Google Groups no longer supports new Usenet posts or subscriptions. Historical content remains viewable.
Dismiss

Nhà thơ và tiếng Sáo Tô Kiều Ngân (Wiki gọi là bà Tô Kiều Ngân)

172 views
Skip to first unread message

Johnny Guitar

unread,
Jul 25, 2016, 6:10:49 PM7/25/16
to


Tôi nhớ hồi còn bé có nghe chương trình Ngâm Thơ và Thổi Sáo trên lànsóng Radio của Quân Đội (VNCH) và tồi cũng đâm ra mê chương trình này nhưng vẫn không rõ là lìn ông hay lìn bà vì lúc thì có giong ngâm của phái nữ và có khi có giọng no;i của phái nam nên tôi có lần viết thư cho Tô Kiều NGân để hỏi về cách ngâm thơ lúc nào trầm lúc nào bổng rồi tôi mua được 1 cây sáo ở tiệm sách va1` cứ thế tập thổi văng nước bọt cong cả môi mới phát ra được tiếng kêu

Lúc viết thơ thì tôi gọi là "Thưa chị Tô Kiều Ngân ....."

Tưởng là có lẽ chẳng bao giờ được thư trả lời, nào nhè "Chào em ..... Tô Kiều Ngân là "anh" chứ không phải là "chị" , thế là tồi mối ngờ ra, ông bố tồi đọc để kiểm thơ do ai viết cho thằng con của mình thì ổng cũng mới vỡ lẽ ra và cười khì

Ngày nay online cóthằng Vẹm nào chui vào WIKI cũng viết Tô Kiều gGần là "bà" https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4_Ki%E1%BB%81u_Ng%C3%A2n

Tô Kiều Ngân
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hình tượng sơ khai Bài viết tiểu sử này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia bằng cách mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.
Tô Kiều Ngân
Công việc nhà thơ, nhà văn, nghệ sĩ thổi sáo
Dân tộc Kinh
Giai đoạn sáng tác 1948 - 2012
Tô Kiều Ngân (1926 - 2012) là một nhà thơ, nhà văn, nghệ sĩ thổi sáo nổi tiếng người Việt Nam[1].
Mục lục [ẩn]
1 Tiểu sử
2 Sự nghiệp
3 Chú thích
Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Tô Kiều Ngân tên thật là Lê Mộng Ngân, sinh năm 1926 tại Huế. Từ nhỏ bà đã sớm tỏ ra có chất nghệ sĩ, thường trốn học, đi chơi đó đây với cây sáo trúc không mấy khi rời tay.
Năm 1946 bà tham gia kháng chiến chống Pháp, phục vụ ban kịch của Vệ quốc đoàn khu IV từ Huế ra Thanh Hoá. Được một thời gian, bà xin tình nguyện chiến đấu tại mặt trận đèo Hải Vân, sau đó bị Pháp bắt năm 1948. Ba tháng sau bà được thả. Từ đó, Tô Kiều Ngân bắt đầu hoạt động văn nghệ. Tác phẩm đầu tiên của bà là kịch thơ "Ngã Ba Đường" do ban kịch Sông Ô trình diễn trên sân khấu Huế.

Năm 1950 bà gia nhập quân đội Quốc gia Việt Nam. Ba năm sau bà đưa gia đình vào miền Nam. Tại đây bà lần lượt viết cho các báo Đời Mới, Người Sống Mới, đồng thời cũng cộng tác với một vài tờ báo xuất bản tại Hà Nội như Hồ Gươm, Giác Ngộ…

Năm 1955 bà cùng Đinh Hùng, Thanh Nam, Hồ Điệp, Hoàng Oanh... thành lập ban thi văn Tao Đàn trên đài phát thanh Sài Gòn. Sau đó bà lại cùng Thanh Nam chủ trương tuần báo Thẩm mỹ, rồi cộng tác với Sáng Tạo, Văn Nghệ Tiền Phong, Tiểu Thuyết Tuần San, Văn Nghệ Chiến Sĩ... Đặc biệt, bà cùng Trương Hoàng Xuân đã sáng tác bài "Cờ ta bay trên Quảng Trị thân yêu" nổi tiếng năm 1972.[2]

Sau 30/4/1975, Tô Kiều Ngân bị bắt đi cải tạo tại Sơn La một thời gian dài.

Những năm cuối đời bà vẫn viết truyện ngắn, viết sách biên khảo, cộng tác với một số tạp chí trong nước.

Bà mất ngày 20/10/2012 tại nhà riêng, quận Bình Thạnh.
Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Thơ
Thơ của bà ít xuất bản mà chỉ được truyền miệng trong giới bạn bè. Năm 1968, một loạt ca khúc phổ thơ chủ đề Huế Mậu Thân của bà rất nổi tiếng là bài "Những Con Đường Trắng" của Trầm Tử Thiêng viết dịp Huế Mậu Thân 1968, "Em Sắp Về Chưa", "Vào Mộng Cùng Em" (Châu Kỳ), "Tiếng chuông Linh Mụ" (Hoàng Nguyên).

Trường Ca Người lính Việt Nam
Ngàn Năm Mây Trắng (tập thơ)
Tiếng Sáo Tao Đàn (ca khúc)

Văn
Mặc Khách Sài Gòn (Hồi Ký)
Người Đi Qua Lô Cốt (tập truyện)
Sách biên khảo
Tự học thổi sáo & ngâm thơ
Chuyện Huế ít ai biết




============ LOL :)

Johnny Guitar

unread,
Jul 25, 2016, 6:15:08 PM7/25/16
to
http://cothommagazine.com/index.php?option=com_content&task=view&id=1079&Itemid=1






NHÀ THƠ TÔ KIỀU NGÂN VÀ BAN THI VĂN TAO ĐÀN - Biên soạn: Phan Anh Dũng PDF Print E-mail


NHÀ THƠ TÔ KIỀU NGÂN QUA ĐỜI TẠI SAIGON, THỌ 86 TUỔI
Nguồn: SB-TN (10/21/2012)



Tin Saigon - Nhà thơ Tô Kiều Ngân, một trong những người đồng sáng lập ban thi văn Tao Đàn trên đài phát thanh Saigon năm 1955, vừa qua đời ngày hôm qua tại Saigon, hường thọ 86 tuổi. Nhà thơ Tô Kiều Ngân thế danh Lê Mộng Ngân, sinh năm 1926 tại Huế. Ông bắt đầu sinh hoạt văn nghệ từ năm 1948. Tác phẩm đầu tiên của ông là kịch thơ 4 màn Ngã Ba Đường do ban kịch Sông Ô trình diễn trên sân khấu Huế. Năm 1950, Tô Kiều Ngân gia nhập quân đội. Năm 1952 ông đưa gia đình vào Nam. Tại đây, ông lần lượt viết cho các báo Đời Mới, Người Sống Mới, đồng thời cộng tác với một vài tờ báo xuất bản tại Hà Nội như Hồ Gươm, Giác Ngộ.

Năm 1955 ông cùng Đinh Hùng và vài người nữa thành lập ban thi văn Tao Đàn trên đài phát thanh Saigon. Sau đó, ông cùng Thanh Nam chủ trương tuần báo Thẩm Mỹ, rồi cộng tác với Sáng Tạo, Văn Nghệ Tiền Phong, Tiểu Thuyết Tuần San và nhiều tờ báo khác. Về mặt quân đội, có thời ông làm chủ bút tờ Quân Đội bán nguyệt san, đồng thời chủ trương biên tập nguyệt san Văn Nghệ Chiến Sĩ của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Theo cáo phó của gia đình, linh cữu nhà thơ được quàn tại tư gia ở quận Bình Thạnh. Lễ động quan vào ngày 24 tháng 10 và sau đó sẽ hỏa táng tại nghĩa trang Bình Hưng Hòa.







Trước bàn thờ và linh cữu của nhà thơ Tô Kiều Ngân (ảnh: Văn Quang)

> Tang Lễ nhà thơ Tô Kiều Ngân (youtube) - Lê Xuân Thìn

> Bộ hình ảnh Tang Lễ - Lê Xuân Thìn













Nhà thơ Tô Kiều Ngân - từ đời lính đến Tao Đàn

Văn Quang – Viết từ Sài Gòn

Thi sĩ Tô Kiều Ngân

Lâu lắm rồi, tôi không gặp anh Tô Kiều Ngân, mặc dù chúng tôi cùng ở chung một thành phố Sài Gòn. Được tin anh từ trần vào ngày 20-10 vừa qua khiến tôi ngỡ ngàng. Sau khi xác nhận, tôi gọi điện thoại cho Huy Sơn ở Mỹ trước tiên vì Huy Sơn và Tô Kiều Ngân cùng tôi từng có thời gian dài cùng làm việc trong tòa soạn 3 tờ báo của Quân Đội là Bán nguyệt san Chiến Sĩ Cộng Hòa, Nguyệt san Phụng Sự và tuần báo Thông Tin Chiến Sĩ.
Sau này Huy Sơn được chuyển sang Bộ Tư Lệnh Không Quân làm tờ báo Lý Tưởng với Hoàng Song Liêm. Huy Sơn, sau khi ở tù cải tạo ra, đi Mỹ theo diện HO.

Tô Kiều Ngân và tôi không đi theo diện HO, mỗi người có một lý do riêng. Tô Kiều Ngân ở lại, có gia đình vợ con, có nhà cửa đàng hoàng. Còn tôi lông bông ở trọ, ở chui hết trong chợ Bàn Cờ đến Trương Minh Giảng rồi đến chợ An Đông, cuối cùng về cái chung cư Nguyễn Thiện Thuật và là “dân ABC đi ở thuê” với bốn năm cái “không”. Vợ con đi tuốt hết nên trở thành độc thân thứ thiệt, không đồng xu dính túi, không bạn bè, không nghề ngỗng gì mặc dù qua 12 năm, 2 tháng 26 ngày ở “trại cải tạo”, tôi trồng rau muống rất giỏi. Khối đội phải nhờ tôi đến gieo hạt rau muống cho khu ruộng mới. Tôi gieo hạt đều lắm và… có tay nên ruộng nào cũng tốt. Thế mà về Sài Gòn thất nghiệp nặng. Tôi cứ nhìn mấy cái hè phố mới được đào xới lên để lát gạch mới, và ước ao rằng chỗ đó cho tôi trồng rau muống thì thành phố không thiếu rau. Cái ước mơ thật ngu xuẩn, vậy mà khi còn ở trong cái gọi là “trại cải tạo”, đôi khi tôi lại cho điều đó có thể thành sự thật! Bởi 12 năm, người ta dạy chúng tôi được có thế thôi và thành phố vào những năm đó toàn dép lốp, nón cối làm chuẩn thì việc trồng rau ở hè phố gọi là “tăng gia sản xuất” cũng có thể được lắm chứ. Hè phố là một sự “lãng phí của bọn tư sản”. Ý nghĩ chưa hẳn là hoàn toàn ngu xuẩn.
Tôi không rõ anh Tô Kiều Ngân được tha về năm nào và cũng không biết anh ở đâu. Cái ngõ Phan Văn Trị, nơi anh ở trước kia, tôi có đến một hai lần, nhưng không chắc anh còn ở đó không. Sau này tôi mới biết tin anh ở mạn Bình Thạnh và rất ít khi lên trung tâm thành phố gặp bạn bè. Anh có những nơi vui chơi riêng ở miền “ngoại ô”. Cho đến khi vợ chồng anh Trần Thiện Hiệp tổ chức kỷ niệm lễ thành hôn vàng bạc 40 hay 50 năm gì đó, khoảng năm 2007-2008 tôi mới gặp lại Tô Kiều Ngân. Anh có vẻ khỏe mạnh hơn lần cuối chúng tôi gặp nhau trong “trại cải tạo” ở Sơn La, vào khoảng năm 1977-78.

Mừng cho người chết trong nhà tù “cải tạo”

Anh Tô Kiều Ngân không ở cùng trại tù với tôi, anh đi “lao động” bị ngã gãy tay, phải đưa về trạm xá gần trại giam tôi ở từ năm 1976 khi được đưa ra Sơn La “học tập”. Dịp đó, nhạc sĩ Thục Vũ, tên thật là Vũ Văn Sâm, ở cùng đội trồng rau với tôi, anh bị đau gan đến vàng mắt. Ban đầu còn được ở lại trại, không phải đi lao động. Tôi có nhiệm vụ “thó” một ít rau sống, cung cấp cho anh hàng ngày. Nhưng khi bệnh tình quá nặng, Thục Vũ được đưa sang bệnh xá. Nói là bệnh xá, chứ ở đây cũng chẳng có thuốc men gì chữa chạy cho bệnh nhân. Thậm chí mỗi lần lên khám bệnh xong, anh y tá bôi cho tí dầu cù là vào tay rồi bảo về uống đi hoặc nằm ngửa cổ ra để “cán bộ y tế” nhỏ cho vài giọt nước củ tỏi vào mũi. Thế là xong. Bệnh nhân nặng chỉ còn việc nằm chờ chết. Thục Vũ cũng ở trong trường hợp ấy.

Một buổi sáng sớm, tôi đang lúi húi trồng luống xu hào, bỗng thấy bên mình có cái gì kêu phần phật. Từ từ ngước lên, tôi thấy một mảnh quần trây-di rách bị gió thổi bay lắc lư làm nên tiếng động nghe cũng… vui tai. Tôi nhận ra ông Phan Lạc Phúc, khoác chiếc áo trây di cũng tả tơi “đồng bộ” với cái quần rách. Nước mắt ông Phúc chảy rất chậm trên mặt, ông nghẹn ngào cất tiếng:
- Thằng Sâm chết ở bệnh xá đêm qua rồi.
Tôi lặng người, bởi mới hôm qua, tôi lẻn sang bệnh xá thăm, Thục Vũ đưa cho tôi hai gói thuốc lào nhỏ, anh nói: “Tôi mệt không hút thuốc được nữa”. Ngồi nói chuyện vài phút, anh Tô Kiều Ngân ở trạm xá này cũng đến ngồi chơi. Tôi thấy Thục Vũ vẫn còn khỏe, vậy mà đêm qua đã ra đi.
Sau đó, anh Tô Kiều Ngân nói với tôi lời an ủi đúng nhất, ngắn nhất và cũng bi thảm nhất: “Mừng cho nó, từ nay nó không còn biết đói rét và không ai hành hạ được nó nữa”.



