhìn thấy người đó. Biết đây không phải là lúc khoe tài, nên chàng báo cho người
kiểm soát:
- Tôi chưa quen bay trong thời tiết này, xin anh vui lòng chỉ dẫn cho tôi, cám ơn.
- "Cứ yên trí". Người kiểm soát nói.
Trong suốt 45 phút sau đó, người kiểm soát nhẹ nhàng chỉ dẫn chàng phi công trẻ tuổi qua làn sương dày đặc. Hướng bay và độ cao được chỉ bảo điều chỉnh từng hồi từng lúc. Chàng phi công nhận thấy rằng mình được căn dặn tránh nhiều vật cản và khỏi bị va chạm
vào các máy bay khác. Nhờ lời dạy trong sách và tiếng nói nhẹ nhàng của người kiểm soát, không lâu chàng đáp xuống sân bay an toàn.
***
Thánh Linh dẫn dắt chúng ta qua cung mê của cuộc đời cũng y như người kiểm soát không lưu vậy. Người ấy cho rằng chàng phi công đã hiểu mọi lời giáo huấn của tập cẩm nang hướng dẫn bay, vì người ấy chỉ căn cứ vào đó mà hướng dẫn.
Ðó cũng y hệt như việc Thánh Linh làm. Ngài có thể hướng dẫn chúng ta, nếu chúng ta hiểu biết Lời Thánh Kinh, và nếu chúng ta quyết tâm muốn đi theo ý muốn của Thiên Chúa.
***
Lạy Chúa Thánh Thần,
xin ban sức sống cho chúng con.
Xin cho cuộc đời kitô hữu của chúng con
đừng rơi vào sự đơn điệu nghèo nàn,
vào những lối mòn quen thuộc,
nhưng xin canh tân
và tái tạo chúng con mỗi ngày.
Xin nuôi chúng con bằng những thức ăn mới,
cho chúng con khám phá ra
những chiều sâu khôn dò của Ðức Kitô
và ý nghĩa thâm thúy của Tin Mừng.
Lạy Chúa Thánh Thần là Ðấng ban sự sống,
thế giới hôm nay luôn bị đe dọa
bởi bạo lực, khủng bố, chiến tranh ;
mạng sống con người bị coi rẻ.
Xin cho chúng con biết say mê sự sống,
và gieo vãi sự sống khắp nơi.
Ước gì Chúa ban cho nhân loại
một lễ Hiện Xuống mới
để con người có thể hiểu nhau hơn
và đón nhận nhau trong yêu thương
Amen
~
|
CHA FELIPE GÓMEZ, S.J. – NGƯỜI CHIẾN SĨ THẦM LẶNG TRONG CHÚA
Không ai chọn nơi mình sinh ra, nhưng có những người dám chọn nơi để gắn bó cả cuộc đời.
Cha Felipe Gómez Gonzalo, SJ hay như nhiều người Việt quen gọi là cha Ngô Minh, không sinh ở Việt Nam, nhưng ngài đã sống như thể được sinh ra để phục vụ mảnh đất này.
Cha Felipe Gómez sinh tại Tây Ban Nha vào năm 1935, vào Dòng Tên năm 1953, giữa những năm hậu chiến đầy biến động. Nhưng không phải châu Âu mời gọi trái tim ngài. Không phải giảng đường, cũng không phải những vinh quang học thuật. Nhưng đó lại là một đất nước nhỏ tại vùng trung Đông Nam Á, nơi người ta còn đang học cách cầu nguyện bằng tiếng mẹ đẻ, với phong trào bình dân học vụ thời ấy. Và đó mới chính là nơi mà Thiên Chúa kêu gọi và mời cha đến.
Năm
1960, cha đặt chân đến Việt Nam. Không ai biết cha sẽ ở lại bao lâu, cũng không ai biết ngài sẽ âm thầm gieo những hạt giống gì. Ngài bắt đầu bằng việc học tiếng Việt, rồi dạy tiếng Latinh, tiếng Hy Lạp cho lớp tập sinh đầu tiên của Dòng Tên Việt Nam. Từng
chữ cái, từng dấu sắc huyền ngã nặng, ngài kiên nhẫn lượm lặt như thể đang học chính ngôn ngữ của đức tin tại một vùng đất mới.
Ngày 29 tháng 4 năm 1966, tại Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, cha được truyền chức linh mục. Từ đó, ơn gọi của ngài không chỉ là tu sĩ, mà là một linh mục truyền giáo, trao truyền Chúa Ki-tô nơi các thừa tác vụ bí tích.
Ngài là người góp phần dịch các văn kiện Công đồng Vaticanô II sang tiếng Việt, một công việc âm thầm nhưng mang chiều sâu thần học và ảnh hưởng lâu dài đến đời sống Giáo hội tại Việt Nam. Những năm làm bề trên Học viện Dòng Tên, rồi Khoa trưởng Phân khoa Thần học tại Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X Đà Lạt (1971–1975), cha đã hiện diện như là người thầy, người bạn, người chứng nhân trong những chuyển giao của thế hệ, của thời cuộc như một ngọn đèn không rực sáng, không ồn ào, nhưng bừng cháy lặng lẽ và liên lỉ.
Từ năm 1971 cho đến khi qua đời, cha vẫn tiếp tục đọc, viết, dạy, nghe và yêu mến Giáo hội Việt Nam bằng tiếng Việt. Cha đã xuất bản nhiều tác phẩm thần học bằng tiếng Việt: từ Chúa Ba Ngôi đến Kitô học, từ Truyền Giáo học đến Thánh Mẫu Học, rồi đến những tác phẩm về Kinh Tin kính, về Chúa Thánh Thần trong Thần học và Linh đạo. Ngôn ngữ cha chọn trình bày chính là ngôn ngữ của người bản địa để nói với người bản địa, vừa cố gắng giữ được những triết lý và học thuyết cao siêu, vừa có thể diễn giải để nhiều người có thể hiểu được.
Khi nhìn lại cuộc đời và ơn gọi của mình nhân dịp kịp niệm 50 năm linh mục, ngài từng nói: “Ơn gọi của tôi không chỉ là đi tu. Mà là đi truyền giáo.”
Ban đầu, cha xin đi truyền giáo tại châu Mỹ và Trung Hoa, nhưng Bề trên không đồng ý. Và cuối cùng, cha đến Việt Nam, không theo tính toán và dự định của mình, nhưng theo điều mà cha gọi là “sự quan phòng dịu dàng của Thiên Chúa.” Cha nói:
“Chúa luôn có cách của Người. Nhìn lại cuộc đời, tôi chỉ có thể thốt lên lời cảm tạ.”
Với những ai hỏi cha làm sao để truyền giáo, cha trả lời bằng sự đơn sơ của người từng sống trọn đời giữa những người chưa biết Chúa:
“Đừng giảng giáo lý. Hãy kể cho họ nghe niềm hy vọng của bạn.”
“Hãy để Lời Chúa tự lên tiếng. Còn chúng ta, cứ làm phần của mình, phần còn lại… để Chúa lo.”
Có những người truyền giáo bằng tài giảng thuyết của mình, cũng có những người truyền giáo bằng cả một đời sống trung tín và kiên cường trong những điều nhỏ bé. Nơi cha Gómez, người ta tìm thấy một nhà giảng thuyết và một vị tông đồ trung tin, một người tìm Chúa nơi một đất nước không phải của mình, nhưng cuối cùng lại trở thành quê hương của tâm hồn mình.
Cha Felipe Gómez Gonzalo, S.J. thực sự là một nhà truyền giáo Tây Ban Nha với một trái tim Việt Nam, người kể về Chúa cho người Việt Nam. Giữa thời đại mà người ta dễ mỏi mệt với những lời mời gọi “ra đi,” đời sống của cha nhắc nhở chúng con rằng ra đi không có nghĩa là bỏ lại, nhưng là quyết sống trọn vẹn ở một nơi không quen thuộc, cho một dân tộc không phải ruột thịt, và bằng một tình yêu không hề ép buộc.
Nguyện xin Chúa là Đấng ngài từng hết lòng yêu mến và phục vụ, đón nhận ngài vào nơi bình an vĩnh cửu. Và xin tiếp tục gửi đến cho Giáo Hội chúng con những chứng nhân của các nhà truyền giáo bằng tình yêu, sự trung tín, niềm vui và hy vọng. Xin cho chúng con cũng học cách sẵn sàng ra đi, học ngôn ngữ mới, yêu những con người mới, và trao dâng cả cuộc đời như một chứng tá sống động cho Tin Mừng.
Trần Đỉnh, S.J.
THẦN
LƯƠNG
Vào năm 1263, tại nhà thờ thánh Catherine, thành Bolsène nước Ý, có một linh mục trong khi dâng lễ, sau khi đọc lời truyền phép đã nghi ngờ về bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa. Xảy ra là Máu Thánh chảy ướt khăn thánh và khăn bàn thờ. Đức Giáo Hoàng nghe tin và đã rước khăn thánh về để tạm tại nhà thờ Orviette. Sau đó, xây nhà thờ để thờ kính Máu Chúa nơi Khăn Thánh này. Ngày 8 tháng 9, 1264, Đức Giáo Hoàng Urbanô IV (1262-1268) đã ban hành tự sắc Transiturus, lập lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô và cử hành sau tuần 8 ngày của lễ Chúa Thánh Thần. Thánh Tôma Aquinô đã sáng tác bài Pange Lingua và Adoro Te để tôn kính Mình Máu Thánh Chúa.
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ muôn loài và quan phòng mọi sự một cách lạ lùng. Mọi thụ tạo trong hoàn vũ đều thay đổi mỗi giây phút. Các loài có sự sống từ thực vật, động vật đến sinh vật đều theo một tiến trình phát triển, có sinh và có tử. Trong mọi loài Chúa đã dựng nên, được phát triển và nẩy nở theo thời gian năm tháng tùy theo mỗi loại. Nơi mọi loài có sự sống, đều phải hấp thụ dưỡng chất qua môi trường chung quanh để sinh tồn. Có nghĩa mọi loài hiện hữu cần có ăn uống, hấp thụ, tiêu hóa, đào thải, phát triển, già nua và tiêu diệt. Ăn uống là nhu cầu cần thiết để sống và sinh tồn. Ngày xưa dân Do-thái lữ hành trong sa mạc trên đường về miền Đất Hứa, Thiên Chúa đã nuôi dân bằng Manna, thịt chim cút và nước nguồn. Chúa đã nuôi dân suốt thời gian: Trong hoang địa, Người đã nuôi các ngươi bằng Manna mà cha ông các ngươi chưa từng biết tới (Đnl 8, 16a). Manna lương thực nuôi dưỡng hằng ngày là hình ảnh của bánh trường sinh.
Khi ra rao giảng tin mừng, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Cả bốn phúc âm đều kể lại sự kiện biến hóa năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ. Chúa Giêsu đã cầm bánh và cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn và bẻ ra trao cho các tông đồ và các tông đồ trao cho hơn năm ngàn người ăn no nê và còn dư thừa. Chúa rộng ban một cách dồi dào dư giả. Chúa Giêsu nhận biết các nhu cầu cả tâm linh lẫn thể xác của những người đang đi theo Chúa. Chúa Giêsu đã dậy dỗ họ và đã nuôi dưỡng họ. Nhưng chúng ta biết Chúa đến trần gian không nhằm đáp ứng mọi nhu cầu đòi hỏi về thân xác của con người. Chúa làm phép lạ để minh chứng về sứ mệnh cứu độ của Chúa và để chuẩn bị tinh thần họ đón nhận của ăn cao quí hơn. Đó chính là của ăn nuôi hồn và là thần lương tinh tuyền. Chúa muốn dùng chính thân mình Ngài làm của ăn ban sự sống đời đời.
Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể trong bữa tiệc ly, trước khi Ngài chịu chết. Như đã hứa, Chúa Giêsu đã chọn bánh miến và rượu nho làm của ăn nuôi hồn. Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể: Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ và nói: Tất cả các con hãy nhận lấy mà ăn vì này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con. Rồi Ngài cầm lấy chén rượu, tạ ơn, dâng lời chúc tụng, trao cho các môn đệ và nói: Tất cả các con hãy nhận lấy mà uống, vì này là chén máu Thầy, máu giao ước mới và vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được ơn tha tội. Và truyền: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Khi Chúa nói: Đây là Mình Thầy và đây là Máu Thầy, thì bản thể của bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa. Chúng ta hiểu Chúa Giêsu nói: Đây là Mình Thầy, chứ không phải là dấu chỉ của Mình Thầy.
Chúng ta có thể nhận biết hình dáng bên ngoài của bánh và rượu như mầu sắc, mùi vị, hình thù và kích cỡ. Trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta không thể nhìn thấy Chúa Kitô với con mắt trần. Chúng ta chỉ có thể nhìn với con mắt đức tin. Chúng ta tin rằng Chúa Kitô hiện diện trọn vẹn trong hình bánh rượu, bởi vì Chúa đã sống lại và không còn chết nữa (Rm 6, 9). Với quyền năng vô biên, Chúa đã biến đổi bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa. Chúng ta học biết chính Chúa đã tạo dựng vũ trụ muôn loài từ hư vô. Chúa hóa bánh nuôi năm ngàn người. Chúa biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana. Chúa cho kẻ chết sống lại. Chúa đã làm rất nhiều phép lạ để chứng minh quyền năng vô biên. Bí tích Thánh Thể là sự lạ vượt trên tầm trí hiểu của con người. Đây là mầu nhiệm của đức tin.
