Google Groups no longer supports new Usenet posts or subscriptions. Historical content remains viewable.
Dismiss

Một "Đệ nhất Phu nhân" cuối cùng của miền Nam Việt-Nam

680 views
Skip to first unread message

lenguyen

unread,
Apr 3, 2015, 11:59:59 AM4/3/15
to


Fwd: http://myoneviet.blogspot.com/2011/04/ba-nguyen-van-thieu-va-giac-mo-hoi.html

Friday, April 29, 2011

Bà Nguyễn Văn Thiệu và Giấc Mơ Hồi Hương

Đức Hà

TS: Đúng 100 ngày sau khi qua đời, Hội Đền Hùng Hải Ngoại phối hợp với nhiều hội đoàn cùng tổ chức Tuần Bách Nhật cho ông Nguyễn Văn Thiệu tại San Jose; bài viết được đăng trên tuần báo Viet Mercury ngày 11 tháng Giêng, 2002.


“Tôi mong có dịp về lại Việt Nam thăm mồ mả ông bà và mang tro cốt của ổng về khi đất nước bình yên; Ông Già có trối rằng nếu được thì đem chôn tại quê ông ở Phan Rang nếu không thì rải một nửa xuống biển và một nửa trên núi,” bà Nguyễn Văn Thiệu nói như vậy về ước vọng của bà như một phụ nữ Việt bình thường không quên ơn tổ tiên dòng họ.

Lần đầu tiên người ta được biết thêm đôi chút về gia đình cựu nguyên thủ Việt Nam Cộng Hòa kể từ khi hai ông bà và những người con ra khỏi Dinh Độc Lập tháng Tư năm 1975 để sống ẩn dật tại bên ngoài thành phố Boston, Massachusetts.

Từ hơn 26 năm nay người ta không được biết gì nhiều cho đến khi ông bất ngờ qua đời cách nay 100 ngày với một đám tang lớn gây ngạc nhiên cho cả vùng Boston. Ông mãn phần ở tuổi 78.

Bà Nguyễn Văn Thiệu đến San Jose cùng với hai người con, Nguyễn Tuấn Anh và Nguyễn Thiệu Long, để dự lễ Tuần Bách Nhật cố Tổng Thống Thiệu do Hội Đền Hùng Hải Ngoại cùng với nhiều hội đoàn Vùng Vịnh phối hợp tổ chức. Hơn 500 người đã đến dự lễ trong đó có nhiều chính khách, quan chức chính quyền và tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa trước đây.

Nếu so với những bức hình chụp chung khi ông còn sống thì bà Nguyễn Thị Mai Anh, năm nay 71 tuổi quê ở Mỹ Tho thuộc một gia đình Công Giáo, không thay đổi bao nhiêu khi bà xuất hiện tại San Jose cuối tuần vừa qua. Một phụ nữ cố tình đến hội trường American G.I. Forum trên đường Story chỉ để nhìn bà cho biết, có nói rằng “bả đẹp và sang quá.”

Dáng người thấp, tròn trịa, mái tóc bạc trắng chải gọn ghẽ, một tướng đi khoan thai và giọng nói nhỏ nhẹ chậm rãi, bà Mai Anh trong chiếc áo dài gấm đen có điểm những chữ thọ trắng, là cái đinh của buổi lễ.

Khách đến với bà đông đảo và vẫn trân trọng bà như là phu nhân của người từng nắm nhiều quyền uy của đất nước với lập trường chống cộng đến cùng chứ không phải như vợ của một lãnh tụ bị thất sủng về vườn. Tuy vậy nếu với bạn bè thân thiết trong nội các cũ của chồng, bà chuyện trò cởi mở thì với báo chí bà tỏ ra ngần ngại và e dè. Ngay cả khi được mời lên tiếng cám ơn quan khách tại buổi lễ bà cũng nhường cho trưởng nữ Tuấn Anh. Cho đến buổi chiều tại đền Quốc Tổ và sau nhiều lần nài nỉ câu trả lời của bà vẫn là “thôi cho tôi miễn đi, tôi có biết gì đâu mà nói.”

Nhưng sau cùng thì bà cũng nhận lời cho chương trình truyền hình Diễn Đàn Việt Nam, chương trình phát thanh của cộng đồng người Việt do Quang Chánh phụ trách và báo Việt Mercury một vài phút tâm tình.

“Chỉ nói chuyện gia đình thôi nha, tôi không biết chuyện chính trị gì đâu,” bà dặn trước.

“Việc ổng đi đột ngột cũng làm cho gia đình hơi bối rối; mới hôm trước ổng đi khám bác sĩ cho thấy tim mạch đều tốt mà qua ngày hôm sau áp huyết tăng cao đưa đến hôn mê rồi ổng đi luôn sau khi cho biết bị nhức đầu quá.”

“Bây giờ thì tinh thần ổn định rồi, con cái cũng dắt đi đây đi đó khuây khỏa,” bà nói.
Trong suốt buổi lễ với phần nhắc lại tiểu sử của chồng cùng những đoạn phim thời sự, người ta chỉ thấy con gái Tuấn Anh nhiều lần thấm nước mắt và phải lấy kiếng đen ra đeo còn bà Mai Anh tỏ ra bình tĩnh hơn nhưng ngồi bất động trên chiếc ghế sắt như mọi người khác chứ không được dành riêng một cái ghế bành trịnh trọng như vẫn thường thấy trước đây.

“Ông Già làm gì, liên lạc với ai, mấy mẹ con tôi không biết gì đâu,” bà kể lại về những sinh hoạt của ông Thiệu khi sinh sống tại vùng Boston. Bà cho biết Ông Già là tên gọi thân mật trong gia đình.

“Tôi có hỏi thì ổng chỉ nói ‘Có gì đâu chỉ nói chuyện với bạn bè thôi. Ổng kín đáo lắm, tôi hoàn toàn không biết gì nhưng với vợ con thì Ông Già rất vui vẻ tử tế.”

Bà nói thêm rằng chồng bà không chỉ kín đáo trong việc làm mà ngay cả trong tình cảm ông cũng kín đáo và theo phong tục cổ xưa.

“Các con hay hỏi tôi rằng sao không thấy ba hôn mẹ hay nói điều gì âu yếm với mẹ; tánh ổng vậy đó,” bà nói.

Lúc còn cầm quyền ông Thiệu được xem là người nhẫn nại, thận trọng và mưu trí.

Trước năm 75 người dân Sài Gòn còn đồn đãi nhau về những chuyện buôn lậu tham những bên cạnh chuyện ông Thiệu có liên hệ tình cảm với một vài ca sĩ và cả với một chủ nhà hàng ăn bên ngoài Sài Gòn. “Tất cả cũng chỉ là những tin đồn, không ai biết thực hư ra sao,” theo lời một nhân vật thân cận trong chính quyền trước đây không muốn nêu danh tính.