Đám tang Thục Vũ, hình ảnh bi thảm nhất trong cuộc đời chúng tôi
Nhưng vào buổi chiều năm 1977, khi đồi núi Sơn La bắt đầu chạng vạng, chúng tôi đang làm những công việc cuối cùng ở vườn rau thì bất chợt nhìn sang lối ra từ bệnh xá một khung cảnh hết sức đau lòng. Trên con đường đá cũ nhỏ, vòng theo sườn núi cao vút chập chùng, cách vườn rau là cái ao, đám tang bắt đầu di chuyển chậm chạp. Hai anh cai tù vác súng AK đi đầu, theo sau là một anh tù cầm vài nén nhang, đến 4 anh tù khiêng cỗ quan tài mộc, sau cùng lại là 2 anh cai tù vác súng AK. Suốt con đường dài âm u đó, chỉ có đám người ấy lặng lẽ chuyển động như những bóng ma.
Ở vùng đồi núi bóng tối đổ xuống rất nhanh, mang theo sương mù mỏng dăng ngang triền dốc dựng đứng như những bức tường đá của nhà giam thiên nhiên, chẳng cách nào thoát ra được. Chúng tôi biết chắc đó là đám ma Vũ Văn Sâm tức nhạc sĩ Thục Vũ. Tất cả hơn ba chục tù nhân trong đội rau đứng ngẩn ra, dán mắt nhìn theo cái đám ma thê thảm ấy. Ông Phan Lạc Phúc, đến bên tôi, không nói lời nào, quay mặt đi giấu nước mắt. Nhìn sang phía bên trạm xá, Tô Kiều Ngân và mấy anh bác sĩ trẻ cũng là tù, đứng sau hàng rào kẽm gai cũng ngơ ngẩn. Ngân vẫy tay cho tôi và anh Phan Lạc Phúc chẳng biết để làm gì. Là một sự cảm thông tận cùng hay nói lời từ biệt.
Mấy tay coi tù cũng đứng lặng, nhìn chúng tôi và họ hiểu rằng lúc đó dù bắt chúng tôi thu dụng cụ về trại cũng chẳng ai chịu về, dù có bị bắn tại chỗ. Tất cả đứng như tượng gỗ dõi theo đám tang đi trong buổi hoàng hôn lạnh ngắt, dần khuất vào cuối con đường cong phía chân núi. Sương mù bắt đầu tỏa xuống. Ai đó bỗng cất lên tiếng hát “Sơn La âm u núi khuất trong sương mù. Đoàn tù tha hương cất bước lê trên đường…”. Một bài hát xưa cũ của những nhà cách mạng thương tiếc những chiến sĩ bị giặc bắt cầm tù ở Sơn La. Sao lúc này nó hợp với chúng tôi thế.
Hình ảnh cái đám ma Thục Vũ còn in đậm trong tâm khảm chúng tôi cho đến bây giờ. Tôi chắc anh Tô Kiều Ngân, đến cuối đời cũng chưa quên được hình ảnh này. Nó trở thành những kỷ niệm rất riêng nhưng cũng lại rất chung của những ai đã từng sống dở chết dở qua những cái được gọi là “trại cải tạo”.

Tô Kiều Ngân và cuộc đời binh nghiệp
Có lẽ nhiều thính giả và độc giả biết đến anh Tô Kiều Ngân qua “Tiếng sáo Tao đàn” hơn là biết đến “đời lính” của anh. Tôi thì khác, tôi biết anh từ khi cùng làm chung trong mấy tờ báo của quân đội.
Trở lại chuyện xưa, khi tôi mới được lệnh về Nha Chiến Tranh Tâm Lý lúc đó còn trực thuộc Bộ Quốc Phòng, (sau này mới đổi tên thành Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu), từ năm 1957, khi tôi bắt đầu về làm Trưởng Ban Báo Chí (hồi đó chưa được gọi là Phòng), tôi phụ trách điều hành chung. Hồi đó anh Tô Kiều Ngân phụ trách tờ báo có tên là “Quân Đội”, sau này cụ Ngô Đình Nhu yêu cầu đổi tên, nên chúng tôi đề nghị và được chấp thuận đổi tên thành báo “Chiến Sĩ Cộng Hòa”, ra nửa tháng một kỳ. Báo dành chung cho mọi quân nhân. Tờ nguyệt san Phụng Sự, dành cho sĩ quan do anh Huy Sơn phụ trách. Tòa soạn vỏn vẹn chỉ có chừng 10 người, bởi việc in ấn đã do nhà thầu đảm nhiệm hàng năm. Chúng tôi chịu trách nhiệm biên tập phần nội dung. Ngoài 3 người chúng tôi còn các anh Viêm Hồng, Lý Quảng, Phy Phy… Sau này, khi Cục Tâm Lý Chiến về đường Hồng Thập Tự mới có thêm Huy Vân, Tường Linh, Vũ Công Uẩn. Rồi còn có cả anh Đỗ Tốn, tác giả “Hoa Vông Vang” trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, cũng về làm việc tại Ban Báo Chí. Nhưng ông “công tử con quan” đó chỉ đến cho có mặt rồi lại phóng xe đi. Anh lớn tuổi và cũng là nhà văn thuộc hệ đàn anh, vả lại anh về đó chẳng còn bao lâu đến ngày giải ngũ. Sau nữa có thêm Thanh Nam tái ngũ về làm báo CSCH cùng chúng tôi.


Khi mới bước chân vào “nghề làm báo” tôi chỉ là anh viết lách, chưa hề quen với nghề nghiệp này. Công việc mới tuy có thích hợp với khả năng và mong đợi của tôi, nhưng thật ra nghề làm báo chẳng giống nghề viết lách tí nào. Nghề đọc văn người khác, chọn bài và sửa bài không dễ dàng.

Bạn có biết bài học đầu tiên trong nghề làm báo của tôi là gì không? Đó là nghề sửa morrasse, tức là làm “thầy cò”. Những năm ấy, tất cả báo chí VN còn in typo, sắp chữ bằng tay rồi làm bản kẽm, hình ảnh làm clicher cho vào khuôn. Báo Quân Đội không phải kiểm duyệt nên không bị “đục bỏ”. Tuy nhiên làm thầy cò cũng không dễ. Phải biết các ký hiệu thay thế chữ nghĩa. Ngoài ra còn phải biết “dàn trang”, biết trình bày từng bài dài ngắn sao cho đúng khuôn khổ tờ báo... Đó là chút xíu về “kỹ thuật” mà tôi phải học qua các anh Tô Kiều Ngân và Huy Sơn. Tôi và hai anh ấy cùng sửa morrasse, nhưng đến dernière morrasse cho nhà in chạy máy thì tôi phải ký.

Tô Kiều Ngân rời khỏi báo Quân Đội
Cuộc đời binh nghiệp của Tô Kiều Ngân khởi thủy từ khi làm tờ báo Tiếng Kèn của Địa Phương Quân ngoài Huế. Năm 1953, anh được đồng hóa vào quân đội và đưa gia đình từ Huế vào Saigon.
Chúng tôi cùng làm chung trong Ban Báo Chí từ năm 1957, lúc đó anh mang cấp chuẩn úy. Cho đến khi dọn về Hồng Thập Tự, gần cầu Thị Nghè. Một năm sau, tôi được lệnh đi Quân Khu 3 thành lập Đại Đội Văn Nghệ cho quân khu này dưới quyền tướng Đỗ Cao Trí. Đại đội này có cả sự đóng góp rất quan trọng của nhạc sĩ Anh Bằng.
Khi Đại đội thành lập xong, đi trình diễn được ở các tỉnh thuộc quân khu, tôi trở lại Nha CTTL. Lúc đó Phòng Tài Liệu do anh Vũ Quang Ninh làm trưởng phòng đang thu thập tài liệu để làm cuốn “Trăm hoa đua nở” về vụ án “Nhân văn giai phẩm tại miền Bắc”. Tôi lại được lệnh về đây phụ giúp anh Ninh thu thập và phân tích những tài liệu này.
Bỗng một buổi sáng, vào khoảng năm 1960, tôi được lệnh trở lại Ban Báo Chí ngay. Khi trở lại tòa soạn tôi mới biết anh Tô Kiều Ngân vừa được thuyên chuyển đi đơn vị khác, cũng trong ngành Chiến tranh chính trị (CTCT). Quả thật tôi không hề biết vì lý do nào. Có thể vì nhu cầu công vụ và cũng có thể vì những lý do khác. Tôi cũng không thể tìm hiểu rõ hơn.
Anh đến tuổi được giải ngũ năm 1974 khi mang cấp Thiếu Tá phục vụ tại Phòng CTCT Trường Võ Bị Đà Lạt.
Lúc đó, để đáp ứng quân số tăng, quân đội có hơn một triệu quân nhân, tờ báo Chiến Sĩ Cộng Hòa phát hành 200.000 số một kỳ, tính ra mỗi tiểu đội được 1 tờ.
Sau đó vì nhu cầu tin tức chiến trường ngày một cao, chúng tôi phải làm thêm tờ Thông Tin Chiến Sĩ, ra khổ lớn hơn, tuần 1 kỳ gồm 8 trang.

Đến “cuộc chơi” ở Ban Tao Đàn
Khoảng thời gian tôi và anh Tô Kiều Ngân làm việc với nhau chừng hơn 3 năm và cũng có khá nhiều kỷ niệm của thời trai trẻ.
Tô Kiều Ngân rất tài hoa và cũng đào hoa, nhưng anh rất it khi đi ăn chơi cùng chúng tôi. Anh hơn tôi đến 6 tuổi và đã có gia đình nên chơi khác với cánh còn “xê li bạt” … Tôi nhớ hồi đó Huy Sơn, Nguyễn Ái Lữ và tôi, còn rách như cái mền, nhưng thứ bảy chủ nhật lại ngứa chân muốn đi nhảy. Ông Nguyễn Ái Lữ hiền như bụt, vài lần rủ Tô Kiều Ngân, anh cũng không chịu đi. Anh dành thì giờ cho ban Tao Đàn.
Đó là khoảng thời gian từ 1957- 1960, anh Tô Kiều Ngân là một trong những nhân vật chủ chốt của Ban Tao Đàn ở Đài Phát Thanh Sài Gòn. Với hơn 20 năm trong cuộc đời quân ngũ (1953-1974) thì Tao Đàn đối với anh chỉ là một cuộc chơi. Nhưng cuộc chơi ấy lại để lại dấu ấn đậm nét nhất, đáng giá nhất trong cuộc đời anh và thi ca VN.
Theo anh Phan Lạc Phúc thì sự khai sinh và công việc của Ban Tao Đàn rất đa dạng. Xin trích lược bài nhận định của anh Phan Lạc Phúc tức ký giả Lô Răng:

Những nhân vật then chốt của Ban Tao Đàn
“Người khai sinh và điều khiển chương trình Tao Đàn, như cả nước đều biết, là thi sĩ Đinh Hùng. Chương trình Tao Đàn có thể chia ra làm 3 bộ phận. Bộ phận quan trọng nhất là ban biên tập và diễn đọc gồm Đinh Hùng, Thanh Nam, Thái Thủy; vài năm sau có Huy Quang Vũ Đức Vinh từ Nha Trang vào cộng tác. Bộ phận thứ 2 là ban ca ngâm gồm những tài tử nam, nữ trình diễn thường xuyên hay tùy hứng. Người “đa năng” nhất trong ban Tao Đàn là Tô Kiều Ngân. Anh vừa là tài tử diễn ngâm, vừa biên tập, vừa trong ban nhạc. Tiếng sáo Tô Kiều Ngân réo rắt thường được coi là “indicatif” của Tao Đàn, hợp cùng tiếng đàn thập lục trầm bổng của Bửu Lộc, tiếng piano trầm ấm trước của Ngọc Bích, sau của Phạm Đình Chương. Về giọng ngâm nam ngoài họ Tô, còn có Hoàng Thư; một thời giọng ngâm Thanh Hùng cũng có góp tiếng trên đài. Tô Kiều Ngân tuy giọng không khỏe nhưng anh là người ngâm “khéo” nhất, ngâm giọng Bắc, giọng Trung đều nhuyễn. Hoàng Thư có chất giọng say sưa, mạnh mẽ được đời nhớ mãi trong Bài ca Ngư phủ của Vũ Hoàng Chương. Thanh Hùng với giọng thổ pha kim, xuất sắc trong những tác phẩm bi hùng. Có những giọng ngâm không có mặt lâu năm trên đài nhưng vẫn được đời ghi nhớ như Quách Đàm trong những bài lục bát hay Thiếu Lang trong Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác.
Về giọng ngâm nữ lúc khởi đầu phải nhắc tới cái ngọt ngào của Giáng Hương nhưng các tay sành điệu đều không thể nào quên giọng ngâm đổ hột đặc sắc của bà Đàm Mộng Hoàn, một danh tiếng vang lừng tại Khâm Thiên tiền chiến trong Tỳ bà Hành. Giọng ngâm nữ nhiều năm làm thổn thức trái tim thính giả là Hồ Điệp trong những bài thơ nức nở TTKH. Về sau có một giọng nữ như sương như khói làm khởi sắc những vần ca dao dân tộc và những bài ca huyền sử. Đó là giọng ngâm Hoàng Oanh”. (ngưng trích).

Tiếng sáo của những cảm xúc
Thật ra Tô Kiều Ngân hoạt động trong nhiều lãnh vực, làm báo, viết văn (tác phẩm đầu tay của anh là tập truyện ngắn “Người đi qua lô cốt”), làm thơ, ngâm thơ, bài sáo anh thổi ở Tao Đàn do chính anh sáng tác và đã xuất bản. Nhưng nổi tiếng nhất vẫn là tiếng sáo Tao Đàn. Bây giờ người ta nhớ đến tài năng tuyệt vời của anh vì tiếng sáo đó và giọng ngâm thơ mang âm điệu Huế hơn tất cả những thứ khác. Nếu so sánh với tiếng sáo của Nguyễn Đình Nghĩa, theo nhận xét của tôi, mỗi người có một cái hay riêng. Tiếng sáo của Tô Kiều Ngân cất lên theo cảm xúc từ bài thơ của tác giả và phong cách của người ngâm thơ nên bay bổng và dễ làm rung động lòng người hơn. Tiếng sáo của Nguyễn Đình Nghĩa hay về bài bản. Nếu anh thổi một bài như Thiên Thai, rất điêu luyện. Nhưng nhiều thính giả vẫn nhớ họ Tô hơn.