Chúng ta có thực sự tin Chúa Giêsu ngự thật trong Bí tích Thánh Thể không? Chúng ta có tin bánh và rượu thực sự trở nên Mình và Máu Thánh Chúa Kitô sau khi linh mục đọc công thức truyền phép trong thánh lễ không? Trong cuộc thăm dò ý kiến (Gallup poll) mới đây về thái độ của một số người Công giáo về Bí tích Thánh Thể. Kết qủa làm cho nhiều người Công giáo bị lo lắng xôn sao về một trong những niềm tin căn bản nhất của Giáo Hội. Nói rằng chỉ có 30 phần trăm những người được hỏi ý kiến, tin là họ đã lãnh nhận Mình và Máu Thánh, linh hồn và thần tính của Chúa Giêsu Kitô dưới hình bánh và rượu trong khi rước lễ.
Trải qua truyền thống của hai ngàn năm, lời Kinh Thánh và giáo huấn của Giáo Hội luôn dậy rằng Bí tích Thánh Thể chính là Mình và Máu của Giêsu Kitô, không còn là bánh và rượu bình thường. Phúc âm thánh Gioan chương 6 đã nêu rõ: Bấy giờ, Chúa Giêsu nói với họ: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Người, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi (Ga 6, 53). Chúa Giêsu nhấn mạnh về Thịt và Máu, chứ không phải chỉ là biểu tượng. Vì có một số môn đệ nghe lời Chúa nói về ăn thịt và uống máu Ngài, họ đã không thể chấp nhận và đã bỏ đi. Chúa Giêsu không kêu gọi các ông trở lại để giải thích rằng Ngài chỉ có ý nói một cách biểu trưng. Chúa Giêsu xác tín lời thật: Ai ăn thịt và uống Máu Ta, thì có sự sống đời đời và Ta, ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết (Ga 6, 54).
Thời kỳ Giáo Hội sơ khai đã khắc cốt ghi tâm những lời truyền này một cách rất cẩn thận. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu thành Corintô đã làm rất sáng tỏ: Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa (1Cor 11, 27). Phaolô đã tin nhận bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô thực sự. Giáo Hội luôn luôn dạy rằng qua lời truyền phép của linh mục trong Kinh Nguyện Thánh Thể, bánh và rượu đã được biến đổi bản thể. Mặc dầu hình dạng bề ngoài vẫn là bánh và rượu, nhưng bởi quyền năng của Chúa, bánh rượu đã trở nên Mình và Máu Thánh Chúa. Làm sao chúng ta có thể hiểu biết điều này? Đòi hỏi niềm tin. Sau khi truyền phép, linh mục nâng Mình Máu Chúa và tuyên xưng: Đây là mầu nhiệm đức tin. Là mầu nhiệm, giống như tình yêu, chúng ta không bao giờ hiểu thấu hoàn toàn. Tất cả mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thần tính của Chúa Giêsu, sự Chết và Sống lại của Chúa Kitô đều là những mầu nhiệm.
Nhận lãnh Bí tích Thánh Thể, chúng được thông hiệp với Chúa và với nhau: Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra chẳng phải là thông hiệp vào Mình Chúa đó sao? (1Cor 10, 16b). Thánh Thể liên kết chúng ta nên một. Thánh Phaolô diễn tả rất rõ: Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm bánh (1Cor 10, 17). Chúa Giêsu đã dùng của ăn cụ thể nuôi thân xác để biến đổi trở thành của ăn nuôi hồn. Chúa hiện diện với đoàn con cái mọi nơi và mọi lúc qua Bí tích Thánh Thể trong Nhà Tạm.
Lạy Chúa, với quyền năng vô biên, Chúa đã nuôi dưỡng chúng con bằng bánh hằng sống. Xin cho chúng con biết chuẩn bị tâm hồn xứng đáng để lãnh nhận của ăn thiêng liêng và hồng phúc này. Xin cho chúng con đáng hưởng phần gia nghiệp Chúa hứa ban: Ai ăn thịt và uống Máu Ta, thì có sự sống đời đời.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
THÁNH THỂ, MỘT ƠN BAN TỘT ĐỈNH CỦA THIÊN CHÚA
Lễ
Mình và Máu Thánh Chúa Kitô mà chúng ta cử hành Chúa nhật hôm nay là một biểu lộ hân hoan đối với sự hiện diện thường hằng của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Lễ này được cử hành theo truyền thống với một cuộc rước Thánh Thể khắp khu vực xung quanh nhà
thờ sau thánh lễ. Kết thúc cuộc rước, Thánh Thể được đưa trở lại Nhà thờ để Chầu. Đó là một việc tôn sùng lớn lao hướng về Chúa Kitô hiện diện trong Bí tích Thánh Thể.
Trong Giáo Hội Sơ Khai, việc tôn thờ Mình và Máu Chúa Kitô chỉ giới hạn trong việc cử hành Thánh Thể và rước lễ, và các Giáo Phụ như Augustinô và Ambrôsiô khuyến khích thái độ thờ lạy trong Thánh Lễ. Tuy nhiên, vào thế kỷ 13, để đền tạ những phạm thánh và bất kính của những người phủ nhận Bí tích Thánh Thể, nhiều phong trào giáo dân ở Bắc Âu đã cổ động lòng sùng kính bí tích này. Họ tổ chức những giờ chầu Thánh Thể, linh mục ban phép lành với Mình Thánh Chúa, kéo chuông nhà thờ khi linh mục thánh hiến bánh và rượu. Tại Liège, Bỉ, nhờ thánh nữ Juliana (1193-1258), một nữ tu khiêm hạ và thánh thiện của dòng Augustinô tại Mont-Cornillon, họ đã xin Đức cha Robert de Thorete, là giám mục địa phương, cử hành một lễ kính Mình Thánh vào ngày thứ năm sau Chúa nhật kính Chúa Ba Ngôi. Mặc dù ban đầu còn do dự, nhưng vào năm 1246, Đức Giám Mục Thorete chấp thuận lời thỉnh cầu cho phép cử hành lễ Mình Máu Chúa Kitô trên toàn giáo phận. Như vậy, Lễ Mình Máu Thánh Chúa được cử hành lần đầu tiên tại Liège, Bỉ, vào năm ấy. Sau này tại Ý, năm 1263, trong nhà thờ thánh Catarina, tại Bolsena, phía bắc thành phố Rôma và phía nam thành phố Orvieto, một linh mục sau khi đọc lời truyền phép đã nghi ngờ về bánh và rượu trở thành Máu và Thịt Chúa Giêsu. Tức thì Máu Thánh chảy đẫm khăn thánh và khăn bàn thờ. Ðức Giáo Hoàng nghe tin này, bèn ra lệnh đem khăn về để tạm tại nhà thờ Orviette. Chính Phép Lạ này khiến Ðức Giáo Hoàng Urbano IV (1262-1268) ban hành Tông sắc Transiturus de hoc mundo, năm 1264, thành lập lễ kính Mình Thánh Chúa Giêsu, như một ngày lễ cho toàn thể Giáo hội Latinh. Trong bức Tông Sắc của mình, Đức Urbano IV đã viết rằng: “Để củng cố và đề cao Đức Tin chân thật, sau khi cân nhắc cẩn thận, Ta truyền lệnh rằng, ngoài những cuộc tưởng nhớ hằng ngày mà Giáo hội thể hiện đối với Bí Tích rất thánh này, mỗi năm sẽ còn có một Đại Lễ đặc biệt nữa được cử hành vào một ngày nhất định, và cụ thể là vào ngày thứ Năm sau tuần Bát Nhật kính Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Trong ngày đó, dân thánh thiện sẽ sốt sắng và mau chóng tập trung lại trong các ngôi Thánh Đường của chúng ta, và tại đó, các bài Thánh Ca sẽ được vang lên bởi các Giáo sĩ và các Giáo dân với trọn niềm vui thánh thiện.” [1] Khi Đức Giáo Hoàng Piô V (1504-1572) sửa đổi Lịch Rôma chung, Lễ Mình Máu Thánh Chúa – Corpus Christi – được ngài giữ lại cùng với Lễ Chúa Ba Ngôi.
Ðức Giáo Hoàng Urbano IV giao cho Thánh Tôma Aquinô, đang là nhà thần học của Giáo hoàng, soạn thảo những bản văn phụng vụ cho ngày lễ trọng này. Thánh Tôma Aquinô đã sáng tác một bài thánh ca dành cho Kinh Chiều của ngày lễ này, Pange Lingua, cũng được hát vào Thứ Năm Tuần Thánh trong cuộc rước Mình Thánh Chúa đến bàn thờ tạm. Hai câu cuối của Pange Lingua [2] trở thành bài thánh ca Tantum Ergo, được sử dụng cho các Giờ Chầu Mình Thánh Chúa.
Mặc dù Thứ Năm Tuần Thánh cũng được coi là Lễ Mình và Máu Chúa Kitô, nhưng ngày đó dành để nhớ đến việc Chúa Giêsu thiết lập Chức Linh mục: “Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22: 19) và giới răn yêu thương qua việc rửa chân phục vụ nhau: “Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 3: 13-15).
Lễ Mình Máu Thánh Chúa được thiết lập là để dành ra một ngày lễ chỉ tập trung vào Bí tích Thánh Thể: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6: 51).
Khi chúng ta quy tụ trong Thánh Lễ, chúng ta biết rằng với tư cách là những người đã được rửa tội, chúng ta tạo thành cộng đoàn Thánh Thể, cộng đoàn này với việc chủ sự của linh mục, sẽ tưởng niệm Mầu Nhiệm Vượt Qua – cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh – của Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta hiệp dâng lễ vật của chúng ta với lễ vật của linh mục, Đấng đại diện cho Chúa Kitô, để lễ vật bánh và rượu được biến đổi thành Mình và Máu Chúa Kitô, mà chúng ta lãnh nhận khi Rước lễ, để chúng ta có được sự sống thần linh muôn đời của chính Chúa Kitô: “Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6: 58).
Sự sống này bắt nguồn từ tâm điểm của Thánh Lễ: hiệp thông với Chúa Kitô trong Bí Tích Thánh Thể: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6: 56). Thánh lễ – cuộc cử hành Bí Tích Thánh Thể – là sự tái hiện hành động của Chúa Giêsu vào đêm trước khi Ngài chịu chết. Trong Bữa Tiệc Ly: “Ngài cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy.” Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Ngài cũng làm như vậy và nói: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22: 19-20).
Trong những lời nói và hành động đó, trong giây phút trao hiến thiêng liêng đó, Chúa Giêsu đã hình dung trước hành động cao cả nhất của Ngài là hiến thân trên Thập giá. Hội thánh tin tưởng và lặp lại hành động thánh thiêng đó để tuân theo mệnh lệnh của Ngài mỗi khi chúng ta tập trung quanh bàn thờ, kết hợp lại với nhau, để cùng nhau đón nhận Bánh được bẻ ra và Chén được chia sẻ, chính là Thân Mình bị tan nát và Máu bị đổ ra của Chúa Kitô, để đem lại sự sống đích thực đời đời cho những ai tin vào sự hiện diện của Ngài trong Giáo hội và trong Bí tích Thánh Thể: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống” (Ga 6: 53-55).
Việc nâng tâm hồn chúng ta lên Thiên Chúa chắc chắn là một yếu tố quan trọng trong sự thờ phượng của chúng ta. Nhưng việc thờ phượng Thiên Chúa mà chúng ta dâng lên qua bí tích thánh thiêng này không chỉ đơn thuần là việc của riêng con người. Chính việc Chúa Giêsu biến đổi bánh, là “hoa mầu ruộng đất,” và rượu là “sản phẩm từ cây nho,” mà chúng ta được mời gọi tham dự vào bằng việc dâng “công lao của con người,” trở thành Mình và Máu của Ngài, mới làm cho việc thờ phượng của chúng ta trở nên việc thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực: là sự tự hiến của Chúa Giêsu Kitô trên Thập giá qua lời tuyên bố “Cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2: 19) báo trước về mầu nhiệm thập giá, về cái chết và sự phục sinh của Ngài. Giờ đây con người gặp gỡ Thiên Chúa không cần phải qua trung gian nào khác, kể cả Đền thờ và Lề luật, nhưng qua Chúa Kitô. Bánh và rượu được cộng đoàn dâng lên, tượng trưng cho lao động, cuộc sống với tất cả những khiếm khuyết của chúng ta, và chúng ta liên kết chúng với sự tự hiến của Chúa Kitô cho Chúa Cha để trở nên hy tế tột đỉnh: hy tế Thánh Thể. Nhờ đó, chúng ta được biến đổi và trở nên điều mà thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ nhất: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Chúa Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Ngài sao?” (1Cr 10: 16).
Một trong những cảnh gây xúc động nhất trong Tin Mừng của Thánh Gioan là cảnh Chúa Giêsu Biến Hình trên Núi Tabor. Các môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn níu giữ giây phút chiêm niệm đó. “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Lc 9: 33). Nhưng giống như mọi khoảnh khắc xuất thần, thời gian trôi qua. Chúng ta phải trở về với những điều bình thường của cuộc sống.
Lễ Mình Máu Thánh Chúa là một cơ hội đặc biệt để chúng ta không chỉ chứng kiến mà còn tham dự vào sự biến hình của Chúa Giêsu khi chúng ta chiêm ngắm sự hiện diện luôn mãi của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Nhưng giây phút thiêng liêng này không thể kéo dài mãi được. Bởi vì chúng ta phải quay trở lại sự phức tạp của cuộc sống hiện tại. Nhiệm vụ của chúng ta là biến đổi thế giới mà chúng ta đang sống, như những lời của Thánh Irênê, tiến sĩ Hội Thánh: “Gloria Dei est vivens homo – Vinh quang của Thiên Chúa là con người sống.”
Được nuôi dưỡng bằng Lương Thực từ Thiên Đàng này, chúng ta nhờ ân sủng của Thiên Chúa qua ân huệ của Chúa Thánh Thần, được trang bị và tăng thêm sức mạnh để tiếp tục sứ mệnh của Chúa Giêsu Kitô trong các khu phố, nơi làm việc, bệnh viện, trường học và các khu vực khác trong cộng đồng của chúng ta. Đây là ơn kêu gọi của chính chúng ta – trở thành bánh bẻ ra cho người khác, như Thân Mình Chúa Kitô tự hiến cho tất cả mọi người mọi nơi.
