THĂM MỘ Tổng Thống NGÔ ĐÌNH DIỆM
Biết mình đã già và đau yếu, nên tôi cố gắng một lần về Việt Nam, để
thăm lại mồ mả tổ tiên mà gần nửa thế kỷ qua chưa được thăm nom. Nhất
là tìm một số tài liệu về Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà tôi nghĩ là ông
Hà Di, một nhiếp ảnh gia còn lưu giữ được. Tôi cũng hy vọng được gặp
bà Võ Văn Hải, ông Hải vốn là chánh văn phòng Tổng Thống, may ra được
thêm chút tài liệu nào chăng. Rủi ro là ông Hà Di đã mất được mấy
năm,
và tôi đã không tìm được bà Hải.
Khi phục vụ Tổng Thống Diệm, tôi chỉ là một sĩ quan cấp nhỏ, giữ một
chức vụ khá khiêm nhường, nên không rõ được những việc lớn cấp quốc
gia. Nhưng được luôn ở cạnh ông, lo an ninh cho ông, và nhất là được
ông thương mến và tin cậy, tôi thấy hãnh diện, nên ngoài việc hết
lòng
phục vụ Tổng Thống một quốc gia, tôi còn thương mến ông như một người
cha.
Thật vậy, ai ở gần ông, thấy nếp sống thanh bạch giản dị, và nhất là
sự làm việc không mệt mỏi ông dành cho quốc gia dân tộc, thì chẳng ai
không kính trọng ông.
Suốt thời gian khá dài ở cạnh ông, tôi chưa bị ông la rầy bao giờ. Kể
cả các anh em khác ở gần ông cũng vậy. Gần ông riết, chúng tôi được
ông coi như con cháu. Tuy chưa dám xin ông điều gì, nhưng tôi cứ yên
trí là nếu cần xin, ông sẽ chấp nhận ngay. Đó là cảm tưởng của tôi.
Thật ra, tôi thấy chả có điều gì cần phải xin, vì sống gần ông, tôi
thấy thoải mái và vui vẻ lắm.
Tuy không được thong thả về giờ giấc, nhưng lúc nào cũng thấy hãnh
diện được ở gần vị nguyên thủ quốc gia xứng đáng về mọi mặt.
Tôi đi thăm mộ phần của ông ở Lái Thiêu, ngay cạnh quốc lộ (quốc lộ
13
thì phải). Người lái xe taxi cho tôi chưa biết mộ ông ở đâu, chỉ biết
nghĩa trang Lái Thiêu. Đến nơi, tụi tôi phải đậu xe ở một chòi lá để
hỏi thăm. Thật may, chỗ ấy chỉ cách mộ độ 200 thước. Một bà khoảng
ngoài 50, và một em nhỏ khoảng 16 tuổi, thấy tụi tôi mang theo hoa
thì
hỏi ngay:
- Chắc ông đến thăm mộ ông huynh đệ phải không ?
- Dạ, thưa đúng, tôi trả lời.
- Kỳ này nhiều người đến thăm mộ các ông lắm, để tôi đưa các ông đi.
Tôi có cảm tưởng bà và em nhỏ này ở đây chỉ để đưa người ta đi thăm
mộ
trong nghĩa trang lấy tiền thưởng.
Đưa đến mộ, bà nói:
- Các ông thấy không, tụi tôi làm cỏ sạch sẽ lắm.
Tôi biếu bà 50 ngàn (khoảng gần 4 dollars), bà mừng lắm.
Mộ nhỏ bé sơ sài, để một hàng ngoài cùng phía bên trái là mộ đề tên
Đệ
(mộ ông cố vấn Nhu), rồi đến mộ bà cụ cố , rồi đến mộ đề tên Huynh
(mộ
Tổng Thống Diệm), cách thêm ít mộ nữa là mộ ông Cẩn. Đặt hoa ở mộ các
ông, tôi thấy lòng buồn và xót xa vô cùng.
Tôi đứng rất lâu cạnh mộ Tổng Thống, nói thì thầm như khấn nguyện
cùng
ông:
- Cụ sống giản dị, không ăn cao lương mỹ vị, cụ nằm phản không nệm,
cụ
không xa hoa phung phí, khi đương thời cụ chỉ lo cho quốc gia, chẳng
lo gì cho bản thân, nay cụ được chôn ở đây, nghĩa trang sơ sài này,
cạnh đồng bào nghèo khổ của cụ, chắc Chúa định vậy để hợp với đức
tính
khiêm nhường của cụ. Con mừng vì nơi thiên đàng cụ ở, cụ cũng còn
thấy
nhiều người nhớ đến cụ và đến thăm viếng cụ. Con từ nơi xa xôi về đây
viếng mộ cụ, con thấy vui về nơi an nghĩ cuối cùng của cụ đúng với ý
cụ.
Trên đường về và cả ngày hôm ấy, những kỷ niệm cũ cứ hiện lên trước
mắt. Thấy mộ của ông, tôi nhớ lại ngày ông bị thảm sát. Đầu tiên chôn
ở bộ Tổng tham mưu, sau chuyển ra nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, nay lại
về
đây. Cả ba nơi tôi đều đi viếng, nơi nào cũng sơ sài giản dị.
Có lần tôi gặp ông Võ Văn Hải, nguyên là chánh văn phòng của Ông, ông
Hải hậm hực phàn nàn:
- Anh xem, Tổng Thống Thiệu tệ bạc và bất nhân đến mức nào. Mộ hai
ông
chôn ở Mạc Đỉnh Chi cũng không yên. Ông Thiệu là Tổng Thống, bố ông
chết thì chôn ở đâu chả được, mà đem chôn ngay trên đầu hai ông. Chắc
ông nghĩ chôn ở đó để yểm hai ông không hại đến ngôi vị của ông. Ổng
làm hồ con rùa là cũng nghe mấy cha địa lý tầm bậy để ngôi vị được
vững vàng.
Có những kỷ niệm tôi không sao quên được, chợt nhớ đến nên viết ra
đây, không thứ tự đầu đuôi, chỉ ghi lại như những Tạp ghi. Ông thích
cây cỏ vô cùng. Tôi nhớ một buổi sáng cuối tuần ở biệt điện số 1, nơi
ông nghỉ tại Đà Lạt, ông xuống thăm vườn hoa và dừng lại rất lâu ở
khu
ươm cây giống, vì có một số cây tùng bút mới xin ở Nhật Bản về. Các
cây này cao độ nửa thước tây trở xuống ông dặn người làm vườn giữ cẩn
thận để đem một số về dinh Độc Lập trồng khi dinh xây xong.
Thấy có khá nhiều, tôi cũng muốn xin một cây về tặng ba tôi trồng ở
ngôi nhà mà ông đang xây.
Tôi bảo người làm vườn:
- Chiều nay về Sài Gòn, anh sang vào giỏ cho tôi một cây nhé.