Từ biệt Tô Kiều Ngân, người cuối cùng của Tao Đàn ra đi
Nhận được tin Tô Kiều Ngân mất, sau khi điện thoại cho Huy Sơn và Hoàng Song Liêm, tôi gọi cho Hàm Anh (còn có bút danh là Sài Gòn Cô Nương), bởi Hàm Anh là con gái nhà phê bình Thượng sĩ, trước đây ở cùng xóm Phan Văn Trị với gia đình anh Tô Kiều Ngân. Chúng tôi mang vòng hoa tới căn nhà khá đẹp của gia đình anh ở trong một xóm nhỏ thuộc quân Bình Thạnh.
Người đón tiếp chúng tôi rất vồn vã chính là bà quả phụ Tô Kiều Ngân. Nhưng tôi đã đọc cái cáo phó của gia đình trên một tờ báo nước ngoài. Nếu chú ý, bạn sẽ thấy một sự… hơi lạ. Đó là có tới hai bà cùng ký tên chung là vợ. Một bà là Phạm Thị Thìn, một bà là Lê Thị Kim Hoa. Một sự “chính danh” ít thấy trên bản cáo phó nào. Tôi phải ghi lại sự kiện này cho đúng, xin chia buồn đến cả 2 gia đình.
Tôi phải lựa lời khơi gợi lại chuyện cũ xem có đúng bà này là “đệ nhất phu nhân” thời xưa tôi đă gặp không. May quá, đệ nhất phu nhân Tô Kiều Ngân nhận ra tôi ngay. Chị ân cần nắm tay tôi thân thiết. Các con trai, con gái anh, cả dòng trước dòng sau, cũng thân mật như vậy. Con gái lớn của anh (là vợ của nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan, mất cách đây 2 năm) cũng tới thăm hỏi. Tôi có cảm tưởng như gia đình anh và tôi chưa xa nhau bao giờ.
Tôi và cháu Hàm Anh cùng vào trước linh cữu anh, từ biệt người bạn cũ. Anh ra đi là người cuối cùng cộng tác thường xuyên, là trụ cột của ban Tao Đàn. Nhà văn Tạ Quang Khôi tính nhẩm rằng:
- Thi sĩ Đinh Hùng, trưởng ban Tao Đàn của đài phát thanh Saigon, mất năm 1969 vì ung thư bao tử. Hoàng Thư, một giọng ngâm nam rất truyền cảm, mất cách đây khoảng 20 năm ở Saigon. Hồ Điệp mất tích trên đường vượt biên. Thanh Nam qua đời năm 1985 ở Seattle (tiểu bang Washington) vì ung thư cuống họng. Huy Quang Vũ Đức Vinh mất cuối năm 2005 vì bị tai biến mạch máu não trong khi bác sĩ đang giải phẫu để làm by pass (ở Seattle). Thái Thủy ra đi vì ung thư phổi ở Nam Cali cách đây gần 3 năm.
Từ biệt Tô Kiều Ngân, từ biệt nhóm Tao Đàn nhưng tiếng sáo, giọng ngâm của Tao Đàn còn lại mãi trong đời sống thi ca Việt Nam và trong lòng người Việt yêu thơ khắp nơi.

Văn Quang – 26-10-2012



Linh cữu và bàn thờ nhà thơ Tô Kiều Ngân tại nhà riêng 56/7/4 Điện Biên Phủ, Q. Bình Thạnh ngày 23-10-2012.



Bà quả phụ Tô Kiều Ngân và con trai cùng Văn Quang bên bàn thờ nhà thơ Tô Kiều Ngân.

Bạn đọc muốn nghe lại giọng ngâm của nhà thơ Tô Kiều Ngân có thể vào đường dẫn này:

Thơ Áo lụa Hà Đông của Nguyên Sa - Tô Kiều Ngân ngâm

http://www.youtube.com/watch?v=C3E5k60Cvig



Xin mời nghe chương trình của đài SBS Radio Úc Châu về ban Tao Đàn, Tiếng Nói Thi Ca Miền Tự Do:

> Phần 1 (mp3) > Phần 2 (mp3) > Phần 3 (mp3)

Phần 1:
- Hồi ức của Trần Ngọc Ninh, Văn Quang, Phan Lạc Phúc
- Phỏng Vấn Hoàng Oanh
- “Đi Chùa Hương” thơ: Nguyễn Nhược Pháp - tiếng ngâm Hoàng Oanh

Phần 2:
- “Bẽn Lẽn” thơ Hàn Mặc Tử - tiếng ngâm Hồ Điệp ngâm
- Phỏng vấn Nguyễn Đình Toàn
- Hồi ức Thái Thủy
- "Bài Ca Ngư Phủ" thơ: Vũ Hoàng Chương - tiếng ngâm Hoàng Thư
- Hoàng Oanh nói về hoạt động làm việc của ban Tao Đàn
- Nói về Thái Thủy

Phần 3:
- Phỏng vấn Đoàn Yên Linh
- Phỏng vấn Hoàng Oanh
- Nói về Hoàng Thư, Hồ Điệp
- “Đi Chùa Hương” – thơ Nguyễn Nhược Pháp - tiếng ngâm Hoàng Oanh & Hồ Điệp
- Nói về Tô Kiều Ngân
- “Giọng Huế” - thơ: Tô Kiều Ngân - giọng ngâm Tô Kiều Ngân
- “Phong Kiều Dạ Bạc” - thơ: Trương Kế - giọng ngâm Tô Kiều Ngân
- “Tống Biệt Hành” - thơ: Thâm Tâm - giọng ngâm Tô Kiều Ngân



Đinh Hùng Thanh Nam Thái Thủy Huy Quang Vũ Đức Vinh



Hồ Điệp Thanh Hùng Hoàng Thư Hoàng Oanh



Nhạc sĩ Phạm Đình Chương Nhạc sĩ Ngọc Bích









Thủ bút của Thi sĩ Đinh Hùng ký tặng Tô Kiều Ngân





Giọng Huế - thơ & diễn ngâm: Tô Kiều Ngân > MP3 > Youtube

"Hồ Biếc" (youtube của Dr. Dương Đình Hùng) - diễn ngâm: Tô Kiều Ngân -
nguyên tác thơ: "Le Lac" của Aphonse de Lamartine - người dịch Phong Vũ

Tống Biệt Hành - thơ: Thâm Tâm - diễn ngâm: Tô Kiều Ngân

Gửi Người Dưới Mộ - thơ: Đinh Hùng - diễn ngâm: Tô Kiều Ngân

Màu Tím Hoa Sim - thơ: Hữu Loan - diễn ngâm: Tô Kiều Ngân

Áo Lụa Hà Đông - thơ: Nguyên Sa - diễn ngâm: Tô Kiều Ngân



Những Con Đường Trắng - thơ: Tô Kiều Ngân; phổ nhạc: Trầm Tử Thiêng
Tiếng hát Hoàng Oanh: > MP3 >Youtube



Những Con Đường Trắng
Nhạc: Trầm Tử Thiêng - Lời: thơ Tô Kiều Ngân

Ngày xưa Huế có con đường trắng
Ơi con đường trắng
Áo trắng đơn sơ,
Áo trắng ngây thơ,
Áo trắng như mơ,
Áo trắng học trò

Nàng Tôn Nữ tóc nghiêng vành nón,
Ơi nghiêng vành nón,
Tiếng guốc khua vang,
Ánh mắt mênh mang,
Ríu rít như chim,
Khắng khít tìm đàn

Các em đi vàng thu, lá thu bay
Ðường lên trường Ðồng Khánh gió heo may
Tôi đứng chờ bên dòng Hương xanh ngát,
Nghe lòng mình xao xuyến, ngất ngây say ...

Hò ... ơ ... ờ ... ơ ... ơ ... í ... í ... i ... à ... ơi
Ngày nay Huế có nhiều con đường trắng
Áo qua Ðông Ba,
Áo về Thượng Tứ,
Áo lên Bến Ngự,
Áo ngược Phú Cam ...

Hò ơi, ơi! Ðầu xanh mà ai quấn khăn tang
Mùa xuân chừ héo hắt
Hò ơi Mùa xuân mà héo hắt,
dấu hờn chưa nguôi ...Hò ơi, ơi ...

Ngày nay Huế có nhiều con đường trắng
Ơi con đường trắng,
Áo chế thương đau,
nước mắt tuôn mau,
Áo trắng ngây ngây,
Áo trắng lạnh người

Còn đâu nữa những con đường trắng,
Những con đường trắng
Cuối phố Ðông Ba,
Áo trắng đi qua,
Áo trắng ngây thơ,
Bóng dáng ngọc ngà ...





Tiếng Chuông Linh Mụ - thơ: Tô Kiều Ngân - phổ nhạc: Hoàng Nguyên

Tiếng hát: Hoàng Oanh & Duy Khánh







ĐINH HÙNG & VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Tác giả: Tô Kiều Ngân





Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương
Những thi sĩ không… nhà !

Lịch sử văn học Việt Nam đã ghi nhận tên tuổi họ, nhưng trong biến thiên của lịch sử dân tộc không ít văn thi sĩ tên tuổi phải chìm nổi cùng vận mệnh đất nước….Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương là những nhà thơ nổi tiếng từ hồi “phong trào thơ mới”. Họ đều là những “đại gia” trong làng thơ nhưng cả hai, không ai tự tạo được cho mình một mái nhà mà suốt đời toàn đi ở nhà thuê.

Năm 1954, khi vào Sài Gòn, hai người thuê một căn nhà lợp tôn, vách ván tại xóm Hòa Hưng. Vũ Hoàng Chương cùng vợ ở trên gác, dưới nhà là tổ ấm của gia đình Đinh Hùng. Nhị vị này là anh em: Vũ Hoàng Chương lấy chị ruột Đinh Hùng là bà Đinh Thị Thục Oanh nên hai nhà sống chung với nhau trong bước đầu nơi xứ lạ, quê người là điều dễ hiểu.Tuy nhiên thực tế lại rất… khó sống. Quen với cảnh “miếu nguyệt, vườn sương”, “cách tường hoa ảnh động” nay phải giam mình trong căn gác gỗ nóng hầm hập, hơi nóng từ mái tôn phả xuống như muốn luộc chín người,Vũ Hoàng Chương cảm thấy nguồn thơ đang bị nắng Sài Gòn làm cho khô cạn.

Dưới nhà, Đinh Hùng cũng chẳng hơn gì, anh cũng đánh trần ra, vừa quạt, vừa nắm viết “Kỳ Nữ gò Ôn Khâu”, “Đao phủ thành Đại La” cho các nhật báo Sài Gòn thời đó. Ngoài viết tiểu thuyết dài từng kỳ, anh còn vẽ tranh vui và giữ luôn mục “Đàn ngang cung” là mục thơ trào phúng ký tên Thần Đăng.Vũ Hoàng Chương dạy học tại trường Văn Lang. Đinh Hùng viết báo và bình thơ tại Đài phát thanh.Cả hai kiếm tiền không đến nỗi chật vật nhưng cả hai đều không tậu được cho mình một mái ấm là vì họ trót dính đến nàng tiên nâu nên kiếm tiền bao nhiêu đều tan thành mây khói.

Để kiếm một chỗ ở thoải mái hơn họ Đinh và họ Vũ tạm chia tay nhau, mỗi gia đình đi thuê một nơi ở khác.Tác giả “Thơ Say” dọn về chợ Vườn Chuối (đường Nguyễn Đình Chiểu bây giờ).Họ Đinh thì mướn một căn gác hẹp ở xóm lao động gần đường Frères Louis (trước 1975 là đường Võ Tánh, nay là Nguyễn Trãi). Xóm lao động này có ngõ dẫn ra đường Lê Lai.Con đường nằm bên cạnh ga xe lửa Sài Gòn, hồi đó chưa lập thành công viên như bây giờ, quang cảnh còn rất vắng. Chỗ ở mới cũng không hơn gì căn nhà ở xóm Hòa Hưng, chật hẹp, tối tăm, nóng bức.

Mỗi lần xong việc ở đài phát thanh, Đinh Hùng thường rủ chúng tôi về nơi anh ở, không phải ở nhà anh mà là họp nhau tại một quán rượu ở gần nhà, đường Lê Lai.Đường này thường đêm vắng ngắt, có lần uống say, Đinh Hùng cao hứng mở cuộc thi… bò ra đường xem ai bò nhanh. Thế là Thanh Nam, Tô Kiều Ngân, Đinh Hùng, Thái Thủy, Hoàng Thư, Quách Đàm… hăng hái tham gia môn vận động chưa từng diễn ra ở bất cứ vận động trường nào! Bò xong rồi nằm lăn ra đường, vừa đọc thơ, vừa cười.

Ít lâu sau, Đinh Hùng lại đổi nhà. Lần này anh thuê được một căn gác, nhà tường hẳn hoi, tại đường Trần Văn Thạch, gần chợ Tân Định, nay đổi tên là Nguyễn Hữu Cầu.Nhà lợp ngói lại ở mặt tiền nhưng vào nhà chẳng thấy bàn ghế gì, chỉ thấy một chiếc giường nằm chình ình ngay giữa nhà. Trên giường chất chồng đủ thứ: mền gối, sách vở, ấm chén và có một thứ không thể thiếu đó là chiếc bàn đèn thuốc phiện. Đinh Hùng nằm lọt thỏm vào giữa “giang sơn” của anh, vừa “dìu hồn theo cánh khói” vừa tìm ý thơ.Tác giả “Đường vào tình sử” có thói quen nằm mà viết. Anh nằm vắt chân chữ ngũ, đặt tập giấy lên đùi.Có lẽ lâu ngày nên quen, trong tư thế đó, chữ viết anh vẫn bay bướm, rõ ràng, không dập xóa, trang bản thảo nào cũng sạch sẽ, xinh đẹp.

Khi cần đi đâu , họ Đinh lại vớ lấy chiếc sơ mi đã mặc bốn, năm hôm trước, quàng bên ngoài chiếc áo vét cũ, cà vạt đàng hoàng.Tắm ư, chỉ cần vào “toa-let” mở nước ở “la-va-bô”, nhúng đầu vào bồn nước rồi hất lên, chảy xơ qua là xong. Trông Đinh Hùng lúc nào cũng ăn mặc chỉnh tề nhưng đừng ai ngồi quá gần anh, vì anh ít khi… tắm.

Vũ Hoàng Chương lại đổi nhà một lần nữa. Lần này anh mướn nhà ở đường Nguyễn Khắc Nhu, ở gần nhà Bình Nguyên Lộc.Tuy được đi dự Hội nghị Thi Ca quốc tế ở nước ngoài, có thơ dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp, tiền kiếm được có thể mua một căn nhà bực trung nhưng họ Vũ vẫn đi ở nhà thuê.
Vào các năm 1973 – 1975, vợ chồng anh được nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội mời về cho ở một căn gác tại toà biệt thự đồ sộ của bà ở đường Nguyễn Trọng Tuyển.Nói là cho ở nhưng họ Vũ phải trả tiền điện, tiền nước và tiền điện thoại. Anh đặt tên chỗ ở mới này là “Gác Mây”.
Nơi đây, tôi và bạn bè đã có lần uống rượu với Vũ Hoàng Chương, nghe anh đọc thơ Tuy Lý Vương và phát hiện ra cái thôn Vỹ Dạ ở Huế đã đi vào thơ Hàn Mạc Tử không phải là Vỹ Dạ mà là Vỹ Dã (cánh đồng lau).

Nhưng rồi Vũ Hoàng Chương cũng không an trú lại “Gác Mây” được bao lâu.
Sài Gòn 75 , bạn bè của chủ nhân Mộng Tuyết vào ra thăm bà tấp nập.Có lẽ thấy sự hiện diện của Vũ Hoàng Chương ở tại nhà mình có sự không tiện nên bà đánh tiếng để họ Vũ dọn đi. Phải đi thôi nhưng phải đi đâu?Thời buổi khó khăn, tiền đâu để đặt cọc, thuê nhà? Anh đành dắt díu vợ con về tá túc tại căn nhà bé bằng bàn tay của bà quả phụ Đinh Hùng bên khu Khánh Hội.