Vào ngày lễ trọng Mình Máu Thánh Chúa này, một lần nữa chúng ta hãy nhận ra và quý trọng hơn nữa đặc ân được tham dự Bí tích Thánh Thể và tự do lãnh nhận món quà Mình và Máu Chúa Kitô để chúng ta luôn nghiệm được sự hiện diện đồng hành của Chúa Giêsu trên hành trình cuộc sống trần thế này: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã trối lại cho chúng con bí tích Mình và Máu Thánh Chúa, để chúng con đời đời tưởng nhớ Chúa đã chịu khổ hình và sống lại vinh quang. Xin cho chúng con biết một niềm sùng kính mến yêu bí tích kỳ diệu này để luôn được nghiệm thấy ơn Chúa cứu chuộc chúng con.” [3]
Phêrô Phạm Văn Trung
MỘT LỜI CẢNH TỈNH CẦN THIẾT
Một tu sĩ dòng Biển Đức chia sẻ câu chuyện này với tôi. Trong những năm đầu đời tu, tu sĩ bị phẫn uất vì cần bất cứ gì cũng phải xin phép Đan viện phụ. “Tôi nghĩ làm vậy thật ngốc. Một người trưởng thành như tôi, muốn một cái áo mới cũng phải xin phép bề trên. Tôi thấy mình như trẻ con vậy.”
Nhưng
khi lớn thêm vài tuổi, cái nhìn của người tu sĩ khác đi. “Tôi không chắc lắm về mọi lý do, dù tôi chắc chắn chuyện này có liên quan đến ân sủng. Nhưng đến một ngày, tôi thấy ‘chuyện cái gì cũng phải xin’ có một khôn ngoan sâu sắc. Chúng ta chẳng sở hữu gì
cả, chẳng có gì mặc định là của chúng ta cả. Tất cả đều là ơn ban. Nên về mặt lý thuyết, phải xin tất cả mọi thứ, chứ không lấy như thể chúng ta có quyền. Chúng ta cần biết ơn Thiên Chúa và vũ trụ vì mọi sự đã được ban cho chúng ta. Bây giờ khi tôi cần
một cái gì đó cần xin phép, tôi không còn cảm thấy mình là con nít. Thay vào đó, tôi cảm thấy mình hòa hợp thích đáng hơn với cách thức điều hành mọi sự trong vũ trụ theo ơn ban mà trong đó không một ai có quyền tối hậu trên cái gì.”
Điều mà tu sĩ này hiểu ra chính là nguyên tắc nền tảng cho mọi linh đạo, mọi luân lý, và mỗi một điều răn, cụ thể là tất cả mọi sự đến với chúng ta như một tặng vật, chứ chẳng có gì là của chúng ta. Chúng ta nên biết ơn Thiên Chúa và vũ trụ vì cho chúng ta những gì chúng ta có, và chúng ta cẩn thận đừng đòi thêm như thể mình có quyền.
Nhưng điều này rất trái ngược với cái tôi bản năng và văn hóa của chúng ta. Trong cả hai điều này có những tiếng nói mạnh mẽ bảo chúng ta nếu không thể lấy được điều mình muốn thì mình là kẻ yếu đuối, yếu đuối theo cả hai nghĩa. Thứ nhất là tính cách yếu đuối, quá hèn nhát không dám giành lấy cuộc đời. Thứ hai, là bị sự dè dặt của tôn giáo và luân lý làm cho yếu đuối, không thể giành lấy một cách thích đáng và sống cho thật trọn vẹn. Những tiếng nói này bảo chúng ta phải lớn lên, vì trong chúng ta có quá nhiều thứ sợ hãi và ấu trĩ, vì chúng ta là đứa trẻ bị những thế lực mê tín giam giữ.
Chính bởi những tiếng nói như vậy mà ngày nay, trong một văn hóa tự nhận là Kitô hữu và luân lý, những nhân vật chính trị và xã hội lại hoàn toàn thật lòng tin, cho rằng sự cảm thông là sự yếu đuối của con người.
Chúng ta cần một lời cảnh tỉnh quan trọng.
Tiếng của Chúa Giêsu là phản đề hoàn toàn đối với những tiếng nói này. Cảm thông là nhân đức gần như tối hậu của con người, là phản đề của sự yếu đuối. Chúa Giêsu nhìn vào những gì là dứt khoát, hùng hổ và tích lũy trong xã hội chúng ta, cho dù chúng được ngưỡng mộ đến như thế nào, Ngài cũng sẽ nói rõ rằng đó không phải là ý nghĩa của việc đến bàn tiệc ở tâm điểm vương quốc Thiên Chúa. Chúa Giêsu sẽ không có chung sự ngưỡng mộ của chúng ta dành cho những người giàu có và nổi tiếng vốn quá thường xuyên giành lấy, như thể họ có quyền, tài sản và địa vị quá mức của mình. Khi nói rằng người giàu vào nước trời còn khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim, có lẽ Chúa Giêsu sẽ làm rõ hơn khi nói thêm: “Dĩ nhiên trừ khi người giàu giống như trẻ con, xin phép vũ trụ, cộng đoàn và Thiên Chúa khi muốn một chiếc áo mới!”
Khi tôi ở nhà tập, linh mục phụ trách tập viện đã cố gây cho chúng tôi ấn tượng về ý nghĩa của sự khó nghèo đời tu, ngài bảo chúng tôi viết mấy chữ la-tinh: ad usum, để bạn dùng trong mỗi quyển sách được phát. Dù quyển sách này được giao cho chúng tôi dùng riêng, nhưng chúng tôi không sở hữu nó. Nó chỉ được để cho chúng tôi dùng, quyền sở hữu thì ở người nào đó khác. Rồi chúng tôi được dạy, điều này cũng đúng với bất kỳ vật gì được giao cho chúng tôi dùng riêng, từ bàn chải đánh răng cho đến chiếc áo mặc trên người. Chúng không thật sự là của chúng tôi, mà chỉ đơn thuần được giao cho chúng tôi dùng.
Một tập sinh thời đó cùng tôi, sau này đã rời dòng và bây giờ là bác sĩ, anh vẫn là bạn thân của tôi, anh chia sẻ với tôi, dù bây giờ là bác sĩ, anh vẫn viết mấy chữ ad usum trong mọi quyển sách của anh. Lý luận của anh: “Tôi không ở dòng tu. Tôi không có lời khấn khó nghèo, nhưng tôi thấy khi ở thế giới này, nguyên tắc linh mục dạy chúng tôi thật xác đáng không khác gì khi ở tập viện. Chúng ta chẳng sở hữu gì hết. Những quyển sách này không hẳn là của tôi. Chúng được giao cho tôi, tạm thời, để tôi dùng. Chẳng có gì hoàn toàn thuộc về bất kỳ ai. Và tốt nhất là đừng bao giờ quên điều đó.”
Bất kể chúng ta giàu có, uy lực và trưởng thành đến thế nào, thì trong chuyện xin phép để mua một chiếc áo mới luôn có một điều gì đó thật lành mạnh. Nó giữ chúng ta hòa hợp với sự thật rằng vũ trụ thuộc về tất cả mọi người, và tối hậu là thuộc về Thiên Chúa. Mọi thứ đến với chúng ta đều là tặng vật, cho nên chúng ta đừng bao giờ mặc định xem cái gì là của mình, mà hãy mặc định xem là đã được ban cho!
Rev. Ron Rolheiser, OMI
TÂM BÃO
Trong năm 1980, một tờ báo phát hành trên toàn quốc có đăng một câu chuyện khác thường. Một người kia ra xe của ông đang đậu trước một trung tâm thương mại lớn. Ngay trên ghế ngồi, có một mẩu giấy viết:
“Thưa ông/bà;
Tôi đã định ăn cắp chiếc xe này cho đến khi tôi chợt nhìn thấy hàng chữ 'Peace-Be-to-You' (Bình An-Cho-Bạn) dán trên kính xe. Nó làm tôi do dự và suy nghĩ. Tôi nghĩ nếu tôi ăn cắp chiếc xe này, ông bà chắc chắn sẽ không có bình an, và ngược lại, tôi cũng
không cảm thấy bình an, vì đây là 'chuyến ăn hàng' đầu tiên của tôi.
Do đó, 'bình an cho bạn' và cho tôi. Nhớ lái xe cẩn thận và lần sau đừng quên khóa cửa.”
Ký tên: “Người Muốn Ăn Cắp Xe.”
Câu chuyện khác thường đó làm sáng tỏ mệnh lệnh khác thường của Chúa Giêsu mà Người đã ban cho các môn đệ trong bài phúc âm hôm nay:
“Vào bất cứ nhà nào, trước hết các con hãy nói, 'Bình an cho nhà này.' Nếu một người yêu chuộng bình an sống ở đó, lời chúc bình an của các con sẽ ở với họ; nếu không, hãy lấy lại lời chúc bình an.”
Áp dụng điều này vào câu chuyện nói trên, chúng ta thấy câu “Bình An-Cho-Bạn” đã nới rộng sự bình an của Đức Kitô đến cho người muốn ăn cắp xe. Tên trộm này là người bình an trong tâm hồn, và bình an của Đức Kitô đã ngự trên hắn ta.
Điều đó nêu lên một câu hỏi: Chúng ta muốn nói gì về “bình an của Đức Kitô”? Bình an đó được cấu tạo bởi những gì?
Khi Kinh Thánh dùng chữ bình an, nó có bốn ý nghĩa khác nhau.
Thứ nhất, nó được dùng trong ý nghĩa quân sự – để chỉ về sự thiếu vắng chiến tranh giữa các quốc gia. Do đó, chúng ta nói, “Các quốc gia đang sống bình yên.”
Thứ hai, nó được dùng ý nghĩa cá nhân – để chỉ về một cảm giác hạnh phúc của con người. Do đó, chúng ta nói, “Chúng tôi hòa thuận với nhau.”
Thứ ba, Kinh Thánh dùng chữ bình an trong ý nghĩa tôn giáo – để chỉ về một tương giao đúng đắn giữa Thiên Chúa và con người. Do đó, chúng ta nói, “Chúng ta hài hòa với Thiên Chúa.”
Sau cùng, Kinh Thánh dùng chữ bình an để chỉ một tình trạng mà trong đó mọi người trên mặt đất hài hòa với Thiên Chúa, tha nhân, và với chính mình. Đây là điều chúng ta muốn nói qua chữ “bình an của Đức Kitô.”
Đây cũng là điều Đức Giêsu muốn nói khi Người tuyên bố, “Thầy để lại bình an cho các con; chính bình an của Thầy mà Thầy ban cho các con” (Gioan 14:27). Vị linh mục nhắc lại lời này khi cử hành Thánh Lễ. Sự bình an này thì không gì khác hơn là Nước Thiên Chúa được trị đến trên mặt đất – là vương quốc mà chúng ta thường cầu xin trong kinh Lạy Cha khi chúng ta đọc, “Xin cho Nước Cha trị đến...”
Chính sự bình an này mà Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ hãy đem vào thế gian trong thời ấy. Chính sự bình an này mà Đức Giêsu truyền cho chúng ta đem vào thế gian trong thời đại chúng ta.
Chúng ta sẽ là các khí cụ mà sự bình an của Đức Kitô sẽ được trải rộng đến mọi người trong mọi quốc gia trên thế giới.
Một suy diễn sau đây có thể giúp chúng ta biết ý Chúa muốn chúng ta thi hành điều này như thế nào.
Khi gió của cơn bão nhiệt đới lên quá 75 dặm một giờ, người ta gọi nó là “typhoon” (bão lớn) khi xảy ra ở Thái Bình Dương, và gọi là “hurricane” (cuồng phong) khi xảy ra ở Đại Tây Dương.
Để
có một ý niệm thế nào là trận cuồng phong, hãy tưởng tượng ra đĩa “frisbee” với một lỗ hổng ở giữa.
Bây giờ, thử tưởng tượng đĩa ấy lớn dần cho tới khi nó rộng đến 100 dặm và lỗ hổng ở giữa rộng đến 10 dặm. Và rồi hãy tưởng tượng cái đĩa khổng lồ ấy xoay tròn với tốc độ 100 dặm một giờ. Đó là cơn cuồng phong hay cơn bão.
Phần đáng chú ý của cơn bão là tâm điểm của nó – cái lỗ hổng ở giữa đĩa “frisbee.” Mặc dù gió lốc đang gào thét chung quanh tâm bão với tốc độ 100 dặm một giờ, nhưng ở tâm bão thì lại êm ả. Không có một chút gió lốc.
Nếu bạn đứng trong tâm bão và nhìn lên, bạn sẽ thấy bầu trời xanh và ánh nắng chói chang.
Tâm bão là một hình ảnh tốt để nói lên điều Đức Giêsu nhắn nhủ chúng ta trong Tiệc Thánh Thể, khi chúng ta quy tụ để chia sẻ bữa tiệc ấy vào mỗi Chúa Nhật.
Có biết bao cơn bão chung quanh chúng ta ở trong thế giới này. Con người gào thét và lấy của nhau; các nhóm dấy loạn và cướp bóc; quốc gia này đánh nhau với quốc gia khác.
Tuy nhiên, ở bàn Tiệc Thánh Thể thì lại êm ả. Chúng ta nhìn lên và thấy bầu trời xanh cùng ánh nắng chói chang. Chúng ta đang ở tâm bão. Chúng ta vui hưởng “bình an của Đức Kitô.”
Đức Giêsu ban cho chúng ta sự bình an này không phải để chúng ta ở mãi trong đó, nhưng để bồi dưỡng trong giây lát.
