Những hiểu lầm về đạo Phật và Ván cờ sinh tử (St). Fr: Lê Tuấn

28 views
Skip to first unread message

Minh Nguyen Quang

unread,
Jun 27, 2024, 7:23:07 PMJun 27
to alphonsefamily, giaitri
NHỮNG HIỂU LẦM VỀ ĐẠO PHẬT & VÁN CỜ SINH TỬ (VIỆT & ANH NGỮ)

MỘT TÀI LIỆU DÀNH CHO NHỮNG AI MUỐN HIỂU ĐÚNG VỀ ĐẠO PHẬT, NHẤT LÀ NHỮNG BINO (Buddhist in Name Only) – NHỮNG NGƯỜI NÓI MÌNH LÀ PHẬT TỬ MÀ NGOÀI “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT/NAM MÔ THÍCH CA MÂU NI PHẬT”, KHÔNG BIẾT TÍ GÌ VỀ GIÁO LÝ NHÀ PHẬT!

-------------------

TÔI BIẾT NGÀI TỪ LẦN ĐỌC “VÁN CỜ SINH TỬ” VÀ “MÊ” NGÀI TỪ NGÀY ẤY!

VIDEOS:
Những hiểu lầm về Đạo Phật - Hòa Thượng Giới Đức (Phần 1)
https://www.youtube.com/watch?v=bDbzgQCOayk
Những hiểu lầm về Đạo Phật - Hòa Thượng Giới Đức (Phần 2)
https://www.youtube.com/watch?v=tBAgMHdDNpA

BÀI VIẾT:
NHỮNG HIỂU LẦM VỀ ĐẠO PHẬT
HT. Giới Đức (Minh Đức Triều Tâm Ảnh)
https://thuvienhoasen.org/a27229/nhung-hieu-lam-ve-dao-phat

 

Tham khảo:

 Audio: Ván Cờ Sinh Tử | Người Trồng Hoa Và Chàng Tu Sĩ | Minh Đức Triều Tâm Ảnh

https://www.youtube.com/watch?v=ect-dx0x81k

 

Bài viết: Ván Cờ Sinh Tử – Minh Đức Triều Tâm Ảnh

https://khungcuahep.com/phat-phap/van-co-sinh-tu-minh-duc-trieu-tam-anh.html

 

*****

 NHỮNG HIỂU LẦM VỀ ĐẠO PHẬT

HT. Giới Đức (Minh Đức Triều Tâm Ảnh)

(65 pages)

 

image.png

(Pháp thoại giảng tại Hội Phật học Đuốc Tuệ -Trung tâm Sangha Center - Nam  California, sau đó được phật tử Đạo Pháp- Nguyễn Trường Thành - Quảng Trị ghi chép lại. Tôi phải chỉnh sửa, nhuận sắc, đôi chỗ phải viết lại mới hình thành được diện mạo như thế này. Có đôi chỗ sai khác với bài giảng nói, xin chư thiện hữu trí thức thông cảm).

 

Phần I
(Ngày 19-4-2015)

 

Hôm nay tôi đến đây do bài viết "Những hiểu lầm về Đạo Phậtđã đăng trên mạng thuvienhoasen.org; trong đó, tôi có đưa ra 20 điểm sai khác, đặc trưng, gây hiểu lầm về đạo Phật, ấy là những điểm cơ bản chỉ mang tính khái quát; thực ra là còn nữa, còn rất nhiều hiểu lầm khác về đạo Phật mà chưa được ai nói ra hoặc là chưa được bậc long tượng nào giải minh cho thấu đáo.

 

Do duyên sự ấy, cư sĩ Mật Nghiêm mời tôi sang đây để giảng lại đề tài đó. Quả thật tôi có ngần ngại vì các tông phái của chúng ta hiểu lầm nhau quá nhiều; ngay chính trong Phật Giáo, giới tu sĩ và cư sĩ cũng do không nắm rõ giáo pháp của đức Phật để phân biệt đâu là phương tiện, đâu là cứu cánh. Đôi khi lấy phương tiện che mờ cứu cánh, không còn biết cứu cánh ở đâu nữa mà toàn thấy phương tiện, phương tiện không thôi.

 

Sư tử trùng thực sư tử nhục - Chỉ có vi trùng của sư tử mới ăn thịt được sư tử. Cũng vậy, đạo Phật bị tàn hoại, bị tha hoá, có thể đi đến diệt vong cũng bởi những người tu Phật. Không ai dám nhìn thẳng vào mặt mình, không ai dám nói, không ai dám đối diện với những lỗi lầm của mình, mà luôn tìm cách biện minh, bảo vệ cách này hay cách khác. Sự thực, tất cả những hiểu lầm trầm trọng đó biến đạo Phật thành một tôn giáo có thần linh, có thượng đế, người ta hiểu lầm tại sao lại có "vía", "hồn", "linh"... và rất nhiều điều khác nữa.

 

Như đã nói ở trên, bài viết thu hút được rất nhiều sự quan tâm của độc giả. Sau khi cư sĩ Tâm Diệu đăng tải thì nhận được rất nhiều lời bình luận, khen có, chê có… thậm chí có những lời bình luận che mất luôn cả sự thật. Thiền tông có câu "Đầu thượng trước đầu, tuyết thượng gia sương", đây là cái đầu, chồng thêm một cái đầu nữa, hai cái, ba cái rồi người ta tranh luận những cái đầu phía trên này, chẳng liên hệ gì cái thực cả.

 

Hồi trưa, nằm nghỉ ở nhà của một đạo hữu, thấy trên tường có treo mấy chữ của H.T Nhất Hạnh  "There is no way to happiness, happiness is the way" tạm dịch là "không có con đường đi đến hạnh phúc, mà hạnh phúc chính là con đường". Chúng ta thường nói phương tiện và cứu cánh, bày ra đủ loại phương tiện để đạt cứu cánh, cho đến lúc phương tiện che lấp cứu cánh; nếu có phương tiện là con đường đi đến cứu cánh, thì người ta đi mãi đi hoài một con đường, mong chờ hạnh phúc nơi cứu cánh, nhưng không biết rằng hạnh phúc chính là con đường tại đây và bây giờ.

 

Tất cả những điểm mà tôi gọi là hiểu lầm đó, đến lúc này, hơn ai hết, là người tu Phật, chúng ta phải trung thực, phải dũng cảm để gỡ bỏ từng lớp tường rào khái niệm ngăn cách, phải gạn lọc hết những mờ ảo khói sương bên ngoài Phật Giáo đã phủ bụi theo năm tháng, trả lại cho đạo Phật – con đường giải thoát - cái gì như chân, như thực để chúng ta cùng nhau tu tập. Nhưng mà làm thế nào? Tôi sẽ từ từ mở ra từng nút thắt một, chúng ta cùng phân tích, suy ngẫm xem thử đây có phải là những hiểu lầm mà khi nhìn vào Phật giáo, người ta đánh giá, chỉ trích hay không? Chúng ta là Phật tử, đôi khi có rất nhiều người chưa hiểu rõ “đạo Phật” và “Phật giáo” khác nhau thế nào. Đạo Phật là con đường giác ngộ. Phật giáo là những ngôn giáo của đức Phật. Vậy thì nó khác nhau hoàn toàn. Ngôn giáo của đức Phật là phương tiện, còn con đường giác ngộ mới là cứu cánh. Đạo Phật là đạo giác ngộ. Vậy nên, những điều tôi trình bày sau đây không ngoài mục đích trả lại sự trong sáng cho đạo Phật, con đường giải thoát như chơn, như thực, để không còn những hiểu lầm đáng tiếc như vậy nữa trong tương lai.


(CHI TIẾT Ở ATTACHMENT)

 

1- Tôn giáo

 

Tôn giáo (réligion) là sản phẩm của Tây phương để chỉ những tôn giáo hữu thần như Ki-tô giáo, Hồi giáo, Bà-la-môn giáo. Tôn giáo, theo định nghĩa của Tây phương thì nó phải hội đủ 3 yếu tố: 01 vị thượng đế, thần linh; 01 hệ thống tư tưởng và 01 hình thức tổ chức với cơ cấu nhân sự, lễ nghi, cúng bái, cầu nguyện tha lực.

...

 

 

2- Tín ngưỡng

 

Đạo Phật có tín ngưỡng, có sinh hoạt tín ngưỡng nhưng mà không coi tín ngưỡng là mục đích để mọi người cúng kiếng, thờ phượng, van vái, cầu xin bởi những ước mơ dung tục, dung phàm của đời thường. Những người tu sĩ hay cư sĩ cũng đảnh lễ, chiêm bái, tôn kính đức Phật, đức Pháp, đức Tăng với tâm thành kính vô biên để tri ân Tam Bảo, và noi theo Tam Bảo để tu tập. Như vậy, đạo Phật có hình thức tín ngưỡng nhưng hoàn toàn khác với những tín ngưỡng của những tôn giáo nhất thần, đa thần hoặc cầu lạy van xin gốc đa, ông táo như của thế gian.

...

 

 

3- Triết lý, triết học

 

Đến chỗ này thì vẻ cao siêu rồi, đó là vấn đề triết học. Mấy ông sư, ông thầy đi học tiến sĩ về, ông nào cũng lăng xăng mình là tiến sĩ triết học, tưởng là ghê gớm lắm, viết quyển sách nói về triết học của đạo Phật, tôi nghe mà đau đầu lắm, hoá ra họ chẳng hiểu Phật là gì cả. Theo Hán ngữ, chữ "triết" bao gồm bộ thủ (cái tay), bộ cân (cái rìu) và bộ khẩu (cái miệng). Triết là tay cầm cái búa để mà "chia" rồi "chẻ", “phán” rồi “đoán” thực tại cho manh cho mún, cho chi ly, vụn vặt ra... Cái đó là dùng cho triết học Tây Phương thôi, nó khác với đạo Phật là như thực thuyết, như thị thuyết. Cho nên, tất cả mọi triết gia Tây Phương đều đi vào ngõ cụt khi va đụng đến giáo pháp giác ngộ của đức Phật. Tư tưởng của họ chỉ nằm trên bình diện những cái "duy" như: Duy lý, duy thực, duy tâm, duy vật, duy sự, duy nghiệm... 

...

 


4- Triết luận

 

Triết học là các học phái, học thuyết Tây phương như trên đã dẫn lược, còn đây là triết và luận, nó có khác nhau đấy.

 

Đạo Phật có tuệ giác để thấy rõ Cái Thực chứ không sử dụng lý trí phân tích, lý luận. Còn triết, còn luận là vì chưa thấy rõ Cái Thực. Đạo Phật là đạo như chơn, như thực. Kinh giáo của đức Phật luôn đi từ cái thực cụ thể để hướng dẫn mọi người tu tập, nó không có triết, không có luận đâu. Ngay “thiền” mà còn “luận” (thiền luận) là đã đánh mất thiền rồi.

...


 

5- Từ thiện xã hội

 

Đạo Phật có những sinh hoạt từ thiện xã hội – nó nằm nơi chỗ bố-thí và phục vụ chúng sanh. Sinh hoạt này rất cần thiết trong tương quan với xã hội, chung sanh. Nó cũng thể hiện được hai tâm thù diệu và từ vô lượng và bi vô lượng.

...