Đinh Hùng ra đi trước Vũ Hoàng Chương. Anh mất vì bệnh ung thư tại bệnh viện Bình Dân, an táng tại nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi. Đám tang trọng thể.Thuở sinh thời, Đinh Hùng từng viết trong thơ:
Khi tôi chết các em về đấy nhé
Cảm tấm lòng tri ngộ với nhau xưa
Tay cầm hoa, xoả tóc đến bên mồ…
Điều mong ước đó, kỳ diệu thay lại biến thành hiện thực: trong đám tang của anh người ta thấy có hai chục cô thiếu nữ mặc áo trắng, xỏa tóc, tay cầm hoa lặng lẽ sắp hàng đi theo linh cửu.Họ đến bên mồ và lặng lẽ thả những bó hoa xuồng lòng huyệt, ngậm ngùi tiễn đưa người thi sĩ. Hiện tượng này không do một sự sắp đặt mà do một cảm ứng tự nhiên.

Đinh Hùng mất rồi, vợ anh phải trả căn nhà ở gần chợ Tân Định lại cho chủ.Đang chưa biết ở đâu thì may thay, một vị tướng quân hồi đó, rất yêu thơ mà lại có chức quyền nên đã vận động cấp cho bà quả phụ Đinh Hùng một căn nhà ở khu Khánh Hội.
Bà Đinh Hùng với con trai là Đinh Hoài Ngọc không thể ôm một căn nhà lớn để mà nhịn đói nên đã bán căn nhà đó đi rồi rút lui vào vùng sâu, vùng xa của bến Phạm Thế Hiển lúc đó còn đìu hiu lau lách, dựng một mái chòi để sống qua ngày.

Chính nơi đây, Vũ Hoàng Chương đã cùng vợ con sống chui rúc những ngày cuối đời của anh trước khi “được” đưa đến ở một toà nhà to lớn, kiên cố, có lính gác ngày đêm, đó là… khám Chí Hoà!
Vũ Hoàng Chương bệnh hoạn, suy sụp rất nhanh nên ít lâu sau khi được thả ra, anh lặng lẽ ra đi.Đám tang anh cũng cử hành trong lặng lẽ, nghèo nàn, hiu hắt.
Năm 76, Sài Gòn xong, mọi người còn bận rộn với những vấn đề to lớn, đa số bạn bè và người hâm mộ anh kẻ đi tập trung cải tạo, kẻ đi nước ngòai, người còn lại thì do không biết tin anh chết nên đám tang anh chỉ thưa thớt dăm người đi đưa, trong đó có nhà thơ Bàng Bá Lân và Tôn Nữ Hỷ Khương

Mười năm sau, 1986 mộ Vũ Hoàng Chương được cải táng về chôn tại nghĩa địa của chùa Giác Minh tại Gò Vấp. Suốt một đời lận đận vì nỗi không nhà, giờ đây hai con người tài hoa kia đã có một chỗ ở trang trọng, miên viễn đó là chỗ ngồi lâu bền trong văn học sử và điều an ủi lớn nhất là họ còn sống mãi trong tâm hồn những khách yêu thơ.

TÔ KIỀU NGÂN



KỶ NIỆM TAO ĐÀN - Phan Lạc Phúc

Đầu năm 1956 tôi từ biệt nghề "chiến binh lội ruộng" về Phòng 5 bộ Tổng tham mưu làm sĩ quan thông tin báo chí. Lúc bấy giờ tôi chưa có vợ con gì, khoác cái ba lô lên lưng là có thể đi cùng trời cuối đất. Về Sài Gòn chưa biết ở đâu tôi xáp vô ở với bạn cũ Thanh Nam ở ngõ Nancy (đường Phan Văn Trị). Tôi và Thanh Nam chơi với nhau từ khi tôi từ ngoài khu về Hà Nội ăn dầm nằm dề trên căn gác phố hàng Bông nhà Nguyễn thiệu Giang, tập tọng làm văn nghệ văn gừng dưới sự hướng dẫn của đàn anh Đinh Hùng. Trong nhóm chúng tôi ngày ấy ngoài Thanh Nam, Nguyễn Thiệu Giang còn có Nguyễn Minh Lang, Phan Nghị, Huy Quang Vũ Đức Vinh, những người Thanh Nam nhắc đến trong bài hành tuổi 40 vài chục năm sau:

.. Bạn cũ hãy nương theo rét lạnh
Về đây cùng nhập một cơn say
Chí lớn chia nhau đầy gác nhỏ
Bụi hồng chưa khiến tóc xanh phai
Dăm bảy lòng sông ôm biển cả
Coi đời dưới mắt nhẹ không ai
Cơn mê nhập cuộc sầu chưa bén
Thân thế chưa đau cát bụi này ..

Sau hiệp định Genève 1954 nhóm chúng tôi tan tác kẻ đi người ở. Theo anh Đinh Hùng vào Nam có Vũ Đức Vinh, Phan Nghị và tôi. Thanh Nam đã vào Sài Gòn trước (1953). Ở lại có Nguyễn Minh Lang, Nguyễn Thiệu Giang. Bây giờ (1956) tôi ở với Thanh Nam, gặp lại anh Đinh Hùng và có thêm những người bạn mới. Ở cùng nhà ngõ Nancy lúc bấy giờ có nhà thơ Thái Thủy (tác giả Lá thư Gửi mẹ), kịch sĩ kiêm "ngâm" sĩ và vũ sư (múa Trấn thủ Lưu đồn) Hoàng Thư, nhà báo Vũ Quang Ninh, quản đốc đài phát thanh Quân đội. Một lũ "xê li bạt" ở với nhau, không có đàn bà, không có trẻ con, ăn uống tùy tiện, tối đến sải chiếu ra, chăng màn ngủ, mỗi anh một góc, không phiền ai. Nhà này trước đây còn có văn sĩ Tạ Quang Khôi (xước danh Tạ ống khói) nhưng ít lâu nay ông "Ống khói" tạm biệt nơi này vô Đại học Sư phạm rồi. Nhà này phải để sàn rộng rãi là có lý do của nó. Ông Hoàng Thư thỉnh thoảng tập múa Trấn thủ Lưu đồn nên phải có chỗ cho "vũ sư" tập dượt. Vũ sư mặc quần đùi, thân thể hom hem nhưng múa rất hăng, vừa múa vừa hát "Trấn thủ ấy mấy lưu đồn. Ngày thì canh điếm ấy tối dồn là việc quan, chém tre mà đẵn gỗ trên ngàn ..".

Nhà một lũ độc thân nên anh em dễ dàng hội họp, gặp nhau "phùng trường tác hí". Sải chiếu ra, ăn nhậu dài dài. Hay đến đây là đàn anh Đinh Hùng, có khả năng đặc biệt vừa nằm vừa viết văn chương Tao Đàn mà chữ nghĩa vẫn rồng bay phượng múa. Có ông Vũ Khắc Khoan gõ muỗng vào ly mà "Hồ trường, hồ trường ta biết rót về đâu". Có ông Mai Thảo với ông Phạm Đình Chương rượu uống tì tì, càng uống mặt càng tái đi. Có ông Anh Ngọc say ngất ngư mà vẫn hát "Anh đến thăm em một chiều mưa'". Có ông Tạ Tỵ ngày Tết chạy sang, sải chiếu ra, rút bất.

Văn nghệ sĩ đến đây nhiều như thế nên người ta bảo ngõ này là ngõ "văn nghệ". Khu này cũng có khá đông anh em ta cư ngụ. Từ chợ Nancy quẹo vô ngõ Phan Văn Trị là nhà của nhà văn, nhà thơ kiêm "sáo sĩ" Tô Kiều Ngân. Đi thêm dăm chục bước chân là nhà Thanh Nam. Trước cửa nhà Thanh Nam là nhà Tạ Tỵ họa sĩ, văn, thi sĩ. Ngay cạnh nhà Thanh Nam là nhà ban Hợp ca Hạc Thành của anh em nhạc sĩ Nhật Bằng, Nhật Phượng, Thể Tần, Hồng Hảo. Xế bên kia một chút là nhà của ký giả lão thành Thượng Sĩ, nhà phê bình, điểm sách trên tờ Tin Mới của Hà Nội năm xưa (nhà văn nữ Sài Gòn Cô Nương xuất hiện trên làng báo hải ngoại mấy năm gần đây là con gái anh Thượng Sĩ).

Năm ấy (1956) là thời kỳ cực thịnh của ban Tao Đàn, phù hợp với giai đoạn khởi đầu của nền Đệ Nhất Cộng Hòa khi miền Nam VN vừa có một thể chế mới, một tương lai mới. Pháp đã rút hết về nước. Trên phương diện truyền thanh, các đài của Pháp như Pháp Á, Con nhạn (Hirondelle) nhất loạt đóng cửa; đài quốc gia (lúc bấy giờ chưa có TV) cũng như các chương trình phát thanh có bổn phận phải "lớn lên" cho kịp với tình hình. Ban Tao Đàn ngoài trách nhiệm đã được minh thị "tiếng nói của thơ văn miền Tự Do" còn tiềm ẩn một nghĩa vụ "đem theo văn hóa của 1 triệu người miền Bắc vừa định cư ở miền Nam". Thơ, văn Tao Đàn phần đông là văn hóa Bắc Hà, là những làn điệu của văn minh sông Hồng, sông Mã giao duyên cùng văn minh Hương Giang và Cửu Long Giang.

Bao nhiêu năm đã trôi qua, bây giờ từ vĩ tuyến 17 trở vào trong, chúng ta có một lối ngâm thơ đã trở thành phổ biến: ngâm thơ Tao Đàn. Nó xuất hiện thường xuyên trong cải lương miền Nam hay bài chòi miền Trung. Nó là cái còn lại, là dấu ấn của văn nghệ sĩ đã đưa Tao Đàn vào đời sống văn hóa.

Người khai sinh và điều khiển chương trình Tao Đàn, như cả nước đều biết, là thi sĩ Đinh Hùng. Năm 1956 tôi ở nhà Thanh Nam, nơi anh Đinh Hùng thường tới viết bài, các cộng sự thân thiết nhất của anh đều ở quanh đây nên có thể nói nơi đây là "đại bản doanh" của chương trình Tao Đàn. Chương trình Tao Đàn có thể chia ra làm 3 bộ phận. Bộ phận quan trọng nhất là ban biên tập và diễn đọc gồm Đinh Hùng, Thanh Nam, Thái Thủy; vài năm sau có Huy Quang Vũ Đức Vinh từ Nha Trang vào cộng tác. Bộ phận thứ 2 là ban ca ngâm gồm những tài tử nam, nữ trình diễn thường xuyên hay tùy hứng. Người "đa năng' nhất trong ban Tao Đàn là Tô Kiều Ngân. Anh vừa là tài tử diễn ngâm, vừa biên tập, vừa trong ban nhạc. Tiếng sáo Tô Kiều Ngân réo rắt thường được coi là "indicatif" của Tao Đàn, hợp cùng tiếng đàn thập lục trầm bổng của Bửu Lộc, tiếng piano trầm ấm trước của Ngọc Bích, sau của Phạm Đình Chương. Về giọng ngâm nam ngoài họ Tô, còn có Hoàng Thư; một thời giọng ngâm Thanh Hùng cũng có góp tiếng trên đài. Tô Kiều Ngân tuy giọng không khỏe nhưng anh là người ngâm "khéo" nhất, ngâm giọng Bắc, giọng Trung đều nhuyễn. Hoàng Thư có chất giọng say sưa, mạnh mẽ được đời nhớ mãi trong Bài ca Ngư phủ của Vũ Hoàng Chương. Thanh Hùng với giọng thổ pha kim, xuất sắc trong những tác phẩm bi hùng. Có những giọng ngâm không có mặt lâu năm trên đài nhưng vẫn được đời ghi nhớ như Quách Đàm trong những bài lục bát hay Thiếu Lang trong Hồ Trường của Nguyễn bá Trác.

Về giọng ngâm nữ lúc khởi đầu phải nhắc tới cái ngọt ngào của Giáng Hương nhưng các tay sành điệu đều không thể nào quên giọng ngâm đổ hột đặc sắc của bà Đàm Mộng Hoàn, một danh tiếng vang lừng tại Khâm Thiên tiền chiến trong Tỳ bà Hành. Giọng ngâm nữ nhiều năm làm thổn thức trái tim thính giả là Hồ Điệp trong những bài thơ nức nở TTKH. Về sau có một giọng nữ như sương như khói làm khởi sắc những vần ca dao dân tộc và những bài ca huyền sử. Đó là giọng ngâm Hoàng Oanh.

Sang đến thập niên 1960 sức truyền lan của Tao Đàn có sút giảm đi. Thi ca miền Nam Tự Do với một thẩm mỹ mới, một thẩm mỹ chênh vênh (esthétique de choc) đã ngự trị thi đàn. Thơ có vần đang chuyển sang không vần của thơ tự do. Người ta ưa đọc thơ hơn là ngâm thơ. Nhưng đó lại là một vấn đề khác. Mỗi thời điểm có vấn đề riêng của nó.

Ngày xưa đàn anh Đinh Hùng có nói: "Mỗi một người bạn là một phần đời sống của mình". Thoạt đầu, tôi nghĩ là đàn anh "bốc" đàn anh phán vậy thôi. Nhưng càng già càng thấy đàn anh nói đúng. Bây giờ nói về thời gian sống ở ngõ Nancy còn lại những ai ? Đinh Hùng, Thanh Nam, Thượng Sĩ, Hoàng Thư, Phạm Đình Chương, Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo, Nhật Bằng, Tạ Tỵ, Phan Nghị .. đều bỏ chúng ta mà đi rồi. Người gần nhất "lên đường" là Huy Quang Vũ Đức Vinh. Khi nghe tin Vũ Đức Vinh ngắc ngoải, hai ông còn lại ngày xưa ở nhà Thanh Nam là Vũ Quang Ninh và Thái Thủy vội bay sang Seattle thăm bạn. Tới nơi thấy bạn mình đã hôn mê nhưng khi nghe "Vũ Quang Ninh, Thái Thủy sang thăm ông đây" thì người hấp hối bỗng chảy hai hàng nước mắt. Vũ Đức Vinh, người bạn thường gọi tôi "bạn cũ trên 50 năm" đã từ biệt chúng ta như thế.

Bây giờ còn có người mà kể lại; mai đây không biết còn kể lại với ai ?