Anh này băn khoăn thưa lại:
- Cụ quý mấy cây này lắm, thiếu tá lấy em sợ Cụ biết thì chết.
- Không sao đâu, nhiều quá mà! Chiều về cùng máy bay với cụ thì ai
cũng thấy, có gì cụ la tôi, anh đừng sợ.
Tôi nghĩ trong bụng chả nhẽ cụ quý cây tùng hơn mình sao. Chiều hôm
ấy, trên đường về, tôi xách cây tùng nhỏ trên tay, lên máy bay cùng
ông. Ông nhìn tôi và nhìn cây tùng, rồi mỉm cười. Tôi mừng hết lớn.
Nhớ lại nụ cười của ông sao dễ thương vậy. Cử chỉ của ông với thuộc
hạ
như vậy, sao mà quên được.
Một lần đi thăm công trường dinh Độc Lập, thấy cây cối, vườn hoa xác
xơ, ông nói Trung Tá Khôi ở lữ đoàn có người lính già nào cho ông một
người về chăm lo cây cảnh ở dinh này.
Trung Tá Khôi thưa:
- Dạ ở lữ đoàn có một trung sĩ khỏe mạnh và giỏi về cây cảnh để cho
lên săn sóc cây cối.
Ông liền cau mặt và nói:
- Ta nói đây là cho một anh nào già yếu và là lính, chứ trung sĩ ăn
lương một đống tiền, để chỉ huy binh sĩ chứ lại coi cây cảnh sao.
Thế mà nhiều người chê ông không biết dùng người, tôi không tin.
Xưa nay, lữ đoàn phòng vệ phủ Tổng Thống chỉ có chức tư lệnh lữ đoàn
và tham mưu trưởng lữ đoàn. Riêng tôi, được ông cho làm tư lệnh phó,
kiêm tham mưu trưởng.
Ngày về nhận việc làm, tham mưu trưởng lữ đoàn là Trung Tá Khôi đưa
tôi lên trình diện ông. Ông cười vui vẻ và chỉ nói anh em về làm việc
với nhau vui vẻ. Khi làm việc, tôi chú trọng nhất việc ứng trực và
canh gác, nên duyệt sổ trực gác hàng ngày. Có một lần, thượng sĩ Ngô
Đình Bá (là cháu gọi Tổng Thống bằng chú, Bá là con người anh họ của
Tổng Thống, ông nội anh là anh cụ thân sinh ra Tổng Thống – ngành
trưởng) bỏ gác. Tôi gọi Đại Úy Huy là đại đội trưởng công vụ lên hỏi:
- Dạ thưa thiếu tá, anh này ở truyền tin, xưa nay bỏ trực gác luôn,
vì
cậy là cháu cụ nên chả ai nhắc đến.
Tôi phê ngay vào sổ trực: Phạt 15 ngày trọng cấm, đem giam ở quân vụ
thị trấn, nếu tái phạm sẽ thuyên chuyển khỏi lữ đoàn. Tôi nghĩ bụng,
nếu không phạt nặng thì không làm gương cho người khác được. Lữ đoàn
cũng có nhiều con ông cháu cha lắm.
Đương sự nghe bị phạt, liền chạy lên phòng trung tá tư lệnh khiếu
nại,
làm cho tôi càng bực thêm. Trung tá tư lệnh không tiếp. Tôi gọi quân
cảnh đón bắt ngay khi đương sự ở cửa phòng tư lệnh ra, đem đi giam ở
quân vụ thị trấn. Tại đây, đương sự kêu la, và lấy dầu nóng uống dọa
tự tử. Đêm đó, khoảng 1 giờ sáng, sĩ quan trực gọi dây nói cho biết
đương sự là cháu Tổng Thống, nên cũng ngại.
Tôi hỏi sĩ quan trực:
- Nếu không phải là cháu của Tổng Thống thì anh giải quyết sự việc
này
như thế nào ?
- Dạ thưa thiếu tá, tôi sẽ cho y tá xem bệnh và nếu cần cho đi nhà
thương.
- Vậy anh cứ giải quyết như quy định. Nếu tự tử giả thì cứ tiếp tục
giam cho đến khi hết hạn. Anh nên nhớ, Tổng Thống không bao giờ binh
con cháu đâu.
- Dạ, thiếu tá chỉ thị như vậy, tôi xin thi hành.
Thượng sĩ Bá tiếp tục bị giam cho đến khi hết hạn.
Mấy hôm sau, trung tá tư lệnh kể với tôi, mẹ đương sự sợ đương sự bị
đổi đi nơi khác như tôi đã dọa, nên ra xin với ông Cẩn (cố vấn miền
Trung). Ông Cẩn cũng không bênh, chỉ nhắn vào là xin phạt thôi, đừng
đổi đi, vì đương sự là con một, và là ngành trưởng.
Sợ có người xuyên tạc và trình bậy với Tổng Thống, tôi xin trung tá
tư
lệnh làm một phiếu trình sự việc lên Tổng Thống, ông cũng chả nói gì
và có vẻ bằng lòng.
Anh Bá này còn trẻ, đẹp trai và được các trưởng ty cảnh sát nể nang.
Anh in danh thiếp là Ngô Đình Bá – Phủ Tổng Thống nên nhiều vị trưởng
ty cảnh sát cho anh mượn xe Jeep đi hàng ngày. Sau đảo chánh, anh bị
đổi ra đơn vị. Khi tôi ở tổng cục chính trị, anh đến thăm. Tôi nói
nếu
anh muốn thì có thể xin cho anh về làm việc ở tổng cục, nhưng sau đó
anh cho tôi rõ là được Trung Tướng Đôn xin về làm việc với ông. Ngoài
ra, còn một hạ sĩ quan nữa có họ với Tổng Thống, là Ngô Đình Ánh, ở
cận vệ. Anh này cũng chỉ làm việc, và được đối xử như những người
khác.
Tổng Thống có bốn sĩ quan tùy viên, lúc nào cũng có hai người ở cạnh
ông, là các Đại Úy Lê Châu Lộc, Đỗ Thọ, Lê Công Hoàn và Đắc (tôi quên
họ). Bốn người này đều tốt nghiệp trường Võ bị Quốc gia (khóa 12 thì
phải).
Lúc nào cửa phòng làm việc của Tổng Thống cũng mở, có cận vệ gác ngay
cửa. Ông làm việc và ngủ ngay trong phòng làm việc, có một chiếc phản
gỗ không có nệm cho ông ngủ. Suốt gần chục năm trời, ông sống như
vậy.
Nhiều khi tôi tự hỏi, làm Tổng Thống như vậy có gì vui không? Chả có
gì giải trí, làm việc cả ngày đến gần nửa đêm mới đi ngủ, lúc nào
cũng
có người ở cạnh, còn gì tự do? Trừ phi phải có nghị lực, và lòng yêu
nước vô cùng, mới giữ mình được như vậy.