 

 

6- Cực lạc, cực hạnh phúc

 

Đầu tiên, tôi đi vào từ gốc Pāḷi một chút. Chữ dukkha mà người ta dịch khổ là chưa tới, chưa sát, không nói hết nội hàm của nó. Tóm tắt, nó có 3 nghĩa chính. Một, tất cả những biến đổi về sinh vật lý cơ thể, đưa đến mệt mỏi, đau nhức, suy nhược, bệnh hoạn, già yếu, tử vong... là dukkha. Hai, những biến đổi, thay đổi các tâm trạng, tâm lý, như: Khổ lạc, thương ghét, buồn vui, uất ức, sầu muộn, chán nản, ước vọng, hy vọng, tuyệt vọng, hận thù... gì đó là dukkha. Ba, là cái gì khó chịu đựng, khó kham nhẫn, đáng khinh miệt, hư vô, trống rỗng, ảo ảnh, khó nắm bắt…là dukkha.  Thế gian pháp này là cái gì rỗng không mình không nắm bắt được, không có cái gì mong muốn mà thành tựu được, cầu bất đắc, ái biệt ly, đủ thứ khổ…tất cả đó mới là dukkha.

...

 


 

7- Tám vạn bốn ngàn pháp môn: (Phần này khi viết lại, tôi có nghiên cứu thêm để câu trả lời có tính kinh điển thì khả tín hơn).

 

Đạo Phật có nói đến tám vạn bốn ngàn pháp uẩn (dhamma khandha) chứ không nói đến tám vạn bốn ngàn pháp môn (dhamma dvāra). Uẩn (khandha) ngoài nghĩa che lấp, che mờ, chồng lên, chồng chất, còn có nghĩa là nhóm, liên kết, tập hợp ví như Giới uẩn (nhóm giới), Định uẩn (nhóm định), Tuệ uẩn (nhóm tuệ).

...

 


 

Phần Hỏi Đáp


Hỏi: Trong cộng đồng có vị đại đức 21 tuổi đạo đã qua đời vì tự kết liễu đời mình để minh oan. Vậy sự chết như vậy có đúng giới luật không? Xin thầy giải thích và kết luận.

Trả lời: Câu này có lẽ không cần trả lời thì quý vị cũng biết. Tự tử với bất kỳ lý do gì là trật rồi, mà ở đây tự tử để minh oan nữa, đúng ra oan ức thì không cần biện bạch làm chi, trong giới luật hoàn toàn cấm chuyện kiểu tự sát này, hoàn toàn sai.

 

Hỏi: Khi đức Phật Đản Sanh có bảy đóa hoa sen, vậy số 7 là ẩn dụ gì? Xin thầy triển khai.

Trả lời: Tôi chưa thấy bất kỳ chú giải nào trả lời về số 7 (hoa sen) này. Nhưng mà từ trước đến nay thấy có hai cách giải thích, một là 7 đoá sen tượng trưng cho 7 quốc độ lớn quanh thung lũng sông Hằng mà Đức Phật đã đi giáo hoá; hai là số 7 tượng trưng cho thất giác chi, là bảy pháp đưa đến giác ngộ. Cách giải thích này không có một cơ sở nào để biết đúng hay sai cả, vì không thấy bất cứ ở đâu trả lời cho rõ ràng. Vậy có trả lời nữa thì cũng thêm một câu hỏi thứ ba thôi, chưa chắc đã đúng.

 

Hỏi: Bạch thầy, con có ba câu hỏi:

1- Đạo Phật tu thế nào là đúng cách?

2- Phương cách tu là làm những gì?

3- Làm sao tu để thấy như thực?

Trả lời:

1- Người nào tu mà càng ngày càng giảm bớt tham, sân, si; giảm bớt đau khổ, phiền não, ngã mạn, kiêu căng, ích kỷ, ganh ghét, tị hiềm... là tu đúng; ngược lại là sai, là tu sai. Đúng là chánh, sai là tà.

 

2- Đức Phật ngài dạy tu sĩ hành trì theo Bát Chánh Đạo, gọn hơn là Giới, Định, Tuệ; cư sĩ tại gia thì ngài dạy bố thí, trì giới và tham thiền (ở đây nói là hành động tham thiền thôi, không nói thiền định hay thiền tuệ, càng không nói đắc định này tuệ kia). Bố thí, trì giới, tham thiền là lộ trình phổ quát cho đại chúng. Còn bây giờ nói tu theo Tịnh Độ tông, Mật Tông, Hoa Nghiêm, Thiền Tông... thì rất phức tạp. Mà không biết trong các tông kia có Tứ Diệu Đế, có Bát Chánh Đạo hay không? Nếu không có thì sẽ không có đệ nhất sa-môn, đệ nhị sa-môn, đệ tam sa-môn, đệ tứ sa-môn!

 

3- Câu này thì đơn giản nhưng để trả lời cho thấu đáo cũng là cả một vấn đề. Tôi xin đưa ra bài kinh (đã lặp đi lặp lại nhiều lần) về cái thấy như thực đó. Bài kinh rất ngắn gọn mà đức Phật dạy ông Bà-la-môn Bāhiya, đại ý thế này: “Trong cái thấy (của mắt) chỉ là cái thấy. Trong cái nghe (của tai) chỉ là cái nghe. Trong thọ, tưởng chỉ là thọ, tưởng. Trong cái thức tri chỉ là thức tri. Vì vậy, này Bāhiya, vì trong cái thấy chỉ là cái thấy nên không có ông trong đó. Trong cái nghe chỉ là cái nghe nên không có ông trong đó. Trong cái thọ, tưởng chỉ là thọ, tưởng nên không có ông trong đó. Vậy là, này Bāhiya, không có đời này, không có đời sau, không có đời chặng giữa, vậy là chấm dứt toàn bộ khổ đau!”

 

Vừa nghe xong lập tức Bāhiya thấy ra “cái ta” chỉ là ảo tưởng, trong thấy biết của căn môn đối với trần cảnh chỉ có tánh giác đang biết pháp vận hành mà thôi, và ngay đó Bāhiya đã hoàn toàn giác ngộ, giải thoát...

Vậy thì, cứ thấy như thực như thị mọi sự mọi vật, đừng diễn giải thêm, đừng suy luận thêm, đừng tưởng tượng thêm... Người nào tu tập như vậy là bắt gặp "Phật tri kiến" trong kinh Pháp Hoa, đức Phật xuất hiện ở đời chỉ "khai thị ngộ nhập Phật tri kiến" chính là thấy biết như thực đó vậy.

 

Trí tuệ tối thượng nó đơn giản vậy thôi.

 

Hỏi:

1- Như lý tác ý và phi như lý tác ý?

2- Sự khác biệt giữa oan trái và ác nghiệp như thế nào? Con kính cám ơn Sư.

Trả lời:

Câu hỏi 1 này sẽ giải thích làm 2 phần:

 

Phần 1- Yonisomanasikāra: Là pháp cần phải tuệ tri để khéo khởi tâm, khéo hướng tâm, thường được dịch là “như lý tác ý”. Như lý có nghĩa là như chơn, như thật, đúng đắn, đúng với sự thật, hợp với chân lý. Người khéo tác ý bao giờ cũng khởi tâm, hướng tâm đúng với sự thật. Tác ý giống như bánh lái của con thuyền, nếu tác ý đúng (hướng con thuyền đúng) sẽ đưa ta đến bến bờ bình yên, chơn chánh!

 

Ở đây cần hiểu một số thuật ngữ:

- Tuệ tri (pājanāti): Cái biết của tuệ (paññā), cái biết trong sáng không bị tham sân si chi phối, tác động.

- Như lý (yoniso): Như chân lý, như sự thật, đúng với sự thật, hợp với bản chất như thực.

- Tác ý (manasikāra): Khởi tâm, khởi cái thấy biết, hướng cái tâm, hướng cái thấy biết.

 

Phần 2- Ayonisomanasikāra: Phi như lý tác ý, là pháp đưa đến sai lệch, lạc hướng, đấy là do không khéo tác ý, không khéo hướng tâm đúng với sự thật, đúng với như chân, như thật. Nghịch nghĩa với “như lý tác ý” ở trên, là nếu tác ý (hướng tâm) sai lầm, bánh lái con thuyền sẽ đi lệch hướng, sẽ kéo theo toàn bộ tiến trình tâm tương duyên, tương sinh đều sai lầm; và tác ý... thọ, tưởng, tư... đều không như chơn, như thực.

 

Ở đây có một số thuật ngữ cần phải giảng rộng thêm:

- Duyên: Là nương vào, tựa vào.

- Tương duyên: Cùng nương vào, cùng tựa vào.

- Tương sinh: Cùng nương vào, cùng tựa vào mà phát sanh, mà sanh khởi. Ví dụ: Khi nghe một tiếng động chát chúa thì thần kinh nơi lỗ tai tiếp nhận thông tin ban đầu (cấp độ 1) là lùng bùng, nhức đau; vượt quá giới hạn chịu đựng, nó báo lên trung khu thần kinh, nơi này tiếp nhận (cấp độ 2) là khó chịu, bực bội, sau đó (cấp độ 3) là nóng giận, giận ghét, giận dữ (sân hận) phát sanh. Xét tiến trình này: “lùng bùng, nhức đau” sinh khởi là do nương vào (duyên) “tiếng động chát chúa”; “bực bội, khó chịu” sinh khởi do nương vào “lùng bùng nhức đau”; và “nóng giận, giận dữ” sinh khởi là do nương vào “bực bội, khó chịu”... Phân tích là vậy, dường như nó có trải qua tiến trình thời gian, nhưng theo tuệ giác của Phật thì nó phát sinh đồng thời, nó cùng sinh (tương sinh) và rồi nó cùng diệt (tương diệt). Từ định luật tương duyên, tương sinh này, đức Phật thiết lập thập nhị duyên khởi. Và tóm tắt sự thật này, nó nằm nơi câu kinh văn: “Có cái này (bực bội, khó chịu) thì có cái kia (sân giận), không có cái này (bực bội, khó chịu) thì không có cái kia (sân giận); cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt”. Tất cả chúng là sự vận hành vô ngã tính, đúng với như thực, đúng với chân lý. Đức Phật còn dạy: “Ai thấy rõ sự thật duyên khởi này là thấy pháp, ai thấy pháp là thấy Như Lai”. Ở đây, người tu tập minh sát tuệ chỉ cần lắng nghe cái đang xẩy ra, niệm như thực tánh của nó: “Bực bội, khó chịu à! Bực bội, khó chịu à! Bực bội khó chịu à!”... Hóa ra ta cứ niệm, ghi nhận hoặc đọc rõ tiếng cũng được, một hồi thì “khó chịu, bực bội” nó đi đâu mất và “tức giận, giận dữ” sẽ không phát sanh. Đây là ta đã cắt đứt được sự diễn tiến của duyên khởi. Mỗi ngày ta có hằng triệu, hằng tỷ cái duyên khởi này mà ta không nhận diện được, chưa thấy rõ mặt mũi của nó! 

 

- Xúc: là tiếp xúc, là giao tiếp. Ví dụ, mắt xúc với sắc, tai xúc với âm thanh...

- Thọ: Là cảm giác. Cảm giác qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân là như thế nào; qua tâm là như thế nào.

- Tưởng (sañña): Cái biết qua sự thấy biết khái quát ban đầu, thường được dịch là tri giác. Ví dụ khi ta nhìn một vật, cái đầu tiên hiện ra là màu sắc, hình dáng... Cái thấy biết màu sắc, hình dáng ấy được gọi là tri giác, tưởng (sañña), cái biết của tưởng, tưởng tri (sañjānāti). Còn nếu ta đi sâu vào chi tiết của vật để biết những dòng chữ, những họa tiết chi ly thì nó đã chuyển qua vài trò thấy biết của thức, ý thức (viññāṇa), được gọi là thức tri (vijānāti) rồi.