Phan Lạc Phúc



Chia Tay "Tao Đàn" - Phan Lạc Phúc

" ... Trong những tháng ngày ở với Thanh Nam trong ngõ Nancy (Phan văn Trị) lúc rảnh rỗi, tôi thường theo anh em, bè bạn lên đài phát thanh xem ban Tao Đàn trình diễn.
Trước ngày thu khoảng một ngày, anh Đinh Hùng trửơng nhóm mới ngỏ ý với Thái Thủy thư ký của ban biên tập là trong chương trình sắp tới Đinh Hùng, Thanh Nam, Huy Quang (đôi khi cả Tô Kiều Ngân nữa) mỗi người "nói" bao nhiêu phút, đề tài gì; thư ký Thái Thủy sau khi thiết lập bảng "phân công"có bổn phận sửa soạn sẵn một số bài vở dự trữ để nếu cần "lấp khoảng trống" (bouche trou) và tham khảo với anh Đinh Hùng về việc đề nghị nghệ sĩ diễn ngâm cho từng bài.
Ngày ấy kỹ thuật thu thanh còn thô sơ nên trách nhiệm của nghệ sĩ khá nặng nề.
Vào phòng thu âm, đèn đỏ bật lên (on air) là nghệ sĩ trình diễn thẳng (vivant) từ đài phát thanh tới thính giả. Một lời đã nói ra rồi là "Nhất ngôn ký xuất, Tứ mã nan truy", hay dở, đúng sai gì cũng không thể nào sửa chữa được nữa; không như bây giờ, kỹ thuật tân tiến, nghệ sĩ, ca sĩ thu thanh trước vào băng, dĩa, chuẩn bị thật chu đáo, o ép từng câu, từng chữ cho thật vừa ý rồi đến giờ, bấm máy phát đi. Vì vậy nên ngày nay có hiện tượng ca sĩ "nhép" tức là trình diễn trước khán, thính giả hằng nghìn, hằng vạn người mà chỉ "nhép" môi, băng, dĩa đã hát thay cho ca sĩ.
Tiện lợi thì thật là tiện lợi nhưng nó mất đi một cái rất quí, cái thật. Đây là máy hát, không phải là người hát. Đứng về phương diện bản lĩnh, người nghệ sĩ một mình đứng trước cử tọa nó chứng tỏ sự tự tin, nếu không muốn nói là hào khí của người làm nghệ thuật trong khi người ca sĩ "nhép" đã tự rút lui, nhờ kỹ thuật hành nghề giúp..."

> Mời xem toàn bài viết: "Chia Tay Tao Đàn" của Phan Lạc Phúc (pdf)



NHÀ THƠ TÔ KIỀU NGÂN VÀ BAN THI VĂN TAO ĐÀN - Biên soạn: Phan Anh Dũng

Xin vui lòng gởi ý kiến xây dựng và tài liệu về: dath...@gmail.com


http://cothommagazine.com/index.php?option=com_content&task=view&id=1079&Itemid=1
================

Johnny Guitar

unread,
Jul 25, 2016, 6:19:18 PM7/25/16
to
http://www.saungon.net/tbl/item_1790.html




13/04: 1.Thơ Tô Kiều Ngân-2.Nhạc sĩ Hoàng Trọng 1&2(Du Tử Lê)-3.Cõi già trên đất lạ (Andrew Lâm)-

Category: Tùy Bút / Hồi ký Posted by: Tbl Đọc: 5527 lần
GIỌNG HUẾ

TÔ KIỀU NGÂN (1926-2012)



Nguồn:tdhctct.com

Ngắt một chút mây trên lăng Tự Đức
Thả vào mắt em, thêm một dáng u hoài
Đôi mắt đó vốn đã buồn thăm thẳm
Thêm mây vào e tan nát lòng ai!

Anh quỳ xuống hôn lên đôi mắt đó
Bỗng dưng sao thương nhớ Huế lạ lùng
Chắc tại em ngồi bên anh thỏ thẻ
Tiếng quê hương xao động đến vô cùng.

Thẹn chi rứa?
Răng chừ… em sợ lắm!
Mạ ngày xưa cũng từng nói như em
Anh...

... mất Mạ càng yêu Em tha thiết
Như từng thương câu hát Huế êm đềm.

Cám ơn Em đã cho anh nhìn lại
Dòng sông Hương trên bến cảng Sài Gòn
Nước như ngọc in mái thuyền lấp lánh
Mái chèo khua vương nhẹ nhánh rong non.

Nếu lại được em ru bằng giọng Huế
Được vỗ về như Mạ hát ngày xưa
Câu hát Huế chứa chan lời dịu ngọt
Chết cũng đành! Không nuối tiếc chi mô.

Tô Kiều Ngân

...........................................

Thơ:
Tô Kiều Ngân
NHỚ HUẾ


Anh nhìn em như nhìn thấy quê mình
Ôi xứ Huế thân yêu chừ xa khuất
Nghe em ngâm những âm thanh trong vắt
Anh hình dung thấy bóng
Một con thuyền
Một giải sương mờ
Một khóm trúc nghiêng nghiêng…
Những kỷ niệm ngày xa xưa bừng dậy
Âm thanh ấy thoát từ câu mái đẩy
Tiếng "hò….ơ.." nghe đứt ruột, buồn sao
Biết mấy đau thương, cũng biết mấy ngọt ngào
Lưu luyến ngàn đời
Như không muốn dứt
Giàn mướp vàng con ong bay hút mật
Trưa thiu thiu chày giã gạo buồn tênh
Giọng hò ru em rười rượi cất lên
Em đã ngủ sao chị còn ru mãi
"À…a…ời..
Hai tay cầm bốn tao nôi
Tao thẳng,tao dùi, tao nhớ, tao thương"
Có phải trưa nay chị nhớ người thương
Nên mượn cớ ru em để ru lòng mình thương nhớ
Có phải ngàn năm thương thương, nhớ nhớ
Khiến tiếng đàn bầu thêm xé ruột bào gan
Tiếng Nam Ai rung tận đáy tâm hồn
Tiếng sáo Huế dài thêm thổn thức
Và tiếng em ngâm lơi lơi, dìu dặt
Chở buồn về vây phủ kín hồn anh
Bọn chúng mình bỏ Huế tha phương
Những thổ ngữ lâu ngày quên lững mất
Bỗng hôm nay em ngâm lên như nhắc
Ôi vui sao giọng Huế của quê mình
Tưởng như mình đang đừng ở Bao Vinh
Đang thơ thẩn bên bờ sông Gia Hội
Vỹ dạ , Kim Luông, Nam Giao , Đất mới…
Nghe thân yêu biết mấy tiếng quê ta
Nhớ giọng hò, điệu hát lời ca
Nhớ hường thầu đâu ngát đường Giao Thủy
Nhớ mái chèo khua bên bờ thôn Vỹ
Nhớ bánh bèo, cơm hến, nhớ chè sen
Nhớ phấn thông vàng rụng lối đi quen
Hột móc , hột muồng, trái sim, trái vả
Nhớ hồ Tịnh tâm thơm sen chiều hạ
Nhớ quít Hương Cần, nhớ cốm Hai lu
Nhớ bờ tre vọng mãi tiếng chim cu…
Ngâm nữa đi em bài thơ giọng Huế
Chúng ta sẽ đưa nhau về thăm quê mẹ
Bằng con thuyền êm ái của thanh âm
Ngâm nữa đi em, ngâm nữa đi em.
Cho vợi nhớ thương thầm….

.............................................

Những Con Đường Trắng
....................................................................................

Chúng ta biết gì về nhạc sĩ Hoàng Trọng?
Nguồn:nguoiviet.com - Friday, March 29, 2013 1

Du Tử Lê

Dường như lịch sử văn học, nghệ thuật của quốc gia nào, thời kỳ nào cũng có những tài năng lớn, được nhiều người cùng giới đánh giá cao. Nhưng mức độ phổ cập trong quần chúng, lại không tương ứng với những cống hiến lớn lao của họ.



Từ trái qua: Hoàng Trọng, Duy Trác, Thanh Sơn, Kim Tước, Tuyết Anh, Ánh Tuyết, Mai Hương (Nguồn Cỏ Thơm)

Tôi trộm nghĩ, cố nhạc sĩ Hoàng Trọng là một trong những trường hợp này.

Tôi biết nhiều người thuộc lòng một số ca khúc của họ Hoàng. Vậy mà khi hỏi tên tác giả, thì họ lại không biết, hoặc không dám chắc đó là sáng tác của nhạc sĩ Hoàng Trọng.

Cụ thể như ca khúc “Hai Phương Trời Cách Biệt,” tôi nghĩ, đôi lần chúng ta đã nghe qua. Ðã rung động với giai điệu và, ca từ lãng mạn tới nao lòng của họ Hoàng:

“Ánh nắng chiều thoáng phai rồi / Hoàng hôn khơi thương nhớ tới xa xôi / Nhớ mãi nhớ muôn đời / Một chiều em khóc trong hồn tôi / Góp hết lại những câu thề / Trả lại cho nhau lúc chia ly / Cố nuốt bao nhiêu lệ / Nhìn theo duyên kiếp đi không về...”

(Nhạc và lời Hoàng Trọng. Theo dactrung.com)

Hoặc:

“Ngày xưa xa xôi em rất yêu màu tím / Ngày xưa vô tư em sống trong trìu mến / Chiều xuống áo tím thường thướt tha / Bước trên đường gấm hoa / Ngắm mây chiều lướt xa / Từ khi yêu anh anh bắt xa màu tím / Sầu thương cho em mơ ước chưa kịp đến / Trời đã rét mướt cùng gió mưa / Khóc anh chiều tiễn đưa / Thế thôi tàn giấc mơ (...)Từ khi xa anh em vẫn yêu và nhớ / Mà sao anh đi đi mãi không về nữa / Một bóng áo tím buồn ngẩn ngơ / Khóc trong chiều gió mưa / Khóc thương hình bóng xưa / Ngàn thu mưa rơi trên áo em màu tím / Ngàn thu đau thương vương áo em màu tím / Nhuộm tím những chuỗi ngày vắng nhau / Tháng năm càng lướt mau / Biết bao giờ thấy nhau...”

(Trích “Ngàn Thu Áo Tím.” Nhạc Hoàng Trọng. Lời Vĩnh Phúc. Nguồn đd.)

Hoặc nữa:

“Bạn lòng thân mến / Ðây giây phút hồn tôi / nghe chan chứa hương đời / Nhạc lời êm ái / tôi ca ấm vành môi / mong sao đến bên người / Bạn là trăng sáng / Trong đêm tối hồn tôi / Soi lên bao ánh tươi / Bạn là hoa thắm / trên hoang vắng tình tôi / vun lên một mùa mới!...”

(Trích “Bạn Lòng.” Lời Hồ Ðình Phương. Nguồn đd.)

Ngay ca khúc nồng nàn tình yêu quê hương, tổ quốc mà những ai từng lớn lên ở miền Nam, chí ít cũng đã có một lần nghe tới hoặc hát theo với xúc động, hãnh diện là người dân Việt, ca khúc “Bên Bờ Ðại Dương” - Nhưng vẫn có nhiều người không hề biết đó là một sáng tác khác của họ Hoàng:

“Ðất nước tôi màu thắm bên bờ đại dương / Bắc với Nam, tình nối qua lòng miền Trung / Ðất nước tôi từ mái tranh nghèo Bắc Giang / Vượt núi rừng già Trường Sơn / Vào tới ruộng ngọt phương Nam / Dân nước tôi từng đấu tranh diệt ngoại xâm / Trên máu xương từng hát ca bài thành công / Dân nước tôi nòi giống hùng cường Lạc Long / Làm gái toàn là Trưng Vương / Làm trai rạng hồn Quang Trung...”

(Nhạc Hoàng Trọng. Lời Hồ Ðình Phương. Trích. Nguồn đd.)

Cũng vậy, tôi nghĩ có dễ nhiều người hơn nữa, cũng không hề biết rằng nhạc sĩ Hoàng Trọng bước vào quảng trường tân nhạc Việt Nam rất sớm: Ngay tự những năm cuối thập niên (19)30.

Trong bài nói chuyện về cố nhạc sĩ Hoàng Trọng, nhân buổi tưởng nhớ tác giả “Hai Phương Trời Cách Biệt,” ngày 20 Tháng Bảy, năm 2008, tại hí viện James Lee Theater, Virginia, Luật Sư Phạm Ðức Tiến cho biết, nhạc sĩ Hoàng Trọng là một trong những nhạc sĩ có công khai phá nền tân nhạc Việt Nam; cùng thời với những tên tuổi lớn thuộc giai đoạn đó, như Dương Thiệu Tước, Lê Thương, Nguyễn Xuân Khoát...

Diễn giả Phạm Ðức Tiến nhấn mạnh:

“...Bản nhạc đầu tay của ông (Hoàng Trọng) được sáng tác vào năm 1938 khi ông mới 16 tuổi, là bài 'Ðêm Trăng', còn có tên là 'Vầng Trăng sáng'. Ngay từ những sáng tác đầu, nhạc của ông đã được sự chú ý. Phạm Duy sau này có kể lại là khi còn làm ca sĩ chính ông đã hát một trong những bài đầu tay của Hoàng Trọng là bài 'Tiếng Ðàn Ai' và Phạm Duy thú nhận bài này đã gợi hứng cho ông viết nên bài 'Tiếng Ðàn Tôi' sau này...” (Wikipedia - Tiếng Việt)

Nhạc sĩ Hoàng Trọng không chỉ là một trong những nhạc sĩ tiên phong khai phá nền tân nhạc Việt, dựa trên thang âm thất cung mà, ông còn là người nâng điệu Tango tương đối còn xa lạ với giới thưởng ngoạn ở những thập niên (19)30, (19)40 lên tới đỉnh ngọn nghệ thuật của điệu này.

Vì thế, những người cùng giới với họ Hoàng, đã không ngần ngại, đồng lòng phong tặng ông danh hiệu “Ông Hoàng Tango” tân nhạc Việt.

Phong tặng này là một vinh dự to lớn cho một nhạc sĩ. Nhưng nếu vì danh hiệu đó mà, lầm tưởng rằng họ Hoàng chỉ thành công với thể điệu vừa kể thì, tôi cho lại là một lầm lẫn và một bất công khác đối với tài năng, và những cống hiến giá trị khác của nhạc sĩ Hoàng Trọng, cho kho tàng tân nhạc của chúng ta.

Bằng cớ, bên cạnh những ca khúc được coi là tuyệt vời với điệu Tango, nhạc sĩ Hoàng Trọng cũng có những ca khúc còn lưu truyền tới hôm nay - Ðược ông viết với nhịp điệu chậm hơn Tango, như Slow, Bolero, Rumba. Hoặc những ca khúc được họ Hoàng viết với nhịp điệu nhanh hơn Tango như March, Fox, Paso...

Ðừng quên tới nay, sinh hoạt tân nhạc của chúng ta, mỗi khi mùa Xuân về, vẫn âm vang giai điệu tươi vui, ca từ lấp lánh tin yêu của ca khúc “Gió Mùa Xuân tới”:

“Gió mùa Xuân tới cánh hồng tươi thắm trong nắng vàng / Muôn bướm tung bay mang sắc tươi phô cùng trời sáng / Gió mùa Xuân tới bóng hồng tha thướt trong nắng đào / Kiếp sống cô đơn mơ ước ôm trong lòng hoa tươi / Xuân reo khắp nơi trời ngát hương trầm lòng mang vấn vương

Hồn say mộng ước cùng những đóa hoa /ấp ủ trái tim hướng những phút say mơ // “Với mùa hoa thắm khắp trời xuân sáng vui tưng bừng / Muôn sắc khoe tươi reo hát ca vang mừng trời Xuân...”

(Nhạc và lời Hoàng Trọng. Trích. Nguồn đã dẫn)

Cũng với nhịp điệu nhanh hơn Tango rất nhiều, điệu Paso, họ Hoàng, còn cho chúng ta một ca khúc bất hủ khác: Ca khúc “Dừng Bước Giang Hồ”:

“Chiều nay sương gió, lữ khách dừng bên quán xưa / Mơ màng nghe tiếng chuông chiều, / vương về bên quán tiêu điều / Vầng trăng hoen úa, như lá vàng rơi cuối thu / Lững lờ soi mấy hàng cây u sầu đang ngắm trời mây...”