Tôi còn biết Đại Úy Nguyễn Văn Tuyên, là cháu ruột của ông, tôi gặp
đôi lần ở trong dinh. Anh ở ngành Quân cụ, gặp tôi anh rất lễ phép và
kêu tôi bằng cấp bậc. Anh là con của em gái Tổng Thống, và là em đức
Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, cũng chả được giữ nhiệm vụ gì quan trọng.
Riêng ông cố vấn Ngô Đình Nhu, có Trung Tá Phạm Thư Đường là chánh
văn
phòng, có sĩ quan tùy viên là Đại Úy Hạp, cận vệ lo an ninh cho ông
mỗi khi ông cần. Ông làm việc gần như suốt ngày tại văn phòng của
ông.
Nhiều khi tôi thấy đèn ở văn phòng còn sáng đến quá nửa đêm. Ông sống
rất giản dị, ăn mặc xuề xòa. Mỗi khi anh em gặp ông chào, ông đều mỉm
cười, gật đầu đáp lễ. Nhiều lần ông đi săn, thì đi bằng máy bay Air
Việt Nam, chỉ có một vài anh em tháp tùng. Ông chả bao giờ dùng máy
bay riêng của Tổng Thống, cũng không bao giờ dùng phòng danh dự.
Ông Ngô Đình Cẩn một lần ở Huế vào thăm Tổng Thống cũng vậy, đi bằng
Air Việt Nam, và không dùng phòng danh dự. Phòng danh dự rất ít khi
mở
cửa, hầu như chỉ dành riêng cho Tổng Thống mà thôi.
Sau cách mạng, phòng danh dự mở cửa luôn, hầu như ai dùng cũng được,
kể cả các bà tướng. Có lần tôi lên sân bay tiễn một người bạn đi
ngoại
quốc, thấy phòng danh dự mở cửa, và gặp một sĩ quan bạn thuộc Vùng II
ở trong đó. Tôi ghé chào, thấy bà Trung Tướng Nguyễn Hữu Có ngồi bên
trong. Thì ra phòng danh dự mở để bà dùng khi lên Pleiku, và số người
đưa đón cũng gần 20 người.
Tất cả những người làm việc trong dinh tôi kể trên đều thương quý
nhau. Mỗi khi Tổng Thống cần gì, gặp ai ở gần là ông sai. Tôi có cảm
tưởng mọi người như anh em trong một gia đình, mà ông là người cha.
Các sĩ quan tùy viên là những người gần ông nhất. Khi thấy có điều gì
ông không bằng lòng, anh em nhắc nhau để sửa đổi, chả bao giờ phiền
hà
hay ganh ghét nhau. Gặp nhau là tươi cười vui vẻ, thường ngồi ở phòng
tùy viên để chuyện gẫu và thông báo cho nhau tin tức hàng ngày. Tham
mưu biệt bộ là nơi phải tập trung mọi tin tức đệ trình Tổng Thống đọc
buổi sáng. Chúa nhật ông xem lễ trong dinh, do Cha Toán ở dòng Chúa
Cứu Thế làm lễ.
Bản tin hàng ngày các tỉnh phải trình thẳng về Tham mưu biệt bộ, nên
việc gì xảy ra trong ngày, Tổng Thống đều rõ cả.
Có lần khi ông đang nghỉ cuối tuần ở Đà Lạt thì ở Phan Thiết có một
vị
sư trẻ mới 19 tự thiêu nhưng cứu sống được, chỉ bị phỏng thôi. Thế là
ông đang vui vẻ tự nhiên sầu mặt lại, ngồi thừ người ra, và đòi về
Saigon ngay.
Tôi nói với Trung Tá Hùng, tham mưu trưởng biệt bộ:
- Cụ ít lâu nay buồn nhiều và mệt mỏi quá rồi, sao những việc buồn
như
vậy mà cứ trình để cụ mệt thêm, tôi nghĩ nên bỏ đi là hơn.
- Không được toi ơi, không trình mà cụ biết được, cụ rầy chết. Trung
Tá Hùng trả lời.
- Cụ làm sao mà biết được, dù biết được thì chuyện cũng đã qua rồi,
còn hơn là để cụ bực tức lo nghĩ.
Tôi cũng được biết Đại Tá Y, tổng giám đốc Cảnh sát có trình một vụ
động trời nữa. Phía Phật giáo tranh đấu có một ban chuyên môn đi rủ
rê
những người nhẹ dạ để tự thiêu. Họ cho những người này tiêu xài, ăn
chơi thỏa thích rồi kể là chính quyền đã giết hại các tăng ni, và đưa
cho những người này ký giấy tự thiêu. Có một thanh niên sợ quá, phải
đến trình diện cảnh sát để xin bảo vệ.
Theo tôi, trong việc dùng người, hình như Tổng Thống không bao giờ để
ý tới địa phương, là người Công giáo hay Phật giáo. Tôi là người Bắc
và theo Phật giáo. Phần đông những người lớn ở cạnh ông đều là Phật
giáo và người Nam, người Bắc nhiều hơn người Trung. Nhưng
Tổng Thống đã bị chống đối là kỳ thị.
Chính ông cũng buồn phiền vì nghe tin này. Những lúc ông bực bội hay
buồn phiền là lộ ra mặt. Ông để một tay sau lưng, đi đi lại lại, hút
thuốc liên tục. Khi phòng làm việc có vẻ quá nhỏ hẹp, ông đi ra
ngoài.
Nhưng mỗi khi ông ra khỏi phòng, nào là cận vệ, tùy viên, có khi cả
tôi nữa, luôn ở xung quanh, nên ông lại lững thững quay vào.
Lần mà tôi nghĩ ông khó chịu, và khó xử nhất, là lần ông mời vợ chồng
ông đại sứ Mỹ cùng ông đi kinh lý, thăm khu dinh điền thuộc tỉnh
Quảng
Đức, rồi về Đà Lạt ăn cơm tối. Ông đại sứ Mỹ có ông trưởng cơ quan
CIA
sắp rời nhiệm sở về Mỹ đi cùng. Khi đến sân bay Quảng Đức, có xe cắm
cờ Việt Nam và cờ hiệu của Tổng Thống để ông đi. Ông bà đại sứ ngồi
xe
thứ hai theo dự trù. Nhưng ông lại mời ông bà Đại sứ đi cùng xe với
ông. Ông ngồi bên tay mặt, bà đại sứ ngồi giữa và ông đại sứ ngồi bên
tay trái. Ông bà đại sứ đều cao lớn, xe lại nhỏ nên hơi chật chội.
Tôi
để ý thấy ông có vẻ lúng túng khi ngồi sát cạnh bà này.