- Tư (cetanā): Tư này không phải là suy nghĩ, phải được hiểu là tư tác (cetanā), tức là có chủ ý, cố ý, cố tình... Nó chính là một tâm sở quyết định tạo nghiệp. Đức Phật dạy: “Này chư tỳ-khưu! Như Lai tuyên bố tư tác (cetanā) chính là nghiệp”.

 

Giữa hai cái Như Lý Tác Ý (yonisomanasikāra) và Phi Như Lý Tác Ý (ayonisomanasikāra) ta có thể hình dung giống như cái mắt nhỏ của hạt lúa mạch đặt xuôi hay ngược. Nếu ta đưa tay vuốt nghịch chiều thì có thể bị thương tích, chảy máu, nhưng nếu vuốt thuận chiều thì êm xuôi, không bị chích đau. Tâm mình cũng vậy, khi mà hướng thuận chiều (như lý tác ý) thì mọi chuyện đều tốt đẹp, nghịch chiều một cái là sai xấu. Hướng tâm như thực có thể là cái biết của mắt (nhãn thức tâm) như thực, cái biết của tai (nhĩ thức tâm) như thực... cái biết của ý (ý thức tâm) như thực. Lấy đó làm nền tảng để tư duy, chánh niệm, để lập hạnh, lập tâm. Tất thảy tiến trình như lý tác ý đều tốt đẹp, an lạc còn nghịch chiều là sai trật, đưa đến đau khổ.

 

 Câu hỏi 2- Oan trái là sự phát sanh đơn lẻ, là thù oán kết nối hai người với nhau – ví như giữa hai người có sự thù hận với nhau từ kiếp trước nên kiếp này luôn sinh ra oan trái với nhau. Ác nghiệp thì rộng rãi hơn, có rất nhiều ác nghiệp sai khác trong cuộc đời.

 

Hỏi: Kính sư, cách đây 15 năm, sư có tặng cho chúng con câu đối bằng thư pháp treo ở chùa HKST như sau "Hữu ý tình không, không lại có; Vô tâm tưởng có, có hoàn không". Xin sư giảng nghĩa.

Trả lời: Trước khi trả lời câu này, tôi phân tích quý vị nghe 4 câu thơ của Đạo Hạnh thiền sư:

 

"Tác hữu trần sa hữu

Vi không nhất thiết không"

Hữu không như thuỷ nguyệt

Vật trước hữu không không"

 

Tác hữu” chính là khởi niệm có, tác là tư tác (cetanā); “vi không” là khởi niệm không, tâm rỗng không, hai câu đầu có nghĩa: Khởi niệm có thì hạt bụi, hạt cát li ti cũng có. Khởi niệm không thì cả thế gian này cũng không. Hai câu sau: Cái có cái không kia cũng giống như trăng trong nước. Đừng lầm tưởng rằng cái có, cái không ấy là không có (tức là cái có cũng có mà cái không cũng có). Chắc quý vị ai cũng thấy trăng trong nước rồi, có người nói hãy xem trăng trong nước kìa, người bên cạnh nói có đâu mà xem  trăng, ông thò tay vớt thử được không? Như vậy là thấy có trăng nhưng vớt lại không có, cho nên người ta nói "", "không" giống như trăng trong nước vậy, không biết có hay không. Chớ chấp trước (vật trước) cái có, cái không ấy là không có (như vậy là vẫn có).

 

Có rất nhiều, nếu không muốn nói là gần như tất cả nhà nghiên cứu, dịch giải, bình luận thơ thiền đều dịch câu cuối là: “Chớ chấp có cùng không!” Chỉ duy nhất Ôn Nhất Hạnh là dịch đúng: “Chớ chấp cái có, cái không kia là không có!”

Nói rộng tí nữa.

Bài này có một số người đã dịch:

“Có thì có tự may may,
Không thì cả thế gian này cũng không;
Kìa xem bóng nguyệt lòng sông,
Ai hay không có, có không là gì!”
(Phan Kế Bính)[2]

Bản dịch khác:

“Có thì muôn sự có,
Không thì tất cả không.
Có, không trăng đáy nước,
Đừng mắc có cùng không”
[3]

 

Với hai bản dịch thì bài đầu nghiêng về thơ, bài sau nghiêng về kệ; và  cơ duyên của nó là do có người hỏi về Phật tâm – và thiền sư đã đọc lên 4 câu kệ ấy, nhằm khơi mở thế giới “Phật tâm” – là cái gì luôn bị che khuất bởi khái niệm ngôn ngữ. Bài kệ này thì các học viện, nhà chùa giảng rất kỹ. Phạm trù “có không” ấy bàng bạc trong chư kinh, chư giáo, thiền thoại, ngữ lục... chúng ta không cần thiết phải mang ra đây để làm chứng liệu nữa.

 

Chỉ có một điều đáng nói ở đây là câu 4. Từ xưa đến nay, dường như ai ai cũng dịch tương tự như hai bài dịch trên: Ai hay không có, có không là gì, hoặc đừng chấp vào cái có cái không. Rồi từ đấy lấy hai phạm trù “có không không thực có” rồi đem ra bình giảng. Riêng tôi, tôi dịch câu 4 là: Đừng chấp“cái có, có không” là không có; nghĩa là cái có cũng có mà cái không cũng có - giống như Ôn Nhất Hạnh, ở trên.  

Hãy đi sát vào nội dung văn bản.

Xem nào! Tâm ý khởi có là nó “có”, khởi không là nó “không”. “Cả có cả không đều có cả” trong thế giới duyên sinh tục đế, trong tương quan giữa mình và cuộc đời, khi ta biết quan sát và chiêm nghiệm.

 

Tôi sẽ có ví dụ cụ thể.

 

Hôm kia có người đi ra đường bị xe va đụng, có thương tích, chảy máu. Thế là tức quá, hắn ta giả vờ đau đớn lắm, nằm xuống, nhờ người kêu cảnh sát lập biên bản, đòi bồi thường, viện phí... Và rồi sau đó, sự việc sẽ kéo theo muôn vàn phức tạp, khổ cho mình, khổ cho người. Khi ta đã khởi niệm có rồi - thì vô lượng cái có sẽ duyên khởi theo. Đấy là định luật, khởi có là nó có – có cái này thì có cái kia - có với tham sân si, phiền não.

 

Nếu người bị va đụng ấy là một cư sĩ có tu định, tu tuệ, có tấm lòng, biết cảm thông – thì người ấy sẽ chánh niệm đứng dậy, xem vết thương, nó có đau thật, ”đau như thực đau” rồi lại nghĩ: “Ai cũng có lúc sơ ý, bất cẩn! Lại nữa, biết đâu người ta đang có việc bức xúc gì đó trong gia đình, bạn bè hay công sở nên thiếu tỉnh táo mà sinh ra chuyện. Thôi, xả đi, bỏ qua cho người ta”. Thế rồi, vị cư sĩ mỉm cười, nói với người kia: “Anh đừng lo, không sao đâu, vết thương nhẹ thôi mà. Anh hãy đi đi kẽo trể công, trể việc!

 

Đấy là trường hợp ta khởi ý không, không có gì – không có cái này thì không có cái kia – thì toàn bộ câu chuyện chấm dứt, phiền não không sanh khởi cho mình cũng như cho người. Lại nữa, khi làm được như vậy thì một đoá hoa pháp thơm tho vừa nở trong tâm - chút ít tâm xả, tâm từ, tâm bi và năng lương mát mẻ an an lành ấy nó lan toả ra xung quanh môi trường sống thì cao quý và tốt đẹp biết bao? 

 

Qua câu chuyện ấy, người học Phật có thể đem “thiền ý” ấy áp dụng trong việc tu tập của mình. Tức là nắm bắt cho được lý duyên sinh tục đế, khởi có là nó có, khởi không là nó không (đây chưa bàn đến duyên khởi, duyên sinh vô ngã tánh, là tánh không). Ở đời cứ để “tâm không” mà sống là nhẹ nhàng, khỏe re liền, còn nếu để "tâm có", chấp cái này, dính cái kia thì coi chừng phiền não tham ưu kéo đến làm bạn đó.

 

Tiếp theo, câu ba đưa ra hình ảnh trăng trong nước để ví cho “cái có cái không” ở trên. Cũng vậy, nói trăng có, là nó “có” thật đấy, vì trông thấy trăng. Nói trăng không có, là nó “không có” thật đấy, vì đưa tay vớt trăng thì không có trăng! Hai mặt nhị nguyên của thực tại ấy tùy thuộc vào ý niệm, chỗ lập tri của mỗi người; “có, không” là chuyện của thế gian pháp muôn đời, không phải là “không có” đâu. Và câu 4, là cái câu quan trong nhất như ta vừa đề cập, chỉ cho người ta thấy được "Phật tâm". Ai chưa hiểu ẩn ý ấy, không bám sát ngữ nghĩa của nó thì đều giảng giải sai lầm, nằm một phía, một chiều cả. Đôi khi lại lấy mộng huyễn bào ảnh của kinh Kim Cang ra mà giảng – thì sẽ không nhằm chỗ. Câu này chỉ có nghĩa đơn giản là: Cái có và cái không kia đều có cả (khi khởi niệm có, khi khởi niệm không). Chữ và nghĩa của nó rất rõ ràng: Vật trước (chớ chấp trước) cái có, cái không (hữu, không) là không (không). Tôi tạm dịch:

“Có thì bụi cát có,
Không thì tất thảy không.
Có, không trăng trong nước,
Chớ tưởng ‘có, không’ không!”

Và đấy cũng là vọng âm ngàn đời từ trong kinh Phật Tự Thuyết (Udāna), khi đề cập đến lý duyên khởi: “Do cái này có nên cái kia có/ Do cái này không nên cái kia không/ Do cái này sinh nên cái kia sinh/ Do cái này diệt nên cái kia diệt”.

 

Và Đức Phật còn nói: “Ai thấy duyên khởi tức là thấy Pháp; ai thấy Pháp tức thấy Như Lai!” Thấy Như Lai cũng là thấy “Phật tâm” theo cách nói của thiền sư Từ Đạo Hạnh: Phật tâm vốn trong lặng, nhưng khi khởi có là nó có, khởi không là nó không, do duyên sinh.

 

Quay lại câu hỏi "Hữu ý tìm không, không lại có". Bây giờ thì rõ ràng rồi, mình có khởi ý tìm "cái không" thì cái không này đương nhiên "có". "Vô tâm tưởng có, có hoàn không" là tâm không dính mắc, không chấp trước, tâm rỗng không (vô tâm) thì vốn là không rồi mà "tưởng có" thì tất nhiên là "không".

 

Nhưng lưu ý rằng, khi mình nói "vô tâm" không biết vô tâm nào, vô tâm của Đạt-ma hay vô niệm của Hụê Năng, vô tâm của Trần Nhân Tông (vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền)[4] chắc hẳn khác vô tâm của Trần Thái Tông (chớ bảo vô tâm là đạo vậy, vô tâm còn cách một ngăn rào[5]). Đúng vậy, vô tâm của Trần Thái Tông là ý niệm vô tâm, chấp vào vô tâm hoặc vô tâm ấy là không có tâm, không có niệm... Thế là trệ không, dính vào không, kẹt không! Còn vô tâm của Hương Vân đầu-đà là không tính[6] là duyên khởi nên không, nó ở ngoài không có, nó sinh ra không có; là không của bên kia hữu cú, vô cú, của giải thoát, của mênh mông hề phương ngoại phương! Nói khác, vô tâm của Trúc Lâm đại sĩ nó ôm trọn Tứ tuyệt tứ của Khổng, vô vi của Lão, vô tâm của Đạt Ma, vô niệm của Huệ Năng...Tức là ở trên phạm trù triết học; chính là tinh yếu, là cốt lõi, là minh triết của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử Điều Ngự Giác Hoàng Hương Vân đầu-đà!