(Nhạc Hoàng Trọng. Lời Quang Khải. Trích. Nguồn đd.)

Chỉ mới là lược dẫn, chúng ta đã thấy dường như không một vạch phấn nào, giới hạn được đường bay nghệ thuật của tài hoa Hoàng Trọng. Chẳng qua, chúng ta biết được quá ít về ông. Phải chăng, chính sự biết được quá ít về tác giả “Dừng Bước Giang Hồ,” nên tấm lòng biết ơn của chúng ta, dành cho ông, đã không được đúng mức?

(Kỳ sau tiếp)

Hành Trình Âm Nhạc Của Tài Hoa Hoàng Trọng

Nguồn:dutule.com -04/03/2013

Tác giả : Du Tử Lê

Được biết, ngay sau khi người nhạc sĩ tài hoa Hoàng Trọng từ trần, truyền thông, báo chí ở quê người đã có rất nhiều bài viết về ông, với tất cả trân trọng và, thương quý.



Trong số những cảm nghĩ, ghi nhận ấy, có bài viết của một người trong giới và, cũng là giáo sư dương cầm, Nữ ca sĩ Quỳnh Giao. Bài viết nhan đề “Hoàng Trọng: Người Nhạc Sĩ Chân Thành” đề tháng 7 năm 1998 - - Ghi lại những kỷ niệm với cố nhạc sĩ Hoàng Trọng, khi tác giả còn rất nhỏ, được tham gia trong chương trình “Tiếng Tơ Đồng” của họ Hoàng, trên đài phát thanh Saigon, trước 1975:

“Người nhạc trưởng đang điều khiển dàn nhạc. Hai hàng lệ làm nhoè mắt ông khiến ông không nhìn rõ được dòng nhạc. Nhưng ông có cần nhìn rõ đâu, bởi nó-dòng nhạc- có trong ông đã lâu lắm rồi, nó là xương là máu của ông mà!...Những người nhạc sĩ đang cắm cúi đàn, đều là những người đã làm việc với ông từ hơn hai thập niên trước, có người là bạn của ông từ nửa thế kỷ qua. Người ngồi dương cầm là nhạc sư Nghiêm Phú Phi, cộng tác với Hoàng Trọng từ bao lâu rồi nhỉ, có lẽ là từ khi mới du học bên Pháp về, vào đầu thập niên 50. Nơi hàng ghế đầu của dàn violons có Đan Thọ, bạn của ông từ ngày ở ngoài Bắc, trong ban nhạc Bảo An, người đã trình tấu những đoạn ad-lib có phong điệu tzigane bất hủ cho nhưng bài tango trác tuyệt của Hoàng Trọng. Tiếng đàn Đan Thọ vẫn như xưa: lả lướt mềm mại, nhưng khuôn mặt ông, cũng như của nhạc sĩ Hoàng Trọng, đã đầy nếp nhăn (...)
“Hai người ca sĩ nhìn về phía khán giả, tức là quay lưng về phía dàn nhạc đang trình bầy song ca bản Lạnh Lùng, bài hát ông viết từ mùa Đông 1946. Đó là bài song ca ông soạn cho một nam và một nữ. Người nữ ca sĩ đang hát, nhìn về phía khán giả, nhưng không nhìn thấy gì trước mắt cả, mà chỉ thấy lại khung cảnh cũ, đã mấy chục năm qua. Nàng thấy lại phòng thu thanh nóng bức, đầy khói thuốc lá. Nàng nghe lại tiếng cười nói vui nhộn và thân mật của những người ca sĩ xung quanh, mà nàng gọi họ bằng cô, bằng chú. Ngày ấy nàng mới 16, 17 thôi. Cô bé vừa chạy thục mạng gọi xích lô đến đài cho kịp giờ thu, trên áo dài trắng còn mang huy hiệu trường Gia Long. Cuốn sách nhạc nàng viết tay những bài hát mình yêu thích còn nằm trong cặp, để trên bàn (…)
“…Ngay trang đầu tiên của tập nhạc là bài hát do người trưởng ban đề tặng: ‘tặng cháu bài chú viết từ mùa đông năm cháu vừa chào đời’. Nàng thích làm sao lời đề tặng! Vì nó cho thấy rõ sự ý nhị kín đáo mà lại đầy tình cảm của ông. Ông mà đề năm 1946, thì cũng thường thôi, có phải không? Bài hát đó mang tên Lạnh Lùng(...)
“Không cần phải kể thêm, chắc độc giả đã đoán cô học trò đó chính là kẻ viết bài này...” (Quỳnh Giao, nguồn đd.)

Dù vậy, đối với quần chúng thưởng ngoạn, có thể có nhiều người không biết gì về nhân thân của tác giả “Lạnh lùng”, cũng như nhiều người không hề biết một số ca khúc họ từng yêu thích, là của nhạc sĩ Hoàng Trọng..

Theo trang mạng Wikipedia – Tiếng Việt thì, nhạc sĩ Hoàng Trọng, người được mệnh danh là “Ông Hoàng Tango Việt Nam”, tên thật là Hoàng Trung Trọng. Ông sinh năm 1922 tại tỉnh Hải Dương, Bắc phần. Năm 1927, khi lên 5, gia đình ông chuyển về sống tại thành phố Nam Định, một nơi chốn được coi là chiếc nôi lớn của văn học, nghệ thuật miền Bắc.

Năm 11 tuổi, cố nhạc sĩ Hoàng Trọng đã được học về âm nhạc từ người anh trai tên là Hoàng Trung Quý. Bốn năm sau tức năm 1937, ông được học âm nhạc tại trường Thày Dòng Saint Thomas Nam Định….

Về lãnh vực sáng tác ca khúc, vẫn theo tài liệu của Wikipedia thì, năm 1968, khi mới 16 tuổi, cố nhạc sĩ Hoàng Trọng đã có ca khúc đầu tay, nhan đề “Tiếng Đàn Ai”. Ca khúc này còn được biết dưới hai tên khác nhau nữa là “Đêm Trăng” hay “Đêm Trăng Sáng” Một số sáng tác kế tiếp của họ Hoàng, viết theo thể điệu Tango cũng được dư luận những người cùng giới đánh giá cao.

Khi chiến tranh xẩy ra, cố nhạc sĩ Hoàng Trọng di chuyển khỏi Nam Định. Ông đi qua nhiều nơi trước khi chọn định cư tại Hà Nội. Đó là năm 1947. Thời gian này, ông sáng tác ca khúc “Phút chia ly”, một nhạc phẩm tango giá trị, do nhạc sĩ Nguyễn Túc, bạn ông đặt lời. Cũng trong thời gian ở Hà Nội, nhạc sĩ Hoàng Trọng đã sớm có liên hệ tốt đẹp với những ca, nhạc sĩ của đài phát thanh như: Mộc Lan, Minh Diệu, Mạnh Phát, Châu Kỳ…Nhờ đó các nhạc phẩm của ông được phổ biến.

Những năm đầu thập niên (19)50, họ Hoàng có nhiều sáng tác rất mau chóng trở thành nổi tiếng, được phổ biến cùng khắp… Đó là những ca khúc: “Gió mùa xuân tới”; “Nhạc sầu tương tư”, “Dừng bước giang hồ”…

Năm 1954 nhạc sĩ Hoàng Trọng di cư vào miền Nam. Tại Saigon, ông thành lập những ban nhạc trình diễn trên các đài phát thanh và truyền hình như đài phát thanh Saigon. Đài Quân Đội. Đài Tiếng Nói Tự Do và đài Truyền Hình Việt Nam.

Những năm tháng ở Saigon của nhạc sĩ Hoàng Trọng được ghi nhận là khoảng thời gian mà, sức sáng tác của ông sung mãn nhất. Rất nhiều ca khúc giá trị, nổi tiếng mang tên Hoàng Trọng, ra đời trong thời điểm này. Trong số đó, có những ca khúc tới hôm nay, vẫn còn được nhiều ca sĩ chọn để trình bày… Có thể kể như các ca khúc: Ngàn thu áo tím, Hai phương trời cách biệt, Tìm một ánh sao, Lạnh lùng, Bạn lòng, Mộng lành, Nhạc sầu tương tư, Gió mùa xuân tới, Dừng bước giang hồ, Người tình không chân dung, v.v...

Thời gian từ tới 1975, nhạc sĩ Hoàng Trọng cũng được nhiều hãng phim mời ông việt nhạc cho phim của họ. Những ca khúc nổi tiếng của họ Hoàng ở lãnh vực này, có thể kể như “Xin nhận nơi này làm quê hương”. “Người tình không chân dung”... Riêng ca khúc ông viết cho phim “Triệu Phú bất đắc dĩ,” đã được trao giải Văn Học Nghệ Thuật 1972-1973.

Từ 1975 tới 1991, nhạc sĩ Hoàng Trọng bị kẹt lại ở Saigon. Đây là khoảng thời gian chẳng những ông sáng tác rất ít mà, cũng không cho phổ biến một ca khúc nào. Bản nhạc cuối cùng của họ Hoàng ở thời điểm này là ca khúc “Chiều rơi đó em”. Năm 1992 nhạc sĩ Hoàng Trọng cùng gia đình được định cư tại Hoa Kỳ.

Ông qua đời ngày 16 tháng 7 năm 1998 tại miền bắc tiểu bang California, hưởng thọ 76 tuổi.

Du Tử Lê,

(Kỳ sau tiếp)

.................................................