Khi vào thăm một trong những khu dinh điền của tỉnh này, ông Đại sứ
tỏ
vẻ ngạc nhiên vô cùng về sự sung túc của dân ở đây, nhà cửa khang
trang, đều lợp tôn cả, cây cối tốt tươi, nhà nào cũng có vườn lớn
trồng đủ mọi loại cây trái, rau khoai. Tôi thấy như là người miền
Trung vào lập nghiệp ở đây. Có những xưởng cưa, xưởng mộc, xưởng làm
nón và trưng bày cho Tổng Thống xem những đồ mộc, nón và đặc biệt là
những trái cây, có những củ khoai to đến nửa ký, có những trái bí
ngô,
bí đao, mướp v.v…trái nào cũng lớn hơn những trái tôi thấy ở các chợ
Saigon.
Đón Tổng Thống có các vị linh mục, mục sư và đại đức. Dân chúng ăn
mặc
tươm tất, ai cũng vui vẻ và mừng rỡ khi gặp Tổng Thống. Tại đây, tôi
gặp đại đức Thích Độ Lượng, làm tuyên úy Phật giáo của Trung đoàn 12
của tôi trước đây (ngày ấy chưa có ngành Tuyên úy Phật giáo, nhưng
Trung đoàn của tôi có chùa và nhà thờ riêng, nên anh em Phật tử mời
được đại đức Thích Độ Lượng về coi chùa). Vị đại đức này cũng có chùa
ở đây và ở Ban Mê Thuột nữa. Sau này đại đức lên thượng tọa và làm
Phó
giám đốc nha Tuyên úy Phật giáo cho thượng tọa Thích Thanh Long. Sau
1975, hai vị này đều bị tù cải tạo, khi được tha hai vị đều chết cả
vì
yếu sức. Khi tôi ở tổng cục Chiến tranh Chính trị gặp ông, ông hay
phàn nàn là Thật dại cả lũ, nghe Mỹ nó xui làm đảo chánh để bây giờ
lộn xộn. Mấy năm nay tôi có được lên cao nguyên thăm chùa của tôi
đâu,
đường đi bây giờ đâu có được an ninh như thời của cụ Diệm. Thế mà
trong cuốn sách của ông Nguyễn Vĩnh Phúc nói ở miền Trung nhiều người
theo đạo Phật sợ phải đi dinh điền, nên xin theo đạo Công giáo để
được
ở lại. Tôi thấy khu dinh điền phần đông là người Công giáo, do các
linh mục trẻ hướng dẫn đến lập nghiệp ở đây, và đời sống sung túc hơn
ngày ở quê hương nhiều. Sau này tôi ở Huế, rất nhiều người xin đi
dinh
điền mà không được.
Tổng Thống lấy hai cái nón tặng ông bà đại sứ, và một cây gậy chạm
trổ
rất đẹp tặng ông trưởng cơ sở CIA. Thấy Tổng Thống và ông đại sứ vui
vẻ, anh em chúng tôi cũng mừng, vì tụi tôi cũng biết tình hình rất
căng thẳng giữa Mỹ và Việt Nam lúc bấy giờ.
Sau khi thăm Quảng Đức, phái đoàn đi Đà Lạt ở dinh số 2, và Tổng
Thống
mời ông bà đại sứ ăn cơm tối ở dinh số 1. Khoảng 5 giờ chiều, Tổng
Thống chợt nghĩ là cần một bà để tiếp chuyện bà đại sứ Mỹ. Thấy tôi
đứng cạnh, ông bảo Anh mời bà dân biểu Đà Lạt tới ăn cơm để tiếp bà
đại sứ, nhớ xin lỗi là bây giờ mình mới đến Đà Lạt nên không kịp mời
trước.
Tôi vâng lệnh đi ngay, nhưng ra đến cửa lại giật mình, vì chưa biết
bà
Dân biểu tên là gì và ở đâu. Tôi định nhờ ông tỉnh trưởng Đà Lạt mời
hộ và xin ông đi cùng. Rất may khi ra xe thì gặp ông bí thư Trần Sử
đi
đâu về, tôi lại nhờ ông lo hộ vì ông quen việc này.
Tối đó, khi dự tiệc xong, Tổng Thống và ông đại sứ nói chuyện riêng.
Tôi chắc sự việc rất gay go, vì đến hơn 1 giờ đêm ông đại sứ mới ra
về, còn ông thấy rõ vẻ đăm chiêu.
Sáng hôm sau, tôi còn đang ngủ, cận vệ đã đánh thức, báo Tổng Thống
đã
dậy rồi. Ông đi lại ngoài vườn còn sương mù và hút thuốc liên tục, tỏ
vẻ mệt mỏi nhiều. Tôi chắc đêm qua ông mất ngủ. Sau khi ăn sáng, ông
đổi ý, không nghỉ ở Đà Lạt ngày hôm ấy (Chúa nhật) và đòi về Saigon
ngay.
Sáng hôm sau (thứ hai) ông lại đi Cam Ranh và dùng xe đi thăm khắp
vùng. Tụi tôi ai cũng biết là đại sứ Mỹ đề nghị ông nhường cảng Cam
Ranh cho Hoa Kỳ. Ông bí thư Trần Sử cũng kể cho tôi nghe là Tổng
Thống
rất khó xử khi người Mỹ muốn đem quân vào Việt Nam, và muốn Việt Nam
nhường cảng Cam Ranh cho họ. Ông chỉ đồng ý là nhận thêm cố vấn Mỹ,
nhưng những người này phải có thông hành như những người ngoại quốc
vào Việt Nam. Ông phàn nàn là nếu để họ đem quân vào, và nhường cảng
Cam Ranh thì còn gì là chủ quyền nữa, khác chi khi quân Pháp trước
đây.
Thế là từ đó đến ngày đảo chánh, Ông không gặp riêng đại sứ Mỹ nữa.
Khi đến khánh thành lò nguyên tử ở Đà Lạt, có nhiều vị đại sứ các
nước
đến dự, và trước khi đảo chánh, đại sứ Mỹ đưa đô đốc tư lệnh Thái
Bình
Dương đến thăm ông. Ông bị giết chết, theo tôi nghĩ là vì không chịu
nhường Cam Ranh và cho Mỹ mang quân vào Việt Nam.
Oái oăm thay, Bác sĩ Phan Huy Quát đồng ý nhường Cam Ranh cho Mỹ và
đồng ý cho Mỹ mang quân vào Việt Nam, cũng bị chết về bàn tay Việt
cộng, vì bị Mỹ bỏ rơi.
Sau đảo chánh, thật là bối rối cho anh em ở lữ đoàn Phòng vệ. Nghe
Tổng Thống chết, ai cũng đau buồn. Rất nhiều người khóc lóc như cha
chết. Thật vậy, tụi tôi coi ông như cha.
Khi tôi ở lữ đoàn đợi lệnh đi đơn vị mới, có một Frère (sư huynh) ở
trường Taberd đến xin gặp.
