Nếu ta là người học Phật lâu năm ta sẽ nhanh nhẹn trả lời rằng có 3 loại:
1) Tài thí: tức bố thí tiền.
2) Pháp thí: tức bố thí pháp.
3) Vô úy thí: tức bố thí sự không sợ hãi.
Trả lời như vậy xong, ta yên chí cho là mình
đã hiểu xong Bố thí Ba La Mật, rồi ta bỏ qua, đi lấy Kinh Hoa Nghiêm ra
đọc, hoặc lấy sách Tổ Sư Thiền ra coi. Nhưng than ôi! Ta đã lầm to, Bố
thí Ba La Mật đâu phải chỉ có bấy nhiêu thôi!
Khi nói đến sự bố thí, thì ta nhận ra có ba yếu tố tạo ra nó, đó là:
người cho (năng thí), món đồ (vật thí), và người nhận (sở thí).
Ba món Bố thí mà ta vừa kể trên (Tài, Pháp, Vô
úy) thuộc về vật thí. Còn người cho và người nhận, ta đã sơ xuất bỏ
quên. Ba yếu tố cho ra sự Bố thí quan trọng lắm, nếu thiếu một trong ba
cái đó thì sẽ không có sự Bố thí.
Có người cầm trong tay một món đồ muốn cho mà không có ai nhận thì không
có sự bố thí. Có món đồ mà không có người cho và người nhận thì cũng
không có sự bố thí. Có người sẵn sàng nhận đồ mà không có ai cho thì
cũng không có sự bố thí.
Nếu muốn phân loại thì ta phải căn cứ trên ba yếu tố của sự Bố thí mà phân loại:
– Trên phương diện người cho (dayaka) thì có hai loại: Bố thí trong sạch (visuddhadàna) và không trong sạch (avisudha).
– Trên phương diện vật thí (deya) thì có ba loại: Tài thí (Dravyadàna), Pháp thí (Dharmadàna) và Vô úy thí (Abhayadàna).
– Trên phương diện người nhận (tức đối tượng của sự bố thí), còn được
gọi là ruộng phước (phước điền) thì có hai loại: ruộng phước nhỏ
(karunàpunyaksetra) và ruộng phước lớn (satkàrapunyaksetra).
Trên đây chỉ là tạm phân loại tổng quát thôi, vì mỗi loại lại được phân
ra làm các phần nhỏ nữa mà ta sẽ đi sâu vào chi tiết sau.
I. Trên phương diện người thí
Có hai loại bố thí: Trong sạch và không trong sạch.
1) Thế nào là bố thí không trong sạch ?
Đó là bố thí vì: tư lợi, bất kính, chán ghét, yếu hèn, muốn dụ dỗ, sợ
chết, muốn chọc tức, ghen tức, ganh đua, kiêu ngạo, cầu danh, tránh né
sự nguy hiểm, muốn mê hoặc lòng người,… Tóm lại bố thí vì một cái tâm
xấu xa, không nghĩ đến sự an vui hay lợi ích cho người nhận.
2) Thế nào là bố thí trong sạch?
Nói một cách giản dị, đó là sự bố thí có tánh cách ngược lại những gì đã
tả ở phần trên. Còn có nghĩa là Bố thí mà muốn đem lại lợi ích cho
người nhận.
Vừa kể trên là sự bố thí trong sạch cho tất cả mọi người. Riêng cho Phật
tử thì Bố thí trong sạch còn có nghĩa là bồi đắp công đức cho sự giải
thoát, tức Niết Bàn (Nirvàna).
Phải bồi đắp cách nào? Bằng cách bố thí với tâm trong sạch, không cầu
phước báo của Trời (Deva), người (Manusya), không cầu sự sung sướng
trong đời này và đời sau, chỉ cầu giải thoát của Niết Bàn, bố thí với
tấm lòng cung kính (satkàra) hoặc từ bi (maitrìkarùna). Trong lúc chưa
chứng được hoàn toàn quả Niết Bàn, ta vẫn tái sinh ở cảnh an vui của
Trời, người (mặc dù không cố ý cầu), đó là do nghiệp báo tốt của sự bố
thí trong sạch. Đức Phật có nói rằng: ‘Trên đời này có hai hạng người
rất là hiếm có: 1) Một vị Tỳ Khưu đã hoàn toàn giải thoát trong số các
tu sĩ lang thang (pravajita); 2) Một người biết bố thí trong sạch trong
số các cư sĩ tại gia’ (Anguttara I).