“Bà Thiệu là một người đứng cạnh chồng, một người chỉ biết lo cho gia đình, không phải người của quần chúng.”

Người này còn công nhận bà Thiệu là người đáng kính, không có cái kênh kiệu vênh váo của một người có quyền thế. Thỉnh thoảng và cũng rất ít, bà xuất hiện đi ủy lạo cho thương bệnh binh và chưa hề tuyên bố một điều gì.

Vì thế việc bà nhận trả lời phỏng vấn của báo chí mới hôm Chủ Nhựt vừa qua là cả một sự phá bỏ thông lệ bà vẫn giữ từ xưa đến nay.

Bà Mai Anh cho hay “Ông Già rất khắt khe trong việc dạy dỗ con cái, ổng theo xưa chớ không chịu lối giáo dục phương Tây.” Cũng vì thế người con trai út, Nguyễn Thiệu Long sinh bên Anh năm 1976 nói tiếng Việt rất rành. Nếu có ai tưởng lầm, hỏi chuyện bằng tiếng Anh mới thấy Long trả lời sành sõi bằng tiếng Việt, tuy phát âm không rõ lắm. Chị lớn của Long, Tuấn Anh, người con gái từng làm cả Sài Gòn phải chú ý khi thành hôn trong một đám cưới quy mô đình đám tổ chức tại Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn và dạ tiệc tại nhà hàng Caravelle năm 1973, cũng có mặt ở San Jose.Với một chiếc áo dài đen, dáng người thấp và mảnh khảnh, Tuấn Anh luôn luôn đi sát mẹ tại buổi lễ cũng như tại Đền Hùng trên đường số Chín. Việt Mercury cố hỏi cô một vài câu thì cô chỉ cười rồi chỉ tay sang mẹ Mai Anh.

Hỏi bà Thiệu rằng sao gia đình lại chọn Boston thay vì ở vùng có khí hậu ấm áp hay nơi có đông đảo người Việt cho bớt nhớ nhà. Bà đáp:

“Ổng nói rằng ở xa xa đặng thở cho dễ.”

Ông bà Thiệu có ba người con ruột, hai trai và một gái; người con gái nữa trong gia đình, Nguyễn Thị Phương Anh, là con của anh ông Thiệu mà hai ông bà nhận về nuôi khi mẹ ruột Phương Anh qua đời. “Cháu nó coi tôi như mẹ ruột vậy,” bà cho biết.

Lúc đầu cả gia đình sang sống tại Đài Loan, nơi trước đó ông Nguyễn Văn Kiểu, anh ông Thiệu làm đại sứ.

Sau khi con trai thứ hai, Nguyễn Văn Lộc sang Anh học thì cả nhà lại sang sống tại London cho đến khi mấy người con sang Mỹ tiếp tục học vấn thì cả nhà cũng đến định cư tại Boston năm 1985 và bà Mai Anh nói rằng sẽ ở tại đó luôn cho gần con cái.

“Thôi ở đó luôn, chớ dọn nhà không nổi đâu.”

Buổi lễ tại hội trường trên đường Story diễn ra long trọng với nghi thức tế lễ đầy đủ theo phong tục cổ truyền Việt Nam với tiếng trống tiếng chiêng và nhiều quan khách Việt Mỹ tham gia.

Bữa cơm tối tại Quốc Tổ Vọng Từ thì đầy những thân tình ấm áp của một buổi họp mặt bằng hữu với mâm cỗ bình dân như gà luộc chấm muối tiêu chanh, đồ xào bóng da heo, dưa cải chua, canh măng nấm đông cô và xôi chè.

Tuy vậy vào lúc sáng ở bên ngoài hội trường hành lễ cũng có một phụ nữ đơn độc phân phát đến mọi người bức thư ký tên Nancy Trần và một số điện thoại ở San Jose với nội dung đả phá việc làm của Hội Đền Hùng là “ngu xuẩn, thiếu suy nghĩ” và gọi ông Thiệu là “tội đồ của dân tộc Việt Nam.”

Sau ngày 30 tháng Tư, 1975 ông Thiệu đã bị chỉ trích nhiều nhứt và bị coi như người phải gánh chịu tất cả trách nhiệm khiến Miền Nam sụp đổ đưa đến việc cả triệu người phải bỏ nước ra đi.

Vào những ngày cuối đời, Tướng Dương Văn Minh có cho biết muốn về an nghỉ vĩnh viễn tại quê nhà trước khi qua đời, giờ đây người ta lại biết thêm Tướng Nguyễn Văn Thiệu cũng có ước muốn tương tự.

Không ai biết đến bao giờ hai ông mới về lại được quê hương sinh quán, nơi mà có lúc một nửa phần đất nước hiện nay nằm trọn trong tay hai ông.


















.

lenguyen

unread,
Apr 3, 2015, 12:04:00 PM4/3/15
to
Fwd: http://www.nytimes.com/2001/10/01/us/nguyen-van-thieu-is-dead-at-76-last-president-of-south-vietnam.html?pagewanted=1


---
Nguyen Van Thieu Is Dead at 76; Last President of South Vietnam
By FOX BUTTERFIELD
Published: October 1, 2001



Correction Appended
BOSTON, Sept. 30— Nguyen Van Thieu, the former president of South Vietnam who led his nation through most of its war against North Vietnam until it was finally overrun by a Communist offensive in 1975, died late Saturday at Beth Israel Deaconess Medical Center here, a hospital spokesman said. He was 76.

The hospital would not release the cause of death, but the spokesman said Mr. Thieu had collapsed at his home in suburban Foxboro on Thursday and was taken to the hospital, where he was kept on a respirator.

Since the end of the war in April 1975, when Mr. Thieu, like many Vietnamese, believed that his American allies had abandoned him, he had lived quietly, first in London and later in Boston, avoiding politics.

As a colonel in the South Vietnamese army, Mr. Thieu first came to prominence in helping to organize the coup that ousted President Ngo Dinh Diem in 1963. He moved up swiftly, becoming chairman of the ruling military junta's National Directory, then chief of state in 1965. He won the presidency in 1967, beating the more flamboyant air force officer, Nguyen Cao Ky. He won the presidency again in 1971 in a rigged election and remained in the post until April 21, 1975, when he resigned and fled the country as North Vietnamese troops rushed toward Saigon.

For a succession of American ambassadors to Saigon like Ellsworth Bunker and Graham Martin and American commanders in Vietnam like Gen. William C. Westmoreland, Mr. Thieu became the Vietnamese they depended on to represent the people of South Vietnam. But Mr. Thieu, in the eyes of many Vietnamese, was an extremely cautious man who despite having a million-man army and a large secret police apparatus presided over a balance of weakness.

As the Vietnamese saying had it, he ''only jumped when the tide mounted to his toes.''