Tôi quên tên, nhưng thấy ông còn trẻ, khoảng tuổi tôi, ông gặp tôi để
xin cho biết chi tiết về Tổng Thống và cuộc đánh ngày 1 tháng 11 năm
1963. Tôi kể cho ông nghe, nhiều lúc ông vừa ghi vừa khóc, ông hỏi
tôi: Có nhiều báo nói về hầm át- xít ở thành Cộng Hòa, và đường hầm ở
dinh Gia Long ra ngoài v.v…Tôi đưa ông ra cửa và chỉ cho ông xem toàn
thành Cộng Hòa. Còn về cái hầm ở dinh Gia Long, được làm ra chỉ để
Tổng Thống và nhân viên trú ẩn nếu bị pháo kích hoặc oanh tạc, chứ
làm
gì có đường ra ngoài. Thấy tôi buồn vì báo chí đua nhau nói xấu Tổng
Thống, ông an ủi:
- Lịch sử không ai ghi chép ngay sau khi biến cố xảy ra, phải đợi một
thời gian dài mới xét đoán được công hay tội của cụ Diệm. Như vua
Quang Trung, khi vua Gia Long lên ngôi, ai dám ngợi khen ngài là anh
hùng. Theo tôi, ai đảo chánh cướp ngôi mà được nhân dân kính phục,
nhất là giết cụ Diệm một người đạo đức trong sạch, yêu nước. Thiếu tá
cứ đợi xem kết quả sẽ như thế nào cho dân mình sau này.
Bây giờ tôi không biết vị sư huynh này ở đâu, và ông có giúp gì cho
các nhà viết sử sau này về tài liệu ông ghi chép.
Thật khổ cho anh em lữ đoàn Phòng vệ tụi tôi. Biết chắc là lữ đoàn bị
giải tán, và anh em phải đổi đơn vị, mấy ngàn anh em toàn những người
giỏi về tác chiến và chung thủy, nay bơ vơ không biết về đâu.
Trước khi đảo chánh, anh em quân đội thương quý nhau, nay đâm ngờ vực
chia rẽ nhau. Thậm chí, lính lữ đoàn trong khi chờ đợi đi đơn vị mới,
không được trang bị vũ khí.
(continue-end)
Tôi xin kể một câu chuyện nghe như khó tin. Hạ sĩ nhất Nguyễn Khắc
Phương ở lữ đoàn, bị thương ở bụng và gẫy tay, vì bị pháo kích trong
khi theo tôi và Đại Úy Bạch coi đại đội Phòng không đi coi chỗ đặt
mấy
khẩu súng không giật (57 ly). Anh được tải thương về bệnh viện Cộng
Hòa. Hai hôm sau, phái đoàn của các thầy đi thăm thương binh và mang
quà cho các chiến sĩ có công trong cuộc đảo chánh, khi đến giường hạ
sĩ nhất Phương và biết anh ở Lữ đoàn Phòng vệ Tổng Thống, thì khựng
lại, bỏ sang giường khác. Cô y tá phản đối, nói ai cũng là thương
binh, tại sao chia rẽ như vậy. Thế là phái đoàn bàn tán một lúc, rồi
đem quà để đầu giường anh, không một lời thăm hỏi. Anh tức qua,ù cầm
gói quà ném ra cửa (Anh Phương hiện ở chung cư Phạm Thế Hiển, và vẫn
giữ liên lạc với tôi).
Người thay thế Trung Tá Khôi làm tư lệnh Lữ đoàn là Thiếu Tá Đầy. Ông
và tôi quen nhau, ông nhờ tôi đưa anh em đến căn cứ chuyển vận để lên
tầu theo lệnh thuyên chuyển ra các đơn vị thuộc vùng I và II. Lúc
chia
tay lên tầu, tôi muốn rơi nước mắt. Về phía anh em, có lẽ phần vì
phải
lo cho vợ con, phần nhớ đơn vị nên có đến 25% vắng mặt. Sau này, khi
gặp lại anh em ở các đơn vị, tụi tôi đều vui mừng như ruột thịt gặp
lại nhau. Đặc biệt là kỳ về thăm Việt Nam năm 2000, tôi có đến thăm
trại gia binh của lữ đoàn cũ ở đường Hồng Thập Tự, hiện còn 40 gia
đình. Tôi được gặp một số anh em, ai cũng tay bắt mặt mừng, nhưng đều
già cả. Nhiều người đến hơn 70 tuổi rồi, và ai cũng nhắc đến Tổng
Thống, họ còn đưa tôi đến giới thiệu với cha xứ ở nhà thờ Lữ đoàn cũ
nữa. Nhiều người kể với tôi, cứ đến ngày 2 tháng 11 hàng năm, đều xin
lễ cầu cho Tổng Thống. Nghĩ cũng an ủi cho ông, gần 40 năm rồi mà
người ta vẫn nhớ đến ông, và công lao của ông với đất nước.
Vì chưa có gia đình nên ngày ấy tôi ở ngay trong thành Cộng Hòa,
nhiều
tối buồn tôi hay ra sân cờ chuyện gẫu với anh em nên tình thân càng
thắm thiết. Khi giải tán Lữ đoàn, một số anh em đào ngũ nhưng một
thời
gian sau, nhiều người gặp tôi và tôi lại lo cho họ trở lại quân ngũ,
và cũng có nhiều người về làm việc với tôi.
Một chuyện mà báo chí sau này đã làm ồn ào về việc xét chùa Xá Lợi để
bắt một số tăng sĩ chống đối. Nhiều báo nói bà Nhu mặc quần áo rằn ri
đích thân chỉ huy lính chính quy, trong đó có lính của Phủ Tổng Thống
và lính lực lượng Đặc biệt. Tôi xác nhận lính của lữ đoàn không tham
dự, và đặc biệt là tuy ở Đặc khu 1 (Đặc khu quanh dinh Gia Long mà
bất
cứ đơn vị nào vào vòng đai này cũng phải báo trước cho bộ Tham mưu Lữ
đoàn Phòng vệ rõ) mà cũng không hay.
Khuya đó (20-8-63), toán tuần cảnh do quân cảnh lữ đoàn đi tuần báo
cho tôi biết cảnh sát đang bao vây chùa Xá Lợi, có cả một số binh sĩ
của lực lượng đặc biệt yểm trợ ở ngoài (không một người lính của lực
lượng Đặc biệt nào vào trong khuôn viên chùa). Tôi trình cho Trung Tá
Khôi tư lệnh rõ, ông liền liên lạc với Đại Tá Tung và tỏ ý trách là
tại sao vào trong Đặc khu 1 mà không thông báo cho Lữ đoàn Phòng vệ
rõ.
Đại Tá Tung trả lời là quên, xin lỗi Trung Tá Khôi, và nói chỉ có một
đơn vị nhỏ của lực lượng Đặc biệt hiện diện theo yêu cầu của Đại Tá Y
(Đại Tá Tung không có mặt), vì có tin các vị tăng sĩ có súng phóng
lựu
đạn và võ khí các loại.