II. Trên phương diện vật thí
Có ba loại: Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí.
Trong mỗi loại trên lại chia ra: chân chính và không chân chính.
1) Tài thí
Tài thí lại chia ra hai loại: Ngoại thí và Nội thí.
a) Ngoại thí (bàhyadàna)
Ngoại thí là bố thí những đồ vật bên ngoài như: vàng, bạc, của cải, quần áo, đồ ăn thức uống…
b) Nội thí (àdhyàtmika)
Nội thí là bố thí những gì trong thân thể con người chúng ta; như xưa
kia đức Phật còn làm Bồ Tát đã bố thí đầu, mắt, chân, tay… Ngày nay ta
không làm nổi như vậy thì ta có thể ra công giúp sức như làm công quả
cho chùa, kéo xe cho người già, v…v… Hoặc tiếp máu cho bệnh nhân ở nhà
thương, hoặc ký giấy cho những bộ phận trong thân thể mình nếu bị chết
bất đắc kỳ tử.
c) Tài thí chân chính: là những đồ vật được bố thí không phải do từ trộm
cắp hay cướp giật. Nếu ngược lại là tài thí không chân chính.
Ngoài ra nếu ta bố thí trong những trường hợp sau đây thì phước báo sẽ tăng lên gấp bội:
1. Bố thí đúng lúc. Có nghĩa là bố thí cho: những người đi xa, người từ
xa mới đến, người bịnh, người trông coi kẻ bịnh, trong những mùa giá
lạnh.
2. Bố thí luôn luôn mà không thấy mệt mỏi hay chán nản.
3. Bố thí tùy theo sở thích của người xin.
4. Bố thí những vật quí giá.
5. Bố thí cho những người làm việc cho Chùa, làm vườn, đào mương …
6. Bố thí cho chư Tăng.
7. Bố thí mà kính trọng người nhận.
8. Bố thí cho những người có đức hạnh.
9. Bố thí tất cả những gì mà mình có.
2) Pháp thí
Thế nào là pháp thí?
Được xem là pháp thí gồm có:
1. Tất cả những lời nói chân thật, hữu ích có thể đem lại an lạc cho người nghe.
2. Giảng dạy chánh pháp của đức Phật (Buddhadharma).
3. Giảng dạy ba Tạng pháp: Kinh (Sùtra), Luật (Vinaya) và Luận (Abhidharma).
4. Giảng dạy cho người biết hai pháp: Thanh văn (Sravaka) và Bồ Tát (Bodhisattva).
Nghi vấn: Tại sao Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) cũng giảng dạy ba Tạng pháp,
pháp Thanh văn và Bồ Tát mà lại bị đọa xuống Địa ngục ? Lý do tại sao ?
Ai cũng biết Đề Bà Đạt Đa là người chuyên môn ganh đua tìm cách hại đức
Phật, lại còn hay chia rẽ phá rối sự hòa hợp của Tăng đoàn. Ngoài hai
trọng tội này ra, Đề Bà Đạt Đa lại còn tạo rất nhiều tội về tà kiến. Sự
giảng dạy thuyết pháp của Đề Bà Đạt Đa không phải là một sự bố thí Pháp
trong sạch, nhằm cầu sự giải thoát, mà là cầu danh, cầu lợi, cầu sự kính
trọng, … Chính vì sự Pháp thí không trong sạch này nên Đề Bà Đạt Đa chả
gặt hái được công đức nào mà vẫn bị xuống địa ngục như thường.
* Pháp thí không chân chính là giảng dạy những giáo pháp của ngoại đạo,
không đưa con người đến sự giải thoát sinh tử luân hồi (như dạy xuất
hồn, dạy làm bùa phép, v…v…)
* Pháp thí chân chính là giảng dạy những giáo pháp đưa con người đến giải thoát rốt ráo của Niết Bàn (Nirvàna).