Loyalty and Betrayal

In the end, what counted for Mr. Thieu was personal loyalty, and so generals in the South Vietnamese army and provincial chiefs in the South Vietnamese government tended to be promoted based on their allegiance to Mr. Thieu, rather than merit. It was an old-fashioned, Confucian system, often greased by corruption, that had great difficulty competing against the better organized and motivated Communists, despite the support of 500,000 American troops and billions of dollars in aid.

After South Vietnam's sudden collapse in 1975, after a large conventional offensive by the North Vietnamese, Mr. Thieu went into quiet exile, deliberately staying out of Vietnamese refugee anti-Communist politics, perhaps because he felt he would be blamed for his government's failures.

But a recently published book by Larry Berman, ''No Peace, No Honor: Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam,'' (The Free Press), draws on previously secret archives to show that President Richard M. Nixon and Henry S. Kissinger, then the national security adviser, ignored Mr. Thieu's objections to their peace negotiations with Hanoi and agreed to withdraw American troops from Vietnam without any guarantees that North Vietnam would respect the Paris peace accords of 1973.

Mr. Berman, a professor and director of the University of California Washington Center, wrote that Nixon and Mr. Kissinger knew that under the accords North Vietnam would keep its troops in the south, and that they both expected North Vietnam to violate the accords with further offensive operations. The two men were willing to accept this risk merely to get a peace agreement so they would have something to present to the American people, Professor Berman wrote, and Nixon secretly pledged to Mr. Thieu that he would resume American B-52 bomber raids against North Vietnam in retaliation for any stepped-up Communist attacks.

But Watergate intervened, eventually driving Nixon from office before the final North Vietnamese offensive began in March 1975. So the American B-52's, which had blunted a North Vietnamese offensive in 1972 before the peace agreement, even without American ground troops, never returned.

In Mr. Berman's account, Mr. Thieu emerges as far more clear-sighted than either Nixon or Mr. Kissinger about the North Vietnamese and their intentions.

Mr. Thieu, who survived as Saigon's leader despite years of Communist attacks and plots by rival South Vietnamese generals, was not a prepossessing leader. His manner was not dramatic. His speeches tended to be long, rambling, dreary and often incoherent, including his final talk on April 21, 1975, announcing his decision to resign.

Unlike President Diem, whom Mr. Thieu, then a young colonel, helped to overthrow in 1963, he was neither loved nor deeply hated. Though he did not hesitate to use his secret police to throw his enemies in jail, he somehow used his power less oppressively than Mr. Diem had, and generated less passionate emotions.

It may have helped that Mr. Thieu entered the political scene at a time when the South Vietnamese were becoming emotionally exhausted from years of war and emotional turmoil. This was intensified by the Communists' Tet offensive in 1968 and the spring offensive of 1972.

Duty and Disillusionment

Many people simply became indifferent to official exhortation from any side, and this worked to Mr. Thieu's benefit.
1 2 NEXT PAGE >


Correction: October 2, 2001, Tuesday A front-page headline yesterday on the obituary of Nguyen Van Thieu, former president of South Vietnam, misstated his place in the sequence before that country fell to the North Vietnamese in 1975. He served almost until the end, but the last president was Gen. Duong Van Minh. The obituary also referred incorrectly at one point to the year of the coup he helped organize against President Ngo Dinh Diem. It was 1963, not 1965.

Correction Appended
(Page 2 of 2)

For the son of a small landowner and part-time fisherman, it was a long road to power. Nguyen Van Thieu was born in November 1924, but in accordance with a frequently used Vietnamese custom took another date as his birthday -- April 5, 1923 -- on grounds that it was better luck. He was the youngest of five children, in a village on the central coast of Vietnam.

Mr. Thieu's older brothers helped put him through schools run by France, Vietnam's colonial ruler at the time. When World War II ended and the French returned to Vietnam, Mr. Thieu at first joined with the nationalist Vietminh of Ho Chi Minh.

He soon became disillusioned. ''I knew that the Vietminh were Communists,'' he once said in an interview. ''They shot people, they overthrew the village committees, they seized the land.''

Convinced that the Vietminh were dangerous, Mr. Thieu secretly journeyed to Saigon where, with the help of his older brother, Nguyen Van Hieu (whom he later made Saigon's ambassador to Rome), he was admitted to the Merchant Marine Academy. After a year, he received an officer's rating, but he turned down a berth on a ship when he discovered that the French owners intended to pay him a lower salary than they paid their French officers.

He then transferred to the Vietnamese National Military Academy in Da Lat, which the French had established to train officers for the newly created Vietnamese Army they were using to fight the Vietminh. He became a good officer and learned excellent French, but his experience left him suspicious of all foreigners.

In 1951, he married the daughter of a prosperous practitioner of native medicine in the Mekong Delta, Nguyen Thi Mai Anh. She was a Roman Catholic, and Mr. Thieu adopted her religion. Later, and conveniently, it was also the predominant religion of the Diem regime.

The Diem family advanced his career, making him commander of the Da Lat Academy, where he formed close ties with many of the men who later became officers in his army.

Power Struggles

After helping overthrow President Diem in 1965, Mr. Thieu survived a series of coups and countercoups by Saigon's generals, rising steadily to become commander of what was known as IV Corps, the agriculturally rich area south of Saigon. Here he attracted the attention of American officials who were impressed by his abilities.

In late 1964, he joined with Air Marshal Nguyen Cao Ky to oust the military government and became a member of the new ruling Armed Forces Council. For the next three years, he and the more outgoing Marshal Ky were rivals for power. Eventually, with American backing, in 1967 Mr. Thieu emerged as the more powerful man and ran for president.

Mr. Thieu's caution and penchant for muddling through a crisis rather than taking swift action may have served him well in Saigon's complex political world, but in 1975, when North Vietnam hurled virtually its entire army on the South in a surprise offensive, his indecision did not work. Faced with the loss of the Central Highlands, splitting South Vietnam in two, he attempted a withdrawal from the isolated area. But he gave unclear orders and never specified what was to be held, what abandoned.

The result was a chaotic rout in which virtually all of South Vietnam's military forces in the Highlands were lost, starting a contagion of panic that soon spread through Saigon's armed forces and to its civilians as well, so that outposts and cities were abandoned without a shot being fired, and soon all those who could be were refugees streaming toward Saigon.

During those final few weeks, Mr. Thieu seemed to retreat farther and farther into his presidential palace, talking to fewer and fewer advisers. Even the top Americans who had sustained him for years seldom saw him in those April days. Just before Mr. Thieu resigned, one senior American official, asked how the president was reacting to his army's setbacks, said, ''How should I know?''