Cũng như tâm bão chỉ kéo dài chừng một giờ đồng hồ khi bão đi qua, bữa Tiệc Thánh Thể cũng chỉ khoảng một giờ.
Đức Giêsu không bao giờ muốn chúng ta ở mãi trong tâm bão. Người muốn chúng ta đi vào cơn bão. Đức Giêsu muốn từ bàn Tiệc Thánh Thể, chúng ta tiến bước để trở nên tâm bão giữa các trận cuồng phong của thế gian.
Người muốn chúng ta chia sẻ sự bình an của Người, mà chúng ta được cảm nghiệm trong Thánh Lễ, với toàn thế giới.
Người muốn chúng ta trở thành các khí cụ mà qua đó sự bình an của Đức Kitô được trải rộng trên toàn thế giới.
Và vì thế Kinh Thánh nói về bốn loại bình an: sự bình yên giữa các quốc gia, sự hòa thuận giữa chúng ta, sự hài hòa với Thiên Chúa, và bình an của Đức Kitô – đó là một tình trạng mà mọi người trên thế giới hài hòa với Thiên Chúa, tha nhân và chính mình.
Sự bình an sau cùng này, bình an của Đức Kitô, thì không gì khác hơn là sự trị đến của Vương Quốc Thiên Chúa.
Chính sự bình an này mà Đức Giêsu đã thể hiện khi làm người.
Chính sự bình an này mà Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ phải đem vào thế gian trong thời đại của họ.
Chính sự bình an này mà Đức Giêsu truyền chúng ta phải đem vào thế gian trong thời đại chúng ta.
Chính sự bình an này mà chúng ta cầu xin Chúa Giêsu tuôn đổ trên chúng ta vào sáng hôm nay:
”Lạy Chúa, xin giúp con trở nên khí cụ bình an của Chúa,
Để nơi thù hận, con đem đến tình yêu;
nơi xúc phạm, con đem đến tinh thần tha thứ;
nơi nghi kỵ, con đem đến niềm tin;
nơi bất hoà, con đem đến sự hoà hợp;
nơi thất vọng, con đem đến hy vọng;
nơi bóng tối, con đem đến sự sáng;
nơi buồn sầu, con đem đến niềm vui.
Lạy Chúa, xin hãy dạy con
tìm an ủi người hơn được người ủi an,
tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết;
tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.
Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ;
chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân;
chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.”
(Thánh Phanxicô Assisi)
Lm. Mark Link, S.J.
THINH LẶNG
Ngày nay người ta sợ thinh lặng. Người ta chạy trốn thinh lặng bằng đủ mọi cách khác nhau vì nghĩ rằng thinh lặng là trống rỗng và vô nghĩa, là phí phạm thời giờ cách vô ích. Phải chăng chúng ta sợ thing lặng vì chúng ta đã quá quen với cuộc sống ồn ào và náo nhiệt của việc làm, của âm nhạc, của phim ảnh và mọi thứ âm thanh. Nhưng thực sự lắm lúc, chúng ta cảm thấy mình cần phải rút lui khỏi chốn nhộn nhịp, ồn ào ấy để tìm nơi cho riêng mình. Nơi đó chỉ có mình đối diện với tâm hồn của mình và chỉ còn mình đối diện với Chúa. Nhất là, nơi đó để thinh lặng vang lên những giá trị liêng liêng mà ta đã bỏ quên hay ngó lơ trong những góc nội tâm của mình.
Vậy thinh lặng là gì? Thinh lặng không phải là không nói gì nhưng thinh lặng thực sự chính là cảm nhận sự lắng đọng trong con người của mình. Thinh lặng không phải là tách xa những thứ ồn ào bên ngoài là đủ nhưng thinh lặng cũng là phải tách xa những khuấy động bên trong nội tâm.
Khi nói đến thinh lặng có rất nhiều trạng thái để nói về sự thinh lặng. Thinh lặng để lắng nghe, thinh lặng để suy nghĩ, thinh lặng để hồi tâm. Thinh lặng mang cho ta rất nhiều lợi ích. Chỉ có trong thinh lặng con người mới trở về với cõi lòng, nghe được tiếng nói của Thiên Chúa trong lương tâm. Có thinh lặng, con người mới đi sâu vào cõi lòng mình. Có thinh lặng, con người mới nhận ra con người tội lỗi bất toàn của mình. Có thinh lặng, con người mới có thể tha thứ cho người khác.
Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta thing lặng như trong câu chuyện “Người đàn bà ngoại tình” (Ga 8, 1-11). Ngài dạy chúng ta học cách thinh lặng để tha thứ. Khi những kinh sư và Pharisiêu dẫn người đàn bà ngoại tình đến trước mặt Chúa Giêsu để thử Người, Chúa Giêsu chỉ viết gì đó trên đất và Ngài cũng giữ thinh lặng trong suốt phiên tòa của Ngài. Cử chỉ thinh lặng ấy chính là sự tha thứ của Ngài. Hay khi bị treo trên thập giá, Chúa Giêsu đã thể hiện sự tha thứ của Ngài bằng thinh lặng. Từ trên thập giá, Ngài mời gọi chúng ta trở về cõi lòng để nhận ra thân phận tội lỗi của chúng ta, để nghe được lời tha thứ của Ngài và nhất là để tha thứ cho người khác.
Chúng ta sao có thể lắng nghe được tiếng Chúa nói lời tha thứ và yêu thương trìu mến với mình nếu ngày sống chỉ toàn là những ồn ào của công việc, học tập; những lắng lo việc này việc kia? Lúc đó, chắc chắn chúng ta không những không nghe thấy tiếng Chúa nói mà còn đang xa dần với tình yêu của Ngài.
Thật vậy, chỉ trong thinh lặng chúng ta mới có thể nghe và chú ý đến lời Chúa đang nói, đang làm hầu giúp chúng ta cảm nhận được lời của Chúa, để Chúa đánh động và bước vào cõi lòng chúng ta. Chỉ khi ấy, chúng ta mới cảm nhận được sự hiện diện của Chúa là khoảng không gian như ở nhà của mình, của sự an toàn, của sự chở che; sự hiện diện ấy như bao bọc và làm chúng ta được Chúa thấm nhập vào thân thể mình. Khi ấy, chúng ta sẽ cảm nhận được: “Thinh lặng là thái độ bên trong để tôi mở lòng ra đón Chúa vào, để tôi được buông bỏ, được thư giãn vì đã có Chúa chở che cũng như được Ngài ôm ấp tôi vào lòng.”
Ngày nay, xã hội ngày càng phát triển, nhiều thiết bị, dịch vụ mang tính công nghệ đang dần lôi kéo con người vào sự náo động, ồn ào. Nó đang trở thành cám dỗ, thách đố to lớn với mỗi chúng ta, nhất là những người sống đời thánh hiến. Nó lôi chúng ta ra khỏi sự thinh lặng, sự liên kết mật thiết với Chúa. Thay vì nói Chúa với tôi và tôi với anh em thì lại nói chiếc điện thoại, chiếc máy tính với tôi và tôi với nó. Thử hỏi: khi ấy, Chúa ở đâu? Anh em tôi ở đâu? Sống trong những thách đố đó, chúng ta cần phải nỗ lực rèn luyện và học sống thinh lặng nhiều hơn. Nhờ đó, chúng ta mới tìm được, nghe thấy, nhận biết Chúa đang nói, đang ở trong chúng ta. Đạt được điều đó, người sống thánh hiến mới có thể thăng tiến bản thân và thực hiện sứ vụ mang Chúa đến cho nhiều người cách hiệu quả hơn. Tâm tình trong lời bài hát “Lặng” của nhạc sĩ của Trần Tuấn cũng cho ta thấy vai trò của việc thinh lặng trong đời sống mỗi người Kitô hữu. Hãy cảm nhận từng lời trong bài hát để ta có thể nhận ra ý Chúa trong cuộc đời ta.
“Lặng để nghe tiếng Chúa, nói trong trong tâm hồn ta
Lặng để nghe Chúa nói, thánh giá ta mang vì ai
Lặng để nghe Chúa khóc, khóc khi ta vô tình quay đi....”
Tập sinh Jos. Quốc Huy
TÂM HỒN CHÚNG TA MẠNH HƠN NHỮNG THƯƠNG TÍCH
Mười
năm trước khi qua đời, cha Henri Nouwen đã chịu một cơn trầm cảm gần như đánh gục ngài. Trong thời gian trị liệu, ngài đã viết một quyển sách rất hùng hồn, Tiếng Nói Bên Trong Của Tình Yêu (The Inner Voice of Love), trong đó, ngài khiêm nhượng và thẳng thắn
chia sẻ những đấu tranh và nỗ lực của mình để vượt qua căn bệnh trầm cảm. Nhiều lúc, ngài cảm thấy không chịu nổi những nỗi đau và ám ảnh của mình đến mức gần như bị nhận chìm, bị sụp đổ, và những lúc như thế, ngài chỉ biết khóc. Dù cho cuối cùng ngài đã
tìm lại được sức mạnh nội tâm và sức bật kiên cường, sẵn sàng trở lại cuộc sống với sinh lực được tân tạo. Khi nói về những gì ngài đã học được trong sự sụp đổ nội tâm và sự phục hồi của mình, ngài đã viết rằng, đến tận cùng, tâm hồn chúng ta mạnh hơn những
vết thương của chúng ta.
Đấy là một lời khẳng định từ một chân lý phải gian khổ mới ngộ ra, nhưng liệu nó có luôn đúng? Tâm hồn chúng ta luôn mạnh hơn những vết thương của chúng ta sao? Chúng ta luôn có những nguồn lực trong mình để thắng vượt những thương tích của mình sao?
Có lúc đúng như thế, như trong trường hợp của cha Nouwen, nhưng có lúc lại không, như chúng ta đã chứng kiến nơi cuộc sống tan vỡ của biết bao nhiêu người. Có lúc dường như thương tích mạnh hơn tâm hồn. Tôi có một ví dụ thấm thía của trường hợp này: Trong bài hát Tôi Mơ Có Một Giấc Mơ (I Dreamed a Dream) của vở nhạc kịch lừng danh Những Người Khốn Khổ, có một dòng đầy đau buồn, bi thương, ám ảnh. Câu chuyện trong vở Những Người Khốn Khổ được dựa trên tiểu thuyết cùng tên của văn hào Pháp Victor Hugo, kể một loạt câu chuyện về cách sự nghèo khổ và áp bức có thể làm tan nát cõi lòng, suy sụp sức sống và hủy hoại cuộc đời của người nghèo đến như thế nào. Fantine, một nhân vật trong truyện, một người mẹ đơn thân, bị phụ tình và quả tim tan nát. Cô cũng phải vật lộn để nuôi đứa con gái, vật lộn với công việc và điều kiện làm việc đã dần dần hủy hoại sức khỏe cô, vật lộn với sự quấy rối tình dục từ ông chủ vốn tích tụ dần và dẫn đến chuyện cô bị đuổi việc một cách bất công. Có lúc, mọi chuyện quá sức chịu đựng, cô đã sụp đổ, và trong lúc hấp hối, cô đã hát một bài từ biệt với những lời nói lên rằng tâm hồn chúng ta không phải lúc nào cũng mạnh hơn những thương tích, đôi khi có những cơn bão không thể chống nổi. Đôi khi tâm hồn không thể chống nổi cơn bão và sụp đổ trước sức nặng của những thương tích.
Ai nói đúng, cha Nouwen hay Fantine? Tôi cho là cả hai đều đúng, dựa trên hoàn cảnh, sức khỏe nội tâm và nguồn lực cảm xúc của mỗi người. Như câu ngạn ngữ: Cái gì không giết được ta sẽ làm ta mạnh hơn!
Đúng là thế, với điều kiện nó không giết ta. Đáng buồn thay, có những lúc nó lại giết ta thật. Tôi cho rằng tất cả những ai đang đọc bài này đều đã từng mắt thấy tai nghe một người chúng ta quen biết hay yêu thương đã bị sụp đổ và chết, hoặc tự sát hoặc sụp đổ theo kiểu khác, do cuộc sống tan nát, con tim tan nát, tâm thần tan nát, do một thương tích mạnh hơn tâm hồn của họ.
Do đó, khi nhìn vào hai khẳng định đối lập nhau này, chúng ta cần thêm một sự thật nữa có thể thêm một sự thật có thể bao hàm cả hai. Ơn Chúa, sự tha thứ, và tình yêu thì mạnh hơn những thương tích, sụp đổ, thất bại và cái dường như là tuyệt vọng của chúng ta.
Có lúc, khi đấu tranh, chúng ta có thể tìm được sức mạnh nội tại chôn sâu dưới những thương tích của mình, và nó cho chúng ta có thể vươn lên, vượt qua những thương tích, trở lại với sự lành mạnh, sức mạnh và tinh thần hăng hái nhiệt tình. Tuy nhiên, có lúc những vết thương của chúng ta làm tê liệt tâm hồn và chúng ta không thể nào đến được với sức mạnh ẩn sâu trong lòng mình. Trong đời này, sự tan nát đó có thể bị cảm nhận như là sự sụp đổ tối hậu, một nỗi đau buồn không thể chữa lành, một tuyệt vọng, một cuộc đời vứt đi. Tuy nhiên, bất kỳ lúc nào hoàn cảnh cay đắng và sự mỏng manh tinh thần ập đến cùng lúc, khi nào tâm hồn chúng ta không còn mạnh hơn những thương tích, chúng ta đều có thể nương ẩn nơi một chân lý sâu sắc ơn, một sự an ủi thâm sâu hơn, cụ thể là sức mạnh nơi trái tim Thiên Chúa. Ơn Chúa, sự tha thứ, và tình yêu thì mạnh hơn những thương tích, sụp đổ, thất bại và cái dường như là tuyệt vọng của chúng ta.