3) Vô úy thí
Vô úy thí có nghĩa là bố thí sự không sợ hãi, tức là làm cho người khác được an tâm yên chí, không sợ gì cả.
Theo nguồn gốc Kinh tạng nguyên thủy (Anguttara, Itivuttaka) thì chỉ có
hai loại Bố thí, đó là Tài thí và Pháp thí. Nhưng theo giáo lý Đại thừa
(Mahayàna), có thêm vào một loại bố thí thứ ba là Vô úy thí.
Theo ý kiến cá nhân, thì tôi thấy Vô úy thí nằm trong Tài thí hoặc Pháp
thí. Vì sao? Vì khi bố thí, tức là cho, thì có hai cách: một là cho bằng
hành động, hai là cho bằng lời nói. Nếu bằng hành động thì đó thuộc Tài
thí, còn nếu bằng lời nói thì đó thuộc Pháp thí.
Thí dụ:
* Nếu có một người đi đường ban đêm sợ cướp giật, thấy thế ta liền đi
theo bảo vệ cho người đó hết sợ. Ta gọi đó là Vô úy thí. Nhưng hành động
đi theo của ta chính là thân thí (có nghĩa là vác cái thân của ta đi
theo người đó), vậy tức là thuộc tài thí rồi.
* Nếu có người sợ chết, sợ xuống địa ngục, ta liền đem giáo lý an ủi họ,
chỉ cho họ làm lành hoặc biết niệm Phật thì sau khi chết sẽ về Cực Lạc.
Nhờ đó họ không còn sợ chết nữa. Ta gọi đó là vô úy thí. Nhưng những
lời lẽ mà ta an ủi họ, đó chính là Pháp thí rồi.
Ta không thể nào tự nhiên làm cho người khác hết sợ hãi được. Ta phải
làm một cái gì đó (một lời nói, một sự hiện diện, một sự an ủi, một sự
giúp sức,…) cho người ấy thì người ấy mới hết sợ (vô úy) được. Sự hết sợ
chính là kết quả của Tài thí hoặc Pháp thí. Vì vậy Vô úy thí không thể
được xem là một loại bố thí riêng biệt không tùy thuộc gì nơi hai sự bố
thí kia cả (Tài và Pháp thí).
* Thế nào là vô úy thí chân chính?
Vô úy thí chân chính hay không chân chính đó là tùy thuộc ở Tài thí và Pháp thí có chân chính hay không?
Thí dụ:
– Có một người sợ chết. Ta bảo họ đừng sợ, cứ lo niệm Phật, ăn chay, làm
phước, đến khi chết sẽ về Cực Lạc. Thế rồi họ nghe theo và hết sợ chết.
Đó là vô úy thí chân chính.
– Cũng cùng một người, nếu ta bảo họ đừng sợ chết, vì chết là hết, không
có gì phải lo cả, không có địa ngục, không có thiên đàng. Nếu họ tin ta
mà không sợ chết nữa, thì đó là Vô úy thí không chân chính (vì ta dạy
họ chấp đoạn).
4. So sánh ba loại Bố thí
Vì thấy Vô úy thí nằm trong Tài thí hoặc Pháp thí nên ở đây tôi chỉ so sánh Tài thí với Pháp thí thôi.
Đa số chúng ta ai cũng biết trước là Pháp thí quý hơn Tài thí. Chính đức
Phật đã nói: ‘Trong hai loại Bố thí này, thì Pháp thí là trên’
(Anguttara I). Vì sao? Vì nhiều lý do:
– Phước báo của Tài thí vẫn thuộc cõi Dục giới (Kàmadhatu) còn phước báo
của Pháp thí có thể nằm trong ba cõi (Traidhàtuka) hoặc ngoài ba cõi.
– Sự Bố thí tài (tiền của, đồ vật) có giới hạn, còn sự Bố thí Pháp không
có giới hạn (apramàna), vì tiền cho lâu rồi cũng hết, còn giáo pháp cho
hoài không bao giờ hết.
– Quả báo của Tài thí còn thuộc về hữu lậu, trong khi quả báo của Pháp thí thuộc vô lậu.