In retrospect, said Stanley Karnow, the journalist and author of ''Vietnam: A History,'' the key moment in Vietnam for the United States was the overthrow of the powerful, but dictatorial and increasingly unpopular Mr. Diem. ''At the time, everybody thought it was a good thing, but it was the beginning of the end,'' Mr. Karnow said. ''After that, there was no credible nationalist in South Vietnam, and so we had to use American troops to prop up a flimsy bunch of people in Saigon. It became our war, and we should have left then.''

Efforts to reach Mr. Thieu's family in Boston, including his cousin, Hoang Duc Nha, a former aide in Saigon, were unsuccessful.

Photos: Nguyen Van Thieu in 1970. (Associated Press)(pg. A1); PARTNERS -- A year before he became president, Nguyen Van Thieu of South Vietnam, right, , met in Hawaii in 1966 with Secretary of Defense Robert S. McNamara, left, and President Lyndon B. Johnson. Next to Johnson was Prime Minister Nguyen Cao Ky.; AN OFFICER'S RISE -- In 1965, Mr. Thieu, part of the military junta ruling South Vietnam, became chief of state. Seven years later, as president, he met at the Independence Palace in Saigon with Henry A. Kissinger, the United States national security adviser. (Photographs by Associated Press)(pg. A20)





















.

lenguyen

unread,
Apr 3, 2015, 12:12:27 PM4/3/15
to
Fwd: http://motthegioi.vn/xa-hoi/hoi-ky-cua-cac-tuong-ta-sai-gon/phu-luc-2-ba-mai-anh-sau-ngay-ong-nguyen-van-thieu-mat-da-noi-gi-voi-bao-chi-146119.html


Đọc hồi ký của các tướng tá Sài Gòn xuất bản ở nước ngoài

Phụ lục 2: Bà Mai Anh sau ngày ông Nguyễn Văn Thiệu mất đã nói gì với báo chí?

Đăng Bởi MỘT THẾ GIỚI - 15:07 21-01-2015
Nguyen Van Thieu
Ông Nguyễn Văn Thiệu, bà Mai Anh và hai con - Ảnh: Tư liệu

Trước ngày mất, ông Nguyễn Văn Thiệu cùng vợ đi Hawaii để kỷ niệm 50 năm ngày cưới. Sau nghỉ mát, ông tự lái xe về nhà ở Foxboro thuộc vùng ngoại ô Boston - Massachusetts (Mỹ). Tắt máy xe, như thường lệ, ông rời garage để bước vào nhà trong. Song, mới bước tới bên thềm đột nhiên ngã xuống và hôn mê...


Khi cuốn Đọc hồi ký các tướng tá Sài Gòn xuất bản ở nước ngoài lần thứ nhất vào đầu năm 2000, thì hai ông Nguyễn Văn Thiệu và Dương Văn Minh đều còn sống, định cư tại Mỹ.

Nay, trong lần tái bản này hai ông đều đã qua đời, cùng vào mùa thu năm 2001, cùng nguyên nhân liên quan tới tai biến mạch máu não, hôn mê sâu trước khi lìa đời trong cùng cảnh xa quê Việt Nam. Một người trút hơi thở cuối cùng tại Massachusetts (Thiệu). Người khác tại Nam California (Dương Văn Minh). Hai cái chết của hai nhân vật từng nắm chức vụ cao nhất trong quân đội và chính quyền Sài Gòn trước năm 1975 một lần nữa làm báo chí nước ngoài nhắc đến với nhiều “cách nhìn” không giống nhau, tạm tóm lược dưới đây.

Trước ngày mất, ông Nguyễn Văn Thiệu cùng vợ rời Boston đi nghỉ mát tại Hawaii để kỷ niệm 50 năm ngày cưới của hai ông bà. Bà Thiệu (Nguyễn Thị Mai Anh) là con một gia đình Thiên chúa giáo có tiếng ở Mỹ Tho, họ lấy nhau vào năm 1951 lúc bà mới 21 tuổi và ông 27 tuổi (người gia đình Phật tử, cải đạo và được rửa tội, mang tên thánh Martino). Sau nghỉ mát, theo tường thuật của VTH (Mỹ), ông tự lái xe trở về nhà ở Foxboro thuộc vùng ngoại ô Boston (bang Massachusetts) sáng thứ năm 27/9/2001. Tắt máy xe xong, như thường lệ, ông rời garage để bước vào nhà trong, song mới tới bên thềm đã đột nhiên ngã xuống và hôn mê, không biết gì nữa. Ông được đưa đến bệnh viện Beth Israel Deaconess Medical ở Boston trong tình trạng nguy ngập và qua đời lúc 10 giờ 30 đêm thứ bảy 29/9/2001.

Theo lời bà Mai Anh, vợ ông, trước đó vài ngày ông có đi khám bác sĩ thấy tim mạch vẫn bình thường, nên việc tai biến não dẫn đến tử vong mau lẹ như thế đối với bà và con cái là “thật đột ngột”. Ông mất ở tuổi 78, cách đây khoảng 10 năm ông đã qua một lần giải phẫu tim sau khi định cư ở Mỹ. Trước xa nữa, ông sống ở Anh. Theo vợ ông, sau ngày rời Việt Nam năm 1975, cả nhà ông sang sống tại Đài Loan là nơi ông anh ruột của ông từng làm “Đại sứ Việt Nam cộng hòa” một thời, đến ngày "con trai chúng tôi sang Anh học thì cả nhà dọn sang Luân Đôn, đến khi các con chúng tôi sang Mỹ tiếp tục học, thì cả nhà lại sang theo và định cư tại Boston năm 1985”.

Như vậy, ông sống tại Mỹ 16 năm trước khi qua đời. Khoảng thời gian đó, ông lặng lẽ và gần như không xuất hiện trước đám đông hoặc báo chí; nên “người ta không biết gì nhiều cho đến khi ông bất ngờ qua đời cách đây 100 ngày với một đám tang gây ngạc nhiên cho cả vùng Boston”. Đó là ghi nhận của Đức Hà – Việt Mercury – trong lễ Bách nhật (trăm ngày mất) của ông Thiệu, nhằm 11/1/2002.

Cũng theo tường thuật trên Việt Mercury, tại lễ Bách nhật tổ chức tại San Jose, bà Nguyễn Thị Mai Anh đến dự với “chiếc áo dài gấm đen có điểm những chữ thọ trắng là cái đinh của buổi lễ”.

Cùng hiện diện bên bà là hai con: Nguyễn Tuấn Anh và Nguyễn Thiệu Long, Nguyễn Tuấn Anh là trưởng nữ, “người con gái từng làm cả Sài Gòn phải chú ý khi thành hôn trong một đám cưới quy mô (lớn nhất thời bấy giờ) tổ chức tại Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn và dạ tiệc tại nhà hàng Caravelle năm 1973”. Tuấn Anh cũng bận áo dài đen, luôn đi sát mẹ, cô không trả lời các câu hỏi của báo chí mà chỉ cười, rồi “chỉ tay sang mẹ”.