Tôi ra tại chỗ xem thì lúc ấy đã yên rồi. Gặp Thiếu Tá Dần, người chỉ
huy tổng quát và cũng là chỉ huy trưởng của Cảnh sát dã chiến. Ông kể
cho tôi nghe là trong chùa có kháng cự rất hăng bằng gạch đá, dao,
búa
ở trên cao ném xuống, cả bàn ghế nữa, nhưng không có vũ khí. Tôi hỏi
có bắt giữ những vị cao tăng nổi tiếng chống đối không?
- Thượng tọa Thích Trí Quang không có trong chùa, nhưng có thượng tọa
Thích Tâm Châu.
- Anh thấy thái độ của thượng tọa thế nào?
- Ông có vẻ run và nhờ tôi cho gặp ông Đại Tá Y, hay ông bộ trưởng bộ
nội vụ, hoặc Phó Tổng Thống Thơ.
- Sao anh không để thượng tọa gặp mấy vị này?
- Lúc đó lộn xộn lắm nên tôi chỉ báo cáo qua máy.
Tôi thấy sân chùa ngổn ngang gạch đá và bàn ghế, lối bậc thang lên
chùa cũng ngổn ngang bàn ghế.
Sáng sau là lệnh thiết quân luật ban hành và tôi thấy Trung Tướng
Đôn,
Đính đang ngồi trong phòng của Tổng Thống.
Một chuyện nữa là vụ thương phế binh và dân vệ biểu tình phản đối
trước chùa Xá Lợi khiến phía Phật giáo chống đối chỉ trích chính phủ.
Ngày ấy, dân vệ do Trung Tá Chiêu làm Giám đốc. Tôi nhớ một buổi họp
tối, mấy vị sĩ quan đến họp ở lữ đoàn bàn nhau để anh em thương phế
binh biểu tình phản đối, vì nếu để vụ này kéo dài thì binh sĩ ngoài
tiền tuyến mất tinh thần. Tôi thấy có Trung Tá Khôi, Trung Tá Chiêu
và
một số người nữa tôi quên. Đại Úy Hồ Ngọc Tâm là thư ký phiên họp.
Trung Tá Chiêu được giao trách nhiệm tổ chức cuộc biểu tình.
Chiều hôm sau, tôi tháp tùng Tổng Thống lên Đà Lạt. Khi trở về đến
sân
bay, tôi thấy Phó Tổng Thống Thơ, Thiếu Tướng Nghiêm và ông bộ trưởng
Phủ Tổng Thống đón ở phòng danh dự.
Phó Tổng Thống trình sự việc cho Tổng Thống nghe. Tôi chưa thấy ông
giận dữ như vậy bao giờ. Ông cầm gậy đập xuống đất, mặt đỏ bừng và ra
lệnh ngay tại chỗ:
- Bắt phạt ngay những người đứng ra tổ chức, và cách chức ngay Trung
Tá Chiêu.
Trung Tá Chiêu là người tôi quen nhiều, ông đã từng là tư lệnh sư
đoàn
và hết lòng trung thành với chế độ. Nhưng Tổng Thống vẫn cách chức
cho
phía chống đối biết Tổng Thống hết lòng muốn hòa giải, và nhượng bộ
tất cả những gì họ yêu cầu.
Cho đến bây giờ tôi vẫn còn thắc mắc, không hiểu Tổng Thống hay ông
Nhu có biết là sắp có biến cố xẩy ra hay không. Riêng tôi, ngày ấy
nghe có tin đồn là sắp có đảo chánh. Nhất là Trung Tá Khôi kể cho tôi
nghe có một phiếu trình Tổng Thống, xin cho Thiếu Tướng Đính lên
trung
tướng làm bộ trưởng Nội vụ và để Trung Tướng Đôn làm bộ trưởng Quốc
phòng, sau đó sẽ có biện pháp mạnh đối với phía tranh đấu (phiếu
trình
này do ông Đôn làm). Tổng Thống không chấp thuận, và Thiếu Tướng Đính
có vẻ buồn, lên Đà Lạt nghỉ ít ngày. Theo tôi nghĩ, Tổng Thống không
muốn có biện pháp mạnh đối với phía chống đối, nên từ chối đề nghị
này.
Có lần tôi bàn với Trung Tá Khôi để xin Tổng Thống ra lệnh, nếu có
biến cố gì xảy ra, mà không có mặt Tổng Thống thì phải làm sao. Sau
khi trình, Trung Tá Khôi cho tôi rõ: Tổng Thống bảo có Thiếu Tướng
Khiêm và Đính đó.
Tuy là sĩ quan cấp nhỏ, nhưng lúc ấy tôi suy đoán là không có ai có
thể đảo chánh được. Ngay cả một đơn vị lớn như sư đoàn 7, sư đoàn 5
hay nhẩy Dù hoặc Thủy quân lục chiến, cũng không thể nào tấn công vào
dinh được, vì với Lữ đoàn phòng vệ và các loại vũ khí tối tân đủ để
cầm cự một thời gian lâu. Ngoài ra, còn lực lượng đặc biệt, là đơn vị
thiện chiến nhất lúc bấy giờ, thì làm sao có thể xảy ra đảo chánh
bằng
quân sự được. Chỉ lo về mặt chính trị, mà lại do Mỹ (CIA) đặt kế
hoạch, thì mới là đáng ngại. Tuy nhiên có một số sự việc xảy ra.
1) Tôi có nghe tin là có người báo cho ông cố vấn Nhu biết là Đại Tá
Đỗ Mậu đi rủ rê một số anh em làm đảo chánh, ông ra lệnh cho Đại Tá
Tung điều tra và được trình lại là đúng như vậy. Đại Tá Tung được
lệnh
cô lập ông Mậu để dằn mặt những người mưu toan. Rủi đúng ngày hôm ấy,
Trung Tá Châu (nguyên là giám đốc nha Chiến tranh tâm lý) là tùy viên
quân sự ở Hoa Kỳ được về phép để dự lễ mở tay của người em mới được
thụ phong linh mục.
Nhân gặp một số anh em trong Cần Lao kể cho nghe nội vụ, thế là ông
Châu nhẩy bổ vào trình diện Tổng Thống, khóc lóc than phiền là ông
Nhu
bây giờ hết tin anh em, đã đẩy ông đi xa, nay còn anh Mậu theo cụ từ
bao lâu nay mà cũng ra lệnh bắt.
Tổng Thống gọi Đại Tá Tung hỏi sự việc, và cũng được trình là ông Mậu
có rủ rê một số anh em thật. Ông Châu viện cớ Mậu là an ninh quân
đội,
nên phải dò xét mọi người, chứ sao mà phản Tổng Thống được, ông coi
Tổng Thống như cha. Thế là Tổng Thống ra lệnh ngừng có biện pháp với
ông Mậu.