– Bố thí tài cần phải đòi hỏi nhiều sức lực, ra công trong khi bố thí pháp chỉ cần sự thông minh và trí tuệ.
– Chỉ có bố thí Pháp mới có thể gặt hái được những phước báo giống như
các hàng Thanh Văn (Sravaka), Bích chi Phật (Pratyekabuddha) hay Bồ Tát
(Bodhisattva).
– Chỉ có bố thí Pháp mới có thể dẫn người khác đến con đường giác ngộ (Bodhimàrga).
– Ta có thể thực hành Tài thí trong bất cứ thời đại (Kalpa) nào, dù có
Phật hay không có Phật ở đời. Ngược lại, chỉ trong thời đại có một đức
Phật ra đời ta mới có thể thực hiện Pháp thí được. Vì thế Pháp thí hiếm
hơn Tài thí.
Ta có thể nêu ra nhiều lý do nữa, nhưng tóm lại bố thí Pháp sẽ gặt hái được nhiều công đức hơn bố thí tài.
III. Trên phương diện người nhận hay ruộng phước
Tại sao lại gọi người nhận (pratigràhaka) ruộng phước (punyaksetra)? Tại
vì chính ở nơi họ mà ta gieo hạt giống phước đức nên gọi là ruộng
phước. Nhờ có họ mà ta mới thực hiện được sự Bố thí.
Có hai loại ruộng phước:
1) Ruộng phước nhỏ (Karunàpunyaksetra) :
Vì lòng thương hại (karunà) người nhận nên ta phát tâm bố thí. Những hạt
giống thương hại sẽ cho ra những cây lúa nhỏ, nên gọi là ruộng phước
nhỏ.
2) Ruộng phước lớn (satkàrapunyaksetra) :
Vì có tâm kính trọng (satkàra) người nhận nên ta phát tâm bố thí. Những
hạt giống kính trọng sẽ cho ra những cây lúa lớn, nên gọi là ruộng phước
lớn.
* Sự Bố thí của vua A Dục (Asoka)
Một hôm đức Phật đi tản bộ cùng với ngài A nan trên thành Vương Xá
(Ràjagrha). Đến một quãng đường có hai trẻ nhỏ Jaya và Vijaya đang vui
đùa lấy đất sét nắn thành những cái nhà nhỏ. Khi thấy đức Phật đến gần,
chúng rất vui mừng hớn hở. Jaya lấy đất sét nắn thành một cái bánh,
thành kính cúi đầu cúng dâng cho đức Phật, còn Vijaya lức đó cũng chắp
hai tay lại cúi lạy theo bạn. Jaya, trong lúc cúng dường cái bánh đất,
phát nguyện rằng sau này sẽ làm vua an trị cả một thế giới, rồi em tụng
lên một bài kệ cúng dường đức Phật. Đức Phật hoan hỷ đưa tay đón nhận
cái bánh đất của em và mỉm cười. Thấy đức Phật mỉm cười, ngài A nan lấy
làm lạ nên hỏi lý do, và đức Phật trả lời rằng: ‘Một trăm năm, sau khi
ta nhập Niết Bàn, đứa bé này sẽ là một vị Chuyển luân thánh vương
(Cakravartin) trông coi một trong bốn châu thiên hạ, và trong thành phố
Kusumapura (Pàtaliputra), nó sẽ làm một vị minh vương tên là A Dục
(Ásoka). Sau khi chia phát những xá lợi của ta xong, nó sẽ xây cất
84.000 bảo tháp để làm lợi ích cho muôn loài’.
Sự tích trên cho ta thấy ý nghĩa phước báo của một sự bố thí với lòng kính trọng người nhận, tức ruộng phước lớn.
* Sau khi phân tách tỉ mỉ, đi sâu vào chi tiết từng loại bố thí, ta có thể tóm tắt lại như sau:
Một sự bố thí được xem là trong sạch và đem lại phước đức quả báo vô lượng vô biên cần phải có ba yếu tố sau đây:
1) Người bố thí phải có tâm trong sạch.
2) Vật được thí phải chân chính.
3) Người nhận phải được kính trọng tối đa.