Người con trai út là Nguyễn Thiệu Long (con trai thứ hai là Nguyễn Văn Lộc) sinh năm 1976 tại Anh và nói tiếng Việt rất sành tuy “phát âm không rõ lắm”. Đó là ba con ruột, hai trai, một gái – còn một người con khác trong nhà “là Nguyễn Thị Phương Anh, là con của anh ông Thiệu mà hai ông bà nhận về nuôi khi mẹ ruột Phương Anh qua đời”. Trở lại không khí buổi lễ, bà Mai Anh nói chuyện khá tự nhiên với một số bạn bè đồng cảnh của chồng mình có quen biết trước, ngược lại bà tỏ ra e dè và khép kín đối với báo chí. Việt Mercury muốn hỏi vài điều song câu trả lời của bà trước sau vẫn là: “Thôi cho tôi miễn đi, tôi có biết gì đâu mà nói”.

Nhưng sau cùng, theo Việt Mercury, bà Mai Anh cũng đã xiêu lòng nhận lời phỏng vấn sau khi “nhấn mạnh” lần nữa: Chỉ nói chuyện gia đình thôi nha, tôi không biết chuyện chính trị đâu.

Bà kể, trong nhà gọi ông Thiệu bằng hai tiếng thân mật: “ông già” và “ông già” thích sống theo lối xưa của người mình chứ không ưa lối Tây nên:

Các con tôi hay hỏi tôi rằng sao không thấy (khi nào) ba hôn mẹ hay nói điều gì âu yếm với mẹ cả, (là bởi) tánh ông vậy đó (…). Trước năm 75 người dân Sài Gòn còn đồn đãi nhau (…) chuyện ông Thiệu có quan hệ tình cảm với một vài ca sĩ và cả với một chủ nhà hàng bên ngoài Sài Gòn, tất cả cũng chỉ là những tin đồn, không biết thực hư ra sao.

Việt Mercury nhắc lại nhận xét của một nhân vật “thân cận dinh Độc Lập” giấu tên, rằng bà Mai Anh là mẫu người chỉ biết “lo cho chồng con”, không dính tới chuyện chính trị, không muốn xuất hiện tuyên bố nhiều trước đám đông. Nếu ông Nguyễn Cao Kỳ hồi 35, 36 năm về trước có giận bà và viết rõ trong hồi ký, cũng chỉ vì ba cái chuyện “nhỏ” có tính cách sinh hoạt, giao tiếp – chứ chẳng to tát gì – lại càng không tai tiếng gì trên chính trường. Ở buổi lễ, người ta thấy bà Mai Anh tỏ ra bình tĩnh hơn trưởng nữ Tuấn Anh. Tuấn Anh nhiều lần thấm nước mắt và lấy kiếng đen ra đeo, còn bà Mai Anh “ngồi bất động trên chiếc ghế sát với mọi người khác, chứ không được ngồi riêng một chiếc ghế bành trịnh trọng như vẫn thường thấy”. Bà nói “ông già” có trối rằng nếu được thì đem chôn tại quê ông ở Phan Rang (ông sinh năm Giáp Tý 1924, ngày 24/12 nhằm tháng Tý tức tháng 11 âm lịch, giờ Tý, trong một gia đình nông dân có 7 người con, ông là út), nếu không chôn thì hỏa táng rải một nửa xuống biển, một nửa trên núi. Một tuần sau ngày mất, ông được hỏa táng 6/10/2001 nhằm thứ bảy, cuối tuần. Được hỏi, tang lễ hoàn tất, bà Mai Anh có ý dời nhà khỏi Boston không, đáp:
Thôi, ở đó luôn cho gần con cái, chớ dọn nhà không nổi đâu.

Đang lúc cuộc phỏng vấn thực hiện bất ngờ vào cuối lễ bách nhật tại hội trường American G.I. Forum trên đường Story, thì bên ngoài hội trường, cũng bất ngờ xuất hiện một người lạ mặt phân phát bức thư và nội dung điện thoại của một số người ở San Jose điện tới, quyết liệt phản đối ông Thiệu và những người dự lễ, và gọi ông Thiệu là “tội đồ của dân tộc Việt Nam”, coi ông là người phải “gánh trách nhiệm khiến miền Nam sụp đổ”!

Trong lúc những “người anh em” quyết tố nhau bên tro tàn kẻ đã mất, tờ Việt Nam nhật báo ở Mỹ đưa tin nhà nước Việt Nam lên tiếng tại Hà Nội rằng: “Mọi người đều biết rất rõ các hành động quá khứ của ông Nguyễn Văn Thiệu đối với đất nước và dân tộc. Nhưng người Việt có câu “Chết là hết”, hãy để cho người quá vãng an nghỉ”. Việt Nam nhật báo cũng nhắc đến mẩu tin trên báo Thanh Niên, về “ông Nguyễn Văn Thiệu từ trần vì xuất huyết não”, và đã dẫn theo ghi nhận của hãng AP: “những năm sau chiến tranh, ông Thiệu tránh né hầu như toàn thể các cuộc phỏng vấn và sống cuộc đời lưu vong lặng lẽ. Gần hai thập niên sau, vào năm 1992 ông lên tiếng tố cáo sự xích lại gần giữa Hoa Kỳ và chính phủ cộng sản Việt Nam. Nhưng một năm sau nữa, ông thay đổi giọng điệu, nói về ý muốn sẵn sàng tham gia các cuộc thảo luận hòa giải dân tộc để các thành viên của cộng đồng người Việt lưu vong về quê hương”.

Chính sự “đổi giọng điệu” mà AP nhắc tới khiến một số người cực đoan trong “phe chống Cộng” ở Mỹ bực bội và có phần hậm hực với ông. Ngược lại, tướng Đỗ Mậu trong cuốn “Tâm thư” xuất bản tại Mỹ năm 1997 (viết sau hồi ký Việt Nam máu lửa quê hương tôi mấy năm) cũng nhìn ông với vẻ khác đi, dịu hơn, và liệt ông vào một trong những viên tướng có xu hướng thức thời, chủ trương “đối thoại” chứ không “đối đầu” với người trong nước. Nay ông Nguyễn Văn Thiệu đã mất, song đối với nhiều nhà quan sát, ông đã chấm dứt cuộc đời hoạt động và uy quyền của ông bắt đầu từ đúng 30 năm trước, khi ông “chống Mỹ” thất bại qua hai cuộc “chiến” ngăn chặn việc ký kết hiệp định Paris về hòa bình ở Việt Nam của ông và “đồng sự” ở dinh Độc Lập. (Còn nữa)
Mai Nguyễn























.