 

Ngôn ngữ Việt bây giờ phức tạp lắm rồi, cho nên sau này mấy cụm từ như thế tôi không dám dùng nữa đâu, nguy hiểm lắm.

 

Hỏi: Một tu sĩ hay phật tử qua đời, làm sao biết được linh hồn vào Niêt-bàn hay địa ngục, xin thầy giải thích?

Trả lời: Trong mấy điều hiểu lầm về đạo Phật, tôi có đề cập đến những từ "vía""hồn", "phách". Đạo Phật không có linh hồn kiểu này, đó là quan niệm của dân gian bởi vì dùng từ "linh hồn" nghĩa là có một cái "hồn" tồn tại mãi từ kiếp này qua kiếp kia, nó rơi vào thường kiến, không đúng với tinh thần vô ngã của Đạo Phật. Nên khi nói linh hồn mà vào Niết-bàn thì "không bàn" được nữa rồi! Còn vào địa ngục, trong kinh điển có nói khá rõ ràng về điều này để ta biết được cận tử nghiệp đưa ta sinh về đâu: Khi sắp chết, cơ thể mình gồm đất, nước, lửa, gió bắt đầu tiêu hoại, đất thì rã dần (thân, da, thịt, xương...), nước khô dần (máu, mủ, đờm...), lửa nguội dần (chất nóng trong cơ thể), gió nhẹ và tắt dần (hơi thở). Vì tứ đại rã dần nên những giây phút cuối cùng rất đau đớn và thường thì ta không kiểm soát được tâm ý thế nào, mọi sự vận hành giao phó cho nghiệp; có 4 loại nghiệp chính chi phối trong đời mình gồm:

 

1- Cực trọng nghiệp (garuka kamma): Là nghiệp có rất nhiều sức mạnh, nhiều năng lực. Nghiệp này có thể là bất thiện hay thiện; Nghiệp cực bất thiện như: Giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, làm Phật chảy máu, chia rẽ Tăng. Đây là nghiệp rất nặng vì nó sẽ trổ quả ngay trong kiếp hiện tại, sau khi chết đọa địa ngục vô gián tức khắc. Nghiệp cực thiện như đắc được 4 thiền Hữu sắc và 4 thiền Vô sắc, khi chết sanh lên cõi trời Phạm thiên, các nghiệp bất thiện trong quá khứ, không phải là mất đi, nhưng chúng chưa có khả năng trổ quả - do năng lực thiền định mạnh hơn.

 

2- Thường nghiệp (āciṇṇakamma): Những nghiệp thường làm trong đời sống hàng ngày. Một nghiệp thiện đã thành thói quen giúp cho ta khó thân cận nghiệp ác hoặc khó làm việc ác. Nhưng một nghiệp bất thiện đã thành thói quen, dù nghiệp ác rất nhỏ cũng rất nguy hiểm vì khó bỏ. Những huân tập của nghiệp này tuy không nặng nề nhưng lâu ngày cũng trở nên kiên cố.

 

3- Tích luỹ nghiệp (kaṭattākamma): Là những nghiệp tạo bất thường do một duyên nào đó thoáng qua. Nghiệp này thường rất nhẹ và dễ quên nếu là bất thiện. Nghiệp này, từng lúc một, chìm vào vô thức thành những chủng tử tồn đọng, tích lũy, chứa nhóm như những cặn bã, rác rưởi; mới thấy tưởng là vô hại, nhưng chúng sẽ liên kết với nhau để trở thành những khuynh hướng, những xung động, những mâu thuẫn, những ngủ ngầm vi tế của vũng bùn vô minh, ái dục. Do vậy, những hành động, cử chỉ, lời nói không đầu tư một ý chí mạnh mẽ, chúng ta tưởng đã quên lãng không còn giá trị đạo đức hay luân lý nữa; nhưng thật ra, ảnh hưởng của chúng thật nguy hiểm. Có những nỗi buồn vô cớ, những chán nản không tên che mờ tâm trí chúng ta. Chúng sẽ làm nền tảng cho sự đãng trí, thất niệm, bất giác; từ đó phát sanh những hành động sai lầm nghiêm trọng. Đó chính là do bất thiện tích luỹ nghiệp vậy. Trái lại, có những thiện tích luỹ nghiệp mà chúng ta làm bất chợt, không thường xuyên trong đời sống. Ví dụ, lấy một cây gai giữa đường quăng vào bụi, rồi quên! Cứu một con gián trong hố xí rồi quên! Chỉ đường cho một người lạc đường. Cho đưa bé ăn xin vài đồng bạc... Những việc làm ấy ít khi ta có chủ tâm mạnh mẽ. Tuy nhiên, lâu ngày chầy tháng chúng cũng tích luỹ, tồn đọng những khuynh hướng, năng lực tốt lành ở trong tâm. Sau này chúng sẽ tạo thêm duyên lành, hỗ trợ cho đời sống chúng ta nhiều phước báu không phải là ít vậy. Chớ nên xem thường tích luỹ nghiệp này.

 

4- Cận tử nghiệp (āsanna kamma): Là nghiệp làm lúc sắp chết hay là chặp tư tưởng cuối cùng lúc lâm chung. Nghiệp này có thể là ý nghiệp hay chỉ là trạng thái tâm lý do ký ức, hồi tưởng, nhớ lại một nghiệp thiện hay bất thiện trong quá khứ.

 

Khi một người đang chết lâm sàng (thần thức đang còn hoạt động), những người trong gia quyến nếu hiểu biết nên mở câu kinh, tiếng kệ, đốt mùi hương, mùi trầm... thì thần thức của họ có thể chuyển hoá, nghĩ tưởng đến Phật, Pháp, Tăng; nghĩ tưởng đến những việc lành thiện mà tự động sinh vào cảnh giới an vui (cõi người, cõi trời). Nhưng thường, khi sắp chết, đất nước lửa gió rã tan, cơ thể rất mệt mỏi yếu đuối nên phó thác cho nghiệp, nghiệp nào mạnh thì tự động nó dẫn đi, nếu mình làm việc ác trong quá khứ thì tự động hiện ra dẫn dắt về bốn ác đạo, hoặc là cận tử nghiệp nhìn thấy tượng Phật, nhìn thấy bạn lành, đoá hoa thơm, con đường lên thiên giới... là dấu hiệu sanh thiên.

 

Bên Mật tông Tây Tạng có hướng dẫn cho chúng ta biết người nào sinh cõi giới nào. Nếu thấy người sắp chết mà trên đầu (huyệt bách hội) nóng, hoặc trán nóng thì đó là dấu hiệu sanh thiên. Người nào nóng ở ngực là sinh cõi người. Dưới bụng trở xuống lần lượt là atula, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Cách giải thích như vậy thì tôi chưa thấy kinh văn nào - nhất là các Nikāya và cả Abhidhmma - nhắc đến. Do vậy, cách tốt nhất là nên làm việc lành, việc thiện thôi để không phải ăn năn, hối hận; giữ tâm thái mát mẻ, thanh bình, như dầu nhẹ thì nổi trên nước, đá nặng thì chìm xuống đáy, định luật vật lý, sinh lý, tâm lý đều như vậy cả.

 

Hỏi: Thưa thầy, tôn giáo có ba yếu tố, một là thượng đế, hai là hệ tư tưởng, yếu tố thứ ba là gì?

Trả lời: Yếu tố thứ ba là cơ cấu tổ chức giáo hội, nhân sự, lễ bái, cầu nguyện. Phật giáo cũng có yếu tố này nhưng nhẹ nhàng, lỏng lẻo, lại không có thượng đế, thần linh.

 

Hỏi: Kính bạch sư, vì vô minh nên con không nghĩ có tội, ngày xưa khoảng 25 tuổi, nghe lời người khác nên làm một số việc dại dột (tế nhị)…bây giờ con ăn năn hối hận hoài, hiện con có đứa con gái 39 tuổi, nhưng nó nghịch ý và không thương con, đó phải chăng là nhân quả của con..

Trả lời: Câu ni hơi tế nhị, nhưng đại khái thế này, mình không bao giờ biết nhân quả được hết, khi xưa mình như vậy, bây giờ có đứa con gái nó nghịch ý như vậy. Chúng ta sống trên đời này, có những chuyện xảy ra đôi khi không biết là nhân hay quả đâu. Chẳng hạn, mình đi vấp cục đá gãy chân, mình nói là nhân, chưa chắc; mình tức giận một người bạn, mình nghĩ là gây nhân sân hận, biết đâu phải! Thậm chí, đức Phật nói rằng một vị A-la-hán chưa hẳn biết rõ ràng về nhân quả ba đời huống gì chúng ta. Chỉ có bậc Chánh Đẳng Giác mới thông suốt mà thôi.

 

Ai đặt câu hỏi này thì mỉm cười, tha thứ, hỷ xả đi, đừng suy nghĩ nhiều sinh thêm phiền não; đứa con dù như răng nữa thì cũng thương yêu nó, lấy tâm người mẹ mà sống, mà thương, đừng đòi biết rõ nhân quả, thầy không giải thích nổi.

 

Hỏi:

1- Người giác ngộ rồi có cần ngồi thiền và tu học mỗi ngày nữa không?

2- Về từ thiện xã hội, thầy có nói rằng có khi giúp đỡ một người nghèo khó thì mình đã can thiệp vào nhân quả, người đó không nếm trải được nhân quả. Vậy phải làm từ thiện sao cho đúng?

3- Để có cái chết bình an hay cận tử nghiệp không đau đớn và lưu luyến người thân thì phải sống, tu tập như thế nào?

Trả lời:

1- Xin dẫn chứng câu chuyện về tôn giả Mahā-kassapa (ngài đại Ca-Diếp). Ngài già rồi mà vẫn mặc y vải rách, bưng bát đi xin ăn hàng ngày. Hôm đó, đức Phật kêu lại nói thế này: “Bây giờ ông già rồi, từ nay đừng đi trì bình khất thực nữa, tuỳ nghi thọ thực, đừng mặc áo rách nữa, hãy cùng ngồi bên cạnh Như Lai mà giáo hoá chúng sanh, giúp đỡ Như Lai”. Ngài Mahā-kassapa nói rằng: “Mặc dù con có già yếu nhưng mà phải mặc áo rách, phải đi xin ăn, phải sống khổ hạnh như vậy để làm gương cho các hàng hậu tấn”. Đó, một bậc đại trưởng lão đã bứng nhổ mọi tuỳ miên kiết sử rồi mà vẫn tu tập như vậy đó.

 

2- Về từ thiện xã hội, nếu mình có điều kiện làm từ thiện xã hội cũng là điều tốt nhưng đừng coi đó là mục đích của sự tu tập. Mình san sẻ, chia sớt vì tâm từ, tâm bi trước những hoàn cảnh khó khăn, đó là cho vì trái tim, vì tấm lòng, còn tu tập thì cần nhiều pháp môn khác.

 

Để ý thế này, có đôi người nói đức Phật mới có tâm từ, bi, hỷ, xả. Xin thưa! Hiểu lầm đấy! Đó là tâm phàm phu, còn tu tập tâm, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả chỉ tương đương với tâm mấy vị Phạm Thiên ở cõi trời sắc giới mà thôi, mà Phạm Thiên thì vẫn còn trong luân hồi sinh tử. Chỉ có trí tuệ vô lậu, trí tuệ giải thoát mới cao thượng rốt ráo. Và nếu một bậc Thánh không tu tập bốn phạm trú này thì vẫn không có. Đức Phật thì toàn diện, ngài khởi tâm nào thì có tâm ấy.