Điều khiến đức tin Kitô khác với các tôn giáo khác (cũng như khác với các phúc âm thịnh vượng) chính là Kitô giáo là một tôn giáo của ơn sủng chứ không phải của nỗ lực tự thân (dù cho nó cũng có tầm quan trọng). Là người tín hữu Kitô, chúng ta không cần phải tự cứu rỗi mình, không cần phải tự lực cứu vớt cuộc sống mình. Thật sự là không một ai cần làm thế. Như thánh Phaolô đã nói rõ trong thư gửi tín hữu Rôma, không một ai trong chúng ta tự cứu vớt cuộc sống mình bằng chính sức mình. Điều này cũng đúng khi muốn thắng vượt những thương tích của mình. Tất cả chúng ta đều có những lúc yếu đuối và sụp đổ. Tuy nhiên, chính lúc này đây, chính khi cơn bão đè bẹp chúng ta, khi chúng ta tìm sức mạnh để đương cự cơn bão nhưng rồi chỉ để thấy rằng cơn bão mạnh hơn chúng ta, chính lúc như thế, chúng ta cần tìm tìm sâu hơn nữa và sẽ thấy được rằng trái tim của Thiên Chúa mạnh hơn những vỡ nát của chúng ta.
Rev. Ron Rolheiser, OMI
THÁNH BÔNAVENTURA, GIÁM MỤC TIẾN SĨ HỘI THÁNH (1221-1274)
Thánh
Bônaventura sinh năm 1221 tại Bagnorea, gần Viterbo, là con ông Giovanni di Fidanza và bà Ritella. Ngài được đặt tên là Giovanni, lúc lên bốn, Ngài lâm trọng bệnh vô phương cứu chữa. Người mẹ vội ẵm Ngài tới gặp thánh Phanxicô khó khăn. Thánh nhân thương
cha mẹ dâng lời cầu nguyện và Giovanni hết bệnh. Sung sướng, người mẹ kêu lên: “O buona Ventura” (Ôi biến cố phúc hậu). Từ đó Giovanni mang tên Bônaventura. Ngài theo học tại dòng anh em hèn mọn.
Tới tuổi 15, Bonaventura theo học tại Paris, trung tâm ánh sáng thời đó. Ngài sống thanh trong đến nỗi Alexandre de Hales nhận xét: Anh giống như Adam chưa hề phạm tội.
Ngài kết thân với sinh viên tài ba khác là Thomas Aquinô. Ngỡ ngàng về sự hiểu biết của bạn mình. Thomas hỏi Bonaventura xem Ngài đã học sách nào? Bonaventura chỉ cây thánh giá trả lời: Đây là nguồn mọi hiểu biết của tôi. Tôi học Chúa Giêsu bị đóng đinh.
Năm 1257, Ngài được chọn làm bề trên cả dòng Phanxicô. Tình thế Ngài phải đối diện rất là phức tạp. Trong dòng đang có sự phân rẽ giữa những người nhiệt tâm muốn tuân giữ nghiêm nhặt luật dòng và những người muốn chước giảm. Nhờ sự thánh thiện và tài khéo léo, Bonaventura đã giải quyết các vấn đề cách ổn thỏa, đến nỗi Ngài đang được gọi là Đấng sáng lập thứ hai của dòng. Trong kỳ đại hội ở Narbonne 1250, Ngài đã ban hành hiến pháp đầu tiên cho dòng. Sau đó Ngài liên tiếp thăm viếng không biết mệt các tỉnh dòng để quan sát việc thực hiện bản quy luật này. Chính Ngài tổ chức việc học hành cho các giáo sĩ trong dòng, làm cho công cuộc tông đồ được phổ biến rộng rãi đến cả những bậc thức giả lẫn giới bình dân. Chính Bonaventura là một nhà dòng giảng thuyết có biệt tài. Ngài đã giảng thuyết từ các tu viện, tới các thành phố ở Âu Châu, trước mặt vua Louis IX, Đức Giáo Hoàng.
Luôn luôn Ngài thu phục được cảm tình của thính giả. Một thầy dòng khiêm tốn tên là Gilles hỏi Ngài: Các cha thông thái, được Chúa ban cho nhiều tài năng. Còn chúng con, chúng con có thể làm gì được?
Bonaventuratrả lời: Nếu Chúa ban cho một người tài năng khác là ơn yêu mến Ngài thế là đủ rồi, và là kho tàng quí báu nhất.
Thầy dòng hỏi tiếp: Một người không biết đọc biết viết có thể yêu mến Thiên Chúa như một nhà thông thái biết mọi sự không?
Thánh nhân trả lời: Chắc chắn rồi, một bà già có thể yêu Chúa hơn cả một nhà tiến sĩ thần học.
Thầy dòng vui vẻ la lớn: Một bà già có thể yêu Chúa hơn cả cha Bonaventura của chúng ta nữa.
Ngài còn tiếp: Biết một chút về Chúa còn hơn là biết mọi sự trong trời đất.
Ngoài những hoạt động bên ngoài ấy. Bonaventura còn lo viết sách để huấn luyện các tu sĩ và những sách về triết học, thần học và thánh kinh. Chúng ta có thể kể đến cuốn “Chú giải luật dòng Phanxicô,” “Hạnh tích thánh Phanxicô” nhất là cuốn “Hành trình của linh hồn hướng về Thiên Chúa.”
Trong nỗ lực xây dựng Hội Thánh, Bonaventura luôn tỏ ra khiêm tốn. Người ta kể rằng: Đức Giáo Hoàng Grêgoriô X truyền cho thánh Thomas và Bonaventura soạn thảo bộ kinh lễ Thánh Thể. Khi hai vị vào yết kiến Đức Giáo Hoàng trình bày công việc, thánh Bonaventura xé nát bản văn của mình.
Cùng với lời khiêm tốn ấy, Bonaventura đã từ chối chức Tổng Giám mục thành York mà Đức Giáo Hoàng Clêment IV đề nghị, lòng khiêm tốn ấy không ngăn cản sự cương quyết và can đảm của Ngài chống lại thuyết sai lầm của thuyết Aristote và Avéoes... Nhưng Đức Giáo Hoàng Grêgoriô X đã quyết định đặt Ngài làm hồng y cai quản giáo phận Albanô và truyền Ngài về Roma ngay. Khi hai sứ thần mang mũ hồng y đến, Ngài còn đang rửa chân. Ngày 28 tháng 5 năm 1273 Ngài nhận chức và là cánh tay đắc lực của Đức Giáo Hoàng. Phần đóng góp của Ngài vào sự hợp nhất Giáo hội Hy lạp và Roma tại công đồng Lyon thật lớn lao.
Nhưng khi công đồng Lyon còn đang nhóm họp thì Bonaventura từ trần ngày 14 tháng 7 năm 1274. Đức Sixtô IV phong Ngài lên bậc hiển thánh năm 1482 và đức Sixtô V đã đặt Ngài làm Tiến sĩ Hội Thánh năm 1858. Người ta gọi Ngài là “Tiến sĩ sốt mến.”
Thánh Bônaventura đầy lòng thánh thiện và khiêm tốn. Với lòng yêu mến Chúa, yêu mến Giáo hội. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mỗi chúng ta cũng biết sống gắn bó với Chúa và Giáo hội bằng tất cả tấm lòng yêu mến chân thành, nhờ lời cầu bầu của thánh nhân.
CẦN NGƯỜI NHƯ MÁCTA CÓ TRÁI TIM MARIA
Tin
Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu thăm nhà hai chị em Mácta và Maria. Hàng ngày gia đình của họ ra sao chúng ta không hay biết, chỉ khi cô chị Mácta rước Chúa Giêsu vào nhà và tất bật làm cơm thiết đãi Chúa, còn cô em thì ngồi bên chân Chúa và nghe
lời Người chúng ta mới có chuyện (x. Lc 10,38-42). Gia đình Mácta và Maria còn có cậu em trai là Ladarô không thấy nói tới.
Chúng ta cùng tưởng tượng cảnh diễn ra trong nhà này: người chị chạy lên chạy xuống, còn người em ra như bị lôi cuốn vào việc chuyện trò với Khách. Một lúc sau, người chị Mácta , chắc cảm thấy mệt nhọc, nên đã lên tiếng nói với vị Khách: “Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình, mà không quan tâm sao sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với?” (Lc 10, 40). Xem ra cô chị Mácta không những bất bình với cô em là Maria mà còn cả với Khách mời nữa. Nhưng Chúa Giêsu nhẹ nhàng đáp, kèm theo lời khen Maria: “Mácta, Mácta, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất” (Lc 10, 41-42). Chính câu nói này của Chúa Giêsu làm nảy sinh những khuynh hướng khác nhau.
Có người cảm thấy tiếc cho Mácta , vì Maria đã bỏ mặc tất cả mọi công việc cho Mácta , trong lúc cô ta vui hưởng cuộc nói chuyện với Chúa Giê-su. Khuynh hướng khác cho rằng, Chúa Giêsu không có ý phê phán thái độ hiếu khách của Mácta khi Người nêu bật hành vi của Maria “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người” (Lc 10, 39). Tuy nhiên, khi phải chọn lựa thì Chúa Giêsu vẫn thích kẻ “nghe” lời Người hơn là loay hoay chuyện cơm nước… Người cũng cho biết đây là “phần tốt nhất.”
Hẳn Chúa Giêsu không làm một cuộc so sánh về hai thái độ: một của Mácta tất bật với việc tiếp đãi Khách, và một của Maria ngồi bên chân Khách để trò chuyện. Trong thực tế, cả hai thái độ này đều cần thiết. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy gẫm về một điều căn bản trong đời sống Kitô hữu: lắng nghe và sống Lời Chúa giữa một thế giới đầy bận rộn và phân tâm.
Hai thái độ sống
Mácta và Maria không đại diện cho điều đúng, điều sai, mà là hai thái độ sống cần được điều chỉnh và quân bình. Mácta yêu mến Chúa, nên lo chuẩn bị chu đáo đồ ăn thức uống, như tổ phụ Ápraham trong bài đọc I (x.St 18, 1-15) đã tiếp đón ba vị khách lạ (mà truyền thống hiểu là hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi) với lòng hiếu khách, tận tâm phục vụ. Tuy nhiên, vấn đề của Mácta là ở chỗ bị cuốn vào những lo toan, đến mức đánh mất sự hiện diện và Lời Hằng Sống là chính Chúa Giêsu ngay trước mặt mình.
Thánh Augustino nói: “Mácta bị Chúa khiển trách không phải vì bà phục vụ, nhưng vì bà quá bận rộn với việc phục vụ.” (Bài giảng 103, 1-2). Còn Maria, người “ngồi bên chân Chúa mà lắng nghe lời Người” (Lc 10, 39), được Chúa khen là đã “chọn phần tốt nhất” (Lc 10, 42).
Trong một thế giới đầy lo toan và công việc như hôm nay, người Kitô hữu dễ trở thành “Mácta ” bận rộn với việc đời, ngay cả trong các công việc đạo đức, nhưng lại thiếu sự gắn bó và tương quan cá vị với Chúa.
“Chỉ có một sự cần mà thôi”
Chúa Giêsu nói với Mácta : “Chỉ có một sự cần mà thôi” là một mạc khải quý giá. Điều cần thiết nhất, chính là lắng nghe và sống Lời Chúa.
Thánh Biển Đức, vị sáng lập đời sống đan tu đã mở đầu Luật Dòng bằng câu: “Nghe đây, hỡi con, lắng nghe lời Thầy dạy, hãy nghiêng tai lòng con và đón nhận.” Lắng nghe Lời Chúa là thái độ của người môn đệ đích thực. Người môn đệ ấy không chỉ nghe bằng tai, mà bằng cả trái tim để Lời trở thành ánh sáng soi đường, như Thánh vịnh viết : “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105).
Quân bình giữa hoạt động và chiêm niệm
Origène viết: “Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu, đó là hình ảnh của linh hồn đang khao khát chân lý thần linh” (Trích bài giảng Tin Mừng Lu-ca). Maria đại diện cho Hội Thánh chiêm niệm, đặt Lời Chúa lên trên mọi hoạt động khác.
Công đồng Vaticanô II cũng nhấn mạnh: “Giáo Hội luôn tôn kính Kinh Thánh như chính Mình Thánh Chúa… Vì trong Sách Thánh, Cha trên trời âu yếm gặp gỡ con cái Ngài và đối thoại với họ” (Trích: Hiến Chế Lời Chúa, số 21). Đời sống đức tin không thể tách rời khỏi việc lắng nghe Lời Chúa, nhất là trong Thánh lễ và đời sống cầu nguyện hằng ngày.
Dẫu Maria được khen là chọn phần tốt nhất, nhưng không vì thế mà chúng ta bỏ bê hành động. Giáo hội cần cả Mácta lẫn Maria, cần người phục vụ cũng như người chiêm niệm. Sự trưởng thành trong đức tin nằm ở sự quân bình: chiêm niệm để phục vụ hiệu quả hơn, và phục vụ để cụ thể hóa tình yêu ta dành cho Chúa.
Giảng trong Thánh lễ ngày 17/7/2026, Đức cố Giáo Hoàng Phanxicô nói: “Chiêm niệm không loại trừ hoạt động, và hoạt động không được làm nghẹt thở đời sống thiêng liêng.” Người Kitô hữu hôm nay được mời gọi trở nên những “Mácta có trái tim Maria”, luôn dấn thân phục vụ nhưng bắt nguồn từ việc lắng nghe Lời Chúa và sống gắn bó mật thiết với Người.
Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho chúng ta biết trở nên những môn đệ khôn ngoan như Maria, nhưng không bỏ quên sự phục vụ như Mácta. Và trong mọi sự, luôn đặt Chúa là trung tâm của đời sống mình.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
LỜI MỜI GỌI ĐẾN VỚI ĐIỀU CAO HƠN
Tội là gì? Không đi lễ ngày Chúa nhật là tội ư? Gian lận thuế là tội? Say xỉn là tội? Nuôi thù hận là tội? Thủ dâm là tội? Không chung thủy trong hôn nhân là tội?