Đảo chánh xảy ra mấy ngày sau, lúc ông Châu còn ở Saigon. Tôi gặp ông
trong bữa cơm ở nhà Trung Tá Khôi và có hỏi ông việc này, ông nhận là
đúng. Nếu ông Châu đừng xía vô việc này thì ông Mậu bị bắt, như vậy
các ông tướng sẽ không dám làm đảo chánh, tôi hỏi thêm ông Châu.Việc
này có thể đúng, ông trả lời.
Sau ông được ông Mậu xin với hội đồng tướng lãnh cho ra khỏi Việt Nam
để về lại nhiệm sở cũ ở Hoa Kỳ, và bàn giao chức vụ tùy viên quân sự
cho Đại Tá Nguyễn Phương. Ông Châu sau khi bàn giao thì chạy sang
Pháp
và không trở về Việt Nam nữa.
Sau khi mất nước, tôi có sang Pháp và gặp lại ông. Tôi hỏi ông về
việc
có anh em cho biết, khi tướng Văn Tiến Dũng sang Pháp, ông cũng có
mặt
trong phái đoàn đón hắn có đúng không? Ông trả lời có, vì ông muốn
xin
cho gia đình còn kẹt lại Việt Nam được sang đoàn tụ với ông.
- Từ khi cụ Diệm chết, moi thấy sớm muộn gì Việt Nam cũng mất về tay
Cộng Sản.
Đó là lời nói cuối cùng của ông với tôi. Ông chết ở Pháp vì bệnh. Tôi
có đọc cuốn sách của ông viết Ngô Đình Diệm và cuộc hòa bình dang dở.
2) Lực lượng đặc biệt là đơn vị có thể gọi là thiện chiến nhất lúc
bấy
giờ, và cũng là đơn vị trung thành nhất với chế độ. Xưa nay Đại Tá
Tung ít khi đi họp, thế mà hôm ấy (1 tháng 11 năm 1963) ông lại đi,
vì
ông được Trung Tướng Đôn đích thân gọi đi họp. Trung Tá Khôi kể với
tôi là khi hai người bị giữ, Trung Tá Khôi được Đại Tá Tung phàn nàn
là sao tôi sơ ý quá, đáng nhẽ tôi phải ở lại đơn vị lúc này.
Đại Tá Tung là người trung thành với Tổng Thống Diệm hết lòng. Ông
quá
kín đáo nên việc chống đảo chánh ông không bàn và giao phó cho Trung
Tá Hộ, là phụ tá của ông. Ngoài ta, Thiếu Tá Phú (sau là thiếu tướng
Tư lệnh Quân đoàn II) là chỉ huy trưởng lực lượng, cũng không được
chỉ
thị phải làm gì khi xẩy ra sự việc.
Xưa nay chức tư lệnh phó là Thiếu Tá Trần Khắc Kính, anh rất thân với
tôi, tiếc thay ông Tung nghe gièm pha nên tạm thời đẩy đi xa. Những
lời gièm pha nói là Tổng Thống và ông Cố vấn được trình là mọi việc
tác chiến đều do Thiếu Tá Kính chỉ huy.
Thiếu Tá Kính là phó mà có bằng nhẩy dù, ông Tung là trưởng mà không
có. Anh Kính kể với tôi là một hôm ông Tung bàn với anh là đám Việt
cộng xâm nhập vào Cam Bốt quá nhiều, nên ông Tung nhờ anh đích thân
xuống Quân khu IV một thời gian, để phá vỡ sự xâm nhập của Việt cộng.
Chức vụ tư lệnh phó của anh Kính vẫn như cũ.
Trước đảo chánh hơn một tháng, nhân đi thăm anh tôi làm quận trưởng
Cái Răng ở Cần Thơ, sau đó tôi vào chào Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao, là
tư lệnh Quân khu IV lúc bấy giờ.
Tướng Cao nói với tôi.
- Chiều nay có anh Tung đến thăm, tôi mời ăn cơm ở tư thất của tôi.
Tiện anh ghé thăm, ở lại ăn cơm tối với tôi và tôi sẽ mời cả Thiếu Tá
Kính ăn một thể.
Bữa ăn tối chỉ có bốn người: Thiếu Tướng Cao, Đại Tá Tung, Thiếu Tá
Kính và tôi. Lúc ăn cơm, Thiếu Tướng Cao và ông Tung nói chuyện với
nhau, tôi và anh Kính cũng nói riêng với nhau.
Tôi kể cho anh Kính nghe những tin đồn về đảo chánh sẽ xảy ra ở
Saigon, và nói anh nên về sớm. Tôi lo nếu chuyện gì xảy ra, với Thiếu
Tá Triệu là em ruột của ông Tung làm tham mưu trưởng, sợ không đủ uy
tín điều động anh em, vả lại mới được ông Tung cất nhắc lên, chắc khó
chu toàn nhiệm vụ chống đảo chánh, còn Trung Tá Hộ làm phụ tá thì mới
đổi về.
Anh Kính cũng đồng ý với tôi, và nói cho tôi rõ là chính ông Tung về
đây là để cho anh biết nên giao công việc cho người phụ tá của anh
sớm, để về Saigon. Nhưng anh trả lời là cần một thời gian để sắp xếp
công việc đang làm, rồi sẽ về.
Anh Kính cũng phàn nàn với tôi là ông Tung thấy nhiều lần Tổng Thống
hoặc ông cố vấn gọi thẳng cho anh để hỏi việc và giao những công tác
mật, nên ông Tung buồn mà viện cớ nhờ anh xuống miền Tây để lo đặt
các
cơ sở bên Miên chống lại sự xâm nhập của Việt cộng vào xứ này.
- Duệ thấy không, ông Tung tuy trung thành và khôn ngoan chứ đâu có
kinh nghiệm chỉ huy như tụi mình, tôi cũng lo khi biến cố xảy ra thì
lúng túng cho mà xem.
Quả nhiên, khi biến cố xảy ra, chả ai dám quyết định việc gì, vì ông
Tung vắng mặt.
Riêng tôi có liên lạc được với Thiếu Tá Phú là chỉ huy trưởng Liên
đoàn 77 lúc bấy giờ, nhưng anh Phú cũng không theo đề nghị của tôi.
Nếu anh Kính ở Saigon lúc biến cố, tôi tin là tình hình sẽ khác, vì
chúng tôi rất tin nhau, thân thiết, cùng ở trong đảng và trung thành
với chế độ.
Trong lúc ăn cơm, tôi còn nghe Thiếu Tướng Cao phàn nàn là tại sao vụ
Phật giáo chỉ xảy ra ở miền Trung và Saigon, còn vùng IV, vùng II và
nhiều tỉnh ở vùng III không có sự chống đối nào. Chứng tỏ là sự việc
xảy ra có ngoại quốc dính vào để thao túng về chính trị. Quả thật, cả
vùng IV không có một chùa nào chống đối cả.