 

 Vậy nên, làm từ thiện xã hội thì cứ làm vì trái tim bi mẫn, vì lòng nhân ái, vì lòng thương cảm, vì muốn chia sẻ bớt cho những người bất hạnh hơn mình. Tâm này cũng có nhiều phước báu lắm, người nào làm cầu, làm đường, làm trường học, làm y tế xã hội thì phước báu sinh cõi trời Đao Lợi. Người nào cũng làm từ thiện như thế nhưng tâm cao thượng hơn, ví như khi cúng dường Tam Bảo, họ không nghĩ là cúng dường cho chùa, cho ông sư này, thầy kia, mà nghĩ rằng mình muốn duy trì Tam Bảo lâu dài, cho Phật Pháp được hưng thịnh và lan toả rộng rãi trong thế gian. Với tâm nghĩ tưởng như vậy thì phước báu sinh lên cõi trời Đẩu Suất. Vậy mình lựa chọn cõi Đẩu Suất cho sướng hơn, vừa sung mãn vật chất, vừa sống trong cõi thiện pháp của các vị Bồ-tát.

 

Hỏi: Kính sư, có công bằng không khi một người làm việc thiện mà đến lúc sắp mất vì một sự tức giận nào đó, cận tử nghiệp dẫn dắt sanh vào cõi xấu.

Trả lời: Rất công bằng đó, như vua Asoka bên Ấn Độ, suốt cuộc đời ông phụng sự đạo pháp, hộ độ chư Tăng và cho xây nhiều chùa chiền, tịnh xá, bảo tháp thờ Xá-lợi (có tư liệu nói là 84.000 bảo tháp) rải rác khắp Ấn Độ. Đối với tứ sự cúng dường, nhà vua rất rộng rãi vì chỉ mong cho Tăng-già đầy đủ, chỉ còn để tâm vào việc tu học mà thôi. Tại kỳ kết tập kinh điển lần thứ III, chính đức vua Asoka hân hoan lo mọi phí tổn, đứng ra thỉnh mời nhiều vị trưởng lão cao đức, rành rẽ Phật ngôn, lại tuyển chọn trong Tăng-già các vị sư uyên bác, đạo hạnh để tổ chức đại hội kết tập Phật ngôn. Đến khi ông nằm trên giường bệnh, ông nói với vị quan ngân khố: “Nì, ông xem thử, bấy lâu nay ta phụng sự cho Phật Giáo như thế thì tổng số tiền và tài sản có bằng ông Cấp-cô-độc không?” Khi vị quan tính lại là vẫn chưa bằng. Vua Asoka mới ra lệnh còn bao nhiêu lương thực, còn bao nhiêu của cải, ngân khố thì đem làm phước cúng dường hết đi cho bằng ông Cấp Cô Độc. Vị quan tâu bạch rằng: “Kho đã trống rỗng, không còn gì nữa hết”. Nghe vậy, vua khởi tâm sân hận nên đoạ làm con rắn sau khi chết. Con trai đức vua là ngài Mahinda, một vị A-la-hán theo dõi dòng tâm của cha biết rằng nhân sân hận nên sinh kiếp làm rắn. Ngài đến bên ổ rắn mới sinh nhỏ nhẹ rằng: Thôi mà phụ vương, vì cái tức giận vô lý của phụ vương bây giờ đoạ làm thân rắn, thấy chưa; phụ vương hãy nhiếp tâm trở lại đi, nghĩ về những công đức mà suốt đời phụ vương hộ độ cho Phật Giáo. Vì lời nhắc như vậy, sau khi mãn kiếp rắn (sử liệu nói 7 ngày) tức khắc sanh lên cõi trời Đẩu Suất. Vậy đó, khi tức giận thì tâm sân nó dẫn đi vào cõi khổ, nhưng mà việc thiện suốt đời vẫn còn đó, có mất đi đâu nên rất công bằng, khi đã trả xong nghiệp cũ thì sinh thiên mà hưởng phước báu đã gieo trồng chứ.

 

Hỏi: Dạ, nhưng nếu vị vua này không có lời khuyên của ngài Mahinda thì có cơ hội sanh thiên sau 7 ngày làm rắn không?

Trả lời: Vẫn sanh thiên, bởi vì khi trả hết nghiệp tức giận rồi thôi, nhưng thời gian có lẽ sẽ lâu hơn, nếu không có sự nhắc nhở của trưởng lão thánh tăng Mahinda.

 

Hỏi: Xin sư giải thích về bài "Tín Tâm Minh" của Tam tổ Tăng Xán giùm con.

Trả lời: Cười! Câu ni về VN tôi vô mạng xem rồi mới trả lời được, mà thôi, gõ nơi google ông ấy trả lời cho. Xin lỗi nghe, cái này nghiêng về học thuật, trả lời nó hơi mơ hồ, rườm rà lắm, vô lẽ đem cả bài "Tín Tâm Minh" ra mà nói.

 

Hỏi: Kính chào sư, một người cận tử nghiệp mà nói câu Mô-phật thì được sanh lên cõi trời. Trong kinh A-Di-Đà nói là nếu mà cận tử nghiệp niệm được 7 niệm, 10 niệm, nhất tâm bất loạn thì được Phật A-Di-Đà và Chư thánh chúng đến rước lên cõi Tây phương Tịnh Độ. Như vậy cái nào đúng, xin cảm ơn sư?

Trả lời: Cái nào cũng đúng hết, nhưng thế này, vì tôi chỉ biết 6 cõi trời dục giới thôi, có rất rõ trong kinh điển (Tứ Thiên Vương, Đao Lợi Thiên, Dạ Ma Thiên, Đẩu Suất Đà Thiên, Hoá Lạc Thiên, Tha Hoá Tự Tại Thiên), còn cõi Di Đà Tịnh Độ tôi không biết nằm mô! Ở đây có ai biết thì chỉ cho tôi với.

 

Khi nhiếp tâm đến bất cứ một vị Phật nào, hoặc một niệm lành, một niệm tốt đều sanh thiên cả, tâm mình dính vào chữ "Phật" cuối cùng đó cũng sanh thiên, nhưng mà để ý, một cái "chút chút" đó là cả hàng triệu sát-na vụt qua, không biết sát-na nào đi lên, sát-na nào đi xuống.

Nói thì nói vậy, cuối cùng khi mà mình trú niệm được một niệm lành, một niệm tốt, hoặc nghe một câu kinh, tiếng kệ... đều sanh vào cõi thiện thú cả thôi. Còn nói chuyện Phật và chư thánh chúng đến rước là “tào lao” đó. Phải để cho nhân quả nó làm việc, Phật và thánh sao lại xen vào định luật nhân quả? Nhắc, niệm đến tên mình, mình mới đến rước, sao có ông Phật và ông Thánh lạ đời đến vậy? Mà cũng tin?

 

Phần 2
(Ngày 3-5-2015 - Tiếp theo buổi thuyết giảng chiều Chủ Nhật kỳ trước).

 

Trước khi thực sự đi vào bài pháp chiều hôm nay, để thay đổi không khí một chút, cư sĩ Minh Anh sẽ cầm đàn và hát lên những ca từ trong bài thơ Tao Ngộ - một tứ thơ ẩn giấu vị thiền rất sâu xa của ngài Viên Minh. Tao ngộ ở đây là sự gặp gỡ nhau trong đời sống Đạo, đời sống Thiền! Ở trong mỗi chúng ta ai cũng có một giác tánh viên dung, tròn sáng mà chúng ta để quên quá lâu rồi! Chúng ta đã phủ lên chúng một lớp sương mờ nên chưa bao giờ thấy được mảnh trăng sơ thuỷ, uyên nguyên ấy. Những ca từ này sẽ soi lối cho ta tìm về lại với chính mình.

...

 

Bây giờ chúng ta đi tiếp những điều còn lại:

 

8- Xin xăm, bói quẻ, cầu sao, giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu.

 

Trong Phật Giáo có tình trạng này hay không? Tôi biết khi đặt câu hỏi như vậy thì chư thiện hữu trí thức ở đây đã có câu trả lời rồi. Mỗi năm, qua báo chí đây đó trong ngoài nước tôi thấy vấn nạn này xảy ra nhiều lắm, mà rất nhiều nơi như vậy. Ở miền Bắc thì thấy (tượng trưng thôi, thật ra cả hằng ngàn chùa) có chùa Phúc Khánh “cầu sao giải hạn đến kinh khiếp” như tôi đã kể hôm trước; ở Miền Nam thì có chùa Viên Giác (cũng cả hằng trăm chùa), ông trụ trì tự tay “hóa vàng Phật mã”. Một số nơi còn trắng trợn ra giá cầu an, cầu siêu, kinh doanh tâm linh nữa… Xin thưa! Có giải hạn được không, nếu được - thì định luật nhân quả nằm ở đâu, gây nhân xấu ác mà không bị trả quả hay sao. Vị thần linh nào, vị Phật nào có thể giải hạn một cách bất minh như vậy. Đó là những điều mà chúng ta nên suy nghĩ.

...


 

9- Định mệnh

 

Đạo Phật có nói đến nghiệp, đến nhân quả nghiệp báo chứ không hề nói đến định mệnh. Theo đó, gây nhân xấu ác thì gặt quả khổ đau, gây nhân lành tốt thì gặt quả an vui - chứ không phải “cái tơ cái tóc cũng do trời định” như định mệnh thuyết của Khổng Nho hoặc định mệnh 4 giai cấp của Bà-la-môn giáo. Thuyết định mệnh này rất nguy hiểm, nó cản trở sự tiến bộ của nhân loại, làm u mê tâm trí của con người.

...

 

 

10- Siêu độ, siêu thoát

 

Không có bài kinh nào, không có uy lực của bất kỳ ông sư, ông thầy nào có thể tụng kinh siêu độ, siêu thoát cho hương linh, vong linh, chân linh cả. Thời Phật tại thế, nếu có người chết, chư Tăng chỉ đọc những bài kệ vô thường, khổ và vô ngã để thức tỉnh người sống; và hiện nay các nước Phật Giáo Theravāda còn duy trì, bảo nguyên như cũ. Có thể có hai trường hợp:

...

 


 

11- Huyền bí, bí mật

 

Giáo pháp của đức Phật không có cái gì được gọi là huyền bí, bí mật cả. Đức Phật luôn tuyên bố là “Như Lai thuyết pháp với bàn tay mở ra”; có nghĩa là ngài không có pháp nào bí mật để giấu kín chúng ta cả!

Vậy bây giờ tại sao có những điều “bí bí, mật mật” xuất hiện trên đời? Tôi xin kể một câu chuyện.

...

 

 

12- Tâm linh

 

Khi tôi nói thuật ngữ "tâm linh" được du nhập từ Trung Quốc. Có nhiều comment nói rằng “tâm linh” là chữ Tàu, vậy thì bút hiệu MĐTTA cũng chữ Tàu; Phật Giáo Nguyên Thủy cũng Tàu luôn…Cái gì cũng Tàu cả sao lại phản bác Tàu? Nói vậy thì không được chính xác lắm, câu nguyên văn tôi nói thế này “Ngày nay, người ta tràn lan lễ hội, tràn lan mọi loại điện thờ với những hình thức mê tín, dị đoan, sa đoạ văn hoá... mà ở đâu cũng rêu rao các giá trị tâm linh. Đạo Phật không hề có các kiểu tâm linh như vậy. Thuật ngữ tâm linh này được du nhập từ Trung Quốc. Và rất tiếc, tôi không hề tìm ra nguồn Phật học Pāli hay Sanskrit có từ nào tương thích với chữ “linh” này cả!”