Trong
một thời gian quá dài, các nhà giảng thuyết, các nhà giáo lý, giáo lý viên, hàng giáo phẩm và các thần học gia luân lý đã quá tập trung vào tội lỗi. Quả thật là có tội, nhưng nó không nên là trọng tâm của chúng ta khi muốn hiểu ý nghĩa của việc sống đời sống
người tín hữu Kitô đạo đức. Chúng ta nên nắm bắt từ lời của Chúa Giêsu.
Trong Bài giảng trên núi (Mt 5) Chúa Giêsu giảng, “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.” Về cơ bản, ý Chúa Giêsu là: Thầy không đến để loại bỏ Mười Điều răn, Thầy đến để mời gọi anh em đến với một điều cao hơn.
Tiếc là chúng ta có khuynh hướng nghĩ về đời sống đạo đức theo kiểu giữ Mười Điều răn và tránh tội. Cái mà chúng ta gọi là “thần học luân lý” tập trung vào các vấn đề luân lý, về đúng và sai. Nhưng Chúa Giêsu, thầy dạy luân lý, lại không nói như vậy. Trong Bài giảng trên núi (có lẽ là bộ luật luân lý lớn nhất) chú trọng vào lời mời gọi đến với một điều cao hơn. Bài giảng trên núi giả định chúng ta đã sống những điều căn bản của luân lý là Mười Điều răn rồi, thế nên Bài giảng mời gọi chúng ta đến với một điều gì đó vượt trên những điều căn bản này, cụ thể là trở nên người lớn và giúp thế giới gánh vác sự căng thẳng của nó.
Chúa Giêsu không cho chúng ta một thần học luân lý theo kiểu kinh điển hay phổ biến. Thay vào đó, Ngài mời gọi chúng ta vào một tinh thần môn đệ sâu sắc hơn nữa (vốn là mục tiêu của thần học luân lý, giáo lý học và việc học giáo lý).
Đây là ví dụ của một lời mời nằm ở trung tâm Bài giảng trên núi. Chúa Giêsu mời chúng ta đến với “một nhân đức sâu sắc hơn của kinh sư và Biệt phái.” Chúng ta dễ bỏ lỡ ý chính ở đây, hầu như chúng ta luôn có khuynh hướng cho rằng Chúa Giêsu đang nói đến sự giả hình của kinh sư và Biệt phái. Không phải. Hầu hết kinh sư và Biệt phái là những người tốt, lương thiện thành tâm, thực hành đức hạnh. Với họ, sống đạo đức và ngoan đạo là giữ Mười Điều răn (không sót điều nào) và trở nên người vô cùng công bằng với mọi người, là nên người chính nghĩa.
Vậy họ thiếu điều gì? Nếu tôi là một người giữ hết các Điều răn, công bằng và chính nghĩa khi ứng xử với tha nhân, vậy tôi thiếu gì về mặt luân lý? Tại sao như vậy vẫn chưa đủ?
Câu trả lời của Chúa Giêsu đưa chúng ta vượt xa hơn Mười Điều răn và các yêu cầu về chính nghĩa. Ngài mời gọi chúng ta đến với một điều vượt cao hơn.
Ngài chỉ ra rằng yêu cầu của chính nghĩa vẫn cho phép chúng ta ghét kẻ thù, nguyền rủa ai nguyền rủa chúng ta, và giết người (mắt đền mắt). Ngài mời gọi chúng ta đến với một điều vượt lên trên, cụ thể là yêu thương người ghét ta, chúc phúc cho ai nguyền rủa ta, và tha thứ cho ai làm tổn thương ta. Đây là thực chất của thần học luân lý. Và hãy nhớ, nó đến với chúng ta như lời mời, mời gọi chúng ta luôn đến với điều cao hơn. Nó không bận tâm đến chuyện cái gì là tội và cái gì không. Thay vào đó, nó là lời mời gọi tích cực vẫy gọi chúng ta đến với một điều cao hơn, vượt ngoài những xung động tự nhiên, vượt lên trên một người chỉ giữ các điều răn và tránh tội.
Tôi nhớ có lần nghe bài giảng của Michael Hines quá cố, ông cho chúng ta một hình ảnh về Thiên Chúa luôn mãi mời gọi chúng ta đến với một điều cao hơn: Cứ hình dung một người mẹ đang mời gọi đứa con tập đi. Bà ngồi xổm trên nền trước mặt đứa trẻ, cách một sải tay, những đầu ngón tay của bà chỉ cách đầu ngón tay con mình mấy phân, bà nhẹ nhàng dỗ đứa trẻ mạo hiểm tiến tới một bước, khi đứa trẻ đi bước đó rồi, bà rụt tay lại mấy phân, lại nhẹ nhàng dỗ đứa trẻ mạo hiểm tiến thêm bước nữa. Thế là đứa trẻ đi qua hết phòng.
Đây là hình ảnh chúng ta cần cho tinh thần môn đệ Kitô hữu và thần học luân lý. Bận tâm trên hết của chúng ta không nên là chuyện “đây có phải là tội hay không.” Không đi lễ ngày Chúa nhật là tội ư? Có những suy nghĩ dâm dục là tội? Nuôi thù hận là tội ư?
Thay vào đó, câu hỏi mà chúng ta cần đặt ra cho mình là tôi được mời gọi đến với điều gì? Tôi cần vươn lên đến với điều cao hơn trong chuyện gì? Tôi có yêu thương vượt quá những xung động tự nhiên của mình không? Và cụ thể hơn: Tôi có yêu thương những người ghét tôi không? Tôi có chúc phúc cho người nguyền rủa tôi không? Tôi có tha thứ cho kẻ giết người không?
Thầy không đến để loại bỏ Mười Điều răn, Thầy đến để mời gọi anh em đến với một điều cao hơn – và cứ thế từng bước Ngài đưa chúng ta như đứa trẻ tập đi đi qua hết phòng.
Rev. Ron Rolheiser, OMI
MARIA
MAĐALÊNA, BÀ LÀ AI?
Maria Mađalêna có một ảnh hưởng bền bỉ lâu dài, gợi hứng cho nhiều nghệ sĩ, tội nhân lẫn các thánh và cả những môn đệ của Đức Kitô qua nhiều thời đại. Tiếng tăm này không thể dễ dàng giải thích dựa vào các thông tin về bà trong Kinh Thánh. Điều Tân Ước nói
về bà thật ít ỏi và gây thất vọng, đơn giản chỉ gọi bà là Maria Mađalêna hay Maria thành Magđala, nhưng có một chi tiết nhỏ thật có ý nghĩa và thách đố. Cả bốn Tin Mừng đều khẳng định bà là môn đệ gương mẫu cho mọi thời đại.
Có điều gì đó bí ẩn và hấp dẫn về người phụ nữ này trong các Tin Mừng. Một người phụ nữ mà tên riêng không đi kèm với tên một người đàn ông nào khác ngay trong Tân Ước thì đó là điều thật có ý nghĩa. Khi xếp bà riêng ra thì hoặc bà là một nhân vật ngoại thường
hoặc có vấn đề gì ở đây. Có lẽ chính vì thế mà óc tưởng tượng bình dân đã “điền vào chỗ trống” và gán ghép bà với những phụ nữ khác trong Tân Ước, tạo nên một khối tù mù. Trước khi xem các Tin Mừng nói gì thì chúng ta hãy xem thử những gì mà các Tin Mừng
không hề nói.
Bà không phải là ai
Thỉnh thoảng Maria Mađalêna bị đồng hóa cách sai lầm với người phụ nữ xức dầu thơm lên chân Chúa Giêsu. Sự đồng hóa này lại càng thêm phức tạp bởi vì người ta thường nhầm lẫn câu chuyện xức dầu với một người phụ nữ tội lỗi, một cô điếm. Và góp phần khiến
vấn đề trở nên tệ hại hơn là hình ảnh của Maria Mađalêna và một người phụ nữ bị cáo buộc ngoại tình trong Tin Mừng Thánh Gioan lại nhập nhằng với nhau.
Trong câu chuyện Khổ Nạn, dầu mục đích sử dụng câu chuyện khác nhau, cả bốn Tin Mừng đều nói về một phụ nữ xức dầu thơm chân Chúa Giêsu (Mc 14, 3-9; Mt 26, 6-13), Thánh Marcô và Matthêu đưa trình thuật nói về một phụ nữ vô danh xức dầu cho Chúa Giêsu có ý nói
về cuộc mai táng của Ngài. Lúc ấy Chúa Giêsu đang ở nhà của ông Simon người phung hủi, ở Bêthania gần Giêrusalem. Thánh Gioan cũng thuật lại câu chuyện xức dầu chân Chúa Giêsu không lâu trước cái chết của Ngài, xác định người phụ nữ là Maria thành Bêthania,
bà làm thế để tỏ lòng biết ơn Chúa Giêsu đã làm cho em bà là Lazarô sống lại. Maria là một tên gọi rất thông dụng và có lẽ chính vì thế mà hai bà tên Maria đã bị hòa lẫn vào nhau trong truyền thống Kitô giáo sau đó.
Thánh Luca kể về một phụ nữ vô danh đã xức dầu chân Chúa Giêsu khi Ngài đang ngồi bàn ăn trong khi đang thực hiện sứ vụ (Lc 7, 36-50) chứ không phải lúc cuối đời. Lúc ấy Chúa Giêsu đang dùng bữa tối tại nhà ông Simon người Pharisiêu. Có lẽ Maria Mađalêna
đã bị nhầm lẫn với người phụ nữ này bởi vì Maria Mađalêna lần đầu tiên được gọi đích danh trong câu chuyện tiếp liền ngay sau trình thuật xức dầu của Thánh Luca (Lc 8, 2). Góp phần để tạo thêm nhầm lẫn là người phụ nữ này đôi khi được miêu tả là người tội
lỗi công khai (một cái tên thanh tao để gọi nghề làm điếm), người đã đổ nước mắt vì thống hối và hành động vì lòng hối hận. Thế nhưng người phụ nữ xức dầu chân Chúa Giêsu là một phụ nữ vô danh trong Tin Mừng Thánh Luca, và nếu bà được ghi nhớ chỉ vì “tội
lỗi” của mình hơn là tình yêu đưa dẫn đến hành động xức dầu chân Chúa, thì điều đó vừa trái với ý nghĩa của dụ ngôn mà Chúa Giêsu vừa mới nói đến trong dịp này lại vừa không phải là mục đích của Thánh Luca khi kể lại câu chuyện.
Vấn đề càng thêm phức tạp khi có một vài thủ bản Tin Mừng Thánh Gioan (7, 53 – 8, 11) nói về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình và gán ghép chị này với Maria Mađalêna. Một truyền thống lâu đời trong văn chương và nghệ thuật Kitô giáo đã vẽ nên
một Maria Mađalêna là người tội lỗi ăn năn, sau khi gặp được Chúa Giêsu thì bà đã trải hết phần đời còn lại để khóc than tội lỗi mình. Thế nhưng các Tin Mừng không hề gán ghép Maria Mađalêna với người phụ nữ tội lỗi, hoặc tệ hơn nữa là một cô điếm.
Các Tin Mừng nói gì
Trong các Tin Mừng Matthêu, Marcô và Luca, bà được gọi là Maria Mađalêna hay “Maria Magđala” (xem Mt 27, 56.61; 28, 1; Mc 15, 40.47; 16, 1,9; Lc 8, 2; 24, 10). Thánh Gioan gọi bà là “Maria thành Magđala”, một thành phố vô danh trong Kinh Thánh (xem Ga 19,
25; 20, 1.18). Vài người cho rằng đó là thành phố Magađan (xem Mt 15, 39; Mc 8, 10), một thành phố nằm bên bờ Tây của Biển hồ Galilê, giữa Tiberia và Capharnaum.
Maria thành Magđala được ghép với một địa danh chứ không phải với tên của bất kỳ người đàn ông nào bên cạnh Chúa Giêsu. Trong thế giới Tân Ước, người phụ nữ thường gắn liền với chồng, cha, con trai hoặc anh em của họ. Như vậy, người phụ nữ vô danh đã theo
Chúa Giêsu và hiện diện dưới thập giá đơn giản chỉ được gọi là “bà mẹ của các con trai ông Zêbêđê.” Tên gọi Zêbêđê xuất hiện ở đây không phải vì ông hiện diện dưới chân thập giá cùng với vợ con ông, những người đã theo Chúa Giêsu từ Galilê cho đến
Giêrusalem. Song chính ông được nêu tên chứ không phải bà vợ đầy lòng tin của ông.
Maria thành Nazareth, Maria và Martha thành Bêthania được gắn liền với thành phố quê hương của họ nhưng đồng thời cũng được gắn liền với người đàn ông: Maria với Giuse, Maria và Martha với Lazarô. Còn Maria Mađalêna chính là môn đệ và tông đồ của Chúa Giêsu.
Không có hàng chữ nào nói lên vai trò này của bà trong Tân Ước. Đúng ra, các Tin Mừng chỉ phác họa Chúa Giêsu là người thâu nhận “những người học việc” (“môn đệ”). Sau thời gian học tập với vị Tôn Sư, các môn đệ này được “sai đi” (ý nghĩa của từ “tông đồ”)
để rao giảng và hành động với thẩm quyền của Chúa Giêsu. Từ các Tin Mừng, chúng ta biết rằng các môn đệ được kêu gọi. Chúa Giêsu dạy các môn đệ rằng họ phải làm nhân chứng, tiếp tục sứ mệnh mà Chúa Giêsu đã khởi đầu. Các môn đệ được đòi hỏi phải theo Chúa
Giêsu và kiên trì cho đến chết. Họ đã tin và rao giảng sự phục sinh.