Cõi già trên đất lạ -Andrew Lâm

An Truong to:...,me

Cõi Già Trên Đất Lạ: Aging in a Foreign Land
Andrew Lam
February 2, 2010
Người Việt có một câu nói: Mỹ là thiên đường giới trẻ, địa ngục giới già. Nay tôi đã vào cái tuổi giữa 70, câu nói này thật là thấm thía. Mỹ có tất cả những sản phẩm dành cho thanh thiếu nhi: đồ chơi, phim ảnh, máy chơi điện tử thính thị, khu giải trí có chủ đề (theme parks). Còn đối với người già, thì chỉ có sự cô lập và nỗi cô đơn.
Căn bản nếp sống của người Việt dựa vào gia đình, cộng đồng, và khi ta mất những cái đó, ta mất đi một phần lớn cái tôi. Khi còn sống ở Việt Nam, tôi không bao giờ nghĩ đến việc sinh sống tại một nơi nào khác ngoài quê hương. Ta sống và chết nơi tiền nhân đã sống và đã chết. Ta có thân nhân, giòng họ; ta có gia đình, có những miếu đền.
Một khi ta đã quen miền đất với mồ mả tổ tiên, ta sẽ không còn sợ tử thần và cái chết. Nhưng tại Mỹ, lối sống cũ của chúng ta không còn nữa. Chúng ta bị buộc phải ra đi khi cuộc chiến kết thúc vào năm 1975, và chúng ta đã sống xa xứ từ lúc đó. Ngày nay, bạn bè và thân nhân của chúng ta tản mạn khắp nơi trên thế giới.
Tại Mỹ, càng già càng mất mát nhiều – bạn bè, thân nhân, trí nhớ, khả năng di chuyển, và ý nghĩ của chính mình. Chuông điện thoại kêu. Tôi nhấc ống máy. Đây là bà tên-này-tên-nọ ở Los Angeles. Bà mắc bệnh tiểu đường và mới bị cưa chân. Rồi chuông điện thoại lại reo nữa: Ông tên-ni-tên-nớ ở Georgia bị ung thư phổi, chỉ còn sống khoảng vài tháng. Ở Việt nam, chúng tôi đều là bạn thân. Nhưng với cái tuổi đời chồng chất như tôi, tôi làm sao đến thăm họ được khi họ hàng ngàn cây số cách xa? Làm sao ta tưởng tượng được đến việc gọi điện thoại cho người bạn thân khi họ nằm chờ chết trong bệnh viện, để nói lời xin lỗi là không thể tận mình đến viếng thăm được lần cuối. Ấy vậy, tôi làm điều này mỗi tháng, buồn lắm.
Tôi và chồng tôi, chúng tôi dự định đi một chuyến du lịch Âu châu vào kỳ hè tới đây. Chuyến đi này là chuyến đi cuối cùng, để nói lời giã biệt thân nhân bè bạn. Chúng tôi biết là sau chuyến đi này, chúng tôi sẽ không đi đây đi đó được nữa vì sức khỏe đã kém, sẽ không thấy mặt họ nữa. Tôi gần như không bước xuống được cầu thang nhà vì đầu gối chân rất đau. Nhà thì đã bán, giờ thì chúng tôi ở trong một chung cư có thang máy vì đó là điều kiện duy nhất mà chúng tôi có thể sống độc lập không nhờ vả đến ai bây giờ.
Điều mà tôi quan tâm nhất là trí nhớ suy sụp rất nhiều. Tôi là người giữ gia phả của giòng họ, nhưng tất cả đều nằm ở trong đầu. Biết ai liên quan với ai như thế nào trong họ là nghề đặc biệt của tôi, người con gái trưởng trong nhà. Nhưng không một đứa con nào của tôi biết được những mối dây liên hệ gia đình trong gia tộc, ngay cả đến những người em của chính tôi. Không có tôi, họ hàng thân thích sẽ trở thành kẻ xa lạ nếu tình cờ gặp nhau trên đường phố. Tôi có thể nhớ đến được những bà con cô dì chú bác ba đời của gia đình bên tôi và của cả bên chồng. Tôi phải viết xuống trước khi trí nhớ tôi lụt hết.
Thỉnh thoảng vào buổi sáng khi thức dậy, tôi lặng nhìn cây cối ngoài phố và tự hỏi tôi đang ở nơi nào. Đôi lúc, tôi đi sang khu chung cư kế cận, nơi có một số mèo hoang, và cho chúng ăn những thức ăn thừa. Khi tôi cất tiếng gọi, chúng nhận ra giọng nói của tôi và bổ xua lại. Bây giờ, chúng là những niềm vui nhỏ của tôi.
Đương nhiên những ngày hạnh phúc nhất là những ngày con cháu đến thăm. Nhưng chúng cũng có đời sống riêng, thỉnh thoảng chỉ đến chơi được một lúc rồi về, tôi làm gì cho hết những khoảng thì giờ trống trải sau đó?
Mẹ tôi, bà mất năm bà 97 tuổi, và mẹ chồng tôi, qua đời lúc 95 tuổi; cả hai người có sống chung trong một khu dưỡng lão nhiều năm. Tôi thường đi xe buýt đến thăm hai bà mỗi ngày, ngay cả khi còn đi làm. Từ lúc đó tôi đã biết cái thảm não của người già trên đất Mỹ, ngay khi tôi còn trẻ trung mạnh khỏe. Các nhân viên điều dưỡng ở đó thường nói với tôi là hai bà có phước lắm, thường có được con cháu đến thăm. Tôi trả lời: “Đó là lối sống của người Việt Nam”. Còn những người già khác, con cháu họ ít đến. Tôi có nhớ một số bà lão, ngồi trên những chiếc xe đẩy, ngóng trông con cháu hay người thân, ngày này qua ngày khác, nhưng chẳng thấy ai. Có cả một bà cụ, cụ còn sống lâu hơn những người con trai; mỗi ngày bà vẫn ngồi chờ trông mong hình ảnh người con trai bước qua khung cửa. Thật tội nghiệp khi người ta sống dai như vậy trong sự cô đơn!
Ở xứ Mỹ này, tuổi già đúng là tuổi lỡ thời; cả hai đều không được người ta kính nể hay cho một chút gì quan trọng. Ở quê nhà, các ông già bà lão thì được nể vì nhất, vì họ là những người chia xẻ túi khôn cùng kinh nghiệm cho những người đi sau. Điều đó không có ở đây. Không ai muốn nghe tiếng nói của người già. Họ cảm thấy bị cô lập ngoài vòng ranh giới của con cháu Mỹ hóa của họ. Chúng cười vang về nhiều thứ mà tôi không hoàn toàn hiểu được. Mỹ đúng là một quốc gia của giới trẻ hơn là giới già như tôi.
Vào những buổi chiều mùa đông, tôi ngồi nhìn những hàng cây trơ trụi lá, tâm hồn lạc lõng. Tôi nghĩ về cái thế giới mà tôi đã biết, nay đã bay xa, như làn khói hương trầm. Tôi nghĩ đến cố hương, đến những mùa lễ Tết ở Saigon, đến những đám cưới, đám hỏi, đến những chuyến du lịch, những lần tíu tít họp mặt gia đình, ai ai cũng có mặt, con nít chạy quanh, người lớn ngồi nói chuyện đời chuyện gẫu, đàn bà con gái quây quần chung lo việc bếp nước. Và tôi cảm thấy rất khao khát những ngày quá khứ xa xưa.
Andrew Lâm (Aging in a Foreign Land)
Cõi Già Trên Đất Lạ [Nguyễn Đức Nguyên chuyển ngữ]
thuật lại theo lời kể của mẹ anh, bà Ngọc B. Lâm.
Andrew Lam là một biên tập viên của NAM (New American Media) và cũng là tác giả cuốn Perfume Dreams: Reflection on the Vietnamese Diaspora ( Những Giấc Mơ Hương: Hoài Niệm Cuộc Sống Xa Quê) (Heyday Books, 2005). Cuốn sách này gần đây đoạt giải thưởng Beyond Margins 2006 của Trung Tâm Văn Bút Mỹ (PEN American Center).
******************************
Aging In A Foreign Land
A commentary posted on New American Media on 10 Jan 2007. This article is an account by Ngoc B. Lam as told to her son Andrew Lam.
There’s a Vietnamese saying: America is paradise for the young, but hell for the old, and how true it seems now that I’m in my mid-70s.
America has all these products that cater to children: toys, movies, video games, theme parks. For the old there’s only isolation and loneliness.
Vietnamese are defined by family, by community, and when you lose that, you lose a big part of who you are. In Vietnam I never thought of living anywhere else but in my homeland. You live and die where your ancestors lived and died. You have your relatives, your clan; you have your family, your temple.
Once we were bound to the land in which our ancestors are buried, and we were not afraid of death and dying. But in America our old way of life is gone. We were forced to flee after the war ended in 1975, and we have lived in exile since then. Today, my friends and relatives are scattered across the world.
In America you lose so much the older you get — friends, relatives, memories, mobility, a sense of yourself. The phone rings. I pick it up. It’s Mrs. so-and-so in Los Angeles. She’s got diabetes and had her leg amputated. Then the phone rings again: Mr. so-and-so in Georgia has lung cancer. He’s only got a few months left. Back in Vietnam, we were all good friends. But at my age, how do you visit when they’re thousands of miles away? Can you imagine calling your close friends as they lay dying in a hospital, apologizing for not being able to go see them for one last time? Well, I do that monthly now. It’s very sad.
My husband and I, we are planning a trip this summer to Europe. It’s our final trip, to say goodbye to relatives and friends. We know we won’t be able to travel after this, as our strength is failing. We’ll never see them again after that. I can hardly climb down stairs because my knees hurt very badly. We sold our house and live in a condo with an elevator because it’s the only way to be independent now.
What I worry about most is that my memory is not what it used to be. I am the keeper of our family tree, but it’s all in my head. Who’s related to whom was my specialty, being the oldest daughter in the family. But none of my children know about the large clan connection, not even my younger siblings. Without me, people who used to be relatives will be strangers if they meet again on the street. I used to know all the way to my third cousins on both my side and my husband’s side of the family. I have to write down all of their names before my memory goes.
Sometimes when I get up in the morning, I stare out at the trees outside and wonder where I am. Sometimes I go to the apartment complex across the street, where there are some abandoned cats. I feed them with my leftovers. They recognize my voice. I call and they run to me. They are my source of joy.
When my children and grandchildren visit, it’s a great time, of course. But everyone has their own lives. They come once in a while, but what do you do with all those empty hours that stretch out before you?
My mother, who died at the age of 97, and my mother-in-law, who died at the age of 95, were in the same convalescent home for years. I used to take the bus to see them everyday, even when I was working. I knew how sad it was to grow old in America even back then, when I was healthy and younger. The nurses told me how lucky the two grandmothers were, having all these children and grandchildren visiting them on a regular basis. “It’s the Vietnamese way,” I would tell them. All those other old people, their children rarely visit. I remember a few old women sitting in their wheelchairs waiting for their children or family, day in and day out, and no one came. There was even one who outlived her children and still, everyday, she expected her sons to walk in through the door. How tragic to live so long and to be so alone!
The old are obsolete here in America. Neither respected nor deemed important. Back home, the elders are given the highest place of honor, and it was they who dispensed wisdom and shared their experiences with those who came up after them. It’s not true here. No one wants to hear what you have to say. You feel isolated from your Americanized children and grandchildren. They laugh at things I don’t understand.
America is so much more their country than it is mine. In the winter afternoons I sit and watch the barren trees, feeling very lost. I think of how the whole world I once knew is all gone now, like incense smoke. I think of the old country, of the Tet Festivals back in Saigon, of the weddings and holidays, with gatherings of families and friends, everyone together, children running, adults gossiping, women cooking together, and I feel this deep yearning for the distant past.
Andrew Lam

..................................................


MÃI MÃI NHỚ THƯƠNG (NHÃ NHẠC)
1.Chúc mừng Xuân Mới Ất Mùi-2015(Nhã Nhạc)2.Một chùm thơ xuân &More-3.Mùa Xuân Di Lặc(Nhã Nhạc)4.Xuân như ý(Orchid TL/VB)5.Đi chợ.
1.Kịch thơ Hoàng Cầm và tôi,những ngày Hội An, thơ ấu(Du Tử Lê)2.Mùa xuân Miên Viễn(Nhã Nhạc)
1.Xuân Mới 2015 và 40 năm xa Quê hương(NN)2..Báo Washington Post .-3.Thơ Xuân trong Đường thi và các tác giả khác-
1.Vũ Quang Ninh,từ con nuôi TT Diệm tới nghiệp phát thanh(DTL)2.Chuyện của một thời(VT Thành)3.Đọc tản văn của Khuất Đẩu(RFA)4.
1.Mai Thảo.Mãi mãi ký ức (Du Tử Lê)2.Người thày học cũ(Mai Thảo)3.Nghe Xuân Ca,nhớ NS Phạm Duy(RFA)-
Giây phút đợi chờ (Nhã Nhạc)-
Vườn Hoa Con Cóc (Nhã Nhạc)-
Trần Đĩnh-Đèn cù- Giới thiệu qua Trích Đoạn-Kỳ 5 và hết (NN)
Trần Đĩnh- Đèn cù- Quyển 1-Trích đoạn- Kỳ 4 (NN)-








\\\\





On Monday, July 25, 2016 at 3:10:49 PM UTC-7, Johnny Guitar wrote:

thahuong

unread,
Jul 25, 2016, 7:17:00 PM7/25/16
to
Cũng như nhà thơ NgoMinhHang , hình như trong Youtube là chị NMH , nhưng anh bạn VôVi nói là anh NMH , cuối cùng tôi không biết là Cụ ông hay Cụ bà

Johnny Guitar

unread,
Jul 25, 2016, 7:35:10 PM7/25/16
to
Mama NgôMinhHằng theo tôi biết là cô gái Hưng Yên di cư vào Nam sinh sống đâu đó ở Phú Nhuận hay Bà Chiểu gì đó và là cô giáo (chắc là Tiểu Học) và vào thời gian lửa khói của cuộc chiến miền Nam bảo vệ cho sự TuDo No-Búa-Liềm của CongSan thì bà Hằng cũNg có viết thơ văn cho vài báo chí và dường như cho cục Chính Huấn ????? hau báo QUân Đội v.v...

Tôi nhớ là như vậy, không biết bây giờ bà ấy còn sinh sống ở Ko-Néc-Ti-Cất hay không, dường như có con cái học ra làm Bác Sời chi đó


............... Đời còn dzài nên nhiều điều không tiện kể ra thêm, riêng tôi thì rất khoái đọc thơ NMH, thơ yêu của bả thì nhõng nhẽo vô cùng tận ... dó đó sơ sơ bả cũng đã rặn ra 5 người con là Song Châu Diễm Ngọc Nhân (I think so), mỗi 1 lần rằn là lại hờn nhõng nhẽo làm ông chồng phải đánh giặc ngày đêm trong ngoài ;)





======


@> Cũng như nhà thơ NgoMinhHang , hình như trong Youtube là chị NMH , nhưng anh bạn VôVi nói là anh NMH , cuối cùng tôi không biết là Cụ ông hay Cụ bà

thahuong

unread,
Jul 25, 2016, 8:08:35 PM7/25/16
to
On Tuesday, July 26, 2016 at 9:35:10 AM UTC+10, Johnny Guitar wrote:
> Mama NgôMinhHằng theo tôi biết là cô gái Hưng Yên di cư vào Nam sinh sống đâu đó ở Phú Nhuận hay Bà Chiểu gì đó và là cô giáo (chắc là Tiểu Học) và vào thời gian lửa khói của cuộc chiến miền Nam bảo vệ cho sự TuDo No-Búa-Liềm của CongSan thì bà Hằng cũNg có viết thơ văn cho vài báo chí và dường như cho cục Chính Huấn ????? hau báo QUân Đội v.v...
>
> Tôi nhớ là như vậy, không biết bây giờ bà ấy còn sinh sống ở Ko-Néc-Ti-Cất hay không, dường như có con cái học ra làm Bác Sời chi đó
>
>
> ............... Đời còn dzài nên nhiều điều không tiện kể ra thêm, riêng tôi thì rất khoái đọc thơ NMH, thơ yêu của bả thì nhõng nhẽo vô cùng tận ... dó đó sơ sơ bả cũng đã rặn ra 5 người con là Song Châu Diễm Ngọc Nhân (I think so), mỗi 1 lần rằn là lại hờn nhõng nhẽo làm ông chồng phải đánh giặc ngày đêm trong ngoài ;)
>
Thank you , thì ra là Cụ bà ! hay hờn va`nhõng nhẽo !
Có cô bạn gái ngày xưa, HocSinh GiaLong, cô ta nói là cũng hay hờn va`nhõng nhẽo lắm nen làm ông chồng cũng mệt , năm nay cô ta cũng 6 bó+ mà gửi photo, graduation day, Uni Toronto 2014, BA English Literature . Nhi`n photo ma` cu+' tu+o+?ng chu+`ng U40 hay 3bo'+ . Nhieu nguoi tre? ma~i kho^ng gia` !

Johnny Guitar

unread,
Jul 26, 2016, 2:13:04 AM7/26/16
to
Rất ít người kể cả Nam hay Nữ khi về dzà thì vẫn có khuôn mặt còn "Xoan"

Trong link này http://bichxuanparis.free.fr/sinhhoat/chang%201996/washington%20dc/washington%20dc-%20chang%201996/washingtonCHANG.html có hình của bà NMH thời 1996 và nhiều hình của các nhà Thơ khác như bà Vi Khuên, Ngô Tằng Giao v....v....

Nom ra thì bà NMH cũNg dzuyên dzáng ra phết ;)


Còn năm 2009 trong này http://bichxuanparis.free.fr/aaa_BICHXUAN%2020081226_aaa/van%20nghe%20songthan/songthan.html thì bắt đầu sửa xoạn bóng xế

Và năm ngoái 2015 Ngô Minh Hằng, Bùi Dương Liêm phỏng vấn

https://www.youtube.com/watch?v=fD35eDCdVXg

Kàng dzà kàng dzẻo kàng dzai, mua đồng kẹo kéo chồng mê tới dzà

:)))))))))




===========


@> Thank you , thì ra là Cụ bà ! hay hờn va`nhõng nhẽo !
@> Có cô bạn gái ngày xưa, HocSinh GiaLong, cô ta nói là cũng hay hờn va`nhõng nhẽo lắm nen làm ông chồng cũng mệt , năm nay cô ta cũng 6 bó+ mà gửi photo, graduation day, Uni Toronto 2014, BA English Literature . Nhi`n photo ma` cu+' tu+o+?ng chu+`ng U40 hay 3bo'+ . Nhieu nguoi tre? ma~i kho^ng gia` !

thahuong

unread,
Jul 26, 2016, 6:42:55 PM7/26/16
to
On Tuesday, July 26, 2016 at 4:13:04 PM UTC+10, Johnny Guitar wrote:
> Rất ít người kể cả Nam hay Nữ khi về dzà thì vẫn có khuôn mặt còn "Xoan"
>
> Trong link này http://bichxuanparis.free.fr/sinhhoat/chang%201996/washington%20dc/washington%20dc-%20chang%201996/washingtonCHANG.html có hình của bà NMH thời 1996 và nhiều hình của các nhà Thơ khác như bà Vi Khuên, Ngô Tằng Giao v....v....
>
> Nom ra thì bà NMH cũNg dzuyên dzáng ra phết ;)
>
>
> Còn năm 2009 trong này http://bichxuanparis.free.fr/aaa_BICHXUAN%2020081226_aaa/van%20nghe%20songthan/songthan.html thì bắt đầu sửa xoạn bóng xế
>
> Và năm ngoái 2015 Ngô Minh Hằng, Bùi Dương Liêm phỏng vấn
>
> https://www.youtube.com/watch?v=fD35eDCdVXg

Yes , ca'i youtube na`y (cu~ng nho+` ca'i clip na`y to^i mo+'i bie^'t she's a lady), va^.y ma` anh ba.n vivo^ no'i la`m to^i cu+' nghi~ mi`nh chu+a gia` ma` dda~ la^?n tha^?n !