...

 

 

13- Niết-bàn

 

Nhiều người tưởng lầm Niết-bàn là ở một cõi nào đó, một nơi chốn nào đó; thậm chí là ở một thế giới ngoài thế gian này. Người nào tìm kiếm Niết-bàn kiểu ấy, thuật ngữ Thiền tông có cụm từ “lông rùa, sừng thỏ” như ngài Huệ Năng đã nói rõ: “Phật pháp tại thế gian. Bất lý thế gian giác. Ly thế mịch bồ-đề. Cáp như tầm thố giác”. Thố giác là sừng thỏ. Sừng thỏ vốn không có. Đi tìm Niết-bàn ngoài thế gian là như đi tìm sừng thỏ. Và giác ngộ cũng tương tợ vậy, chính ở trong khổ đau, phiền não mới giác ngộ bài học được.

...

 

 

14- Bỏ khổ, tìm lạc

 

Tu Phật không phải là bỏ khổ, tìm lạc. Xin lưu ý cho: Khổ và Lạc chính là căn bản của phiền não! Bỏ khổ tìm lạc là cách hiểu phổ thông về đạo Phật. Nó sai trật, sai lầm ghê gớm!

...

 


 

15- Tu để được cái gì!

 

Tu để được cái gì? Có nhiều người nghĩ rằng, tu là để được cái gì đó. Xin thưa, được cái gì là sở đắc. Ai sở đắc? Chính là bản ngã sở đắc. Đạo Phật là vô ngã. Hãy xin đọc lại Bát-nhã tâm kinh.

...

 


 

16- Tu là sửa

 

Nếu tu là sửa thì mình đã từ “cái ta này” biến thành “cái ta khác”. Nếu tu là không sửa thì cứ để nguyên trạng tham sân si như vậy hay sao? Xin thưa, sửa hay không sửa đều trật. Đạo Phật quan trọng ở Cái Thấy! Có Cái Thấy mới nói đến giác ngộ và giải thoát. Không có Cái Thấy này thì tu kiểu gì cũng trệch hướng hoặc rơi vào phước báu nhân thiên.

...

 


 

17- Vía, hồn, phách

 

Đạo Phật không có vía nào cả. Vía, hồn, phách là quan niệm của nhân gian. Ví dụ, ba hồn bảy vía, nam thất, nữ cửu – nam bảy vía, nữ chín vía. Nếu là nam thất, nữ cửu thì nó trùng với nam 7 khiếu, nữ 9 khiếu. Vía là phần hồn. Không có cái hồn, cái linh hồn tự tồn tại nếu không có chỗ nương gá. Vía không độc lập được. Như danh - phần tâm, sắc - phần thân – luôn nương tựa vào nhau. Chỉ có năng lực thiền định mới tạm thời tách lìa danh ra khỏi sắc, như cõi trời Vô Tưởng của tứ thiền. Tuy nhiên, cõi trời Vô Tưởng hữu tình này không phải là không có danh tâm mà chúng ở dạng tiềm miên.  Còn các cõi trời Vô Sắc thì sắc không phải là không có, chúng cũng ở dạng tiềm miên. Thật đáng phàn nàn, Phật và Bồ-tát đều có “vía” cả! Và cũng thật là “đau khổ” khi trong lễ an vị Phật, người ta còn hô “Thần nhập tượng” nữa chứ!

...

 

 

18- Bồ-tát

 

Bồ-tát là âm của chữ Bodhisatta: Chúng sanh có trí tuệ. Vậy, chúng ta tạm thời bỏ quên “khái niệm Bồ-tát”quen thuộc trong dân gian mà trở về với nghĩa gốc là “chúng sanh có trí tuệ” trong kinh điển. Và như vậy, sẽ có hạng chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Thanh Văn; chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Độc Giác; chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Chánh Đẳng Giác. Ngoài 3 loại chúng sanh có trí tuệ trên không có loại chúng sanh có trí tuệ nào khác.

...

 

 

19- Phật

 

Phật là âm của chữ Buddha, nghĩa là người Giác ngộ, đấng Giác Ngộ, bậc Giác Ngộ. Vậy chúng ta nên tạm thời bỏ quên “khái niệm Phật” từ lâu đã mọc rễ trong tâm thức hoặc cái hiểu của phần đông mà trở về nghĩa gốc là bậc Giác ngộ. Vậy, có người Giác Ngộ do nghe pháp từ bậc Chánh Đẳng Giác, được gọi là Thanh Văn Giác. Có người Giác Ngộ do tự mình tu tập vào thời không có đức Chánh Đẳng Giác, được gọi là Độc Giác. Có vị Giác Ngộ do trọn vẹn 30 ba-la-mật, trọn vẹn minh và hạnh nên gọi là Chánh Đẳng Giác. Không có vị Giác Ngộ (Phật) nào ngoài 3 loại Giác Ngộ trên.

...

 


 

20- Thể nhập

 

Tu là không thể nhập vào cái gì cả. Thể nhập là bỏ cái ngã này để nhập vào cái ngã khác. "Cái ngã" khác ấy có thể là dòng sông, có thể là ngọn núi, có thể là một cội cây, có thể là một thần linh, thượng đế. Cụm từ “thể nhập pháp giới” rất dễ bị hiểu lầm. Khi đi, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái đi; khi nói, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái nói; khi ăn, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái ăn - đấy mới đúng nghĩa “thể nhập pháp giới”, ngay giây khắc ấy, mọi tham sân, phiền não không có chỗ để phan duyên, sanh khởi.

...

 


 

Xin cảm ơn quý vị đã lắng nghe.

 

Phần Tiếp Theo

Hỏi:

- Trong khi chờ đợi quý vị thính giả đặt câu hỏi, xin thầy đọc lại bài thơ “Thảm họa đất Phật”.

Đáp:

- Bài thơ này chỉ có tôi đọc thôi, bởi vì tôi gieo vần đôi khi nằm dưới bốn năm hàng, đọc câu trên mà không theo vần phía dưới là nghe không được. Khi tôi gửi đăng bài này, anh Tâm Diệu Email qua và có đề mấy chữ “rất cảm ơn thầy, bài thơ rất tuyệt, mà cái hình cũng rất tuyệt, bất khả tư nghì”.

Bài thơ thế này:

image.png

Một bức tượng Phật ngồi uy nghi giữa đống đổ nát của một
ngôi chùa bị sụp đổ vào ngày 29 tháng 4 năm 2015
tại cơn động đất ở Bhaktapur, Nepal.
Credit: David Ramos / Getty Images

 

Thảng thốt, bàng hoàng tin Népal địa chấn
Gần 8 độ Richter lật ngược Kathmandu
Quật đổ điện đài đền miếu 
tín ngưỡng Hindu
Và cả cổ tự cũng tan hoang đổ nát
Ôi! Đất Phật của tôi 
Hơn hai ngàn năm bảo sát
Ngài vẫn ngồi kia
Trầm mặc, an nhiên!
Ngài vẫn như như bất động toạ thiền
Gạch, đá, cát... không dám
sờ đụng chân dung bất tử
Có cái gì linh thiêng ở ngoài kinh sử
Có cái gì uy nghiêm
Tự tại, vượt không, thời
Dù thương hải biến vi tang điền
Cũng tịch lặng, không lời
Dù Hy Mã Lạp chao nghiêng
Thân đại định kim cương
Vẫn bất di, bất dịch!

Có thể Địa Đại báo thù
Vì con người lòng tham tối mắt
Vì đồng vì sắt mà khoét thủng ruột gan
Vì bạc vì vàng, châu báu, kim ngân
Mà đành đoạn moi tim, xẻ cật
Không xót thương 
Đã ra tay tận diệt
Môi trường thiên nhiên 
Phơi trắng hếu đầu lâu
Văn minh hiện đại không biết sẽ về đâu
Khi nhân loại cứ mãi chạy theo 
tiện nghi xa xỉ!

Cũng có thể
Thuỷ Đại báo thù
Vì con người kiêu căng, ích kỷ
Chỉ biết dục vọng mình
Ai chết mặc ai
Thế là sóng thần giận dữ ra oai
Quăng quật điên cuồng
Đổ ác hận lên phố phường, làng mạc
Thế là nhà cửa bị bắn tung, xiêu   nát
Thân xác dập dềnh
Thuỷ quái bụng căng no!

Cũng có thể 
Hoả Đại báo thù
Bằng lửa địa ngục đồng sôi
Lòng mẹ đất đã tử thương
Phun trào máu đỏ khắp nơi
Lưỡi nham thạch
Đã nuốt vào lòng
Biết bao nỗi đau mất mác
Con người đã tàn sát ngàn xanh
Quả đất không còn oxy để thở
Sa mạc lan dần
Sa mạc cả trái tim
Có những xứ sở thú tính lên ngôi
Sa mạc hoá cả nhân luân
Sa mạc cả niềm tin, lẽ thật!

Cũng có thể 
Phong Đại báo thù
Bằng trăm lần bão cuồng gió giật
Nó thổi tung
Nó xé phăng
Bao công trình kiêu ngạo của loài người
Nó hung bạo chém ngang,
bổ dọc khắp nơi nơi
Để dạy bài học công bằng
Biết tôn trọng
Chúng hữu tình, vô tình
Sống cộng cư cùng anh em đồng loại!

Ôi!
Thảm hoạ kinh hoàng
Do đảo điên tứ đại
Hay do nghiệp của si tâm cuồng dại
Mà hai triệu rưởi tín đồ
Hiến tế máu sinh linh
100 ngàn chuột, dê, lợn, gà
Cùng bồ câu phải chịu tội tình
Với 6 ngàn đầu trâu
bị chém ngang lìa cổ
Máu nhuộm đất làng Bariyapur
Để Ác thần Gadhimai ban ơn phổ độ!
Có phải vì tín ngưỡng 
man rợ, cuồng điên
Để hồn oan hận thù
Báo oán nhãn tiền
Để quỷ dữ vỗ tay
Mừng vinh quang địa ngục?

Tôi không biết
Và tôi cũng không cần biết
Tại đâu và vì sao
Mà oái ăm, oan nghiệt
Chỉ thấy số thương vong mỗi ngày
Do đài báo thống kê
Đã mười ngàn đồng loại anh em
Thịt nát, xương lìa
Bệnh viện đã quá tải
Những hình nhân máu khô đen bầm dập
Nát chân, nát tay
Đôi mắt vô hồn
Thần linh đã ngoảnh mặt, quay lưng
Đã vô cảm cứu rỗi ban ơn
Lạnh lùng 
nhìn những ngôi làng bình yên
Phút chốc thành bình địa
Con mất cha
Vợ mất chồng
Khăn trắng khóc than kể lể
Và hằng ngàn cô nhi, trẻ em
Biết nương tựa vào đâu?

Ôi!
Có cái gì như sự thực đớn đau
Sự đớn đau trần truồng
Phơi mình trắng hếu
Có cái gì như giả chơn điên đảo
Có cái gì như hoán đổi tận nguồn căn
Mắt sáng hoá mù loà
Mắt biếc hoá xanh dờn
Nhìn ở đâu cũng ung thư cục bướu
Trái là phải
Đúng là sai 
Trong trò đùa 
Của những ông thần linh, thượng đế
Xấu ác đã lên ngôi
Hợm hĩnh ngự ngai vàng
Để hoạn nạn, tai ương
Cũng là sự thật dung phàm
Tiếng gió hú thê lương
Thổi qua nghìn trùng ngôi cổ mộ!