Ơn gọi của Maria
Có vài môn đệ được kêu gọi từ bỏ cuộc sống đang đà thuận lợi. Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan đã “bỏ mọi sự” mà theo Chúa Giêsu (Mc 1, 18). Lêvi (hay Matthêu) là người thu thuế đã lập tức đứng dậy đi theo Chúa Giêsu (Mc 2, 13-14; Mt 9, 9). Những người khác
đã bỏ lại bệnh tật và khiếm khuyết của mình và “ơn gọi” của họ thật sự là một phép lạ đúng nghĩa. Người mù gặp được Chúa Giêsu và được chữa lành. Kể từ đấy ông đã “đi theo Người trên con đường người đi” (xem Mc 10, 52). Tương tự như vậy, Maria Mađalêna
sau khi được trừ “bảy quỷ,” đã đi theo Chúa Giêsu (xem Lc 8, 2; Mc 16, 9). Thánh Luca kê tên bà trong số mấy phụ nữ được trừ quỷ và chữa lành bệnh tật đã đi theo Chúa Giêsu từ Galilê đến Giêrusalem, chăm sóc cho Ngài.
Các chứng nhân làm chứng cho điều họ thấy và nghe. Các môn đệ được kêu gọi làm chứng cho Nước Trời đã đến trong lời nói và hành động của Chúa Giêsu. Họ được trao ban nhiệm vụ (xem Mt 10; Lc 9 - 10) và được sai đi để làm điều Chúa Giêsu đã làm (Lc 10, 1.3.9).
Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải trở nên đất tốt để “khi nghe Lời Chúa với tấm lòng cao thượng và quảng đại, họ nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả” (Lc 8, 15). Lời dạy này phù hợp với những miêu tả về Maria Mađalêna, sau khi được trừ quỷ, đã
kiên trì và trung thành theo Chúa Giêsu cho đến khi Ngài chết trên thập giá, ngoài ra còn lấy nguồn lợi tức của riêng mình để chăm sóc cho Ngài và các môn đệ khác với tình chân thật và lòng quảng đại.
Theo Thánh Marcô, lời dạy cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ trước cuộc Khổ Nạn là “Hãy tỉnh thức!” (Mc 13, 36). Họ đã chứng kiến sự đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu và cuối cùng là sự phục sinh của Ngài. Thế nhưng các tác giả Tin Mừng nhìn nhận rằng
các đấng môn đệ nam nhi đã không thể “tỉnh thức” với Chúa Giêsu dầu chỉ một thời gian ngắn ngủi trong Vườn Cây Dầu. Vậy mà bà Maria Mađalêna và vài phụ nữ khác đã “tỉnh thức” để trông xem cuộc đóng đinh và rồi nán lại để “nhìn xem” xác Ngài được đặt ở đâu.
Thánh Matthêu nói rằng Maria Mađalêna và vài phụ nữ khác đã ra mộ từ sáng sớm ngày Phục Sinh để “trông chừng” ở đấy (xem Mt 27, 55-56.61; 28, 1.8-10). Họ đã “xem thấy” ngôi mộ trống. Cuối cùng, theo ba Tin Mừng Nhất Lãm, những phụ nữ này đã nghe sứ điệp
phục sinh và về thuật lại cho những người khác. Họ đã được “sai đi” làm sứ giả hay tông đồ cho các môn đệ khác.
Chứng nhân và sứ giả
Marcô đã xếp đặt bà Maria Mađalêna và những phụ nữ khác đứng dưới chân thập (Mc 15, 40-41). Sử dụng Tin Mừng Marcô, Thánh Luca đã đặt ngay tâm điểm sứ vụ của Chúa Giêsu đoạn văn nói về những phụ nữ đi theo Ngài từ Galilê cho đến Giêrusalem để nói lên đức tin
và sự kiên trì của họ (Lc 8, 1-3). Còn theo Thánh Luca, tại Bữa Ăn Tối Cuối Cùng, Chúa Giêsu nhắc đến các môn đệ như là những người cùng đứng với Ngài trong cơn thử thách, “một lòng gắn bó với Thầy giữa lúc gian nan” (Lc 22, 28). Maria Mađalêna chắc
chắn là một trong số người đó.
Bất kỳ khi nào được nêu tên (ngoại trừ Ga 19, 25-27), Maria Mađalêna đứng đầu danh sách những phụ nữ đi theo và hầu hạ Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng Thánh Gioan, các phụ nữ này đã rời bỏ tuyến hậu phương để xuất hiện dưới chân thập giá. Chỉ trong Tin Mừng Thánh
Gioan thì nhóm phụ nữ này gồm có cả “thân mẫu Chúa Giêsu,” cùng với chị của thân mẫu Chúa Giêsu là bà Maria vợ ông Clopas, và Maria Magđala” (Ga 19, 25). Được sự ttháp tùng của các phụ nữ này cũng như người Môn đệ Chúa yêu (theo chứng từ của Tin Mừng thứ
tư), “thân mẫu Chúa Giêsu” đến sát cây thập giá đủ gần để nghe Chúa Giêsu trăn trối mình cho người môn đệ ấy chăm sóc. Maria Mađalêna cũng đứng gần đấy, chứng kiến cái chết và lắng nghe Ngài như bà đã từng làm trong suốt cuộc đời mình.
Trái hẳn với các môn đệ nam nhi đã bỏ Chúa Giêsu mà chạy trốn, Maria Mađalêna cùng những người đồng hành phụ nữ không chỉ chứng kiến cái chết của Chúa Giêsu mà còn nán lại để đã xác minh nơi chôn cất. Và các bà đã quay trở lại ngôi mộ để xức dầu thơm xác Ngài
vào lúc sáng sớm sau ngày Sabbath. Sau khi được Chúa Giêsu hiện ra, Tin Mừng Nhất Lãm nói rằng bà Maria Mađalêna đã đi và nói cho các môn đệ khác biết sự việc đã xảy ra thế nhưng họ không tin phụ nữ (Mc 16, 20; Lc 23, 49). Dường như các môn đệ không tin
vì họ xưa nay vốn chẳng tin chuyện phụ nữ.
Trong Tin Mừng Gioan, Maria Magđala đi ra mồ “từ lúc sáng sớm khi trời còn tối.” Thấy tảng đá che cửa mồ đã lăn sang một bên, bà chạy đi báo cho Simon Phêrô và Người môn đệ Chúa yêu (Ga 20, 1-2). Cả ba chạy trở lại ngôi mộ rồi các môn đệ trở về (Ga 20, 9).
Maria vẫn ở lại, khóc lóc (Ga 20, 11). Cuối cùng, Chúa Giêsu hiện ra và nói chuyện với bà (20, 11-18). Bà đã về và báo cho các môn đệ rằng: “Tôi đã thấy Chúa” và kể lại những gì Ngài nói với bà (Ga 20, 18). Trong Tin Mừng Thánh Gioan, không thấy có ám chỉ
nào nói rằng Phêrô và những môn đệ khác không tin Maria hoặc bà là một chứng nhân không đáng tin vì là phụ nữ. Gioan chỉ nói rằng Phêrô và Môn đệ Chúa yêu đã chạy ra mộ để nhìn tận mắt, và người môn đệ Chúa yêu đã tin. Gioan dường như bóng gió rằng Phêrô
không tin ngay lập tức. Maria Mađalên đã thấy chính Chúa Giêsu và lòng tin của bà được khẳng định trong nhiệm vụ được giao là nói cho những người khác biết về sự phục sinh của Chúa.
Vài kết luận
Các Tin Mừng đã phản ảnh một tranh luận trong xã hội ở thế kỷ đầu tiên về giá trị chứng từ của những người phụ nữ. Sự chắc chắn và nhất quán của các Tin Mừng về tính đáng tin cậy của những phụ nữ và đặc biệt của Maria Mađalêna cho thấy rằng các cộng đoàn tín
hữu của Chúa Giêsu đã có một nhãn quan mới về phụ nữ và chỗ đứng của họ trong một xã hội mới và trong Giáo Hội. Một cách rất có ý nghĩa, các Tin Mừng đã ghi lại sự thất bại thảm hại của các đấng môn đệ nam nhi trong “giờ khắc” gay cấn nhất, rồi tiếp theo
đó là họ đã không tin Maria Mađalêna cùng những phụ nữ khác đã vội vã chạy về loan tin Chúa Giêsu phục sinh cho họ.
Kinh Thánh thoát thai trong một nền văn hóa gia trưởng phụ quyền. Trong nền văn hóa như vậy, người ta nói về phụ nữ không mấy tích cực. Để vượt qua bối cảnh này, cần phải thẳng thắn khi nói về các đấng môn đệ nam nhi cư xử như thế nào vào thời khắc cao điểm
trong cuộc tự hiến của Đức Giêsu và giải thích vai trò cần thiết của các phụ nữ cũng trong thời điểm ấy. Trong suốt Tân Ước, đặc biệt là các Tin Mừng, hình ảnh tích cực của các phụ nữ vẫn còn là một tiếng nói muốn được giải thích và trả lại tính xác thực.
Maria Mađalêna đã bị đánh giá sai thậm chí bị khinh khi, qua nhiều thế kỷ chúng ta đã đánh mất hoặc bỏ qua vai trò của bà như là người tông đồ đầu tiên. Mặc dầu các bình luận về bà vẫn còn dè dặt để chỉ nói điều ít nhất, cả bốn Tin Mừng đều đồng ý rằng bà
Maria Mađalêna đã ở dưới chân thập giá, nơi ngôi mộ trống và là một trong những chứng nhân đầu tiên về sự phục sinh của Chúa Giêsu. Bà đã trở thành người mà phụng vụ mùa Phục Sinh gọi là “Apostola Apostolorum” (Tông đồ của các Tông đồ).
Mary Ann Getty
LM Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ
THÁNH MÁC-TA, MA-RI-A VÀ LA-DA-RÔ
Hôm nay, Giáo hội kính nhớ các thánh Mát-ta, Ma-ri-a và La-da-rô là 3 chị em ở làng Bê-ta-ni-a. Lễ này đã được Đức Thánh Cha Phan-xi-cô thêm vào lịch phụng vụ chung của Giáo hội Công giáo Rô-ma, ngày 2/2/2021. Ngày này trước đây, chỉ được sử dụng để kính nhớ duy nhất thánh Mát-ta.
Sắc lệnh của Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích đã giải thích rằng Đức Thánh Cha thêm ba vị thánh vào lịch phụng vụ chung của Giáo hội Công giáo Rô-ma “vì chứng tá Phúc âm quan trọng của họ trong việc đón rước Chúa Giê-su vào nhà họ, chăm chú lắng nghe Người, tin rằng Người là sự sống lại và là sự sống.”
Sắc lệnh khẳng định: “Trong ngôi nhà ở Bê-ta-ni-a, Chúa Giê-su cảm nghiệm tình gia đình và tình bạn của Marta, Maria và La-da-rô, và vì lý do này, Phúc âm thánh Gio-an khẳng định rằng Chúa yêu thương họ. Bà Mát-ta đã rộng lượng tiếp đãi Người, bà Ma-ri-a ngoan ngoãn lắng nghe lời Người và ông La-da-rô nhanh chóng đi ra khỏi mộ theo lệnh của Đấng đã chiến thắng sự chết.”
Bài Phúc âm trích đọc trong thánh lễ này (Lc 10, 38-42) minh chứng tình cảm mà chị em nhà này đã dành cho Chúa. Họ tận tình tiếp đãi Chúa mỗi người một cách thế. Dầu vậy, Bài Phúc âm cũng mời gọi chúng ta suy nghĩ về trật tự của những việc chúng ta làm cho Chúa.
Mát-ta đón thầy trong tư cách chị cả. Chị tất bật trong bếp lo bữa ăn để tiếp đãi Thầy, chị lo lắng phải làm sao để tiếp đón Thầy cho xứng. Còn Ma-ri-a đón tiếp Chúa bằng cách thanh thản, lặng lẽ ngồi bên chân Thầy để lắng nghe.
Mát-ta là người đảm đang, thạo việc, nhanh nhẹn. Nhưng chị không muốn khách phải chờ đợi lâu, và chị cũng muốn đãi khách một bữa ăn tương đối thịnh soạn. Nhưng trong tình thế này, chị thấy rất cần sự giúp đỡ của cô em.
Chị đề nghị: “Xin Thầy bảo em giúp con một tay!” Ước mơ của Mát-ta rất đỗi bình thường. Tiếc thay, Thầy Giê-su lại đang kể chuyện cho Ma-ri-a, và cô này đang lắng nghe một cách thích thú. Nhờ Thầy kêu em xuống bếp là phá vỡ câu chuyện còn dang dở của Thầy. Mát-ta bị mối lo về bữa ăn chi phối khiến chị quên cả lịch sự cần có. Chị quên rằng Thầy Giê-su không chỉ cần bữa ăn, mà còn cần tình bạn. Và tiếp khách cũng là một cách phục vụ không kém giá trị.
Thầy Giê-su nhìn thấy sự căng thẳng, lúng túng của Mát-ta, và nhận ra lòng tốt của chị, khi chị muốn dọn một bữa ăn xứng đáng. Thầy gọi tên chị hai lần cách trìu mến: Mát-ta, Mát-ta. Ngài nhẹ nhàng trách chị vì đã lo lắng băn khoăn về nhiều chuyện quá. “Chỉ cần một chuyện thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt hơn.”
Thầy Giê-su không bảo rằng điều Mát-ta làm là điều không tốt. Nhưng ngồi nghe Thầy vẫn là điều tốt hơn, cần hơn.
Cuộc sống hôm nay dễ làm chúng ta bị cuốn vào chọn lựa của Mát-ta, bị đè nặng bởi công việc. Chúng ta quên mất: điều cần hơn là dành thời giờ để gặp Chúa, ở bên chân Chúa mà lắng nghe.
Đời sống của người Ki-tô hữu là kết hợp hài hoà giữa chọn lựa của Mát-ta và Ma-ri-a. Vừa làm việc của Chúa, vừa gặp gỡ chính Chúa.
Lm. Giu-se Vũ Công Viện
XÉT LẠI ĐỘNG CƠ CỦA CHÚNG TA
Nhân vật chính trong vở kịch Murder in the Cathedral của T.S. Eliot là Thomas a Beckett – một giám mục, người theo mọi vẻ bề ngoài đều là một vị thánh. Ông cực kỳ trung thực, rộng lượng đến mức hy sinh, và là người bảo vệ đức tin đã chịu chết vì đạo. Tuy nhiên, vào một thời điểm nào đó trước khi tử đạo, ông nhận ra rằng có thể mình chưa phân biệt rõ giữa cám dỗ và ân sủng.
Nhiều người trong chúng ta quen thuộc với lời diễn tả nổi tiếng của ông:
Cám dỗ cuối cùng là sự phản bội lớn nhất:
Làm điều đúng vì lý do sai…
Vì những ai phục vụ cho đại nghĩa
Có thể biến đại nghĩa thành công cụ cho chính mình.
Vậy đâu là cám dỗ có thể dễ bị nhầm lẫn với ân sủng?
Nói đơn giản, chúng ta có thể đang làm rất nhiều việc tốt – nhưng với động cơ sai. Hơn nữa, điều này có thể rất tinh vi, đặc biệt nơi những người phục vụ cho “đại nghĩa,” bởi như T.S. Eliot nhấn mạnh, chúng ta rất dễ biến đại nghĩa ấy thành phương tiện phục vụ chính mình.
Làm thế nào chúng ta lại có thể khiến đại nghĩa phục vụ mình? Làm sao lại có thể làm điều tốt nhưng vì lý do sai?
Ví dụ: Tôi có thể đang làm rất nhiều điều tốt – giúp đỡ người khác, phục vụ mục đích của Thiên Chúa nơi trần gian. Tôi có thể quảng đại đến mức chấp nhận hy sinh như một vị tử đạo. Nhưng nếu lý do chính tôi làm tất cả những điều đó là vì chúng khiến tôi được ngưỡng mộ, cảm thấy đạo đức và chính trực, được khen ngợi, để lại một cái tên tốt đẹp sau này – thì sao?
Những câu hỏi ấy đi sâu vào ranh giới giữa cám dỗ và ân sủng. Tôi có thể làm điều đúng đắn, và dù không phải vì lý do xấu, tôi vẫn chủ yếu đang làm cho bản thân mình. Tôi có thể đang khiến đại nghĩa phục vụ tôi nhiều hơn là tôi phục vụ đại nghĩa.
Cha Dòng Tên quá cố Michael J. Buckley – một trong những người hướng dẫn tâm linh quan trọng trong đời tôi – từng thúc giục chúng ta phải can đảm xét mình một cách đau đớn: Tôi làm điều này để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân – hay đang làm để mình cảm thấy và trông có vẻ tốt đẹp?
Trong quyển sách Bạn Tìm Gì Thế? – Những Câu Hỏi của Đức Giêsu Như Một Thách Đố và Lời Hứa, Buckley viết:
“Bằng hàng ngàn cách khác nhau, những người phục vụ cho đại nghĩa có thể khiến đại nghĩa ấy quay lại phục vụ họ. Điều này có thể vô cùng tinh tế. Đôi khi chỉ một sự lệch nhẹ ở bước khởi đầu của một hành động hay một đời sống cũng có thể dẫn đến một chuyển hướng sâu sắc nhưng không được nhận ra: lòng nhiệt thành che giấu một tham vọng ngấm ngầm nhưng tàn nhẫn. Tham vọng ấy được giấu kỹ vì ban đầu nó có vẻ giống với lòng nhiệt thành – dù thật ra hai điều này hoàn toàn đối lập. Khao khát đạt được một điều gì đó có thể trộn lẫn giữa giá trị nội tại của một dự án với hào quang phản chiếu từ thành quả đạt được.”
Là một linh mục đã phục vụ hơn 50 năm, tôi thấy đây là một lăng kính đầy thách thức để nhìn lại chính mình và hành trình mục vụ ấy. Tôi đã phục vụ cho đại nghĩa bao nhiêu – và tôi đã, trong vô thức, biến nó phục vụ cho chính mình bao nhiêu? Ai là người “được lợi” hơn: Thiên Chúa và Hội Thánh – hay tôi và danh tiếng của mình?
Tất nhiên, động cơ là điều rất khó nhận diện, và trong cuộc đời này, động cơ hiếm khi nào hoàn toàn thuần khiết. Ta là một hỗn hợp phức tạp của nhiều động lực – có cái phục vụ người khác, có cái phục vụ chính mình – và như Buckley nhấn mạnh, ban đầu chúng trông rất giống nhau. Hơn nữa, có những lời dạy của Đức Giêsu dường như cho thấy rằng đôi khi việc làm đúng điều còn quan trọng hơn động cơ rõ ràng đằng sau nó.
Chẳng hạn, Đức Giêsu nói: “Không phải những ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy” (Mt 7,21). Và trong bài học về việc phán xét cuối cùng, Đức Giêsu dạy rằng chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên cách ta đối xử với người nghèo – “Điều gì các con làm cho một trong những người bé mọn nhất này, là làm cho chính Ta” (Mt 25). Điều đáng chú ý là cả nhóm được thưởng lẫn bị phạt đều không ý thức rõ việc mình làm. Họ được xét xử hoàn toàn dựa trên hành động.
Vậy, liệu ta có thể đang làm điều đúng với lý do sai? Và nếu đúng là ta làm như vậy – vì muốn được ngưỡng mộ, được kính trọng, được tiếng tốt hay cảm thấy tự hào – thì điều đó có nghiêm trọng không? Nó có làm giảm hoặc phá hủy giá trị của điều tốt ta đang làm? Khao khát được công nhận, có danh tiếng tốt và cảm thấy dễ chịu về bản thân – có thật sự đối nghịch với lòng vị tha? Hay cả hai có thể đồng hành? Thiên Chúa đánh giá ta nhiều hơn dựa vào động cơ – hay dựa vào hành động?
Tôi đang phục vụ cho đại nghĩa – hay đang khiến đại nghĩa phục vụ mình?
Đó là một câu hỏi sống còn để tự xét mình.
Tại sao? Vì chúng ta rất dễ mù quáng trước sự giả hình của chính mình – cũng như rất dễ khắt khe quá mức với bản thân.
Rev. Ron Rolheiser, OMI
KHÔNG
CÓ GÌ TỒN TẠI MÃI
Chủ đề: “Chúng ta có chuẩn bị tốt đẹp cho đời sau không?”
Frank Kendig và Richard Hutton viết một cuốn sách có tựa đề Quãng Thời Gian Sự Sống, hoặc Những Đồ Vật Tồn Tại Bao Lâu. Trong đó, bạn sẽ khám phá ra nhiều sự thật thú vị.
Chẳng hạn, bạn sẽ biết rằng tuổi trung bình của đôi giày bóng chày (baseball) của một cầu thủ chuyên nghiệp chỉ lâu khoảng hai tháng.
Bất ngờ hơn nữa, tuổi trung bình của cây gậy khúc côn cầu (hockey) mà cầu thủ chuyên nghiệp sử dụng chỉ sau hai trận đấu.
Bạn cũng thấy rằng đôi giày của một người lính trong thời bình là mười lăm tháng, nhưng trong thời chiến nó chỉ còn ba tháng.
Trong khi tuổi thọ của một số thứ ngắn hơn chúng ta tưởng, những thứ khác lại tồn tại rất lâu.
Thí dụ, một lon bia bị bỏ quên trên núi bởi người cắm trại thì vẫn còn nguyên sau đó 80 năm. Và chiếc giày da để lại ở cùng nơi đó sẽ vẫn còn sau 50 năm.
Sau cùng, một tảng đá nhô ra khỏi mặt đất sẽ vẫn còn nguyên sau một nghìn năm.
Nhưng dù là thứ gì - gậy khúc côn cầu, lon bia, hay tảng đá - các tác giả Kendig và Hutton khẳng định rằng mọi thứ rồi cũng sẽ biến mất. Không có gì tồn tại mãi mãi.
Và điều đúng với gậy khúc côn cầu, lon bia và tảng đá thì cũng đúng với loài người. Chúng ta rồi cũng sẽ biến mất. Không ai trong chúng ta sẽ sống mãi.
Và đó chính là điểm mà Chúa Giêsu nói đến trong Tin Mừng hôm nay. Đó là lý do vì sao Người cảnh báo chúng ta:
“Hãy sẵn sàng… với đèn cháy sáng trong tay… vì Con Người sẽ đến vào giờ các con không ngờ.”
Dù ở đây Chúa Giêsu đang nói về lần Quang Lâm Thứ Hai, các nhà thần học quả quyết rằng lời của Người có thể hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa hẹp, là ngày tận thế. Tuy nhiên, theo nghĩa rộng, chúng ám chỉ ngày cuối cùng của cuộc đời chúng ta.
Và chính vì ngày kết thúc cuộc đời - hay cái chết - mà chúng ta phải đặc biệt chuẩn bị. Tất cả chúng ta đều biết là nó sẽ xảy đến. Chúng ta không sống mãi.
Sigmund Freud, nhà thần kinh học người Áo nổi tiếng và là người khai sinh ngành phân tâm học, qua đời ngay trước Thế Chiến II.
Freud có một câu chuyện thú vị rất phù hợp với ý nghĩa của sự chuẩn bị.
Câu chuyện kể về một người thủy thủ bị đắm tàu và dạt vào một hòn đảo ở Nam Thái Bình Dương.
Anh ta được dân bản địa tiếp đón nồng nhiệt. Họ vỗ tay, hát ca, rước anh ta lên vai, đưa về làng và đặt anh ngồi lên một ngai bằng vàng.
Từ từ, người thủy thủ hiểu được những gì đang xảy ra.
Người bản địa có một tập tục là thỉnh thoảng đặt một người làm vua trong một năm. Trong năm đó, ông vua có thể ra lệnh cho dân làng thi hành điều gì đó trong khả năng, và họ sẽ tuân lệnh mà không thắc mắc.
Người thủy thủ thật vui sướng vì được chọn làm vua. Anh không thể tin được sự may mắn của mình. Nhưng một ngày kia, anh bắt đầu tự hỏi điều gì xảy ra cho một ông vua khi vương quyền của ông chấm dứt.
Đó là khi sự phấn khởi và hăng hái của anh đột ngột chấm dứt.
Anh khám phá rằng vào cuối vương quyền, anh sẽ bị trục xuất đến một hoang đảo, được gọi là Đảo Vua. Ở đó anh sẽ bị bỏ mặc cho chết đói như một vật hiến tế cho các thần linh.
Sau khi người thủy thủ bừng tỉnh sau tin chấn động này, từ từ anh bắt đầu đưa ra một kế hoạch.
Là vua, anh ra lệnh cho thợ mộc trên đảo đóng một đoàn tàu nhỏ. Khi đoàn tàu đã sẵn sàng, anh ra lệnh cho các nông dân đào gốc cây ăn quả và rau củ, mang theo ra Đảo Vua để trồng lại.
Cuối cùng, anh ra lệnh cho thợ xây dựng một căn nhà bằng đá trên Đảo Vua.
Bằng cách đó, người thủy thủ đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho ngày mà vương quyền kết thúc và khi anh bị đày ra Đảo Vua.
Câu chuyện đó là một minh họa thật hay cho điều Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta trong Tin Mừng hôm nay.
Ở nơi khác trong Tin Mừng, Chúa Giêsu dạy: “Hãy tích trữ kho báu trên trời, nơi không mối mọt hay kẻ trộm nào có thể lấy mất.” (Lc 12,33)
Người nói với chúng ta hãy làm như người thủy thủ kia.
Tin Mừng hôm nay mời chúng ta tự hỏi chúng ta có chuẩn bị tốt đẹp cho ngày mà cuộc sống trần thế của chúng ta sẽ chấm dứt như người thủy thủ kia không.
Nó mời chúng ta hãy tự hỏi, “Nếu đêm nay chúng ta lìa đời, chúng ta có sẵn sàng gặp Chúa chưa?”
Và nếu câu trả lời vẫn còn điều gì đó đáng ao ước, thì chắc chắn Chúa đang nói với mỗi người chúng ta một cách đặc biệt qua Tin Mừng hôm nay. Người nói:
“Hãy như những đầy tớ luôn tỉnh thức chờ chủ về… Và các con cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì Con Người sẽ đến vào lúc các con không ngờ.” (Lc 12:35–40).
Đó chính là sứ điệp mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta trong Tin Mừng hôm nay. Đó là sứ điệp mà Người muốn chúng ta ghi lòng tạc dạ trong phụng vụ này.
Chúng ta hãy kết thúc bằng một đoạn trong tác phẩm Kèn của Chúa (God’s Trombones) của nhà văn James Weldon Johnson.
Trong đoạn văn, Johnson mô tả cái chết của một phụ nữ đã sống đúng như lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay, và đã sẵn sàng khi giờ chết đến. Ông viết:
“[Chị Caroline] đã thấy điều mà chúng tôi không thể thấy;
chị đã thấy Tử Thần xưa.
Chị thấy Tử Thần đến như một ngôi sao băng.
Nhưng cái chết không làm chị Caroline sợ hãi;
nó hiện ra như một người bạn thân quen.
Và chị thì thầm với chúng tôi:
‘Tôi đang về nhà.’
Rồi chị mỉm cười và nhắm mắt lại.”
Chị Caroline đã sẵn sàng về nhà.
Lm. Mark Link, S.J.