On Friday, April 3, 2015 at 8:59:59 AM UTC-7, lenguyen wrote:

trinhqu...@gmail.com

unread,
Apr 3, 2015, 12:15:23 PM4/3/15
to
sai be't li.ch su+? ro^`i o^ng Ninh o+i!

ba` cuo^'i cu`ng la` ba` Minh Va(n Du+o+ng!

ba` ke^' cuo^'i la` ba` Hu+o+ng Va(n Tra^`n!

LOL

QTTT

On Friday, April 3, 2015 at 8:59:59 AM UTC-7, lenguyen wrote:

lenguyen

unread,
Apr 3, 2015, 12:20:49 PM4/3/15
to

Chuyện 16 tấn vàng và Nguyễn Cao Kỳ trong giờ phút cuối cùng của miền Nam-VNCH yêu cầu Tướng Viên cung cấp cho Kỳ vài Tiêu đoàn TQLC để Kỳ đi đánh giặc Cộng cứu miền Nam

Tin viết từ ViệtCộng Source nằm dười gầm giường nghe ngóng rõ và đúng hay không thì mời NhânDân và Đồng Bào đọc cho rụng rời tay chân ... (LOL)



_____________

Fwd: http://vietnamnet.vn/vn/kinh-te/172988/bi-mat-18-tan-vang-cua-nguyen-van-thieu-khi-roi-sai-gon-.html


KINH TẾ ››
29/04/2014 08:28 GMT+7
Bí mật 18 tấn vàng của Nguyễn Văn Thiệu khi rời Sài Gòn?

Ngày 25.4.1975, đại sứ Martin điện cho Kissinger báo rằng đã nghĩ ra cách đưa Thiệu và Khiêm rời khỏi miền Nam bí mật. Martin giao cho tướng Timmes tổ chức cuộc ra đi. Chuyến bay của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mang số 231 đi Đài Loan vào lúc 9 giờ 20 đã mang theo 18 tấn vàng của ngân khố Sài Gòn?...

Không khí tại Dinh Hoa Lan rộn rịp lên sau tuyên bố từ chức của ông Thiệu.

Cựu trung tướng Trần Văn Đôn, nghị sĩ quốc hội, thất bại trong việc toan tính tự giới thiệu mình với Pháp như một ứng cử viên thay Thiệu, giờ chót quyết định ủng hộ người bạn xưa của ông là cựu trung tướng Dương Văn Minh.

Tướng Đôn trước đây hầu như không thấy xuất hiện ở Dinh Hoa Lan, bây giờ vô ra thường xuyên. Tuy Dương Văn Minh và Trần Văn Đôn cùng tham gia cuộc lật đổ hai anh em Diệm – Nhu và đều xuất thân là những sĩ quan quân đội Pháp nhưng ngoài đời hai người rất ít quan hệ với nhau vì tánh tình rất khác nhau.

Ông Minh thích thể thao từ nhỏ, đã từng là thủ môn của đội bóng Thủ Dầu Một những năm 40, một đấu thủ quần vợt có hạng và mãi sau này ông vẫn cầm vợt ra sân tuần ba buổi tại câu lạc bộ CSS. Khác với phần đông các tướng lãnh Sài Gòn đều mê gái, ông Minh có một cuộc sống gia đình rất gương mẫu.

Tướng Đôn ngược hẳn: ông như nhân vật Don Juan, các phụ nữ đẹp trong giới thượng lưu Sài Gòn khó thoát khỏi tay ông nếu lọt vào tầm ngắm của ông. Dù không hợp nhau nhưng Minh và Đôn vẫn tôn trọng nhau.

Người ta cũng thường thấy xuất hiện một số tướng về hưu như trung tướng Nguyễn Hữu Có, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh… Thẳng thắn mà nói số tướng tá chung quanh ông Minh lúc này không có nhiều và cũng ít có gương mặt nổi bật. Các tướng tá đương quyền, thuộc thế hệ sau, đều phò Thiệu hoặc Kỳ.

Nếu xảy ra một cuộc đối đầu quyền lực với Nguyễn Cao Kỳ, chắc chắn nhóm ông Minh sẽ gặp khó khăn. Lực lượng của ông Minh quá mỏng. Do lâu ngày tách khỏi quân đội, ông Minh không còn tay chân thân tình của mình trong hàng tướng tá.

Trong các buổi họp hàng tuần của nhóm ông Minh chỉ thấy có mặt hai nhân vật quân sự thuộc thế hệ đã qua: đó là cựu trung tướng Mai Hữu Xuân và cựu trung tướng Lê Văn Nghiêm, đều không còn ảnh hưởng trong quân đội.

Khi nhân vật tình báo Mỹ Charles Timmes gián tiếp nói cho Kỳ biết đại sứ Mỹ Martin ủng hộ giải pháp Dương Văn Minh và không ủng hộ cá nhân ông, Kỳ không giấu giếm lập trường của ông là sẽ chống ông Minh không khác chống cộng sản. Tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ vẫn nuôi tham vọng trở lại chính trường.

Ngay sau khi Thiệu ra lệnh rút khỏi Ban Mê Thuột, từ Khánh Dương trên Cao Nguyên – nơi ông có một nông trại – Kỳ đáp máy bay trực thăng về Sài Gòn nhờ tướng Cao Văn Viên, đang là tổng tham mưu trưởng, thuyết phục Thiệu giao quân cho Kỳ đi ngăn chặn sự tiến quân của quân giải phóng và bảo vệ Sài Gòn. Trong hồi ký của mình (“Buddha’s Child”), Kỳ kể đã gặp Cao Văn Viên.

Nguyễn Văn Thiệu, vàng, Trần Văn Đôn, nghị sĩ quốc hội
Chân dung Nguyễn Văn Thiệu
Kỳ hỏi” “Tình hình Ban Mê Thuột thế nào rồi?”.

Viên đáp: “Rất khó khăn. Chúng ta không có thừa quân vì phải bảo vệ Sài Gòn”.

Kỳ: “Tôi không cần nhiều quân. Cho tôi vài tiểu đoàn thủy quân lục chiến hoặc dù, và chừng 20 đến 25 chiến xa, tôi sẽ tìm cách phá vỡ sự bao vây. Tôi sẽ trực diện với quân địch và chiến đấu”.

Dừng một lúc, Kỳ hỏi Viên: “Anh có nghĩ là tôi sẽ thành công?”

Viên trả lời: “Nếu anh chỉ huy lực lượng đó, tôi nghĩ là thành công”.

Kỳ: “Vậy thì hãy để tôi hành động”.

Viên: “Đáng tiếc tôi không ở vào vị trí có thể lấy một quyết định như thế. Quyết định này thuộc thẩm quyền của tổng thống Thiệu”.

Kỳ: “ Ô kê, hãy gọi cho Thiệu, báo cho ông ta tôi đang ở đây và nói với ông ta biết đề nghị của tôi…”

Viên gọi điện cho Thiệu, nhưng tổng tham mưu trưởng không nói chuyện được với vị tổng chỉ huy của mình. Thông qua một tùy viên của Thiệu, Viên để lại một báo cáo. Nhưng sau đó, viên trợ lý này gọi lại tướng Viên và cho biết:

“Tổng thống cảm ơn tướng Kỳ rất nhiều về đề nghị của ông nhưng tổng thống cần có thời gian để suy nghĩ về đề nghị của ông”.

27 năm có đủ lâu để suy nghĩ cho một quyết định như thế? Tôi vẫn chờ câu trả lời của Thiệu. Có lẽ ông ta sợ tôi sẽ làm gì đó tại Sài Gòn với đơn vị xe tăng hơn là sợ đối phương có thể làm gì với quốc gia”.

Thật sự đây chỉ là canh bạc xì phé mà Kỳ tung ra với Thiệu. Cả Cao Văn Viên và Nguyễn Văn Thiệu không ai tin rằng Kỳ sẽ cầm quân ra mặt trận vào lúc đó và sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình để bảo vệ cái ghế tổng thống của Thiệu.

Điều mà cả hai nghĩ là có quân trong tay Kỳ sẽ tính tới lật đổ Thiệu và giành lấy quyền bính mà ông ta đã để lọt ra khỏi tay hồi năm 1967. Tự cho mình quá hiểu Kỳ, Thiệu đương nhiên gạt qua một bên “đề nghị viển vông” ấy.

Vào lúc CIA có ý định lật đổ Thiệu, ông Kỳ lại được nhà báo Mỹ Robert Shaplen của báo New Yorker tích cực vận động để quay trở lại chính quyền. Từ đầu Shaplen luôn ủng hộ Kỳ. Shaplen có ảnh hưởng khá lớn đối với tòa đại sứ Mỹ, nhưng cuộc vận động này bất thành. Nếu quân giải phóng chưa vào Sài Gòn ngày 30-4-1975, chắc chắn Kỳ cũng sẽ tìm cách đảo chính ông Minh.

Ngày 25-4-1975, ông Thiệu rời Sài Gòn một cách bí mật; địa chỉ đến là Đài Loan. Trước đó, quyền tổng thống Trần Văn Hương thúc hối đại sứ Martin phải áp lực để ông Thiệu rời Việt Nam sớm bởi “sự hiện diện của ông Thiệu gây khó khăn cho ông”!

Từ ngày 21-4 sau khi tuyên bố từ chức, ông Thiệu và gia đình vẫn ở trong Dinh Độc Lập. Ông Thiệu rời Dinh Độc Lập vào lúc 7 giờ 30 tối. Cùng đi với ông Thiệu có tướng Trần Thiện Khiêm, cựu thủ tướng và là người bạn thân của Thiệu.

Bà Thiệu và bà Khiêm đã rời Sài Gòn trước đó vài ngày. Bà Khiêm mang theo cả người giúp việc. Theo sự tố giác của linh mục Đinh Bình Định, người rất gần gũi với linh mục Trần Hữu Thanh, thì trong quân đội vào đầu tháng 3 có nhen nhúm một kế hoạch kết hợp Thiệu và Khiêm thành một liên danh tranh cử tổng thống nhiệm kỳ 3 vào cuối năm 1975, nếu chế độ Sài Gòn còn kéo dài. Chính Thiệu cũng từng tiết lộ kế hoạch này với đại sứ Martin và cho rằng nếu ông làm tổng thống một nhiệm kỳ nữa thì ông sẽ có điều kiện mở rộng dân chủ!

Chi tiết về cuộc “trốn chạy” của ông Thiệu – vâng phải gọi đó là cuộc trốn chạy – được các tài liệu CIA sau này tiết lộ như sau:

Ngày 25-4-1975, đại sứ Martin điện cho Kissinger báo rằng ông ta đã nghĩ ra cách đưa Thiệu và Khiêm rời khỏi miền Nam một cách bí mật. Martin giao cho tướng Mỹ Timmes tổ chức cuộc ra đi của Thiệu.

Timmes điện cho Thiệu và cho biết ông ta có thể dùng một chiếc trực thăng để đưa Thiệu từ Dinh Độc Lập đến phi trường Tân Sơn Nhất. Nhưng ông Thiệu trả lời rằng ông ta muốn đi bằng ô tô để ghé tổng tham mưu trước và “uống một ly rượu với 22 tướng tá” đến chào từ biệt ông ta tại đây.

Hình như nơi Thiệu và Khiêm ghé lại là nhà riêng của ông Khiêm. Từ tổng tham mưu, Chính nhân viên CIA Frank Snepp và tướng Timmes đưa Thiệu và Khiêm vào sân bay. Timmes giới thiệu Snepp với Thiệu: “Đây là một chuyên viên phân tích cừ khôi của tòa đại sứ, hơn nữa anh còn là một tài xế đẳng cấp”.

Khi ô tô đi vào sân bay quân sự Tân Sơn Nhất, Timmes khuyên ông Thiệu cúi người xuống “ như thế an toàn cho tổng thống”. Timmes sợ lính gác nhận ra tổng thống của họ chạy ra nước ngoài và biết đâu sẽ manh động. Timmes hỏi bà Thiệu và con gái, ông Thiệu trả lời: “Họ đang shopping ở Lon Don mua đồ cổ".

Đại sứ Martin đứng chờ sẵn ông Thiệu bên cạnh chiếc máy bay C-118. Trước khi lên máy bay ông Thiệu vỗ vai cảm ơn Frank Snepp. Trong bài viết riêng của mình liên quan đến giây phút này trong quyển “The VietNam War rememberd from all sides” của Christain G. Appy, Frank Snepp có kể rằng ông Thiệu bắt tay Sneep và nói “tiếng Anh bằng giọng Pháp” với Snepp rằng: “Cảm ơn, cảm ơn tất cả mọi chuyện”.

Nhưng sau đó Snepp lại tự hỏi ông Thiệu cảm ơn chuyện gì? “Tôi nghĩ chúng ta (tức người Mỹ) đã mất 58.000 thanh niên tại đây – ông Thiệu cảm ơn chuyện đó? Hay đơn giản cảm ơn vì bản thân mình chuồn đi được?” Đại sứ Martin theo Thiệu vào tận bên trong máy bay.

Ông ta nói với Thiệu “Chúc may mắn” rồi mới bước xuống lên ô tô của mình. Chuyến bay của Thiệu mang số 231 đi Đài Loan vào lúc 9 giờ 20. Có tin đồn Thiệu mang theo 16 tấn vàng của ngân khố Sài Gòn. Thật sự số vàng ấy vẫn ở lại miền Nam. Nhưng theo Kỳ thì “ Thiệu mang theo 17 tấn hành lý và nhiều triệu đô la tiền mặt. Ông ta không cần chuồn với số vàng của ngân khố quốc gia”.