Bồ-tát ơi!
Ngài ở phương nào
Mà kinh bảo
Là "Tùng địa dũng xuất"
Hãy bi cảm, xót thương
Mà đồng loạt nhảy ra ngay
Bồ-tát là chị, là anh
Nhiều lắm cõi đời này
Là cậu, là cô, là chú, là cha
Vốn vô danh không tên, không tuổi
Và có cả Tăng Ni sa-môn
Cùng hằng ngàn cư sĩ 
Đã đọc tụng tâm kinh 
bát-nhã con thuyền
Bằng vòng tay
Bằng trái tim ba-la-mật đưa duyên
Chúng sanh giữa biển khổ 
Kathmandu đã hiện thành sự thật
Hãy cứu độ tức thời
Aó cơm, thuốc thang, lều trại
Hoặc bằng trăm ngàn 
nhu yếu tuỳ nghi
Mật hạnh từ tâm
Mật nguyện đại bi
Chia sẻ, ủi an
Lá lành, lá rách
Bọc đùm ra sao cũng được
Như cỏ lá hạn khô thèm một giọt nước
Như thân cây hoại mục
Thèm một nụ mầm xanh!

Ôi! Thương quý làm sao
Giữa hoàng hôn thê lương
Khổ hải nhân sanh
Bồ-tát hiện
Mở rộng tấm lòng
Từ bi quảng đại
Thế là giáo pháp chân thực 
Đã hiện giữa chúng ta
Ngàn năm còn mãi...

Chùa Pháp Vân
Đêm 2/5/2015
Pomona - California

 

Cư sĩ Mật Nghiêm phát biểu: Chúng ta vừa nghe bài thơ của nhà thơ, thi sĩ, nhà văn Minh Đức Triều Tâm Ảnh. Đạo hữu Tâm Diệu có nói với chúng tôi là lúc 3 giờ khuya nhận được bài thơ này và đưa lên trang thuvienhoasen.org. Khi đạo hữu rời nhà đi gym tập thể dục thì có 600 người đọc bài thơ này trong một cảm xúc đất Phật bị trận động đất hủy hoại, và chúng tôi có nghe các thầy ở đây và các cơ quan cùng chung tay góp sức cứu trợ bên đó, tôi nghĩ bài thơ sẽ đánh động thêm tâm tư của chúng ta khi nhìn về đất Phật, một lần nữa, xin đa tạ Hòa thượng, cám ơn thi sĩ.

 

Phần Hỏi Đáp

 

Hỏi: Chúng con vô cùng cảm ơn Hòa Thượng đã giải mê cho một số vấn đề, ngài đã chỉ ra cho chúng con nhiều điều rõ ràng để phật tử theo đó mà tu, chúng con có một số câu hỏi sau:

1- Trong hoàn cảnh mạt pháp như hiện nay, ngài có chỉ đạo gì cho chúng con ra khỏi khuôn mẫu cổ cũ này không, giải pháp đó là gì?

2- Ngài nghĩ có nên xây dựng một nền tảng mới để chánh kiến hóa đạo Phật không?

3- Xin ngài cho biết làm thế nào để tuổi trẻ trong và ngoài nước vào được dòng sống Phật Giáo?

Trả lời

1- Trước khi trả lời câu hỏi này, chúng ta nên chính danh chữ “mạt pháp”. Mạt không phải là tàn mạt, mạt là cành nhánh ngọn, trong kinh có chữ “bản mạt – gốc và ngọn”. Mạt pháp là người ta tu chạy theo cành, nhánh, ngọn mà bỏ quên gốc. Vậy thì quý vị đừng tu theo cành, nhánh, ngọn nữa, lần lần về cái gốc mà tu, mà trở về gốc là bắt gặp thiền minh sát - Tứ Niệm Xứ

 

Còn vấn đề làm sao “ra khỏi khuôn mẫu cổ cũ” thì tôi chịu, bởi vì bất cứ gì cũng có phạm trù khuôn mẫu cả, đi vào thế gian là rơi vào phạm trù, rơi vào lễ nghi, rơi vào hình thức, rơi vào mẫu mực, ước lệ…Quy định chật cứng rồi. Bản thân tôi cũng kẹt nơi Nguyên thủy, cứ nghĩ mình là Nguyên thủy nên sinh ra dị biệt với các tông giáo khác, mà chắc chắn cái đó không rời khỏi được. Mình sống trên đời phải ở trong một hình thức, phải chọn một hình thức nào đó. Tôi thì mặc áo vàng, ni cô Như Hương phải mặc áo lam, anh Tâm Diệu thì mặc áo vét... Vì mỗi người có một cá biệt tính riêng, có một môi trường riêng, có một tư tưởng riêng cho nên chắc chắn là phải rơi vào khuôn mẫu, nhưng quan trọng là mình có bị khuôn mẫu đó ép chặt, nhốt kín vào bên trong hay không. Mình ở trong đó nhưng đừng để bị mắc kẹt, đừng để khuôn mẫu chi phối và hơn hết là mình có quyền lựa chọn cái gì nên làm, cái gì không nên làm. Lúc xưa ông Phạm Công Thiện có nói câu này “Nếu tôi ở trong nhà tù thì tôi nhốt luôn cả nhà tù”. Nghĩa là không có cái gì nhốt ông được hết. Nếu có ở trong nhà tù thì tâm trí ông vẫn rong chơi tự do; ở trong khuôn mẫu thì nhốt luôn cả khuôn mẫu; ở trong phạm trù nhốt luôn cả phạm trù… Câu nói của triết gia Phạm Công Thiện quả là tối hậu, phải không?

 

Nói tóm lại: Do tâm chấp thủ hay không chấp thủ mà thôi!

 

2- Điều này khó quá tôi làm không nổi. Quý vị không biết đâu, tôi qua đây mới thuyết pháp được, bên VN tôi không có môi trường, tôi không có đất. Từng địa phương như vậy là có người quản lý. Giáo hội họ chỉ định, phân định rạch ròi cả rồi. Giống như Acsimet nói“hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng trái đất lên”. Tôi không dám thế nhưng cũng tương tự vậy, nếu cho tôi một cơ hội thì tôi có thể làm một cái gì đó để nói rõ về chánh kiến một phần nào cho người có duyên tu Phật. Còn bây giờ, thuyết pháp xong là tôi về đóng cửa viét sách thôi. Hôm nào quý vị đặt lại vấn đề này với một bậc long tượng nào đó xem vị ấy có giải quyết được không. Bây giờ nhiều cái điên đảo quá. Tôi xin chịu!

 

Còn chánh kiến của đạo Phật muôn đời là chánh kiến, có thay đổi gì đâu? Vì chánh kiến là thấy rõ như thật!

 

3- Cái này Sư Ôn Làng Mai đã và đang làm rồi, nhất là cho tuổi trẻ Tây phương và người Việt Nam ở nước ngoài. Có lẽ là khá thành công. Riêng tôi, khả năng có hạn mà phạm vi hoạt động cũng rất giới hạn. Kiến thức, hiểu biết cũng thế. Ngay chính bản thân cũng còn nhiều vấn đề. Càng nghiên cứu chừng nào thì thấy mình đang còn khuyết thủng nhiều kiến thức nhiều chừng đó. Lộ trình tu tập cũng vậy. Tôi cảm giác sẽ không làm được gì, và cũng không có khả năng gì, nhất là lãnh vực đối với tuổi trẻ. Thời đại mới, thời đại thông tin điện tử, kỹ thuật số thường đáp ứng tức khắc mọi nhu cầu của tuổi trẻ, nếu không biết vận dụng linh hoạt thì Phật giáo chỉ còn như đồ cổ nằm trên bàn thờ ám khói. Sự khó khăn này dường như là câu hỏi nhức đau đối với với thế hệ tuổi trẻ hiện nay ở Việt Nam: Họ chỉ muốn thoả mãn mắt, tai, thân xác... còn khối óc, tư duy, mơ ước họ bỏ quên, thui chột đi!

 

Hỏi: Thầy giảng câu chú “Om Mani Padme Hum” không phải là của Phật Giáo, vậy tại sao con thấy các tu sĩ Tây Tạng dùng nó rất thường để niệm.

Trả lời: Không phải riêng Phật Giáo Tây Tạng đâu, trong kinh điển Đại thừa cũng có nhiều lắm. Nói thẳng ra, Mật tông và một số bộ phái Đại thừa có lai Bà-la-môn giáo. Câu chú đó không phải của đạo Phật, nếu ai đối chất tôi có thể lôi ra nguyên ngữ chỗ này nằm ở đâu trong kinh điển Bà-la-môn giáo.

 

Mật tông chỉ phát triển một vài yếu tính của đạo Phật chứ không đại diện toàn bộ đạo Phật được. Bởi vì nếu rơi vào câu chú đó thì chỉ dừng ngang định thôi. Do định, do niềm tin nên khi chú tâm đọc thì nó phát sinh năng lực. Mà đạo Phật đâu phải tu để có năng lực, chúng ta tu là để làm lắng dịu tham sân, phiền não và để diệt khổ, có phải thế chăng?

Quý vị ở đây, ai theo Mật tông nên lưu ý rằng: Có Mật tông hữu phái và Mật tông tả phái. Hữu phái tôi còn thấy chơn chính hơn, còn tả phái họ đi vào những hình tướng không thể hiểu nổi, lấy hình tượng nam nữ giao cấu để giác ngộ giải thoát? Nhưng có điều lạ là khi tôi theo dõi những bài giảng của ngài Đạt-lai Lạt-ma thì thấy vắng bóng những cái đó. Ngài thông tuệ, bác lãm về mọi lãnh vực, khi hướng dẫn tu tập tôi thấy ngài giảng nói luôn dựa theo các Nikāya.

 

Bây giờ có rất nhiều ngôn ngữ mật chú Bà-la-môn giáo nó rơi lạc trong các kinh điển của Đại thừa, ở đây chắc có lẽ nhiều quý thầy cũng biết. Nhưng mà thói quen rồi, không biết sau này như thế nào. Nếu có một vị nào đó có khả năng, có đức độ, có uy tín trong Tăng-già may ra mới sửa đổi được. Tôi thấy có một số bài viết của thầy Thích Nhật Từ cũng nói đến việc trì chú này không phải của đạo Phật, nhưng mà thầy trẻ quá, đức chưa dày, uy tín chưa đủ bao trùm, khó mà tác động vào quảng đại tu sĩ và cư sĩ được.

 

Hỏi:

1- Cụm từ “lễ vía Quan Âm” hiểu sao cho đúng ?

2- Quán tưởng là gì, trong đạo Phật có dạy phép quán tưởng nào không?

Trả lời:

1- Tôi đề nghị bỏ chữ “vía” đi, dùng chữ khác, có thể dùng “Lễ tưởng niệm đức Quán Thế Âm” cũng được. Hay là ngày lễ Bồ Tát Đản Sanh, Bồ Tát Thành Đạo, Đức Phật Nhập Diệt. Hoặc ta dùng "Đại Lễ Vesak", có thể dùng "Lễ Kỷ Niệm Đản Sanh Bồ Tát Sakyā", nó chính danh hơn, chứ vía đâu mà vía! Từ vía này dễ lẫn lộn hồn, vía, phách, rồi tưởng rằng đức Quán Thế Âm cũng có cái vía thì nguy to.