Qua? nhie^n la` photo cu?a 2 cu. Vi Khue^ va` NMH , nhu+ng thu+.c su+. kho^ng bie^'t VK la` ai , vi` to^i kho^ng theo do~i tin hay ddo.c ba'o VN , go.i 2 cu. la` ddu'ng ro^`i vi` co^ ba.n tho+`i la~o ho^` co`n khoe? ma.nh ma` ba` nha` to^i cu+' tu+o+?ng la` cha'u to^i (co^ ta no'i la` nho+` professional makup)

Johnny Guitar

unread,
Jul 26, 2016, 8:23:48 PM7/26/16
to
Nữ sĩ ViKhue http://www.saigonhdradio.com/index.php?option=com_content&view=article&id=58


https://groups.google.com/forum/?hl=th#!topic/xaydungxahoi/PuzyfH6VsBo


=======
Trong link này đã post ở trên http://cothommagazine.com/index.php?option=com_content&task=view&id=1079&Itemid=1 có nhắc đến nhà văn Thanh Nam nhưng lại không thấy nhắc đến vợ của ông ta Túy Hồng cũNg là nhà văn

Nhớ lại vài năm đầu di cưa qua Đế Cuốc Mĩ thì tôi có sinh sống ở "Cao Nguyen Tình Xanh" ôi chời ơi nó mưa gió hầu như quanh năm đó là WA-State/Seattle, 1 năm có 3 chăm 60 lăm ngày thì chỉ có 65 ngày là nắng và còn lại 300 ngày kia mây mù gió lạnh đi đến đâu cũNg chỉ muốn nhậu và rít thuốc cho nó nóng nguời, đâu ngời thuê đuợc căn nhà thì nhà phía bên kia đuờng là nhà của ông bà ThanhNam mà mình chỉ nghe mang máng trong báo chí chứ làm gì đuợc cái va*n vẻ như đành anh đàn chị

Bây giờ thì ai ai cũNg chờ về chầu trời, tơ lơ mơ thì bị stroke rồi ngồi xe lăn mà thơ với thẩn



To&i chỉ bàn lọan biết gì nói nấy cho vui, biết họ là vì mình search trong Internet :)))


Nhiều nguời hay thích khoe tôi quen bác sĩ này ông tuớng nọ bà tá kia mẹ tôi chơi thân với bà Thiệu chị tôi có ông tuớng KQ mê chị tôi như điếu đổ v.v.... mà hỏi lại thế gia đình anh làm gì mà quen to thế ???


" Ạ gia đình tôi bán tiệm tạp hóa nên họ hay đến mua lâu dần rồi quen thế thôi "




=================== :)

$$> Yes , ca'i youtube na`y (cu~ng nho+` ca'i clip na`y to^i mo+'i bie^'t she's a lady), va^.y ma` anh ba.n vivo^ no'i la`m to^i cu+' nghi~ mi`nh chu+a gia` ma` dda~ la^?n tha^?n !

:))

unread,
Jul 26, 2016, 10:10:04 PM7/26/16
to
On Tuesday, July 26, 2016 at 5:23:48 PM UTC-7, Johnny Guitar wrote:

" Ạ gia đình tôi bán tiệm tạp hóa nên họ hay đến mua lâu dần rồi quen thế thôi "


----------------------------------------------------------------------------
Thế còn thơ sĩ Vũ Thúy Ái, Đóa Hoa Hồng, EmMongDep, và vân vân ... lóng rày ra sao rồi ?

Có tin tức gì mới về mình không ?

:)

Xe-Cút-Kít

unread,
Jul 26, 2016, 10:47:19 PM7/26/16
to

VTA có lẽ đeo 2 chái dưa hấu nặng quá nên nằm lì trong nhà đâu đó trên cõI đời ô chọc này :)

Nóo vậy chớ lóng rày bà con đi đi về về VN như đi chợ thì chắc VTA mở nhà hàng hay phòng chà tại Sè Gòòng rồi chăng

Còn nghe nó lâu lắm rồi DHH lấy chồng nên chắc thờ chồng nuôi con và cho con bú mệt nghỉ, EmMongDep thi` giận St. Jupiterean vì hắn ta về VN lấy vợ rồi đẻ con làm EMD buồn dza dziết =)

À wên, hồi đó VTA/ aol.com có IM với tui là Ẻn yêu anh BooVoo và chính anh BooVoo làm Manager online cho hội HOPE nhưng anh BooVoo lùn tẹt nên Ẻn hơi buồn


Lùn mà củ dài thì cỡ Clinton cũng phải bái phục ;)

========

-> Thế còn thơ sĩ Vũ Thúy Ái, Đóa Hoa Hồng, EmMongDep, và vân vân ... lóng rày ra sao rồi ?

Johnny Guitar

unread,
Nov 7, 2016, 1:13:36 AM11/7/16
to
FWD: http://www.dutule.com/p114a7835/tat-roi-mot-tieng-sao-tho-

“Tắt rồi một tiếng sáo thơ!” (*)
30 Tháng Mười 2016 10:40 SA(Xem: 84)

Văn Quang

“Tắt rồi một tiếng sáo thơ!” (*)

Tô Kiều Ngân tên thật là Lê Mộng Ngân, sinh năm 1926 tại Huế. Tô Kiều Ngân là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, viết nhạc, viết sách dạy thổi sáo - thổi kèn harmonica… Ông đặc biệt xuất sắc ở khả năng ngâm thơ và thổi sáo.

Trước 1975, giọng ngâm và tiếng sáo của Tô Kiều Ngân xuất hiện thường xuyên trên Đài phát thanh Sài Gòn, nơi ông cộng tác với Ban Tao Đàn và chương trình Thi Nhạc Giao Duyên của thi sĩ Đinh Hùng. Năm 1967 Đinh Hùng mất, Tô Kiều Ngân phụ trách Ban Tao Đàn. Tô Kiều Ngân còn là tác giả của nhiều truyện ngắn, sách biên khảo về Huế: Chuyện Huế ít ai biết, thi phẩm Ngàn năm mây trắng...

Ông mất ngày 20 tháng 10 năm 2012 tại nhà riêng, Bình Thạnh.



Nhà thơ Tô Kiều Ngân - từ đời lính đến Tao Đàn

Văn Quang

Lâu lắm rồi, tôi không gặp anh Tô Kiều Ngân, mặc dù chúng tôi cùng ở chung một thành phố Sài Gòn. Được tin anh từ trần vào ngày 20-10 vừa qua khiến tôi ngỡ ngàng.

Anh Tô Kiều Ngân không ở cùng trại tù với tôi, anh đi “lao động” bị ngã gãy tay, phải đưa về trạm xá gần trại giam tôi ở từ năm 1976 khi được đưa ra Sơn La “học tập”. Dịp đó, nhạc sĩ Thục Vũ, tên thật là Vũ Văn Sâm, ở cùng đội trồng rau với tôi, anh bị đau gan đến vàng mắt. Ban đầu còn được ở lại trại, không phải đi lao động. Tôi có nhiệm vụ “thó” một ít rau sống, cung cấp cho anh hàng ngày. Nhưng khi bệnh tình quá nặng, Thục Vũ được đưa sang bệnh xá. Nói là bệnh xá, chứ ở đây cũng chẳng có thuốc men gì chữa chạy cho bệnh nhân. Thậm chí mỗi lần lên khám bệnh xong, anh y tá bôi cho tí dầu cù là vào tay rồi bảo về uống đi hoặc nằm ngửa cổ ra để “cán bộ y tế” nhỏ cho vài giọt nước củ tỏi vào mũi. Thế là xong. Bệnh nhân nặng chỉ còn việc nằm chờ chết. Thục Vũ cũng ở trong trường hợp ấy.

Một buổi sáng sớm, tôi đang lúi húi trồng luống su hào, bỗng thấy bên mình có cái gì kêu phần phật. Từ từ ngước lên, tôi thấy một mảnh quần trây-di rách bị gió thổi bay lắc lư làm nên tiếng động nghe cũng… vui tai. Tôi nhận ra ông Phan Lạc Phúc, khoác chiếc áo trây di cũng tả tơi “đồng bộ” với cái quần rách. Nước mắt ông Phúc chảy rất chậm trên mặt, ông nghẹn ngào cất tiếng:

- Thằng Sâm chết ở bệnh xá đêm qua rồi.

Tôi lặng người, bởi mới hôm qua, tôi lẻn sang bệnh xá thăm, Thục Vũ đưa cho tôi hai gói thuốc lào nhỏ, anh nói: “Tôi mệt không hút thuốc được nữa”.

Ngồi nói chuyện vài phút, anh Tô Kiều Ngân ở trạm xá này cũng đến ngồi chơi. Tôi thấy Thục Vũ vẫn còn khỏe, vậy mà đêm qua đã ra đi.

Sau đó, anh Tô Kiều Ngân nói với tôi lời an ủi đúng nhất, ngắn nhất và cũng bi thảm nhất: “Mừng cho nó, từ nay nó không còn biết đói rét và không ai hành hạ được nó nữa”.


Tô Kiều Ngân và cuộc đời binh nghiệp

Có lẽ nhiều thính giả và độc giả biết đến anh Tô Kiều Ngân qua “Tiếng sáo Tao đàn” hơn là biết đến “đời lính” của anh. Tôi thì khác, tôi biết anh từ khi cùng làm chung trong mấy tờ báo của quân đội.

Cuộc đời binh nghiệp của Tô Kiều Ngân khởi thủy từ khi làm tờ báo Tiếng Kèn của Địa Phương Quân ngoài Huế. Năm 1953, anh được đồng hóa vào quân đội và đưa gia đình từ Huế vào Saigon.


Đến “cuộc chơi” ở Ban Tao Đàn

Khoảng thời gian tôi và anh Tô Kiều Ngân làm việc với nhau chừng hơn 3 năm và cũng có khá nhiều kỷ niệm của thời trai trẻ.

Tô Kiều Ngân rất tài hoa và cũng đào hoa, nhưng anh rất it khi đi ăn chơi cùng chúng tôi. Anh hơn tôi đến 6 tuổi và đã có gia đình nên chơi khác với cánh còn “xê li bạt”… Tôi nhớ hồi đó Huy Sơn, Nguyễn Ái Lữ và tôi, còn rách như cái mền, nhưng Thứ Bảy, Chủ Nhật lại ngứa chân muốn đi nhảy. Ông Nguyễn Ái Lữ hiền như bụt, vài lần rủ Tô Kiều Ngân, anh cũng không chịu đi. Anh dành thì giờ cho ban Tao Đàn.

Đó là khoảng thời gian từ 1957- 1960, anh Tô Kiều Ngân là một trong những nhân vật chủ chốt của Ban Tao Đàn ở Đài Phát Thanh Sài Gòn. Với hơn 20 năm trong cuộc đời quân ngũ (1953-1974) thì Tao Đàn đối với anh chỉ là một cuộc chơi. Nhưng cuộc chơi ấy lại để lại dấu ấn đậm nét nhất, đáng giá nhất trong cuộc đời anh và thi ca VN.

Theo anh Phan Lạc Phúc thì sự khai sinh và công việc của Ban Tao Đàn rất đa dạng. Xin trích lược bài nhận định của anh Phan Lạc Phúc tức ký giả Lô Răng:

“Người khai sinh và điều khiển chương trình Tao Đàn, như cả nước đều biết, là thi sĩ Đinh Hùng. Chương trình Tao Đàn có thể chia ra làm 3 bộ phận. Bộ phận quan trọng nhất là ban biên tập và diễn đọc gồm Đinh Hùng, Thanh Nam, Thái Thủy; vài năm sau có Huy Quang Vũ Đức Vinh từ Nha Trang vào cộng tác. Bộ phận thứ 2 là ban ca ngâm gồm những tài tử nam, nữ trình diễn thường xuyên hay tùy hứng. Người “đa năng” nhất trong ban Tao Đàn là Tô Kiều Ngân. Anh vừa là tài tử diễn ngâm, vừa biên tập, vừa trong ban nhạc. Tiếng sáo Tô Kiều Ngân réo rắt thường được coi là “indicatif” của Tao Đàn...


Tiếng sáo của những cảm xúc

Thật ra Tô Kiều Ngân hoạt động trong nhiều lãnh vực, làm báo, viết văn (tác phẩm đầu tay của anh là tập truyện ngắn “Người đi qua lô cốt”), làm thơ, ngâm thơ, bài sáo anh thổi ở Tao Đàn do chính anh sáng tác và đã xuất bản. Nhưng nổi tiếng nhất vẫn là tiếng sáo Tao Đàn. Bây giờ người ta nhớ đến tài năng tuyệt vời của anh vì tiếng sáo đó và giọng ngâm thơ mang âm điệu Huế hơn tất cả những thứ khác.


Từ biệt Tô Kiều Ngân, người cuối cùng của Tao Đàn ra đi

Nhận được tin Tô Kiều Ngân mất, sau khi điện thoại cho Huy Sơn và Hoàng Song Liêm, tôi gọi cho Hàm Anh (còn có bút danh là Sài Gòn Cô Nương), bởi Hàm Anh là con gái nhà phê bình Thượng sĩ, trước đây ở cùng xóm Phan Văn Trị với gia đình anh Tô Kiều Ngân. Chúng tôi mang vòng hoa tới căn nhà khá đẹp của gia đình anh ở trong một xóm nhỏ thuộc quân Bình Thạnh.

Người đón tiếp chúng tôi rất vồn vã chính là bà quả phụ Tô Kiều Ngân. Nhưng tôi đã đọc cái cáo phó của gia đình trên một tờ báo nước ngoài. Nếu chú ý, bạn sẽ thấy một sự… hơi lạ. Đó là có tới hai bà cùng ký tên chung là vợ. Một bà là Phạm Thị Thìn, một bà là Lê Thị Kim Hoa. Một sự “chính danh” ít thấy trên bản cáo phó nào. Tôi phải ghi lại sự kiện này cho đúng, xin chia buồn đến cả 2 gia đình.

Tôi phải lựa lời khơi gợi lại chuyện cũ xem có đúng bà này là “đệ nhất phu nhân” thời xưa tôi đă gặp không. May quá, đệ nhất phu nhân Tô Kiều Ngân nhận ra tôi ngay. Chị ân cần nắm tay tôi thân thiết. Các con trai, con gái anh, cả dòng trước dòng sau, cũng thân mật như vậy. Con gái lớn của anh (là vợ của nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan, mất cách đây 2 năm) cũng tới thăm hỏi. Tôi có cảm tưởng như gia đình anh và tôi chưa xa nhau bao giờ.

Từ biệt Tô Kiều Ngân, từ biệt nhóm Tao Đàn nhưng tiếng sáo, giọng ngâm của Tao Đàn còn lại mãi trong đời sống thi ca Việt Nam và trong lòng người Việt yêu thơ khắp nơi.
________
(*)Nguyễn Nhơn


________


X> Tôi nhớ hồi còn bé có nghe chương trình Ngâm Thơ và Thổi Sáo trên lànsóng Radio của Quân Đội (VNCH) và tồi cũng đâm ra mê chương trình này nhưng vẫn không rõ là lìn ông hay lìn bà vì lúc thì có giong ngâm của phái nữ và có khi có giọng no;i của phái nam nên tôi có lần viết thư cho Tô Kiều NGân để hỏi về cách ngâm thơ lúc nào trầm lúc nào bổng rồi tôi mua được 1 cây sáo ở tiệm sách va1` cứ thế tập thổi văng nước bọt cong cả môi mới phát ra được tiếng kêu
0 new messages