Dân Sài Gòn dửng dưng (và không ngạc nhiên) khi hay tin sự “trốn chạy” của Thiệu ra nước ngoài. Họ không ngạc nhiên vì Nam Việt Nam đã từng chứng kiến không biết bao nhiêu những cuộc đào tẩu như thế của những kẻ một thời lãnh đạo Miền Nam.

Trường hợp của ông Thiệu cũng thế thôi, nằm trong sự dự đoán trước của nhiều người. Trung tá phi công Minh, bạn học của Hoàng Đức Nhã ở Lycee Yersin Đà Lạt, được Nhã kéo về chỉ huy đội bay trực thăng riêng của tổng thống Thiệu trong nhiều năm, gặp tôi ở Dinh Độc Lập tối 29-4-1975 đã bày tỏ sự bất mãn của anh với cách cư xử của Thiệu đối với những người đã từng là thân tín của ông ta.

Lý Quí Chung (1940-2005), bút danh Chánh Trinh, là một nhà báo, và cũng là một dân biểu và nghị sĩ đối lập dưới thời chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Ông từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin trong chính phủ tồn tại 2 ngày của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa cuối cùng Dương Văn Minh. Ông là một nhân vật có điều kiện nhìn sâu vào bên trong bộ máy chính quyền Sài Gòn. Từ góc nhìn của ông, người đọc có thể thấy những sự kiện, biến động chính trị - xã hội, cũng như một số góc khuất trong chính trường Sài Gòn từ 1965 đến 1975.
Ông mất ngày 3.3.2005 tại Sài Gòn.
(Theo MTG)
























.




On Friday, April 3, 2015 at 8:59:59 AM UTC-7, lenguyen wrote:

lenguyen

unread,
Apr 3, 2015, 12:30:30 PM4/3/15
to
Khi đã nói về TT-NguyenVanThieu và Phu nhân thì cũng phải nhắc đến chuyện film "Còi Hụ LOng-An" do hai ông bà làm tài tử chính trong phim


Mời xem: https://groups.google.com/forum/#!topic/soc.culture.vietnamese/lDEgKsMVoos


========== Đồng thời cũng nên tìm hiểu chuyện 16 tấn vàng hay chỉ là 3.5 tấn ?


http://nguyenvanthieugold.blogspot.com/

Báo đăng tin Thiệu chỉ mang đi đuợc 3.5 tấn vàng
http://1.bp.blogspot.com/-1h43uCocXdc/UEgGr-SLO-I/AAAAAAAAAB4/nhMb5fwneRw/s1600/NVT-Carry3.5TonGold1.jpg
http://1.bp.blogspot.com/-34lynqJp-sY/UEgF5abJ3aI/AAAAAAAAAAo/kqB3EM2jYTM/s1600/NVT-KLow-3.jpg

========
Phỏng vấn Thiệu có giúp gì cho các Viet Boat People hay không thì Thệu bĩu môi nói "I have nothing to do with them"
http://3.bp.blogspot.com/-nSEq8mXe0dg/UEgHCXCqgYI/AAAAAAAAACQ/HJCiURmKbkM/s1600/NVT-BlastTroops.jpg
http://4.bp.blogspot.com/-8nH86m6a6Oc/UEgGuasRF9I/AAAAAAAAACI/Hl_O-712RvY/s1600/NVT-VowReturn.jpg

========
Thiệu đẻ thêm con trai Nguyễn Thẹo Long (Vết Thẹo Dài) tại London
http://2.bp.blogspot.com/-AfcnifJfzrM/UEgF592fT4I/AAAAAAAAAAs/nNSPVRRD6z0/s1600/NVT-KLow-4.jpg

Đẻ con xong rồi thì mua nhà to hơn
http://3.bp.blogspot.com/-o47sfuM3Rzo/UEgGqzDTrzI/AAAAAAAAABw/ULPtLV1FDw0/s1600/NVT-BigHouse1.jpg

==========
Thieu planned to carry out 16 tons of Gold but failed.

http://1.bp.blogspot.com/-34lynqJp-sY/UEgF5abJ3aI/AAAAAAAAAAo/kqB3EM2jYTM/s1600/NVT-KLow-3.jpg

==========
Thich Quang Duc và Ngo Dinh Diem
http://www.youtube.com/watch?v=GGdwv77HJNI

NguyenVanThieu 16 tons or 3.5 tons of Gold ?
http://www.youtube.com/watch?v=_Mehym4k-Ss

TT Nguyễn Văn Thiệu London 16 tấn vàng or 3.5 tons of GOLD
http://www.youtube.com/watch?v=dlFAlHc4wCU
TT Nguyễn Văn Thiệu trả lời về vụ 16 tấn vàng-Phần 1.
http://www.youtube.com/watch?v=7Fff2b9l8Gs

TT Ngô Đình Diệm và TT Nguyễn Văn Thiệu
http://www.youtube.com/watch?v=PVMzWkuyW-0

Thich Quang Duc và Ngo Dinh Diem
http://www.youtube.com/watch?v=GGdwv77HJNI

NguyenVanThieu 16 tons or 3.5 tons of Gold ?
http://www.youtube.com/watch?v=_Mehym4k-Ss



















.


On Friday, April 3, 2015 at 8:59:59 AM UTC-7, lenguyen wrote:

lenguyen

unread,
Apr 3, 2015, 12:44:43 PM4/3/15
to
Mạn bàn về bà Thiệu chính là "Một Đệ nhất Phu nhân" cuối cùng của miền Nam-VNCH




_____
Theo thông lệ và các nghi thức chính thì "Inauguration" hay "Lễ Đăng Quang" cho 1 vị Tổng thống nơi công chúng (Public) với sự chứng kiến của báo chí để cho toàn thể ĐồngBào và NhânDân cùng Thế giới xem và nghe rõ qua Radio/TV thì mới là thực thi chính thức

Sau khi ô NguyenVanThieu từ chức thì có trao quyền lại cho ô TrầnVănHương và rồi sau đó vài ngày ô Hương lại trao quyền cho ô DươngVănMinh ... Thì cả 2 vị Hương và Minh này chỉ là 1 con tốt được dùng đến để lấp vào lỗ hổng ..... và "bay chết mặc bay, tao phải chẩu trước", thế thôi, do đó chẳng có cương vị gì chính xác cho cả hai vị này được gọi là " 2 Tổng thống cuối cùng của VNCH/S-VietNam" mà chẳng có nội các hay bàn tay bàn chân nào đứng đàng sau phụ giúp cho cả



Nghe không thông tai thì vui lòng lấy cái cán cuốc mà thông (LOL)












.



On Friday, April 3, 2015 at 8:59:59 AM UTC-7, lenguyen wrote:
0 new messages