3) Sư đoàn 7 đang thuộc quyền của Quân đoàn IV và do Đại Tá Bùi Đình
Đạm chỉ huy. Sư đoàn này rất thiện chiến, do các đơn vị ở ngoài Bắc
di
cư vào. Đột nhiên, bộ Tổng tham mưu đề nghị sát nhập vào Quân đoàn
III
do Thiếu Tướng Đính chỉ huy, và Đại Tá Lâm Văn Phát làm tư lệnh thay
Đại Tá Đạm kể từ 1 tháng 11 năm 1963, đúng là ngày đảo chánh.
Nếu Sư đoàn này để như cũ, vẫn thuộc quyền Thiếu Tướng Cao và Đại Tá
Đạm thì sự việc sẽ khác hơn, vì sư đoàn này rất trung thành với Tổng
Thống.
4) Vì quá chủ quan, nên Tổng Thống không quan tâm đến vấn đề báo cáo
là sẽ có đảo chánh. Còn nhớ, có lần tôi trình với Trung Tá Khôi là
nếu
các biến cố xảy ra thì Tổng Thống có dự trù việc chống đảo chánh
chưa,
và Tổng Thống giao cho ai lo việc này. Trung Tá Khôi đã diện trình
Tổng Thống và ông nói cứ liên lạc với Thiếu Tướng Khiêm và Thiếu
Tướng
Đính. Sau đúng hai ông này phản thì sao mà chống đỡ được.
Lữ đoàn Phòng vệ, tuy gọi là lữ đoàn, nhưng chỉ bằng quân số một
trung
đoàn. Đã vậy, mỗi khi Tổng Thống thấy chỗ nào cần, cũng đồng ý cho
mượn quân của lữ đoàn giúp. Tuy tình hình nghiêm trọng, vậy mà Tổng
Thống còn chỉ thị biệt phái hai đại đội cho Trung Tướng Nguyễn Văn
Là,
để bảo vệ công trường làm đường từ Bình Dương qua rừng Cò Mi đến Thủ
Đức, để cắt đường giao thông của Việt cộng. Sau thấy tình hình quá
nghiêm trọng, tôi phải lên gặp Trung Tướng Là xin đem hai đại đội này
về. Sự việc xảy ra trước khi đảo chánh gần một tháng.
Tổng Thống cứ tin là ông làm việc cho quốc gia, các tướng lãnh đều do
ông gắn lon, họ nỡ lòng nào mà phản ông. Tổng Thống chỉ lo nếu có sự
giao tranh, như tấn công vào tổng tham mưu để bắt các tướng lãnh phản
loạn, thì quân đội sẽ tan vỡ, mất tiềm năng chống cộng, nên ông hy
sinh từ bỏ quyền hành. Ông đâu ngờ những người ông vốn tin cẩn, đã vì
danh vọng và quyền lợi cá nhân mà giết cả gia đình ông một cách thảm
thương và dã man như vậy.
Còn một điều đáng tiếc nữa, là vì trọng nguyên tắc và không muốn để
ai
có thể làm áp lực với mình, nên ông không chịu nghe đề nghị của tướng
Đôn và Đính để giao cho quân đội giải quyết vụ Phật giáo, cho tướng
Đính lên trung tướng để coi bộ Nội vụ và để Trung Tướng Đôn coi bộ
Quốc phòng. Thật ra, nếu chỉ thăng cho tướng Đính lên thêm một sao
nữa, thì cuộc đảo chánh đã không xảy ra.
Trung Tá Nguyễn Văn Minh, ngày đó là Đại Úy Chánh văn phòng của ông
cố
vấn Ngô Đình Cẩn, kể với tôi: Trước ngày đảo chánh độ mấy tuần, anh
được Tổng Thống gọi về để hỏi cho rõ những sự việc đã xảy ra tại Huế,
và hỏi rõ về tình hình và thái độ của các vị lãnh đạo Phật giáo ngoài
đó. Khi anh đợi ở phòng sĩ quan tùy viên thì gặp Thiếu Tướng Đính tới
đây, cũng để gặp Tổng Thống. Gặp anh, thiếu tướng mừng quá, hẹn là
sau
khi anh gặp Tổng Thống, thì đến nhà ông chơi, để ông nhờ anh trình
ông
cố vấn mấy việc cần.
Tổng Thống tiếp Thiếu Tướng Đính trước, và khi ra về, ông nhắc lại
anh
Minh là ông không về văn phòng, mà về nhà để đợi anh Minh. Khi anh
Minh tới nhà, ông mời anh lên lầu ngay, để nói chuyện cho kín đáo.
Ông
phàn nàn với anh Minh là ông bị bên Phật giáo thù ghét lắm, ông đã
trình xin Tổng Thống để thiết quân luật và làm mạnh với Phật giáo để
chóng kết thúc. Ông chỉ mong Tổng Thống hiểu rõ sự hy sinh và lòng
trung thành của ông, để cho ông lên trung tướng, nhưng Tổng Thống vẫn
chưa chịu, làm cho ông chán nản và rất buồn. Thiếu Tướng Đính nhờ anh
Minh về trình với ông cố vấn, để ông xin Tổng Thống hộ.
Ngay chiều hôm ấy, anh Minh gặp Đại Tá Lê Quang Tung là tư lệnh lực
lượng đặc biệt, anh cũng đã kể cho Đại Tá Tung rõ việc ông Đính phàn
nàn và tỏ vẻ chán nản, sợ nếu không được lên trung tướng, ông sẽ bất
mãn và bị mua chuộc chăng.
Đại Tá Tung nói với anh Minh là ông rất hiểu Thiếu Tướng Đính, tính
ông này nóng nảy và thích danh vọng, nhưng ông cũng biết là Tổng
Thống
không thể thăng cấp cho ông Đính lúc này được, vì lúc nào Tổng Thống
cũng muốn hòa giải với bên Phật giáo. Nếu thăng cấp cho Thiếu Tướng
Đính lúc này sẽ làm cho bên Phật giáo hiểu lầm thêm. Vả lại, Đại Tá
Tung rất rõ là Tổng Thống không bao giờ muốn bị ai ép buộc cả, vì vậy
dù có trình, Tổng Thống cũng không thuận đâu.
Thiếu Tướng Đính, sau khi giết được cụ Diệm thì lên trung tướng, và
làm bộ trưởng Nội vụ như ông hằng mong ước. Nhưng chỉ được mấy tháng,
rồi cũng mất tất cả. Năm 1975, ông cũng sang Mỹ tỵ nạn như nhiều
người
khác. Gần đây, ông được một tổ chức lưu vong phong làm Tổng tham mưu
trưởng, có nhiều hy vọng lên đại tướng. Với người tham danh vọng, mà
thiếu danh vọng thật, xài danh vọng hão huyền, cũng đỡ cơn ghiền.
Nguyễn Hữu Duệ