 

2- Đạo Phật có dạy nhiều pháp quán tưởng lắm: Quán tưởng tứ vật dụng giới, quán tưởng lục căn thu thúc giới, quán tưởng bất tịnh của thân, của 32 thể trược, quán tưởng vật thực….nhiều lắm. Giải thích thêm một tí: Khi nói quán tưởng, thì đang nằm trong giai đoạn định, khi nào dùng quán chiếu mới đi đến tuệ.

 

Hỏi: Thưa thầy, xin hỏi về câu 13, 15, 18 và đặc biệt là câu số 15 “tu để được cái gì”?

Trả lời: Như Đức Phật đã nói “Như biển có một vị mặn, giáo pháp của Như Lai chỉ có vị là thoát khổ”. Vậy tu là để thoát khổ, càng tu là càng buông, càng xả mới thoát khổ được. Còn ai tu được cái này cái kia sau ni mệt lắm. Vác mang không hết đâu, giống như thuyền Bát-nhã, qua sông phải để thuyền rỗng không, chở đầy quá coi chừng nó chìm. Khi còn mang nhiều sở đắc, trí thức, kiến thức thì làm sao qua sông được, phải làm cho rỗng thuyền, nhẹ thuyền - Đó gọi là thuyền không. Té ra hành trình tu tập là càng xả, càng bỏ, đến chỗ cuối cùng là phải buông hết không còn gì nữa mới giác ngộ giải thoát. Mà Lão Tử còn nói vậy mà huống chi Đạo Phật, đây này: “Vi học nhật ích, vi Đạo nhật tổn. Tổn chi hựu tổn dĩ chí ư vô vi” tu là càng ngày càng giảm, giảm nữa giảm nữa cho đến tận cùng khi nớ mới đến chỗ vô vi.

 

Hỏi:

1- Con thường bị vọng tưởng xấu khởi lên khi đang trì chú, đọc kinh, lễ lạy, vọng tưởng này phát khởi ngoài sự chủ động của con. Như vậy có bị nghiệp báo hay không?

2- Khi con cố gắng nén lại vọng tưởng này vì sợ bị tội báo thì nó càng sinh khởi, xin thầy chỉ cho con cách đối trị.

3- Vọng tưởng phát khởi mà mình không theo thì có tội không?

Trả lời:

1- Vọng tưởng ngoài sự chủ ý của mình thì không sao, không phải nghiệp báo. Khi nào mình cố ý, chủ ý mới tạo nghiệp. Ví dụ: Chủ ý để cho tư tưởng nó trôi chảy vào một thế giới bất thiện, bất ổn nào đó là tạo nghiệp; còn ngồi như thế này mà những vọng tưởng nó nhảy bậy nhảy bạ thì kệ nó. Quan trọng là cái biết, cái thấy. Có cái biết, cái thấy - tức là giác tỉnh - thì nó tự mất. Còn khi nó tự nhảy mà mình không có chủ tâm, không cố ý chạy theo nó, nghĩa là không có tư tác (cetanā) thì không tạo

nghiệp. Nghiệp báo là trả quả của nghiệp. Phải xác định rõ như vậy.

2- Cách đối trị thì nên học ngài Huệ Năng “đối cảnh tâm sổ khởi”. Tâm khởi thì cứ để nó khởi, vấn đề quan trọng là có biết nó khởi hay không chứ không phải khởi nhiều, khởi ít. Tâm không khởi là tâm bất động, coi chừng tâm bệnh. Thiền định là tạm thời làm yên lắng trong thời gian định, khi xuất khỏi định thì tâm lại khởi. Tâm khởi là tâm phan duyên, là tự nhiên của nó, là bản chất của nó, mình bắt nó đứng yên sao được. Cho nên, đừng sợ tâm khởi, dù khởi xấu, khởi ác mà mình biết rõ nó cũng đều là chân tâm – cách gọi khác của như thực. Vậy thì, điều quan trọng là phải thấy nó khởi, thấy nó vận hành ra sao và tác động mình như thế nào, đưa đến vui buồn hờn giận như thế nào - Đó là thấy biết như thực, là chức năng của minh sát tuệ.

Nên nhớ rằng đừng cố nén, cố ép chi hết, càng ép, càng nén nó càng khởi, xin nhắc lại, cái quan trọng là THẤY và BIẾT.

3- Câu ni có gì đó không ổn. Vấn đề là có thấy không mới nói đến “theo” hay “không theo” chứ. Mà thật ra khi đã thấy rồi thì nó khởi hay không khởi cũng chẳng sao.

 

Hỏi: Thiền là gì, tại sao thiền lại có vai trò quan trọng trong Phật Giáo?

Trả lời: Đạo Phật rốt ráo là thiền định và thiền tuệ. Thiền định để tâm ổn định, trầm tĩnh; thiền tuệ là tâm sáng suốt, thấy rõ pháp, nó như cặp cánh để bay về bến bờ giải thoát được.

 

Hỏi: Gần đây có nhiều người ca tụng “nhục thân bất hoại” của vài vị đã nhập diệt. Xin thỉnh giáo ý kiến của Hòa thượng.

Trả lời: Có gì đâu, vị nào đắc định tứ thiền, chưa giác ngộ giải thoát cũng có thể để lại thân xá-lợi, thân bất hoại. Định này phàm phu cũng đắc được chứ không phải bậc thánh, nhưng lưu ý cho: Khi nào có nguyện lực để lại thân xá-lợi thì mới có xá-lợi. Một vị thánh A-la-hán có vị để lại, có vị không tùy theo nguyện lực của vị ấy. Điều này là chính sử đó, không phải bạ đâu cũng nói xá-lợi được mô.

 

Hỏi:

1- Trong khi viết thư pháp, xin sư bật mí về nghệ thuật diễn tả trên bút tự, sư có áp dụng tướng số học cho từng nếp người không?

2- Xin đề nghị sư – nhà thơ, có nên khảo sát thơ tiền chiến như Thâm Tâm và TTKH… dưới cái cái nhìn Phật Giáo.

3- Đưa người ta sao không đưa sang sông, mà nghe tiếng sóng trong lòng. Tiếng sóng có phải của đức Quán Thế Âm không?

Trả lời:

1- Nghệ thuật viết chữ thì tôi giữ riêng cho mình thôi chớ không bật mí cho ai hết. Nói chơi vậy thôi. Giữ riêng mà không phải bí mật. Tôi viết rõ ràng cho mọi người cùng thấy, không giấu gì hết, ai nắm được thì nắm thôi. Còn tướng số học thì biết cho vui chứ không phải Phật Giáo.

 

2- Mắc mớ chi mà đi khảo sát mấy ông ni. Chuyện đó để mấy ông nhà văn nhà thơ họ làm. Tôi có người quen làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục, muốn phát cho tôi cái bằng khen, tôi không nhận, tôi nói chỉ có Phật phát thưởng được cho tôi mà thôi. Vậy nên, chẳng lẽ mình đi “bình” mấy ông ni, nằm ngoài lãnh vực rồi. Thực ra, tôi có bình một số thơ thiền, quý vị đọc trên mạng cũng có, là những bài thơ có giá trị thẩm mỹ, giá trị nghệ thuật, có giá trị thiền học, giá trị văn học cao mà thôi.

 

3- Câu 3 này xin được không trả lời.

 

Hỏi:

1- Chuyên cần tụng kinh có đạt được giác ngộ giải thoát trong đạo Phật không?

2- Các vị Phật và A-la-hán nhập diệt rồi thì ở đâu, nếu là Niết-bàn thì ở đó có chấp thủ, sắc, thọ, tưởng, hành, thức không.

Trả lời:

1- Xin trả lời thế này: Chuyên cần tụng kinh thì chỉ thuộc kinh; hoặc tụng kinh với nhất tâm thì tâm tạm thời yên lắng phiền não, cao nhất còn thuộc phạm trù định. Chưa có định, chưa có tuệ thì làm sao giác ngộ giải thoát được.

 

2- Tôi kể chuyện này thay cho câu trả lời: Sư huynh tôi ông kể thế này: “Huynh có thấy một điều mà nói không được. Đức Phật có hai đứa con, một đứa con Nguyên Thủy, một đứa con Đại Thừa; đứa con Nguyên thủy thì chấp đoạn; đứa con Đại thừa thì chấp thường. Tu theo Nguyên thuỷ thì cái gì cũng diệt hết, diệt đến tận cùng luôn, cho chí Niết-bàn mà còn vô dư. Tu theo Đại thừa cái gì cũng còn hết, Phật, Bồ-tát, thường lạc ngã tịnh…đề thường hết. Một anh chấp đoạn, một anh chấp thường. Vậy tu tập làm thế nào đừng chấp đoạn, đừng chấp thường mới là rốt ráo của đạo Phật.

 

Tôi trả lời câu hỏi trên như vậy đó.

 

Để chia tay quý vị, xin cư sĩ Minh Anh lên hát tặng một bài hát nữa, được phổ nhạc cũng từ một bài thơ của thiền sư Viên Minh – xem như lời giã từ:

 

“Chia tay xin tiễn nụ cười,
Nước non còn đó tình người còn đây;
Trăng sao dẫu cách trùng mây,
Bờ kia tĩnh mặc bến này như nhiên”.

 

(CHUNG)

 


[1] Ngài A-Nan sống thọ đến 120 tuổi, thọ hơn Đức Phật 40 tuổi.

[2] Có nơi ghi dịch giả là của Huyền Quang tam tổ Trúc Lâm (?).

[3] Có rất nhiều nơi trích lại bản dịch của HT. Thanh Từ.

[4] Cư trần lạc đạo thả tùy duyên. Cơ tắc xan hề khốn tắc miên. Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch. Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.

[5] Lưu thủy hạ sơn phi hữu ý. Bạch vân xuất tụ bản vô tâm. Mạc vị vô tâm vân thị đạo. Vô tâm do cách nhất trùng quan

[6] Là Suñnatā: Không tính; là không có thực thể, ngã tính; vì duyên khởi nên các pháp là không, là vô ngã. Nó ly thoát tất cả mọi ý niệm không, phạm trù không do thế gian, con người dính mắc, hiểu lầm. Đại lược như: không của tư, không của ý niệm, không của thức, không của tưởng, không bên trong, không bên ngoài, không cả trong ngoài, không không, pháp giới không... Tất cả chúng đều sai lầm. Thật ra, không tính mới là thực tính của các pháp, không tính đồng nghĩa với pháp tánh như thị, như chân (Yathābhūtādhammatā) - cũng đồng nghĩa với thập như thị của kinh Pháp hoa. 

[7] Có 10 kiết sử hay 10 sợi dây trói buộc. Bậc thánh Nhập Lưu  tháo bỏ được ba sợi dây đầu tiên (thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ); Bậc thánh Thất Lai làm lỏng thêm được hai sợi dây kế tiếp (tình dục, bất bình); Bậc thánh Nhất Lai (cắt đứt cả năm sợi); Bậc thánh A-La-Hán (tháo bỏ thêm 5 sợi dây cuối cùng: sắc ái, vô sắc ái,ngã mạn, phóng tâm, vô minh).
[8] Lấy cảm xúc từ một bức tượng Phật ngồi uy nghi giữa đống đổ nát của một ngôi chùa bị sụp đổ vào ngày 29 tháng 4 năm 2015 tại cơn động đất ở Bhaktapur, Nepal. Credit: David Ramos / Getty.

[9] Có ba trình độ giác ngộ khác nhau: Giác ngộ của Bậc Thanh Văn; Giác ngộ của bậc Độc Giác; Giác ngộ của bậc Chánh Đẳng Giác

 

 

Nguồn: https://thuvienhoasen.org/a27229/nhung-hieu-lam-ve-dao-phat

Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages