Đời sống lúa mùa quê tôi
hồi ký của Lê Quốc Việt
ảnh bìa: Trần Chí Kông
Tái bản lần 1, có sửa chữa và bổ sung Copyright © 2025 by Lê Quốc Việt
Lê Quốc Việt
Đời sống lúa mùa quê tôi
Cấy lúa mùa bằng nọc cấy. Ảnh: Huỳnh Ngọc Danh
Để tưởng nhớ song thân, ông ngoại và bà ngoại
Lê Quốc Việt
Sinh năm 1964
Cử nhân Nông học
Hiện sống và làm việc ở Cù Là - Minh Lương, xã Châu Thành, tỉnh An Giang
Đời sống lúa mùa quê tôi là một loại hồi ký làng lồng
với hồi ký cá nhân. Ngoài ra, cuốn sách còn là một biên niên sử về quê hương Cù Là của tác giả Lê Quốc Việt, đặc biệt là về đời sống lúa mùa, từ khởi thủy cho đến hiện nay. Những người làm ruộng một vụ thuở ấy một năm sống hai mùa: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa toàn tâm cho cây lúa với hai giai đoạn rồi ruộng: cấy xong và ví bồ lúa xong. Mùa khô là thời gian nông nhàn để ăn tết, giỗ chạp, cưới hỏi, v.v...
12 lê quốc việt
Nói chung đời sống thuận theo tự nhiên ấy cho người đọc thấy một sinh cảnh yên bình. Ở gần biển, nhưng tác giả chẳng kể gì đến cá biển. Có lẽ nguồn sản vật ở đồng đủ để tự cung tự tiêu và còn biến việc đi khai thác, bắt cá, ếch, lươn, chuột, v.v... là một cái thú. Vừa có cái để ăn, vừa vui thích trước thành quả của mình.
May mắn thay, tôi cũng trải nghiệm được hai mùa lúa sáu tháng: lúa gòn. Trồng giống này cũng gặt trước tết như phần lớn ruộng lúa mùa ở Cù Là. Trồng lúa ở miền Trung cũng gồm đủ khâu như miền miền Tây. Gồm cày lật, cày trở, bừa bang ruộng cho bằng và trước khi cấy là trục. Lúa hạn cũng tát nước dưới hai hình thức: gàu sòng và gàu giai. Gàu giai thú vị hơn vì có thể cùng bạn tát tán dóc đỡ buồn. Lúc đó, ba tôi sắm hai đôi bò để cày mướn tăng thu nhập. Ngoài Trung cái ách được gọi là cái quải.
Chỉ tiếc là, miền Trung không giống miền Tây ở độ phong phú của sản vật. Con cá, con lươn, con chuột, con ếch không to bằng. Không có đìa. Chỉ có ao. Trẻ con vui nhất là buổi bừa san ruộng. Chúng xách giỏ theo sau bàn bừa để lượm ốc.
Do làm nặng nên nhà hay nấu chè trôi nước bằng đường tán nâu đen. Khi nấu, ai cũng có nhiệm vụ nặn viên bột và xếp lên cái nia. Sau đó má mới sên đường và cho bột vào. Nhà nghèo nên nếu không phải dịp lễ, chẳng bao giờ có chè trôi nước viên lớn có nhưn.
Thú vị nhất trong cuốn sách là đời sống văn hóa trong mùa khô. Mùa khô cũng là mùa nông nhàn. Mùa lễ lạt. Tác giả kể ra không khí ngày tết của người Kinh. Lễ hội của người Khmer. Tập tục cưới hỏi của người Hoa.
Nói chung, Lê Quốc Việt không chỉ trồng lúa mùa,
đời sống lúa mùa quê tôi 13
mà còn trồng cái đời sống văn hóa lúa mùa - nghĩa là cả một hệ sinh thái người, thực vật, không gian và thời tiết - như một thứ bảo tồn, làm di sản cho các thế hệ sau này.
Bảo tồn văn hóa lúa mùa là một sự chiến đấu trong cô đơn. Bước đầu đầy khó khăn. Vừa trồng văn hóa lúa mùa tác giả còn phục chế và sưu tầm các nông cụ xưa. Còn sinh ra đứa con tinh thần Đời sống lúa mùa quê tôi như một chứng từ.
Cuốn sách chỉ giới hạn trong không gian một làng quê nhưng đủ thú vị để đưa người đọc đi ngược dòng lịch sử về cái thời khẩn hoang, chưa có thủy lợi, chỉ có làm ruộng ăn nước trời. Những cách làm nông truyền thống. Chủ yếu là thuận thiên và thủ công.
Người Khmer và người Thái không phải vẫn duy trì một phần không nhỏ diện tích để làm lúa mùa sao? Gạo của họ giá cao, ngon nhất nhì thế giới.
Nay xin giới thiệu tới độc giả đứa con tinh thần Đời sống lúa mùa quê tôi của Kỹ sư Nông nghiệp Lê Quốc Việt, người đủ thời gian lăn lộn trên bờ dưới ruộng, để hầu chuyện quý vị.
Công Khanh
(Cựu Tổng thư ký Tòa soạn báo Sài Gòn Tiếp Thị)
14 lê quốc việt
đời sống lúa mùa quê tôi 15
Lời nói đầu
Tôi là người may mắn được sống giữa hai nền nông
nghiệp: cổ truyền và hiện đại. Thời thơ ấu, tôi được sống trọn vẹn với kỹ thuật canh tác lúa mùa truyền thống. Chính vì vậy mà những hình ảnh, những thao tác trong quy trình trồng lúa mùa của người nông dân đã đi sâu vào ký ức của tôi; từ các khâu chuẩn bị, như: phát-dọn cỏ, cày, trục đất, bừa đất, gieo mạ đến: nhổ mạ, cấy lúa, làm cỏ, gặt đập, chuyển lúa về… Mỗi động tác, mỗi cách làm đều là sự kết tinh của quá trình lao động sáng tạo, cải tiến qua hàng trăm năm khai phá vùng đất này mà có. Và mỗi giai
16 lê quốc việt
đoạn phát triển của lúa mùa lại gắn liền với đời sống hàng ngày, qua từng năm, cả đời người và lưu truyền qua nhiều thế hệ tạo nên một nền tảng văn hóa ở nông thôn: văn hóa lúa mùa.
Hiện nay, nông nghiệp nước nhà đang phát triển mạnh theo hướng hiện đại, với sự dẫn dắt của khoa học kỹ thuật. Những người lớn lên trong bối cảnh xã hội lúa mùa ngày càng ít dần và phần đông đã lớn tuổi, việc lưu giữ những giá trị văn hóa lúa mùa là rất cần thiết và là sự thể hiện trách nhiệm với thế hệ mai sau. Với mong muốn góp phần nhỏ trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, phần nói về văn hóa lúa mùa, tôi đã trao đổi, thu thập nội dung liên quan từ các cô, bác, chú cao niên. Họ chính là những người đã trải qua trọn vẹn với đời sống lúa mùa, kết hợp với những trải nghiệm thực tế ít ỏi của bản thân để kể lại câu chuyện lúa mùa này, nhằm góp một chút công sức trong việc giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau.
chương 1
mở đầu
một chút về tác giả, quê hương và điều muốn kể
Một chút về mình
Tôi sinh năm Giáp Thìn (1964). Quê nội tôi ở Sài Gòn, quê ông ngoại tôi ở Vị Thanh (Hậu Giang). Năm 1954, ông bà ngoại về quê bà ở Kiên Giang sinh sống. Và năm 1959, ba má tôi về với nhau. Cả tám chị em tôi đều sinh ra và lớn lên ở nhà ngoại, xứ Cù Là này.
Năm học lớp một, lớp hai tôi đã biết “đem cơm đi ruộng” (mang cơm ra ruộng) cho ông ngoại. Đường đi phải qua hai khu vườn vắng vẻ và một chòm mả khá lớn. Mỗi lần đi ngang qua đây, tôi thường cảm thấy lạnh
18 lê quốc việt
người - “nổi da gà da vịt” khắp tay, chân. Nhưng nghe lời dạy của bà ngoại, tôi liền lầm thầm trong miệng: Nam mô A Di Đà Phật! Và cứ thẳng đường mà đi, không ngó ngang ngó dọc, gặp được ông ngoại rồi thì cả người như nhẹ bổng lên. Mỗi lần được ở bên ông ngoại tôi vui lắm, chạy lon ton theo ngoại đi đuổi chim, đi bắt cá nhảy hầm, cá mắc cạn.
Cuối năm học lớp bảy thì ba mất. Là con trai lớn trong nhà, nên tôi trở thành lao động chính khi đi ruộng, nhưng khi đi chơi với những bạn bè trong xóm thì tôi cũng chỉ là thằng con nít! Từ lúc này, tôi phải học và làm bằng được tất cả những công việc trên đồng mà người nông dân phải làm. Tôi học làm ruộng bằng cách đi làm thí công cho người ta và học từ những người bà con (thương tình) đến làm tiếp (sức) gia đình mình. Lúc đó, làm ruộng không đòi hỏi nhiều thời gian như bây giờ vì chỉ trồng có một vụ lúa mùa thôi. Thời gian rảnh thì tôi xay lúa, giã gạo bằng tay (lúc đó khó khăn lắm, không có nhà máy như bây giờ đâu), trồng đậu, đi cắm câu, chận tát mương hoặc rạch để bắt cá… Năm học lớp chín, tôi đã trở thành người nông dân thực thụ, có điều làm không được nhanh, không được nhiều bằng người ta mà thôi. Và chỉ có như vậy, mới đủ điều kiện để theo học tiếp tục. Sáng ba giờ, chị Hai dậy nấu cơm. Bốn giờ thì tôi và thằng em kế xuống xuồng, bơi từ nhà ra ruộng ở gần chùa Chụng (thuộc ấp Tân Hưng, xã Giục Tượng), lúc đó chúng tôi ở “đậu” (ở ké) nhà ngoại, tại khu phố Minh Phú, thị trấn Minh Lương. Đường đi hồi đó lòng vòng lắm, chủ yếu là theo mấy con rạch nhỏ chứ không có đường tắt như bây giờ đâu. Vì vậy, khi đến ruộng thì mặt trời đã lên cao hơn
đời sống lúa mùa quê tôi 19
hai sào rồi (khoảng bảy giờ sáng). Làm cho đến lúc ông sãi đánh trống (khoảng ba giờ chiều) thì hai anh em mới xuống xuồng bơi về, đến nhà cũng vừa tối. Đến mùa gặt lúa thì không đi đi - về về nữa, mà mang gạo và nước mắm theo. Sẵn có cá dưới mấy cái lung gần ruộng, muốn ăn bao nhiêu thì bắt mà nấu, lúc đó cá đồng còn nhiều lắm. Khâu nào cần mướn thì mướn, cái nào tự làm được thì làm. Tối dựng chòi tạm để ngủ. Khi nào gặt, đập xong hết thì mướn ghe chở lúa hột về nhà luôn.
Sau khi tốt nghiệp cấp ba, tôi thi vào đại học với chuyên ngành trồng trọt và tốt nghiệp, trở về quê hương công tác ngành nông nghiệp. Giai đoạn đó cũng chính là thời điểm chuyển giao mạnh mẽ giữa sản xuất lúa mùa một vụ truyền thống và lúa cao sản ngắn ngày - hai, ba vụ mỗi năm. Đến giữa thập niên 90 của thế kỷ hai mươi thì huyện tôi hầu như không còn lúa mùa.
Như vậy, tôi là người may mắn được sống giữa hai nền nông nghiệp: cổ truyền và hiện đại. Thời thơ ấu, tôi được sống trọn vẹn với kỹ thuật canh tác lúa mùa truyền thống. Chính vì vậy mà những hình ảnh, những thao tác trong quá trình trồng lúa mùa của người nông dân đã đi sâu vào ký ức của tôi; từ các khâu chuẩn bị, như: phát- dọn cỏ, cày, trục đất, bừa đất, gieo mạ đến: nhổ mạ, cấy lúa, làm cỏ, gặt đập, chuyển lúa về… Mỗi động tác, mỗi cách làm đều là sự kết tinh của quá trình lao động sáng tạo, cải tiến qua hàng trăm năm khai phá vùng đất này mà có. Và mỗi giai đoạn phát triển của lúa mùa lại gắn liền với đời sống hàng ngày, qua từng năm, cả đời người. Và nó lưu truyền qua nhiều thế hệ, tạo nên một nền tảng văn hóa ở nông thôn: văn hóa lúa mùa.
20 lê quốc việt
Hiện nay, nông nghiệp nước nhà đang phát triển mạnh theo hướng hiện đại với sự dẫn dắt của khoa học kỹ thuật. Những người lớn lên trong bối cảnh xã hội lúa mùa ngày càng ít dần và phần đông đã lớn tuổi. Cho nên việc lưu giữ những giá trị văn hóa lúa mùa là rất cần thiết và là sự thể hiện trách nhiệm với thế hệ mai sau. Với mong muốn góp phần nhỏ trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, phần nói về văn hóa lúa mùa, tôi đã trao đổi, thu thập nội dung liên quan từ các cô, các bác, các chú cao niên - những người đã trải qua trọn vẹn với đời sống lúa mùa kết hợp với những trải nghiệm thực tế ít ỏi của bản thân để kể lại câu chuyện lúa mùa này, nhằm góp phần nhỏ trong việc giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau.
Một chút về quê hương tác giả
Xóm Cù Là hiện nay, bao gồm một góc khu phố Minh Phú, một góc khu phố Minh Lạc và một góc của ấp Hòa Thuận, xã Vĩnh Hòa Hiệp với địa hình của một ngã ba sông. Nguồn gốc cái tên Cù Là đến nay chưa có ai dám kết luận. Cù Hóa là tên làng có từ năm 1835 (đời vua Minh Mạng thứ 16), 100 năm sau (1935) đổi thành làng Hòa Thạnh Lợi. Riêng khu vực ngã ba sông, người Khmer gọi là Kom Pong Chanh (Kongpong Chine) nghĩa là bến người Hoa. Có lẽ những người Hoa đầu tiên khi sang xứ này sinh sống, đã cập bến tại đây. Từ đó, vào những thập niên đầu thế kỷ hai mươi, nơi đây đã hình thành một cái chợ rất sung túc.
Người ta gọi tên Cù Là, có phải chăng là do có người Cồ Là (từ phiên âm để chỉ người Miến Điện) đến xứ này, bán một loại dầu nóng đa năng dạng cao. Nhưng chữ Cồ
đời sống lúa mùa quê tôi 21
nghe hổng hay nên người ta lấy chữ Cù của Cù Hóa gắn với chữ Là trong Cồ Là thành tên Cù Là, để chỉ loại dầu nóng đó và cái chỗ bán dầu Cù Là (có tính riêng biệt cao) dần trở thành địa danh, xứ Cù Là?
Người Khmer sinh sống lâu đời ở đây với ngôi chùa gần 400 tuổi. Người Kinh đến đây có lẽ từ giữa cuối thế kỷ 17, người Hoa đến sau cùng. Theo gia phả họ Trương, ông Trương Từ, con cả (miền Nam quen gọi anh Hai) đời thứ nhứt sanh bên Việt Nam, tại Cù Hóa, là năm 1881. Như vậy, thủy tổ họ Trương phải qua trước năm 1880. Cũng có những họ khác có thể đã đến đây định cư trước hoặc sau đó, như ông cố của bà Trang Thị Tầm (hiện nay 80 tuổi) không rõ sang Việt Nam năm nào. Ông lấy vợ người Khmer, sinh ra ông ngoại là Thái Nghét năm 1883. Ông Nghét lấy vợ người Kinh, họ Nguyễn, sinh ra tám người con lai cả ba dòng máu. Và đến nay, hầu hết con cháu họ không còn nói được tiếng Hoa nào. Mặt khác, phía sau xóm nhà phía bên ấp Hòa Thuận, dọc theo rạch Cù Là còn rất nhiều ngôi mộ theo kiểu người Hoa, mà những người sinh sống phía trước biết mình là con cháu, nhưng không biết mối quan hệ như thế nào. Vì họ không nói, không đọc được chữ Tàu! Có thể suy ra rằng, quá trình quần cư và hôn nhân (Kinh - Khmer - Hoa) đã Việt hóa họ, khi bước qua thế hệ thứ 5, thứ 6. Trừ những người Hoa chạy về chợ Minh Lương (hay ra Rạch Giá), sống bằng nghề buôn bán và kết hôn “nội bộ” là còn giữ được tiếng nói và tập quán sanh hoạt.
Nói đến xóm Cù Là có lẽ ai cũng biết, đoạn đầu xóm từ đầu thế kỷ XX đã là chợ, nên người dân sống bằng rất nhiều nghề nhưng chỉ có nghề nông là nổi bật (năm 1947
22 lê quốc việt
chợ giải tán do chiến tranh dời lên Minh Lương, từ năm 2000 đến nay dần phục hồi trở lại). Đoạn cuối, tính từ Môn Quan tự cổ miếu trở về hướng Giục Tượng, từ trước năm 1975 đã có biệt danh là xóm Heo. Không phải vì người ta nuôi heo nhiều hay có hộ chỉ chuyên nuôi heo làm nghiệp mưu sinh mà do trong những lúc nông nhàn, cả xóm rủ nhau đi các vùng sâu, vùng xa mua heo hơi rồi chở ra chợ bán lại cho các lò mổ (dân gian gọi là lái heo). Từ khoảng năm 1977-1978, xăng dầu ngày càng khan hiếm, việc xay lúa bằng cối xay tay dần tăng nhanh. Mặt khác, việc lưu thông các mặt hàng nông sản lúc này, được kiểm soát chặt chẽ. Trách nhiệm chính được giao cho các công ty thương nghiệp và hợp tác xã mua bán. Người dân xóm Heo bắt đầu phục hồi lại nghề truyền thống của ông bà xưa là làm cối xay lúa bằng cây. Biệt danh xóm Cối thay cho xóm Heo bắt đầu xuất hiện, vì cả xóm đã chuyển từ lái heo sang chuyên làm cối xay lúa. Vật liệu làm cối gồm có: tre để làm khung (xương) cho cả “thớt trên” và “thớt dưới”; trúc đan quanh để giữ hợp chất đất – trấu nện chặt và gỗ cây đước dùng làm răng cối. Loại cối này xay ra gạo lứt và trấu. Sau khi “giê” (mượn gió trời hoặc dùng chiếu hay sa quạt thổi trấu bay xa khỏi gạo) tách trấu ra, tiếp tục cho gạo lứt vào cối giã để giã thành gạo trắng. Ngày trước, nhà máy xay lúa chưa phát triển như bây giờ, lại thiếu nhiêu liệu chạy máy nên nhu cầu cối xay tay rất lớn. Hoạt động của xóm Cối rất nhộn nhịp. Cối xay lúa Cù Là được chở đi bán nhiều nơi trong và ngoài tỉnh. Ngày nay, việc làm cối xay lúa như vậy chỉ còn lại trong ký ức của những người lớn tuổi mà thôi. Bởi nhà máy xay lúa mọc lên khắp nơi. Có lúc là nhà máy lưu động, có thể đến từng nhà để xay, cũng như việc cung
đời sống lúa mùa quê tôi 23
ứng gạo tới nhà khách hàng theo yêu cầu đang phát triển rất nhanh. Ngày nay khu vực xóm Heo, xóm Cối thuộc ấp Hòa Thuận, xã Vĩnh Hòa Hiệp.
Sự hình thành và phát triển của Cù Là nói riêng và vùng lân cận nơi tôi sinh ra nói chung, trước hết là nhờ sự kết hợp của cộng đồng ba dân tộc Kinh, Khmer, Hoa. Đây chính là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất. Người Khmer giỏi về khai phá rừng rậm hoang vu và trồng lúa nước (Hệ thống các nông cụ sản xuất lúa mùa chủ yếu mang dấu ấn đồng bào Khmer, tiêu biểu nhất là công cụ dùng để cấy và gặt). Người Kinh giỏi về trồng trọt và đánh bắt cá. Còn người Hoa giỏi về mua bán và dịch vụ. Chỉ có sự kết hợp hài hòa giữa ba dân tộc, mới làm cho Cù Là phát triển được như ngày hôm nay.
Người Khmer đến đây trước tiên và khai phá trên những vùng đất cao (giồng), chủ yếu là trồng lúa theo hình thức tự cung tự cấp. Ngay sau khi định cư ổn định là tiến tới việc hình thành các ngôi chùa, để gửi gắm lòng tin của con người trong cuộc sống. Đó cũng chính là nơi giáo dục con người và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Các chùa Nam tông cổ lần lượt ra đời trên địa bàn, như: Chùa Cù Là cũ năm 1627 (năm 2177 Phật lịch), chùa Khlangong năm 1638 (năm 2188 Phật lịch), chùa Khlangmuon năm 1673 (năm 2217 Phật lịch).
Những người Việt đầu tiên đến vùng này, có lẽ bắt đầu từ nửa cuối thế kỷ thứ 17. Nhất là, từ khi có chính sách chiêu tập dân xiêu tán để lập nên 7 xã, thôn của Mạc Cửu. Đặc biệt, việc định cư của người Việt trên địa bàn thật sự thuận lợi vào năm 1757, khi Mạc Thiên Tích theo lệnh chúa Nguyễn thành lập hai đạo Kiên Giang và Long Xuyên.
24 lê quốc việt
Năm 1862, khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam bộ, có rất nhiều gia đình người Việt không chấp nhận sống dưới sự cai trị của Pháp. Họ rời bỏ quê hương, mới chạy về các tỉnh miền Tây gây dựng lại cơ nghiệp (Từ “mới” của dân Nam bộ trong câu này, có nghĩa là “tiếp theo”, là “sau đó”.
Theo Tiến sĩ Huỳnh Ngọc Đáng, lịch sử di cư của người Hoa vào Đàng Trong có thể chia thành 4 giai đoạn chính. Những người Hoa ở xứ Cù Là, chủ yếu đến trong giai đoạn 1860-1890. Đó là thời kỳ, ở Trung Quốc sau khi xảy ra 2 cuộc chiến tranh nha phiến. Đặc biệt là, cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc (1851-1864), được coi là một trong những cuộc chiến khốc liệt nhất trong thế kỷ 19, ở Trung Quốc. Nó đã làm xuất hiện dòng người Hoa di cư đi khắp nơi, nhất là châu Á, trong đó có Việt Nam. Năm 1867, Pháp chiếm toàn bộ Nam kỳ. Với chính sách khai thác thuộc địa phục vụ cho sự phát triển của chính quốc, việc người Hoa di dân vào Nam bộ chẳng những không bị ngăn cấm mà còn có thể được khuyến khích.
Khi đến Cù Là, người Hoa gốc Triều Châu sống tập trung tại vàm Cù Hóa. Và người Khmer, đặt cho nơi đây cái tên gọi là Kam Pong Chanh (vàm người Hoa). Còn người Hoa gốc Hải Nam, sống ở một đoạn mé sông chợ Minh Lương hiện nay, người Kinh gọi là xóm Chệc.
Có lẽ, lúa nước là cây trồng với quy mô lớn đồng hành cùng quá trình khai phá vùng đất này. Các di tích chùa chiền, các địa danh, sự phong phú về giống lúa, đặc biệt là sự nổi tiếng của cối xay lúa Cù Là từ nửa cuối thế kỷ 19 đã chứng minh đây là vùng đất trồng lúa lâu đời - với một diện tích đã được khai phá lớn, từ xa xưa so với các nơi khác. Vì vậy tôi hy vọng rằng, câu chuyện mình kể
đời sống lúa mùa quê tôi 25
ra cũng sẽ chứa đựng những nét cơ bản của đời sống lúa mùa, ở những vùng quê lân cận.
Và một chút về điều muốn kể
Như chúng ta đã biết: Đồng bằng sông Cửu Long được coi như một vùng đất trẻ nhưng cũng đã có quá trình hình thành từ hàng ngàn năm trước. Tài liệu ghi chép và di chỉ khảo cổ chứng minh đồng bằng nầy được khai thác từ đầu cho đến thế kỷ thứ VII bởi Vương quốc Phù Nam, khi Vương quốc Phù Nam biến mất thì được sáp nhập bởi người Chân Lạp. Đến thế kỷ XIII, đế chế Chân Lạp sớm suy tàn nên vùng đồng bằng rộng lớn trở thành hoang vu với một số ít ỏi dân cư thuộc dân tộc Khmer sinh sống ở những vạt đất gò cao.
Sự phát triển thực chất của Đồng bằng sông Cửu Long thể hiện qua sự phát triển kinh tế xã hội do lịch sử ghi nhận hơn 300 năm qua gắn liền với người Việt, bắt đầu từ Vương triều Nhà Nguyễn.
Từ giữa đến cuối thế kỷ XVII, những chính sách hợp lý của Vương triều nhà Nguyễn ở Đàng Trong đã đẩy nhanh quá trình di cư/định cư của người Việt (với nguồn gốc chủ yếu từ vùng Ngũ Quảng), một bộ phận người Hoa (từ giữa thế kỷ XVII đến năm 1945) kết hợp với người Khmer bản địa đã khai thác và phát triển Đồng bằng sông Cửu Long từng bước vững chắc. Bên cạnh đó, ở nhiều vùng thuộc Miền Tây Nam Bộ có sự cộng cư và quần hôn giữa ba dân tộc (nhứt là ở các tỉnh Kiên Giang, Sóc Trăng, An Giang, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau) thúc đẩy mạnh mẽ sự giao thoa, tiếp biến văn hóa vừa tạo nên tính đa dạng về nhân chủng học vừa hình thành những
26 lê quốc việt
nét riêng có về văn hóa (về phong cách, lối sống) của một bộ phận khá đông của người dân Miền Tây. Đất đai và nguồn nước là tài nguyên quý giá nhứt, cơ bản nhứt của Đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh đó cũng còn có những yếu tố khác ảnh hưởng đáng kể đến xã hội con người trong quá trình di cư, định cư và phát triển của vùng, đó là: địa hình đồng bằng tương đối bằng phẳng (hầu như không có lũ, chỉ có mùa nước nổi vào mùa mưa ở nơi đất thấp), kinh rạch tự nhiên chằng chịt (tài nguyên thủy sản phong phú, giao thông thuỷ rất thuận tiện…), khí hậu nhiệt đới gió mùa (hai mùa mưa nắng rõ rệt, mùa mưa là mùa cấy trồng và khai thác thuỷ sản, mùa khô vùng ven biển có nước mặn, nước lợ tạo nên sự đa dạng về sinh thái, …), vị trí thuận lợi (giàu tiềm năng phát triển kinh tế biển, ít khi có bão đổ bộ trực tiếp…) Di cư, về căn bản đối với con người, là để thay đổi, tìm kiếm một môi trường sống tốt đẹp hơn hay ít nhứt cũng là “dễ thở” hơn ở một vùng đất mới. Với đất đai mầu mỡ, khí hậu ôn hoà, Đồng bằng sông Cửu Long mang lại thành công cho cả những trường hợp di cư tự nguyện cũng như di cư cưỡng bức (trốn tránh áp bức bất công, tội nhơn bị lưu đày…).
Vấn đề định canh, định cư của người dân Việt cũng như các dân tộc anh em ở giai đoạn đầu là rất khó khăn. Thành ngữ “nhà đá, nhà đạp” nghĩa là, căn nhà sơ sài, tạm bợ, ở nơi không mần ăn được hay ở nhầm vùng đất hoang vu nhiều thú dữ, khó tồn tại thì đá (đạp) một cái cho nó sập rồi chuyển nhà đi chỗ khác. Dù có thay đổi bao nhiêu chỗ thì điểm chung nhứt của việc định canh định cư vùng Đồng bằng sông Cửu Long ở giai đoạn đầu là
đời sống lúa mùa quê tôi 27
lựa chọn những vùng đất cao (giồng), dễ khai phá (trồng trọt), vùng đất cao ở các cửa sông, ven biển (đánh bắt cá), hình thành những thôn, xã đầu tiên.
Để canh tác được trên vùng đất mới, ông bà mình phải đốn từng cây gốc lớn, phát hoang bụi rậm, đốt cỏ, cuốc lật đất hoặc cày bằng lưỡi cày phá lâm (lưỡi cày lẹm – lưỡi nhỏ bằng bàn tay) để dễ né những gốc cây còn sót lại. Đối với đất ngập nước, mùa khô phải đốn, đốt và phá những gốc lớn trong đợt đầu tiên, khi mùa mưa một số loại mọc lên trở lại như cỏ năn, cỏ lát, … thì dùng phảng phát xong ngâm nước, khi cỏ thúi thì dùng cào rê kéo gom lại thành từng giồng để cấy lúa vào chỗ đất trống. Giồng cỏ mục là nơi ưa thích của những loại ăn chui rúc như lươn, trạch, cá trê vàng thích làm ổ đẻ… Cỏ mục hoàn toàn để lại lượng hũu cơ đáng kể cho cây lúa. Muốn chuyển thành vườn cây hay nền đất cất nhà ở thì phải đào mương, lên liếp để nâng cao mặt bằng.
Công việc khai khẩn buổi ban đầu vô cùng khó khăn, cực nhọc mà từng người, từng hộ gia đình khó có thể hoàn thành. Không chỉ là những cánh rừng hoang vu đầy cỏ dại, ‘muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lềnh như bánh canh’ mà còn rất nhiều thú dữ như rắn rít, cọp, cá sấu ‘dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua’,… thường xuyên đe dọa đến tính mạng con người. Chính vì vậy nhu cầu hợp tác xuất hiện ngay từ đầu. Cùng với tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, vần đổi công trở thành nền tảng đạo đức, lối sống của những người đi khẩn hoang, lập xóm, lập làng. Người gặp nhau lần đầu cũng trở thành thân quen. Từ việc khai phá, cấy trồng, cưới hỏi, ma chay, giỗ chạp,… họ đều làm cùng nhau, ai có gì thì đóng góp cái
28 lê quốc việt
đó… Những gia đình nông dân xưa thường rất đông con. Không phải vì không có điện, không có đường, không có nơi vui chơi giải trí… mà vì vùng đất quá rộng, người quá thưa, nhu cầu lao động để khai thác đất đai luôn là vấn đề bức thiết đặt ra ở mỗi gia đình. Câu thành ngữ ‘nhứt hào con, nhì hào của’ đã nói lên điều đó.
Nếu hệ thống trồng trọt là hệ thống chủ yếu quyết định việc định canh định cư của người dân Đồng bằng sông Cửu Long thì cây lúa đã, đang và sẽ gắn bó xuyên suốt trong quá trình khai mở và phát triển Đồng bằng sông Cửu Long bởi nhu cầu về lương thực, là nền tảng của ổn định và phát triển.
Trước tiên là trồng lúa nước cạn (khai thác các giồng, các gò đất cao trước) rồi đến lúa nước sâu (mở rộng khai thác đến các vùng trũng thấp) và lúa mùa nổi (vùng ngập sâu hàng năm như Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên được khai thác sau cùng).
Năm 1900, một nhà nghiên cứu người Pháp đã đếm được hơn 500 giống lúa, trong đó có 16 giống lúa mùa nổi (Trần Xuân Kiêm, Nghề nông Nam Bộ, tr. 54). Thập niên 80, thế kỷ XX, Giáo sư Tiến sĩ Võ Tòng Xuân, Trường Đại học Cần Thơ đã tổ chức sưu tập được 1988 giống lúa địa phương, riêng Đồng bằng sông Cửu Long có trên dưới 1.000 giống. Chính từ cơ sở biến dị-di truyền và thụ phấn chéo (mặc dù rất thấp đối với cây lúa, khoảng 0,05%), người nông dân phát hiện, lựa chọn và nhơn lên thành những giống mới ngay tại nơi mình sinh sống góp phần tăng nhanh số lượng giống lúa mùa được trồng ở Đồng bằng sông Cửu Long. Khi nghe tên các giống lúa mùa, chắc chắn ai cũng phải tin rằng đó chính là thành quả
đời sống lúa mùa quê tôi 29
sáng tạo của nhiều thế hệ nông dân xưa. Giống lúa mùa bản địa mà ông cha ta để lại rất đa dạng về phẩm chất theo nhóm như: chịu phèn, chịu mặn, ngon cơm,… Đó chính là tài sản vô cùng quý giá để chúng ta khai thác trong điều kiện thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay.
Về nông cụ, người Việt tiếp thu và cải tiến nhiều loại nông cụ từ người Khmer bản địa và một phần từ người Hoa mang sang. Điển hình như dụng cụ làm cỏ của người Việt là dao, rựa rất thích hợp ở đất gò, đất đồi núi (sơn điền) nhưng không thích hợp ở vùng đất ngập nước cỏ dại dày đặc. Từ cây phảng (rựa cán dài dùng phát cỏ) cổ vuông của người Khmer, người Việt cải tiến thành phảng cổ cò, phảng giò nai, phảng cho người dùng tay phải, cho người dùng tay trái… (nếu kéo thẳng cây phảng trở thành mã tấu, một loại vũ khí trong phòng vệ và chiến đấu). Mỗi loại thích hợp ở những điều kiện mặt đất, mức độ cỏ dại nhiều ít, mực nước ngập sâu, cạn khác nhau.
Dụng cụ gặt lúa của người Việt là liềm chỉ thích hợp đối với loại lúa thấp cây và ruộng không bị sập. Lúa mùa ở Đồng bằng sông Cửu Long cao cây, hay đổ ngã khi chín do đó vòng gặt của người Khmer, có móc nhọn dài vừa kéo lúa ngã vừa gỡ lúa rối do bị sập (hình dáng giống số 2) là rất hợp lý. Người Việt có vòng gặt giống số 1. Theo tôi, vòng gặt số 1 nầy là có sự cải tiến từ dụng cụ cắt lúa của người Chăm. Tuy nhiên, người phụ nữ Việt vẫn thích dùng liềm (lưỡi hái) hoặc vòng gặt của người Khmer hơn.
Nhưng điều quan trọng hơn hết trong hệ thống trồng trọt là việc hiểu biết và nắm được quy luật biến đổi của nguồn nước, được coi như mạch máu của sự sống ở vùng đất mới.
30 lê quốc việt
Với đặc điểm mỗi năm có hai mùa: mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 11 dương lịch) và mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau) và lượng nước đổ về nhiều từ thượng nguồn Mekong, mùa nước lớn vào tháng 8 đến tháng 11. Nước lớn nhưng không gây lũ vì có biển hồ Tonle Sap điều tiết nước nên nước chỉ dâng lên từ từ tạo nên mùa nước nổi ở vùng tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười gần biên giới, các nơi khác nước có nhiều một chút nhưng vẫn trồng lúa được (lúa nước sâu hay lúa cấy hai lần).
Mùa nước kiệt trùng với mùa khô, từ tháng 1 đến tháng 4 dòng chảy trên sông yếu nên khi thủy triều ở biển lên thì nước mặn được đẩy vào sông, nước mặn vào sâu hay không tùy theo năm. Năm nào mưa nhiều, mưa kéo dài thì nước sông Mekong về mạnh, nước mặn bị đẩy ra xa cửa sông thì năm đó mặn đến muộn, không vô sâu và ngược lại. Diễn biến mặn không phải tức thời mà tăng từ từ qua mỗi kỳ nước ròng, nước lớn và phụ thuộc vào biên độ triều (triều Biển Đông bình quân giữa nước lớn cao nhứt và nước ròng thấp nhứt là 3 mét, bình quân ở Biển Tây là 1 mét).
Nắm vững quy luật diễn biến nước, đối với vùng đất cao, sau khi khai phá, ông bà mình trồng lúa cạn, lúa rẫy có thời gian sinh trưởng ngắn để giải quyết trước nhu cầu lương thực bằng cách gieo trực tiếp (tỉa, sạ); Đối với đất ngập nước nông dân sử dụng các giống thuộc nhóm lúa mùa sớm trổ và chín cuối mùa mưa (tháng 10 âm lịch) để sạ (gieo thẳng) hoặc gieo mạ cấy trên những vùng ngập ít (20-30 phân); Sử dụng các giống mùa lở (chín cuối tháng 11, đầu tháng 12 âm lịch) hoặc mùa muộn (chín
đời sống lúa mùa quê tôi 31
cuối tháng 12 âm lịch hoặc đầu Tháng Giêng năm sau) để cấy trên những vùng đất thấp (30-60 phân), những nơi trũng sâu (60-90 phân) thì chỉ dùng giống mùa muộn và áp dụng kỹ thuật cấy hai lần (cấy dăm); Đối với vùng ngập sâu, nước lên nhanh hơn các vùng khác như Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười thì sử dụng các giống lúa mùa nổi, được sạ thẳng vào đầu mùa mưa, khi tới mùa nước nổi cây lúa có khả năng vươn lóng tương đương tốc độ mực nước dâng mỗi ngày. Khi nước rút, cây lúa nằm trên mặt đất, mỗi lóng có thể trổ thêm một bông lúa chét (do vậy đi gặt lúa mùa nổi người ta còn gọi là đi xổm lúa).
Thu hoạch chính của ruộng lúa mùa nổi không phải là lúa. Trước hết đó là các loại cá, có từ khi nước bắt đầu dâng lên cho đến khi cá gom, tụ xuống các mương, đìa; thu nhập chính ở đây là các loại cây ngắn ngày như đậu, mì, mè… người ta chỉ cần vạch lớp rạ ra là xuống giống được, chính lớp rạ giữ ẩm suốt vụ không cần tưới. Nói cách khác, mùa nước nổi, ruộng lúa là môi trường lý tưởng của các loại thủy sản, vào mùa khô, lớp phù sa mới lắng đọng và rạ lúa mùa nổi rất lý tưởng để trồng các loại hoa màu ngắn ngày.
Rõ ràng việc trồng lúa mùa ở Đồng bằng sông Cửu Long diễn biến theo trình tự dựa vào tự nhiên, thích ứng với tự nhiên và người nông dân không ngừng cải tiến để ngày càng phù hợp, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về số lượng và chất lượng.
Tất cả những kiến thức tích lũy trong mấy trăm năm khai thác, phát triển đồng bằng nầy về tài nguyên (đất, nước, thực vật, thủy sản), quy luật tự nhiên theo mùa thường xuyên được ông bà mình ứng dụng và cải
32 lê quốc việt
tiến không ngừng trong cách thức canh tác để thích ứng tốt nhứt, hiệu quả tốt nhứt. Những kiến thức đó ngày nay hay gọi là “tri thức bản địa”. Bên cạnh đó, một yếu tố có tính quyết định thành công trong quá trình khai phá, phát triển Đồng bằng sông Cửu Long chính là sự cố kết cộng đồng trên tinh thần đoàn kết, tương trợ nhau, cả người Việt, người Khmer và người Hoa sống chan hòa, coi nhau như anh em ruột thịt trong những hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn.
Với góc nhìn hiện nay thì trồng lúa mùa không khó. Nhưng để có được kỹ thuật trồng lúa mùa như những năm 1970 trở về trước là cả một quá trình dài tích lũy, đúc kết kinh nghiệm xương máu của ông cha ta. Dân gian có câu: thất mùa một năm nghèo ba năm. Bởi mỗi năm mười hai tháng, ba trăm sáu mươi lăm ngày chỉ trồng được có một vụ lúa thôi nên sự năng động sáng tạo, cải tiến gì cũng phải từng chút, từng chút một. Để rồi, mỗi một cách làm, một động tác, một mốc thời gian… trong sản xuất lúa mùa nói riêng và trong đời sống nông nghiệp lúa mùa nói chung đều có ý nghĩa và một giá trị văn hóa nhất định của nó.
Sứ mệnh lịch sử của cây lúa mùa truyền thống của vùng đất nầy kết thúc đã để lại một thứ vô cùng quý giá cho chúng ta, đó là văn hóa lúa mùa, đó là tổng hợp tất cả những cách thức ứng xử giữa con người với thiên nhiên, con người với con người, những hiểu biết về quy luật tự nhiên và vận dụng nó để thích ứng với những thay đổi của tự nhiên.
Chính sản xuất lúa mùa là nền tảng hình thành nếp sống, nếp nghĩ của người dân ở nông thôn. Mỗi đứa trẻ khi mới sinh ra, đã được nghe những lời ru ngọt ngào đậm
đời sống lúa mùa quê tôi 33
đà hương đồng gió nội của mẹ, của bà. Lớn lên một chút thì chúng chơi những trò chơi dân dã vừa rèn luyện sức khỏe, vừa rèn luyện kỹ năng lao động và giao tiếp trong cộng đồng. Khi đã trưởng thành, chúng tiếp tục tiếp thu, kế thừa và phát triển những cách làm, cách sống của cha mẹ, ông bà. Tất cả diễn ra êm đềm, chầm chậm theo chu kỳ mỗi năm một mùa lúa chín!
Rõ ràng, kiểu trồng lúa mùa xưa của ông bà mình là loại hình sản xuất thuận theo tự nhiên. Cả quá trình sản xuất và đời sống của người dân dựa theo quy luật của tự nhiên, theo diễn biến của thời tiết. Mùa mưa đến, hột lúa mọc ngoài đồng, con cá lên ruộng sinh sôi nảy nở, con người cũng ra đồng để chăm sóc cho cây lúa, để bắt con cá mà ăn. Hết mùa mưa, bắt đầu chuyển sang mùa khô, cây lúa trổ bông và chín, con cá quay về sông rạch, con người hối hả thu hoạch lúa. Những hạt ngọc trời là nguồn sống của từng gia đình, là cơ sở của mọi hoạt động xã hội ở nông thôn, là nền tảng của một nét văn hoá hơn ba trăm năm hình thành và phát triển!
Cây lúa cải tiến có mặt ở Đồng bằng sông Cửu Long cuối thập niên 60 của thế kỷ XX từ kết quả của cuộc cách mạng xanh trên thế giới. Đặc biệt từ thập kỷ 80 (Thế kỷ XX), để giải quyết tình hình khủng hoảng lương thực (thiếu) do lũ lụt, dịch rầy nâu và áp lực từ hai cuộc chiến tranh biên giới đòi hỏi phải có sự chuyển mình mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, nhứt là đối với cây lúa. Trên cơ sở đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp, đẩy mạnh công tác thuỷ lợi, biến diện tích trồng lúa mùa mỗi năm một vụ năng suất thấp thành những vùng lúa cao sản năng suất cao (khai thác thành công 2 vùng đất
34 lê quốc việt
hoang hoá cuối cùng của Đồng bằng sông Cửu Long là tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười), ứng dụng mạnh mẽ các kỹ thuật thâm canh, tăng vụ bằng các giống lúa ngắn ngày, cơ giới hoá, phân vô cơ, thuốc hoá học… đã thay đổi hoàn toàn phương thức sản xuất lúa. Mỗi năm trồng 2-3 vụ lúa (diện tích gieo trồng bình quân 4 triệu ha/năm) đưa Việt Nam vào nhóm cường quốc các nước xuất khẩu gạo (6-7 triệu tấn/năm).
Mọi tác động vào tự nhiên để tìm kiếm lợi ích cho con người, bên cạnh những thành quả tích cực, đều có mặt trái là những hệ luỵ không mong muốn. Đó là sự thay đổi môi trường sinh thái theo hướng bất lợi, suy giảm nhanh tính đa dạng sinh học (nhiều loại động, thực vật mất đi hoàn toàn hoặc nằm vào danh sách đỏ, nhứt là một số loài cỏ và tài nguyên thuỷ sản trên đồng ruộng), môi trường sống ô nhiễm (môi trường đất, nước, không khí – chưa có nghiên cứu về môi trường biển, nhứt là các vùng cửa sông), đất đai bị bạc màu nhanh … do ảnh hưởng của việc sử dụng ngày càng nhiều phân bón vô cơ và các loại hoá chất bảo vệ thực vật.
Sản xuất nông nghiệp ngày nay có tỷ trọng đóng góp ngày càng giảm trong cơ cấu kinh tế của một quốc gia được gọi là phát triển. Nhưng sản xuất nông nghiệp, cốt lỏi là lương thực, luôn là nền tảng cho sự phát triển ổn định của mỗi quốc gia.
Sự thay đổi về phương thức canh tác như hiện nay chắc chắn sẽ dẫn đến sự thay đổi về cách nghĩ, cách sống của nhiều người, nhứt là những người trẻ. Do vậy việc lưu giữ để giới thiệu lại di sản quý giá của cha ông cho các thế hệ sau là một vấn đề hết sức cần thiết và cấp
đời sống lúa mùa quê tôi 35
bách. Trân trọng và hiểu biết về văn hoá lúa mùa chính là trân trọng và tiếp nhận những trí tuệ, kinh nghiệm đúc kết hàng trăm năm của ông cha ta để vững vàng bước đi trong thời đại mới.
Chương 2
mùa mưa
công việc và sinh hoạt
Chuẩn bị
Sau tiết thanh minh, đình đám, cưới xin cũng đã qua đi, việc nhà nông nhớ tới đầu tiên là đi rải rơm đám mạ. Đám mạ thường được chọn ở một góc ruộng, cũng có người thích chọn ở giữa để tiện cho việc dăm mạ (chuyển mạ) ra các phía trên ruộng. Nơi được chọn làm đám mạ thường bằng phẳng hơn những nơi khác. Sau khi rải, sương mỗi đêm thấm vào làm rơm nặng dần, chờ đến khi rơm xẹp xuống sát góc rạ thì đốt. Trễ lắm cũng phải đốt khi trời vần vũ chuẩn bị những đám mưa đầu mùa. Khi đốt rơm đám mạ, lửa thường cháy lan cả ngoài ruộng. Nhiều người rủ nhau cùng đi đốt sẽ tạo thành cảnh đốt đồng để rồi hình ảnh đó đi vào thơ, vào nhạc và trở thành ký ức của người quê (khói đốt đồng)
Đốt đồng
Việc đốt rơm đám mạ trước tiên là để cháy hết những phần rạ trên mặt đất, nếu không sau này rễ mạ bám vào đó, người nhổ đập không ra, người cấy rẻ mạ cũng khó khăn; thứ hai là lớp tro nằm lại trong đất vừa làm phân cho mạ, vừa làm cho nước đám mạ trong, sau khi gieo cây mạ mọc lên dễ dàng không cần phải tát khô nước; thứ ba là tồn dư sâu bệnh, cỏ dại cũng được khử đi.
Xong việc đám mạ là đến việc chọn lúa giống. Thường thì nông dân hay lấy lúa của mình để làm giống. Cách chọn là lấy lúa cội dưới chân ghế đập lúa hốt vào bao phơi riêng, cất giữ riêng. Người kỹ hơn thì lựa từng bó, ôm bó lúa lên, thấy bông nào dài hơn bình thường hoặc bông nào hột lúa có đuôi thì rút ra cho qua bên lúa thịt. Xong rồi để bó lúa qua một bên, lựa đến bó khác. Tùy theo diện tích đất mình có mà lựa cho đủ giống theo cách tính bình quân là: 25 tầm bo là 100 bó, đập ra được 4 giạ lúa, mỗi giạ lúa gieo mạ cấy được 4 công với mật độ cấy 9-10 cây cho 1 tầm 3m. Nếu nhà có 10 công ruộng thì chuẩn bị 2,5 giạ lúa giống là đã có trừ hao. Trong trường hợp giống đã làm nhiều năm, thấy giống ruộng khác trúng hơn, ngon cơm hơn thì phải sớm gặp người ta để chia lại lúa giống. Nhưng chia của người nào thì phải để ý người đó có để giống kỹ không, coi chừng về cấy xong, lúc trổ lộn xộn, tùm lum giống là thất bại.
Trâu cày ruộng
Con trâu nào cũng được đặt tên. Người Việt đặt là Xe, Pháo, Én, Bầu…, người Khmer đặt là Pink (đầy đặn), Puk (vun đắp), những con mặt dài đặt là Xà Loon (cá chạch)… Nếu là trâu đực thì thêm chữ à (thằng) ở trước, nếu là trâu cái thì thêm chữ cà (con). Đôi khi cũng có trường hợp cậu bé giữ trâu hổng ưa ai lấy tên người đó đặt cho con trâu mình đang giữ, kêu riết rồi dính tên đó luôn. Khi trâu đã quen với tên của mình thì bạn trâu và chủ trâu thuận tiện hơn khi chăn thả cũng như trong lúc cày, trục.
Việc cày mướn cho người khác bao gồm cả trục 2 tác chiếc (1 tác chiếc là 1 quận hoặc 1 lượt, quận thứ nhứt trục theo chiều ngang thì quận thứ hai trục theo chiều dọc) để chủ đất làm cỏ (chế, lạng bằng phảng) và 1 tác đôi (2 quận hoặc 2 lượt trên cùng một vị trí) để chủ ruộng bắt đầu cấy. Nếu chủ trâu có ruộng ít thì lãnh cày nhiều, nếu có ruộng nhiều thì lãnh cày ít, sao cho vừa với sức trâu. Một công đất cày đến mùa lúa chín chủ đất phải trả chủ trâu là 2 giạ lúa.
Nhân nói chuyện trâu, mà không nói về trâu cui và trâu cò là rất thiếu sót. Trâu cui cũng giống như những con trâu bình thường, khác ở chỗ cặp sừng của nó nhỏ hơn, không mọc cong phía trên như bình thường mà cong về phía sau và uốn éo một chút nên khi giải quyết xung đột với nhau nó không dùng sừng để chém mà dùng đầu để cụng, để hất đối phương. Do đó trong dân gian có thành ngữ “mạnh như trâu cui”. Trâu cò khác với những con trâu bình thường ở chỗ nó có bộ lông màu trắng vàng, da hơi ửng đỏ. Trâu cò vẫn làm việc bình thường như những con khác nhưng khi già chết đi người ta giữ lại cặp sừng để làm kỷ niệm. Có một số người tìm về mài trên nắp khạp (nắp chum, vại bằng sành) rồi lấy nước mài đó cho người bệnh nan y uống theo kiểu “còn nước còn tát”.
Lúc tôi còn nhỏ có được nghe bà ngoại kể chuyện về sự tích con trâu như thế này: Hồi xưa, khi mới tạo thiên lập địa, ông Trời sai một vị bồ tát xuống trần gian vãi hột giống cây trồng với tỉ lệ là bảy phần lúa, ba phần cỏ. Vị bồ tát trên đường xuống trần gian thấy nhiều cảnh đẹp nên vừa đi vừa chơi. Khi đến nơi, vị ấy quên mất tỉ lệ Trời dặn, vậy là vị bồ tát này làm ngược lại, ông ta vãi ba phần lúa bảy phần cỏ xong bay về trời báo cáo đã hoàn thành nhiệm vụ. Vì vậy mà dưới trần gian cỏ luôn nhiều hơn lúa. Chỗ nào cỏ cũng mọc được. Còn cây lúa phải nâng niu từng chút một mà chưa chịu tốt. Người dân trồng lúa phải nhổ cỏ hoài, nhổ đằng trước nó mọc đằng sau. Vậy là họ rủ nhau cử người lên Trời hỏi tại sao có quá nhiều cỏ. Trời kêu bồ tát báo cáo lại tình hình, vị ấy nói đã làm theo ý Trời, vãi ba bao lúa, bảy bao cỏ. Trời nổi giận lôi đình: Tại sao ngươi làm ngược lại lời ta? Ta cho ngươi chuộc lại lỗi lầm bằng cách ngươi biến thành trâu để giúp con người trồng lúa và khi nào ăn hết cỏ mới được trở về đây!
Từ ấy, vị bồ tát trở thành trâu giúp người làm ruộng và trâu chỉ ăn cỏ để mong sớm được trở về trời. Người thương trâu hiền lành, vất vả chuyện nhà nông và nhiều người không ăn thịt trâu vì nghĩ rằng trâu xuất thân từ một vị bồ tát!
Bạn trâu
Nói đến trâu cày không thể không nói đến người giữ trâu, hồi đó chủ trâu gọi người giữ trâu thuê cho mình là bạn trâu, hoa mỹ thì gọi là mục đồng, bình dân thì gọi là người giữ trâu, chửi rủa thì gọi là đồ chăn trâu… Thời gian làm bạn trâu được tính theo đơn vị là năm. Hết giao kèo một năm, nếu không giao kèo tiếp thì nghỉ. Bạn trâu được trả công bằng lúa và tùy theo năng lực làm việc. Những đứa trẻ chỉ biết tắm rửa, dắt trâu đi ăn thì một năm chỉ được trả khoảng 15-20 giạ lúa, hàng ngày ăn cơm chủ, mỗi năm được sắm cho một hoặc hai bộ đồ. Nếu trâu mập mạp, sạch sẽ thì được khen, trâu gầy còm sẽ bị rầy la, thậm chí trừ lương. Người lớn hơn, ngoài việc chăn dắt còn cầm (điều khiển trâu) cày, cầm trục và làm tiếp chủ những công việc đồng áng khác thì 25-30 giạ một năm. Giỏi hơn nữa, có khi được 50 giạ một năm. Tôi được nghe và từng thấy, có không ít trường hợp những bạn trâu giỏi giang được chọn làm rể chủ trâu, được giúp vốn làm ăn và sau này trở thành người giàu có. Nghề giữ trâu cũng dễ gặp rủi ro đáng tiếc, đó là bị trâu chém khi ngăn chặn một cuộc đánh nhau của chúng hay gặp lúc mấy con trâu cổ trở chứng. Chưa có kết luận khoa học nào về chất độc trong sừng trâu nhưng tôi đã nghe và trò chuyện trực tiếp với ba người từng bị trâu chém thoát chết và không ai trong số đó sinh được đứa con nào!
Những người có trâu nhiều, sau khi ngoài đồng lúa đã cấy xong, không nơi chăn thả phải mướn người len trâu (từ gốc tiếng Khmer là b’len, sau được Việt hóa gọi là len, tức là đem trâu đi những cánh đồng xa, còn hoang vắng có thức ăn cho qua lúc khó khăn - còn gọi là mùa len trâu). Người len trâu giỏi thường nhận vài chục cho đến cả trăm con từ nhiều chủ trâu. Đến khi lúa chín thì đem trâu về, trâu nhà nào chủ nấy đến nhận và trả tiền công cho người len.
Nhân tiện cũng nói thêm về những đứa trẻ giữ trâu ba đời, tức là từ ông nội rồi cha và đến đời con tiếp tục giữ trâu, trong dân gian gọi là ngọc đồng. Chuyện kể rằng, khi cúng kiến những gì có liên quan đến sông nước người ta thường đem các lễ vật, nhang đèn đặt trên một chiếc bè làm bằng cây chuối rồi thả trôi trên sông. Khi ngọc đồng nhìn thấy, dùng tay ngoắc lại là chiếc bè sẽ tự trôi vào để hưởng thụ. Người bình thường thì không thể làm được. Hay chuyện những cục đá tượng trưng cho Ông Tà trong các miếu thờ, người khác thì kính trọng, hương khói khấn nguyện nhưng ngọc đồng thì đùa giỡn, ôm Ông Tà quăng xuống sông rồi nhảy xuống lặn mò vớt lên mà không bị gì cả. Nếu người nào nhìn thấy quở trách ngọc đồng thì chính người đó sẽ bị nhức đầu hay đau bụng gì đó, vái cúng Ông Tà một nải chuối sẽ hết.
Ra đồng
Khác với miền Bắc có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, ở miền Nam chỉ có hai mùa mưa, nắng. Mùa mưa bắt đầu cuối tháng tư đầu tháng năm và kết thúc vào cuối tháng mười một. Đối với các nhà khí tượng, khi có mưa đến một lượng nhất định thì gọi là bắt đầu mùa mưa, đối với nông dân thì khi mưa xảy ra tương đối đều, có thể trồng trọt được thì gọi là mùa mưa.
Hồi lúc chưa có đài dự báo thời tiết, nhà nông đoán mùa mưa chuẩn bị tới dựa vào những con vật quen thuộc như cóc, ếch, kiến lửa… Cóc thường nghiến răng trong khoảng từ giữa trưa đến một, hai giờ chiều, nếu kêu liên tục hai, ba ngày như vậy thì khoảng bốn, năm ngày sau sẽ có mưa, trễ lắm cũng tuần sau là mưa. Tiếng kêu của con cóc giống như tiếng nghiến răng của con người nên người ta gọi là cóc nghiến răng chớ thật ra cóc có răng đâu mà nghiến. Ếch dự báo mưa đầu mùa cũng chính xác cỡ con cóc và thường kêu từ khoảng bốn, năm giờ chiều đến chạng vạng tối, thỉnh thoảng cũng được nghe lúc giữa trưa. Hổng phải nhà nào cũng được nghe tiếng cóc nghiến răng kẹt kẹt hay tiếng ếch kêu quệt quệt. Chỉ có nhà nào có chỗ thích hợp cho chúng trú ẩn trong mùa khô thì mới được nghe. Kiến lửa dự báo mưa đầu mùa không chuẩn bằng cóc hay ếch nhưng khi đã vào mùa mưa rồi, sự di chuyển của cả đàn kiến là dự báo khá chính xác: sắp có một đợt mưa lớn!
Có thể nhiều người biết thịt cóc rất giàu dinh dưỡng và thuộc loại hiền, được ông bà hồi xưa dùng nấu cháo để bồi dưỡng sức khỏe. Nhứt là mấy đứa trẻ bị suy dinh dưỡng, ốm tong ốm teo, nhưng rất ít người từng chứng kiến cóc hội hay cóc ngồi đái!
Trời chạng vạng, cóc từ trong kẹt tối nhảy ra đi kiếm ăn, sau khi nhảy ra một vài nhịp, cóc ngồi lại một lát rồi mới chính thức nhảy đi. Nếu gặp mặt đất trống, bằng phẳng, chậm rút nước sẽ dễ dàng nhìn thấy chỗ cóc ngồi trước đó có một bãi nước nhỏ, đó chính là cóc đái. Hổng phải con nào nhảy ra cũng đái như vậy nên người có duyên lắm mới được chứng kiến cảnh này. Trong một số trường hợp, cóc đang ngồi rình mồi hay ngắm cảnh gì đó, bạn đến khều cho nó nhảy coi chơi thì ngay sau khi dậm nhảy nó cũng đái theo phản ứng tự vệ.
Việc chứng kiến cảnh cóc hội cũng phải là người thiệt có duyên mới thấy và trong đời mình tui được chứng kiến đến hai lần. Số là vườn nhà tui trước đây thuộc loại vườn vắng vẻ, ít được chăm sóc, trên là liếp chuối, dưới là mương rau muống. Một chiều thứ bảy rảnh rỗi (khoảng tháng tám âm lịch), tui đi rảo một vòng quanh vườn, nghe tiếng cóc kêu dưới đám rau muống, định thần nhìn kỹ coi sao: Ôi cha mẹ ơi, phải có hơn một trăm con cóc đang ở trong phạm vi chừng một tầm vuông (9m2), rất nhiều con tới bốn chưn (đang bắt cặp mà!). Khoảng ba năm sau tui gặp lại cảnh này một lần nữa, tiếc là hồi đó hổng có điện thoại thông minh như bây giờ để ghi lại làm chứng cho lời kể của mình!
Sau một vài đám mưa đầu mùa, những người có ruộng ít đã bắt đầu ra ruộng để làm cỏ từ từ, trước hết là cỏ ven bờ, ở các góc và những loại cỏ khó diệt. Sau khi cuốc lên, cỏ sẽ được phơi nắng cho khô, đến khi có nước cày được thì ruộng sạch bon. Những người ruộng nhiều thì chỉ tập trung lo chỗ đám mạ. Lúc này theo các bờ ruộng hay mấy vạt đất lung, bờ kênh… cỏ mọc xanh tốt hơn. Những chú trâu thường phải ăn rơm khô mùa hạn, đến lúc này là có điều kiện được bồi dưỡng thức ăn tươi để chuẩn bị sức lực cho mùa cày cấy mới.
Khi mưa nổi nước trên đồng là nhà nông chính thức bước vào mùa lúa mới. Những chủ trâu lãnh cày nhiều thửa phải bắt đầu lịch cày của mình. Ở quê tôi, hồi trước, có ba dạng lưỡi cày phổ biến, đó là cày lẹm, cày mun và cày chét. Lưỡi cày lẹm là một miếng sắt dẹp giống hình trái tim, kích thước chỉ bằng bàn tay, phần đầu nhọn, phần đáy bằng và có lỗ để tra cán cày, lưỡi cày dạng này năng suất làm việc khá cao, ưu điểm nổi bật là dùng được cho đất mới khai phá còn nhiều gốc cây. Tuy nhiên, lưỡi cày này có nhược điểm là dễ bị gãy cán khi trâu kéo cày qua bờ ruộng hay các ụ đất cao mà người cầm cày quên ngã cày theo chiều nghiêng, lúc này thì phải tra cán mới. Lưỡi cày thứ hai là lưỡi cày mun, chỉ có một miếng sắt nhỏ, uốn cong, mũi nhọn phía đáy, được gắn chặt vào đế cày (bằng cây), đầu nhọn nhô ra về phía trước, cày mun làm việc năng suất cũng khá nhưng việc úp lớp đất mặt xuống dưới thì không bằng lưỡi cày chét, lưỡi cày thứ ba là cày chét, lưỡi cày làm bằng miếng sắt lớn hơn được uốn cong như một nữa của chữ C, gắn vào một đoạn gỗ loại tốt khoảng 4 tấc gọi là đế cày, phần sắt phía trước nhô ra khỏi đế cày, càng xuống phía dưới thì nhô ra càng nhiều và hơi nhọn để cắt đất được tốt hơn. Giống như lưỡi cày chét bản địa, lưỡi cày chét Bạc Liêu ăn sâu 15 đến 20 phân, đưa lớp dưới lên, úp lớp mặt xuống phía dưới, do vậy có thể chôn vùi rơm rạ, cỏ dại và mầm bệnh của vụ trước, làm cho tầng đất từ mặt đến 20 phân được xốp hơn, thoáng khí hơn và bộ rễ cây
Trâu cày ruộng
lúa phát triển tốt hơn. Có người thích lưỡi cày Bạc Liêu nhưng vẫn thương lưỡi cày truyền thống nên đã tìm cách phối hợp giữa hai loại.
Một đôi trâu mỗi ngày cày bình quân được ba công đất (một công tầm cấy bằng 1.296m2), trâu khỏe có thể cày đến năm công. Những thửa đất lớn từ một, hai chục công trở lên thường cày bằng 2 cặp trâu cho mau rồi và đỡ ngán, chủ trâu không có đủ 2 cặp thì cày hùn hay cày vần công với người chủ trâu khác.
Bắt cá lên, soi ếch
Khoảng từ giữa tháng ba âm lịch trở đi, bầu trời có lúc vần vũ, một vài đám mưa đầu mùa làm cho không khí dịu lại, nhưng trên đồng vẫn chưa có nước. Nắng mùa khô làm đất nứt nẻ, vài đám mưa nào có thấm vào đâu. Lúc này mấy loại cá đồng dưới sông, trong ao (còn sót lại qua đợt tát đìa) đồng loạt mang trứng (trừ mấy con đực) và don mình lại để chuẩn bị lên đồng, rõ ràng nhất là cá rô, cá lóc. Hổng tin bạn chờ đến lúc này mà tát đìa xem, con nào con nấy bụng trứng không nhưng cái mình ốm nhom, dài thòn!
Bước qua tháng tư, một vài đám mưa đã thấm vào trong đất và nằm ở đó làm nước chưn, bắt đầu từ lúc này chỉ cần có một trận mưa lớn nữa là trên đồng nổi nước. Người có kinh nghiệm biết rất rõ mưa cỡ nào là đi bắt cá lên được. Khi trời còn đang mưa nặng hạt thì không có cá nào lên, khi mưa chỉ còn lắc rắc và nước chảy liu riu từ chỗ cao xuống chỗ thấp thì chắc ăn, cứ xách thùng đi là có cá. Cá rô thường đi tiên phong, lên khỏi mặt nước là chúng phùng mang ra để lóc đi, hướng chúng chọn để lên thường ở các góc mương, nhất là chỗ có nước chảy ri rỉ. Thường cá rô lên theo cặp (một con đực, một con cái), sau khi cơn mưa vừa dứt, không kể ngày hay đêm, ít thì hai, ba cặp, nhiều thì vài chục cặp cùng xuất phát tại một điểm, cá rô lóc từng con và gần như đi theo hàng trông rất thích mắt. Gặp trường hợp này thì gọi là lượm cá lên chứ hổng phải bắt nữa. Ít ai được thấy cá rô tự nhiên đẻ như thế nào nhưng khi đã lên tới ruộng rồi, dù có bị bắt hết, thì sau khi trên đồng có nước vẫn thấy cá rô con nở nhiều. Có lẽ trong quá trình lóc lên ruộng, khi cảm nhận được mùi đất mới, cá cái vừa lóc vừa đẻ trứng vào đất ẩm có chút nước và cá đực lóc theo sau phóng tinh chăng?
Còn cá lóc không vội lên đồng như cá rô, chúng chỉ lên khi có nước nhiều hơn, khi lên tới ruộng thì chúng tìm xuống chỗ đất lung hoặc các vũng để ở. Gọi là cá lóc, thật ra khi lên đồng chúng chỉ phóng và trườn chứ không lóc như cá rô và thường lên theo từng cặp. Sau khi lên ruộng, những con đi đơn lẻ tìm bạn bắt cặp và chuẩn bị sinh sản. Ổ cá lóc thường nằm chỗ cạn nhưng hơi khuất, khó phát hiện, thậm chí chúng còn biết tha cỏ hay cắn mấy cọng lúa để ngụy trang (trong đám mạ lúa mùa hay có). Thường cá trê chỉ lên vào ban đêm, chúng trườn rất nhanh, hay hơn cá lóc, cá rô nhiều nên đi bắt cá lên hiếm khi có cá trê. Các loại cá khác như cá sặc, cá chạch, cá lòng tong… chờ nước đầy đồng mới lên bằng cách bơi ngược dòng nước chảy.
Thành quả của bắt cá lên đầu mùa chủ yếu là cá rô, thỉnh thoảng được một vài con cá lóc. Cá lên đầu mùa ăn không ngon, đi bắt chủ yếu là để thỏa mãn niềm vui dân dã. Món ngon của đầu mùa mưa chính là thịt ếch!
Khi trên đồng hết nước thì một số ếch đi tìm những ao, vũng nước sâu, có bụi cỏ hoặc lục bình rậm rạp và có cá để làm thức ăn trong mùa khô. Một số con ếch khác thì chun vào nhà cua ở đậu. Chúng nằm bất động dưới đáy hang giống như trạng thái ngủ đông của gấu Bắc cực để tiêu tốn năng lượng ít nhất. Lúc nước trong hang cua khô đi cũng là lúc thời tiết chuẩn bị chuyển từ mùa khô qua mùa mưa. Lúc này những con cua như những nhà dự báo thời tiết, chúng thổi nước bọt phì phèo ở miệng và những con ếch vừa được giải khát, vừa được bồi dưỡng từ nguồn nước này.
Rồi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu. Tiết trời trở nên dịu mát hơn. Nước mưa tuy chưa làm ngập ruộng đồng vì những tháng ngày nắng hạn kéo dài nhưng cũng đủ làm ngập phần lớn hang cua. Chính lúc này những con cua sống trong hang bước vào giai đoạn lột xác để chuẩn bị cho một mùa sinh sản mới. Cua nằm lột xác trong chính căn nhà mình nhưng đâu ngờ bị chú ếch, kẻ gian đội lốt hiền từ xin vào ở đậu từ cuối mùa mưa trước, ăn không sót một miếng thịt nào! Cua lột đã trở thành thực phẩm bổ dưỡng giúp cho ếch trở nên mập mạp, mạnh mẽ và sung sức, sẵn sàng cho mùa sinh sản của chúng. Khi những cơn mưa tiếp theo làm nước ngập đồng, những cô, chú ếch nhảy ra khỏi hang và tìm nhau bắt cặp để duy trì nòi giống bằng những tiếng kêu ộp ộp, quệt quệt vang trời từ đầu hôm cho tới gần sáng. Theo những người rành bắt ếch đêm thì càng về khuya càng dễ bắt vì chúng càng say đắm nhau hơn và mỗi lần bắt là được một cặp chứ không phải một con (những người bắt giỏi, chỉ cần nghe tiếng kêu là biết ếch đang ở một mình hay đang có cặp). Trên đồng lúc này không chỉ có tiếng ếch mà còn có tiếng những loài động vật lưỡng cư có họ hàng gần với nhà ếch như bồ tọt, ễnh ương, nhéc nhen… tất cả tạo thành một bản hòa tấu dài lê thê thâu đêm suốt sáng. Những người ở nông thôn thì cảm nhận vui tươi về một màu xanh mơn mởn mới đang chuẩn bị bắt đầu. Nhưng những người thành thị về thăm quê mỗi lần nghe hợp âm này thì có cảm giác buồn não nuột, nhớ nhà da diết và khó mà ngủ được.
Vào những ngày mưa đầu mùa, nước nổi ngập đồng, ban đêm người ta dễ dàng bắt được ếch để làm thức ăn, người giỏi có thể bắt được nhiều để đem ra chợ bán. Ếch là loại thức ăn bổ, chứa nhiều đạm và khoáng chất, có tính hàn và rất tốt cho trẻ em. Nếu ăn luôn cả da thì sẽ ngon hơn nhưng phải nấu thật kỹ vì có một số loại ấu trùng giun sán rất ưa sống ký sinh trên da ếch để chờ thời cơ xâm nhập vào cơ thể con người. Hồi trước, ở thôn quê trẻ con rất ít khi có được đồ chơi mua sẵn. Người lớn hay lột lấy da ếch bịt vào một khúc gỗ đã gọt bào rất láng, đục rỗng ruột rồi đem phơi khô, da ếch căng lên dùng tay vỗ hay dùi gõ phát ra những âm thanh vui tai gọi là trống ếch. Bọn con nít không biết làm trống bằng gỗ thì lấy da ếch bịt vào lon sữa bò để có đồ chơi cho đỡ tủi với bạn bè.
Gieo mạ
Thời điểm vãi mạ (gieo mạ) lúa mùa tùy thuộc vào người trồng giống gì để xác định. Nếu trồng các giống mùa sớm như Sa Quay, Nếp Thơm thì phải gieo trước mùng 5 tháng 5 âm lịch, khi mạ được một tháng rưỡi hay một tháng hai mươi ngày là tranh thủ cấy được rồi, bởi vì đây là giống quang cảm ánh sáng mạnh, chỉ hơi chớm ngày ngắn một chút là trổ bông rồi, nếu làm trễ lúa không nở bụi được nhiều năng suất sẽ thấp. Khoảng đầu thập niên 1980, khi Nhà nước chỉ đạo tăng vụ, hai giống này người dân áp dụng phương pháp sạ thẳng chứ không cấy nữa, nhưng chừa ra một khoảnh đất chừng một phần mười hai diện tích để làm đám mạ, khi lúa trổ một hai bông là thời điểm gieo mạ, sau khi thu hoạch lúa mùa sớm sẽ dùng phãng phát gốc rạ, trục đất và ba tuần sau là cấy lấp vụ (đầu tháng 10 dương lịch). Đối với lúa mùa lỡ Ba Bụi, Một Bụi, Chim Rơi… gieo mạ khoảng giữa tháng 5 âm lịch
Bừa trâu và ách đôi
nhưng để cho mạ được hai tháng cấy mới tốt, cấy sớm cây lúa nở bụi hết cỡ nhưng chưa đến thời điểm ngày ngắn để trổ phải đứng chờ thời gian dài trên đồng rất dễ bị bịnh. Đối với các giống chín muộn hơn như Trắng Lùn, Ba Túc, Ba Vội… cũng gieo mạ giữa hoặc cuối tháng 5.
Khi muốn gieo mạ, người chủ ruộng phải hợp đồng chặt chẽ với chủ trâu. Nếu bừa buổi sáng thì chiều vãi
Trâu bừa đám mạ
(gieo), hoặc trễ lắm là hôm sau, vì khi bùn lắng xuống sẽ che được một phần hột lúa, hoặc trường hợp không có nước thì lớp bùn sẽ hồ mặt (khô do nắng làm mất nước), hột giống dễ bị nắng nóng chết. Bừa có hình dạng như bồ cào nhưng lớn hơn. Thân bừa làm bằng gỗ có độ bền cao, chiều dài thân bừa tùy theo sức khỏe của trâu mà chủ quyết định, thông thường từ hai thước rưỡi đến hai thước bảy. Mặt dưới thân bừa gắn một hàng răng, mỗi răng cách nhau khoảng hai tấc. Chiều dài mỗi răng là một tấc hai, chân răng hình vuông và nhọn dần về phía đầu răng. Phía trước của răng được vạt hơi nhọn như mũi thuyền để cắt đất cho dễ. Trường hợp đất cứng và trâu khỏe, người ta đứng lên trên bừa, nếu đất mềm hay trâu không khỏe thì người ta dùng bao đất khoảng chừng hai ba chục ký để dằn lên bừa khi trâu kéo. Thông thường đám mạ phải được bừa ít nhất ba tác đôi (tức sáu lượt trên cùng vị trí), nếu đất chưa mềm hoặc bừa bằng trâu nhà thì có thể nhiều tác hơn. Ở những vòng bừa đầu khi thấy có nhiều gốc rạ hay cỏ bám vào răng bừa thì người bừa sẽ dừng trâu lại nhấc bừa lên một phía, thúc trâu về phía trước, để bừa xuống, tương tự nhấc phía còn lại của bừa, chủ ruộng sẽ tranh thủ hốt những cuộn gốc rạ hay cỏ đó bỏ lên bờ, nếu không hốt sau này rễ mạ ăn vô đó người nhổ mạ sẽ đập đất không ra.
Việc ngâm lúa giống có khác nhau chút đỉnh tùy theo tính người. Người kỹ thì ngâm trong lu, trong xuồng… sau khi đổ lúa giống, cho nước vào, quậy đều, thấy lúa lép nổi lên thì vớt ra bỏ. Người không kỹ hoặc ngâm số lượng nhiều thì để nguyên bao (nhưng buộc sao cho bao lúa hơi lỏng một chút) quăng xuống sông, xuống đìa, dùng dây cột chùm lại rồi cột vào chân cầu, không có cầu thì cặm cây sào cột vào đó để tránh bị trôi và khi vớt dễ tìm. Thời gian ngâm khoảng hai ngày một đêm là vớt lên được, nếu giống lúa vỏ mỏng, lúc này có thể nhìn thấy phần phôi đục của hạt lúa. Sau khi vớt lên phải vúc nước (rửa lúa) trước khi ủ. Người kỹ thì xúc từng thúng ra sông hay xuống đìa vúc, vừa bỏ đi hạt lép vừa loại nước chua bám hột giống. Người không kỹ hoặc ngâm số lượng nhiều thì mở miệng bao, dùng thùng múc nước đổ đều vào để xả nước chua, mỗi bao ít nhất hai thùng trở lên, nếu cảm thấy còn mùi chua thì đổ nước thêm. Về cách ủ, nếu ủ trong bao (bao đựng phải thoát hơi được) thì mỗi bao chỉ đựng phân nửa thôi, chừa khoảng không gian cho lúa nảy mầm nở ra, sau đó chất chồng các bao lên (chỉ hai lớp là tốt nhất), dùng đệm hoặc cao su đậy kín lại để giữ nhiệt thúc đẩy mầm mọc đều. Cách này có ưu điểm là gọn, dễ làm nhưng nhược điểm là lớp lúa ở vùng gần vỏ bao mọc tốt hơn, lúa ở vùng lõi bao nảy mầm không tốt do nhiệt độ cao, ít thoáng hơn. Tốt nhất là ủ theo cách đổ ra trên nền gạch tàu hoặc xi măng, nếu trên nền đất thì có lót đệm ở dưới, dùng tay khỏa đều, sao cho độ dày lúa giống khoảng một tấc, tối đa là một tấc rưỡi sau đó dùng những tàu lá chuối xanh hoặc dùng bao đựng lúa bằng nilon đậy kín. Cách này hơi tốn công một chút nhưng lúa mọc đều hơn. Sau hai đêm rễ lúa mọc ra chừng một phân rưỡi là vừa. Nếu đất chưa chuẩn bị kịp thì phải trải lúa giống mỏng ra cho thoáng, không đậy nữa. Thỉnh thoảng xới đều lên cho lúa không nóng để hạn chế rễ mọc ra dài hơn, còn mầm thì vẫn ra được.
Gieo mạ
Việc gieo mạ sao cho đều là rất quan trọng nhằm làm cho mạ bằng nhau khi cấy lúa sẽ phát triển đồng đều. Do vậy hầu hết chủ ruộng đều cặm cây chia đều theo từng luống, gọi là cặm gò. Chiều ngang của một gò tùy theo sức quăng (ném) trái, quăng phải của người vãi mạ. Cây cặm gò có thể là sậy, trúc hay lá dừa già chặt xéo dưới góc để cặm cho dễ. Khi vãi mạ phải đi lui (nếu sạ thì đi tới) vì mật độ hột giống trên đất nhiều, nếu bước tới sẽ giẫm làm hột giống lún sâu không mọc được, nhiều dấu chân như vậy sẽ làm mạ bị chết lỗ. Ngày xưa việc gieo mạ không cần phải bơm nước ra và cũng không cần trộn thuốc gì vô giống, ngày nay nếu làm như vậy là không được vì nạn ốc bươu vàng, muốn không dùng thuốc thì phải bơm nước ra cho khô, khi mạ lên thì cho nước vô từ từ, nhưng phải theo dõi thường xuyên, nếu thấy ốc với số lượng kha khá thì phải dùng các loại bả mồi không ảnh hưởng đến cá để diệt ốc.
Dọn đất
Mạ cấy được khi từ một tháng rưỡi đến hai tháng. Những giống chín muộn như Trắng Lùn, Ba Vội… thì nên để mạ hai tháng, những giống chín sớm hơn như Ba Bụi, Một Bụi… thì một tháng hai mươi ngày là cấy được. Khoảng thời gian từ gieo mạ đến cấy như vậy là cũng khá lâu nên các khâu chuẩn bị đất cũng không vội vàng gì. Ngày xưa ít khi thuê mướn nên người ta dành khoảng thời gian này để đi làm vần công với nhau, như là phát cỏ, nhổ mạ, cấy lúa. Cấy lúa là khâu công việc tốn nhiều lao động, nhiều thời gian và thích hợp để vần công nhất. Những chủ trâu, ruộng nhiều, khi lãnh cày họ cũng thường quy đổi một công cày bằng ba công cấy. Khi có máy cày xuất hiện ngày càng nhiều thì giảm còn hai lần rưỡi. Đến khi tới ruộng nhà thì mọi người xúm lại làm cho nhanh.
Phát (chế) cỏ bằng phảng
Đối với đất nhiều hữu cơ thường mềm, đi lún, cỏ nhiều, người ta không cày mà chỉ dùng phảng phát cỏ. Sau đó dùng bồ cào kéo lại thành từng giồng cho cỏ mục bồi dưỡng thêm chất hữu cơ cho đất. Rõ ràng hồi xưa ông bà mình trồng lúa thuận theo tự nhiên và hoàn toàn hữu cơ. Đến khi cấy, những giồng cỏ lớn không phân hủy kịp thì bỏ trống không cấy. Trước khi cấy dùng phảng lạn lại một lần nữa. Chỗ mấy cọng cỏ ngoan cố ngoi lên dù nằm sâu dưới nước, sau lần này là cấy được. Nếu cỏ có mọc nữa thì lúc đó lúa cũng đã phát triển rồi, có thể chung sống hòa bình với nhau được. Trung bình một ngày một người phát cỏ được một công. Người làm giỏi có thể lên đến một công rưỡi hoặc hai công. Thường người đi phát cỏ hay được thu hoạch thêm như con cá, con ếch, lươn, rắn bị phảng chém trúng hay trứng chim trong ổ ở những lùm cỏ rậm…
Đối với đất đã khai phá nhiều năm trở thành đất thuộc, ít cỏ nhưng lớp đất mặt hơi cứng thì phải cày để úp lớp đất mặt xuống, đưa lớp đất dưới lên làm cho đất tơi xốp, tăng độ dinh dưỡng, mặt khác còn để vùi lấp cỏ dại, mầm bệnh của vụ trước nữa. Trước khi cấy khoảng một tuần hoặc mười ngày kêu trâu trục qua một tác đôi cho đất tương đối bằng rồi dùng phảng để chế cỏ (cỏ dày gọi là phát, cỏ ít gọi là chế hoặc lạng), sau đó cho trâu trục một tác đôi nữa là được, người nào kỹ có thể kêu trâu trục thêm nhưng phải trả tiền thêm vì theo quy ước tiền công cày chỉ bao gồm trục 2 tác đôi mà thôi.
Nhổ mạ
Mạ lúa mùa hồi trước không có bón phân. Gần đến ngày nhổ người ta dùng tro trấu vãi lên để cho mạ ra rễ mới để dễ nhổ hơn. Có người vô mấy lò mổ mua xương trâu, xương bò về đốt rồi nghiền thành bột mịn cất để dành bón cho đám mạ, nghe nói mạ cũng dễ nhổ lắm. Khi phân urea được xài phổ biến, người ta dùng khoảng 5kg rải cho một công mạ (công tầm 3 mét) trước ba ngày sẽ làm cho mạ dễ nhổ (vì ra rễ mới), ít dính đất.
Thường thì ngày nhổ mạ được ấn định trước ngày cấy hai ngày vì mạ sau khi nhổ hai đêm sẽ nhú rễ non, lúc cấy sẽ nhanh tốt. Mặt khác, sau hai đêm tép mạ có vẻ như cứng hơn và hơi xù ra nên cấy ít hao mạ. Người ta thường gọi là cấy ra mạ. Trường hợp gấp cấy thì một đêm cấy cũng được và kẹt quá để ba đêm cấy cũng không sao nhưng lâu hơn nữa cây mạ sẽ bị yếu. Những tép mạ ở giữa bị đỏ và chết dần. Công việc nhổ mạ đòi hỏi phải có kỹ năng, không phải tự nhiên mà làm được. Bắt đầu từ tay trái, rẽ một vòng vừa nắm, ốp tay phải vào cùng giật về phía người, hơi chếch về bên phải. Nếu cọng mạ có nhiều lá phía dưới bị khô, rủ xuống - gọi là lá ủ, thì lần rẻ đầu tiên là vuốt bỏ lá ủ. Sau đó đưa lên chân đá cho đất văng ra khỏi rễ mạ (còn gọi là đập). Có hai cách đá: chỗ phía dưới ống quyển (nếu đá một chỗ thấy đau thì lần sau nhích lên hoặc nhích xuống) và dưới bàn chân. Sau khi đá cho đất văng ra, sục nắm mạ xuống nước 2-3 lần cho rễ mạ sạch đất thêm (nếu đám mạ không có nước sẽ rất khó nhổ). Cách đá bằng bàn chân ít xài hơn vì dễ làm mất thăng bằng cho người nhổ. Hơn nữa, khi đá bàn mà vuột, không trúng bàn, nguyên nắm đất đập vào “bộ hạ” đau thấy ông bà ông vải! Người có nắm tay lớn thì ba nắm tay gom thành một mớ. Người có nắm tay nhỏ thì bốn nắm, đưa lên ghế (bàn), tay túm chùm rễ xòe mớ mạ ra lắc lắc cho lá ủ và những lá bị đứt văng ra, tay trái vuốt mớ mạ cho thẳng. Sau đó túm ngọn dựng lên mặt ghế dọng cho bằng gốc với nhau rồi để nằm trên ghế (so mạ). Phần lá phải dư ra tương đối nhiều để sau cột cho dễ. Khi được ba mớ như vậy thì dùng ba cọng tranh (tranh lợp nhà) đã phơi héo để cột. Tay phải cầm phần ngọn tranh quấn một vòng từ ngoài vào trong trùm lên phần gốc. Xong ngoai với một ít lá mạ rồi nhét dưới vòng dây đã quấn. Sau đó dùng hai tay nắm lấy đầu cọng tranh, chân trái đưa lên kê ngay cọng tranh để chịu lực rồi kéo mạnh. Dây tranh siết chặt vang lên tiếng kêu rựt rựt, thấy cứng thì thôi, dựng bó mạ lên ghế, hai tay sửa cho lá mạ ở phần đầu bung ra, giúp cho bó mạ được chắc hơn rồi túm giữa bó mạ quăng xuống nước phía trước ghế. Cột tới đâu quăng tới đó, tạo thành một hàng bó mạ trông rất đẹp.
Nói thêm về cái ghế nhổ mạ, có nơi gọi là cái bàn nhổ mạ cũng hổng sai (là miếng ván bằng phẳng có một chưn cắm xuống đất). Ghế có bốn chưn với chiều cao sao cho khi để dưới ruộng, trừ độ lún ra, mặt ghế cao ngang rún người nhổ là vừa. Mặt ghế hình chữ nhựt, ngang 4-5 tấc, dài một thước rưỡi, thường được đóng bằng những thanh tre, tạo kẽ hở để khi so mạ, nước từ rễ mạ dễ dàng chảy xuống. Nếu đóng bằng ván thì cũng chẻ ra thành từng thanh cho có kẽ hở. Hồi xưa, ghế nhổ mạ rất quan trọng đối với người nông dân nghèo đi khai mở đất hay những gia đình tá điền thiếu trước hụt sau. Lúc họ còn sống, ghế là công cụ lao động, là người bạn dãi dầu mưa nắng ngoài đồng. Khi họ chết đi ghế nhổ mạ được người thân đưa vào giữa nhà, quay ngang, để lên một bát hương làm bàn thờ cho họ. Về sau này, có người trải thêm tấm cao su bông trên mặt ghế cho trang trọng và khi không có tiền để mua lư hương người ta có thể thay bằng bất cứ thứ gì có thể cắm nhang được!
Nếu cấy với mật độ 8 cây (bụi) một tầm (3m) thì một công khoảng 11-12 bó. Nếu cấy 10 cây thì 14-15 bó được một công. Trong các thao tác của việc nhổ mạ đòi hỏi vừa phải có kỹ thuật vừa phải có sức khỏe nên thường là do đàn ông đảm nhiệm. Người nhổ giỏi có thể nhổ một ngày cấy 5 công tầm 8 cây hoặc 3,5 công tầm 10 cây, trung bình là 2 công một ngày. Có lần tôi nghe kể, ông Hai Sửu, xứ Cù Là, nhổ một ngày cấy được 5 công đất. Tôi hổng tin, ráng đi tìm gặp ổng, gặng hỏi hoài “chú có bí quyết gì hông?”. Cuối cùng ổng khai thiệt: “Sau khi lãnh nhổ cho ai, chiều tối trước ngày nhổ, tao lấy một thùng vôi bột, quậy nước rồi tạt đều trên đám mạ, cây lúa gặp vôi nóng, buông rễ nên rất dễ nhổ, nhờ vậy mới nhổ được 5 công chớ mậy!”. Thông thường việc nhổ mạ do đàn ông làm nhưng thỉnh thoảng chỗ này, chỗ kia cũng có nghe phụ nữ nhổ mạ và làm cũng rất giỏi! Người nhổ mạ ngán nhất là mấy con bù mắt, chúng nhỏ xíu nhưng cắn khá đau, ngứa và vết cắn có thể sưng bằng đầu ngón tay. Sáng sớm thường trời đứng gió, ai đi làm ruộng cũng có một đám bù mắt bu theo trên đầu. Ai làm công việc gì có nước văng lên mình nhiều thì chúng đáp xuống cắn nhiều. Tội mấy người nhổ mạ, tay chân lúc nào cũng dính đất. Mỗi lần đập bù mắt chỗ nào là chỗ đó dính sình, mà mùi sình cộng với hơi người làm cho bù mắt bu lại nhiều hơn. Hồi nhỏ, có lần theo ngoại ra ruộng, tôi thấy ông Mười Sợi vừa bỏ ghế nhổ mạ từ trên vai xuống là lấy một cây nhang đốt rồi gắn trên cái nón và đội lên đầu. Tôi hỏi ông làm gì vậy? Ông Mười nói, cho bù mắt nó đừng cắn tao. Đó là cũng một sự sáng tạo của nhà nông! Bó mạ ngâm dưới nước một đêm chủ ruộng vớt để trên bờ thêm một đêm cho nhỏ nước, gánh đi dăm công (rải mạ) cho nhẹ. Hồi trước việc dăm công thường dùng đòn xóc (một đoạn cây từ hai thước đến hai thước rưỡi, vót nhọn 2 đầu, phổ biến nhất là làm bằng cây nhum, có gân như cây cau, màu đen mun). Người khỏe gánh mỗi lần 4 bó, bình thường gánh 2 bó. Những thửa ruộng lớn, người ta dăm công bằng những chiếc xuồng nhỏ đưa lên ruộng kéo. Nếu nước ruộng sâu thì có thể xỏ dây dài, kéo 1 lần 5-7, thậm chí 10 bó. Kéo đến vị trí dự kiến thì rút dây, kéo ra một chỗ 2 bó. Ngày nay có thể chế lại kéo bằng tấm cao su (tấm bạt nhựa) sẽ nhanh và nhẹ hơn nhiều. Đối với chủ ruộng, việc đo công cấy cũng có nhiều chuyện để nói, đôi khi dễ dẫn đến hiểu lầm, giận hờn nhau. Một công cấy chuẩn mỗi chiều 12 tầm vuông (mỗi tầm 3m) tổng cộng bằng 144 tầm. Nhưng đâu phải miếng đất
đời sống lúa mùa quê tôi 63
nào cũng lý tưởng cho việc đo công, nên có quy ước chung là tính sao không vượt 144 tầm là được. Ví dụ một công đất hình chữ nhật có chiều ngang 7 tầm thì chiều dài 20 tầm (140 là được); chiều ngang 8, chiều dài 18 (bằng 144 là chuẩn); chiều ngang 9 thì chiều dài 16 (144 là chuẩn); nếu chiều ngang 10 thì chiều dài 14… Nếu hình thù thửa đất không rõ ràng, có lúc chủ đất phải nhờ người có ăn học tính toán dùm. Có những chủ ruộng ma lanh, khi đo thì đủ số tầm nhưng trong quá trình đo, lúc dựng cây tầm thẳng lên rồi cho ngã xuống thì đẩy cây tầm chạy tới thêm 2-3 tấc. Thành ra một công bằng một công mốt. Những người cấy giỏi biết, nhưng có người đòi đo lại, có người để bụng rồi cho qua.
Cấy lúa
Việc cấy lúa thường do phụ nữ đảm trách, đôi khi đàn ông cũng cấy, mà ông nào đã làm thợ cấy thì ít khi thua phụ nữ. Với mật độ cấy một tầm 10 cây thì bình quân một người cấy một ngày khoảng nửa công đất. Người giỏi khoảng ba phần tư, chưa thấy ai cấy rồi công một ngày, với mật độ 8 cây thì có khá nhiều người cấy một công một ngày. Ngày xưa cấy lúa thường dùng nọc vì đất phát không cày, còn cày trâu thì nhiều khi bị lõi, không có nọc không nhét mạ xuống được.
Nọc cấy
Nọc cấy là dụng cụ sản xuất có nguồn gốc chính thức từ đồng bào dân tộc Khmer. Ruộng nước sâu thì dùng nọc dài, nước cạn thì dùng nọc ngắn. Nọc cấy là một đoạn gỗ, phần giữa tròn to và thon dần cho đến mũi để xom vào đất dễ dàng. Phần đầu hơi ngắn nhưng lớn cỡ phần bụng và bằng (có người nói dùng để so lại những tép mạ khi nhổ chưa so kỹ nhưng tôi chưa từng thấy. Cái tôi thấy là ở những miếng ruộng đỉa nhiều mấy bà đi cấy để sẵn cục vôi trên đầu nọc. Khi cảm giác cái chưn hơi nặng, giở lên thấy con đỉa, lấy tay khều nó hổng chịu buông liền quẹt một miếng vô cục vôi rồi trét ngay đầu nó, nó sẽ rớt cái tủm và lâu lắm nó mới dám quay trở lại. Đúng là đỉa phải vôi!). Phía dưới đầu nọc khoảng 5-6 phân là phần eo được đục lỗ để tra cán, bình thường cán nọc là một thanh gỗ ngang 2-2,5 phân, dày 1-1,5 phân, dài khoảng 2 tấc. Cán nọc vừa để cầm xom lỗ vào đất vừa kẹp nắm mạ vào. Khá nhiều nọc cấy của đồng bào dân tộc có cán được làm dài ra và uốn cong lên trong rất ngộ nghĩnh. Đó vừa là tâm lý, vừa là năng khiếu mỹ thuật của người nông dân-thợ Khmer.
Cấy lúa
Một thửa đất lớn 15-20 công cần rất nhiều người cấy. Nên có hai việc mà người cấy thường làm, đó là đi cấy bắt công và cấy chạy ranh. Người kỹ tính thường đến ruộng xem trước, chọn công nào có vị trí ưng ý (có thể là gần bờ, ngay góc hoặc là công đó có hình dáng đơn giản ít bị đo dư…). Rồi lấy một hoặc hai tay mạ cấy trước vài chục bụi để xí chỗ trước. Người bắt công trước như vậy đa phần là do đi làm về ngang hoặc ở gần nhà chứ nếu ở xa thì ít ai muốn tốn nhiều công vì việc đó. Việc cấy chạy ranh thì đơn giản hơn. Do chủ ruộng chỉ cắm cây làm dấu ở bốn góc cho một công đất thôi, trong khi cấy là phải đi lui nên không thể lúc nào cũng quan sát đầu công được nên người cấy dùng 1-2 tay mạ, nhắm từ đầu công này đến đầu công kia đi tới, khoảng 3-4m thì cấy xuống một bụi để làm ranh. Nếu chủ quan không cấy chạy ranh, lỡ cấy lấn vào công của người khác thì khó mà đi nhổ lên từng bụi, công việc lại lâu rồi hơn.
Trước khi cấy, nếu thấy nước cạn mà mạ tốt, dài thì người cấy nhờ chủ ruộng kéo bó mạ nằm xuống, dùng phảng chặt bỏ phần ngọn. Mạ ngắn lại sẽ dễ cấy hơn, vị trí chặt ngay phía trên cọng tranh bó mạ, sau đó cắt cọng tranh buộc cho bó mạ bung ra. Ôm một mớ tương đương một phần năm hay một phần sáu bó mạ, đặt nằm ngang trên khuỷu tay trái. Rồi dùng tay phải bắt từng nắm vừa tay với cây nọc rồi rải dài theo hướng sẽ cấy tới. Khoảng cách giữa các nắm bằng với số bụi được chia ra của một tay mạ.
Để cấy một bụi lúa, tay phải cầm nắm mạ kẹp vào cán nọc cấy, khi cả cánh tay giơ lên xom xuống đất thì ngón cái của tay phải lừa mạ đẩy ra một lọn mạ (thường khoảng 3-4 tép). Tay trái tiếp nhận (nếu thấy gốc các tép mạ không bằng nhau thì dọng nhẹ lên đầu nọc cấy để so lại) và đưa lọn mạ đó xuống lỗ nọc cấy vừa xom, nếu lỗ quá nhỏ không nhét vào được thì ngón cái của tay trái có nhiệm vụ ấn mạnh phần gốc mạ vào đất. Nếu lỗ xom ngay dấu chân hoặc đất quá cứng ấn không được nữa thì cả bàn tay trái quơ vội một ít bùn xung quanh để lấp vào gốc mạ. Và tiếp tục cấy một bụi khác y như vậy. Thông thường một lối cấy là 5 bụi (đối với mật độ 10 cây 1 tầm và 4 bụi với mật độ 8 cây 1 tầm), vừa tầm với của tay và cấy từ bên trái qua bên phải, khi đủ 5 cây thì đi lùi, bắt đầu cấy một hàng mới. Cấy hết tay mạ trên nọc thì sử dụng tiếp tay mạ khác đã rải trước đó.
Trong một số trường hợp, trong đám mạ có chỗ bị sập (do mạ tốt quá hay bị nước lên xuống đột ngột) khi đến ngày cấy dưới gốc mạ có lóng (rễ lúa mọc ra từ đốt thân trên gốc chính) khi cấy phải bẻ gốc lên, cho lớp rễ mắt trên nằm trong đất thì cây lúa mới nở bụi được (kiểu như làm lại từ đầu vậy). Gặp trường hợp này thường là chủ ruộng tự cấy chớ rất khó kêu người cấy vì không thể cấy nhanh được. Do vậy việc chăm sóc mạ là rất quan trọng, hổng được để mạ xấu mà cũng hổng cho tốt quá!
Trong quá trình cấy, người chủ ruộng phải lo toan nhiều việc, nào là mạ dăm cho từng công như vậy đủ chưa (người bắt lọn to có thể thiếu, người bắt lọn nhỏ có thể dư). Chặt giúp đầu mạ, nếu gặp ruộng nước sâu từng bó mạ có thể trôi khi gió mạnh… Nhưng có hai điều quan trọng mà chủ ruộng không thể không làm. Đó là kiểm tra từng công cấy xem có đủ số bụi cho một tầm theo giao kèo và người cấy có nhét bụi lúa cạn quá hay sâu xuống đất quá hay không. Để kiểm tra mật độ cấy, dùng cây tầm đặt theo hàng ngang đếm số cây rồi đặt theo hàng dọc, bởi vì có người cấy đủ theo chiều ngang mà thiếu theo chiều dọc và ngược lại.
Cấy dăm
Cấy thưa thì mất bụi dẫn đến mất bông trên một đơn vị diện tích, cấy dày lúa chưa nở hết cỡ đã giáp tán dẫn đến nhiều lá ủ, cây lúa dễ bị bệnh. Nếu cấy cạn cây lúa nở bụi tốt hơn nhưng sẽ bị nổi nhiều, còn cấy sâu quá thì không sợ bị nổi nhưng cây lúa nở bụi ít và chậm. Sau khi ruộng đã cấy xong từ 2-3 ngày, chủ ruộng kiểm tra toàn bộ thửa ruộng để cấy lại những bụi lúa bị nổi. Những bụi nổi mà còn dính tại chỗ có thể dùng để cấy lại, nếu không còn thì phải dùng mạ dự phòng chừa trong đám mạ để cấy dặm.
Những ngày cấy lúa ruộng là những ngày bận rộn nhất của cả gia đình. Ngoài những công việc đồng áng kể trên thì công việc hậu cần cũng chẳng nhẹ nhàng gì. Lúc cày hay nhổ mạ, người làm ít nên việc nấu cơm cũng nhẹ nhưng lúc cấy thì mệt lắm. Nếu cấy năm công thì mười người, cấy mười công thì hai chục người. Làm ruộng vần công như hồi xưa thì chủ ruộng phải lo cơm nước là chuyện đương nhiên. Buổi sáng thường được cho ăn xôi (cơm nếp) vì gọn, nấu nhanh, nạo một, hai trái dừa khô, rang đậu phộng đâm nhỏ trộn với đường là xong. Buổi trưa, nhiều chủ ruộng cho ăn mắm chưng (mắm cá lóc hoặc cá trê; nếu là cá sặc hoặc cá rô thì chiên cho ít bị xương). Canh là canh bí rợ (bí đỏ) kèn dừa (bí rợ xắt miếng hơi lớn, khoai lang hoặc khoai mì cũng xắt như vậy, nấu cho mềm rồi cho nước cốt dừa vào, nêm ít muối, ít đường) với vị vừa mặn, vừa ngọt, vừa béo. Nồi cơm, chén đũa, tô mắm… nói chung là đồ khô được cho vào thúng để đội lên đầu, còn đồ có nước thì để trong nồi, cho vào giỏ xách mang theo. Những người hồi trẻ từng mang cơm đi ruộng không thể nào quên hình ảnh một tay vịn thúng trên đầu, một tay cầm giỏ xách tòn ten. Nghe ai kêu cũng giả đò không nghe vì mỗi lần quay đầu là rất khó khăn, có người sơ ý vấp bờ mẫu hay lỗ chân trâu, cơm canh nước mắm văng tứ tung… Xem như cả ngày ê mặt vì bị chửi.
Nhân nói chuyện cấy, nói thêm về cấy dăm, cấy đôn và cấy đêm.
Cấy dăm hay cấy lần hai là giống nhau. Khi lúa cấy xong khoảng hơn tháng rưỡi, do lúc đầu thiếu mạ, cấy không giáp đất hoặc đất mới khai phá thêm không chuẩn bị được mạ, người ta bứng bụi lúa lên xé ra cấy lại. Một bụi sẽ ra thành 4-5 bụi hay có thể hơn tùy lúa tốt xấu. Dụng cụ để bứng dặm là cây dao bén, cán hơi dài và vừa tầm tay để năng suất làm việc cao hơn mà ít bị phồng tay. Phần lưỡi dao cũng dài hơn dao yếm bình thường, phần thân dao hơi thon, phần mũi nhọn và bén. Khi bứng, tay trái nắm đọt lúa kéo về bên trái, tay phài cầm dao thẳng đứng, xắn xuống sát góc lúa phía phải và ngược lại khi kéo về bên phải thì xắn phía bên trái, sao cho hai mũi dao này tạo thành hình chữ V. Sau đó kéo bụi lúa về phía trong, xắn mũi dao thứ ba phía ngoài tạo thành đường cắt hình tam giác. Kế tiếp là tay trái nhổ bụi lúa lên, lần tay xuống gốc và đưa bụi lúa nằm ngang. Tay phải dùng dao chặt ngang đoạn cuối của gốc bụi lúa, việc làm này sẽ giúp cho người cấy dễ xé và chia nhỏ bụi lúa ra để cấy lại. Đoạn cuối bị chặt này cũng chính là một lóng đầu tiên của cây lúa, chặt bỏ nó giống như làm cho cây lúa trẻ lại. Vì lúa cấy dăm không còn thời gian nở bụi dài như cấy lần đầu nên mật độ cấy sẽ tăng lên, nếu lần đầu cấy 9-10 cây một tầm thì cấy dăm sẽ là 11-12 cây.
Cấy đôn cũng tương tự như cấy dăm nhưng không tăng thêm về diện tích. Vì vậy ở lần cấy đầu tiên người ta chỉ cấy 6-7 cây một tầm, sau đó khoảng hơn tháng rưỡi, bứng lên hết cấy lại toàn bộ trên cùng một diện tích, tất nhiên phải cấy dày hơn, giống như cấy dặm thì mới hết mạ. Nhiều nông dân đã nói rằng, lúa cấy đôn ít lá ủ, bông lớn, nhiều hột chắc, năng suất có khá hơn. Nhưng do tốn nhiều công nên số người áp dụng không nhiều, chủ yếu là những người ruộng ít.
Còn cái chuyện cấy đêm nghe qua thì đúng là chuyện thật như đùa. Thoạt đầu tôi cũng không tin nhưng người kể là mẹ tôi, là những ông, bà lão đã tám mươi tuổi kể thì không thể không tin. Ở đời không ai muốn tự làm khó cho mình, chỉ có hoàn cảnh bắt buộc đưa người ta vào thế khó. Chính từ thế khó đó con người lại cố gắng vươn lên để vượt qua. Thời kỳ chín năm kháng pháp, để làm suy yếu lực lượng Việt Minh, Pháp dùng chiến thuật phá hoại sản xuất. Hầu hết các hoạt động sản xuất, giao thông ở vùng giải phóng đều diễn ra vào ban đêm. Có những việc quá cần thiết phải đốt đèn thì mới đốt đèn, khi nghe tiếng máy bay đến là phải tắt. Nhưng việc cấy lúa giữa đồng thì không thể đốt đèn được, không thể vừa cầm đèn vừa cấy lúa được. Khâu nhổ mạ thì có thể làm ban ngày vì số người ra đồng ít, nhưng số người cấy thì gấp 6-7 lần nên chỉ có làm ban đêm. Khoảng chín, mười giờ tối, các thợ cấy tập trung lại nhà chủ ruộng ăn cơm. Ăn xong mỗi người vắt theo một gói xôi rồi xuống xuồng chèo đến ruộng để cấy, khi trời hừng đông là về để kịp tới nhà trước khi trời sáng. Những đêm có trăng thì thuận lợi hơn một chút, không có trăng thì cũng vẫn cấy bình thường chứ không chờ đợi được.
Người thợ cấy đêm áp dụng phối hợp nhiều kinh nghiệm cùng một lúc. Trước hết là việc rải mạ sao cho tương đối chính xác, hết nắm mạ trên tay là bốc được nắm mạ tiếp theo. Lúc cấy, một lối cấy 5 cây được chia đều trong tầm tay với từ trái qua phải, khi cấy đủ 5 cây thì lùi một bước để cấy lại 5 cây khác, các bước lùi phải đều nhau. Bên cạnh đó, trong đêm tối mặt nước luôn dạ lên (phản chiếu) một thứ ánh sáng lờ mờ từ trên trời cũng rất hữu ích cho thợ cấy điều chỉnh khoảng cách cây và khoảng cách hàng. Cứ như vậy cấy cho đến khi rồi công thì về. Hòa bình rồi kêu đi cấy đêm trả công bằng vàng chắc hổng ai đi nên cấy đêm đã trở thành chuyện cổ tích!
Cắm câu
Những con cá sau khi lên tới ruộng, việc làm đầu tiên của chúng là tìm nơi thích hợp đẻ trứng (hầu hết các loại cá đồng đều đẻ trứng) để duy trì nòi giống, sau khi nở cá con phát triển rất nhanh. Ngoài các loài rong tảo, phiêu sinh vật, trùn đất… các loại côn trùng phá hại trên lúa đều trở thành thức ăn của cá. Do vậy có thể nói cá là loại thiên địch rất hiệu quả, vừa bảo vệ cây trồng vừa giữ cân bằng sinh thái. Từ khi cá sinh ra đến hai tháng trở về sau là có thể bắt lên làm thực phẩm trong bữa ăn hàng ngày.
Cần câu cắm
Có nhiều hình thức và nhiều loại dụng cụ để bắt cá trên đồng như câu, lưới, đặt lờ, đặt lọp, xà di… Trong phạm vi quyển sách này, tôi chỉ xin nói về loại hình câu cá bằng cần câu tay và cần câu cắm.
Cần câu tay làm bằng cây trúc nhỏ, già, dài chừng 3 thước trở lại, gốc to bằng ngón chân cái trẻ em, nhợ câu thường dùng dây gân dài từ một thước đến một thước rưỡi. Nhợ và lưỡi câu biến động theo đối tượng câu. Nếu câu cá rô thì dùng dây gân nhỏ, lưỡi vuông (lưỡi đúc) hay lưỡi móng heo. Khi cá còn nhỏ thì dùng lưỡi nhỏ, cá lớn thì đổi lưỡi lớn. Câu cá trê thì dây gân lớn hơn một chút, dùng lưỡi tròn (lưỡi ó). Mồi câu cũng thay đổi theo đối tượng. Đi câu cá rô rất dễ kiếm mồi, nào là cào cào, châu chấu, trùn, tép trấu, gián, dế…, thậm chí mắm sống xé nhỏ làm mồi nó cũng ăn. Nhưng câu cá trê thì mồi phải ngon hơn như trứng kiến vàng, dế nhũi, tệ lắm cũng là trùn quắn.
Câu tay thường chỉ đủ ăn chứ ít khi có bán nhưng quan trọng hơn là cái cảm giác thích thú, thoải mái của người câu. Có khi mê câu đến quên cả đói bụng, nhất là khi đi câu hai ba người, mỗi người chọn một vị trí thích hợp cho riêng mình. Người này giựt là người kia thấy nôn nao, cá ơi sao không ăn của tao! Mỗi lần thấy nhợ câu động đậy, chạy qua chạy lại dưới nước là bụng hồi hộp, mắt nhìn không chớp, khi nhợ câu thẳng băng là giựt lên liền. Nếu có con cá treo tòn ten thì mừng ra mặt, nếu giựt lên nhẹ re thì nhíu mày tiếc rẻ! Lát sau thế nào những bạn câu cũng xách giỏ lại gần rồi so với nhau, của tao nhiều hơn của mày, con này lớn hơn con kia…
Hồi nhỏ tôi cũng bắt chước người ta đi thọc ổ kiến vàng lấy trứng và kiến non làm mồi câu. Phải nói đây là đệ nhứt mồi của cần câu tay! Cá rô thấy là ăn liền, nếu cá ăn rồi giựt lên rớt xuống, miệng còn đau nhưng nếu thấy trứng kiến là ăn nữa, bạn có tin không? Cá trê cũng mê mồi này hạng nhứt luôn. Người câu giỏi có thể nhìn màu nước, nhìn cách cá ục (đánh móng) là biết chỗ đó có cá trê hay không. Nếu có, khi câu bằng trứng kiến vàng thì chắc ăn là sẽ có cá trê mang về. Nhưng phải chú ý, khi đi câu cá trê thì nên mang vợt theo, phòng trường hợp lưỡi không móc vào mép mà móc vào râu, khi giở lên cá lại rớt tủm xuống nước rồi đứng tiếc ngẩn ngơ! Bây giờ lớn lên nghĩ lại mới thấy mình sai quá trời, bởi kiến vàng là thiên địch của các loài sâu bọ phá hoại cây ăn trái. Bắt lấy trứng và kiến con sẽ làm giảm nhanh kiến trưởng thành và từ từ sẽ mất luôn kiến vàng trong vườn nhà, mất cân bằng hệ sinh thái, trái cây không ngọt mà sâu hại càng nhiều!
Cần câu nhấp là biến thể của cần câu tay chuyên dùng để câu cá lóc, thỉnh thoảng đem câu ếch cũng tốt. Câu nhấp cũng làm bằng cây trúc già, đọt không bị cụt để đảm bảo độ dẻo, dài bốn đến năm thước. Phía đáy cần thường gắn nạng để khi câu tựa vào đùi cho đỡ mỏi tay. Nhợ bằng dây gân lớn dài bằng hoặc hơn chiều dài cần câu. Lưỡi cũng dạng móng heo nhưng lớn hơn lưỡi câu thường nhiều lần.
Mồi câu nhấp thường là nhái hoặc con thằn lằn. Sau khi móc mồi vào lưỡi người ta dùng một đoạn ngắn bông cỏ mần trầu (bông cỏ khác nếu rỗng ruột cũng xài được), một đầu gắn vào lưỡi, một đầu nhét vào khe nhỏ phía trên lưỡi (chỗ tóm nhợ câu). Làm vậy để khi kéo rê mồi dưới nước hoặc nhấp mồi trong đám cỏ hay đám lục bình lưỡi câu không móc vào những vật cản đó.
Đối với loại cần có nhợ câu ngắn hơn, dùng cần quăng mồi ra xa theo hướng đã định trước rồi kéo rê mồi trở lại, giống như con mồi sống đang chạy trên mặt nước để đánh lừa mấy chú cá lóc phía dưới. Đối với loại nhợ câu dài hơn cần, người ta dùng tay quay quay cục mồi rồi quăng xa theo hướng mong muốn rồi dùng cần kéo lại từ từ giống như loại trên (ngày nay người ta chế ra cần câu máy có tay quay trên cần chớ ít khi dùng cần để rê nên còn gọi là câu rê). Khi nghe tiếng cá lóc táp bụp một cái không được giựt ngay mà phải hạ thấp cần một chút cho lỏng dây câu rồi mới giựt lên, chắc chắn là dính. Mấy người câu cá giải trí hoặc mới biết câu, nếu dính con cá cỡ chừng tám chín trăm gram trở lên là mừng lắm. Có khi chạy ngay về nhà khoe chứ không thèm câu nữa.
Nếu là câu ếch thì lựa ao có nhiều lục bình, nếu trên ruộng thì nơi lúa hơi cao một chút. Lúc này cần câu có nhợ ngắn hơn cần sẽ có nhiều lợi thế hơn vì cục mồi không rê mà nhấp là chính. Ếch ăn mồi không ồn ào như cá, có khi nghe tiếng sột soạt, có khi nhấp thấy hơi nặng nặng mà không nghe thấy gì thì cũng cứ giựt lên thử. Thấy con ếch treo tòn ten trên không trung, hai chân chòi chòi, trong lòng cũng vui đáo để.
Cần câu cắm được vót bằng tre gai già (làm bằng tre non rất mau hư), lóng tre đều, không nhặt mắt. Tre sau khi đốn, cưa từng khúc, mỗi khúc một mét hai, chỗ gần ngọn vừa nhỏ vừa cong không lấy. Dùng dao tầm bứt chẻ ra mỗi thanh dày từ một phân đến một phân hai, mỏng quá cần câu sẽ yếu (mỏng mảnh), dày quá vót lâu, rồi sau đó dùng dao mác vót để vót. Đầu có mắt dùng làm ngọn tạo ngấn buộc nhợ câu để khi cá kéo mạnh không bị tuột. Từ ngọn xuống khoảng hai tấc vót phần ruột nhiều sao cho uốn được thành một nửa hình cánh cung. Phần thân cần vót tròn và láng, cuối cần vót hơi nhọn để dễ cắm vào đất. Nhợ câu cắm dài từ bốn đến năm tấc, dùng dây gân hay dây nylon đều được. Nếu xác định đối tượng chính là cá rô thì dùng lưỡi móng heo, lưỡi ó dùng cho cá trê và lưỡi đúc (vuông) dùng cho cá lóc. Mấy đứa bạn hồi nhỏ của tôi thích dùng lưỡi ó Hòa Long (Hòa Long là một địa danh ở tỉnh Đồng Tháp). Trước hết, tóm lưỡi vào nhợ câu sau đó buộc vào đầu cần câu. Cuối cùng kéo lưỡi câu gắn vào móc giữa cần (móc này có thể làm bằng dây chì hoặc dây gân). Những người bạn câu thuở nhỏ của tôi thường hay nói với nhau: tóm lưỡi câu phải làm vào lúc đói bụng, mới ăn cơm no mà tóm thì đi câu cá hổng ăn!
Cắm câu ban ngày chủ yếu dùng mồi trùn (trùn cơm màu trắng hồng, trùn hổ màu đen lớn con, trùn huyết màu huyết bầm thân mềm hơn trùn hổ). Thời điểm cắm được khi trên đồng đang vào lúc dọn đất chuẩn bị cấy trở đi. Lúc này những con cá rô đẻ đầu mùa đã lớn từ hai ngón tay trở lên, cá trê, cá lóc cũng đã hơn ngón giò (chưn) cái. Càng về sau sẽ cắm được cá càng lớn. Cắm câu mồi trùn thường cắm giữa ruộng, mỗi cần cách nhau khoảng 5-6 thước (cắm thưa hơn thì đi nhiều ruộng hơn và cơ hội cũng lớn hơn). Đi hết ruộng này băng qua ruộng khác, khi nào hết cần câu thì thôi (lúa mới cấy không được vào vì sẽ làm nổi lúa người ta. Lúa cấy chừng hai tháng trở lên rất dễ che khuất không tìm thấy cần đã cắm, với lại cũng dễ bị chủ ruộng la). Trẻ con thường cắm bốn năm chục cần trở lại. Lớn hơn thì cắm nhiều hơn, có khi trên cả trăm. Mồi câu móc sẵn trước rồi đi cắm (nếu nhiều cần) hoặc vừa cắm vừa móc (nếu ít cần) cũng được. Mồi phải móc cho đầy lưỡi và vun lên. Có người dùng mỗi con trùn là một lưỡi, chừa một chút đuôi ngúc ngắc để dụ cá trê đến mút. Muốn cắm được cá trê thì cục mồi phải nằm sát đất vì loài cá này có thói quen thích ăn tầng đáy.
Sau khi cắm chừng nửa tiếng đồng hồ trở lên là đi thăm. Thăm chừng chục cần, cần nào cũng hết mồi mà không có con cá nào là vừa buồn vừa hồi hộp. Có nhiều thứ ăn mồi mà không bao giờ dính câu, nào là cua, tép, điên điển... Mấy con cá rô nhỏ cũng mê mồi nhưng chúng chỉ rỉa thôi nên không bị dính lưỡi. Nếu thấy nhợ câu kéo cần ngoặt qua ngoặt lại, có khi con cá trồi lên mặt nước thì đó là con cá rô. Nhợ câu chạy vòng quanh dưới đầu cần là con cá chạch. Còn cần câu bị rịt mọp lên mọp xuống ướt nước thì chắc chắn là cá trê. Cắm câu bằng mồi trùn cũng có cá lóc nhưng chỉ thỉnh thoảng thôi.
Cắm câu ban đêm chủ yếu dùng mồi nhái (là những con bồ tọt, ếch, ễnh ương ở giai đoạn còn nhỏ) để câu cá lóc và chỉ cắm theo bờ ruộng, bờ mương. Để có mồi cắm, buổi tối hôm trước dùng lồng đèn đi bắt theo mé các mương cạn. Mương nào có cỏ thúi thì nhái càng nhiều. Lấy tay chụp từng con bỏ vào giỏ chuyên dùng (gọi là giỏ nhái, đan bằng nan tre để thông hơi, không làm nhái chết ngộp, phần trên miệng là ống vải có vòng tròn bằng kẽm làm miệng để dễ cột lại cũng như dễ thò tay vào). Càng về khuya, nhái càng dễ bắt. Nếu cắm 100 cần thì bắt khoảng 150 con trở lên. Mà cắm đêm thường từ 100 cần trở lên, dưới 100 chỉ là đi chơi cho vui thôi. Những người cắm câu đêm chuyên nghiệp, buổi sáng đi chợ bán cá là mua nhái sẵn ngoài chợ để chiều tối đi cắm.
Nếu cắm đồng xa, khoảng một, hai giờ chiều người câu phải giở cơm, mang theo nào câu, vợt, rộng đựng cá, giỏ nhái, đèn lồng, mùng, chiếu, cây và cao su làm lều… Rủ nhau theo nhóm 2-3 người xuống xuồng bơi đi mới kịp. Khoảng ba giờ chiều (có khi sớm hơn) người cắm phải đi phóng câu, nghĩa là đánh dấu tuyến đường và vị trí từng điểm mà mình sẽ cắm. Tại mỗi vị trí thích hợp sẽ có một cần câu mở lưỡi ra khỏi móc, cặm thẳng đứng ven bờ ruộng để người khác nhìn thấy không cắm trùng tuyến của mình. Mỗi cần cách nhau ít nhất là 15-20 thước, nếu cắm cả hai bên bờ thì phải xen kẽ. Người cắm chuyên nghiệp thường thích cự ly xa để cùng một số cần nhưng cắm trên nhiều ruộng, xác suất gặp nơi cá nhiều sẽ cao hơn. Phóng câu xong thì cơm nước, nghỉ ngơi một lúc.
Năm giờ chiều, thợ câu quảy giỏ nhái lên vai, bắt đầu móc mồi và cắm cần câu xuống. Có ba cách móc mồi nhái. Cách truyền thống là móc ngang hông, để con nhái nằm thẳng trên mặt nước, nhợ câu chỉ dùn chút ít. Cách này dễ dính khi cá lóc táp mồi nhưng con mồi dễ bị chết, khi nhái đã chết thì không gây được sự chú ý của cá. Cách thứ hai là móc vào đùi, khi cắm xuống nhợ câu hơi dùn một chút và dọn cỏ (lá lúa) tạo một khoảng không để nhái có thể bơi trên mặt nước. Cách thứ ba là móc vào miệng nhái (từ dưới lên) thì nhợ không cần dùn, sao cho phân nửa mình nhái dưới nước và phân nửa phía trên. Như vậy khoảng không cũng không cần rộng, rút ngắn thời gian cắm hơn. Tại các góc ruộng, khi cắm phải để ngọn cần câu hướng theo tuyến cắm để đêm khuya dễ nhận ra. Thường cá lóc ăn mồi giấc 6-7 giờ tối nên sau khi móc mồi xong, thợ câu nghỉ ngơi một lát, khoảng 8 giờ là đi thăm. Lúc này trên người lỉnh kỉnh lắm, cổ đeo giỏ nhái, vai quảy rộng, tay trái cầm vợt, tay phải cầm lồng đèn. Cá lóc mới dính câu thường quậy dữ lắm, khi quấn dính cỏ hay bụi lúa rồi mới bớt quậy nhưng khi gỡ lưỡi câu ra là giãy nữa. Vì vậy khi dính cá lóc, trước khi gỡ lưỡi, người ta để ít nhất nửa mình cá vào miệng rộng hoặc miệng vợt rồi mới gỡ. Nó có giãy thì cũng văng vô rộng hoặc xuống vợt chứ không văng xuống ruộng để người câu khỏi phải tức! Gặp chỗ cá nhiều, cứ 2-3 cần lại dính một con thấy mà ham. Thỉnh thoảng cắm mồi nhái cũng dính cá rô, nhưng chỉ cá rô bự. Cá lên ruộng đẻ chứ hổng phải cá rô mới lớn đâu và cũng có khi dính mấy con rắn nước nữa. Người nhát gan ít khi cắm câu đêm vì hay gặp tình trạng đang thăm, móc mồi cho cần này thì ở phía trước nghe cá quậy đùng đùng tưởng đâu là dính cá bự lắm rồi. Khi xách đèn đi lại thì con nhái còn nguyên, mặt nước lặng như tờ nên cứ nghĩ là mình bị ma nhát! Cắm câu đêm chỉ thăm một lần, thăm rồi tìm chỗ ngủ đến khi trời hừng sáng là đi nhổ câu về. Cần nào hết mồi thì nhổ lên gắn lưỡi vào móc rồi xỏ vào khuỷu tay. Cần nào dính cá thì gỡ. Cần nào còn mồi thì gỡ nhái ra thả đi (một cuộc đời chỉ mang án tử một lần thôi chứ!). Xong xuôi rủ nhau xuống xuồng bơi về cho kịp buổi chợ sáng.
Vào cuối mùa nước nổi, mồi cần câu cắm còn biến tướng sang dạng dùng cua con để câu cá lóc lớn chừng nửa ký trở lên. Lúc này cần câu là những nhánh tre hay nhánh bình bát chặt thành khúc chừng một thước. Nhợ bằng dây gân lớn hơn và lưỡi câu đúc cũng lớn hơn. Người ta cắm ở những chỗ nước hơi sâu hoặc những đoạn bờ ruộng bị đứt, cá hay qua lại. Loại cần này cắm để luôn một chỗ chứ ít khi nhổ dời. Một người thường làm chừng hai ba chục cần trở lại. Khoảng 3-4 giờ chiều phải đi xúc cua non. Chọn những con bằng ngón tay cái trở lại móc vào lưỡi câu, treo vừa đủ ngập con cua trên mặt nước. Cá lóc lớn bơi ngang nhìn thấy cua non nhúc nhích sẽ ăn ngay.
Chăm sóc lúa mùa
Lúa cấy xong rồi là chủ ruộng khỏe lắm, cả tuần, mười bữa, thậm chí nửa tháng mới đi thăm ruộng một lần.
Hồi đó ít có ai xài phân bón, không có ai biết lúa bị sâu, lúa bị bệnh là gì. Thấy lúa bị cua cắn nổi từng tép thì bẻ trái bình bát sống bằm ra hoặc dùng trái bí rợ xắt miếng nhỏ rải chỗ cua cắn. Thấy lúa bị đỏ, lụi từng chòm bằng cái nhà, cái sân (ngày nay gọi là cháy rầy) thì lấy một trái dừa tươi, vạt miệng, cắm ba cây chéo tại ruộng rồi đặt lên, đốt ba cây nhang vái ông Tà, ông Thần nông giúp đỡ. Vài bữa sau thấy chòm lúa bị đỏ không lan rộng thêm, vài chồi
mới nhú lên mạnh khỏe thì nghĩ rằng: à, ông Tà, ông Thần nông đã phù hộ mình; chứ đâu ai biết rằng, khi rầy phát triển thì thiên địch của nó cũng phát triển nhanh. Đến một ngưỡng nhất định thì thiên địch khống chế được rầy
hoàn toàn. Đó chính là nguyên lý của biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) ngày nay.
Phân bón hóa học dùng cho cây lúa được du nhập vào Miền Nam từ đầu những năm 60. Nhưng việc sử dụng chỉ tăng lên cùng lúc với việc du nhập các giống lúa cao sản ngắn ngày cuối thập niên 60 như IR5 (Thần Nông 5), IR8 (Thần Nông 8). Tuy nhiên đối với lúa mùa, cho đến trước năm 1975 số người sử dụng phân bón hóa học cho lúa mùa không nhiều, chủ yếu là những người giàu
có, ruộng đất nhiều. Bình thường lúa mùa cho 12-15 giạ/ công (2-2,5 tấn/ha), lúa trúng lắm là được 18-20 giạ/công (khoảng 3,7-3,8 tấn /ha). Nếu có bón phân có thể được 25 giạ/công. Sau năm 1975, nhằm mục tiêu nâng cao năng
suất, mặt khác do Nhà nước thực hiện chính sách đổi vật tư nông nghiệp lấy lúa của nông dân (trao đổi hai chiều) nên việc sử dụng phân bón cho lúa mùa chính thức bắt đầu. Lúa mùa thường rất nhạy cảm với phân bón, có hơi phân là cây lúa xanh đen rất nhanh, mỗi vụ một công sử dụng 5kg là vừa. Nhưng bón loại phân gì cũng rất quan trọng. Nếu bón toàn phân đạm (phổ biến là phân urea), cây lúa sẽ phát triển nhiều thân lá, nhưng dễ bị bệnh. Hột gạo khi nấu ăn sẽ cứng cơm, ít hương vị đặc trưng của giống. Nếu bón NPK 16-16-8 (thường gọi là phân ba màu) thì lúa vừa trúng vừa giữ được chất lượng gạo (dù sao cũng không thể bằng lúa trồng tự nhiên).
Một năm chỉ có làm một vụ lúa mùa nhưng người nông dân xưa, khi hỏi thăm nhau, có hai lần trả lời rồi ruộng. Câu hỏi đầu tiên là anh (chị) khỏe không? Câu hỏi thứ hai thường là rồi ruộng chưa? Nếu lúa gặt rồi, đem về nhà phơi khô, ví bồ rồi thì nói rồi ruộng không ai thắc mắc. Đằng này mới vừa cấy xong ai hỏi cũng nói rồi ruộng rồi.
Cái lý của họ chính là từ khi cấy đến khi thu hoạch không có bận bịu gì. Ai có vườn tược thì lo cho vườn, ai không có thì thoải mái đi đây đó thăm bà con. Có đám tiệc ở nhà hay lối xóm chơi hai, ba ngày cũng chẳng sao. Gạo luôn có sẵn, nếu hết xúc lúa trong bồ đi xay. Cá ngoài đồng còn nhiều, câu hay lưới một lát là ăn hổng hết. Rau chỉ trồng rau thơm, còn lại rau đồng bước ra sau nhà là có. Thanh niên hay con nít cũng không biết đòi hỏi mua cái này, sắm cái kia. Có chăng là những thứ cần thiết cho việc đi học, đi đám tiệc mà thôi.
Quất cò
Thời gian chăm sóc lúa mùa cũng có thể coi là lúc đời sống lúa mùa quê tôi 81
nông nhàn. Bên cạnh những công việc ở nhà như chămsóc vườn tược, sửa sang nhà cửa hay đi thăm bà con, bạn bè chỗ này chỗ kia… cánh đàn ông bắt cá bằng nhiều hình thức để làm thức ăn. Có một hoạt động mà ý nghĩa của nó về chuyện thức ăn chỉ là phụ mà thỏa mãn một thú vui mới là chính, đó là đi quất cò.
Khi cây lúa mùa bước vào giai đoạn làm đòng, thân lúa bắt đầu vươn cao, những con cò ráng (toàn thân màu nâu sẫm), cò ma (cũng có màu nâu nhưng khi bay lên thì hai bên cánh màu trắng) hay núp dưới gốc các bụi lúa để bắt cá, tép… Khi có người đến gần chúng sẽ bay vụt lên. Lợi dụng đặc điểm này, những thanh niên nông thôn đã nghĩ ra cách bắt chúng mà hồi xưa hay gọi là đi quất cò.
Dụng cụ để quất cò chỉ có một cây trúc dài 6-7 thước và phải đi thành đoàn ít nhất cũng 7-8 người trở lên. Trên một cánh đồng, lựa những thửa ruộng có lúa đã vượt cao, đoàn người chia nhau bao vòng quanh rồi đi từ từ thu hẹp
vòng bao lại. Lúc này cây trúc trên tay mỗi người để nằm ngang trên mặt ruộng, khi có con cò nào giựt mình bay lên ngay vị trí người nào thì người đó quất, xem như là phần của người đó. Thông thường khoảng 60-70% là quất trúng và bắt được cò. Quất trúng thì vui, quất hụt thì tiếc nhưng cũng vui vì có dịp để chọc ghẹo nhau. Thỉnh thoảng cũng bắt được ốc cao, chàng nghịch theo cách này. Khi bao xong ruộng này đoàn người lại tiếp tục sang ruộng khác. Và cứ như vậy đến khi nào cảm thấy mỏi chân hay đói bụng thì về.
Đối với nhiều người thì quất cò là một thú vui nhưng tôi thì hổng thích. Có vẻ như mình ác ác làm sao á, cò chỉ ăn cá, tép thôi mà, có làm gì hại lúa đâu. Nhưng dù sao thì ông cha mình quất từng con một, xong còn đem về ăn chứ không để cò chết oan. Bây giờ không còn lúa mùa, không còn hình ảnh một đoàn người cầm những cây trúc dài đi quất cò nữa. Nhưng mỗi lần sạ lúa ngắn ngày, nhất là vụ lúa Đông Xuân, người ta dùng thuốc trộn mồi rải cho cò ăn. Cò không chỉ chết từng con mà từ vài chục đến vài trăm con. Rồi bao nhiêu cò con chết nữa khi mẹ không còn mang thức ăn về cho chúng?
Đuổi chim
Khi nước lũ tràn đồng (khoảng 20/10 dương lịch hàng năm) cũng là lúc lúa mùa đã nở hết mức và chuyển qua giai đoạn đứng cái (tròn mình). Thân lúa có khuynh hướng vươn lên cao, đòng lúa lớn dần và nửa tháng sau lúa mùa bắt đầu trổ. Thời điểm này, những con cá rô trên đồng là béo nhất, vừa có nhiều thức ăn do nước lớn, vừa ăn những hạt lúa non đang ngậm sữa. Những giống trổ sau cùng gọi là lúa mùa muộn. Từ ngày lúa trổ lác đác đến ngày chín cắt được là đúng một tháng.
Hồi trước, những giống lúa trổ trước vào đầu tháng 11 âm lịch như Trô Biển, Chim Rơi, Ba Bụi… chủ ruộng mà không đi giữ chim là coi như thất ruộng. Trong các loại chim ăn lúa thì chim sẻ chủ yếu ăn những hạt lúa rơi vãi, chim manh manh thì đậu trên bông tách từng hột ăn khi lúa chưa chín tới. Hồi đó số lượng chim manh manh đến ăn lúa không cao, không đáng lo bằng loài chim di cư mùa Đông. Còn bây giờ hổng thấy loại chim di cư về ăn lúa nữa mà chim manh manh thì đuổi hoài hổng xuể!
Thời điểm lúa mùa trổ trùng với mùa Đông, mùa chim di cư ở Bắc bán cầu. Tôi không rõ đây là loại chim gì, nhưng trong ký ức tuổi thơ, chim có hình dáng giống chim trao trảo nhưng nhỏ hơn một chút, đuôi dài hơn, mỏ cũng hơi dài hơn, phần ức có con màu trắng, có con màu vàng. Không biết chúng ngủ ở đâu, mỗi buổi sáng khi mặt trời lên chừng hai, ba sào là chúng bay đến theo từng bầy, mỗi bầy từ vài trăm đến vài ngàn con. Khi bay ngang cánh đồng có những thửa ruộng lúa trổ đã cong trái me tới đỏ đuôi là chúng bắt đầu rải quân ra. Ít khi nào cả bầy cùng xuống một thửa, nhưng nhiều bầy nối tiếp nhau như
vậy cũng đủ làm cho mỗi thửa ruộng có cả một bầy chim vừa được sắp xếp lại. Khi mặt trời gần đứng bóng, nhiệt độ lên cao, chúng lặng lẽ bay đi vài con, rồi vài con… bay vào những rặng tre hay những khu vực có cây cao để nghỉ ngơi.
Khoảng hai giờ chiều chúng lại rải quân như giấc sáng và hơn bốn giờ chiều lại rút về. Giấc này là chúng bay về đâuđó có vẻ như xa hơn nên bay khá cao. Lúc này mới thấy thật rõ là mỗi con không thuộc biên chế của bầy nào nhất định. Mỗi lần có một bầy bay qua là vài chục, vài trăm con bỏ ruộng, bay lên nhập đàn. Khi đàn chim cuối cùng bay ngang, những chú chim tham ăn cuối cùng cũng vỗ cánh bay lên nhập bọn.
Loại chim ăn lúa này một hai ngày đầu còn nhát, dễ đuổi. Khi ăn quen rồi thì mệt mỏi với chúng chứ chẳng chơi.
Thằng bù nhìn
Để đuổi chim có hiệu quả, chủ ruộng phải cất một chòi canh giữa ruộng cao hơn ngọn lúa từ năm tấc đến một thước, có mái che nắng và có chỗ ngồi nghỉ chân. Nếu ruộng lớn, có hình vuông thì làm bốn hình nộm (bù nhìn) ở bốn góc ruộng, nếu ruộng có chiều dài mà nhỏ chiều ngang thì đặt các hình nộm theo đường thẳng cùng hàng với chòi canh. Mỗi hình nộm đều có gắn một hộp lon treo vật nặng bên trong để khi lắc tạo ra tiếng kêu như cái chuông. Dùng sợi dây dài, chắc, nối các hình nộm với chòi canh, khi thấy chim ăn lúa đáp xuống khu vực nào thì giật sợi dây ở khu vực đó làm cho hình nộm cử động và chuông vang lên, chim thấy sợ bay đi chỗ khác. Chim ăn lúa hạ cánh rất đại tài, chỉ hai, ba lần chao cánh là từ trên cao chúng đã xuống tới ruộng lúa. Có thể nói chúng hạ cánh theo chiều thẳng đứng. Do vậy chỉ cần mải nhìn về một bên hay lơ là trong ba, bốn phút là có thể có một bầy đã đáp xuống ăn ở phía ngược chiều, lúc đó thì tay vừa giật dây miệng phải vừa la hụi hụi.
Vài hôm kế tiếp là chúng càng dạn dĩ hơn, biện pháp cũ càng ít tác dụng, phải thêm cách mới, đó là chọi chim. Tất nhiên chọi bằng tay thì chẳng ăn thua vì không chọi được xa. Dụng cụ để chọi chim giống như cần câu cá rô bằng nhánh
tre có độ dẻo, khi uốn cong đàn hồi tốt, chiều dài khoảng hai đến hai thước rưỡi. Đầu cần buộc một đoạn dây chừng hai tấc rưỡi, cuối đoạn dây có cây ghim bằng tre, đầu nhọn. Ngoài cần chọi, người giữ chim phải mang một cục đất sét mềm, bự và một ít cỏ có chiều dài (hay loại lá cây gì dài dài cũng được) lên chòi canh. Khi giật dây hình nộm mà chim không bay thì lấy đất sét nắn thành một trái đạn vừa một nắm tay tròn nhưng thon, phần đuôi gắn một cọng cỏ hay một cọng lá, xom vào cây ghim của cần chọi. Dùng cần chọi ném trái đạn đất sét về hướng bầy chim ngoan cố. Khi trái đạn bay, cái đuôi nhờ sức gió tạo ra tiếng lẹt xẹt gây hoang mang cho bầy chim, khi đạn rớt bịch xuống ruộng là cả bầy chim khu vực đó sẽ bay lên. Tuy nhiên việc mang quá nhiều
đất lên chòi canh là khá bất tiện, nên người giữ chim phải thỉnh thoảng vác cần chọi đi rảo xung quanh ruộng. Phát hiện bầy chim ở xa đường đi tuần của mình thì cúi xuống bờ ruộng móc một cục đất ven bờ và một cọng cỏ, nắn trái đạn
rồi vừa chọi vừa la hụi hụi…
Công việc đuổi chim tuy không cực nhọc cho lắm nhưng phải hoạt động liên tục, chỉ được nghỉ trưa theo chim nên chiều về nhà vừa mệt mỏi vừa đau cổ họng chứ chẳng chơi!
Bắt cá hầm, cá cạn
Khi chim ăn lúa không còn ghé ruộng nào nữa thì ruộng đó xem như gần chín tới, chỉ còn khoảng năm, bảy ngày nữa là gặt được. Nhưng trước khi nói chuyện gặt hãy nói về chuyện phía dưới của những bông lúa trĩu hạt kia.
Gió bấc non về là lúc cây lúa mùa đã hết thời sinh trưởng mà chuyển qua giai đoạn phát triển, giai đoạn sinh sản để duy trì nòi giống. Khi cây lúa mùa bước vào thời kỳ trổ và chín cũng chính là mùa gió bấc đã bắt đầu được gọi là bấc già. Cái từ gió mùa Đông Bắc là do các báo, đài dùng trên các bản tin dự báo thời tiết. Còn ở quê tôi, nhất là những người lớn tuổi thường gọi là mùa gió bấc và cái mà tôi nhớ nhất vẫn là chuyện đi bắt cá hầm.
Hầm bắt cá
Những loại cá đồng có một đặc điểm hết sức tự nhiên là mùa mưa thì tìm đường lên ruộng để sinh sôi nảy nở, hết mùa mưa lại trở về với sông, rạch, lung, đìa…Thông thường những đám mưa lớn vào cuối tháng mười âm lịch là những đám mưa cuối mùa, cộng thêm đó là đã qua đỉnh của mùa nước nổi ở Đồng bằng sông Cửu Long nên nước bắt đầu rút dần. Những con cá lớn (có lẽ nhiều kinh nghiệm) trở về sông nước trước tiên. Những con còn lại tiếp tục thơ thẩn trên đồng cho đến khi gió bấc già về, chúng mới giựt mình tìm đường về nguồn cội. Nhưng nước đâu còn nhiều để tự do đi lại nữa. Chính vào thời điểm này, những người có kinh nghiệm bắt cá ở nông thôn đi đào những cái hầm hình tròn, đường kính từ 3-4 tấc ở các góc ruộng hay những chỗ mà họ phán đoán là cá sẽ cố vuợt qua để về nhà. Mỗi người thường sở hữu cho mình từ
một đến hai ba chục hầm như vậy. Khoảng 4-5 giờ chiều họ xách thùng xuống sông múc sình non rồi mang lên bôi vào miệng hầm và vẩy một ít trước miệng hầm như ngầm bảo: Sông đó! Thấy mùi chưa? Nhảy nhẹ một cái là tới nơi rồi! Vậy là mấy con cá đồng nhẹ dạ cứ thế mà nhảy. Giấc đầu hôm và gần sáng là cá nhảy hầm tập trung nhất. Hôm nào gió bấc thổi mạnh một chút là cá nhảy càng nhiều. Ban đêm chủ yếu là cá lớn thuộc các loại như cá lóc, cá trê,
cá rô; ban ngày là những con cá nhỏ như cá rô, cá sặt, lòng tong… Lươn loại nhỏ cũng thường gặp trong hầm. Những hầm như vậy ban đêm là của chủ, ban ngày là của cộng đồng, ai thấy cứ bắt tự do. Lúc đó tôi cũng còn nhỏ, chưa có kinh nghiệm để sở hữu riêng những hầm bắt cá, nhưng mê lắm. Hôm nào học buổi sáng thì buổi chiều chạy rảo ngoài đồng và ngược lại, có khi thấy là bắt liền. Có khi tò mò đứng rình xem những chú cá rô đang sắp hàng, lượn lờ trước miệng hầm (có lẽ chúng đang thảo luận và lấy ý kiến biểu quyết nhảy hay không đó!). Mỗi khi mùa gió bấc về đi bắt cá hầm vui lắm nhưng tay chân mốc
cời rửa hoài không sạch vì không phải bùn đất bám vào mà do da bị khô săn lại, nhăn nheo trông xấu lắm.
Mùa giữ chim cho lúa gần như trùng với mùa bắt cá hầm nên khi đi giữ chim người ta phải mang theo dụng cụ để đựng cá. Hay lúc đang đuổi chim mệt mỏi mà thấy mấy thằng nhóc bắt cá hầm chạy quanh ruộng thì có thể yên
tâm nghỉ ngơi một lát. Bọn chúng chạy tới đâu là bầy chim ở đó sẽ bay đi.
Gần cuối mùa gió bấc, nuớc đã cạn, lúa đã chín, cá không còn nhảy hầm nữa, những con còn ở lại (chủ yếu là cá nhỏ) tìm đến những vũng nước còn sót lại, có khi là một lỗ chưn trâu hơi sâu có nước để trốn tránh. Ruộng lúa mùa hồi xưa đâu có được san mặt bằng như bây giờ, có thửa thì có cái lung do dấu ấn của đồng đất khai hoang chưa trọn vẹn. Thửa không có lung thì mặt ruộng cũng có chỗ này gò, chỗ kia sâu. Lúa chín dần và nước khô dần, vậy là cá trên ruộng gom về những nơi còn nước. Thời điểm này bọn trẻ chuyển từ bắt cá hầm sang bắt cá cạn, cũng vui đáo để lắm. Ruộng nào mà chủ ruộng không bắt thì vào lúc chủ ruộng không có mặt chúng sẽ lén vào bắt. Dù chúng có cẩn thận như thế nào đi nữa cũng sẽ đạp cho cây lúa ngã nghiêng ngã ngửa. Chủ ruộng bắt gặp cũng chỉ chửi cho một trận rồi thôi. Khi không còn nước cũng đừng tưởng là không có cá nghen. Mấy con cá chạch rất giỏi chúi dưới sình, khi lớp trên mặt không còn miếng nước thì chúng đưa cái đầu nhọn lên hớp không khí rồi nằm im như vậy cho đến khi chết khô. Người bắt chỉ cần nắm đầu kéo lên từng con mà thôi. Cái chuyện bắt cá cạn của bọn chúng tôi cũng vui lắm. Có khi đi mang muối hột theo, bắt được một số rồi lựa ra những con nào trông thấy ngon thì đặt sắp hàng trên một lớp rơm khô (của những thửa ruộng gặt trước), chất thêm một lớp rơm nữa rồi đốt. Khi rơm cháy gần hết dùng que dài khều xem lớp vảy cá cháy hết chưa. Con nào thấy chưa chín thì để lại đốt thêm một tí nữa, con nào được rồi thì lấy một nắm rơm cạo sạch lớp vảy cháy
đen ra, lộ ra lớp da vàng ươm. Thế là dùng tay tách đôi, loại bỏ phần ruột, anh nào nhỏ quá bỏ luôn cái đầu, đưa vô miệng cắn một miếng cá thêm một chút muối hột và cùng nhau... sướng! Có hôm không đốt kiểu này mà lấy đất sét
ốp toàn bộ con cá lại (cần lựa những con cá hơi lớn một chút để dễ nặn đất hơn).
Rồi cũng chất rơm đốt giống như kiểu trước, đến khi nhìn thấy cục đất chuyển một ít sang màu trắng là vừa, khều ra cho nó nhả nhiệt một hồi rồi bẻ
đất ra, lớp vảy và da cá dình chặt vào đất, để lại toàn là thịt cá trắng phau. Ăn kiểu này thịt cá rất ngọt nhưng không thơm mùi khói rơm như kiểu kia.
Bắt chuột đồng
Chuột đồng là loài gây hại đối với mùa màng của nhà nông nhưng chúng cũng nằm trong chuỗi thức ăn của tự nhiên. Chúng ăn rất nhiều loại nông sản như lúa, khoai lang, khoai mì, khóm, dừa, mía… và chúng lại trở thành thức ăn của mèo, rắn, diều hâu. Đối với đa số người dân ở nông thôn thì thịt chuột đồng cũng là một món khoái khẩu với những tên gọi hấp dẫn như heo đồng, sóc đồng.
Thịt chuột đồng có thể chế biến thành nhiều món như chiên tươi, rô ti, xào củ hành, nấu canh chua… Phổ biến nhất là ướp với sả bằm, nghệ và nước mắm rồi chiên ăn với cơm cũng ngon mà dân nhậu cũng thích.
Rập đất bẫy chuột
Vào mùa nước, chuột sống theo các bờ liếp, bờ kênh hay trong vườn. Muốn bắt chuột tháng này có hai cách, một là đặt rập đất (một loại bẫy), hai là bắt trực tiếp. Rập đất làm bằng tre, có bệ chứa lượng đất đủ để đè cho chuột không giãy ra được, một đầu được cột dây treo lên cọc cao khoảng 2 tấc, cuối sợi dây có chốt để gài với thanh ngang dưới rập. Khoảng 5-6 giờ chiều, người ta dùng lúa hoặc rải một ít phía dưới rập, khi chuột vào ăn đạp phải thanh ngang làm sứt chốt ra, rập rớt xuống đè chuột nằm không nhúc nhích được. Nếu muốn bắt chuột còn sống (hoặc mới vừa chết) thì đầu hôm (khoảng 8-9 giờ tối) đi thăm một lần, nếu để đến sáng người đặt mới đi thăm thì thường chỉ bắt được chuột chết. Một điều cần phải chú ý là đi thăm rập chuột phải mang theo cây chĩa, hoặc một khúc cây vừa cầm, đề phòng khi dỡ rập lên phát hiện con rắn đang ăn con chuột dưới đó!
Muốn dùng làm thức ăn tươi ngon thì phải bắt chuột sống, hay còn gọi là đi săn. Để cuộc săn thành công phải có ít nhất một con chó đã được huấn luyện về bắt chuột. Có hai, ba con càng tốt, vì chuột trốn trong những lùm cây, bụi cỏ, trong hang con người không phát hiện được. Khi chủ ra hiệu đến địa điểm săn, mấy chú chó bắt đầu lùng sục, mũi thì đánh hơi khịt khịt, chân thì bươi quào mấy chỗ tình nghi. Mấy con chuột không có hang hoảng hồn chạy tứ tung. Con nào chạy ra ngoài trống thì dùng cây đập hoặc chĩa đâm. Chỗ không có người thì chó phóng theo ngoạm chặt, vật chết rồi tha lại cho chủ. Mấy con trốn trong hang, chó phát hiện được vừa bươi vừa sủa, lúc này người phải tiếp tay, dùng len và dao đào tiếp. Nếu chuột phóng ra giữa chừng thì chó bắt, nếu chuột cố thủ đến tận cùng hang thì người sẽ bắt được. Bắt chuột mùa nước rất
vui. Mỗi khi có chuột chạy ra thì tiếng la hét, tiếng chân chạy của người, của chó loạn xạ lên. Chuột phóng xuống kênh thì chó phóng theo, người ví trên bờ quyết bắt bằng được mới thôi. Cuộc đi săn chỉ kết thúc khi người đã thấm mệt hoặc là số lượng chuột bắt được đã đủ ăn.
Mùa khô người ta bắt chuột bằng cách làm bẫy khi gặt lúa hoặc đào hang. Trên một mẫu ruộng, khi gặt chỉ còn chừa một hai công đất chuột sẽ dồn về chỗ đó, người ta sẽ gặt chừa lúa đứng tạo hình chữ V, ở đáy chữ V đào một cái hố rộng khoảng ba tấc, sâu ba, bốn tấc, lấy mấy bólúa đậy kín hố lại, chỉ chừa một lỗ nhỏ, tiếp tục dùng lúa bó và gốc rạ tấn từ chân chữ V dài lên mỗi bên một đoạn chừng năm, mười thước làm đường dẫn xuống hố. Khi gặt đến bụi lúa cuối cùng thì dỡ từ từ bó lúa đậy hố lên để bắt từng chú một. Để bắt những loài chim hay ở trong ruộng lúa chín như ốc cao, chằng nghịch người ta cũng dùng
cách tương tự như vậy. Thay vì đào hố, người ta dùng một tấm lưới khá lớn, từ chân chữ V trùm dài lên khoảng từ 10 thước trở lên (chim thường rất nhát, nếu lưới ngắn quá nó sẽ chạy ngược trở ra). Chân lưới để sát đất và tấn chân kỹ, lưới trùm lên trên bông lúa tạo thành miệng khá rộng. Khi lúa được cắt tới miệng lúa thì người ta kéo cho lưới trùm xuống đất luôn, lúc này giống như một cái chài lưới đã quăng xong. Một người chun vô giữa gặt lúa, những con chim hoảng hồn chạy ra mắc lưới, những người ở ngoài cứ canh bắt từng con, từng con một.
Việc đào hang chuột mùa khô có chó đã được dạy bắt chuột đi theo là rất hiệu quả, nếu hổng có chó, mười con bắt được sáu là giỏi! Dụng cụ đi đào gồm có một cây cuốc, một dao xắn đất được (xuổng nhỏ càng tốt) và một giỏ đựng chuột (được làm bằng lưới kẽm). Bọn trẻ con không có giỏ chuyên dùng nên bắt được con nào đập chết con đó rồi bỏ vào thùng nên đào chừng 2-3 hang trở lại là phải về để thịt chuột còn tươi. Các hình thức như săn, bẫy chỉ bắt được chuột cơm là chính. Còn đi đào hang có cơ hội bắt được chuột cống nhum nhiều hơn. Hang chuột vừa có theo bờ ruộng vừa có ở trên mặt ruộng (mùa khô mà, chuột thích chỗ nào thì đào chỗ đó thôi). Những hang nào đất bươi ra nhiều và có dấu đất mới thì chắc chắn có chuột, những hang đào cạn, ít đất thì không (có lẽ chuột làm chỗ nghỉ chân hoặc đào nửa chừng thấy phong thủy không tốt nên bỏ!). Nếu đất từ hang bươi ra có kích thước nhỏ đều bằng đầu ngón tay út thì đó là hang chuột cơm.
Chuột cơm có lông màu xám vàng, con nào lớn lắm cũng hơn nửa cườm tay người lớn là hết mức. Nếu đất bươi ra bằng ngón tay cái người lớn thì đó chính là hang chuột cống nhum. Chuột cống nhum có lông màu xám đen, chuột bố mẹ lớn bằng bắp tay. Dù là chuột cơm hay chuột cống nhum, nếu thấy đất đùn (đất chuột bươi ra nằm kín trước miệng hang) thì y như rằng chuột mới đẻ con bên trong. Ngoài các ngách bình thường, lúc này hang chuột luôn có ngách đội, ngách này chưa thông ra ngoài, nhưng chỉ còn một lớp đất mỏng thôi. Khi có tình huống không an toàn chuột sẽ bươi ra để trốn chạy đường này.
Trước khi đào hang chuột phải tìm kỹ các ngách của nó rồi dùng rơm rạ nhét kín lại. Nếu không ém các ngách, đào được nửa chừng chuột theo đường ngách chạy đi mất. Bắt đầu từ miệng hang, dùng cuốc để đào, chỉ cuốc lớp trên không phạm đường hang để tránh chuột chạy ra. Lớp dưới dùng dao đào từng cục nhỏ theo đường hang.
Khi thấy hang chia làm hai ngả thì lấy đất bít lại một ngả, đào tiếp ngả còn lại. Vẫn dùng cuốc đào lớp trên, dùng dao khoét theo đường hang để có chuột chạy ra dễ chận bắt. Khi cùng đường hang này (hoặc tới lỗ ngách) thì quay lại đào đường hang đã bít khi nãy, cách đào vẫn như vậy. Khi gần đến gần cuối hang là chuột bắt đầu xuất hiện, lưỡi dao lúc nào cũng sát miệng hang, vừa khoét đất vừa đè để bắt từng con chuột. Nếu chuột lú đầu ra thì dùng mũi dao ấn xuống rồi dùng tay bắt ngay đầu. Nếu chuột chìa đuôi ra thì nắm đuôi kéo lần ra đến đầu thì bóp chắc bỏ vô rộng (nếu muốn giữ chuột sống) hoặc khi nắm đuôi kéo
ra khỏi hang là quay vòng đập đầu chuột xuống đất (nếu không cần bắt sống). Bắt không cẩn thận bị chuột cắn tay chảy máu như chơi! Nếu lỡ bị cắn rồi thì cũng đừng lo, bứt một ít cỏ trên bờ ruộng (cỏ nào nhai nát là được) cho vào miệng nhai đấp lên vết cắn, máu cầm rất nhanh. Chừng năm,bảy phút sau là tiếp tục bắt nữa được rồi. Nhớ đừng kể cho bác sĩ nghe là được, nếu không, thế nào ổng cũng kêu đi chích ngừa bệnh uốn ván!
Đào chuột
Ở hang chuột cơm, có khi bắt đến 5-8 con một chỗ. Ở hang chuột cống nhum, bắt được một cặp là tốt lắm rồi, đôi khi nhiều hơn do bầy chuột con của cống nhum đã trưởng thành nhưng vẫn chưa rời khỏi ổ. Có điều, nếu đào hang chuột cống nhum, khi gần cuối hang, chuột cống nhum khịt thành tiếng như rắn hổ khè vậy, rất là hồi hộp Bắt chuột đồng vừa bảo vệ mùa màng, vừa bổ sung thực phẩm cho gia đình và đồng thời là thú vui, giống như một trò chơi tìm cảm giác mạnh của những chàng trai trẻ nông thôn.
Gặt lúa
Việc thu hoạch lúa mùa trải qua ba công đoạn chính là gặt, đập và chở về. Tùy theo cách đập và tính cách dân tộc mà người gặt sử dụng những loại công cụ khác nhau. Nếu đập bồ thì khi gặt dùng liềm (hay lưỡi hái, chủ yếu là người Kinh) là phù hợp nhất vì cắt cọng rạ dài không cần bó, chỉ cần xếp theo hàng là được. Khi cắt, tay trái nắm hết bụi lúa sao cho cách bông lúa từ sáu tấc trở lên, dùng liềm cắt phía dưới nắm tay chừng năm phân, nếu cắt cách xa nắm tay nhiều dễ dẫn đến cọng rạ không đều nhau. Nếu chủ ruộng có ý định dùng rơm để bó chổi hay đem về nhà chất lấy nấm thì cắt càng sát gốc càng tốt.
Nếu đập lúa bằng ghế thì người ta gặt bằng vòng gặt. Vòng gặt của người Khmer có hình số 2 lật ngược (kần điêu). Chân số 2 thon, nhọn dùng để móc gom các bụi lúa, phần đầu số 2 là chỗ tay cầm, lưỡi của vòng gặt loại này được gắn đối diện với đầu móc. Vòng gặt của đồng bào Khmer có thể để nằm yên trên một mặt phẳng. Thao tác gặt của công cụ này là tay phải cầm vòng gặt, chân trái đạp gốc một bụi lúa cho nghiêng về một hoặc hai bụi kế bên, dùng đầu móc gom từ phải qua trái ba bụi lúa đó. Nếu lúa trúng, mỗi lần chỉ nắm được hai bụi là giỏi. Gom lại thànhchùm rồi có động tác vuốt lên, khi tay phải vừa vuốt lên thì tay trái nắm chặt chùm lúa đó. Tay phải vừa vuốt qua khỏi bông lúa liền xoay phần móc của vòng gặt ra ngoài, phần lưỡi quay vô trong và hạ xuống cắt chùm lúa tay trái vừa nắm. Vị trí cắt dưới tay nắm chừng năm đến sáu phân. Lặp lại động tác y như vậy đến khi nắm lúa trong tay trái đã đầy không nắm thêm được nữa thì dùng chân đạp một bụi rạ cho ngã xuống, để nắm lúa theo chiều ngang của bụi rạ. Tiếp tục cắt như vậy cho nắm lúa thứ hai và thứ ba. Người có nắm tay lớn thì hai nắm tay đủ để bó thành một bó. Người có nắm tay nhỏ thì ba nắm vô một bó. Khi đủ một bó, dùng vòng gặt chọn một bụi lúa ưng ý, cắt sát gốc ba cọng rạ có cả bông để làm dây bó lúa. Dùng tay bẻ dập phần gốc rạ, choàng qua mớ lúa cách gốc khoảng một tấc rưỡi. Dùng tay phải nắm chắc chỗ giáp mối của cọng rạ, đưa bó lúa lên theo chiều đứng, bông chúi xuống đất. Dùng tay trái xòe ra vỗ vỗ cho phần gốc của bó lúa
bằng nhau rồi xoay bó lúa quay theo chiều kim đồng hồ ba vòng, để xuống. Tay trái vịn bó lúa, tay phải ngoai mối cột thêm một cái nữa, chân đạp ba bụi rạ chúi vào nhau, đặt bó lúa lên trên. Phần ngoai luôn phải nằm phía dưới để
mối buộc bó lúa không bị bung ra. Việc đạp ba bụi rạ chúi vào nhau rồi để bó lúa lên nhằm giúp cho bó lúa mau khô vì cách mặt đất. Mặt khác giúp cho người gom lúa bó dễ tìm, ít bỏ sót khi đi gom.
Vòng gặt số một của người Kinh (có lẽ phát xuất từ người Chăm) lưỡi cắt không nằm đối diện đầu móc mà nằm ở đoạn giữa thân, thậm chí hơi chếch xuống phía dưới. Mặt khác lưỡi cắt không nằm chung mặt phẳng mà nằm vuông góc, do vậy vòng gặt này không bao giờ nằm sát đất được. Các thao tác của vòng gặt số một gần như ngược lại. Tay phải cầm vòng gặt, chân trái đạp một bụi
lúa nghiêng về bên phải cho gần với một hoặc hai bụi lúa khác. Dùng đầu móc gom từ trái qua phải hai đến ba bụi lúa lại thành chùm rồi có động tác vuốt vào người, khi tay phải vừa vuốt vào người thì tay trái nắm chặt chùm lúa đó. Tay phải vừa vuốt qua khỏi bông lúa liền xoay phần móc xuống phía dưới đất, đưa phần lưỡi lên cắt chùm lúa tay trái vừa nắm. Các thao tác còn lại thì giống như vòng gặt số hai. Do đặc điểm như vậy nên rơm từ bó lúa của vòng gặt số một thường ngắn hơn. Ống tay áo và vạt áo bên phải của người dùng vòng gặt số một dễ bị rách hơn do bị bông lúa đập vào thường xuyên.
Đập lúa
Cách thức đập lúa có những sự thay đổi, cải tiến để ngày càng phù hợp hơn, dù không nhiều. Hồi xưa lắm, khi đất mới khai phá, chưa có hệ thống thủy lợi, khi lúa chín, mặt đất vừa lún vừa còn nước, ông bà mình dùng hình thức đập bồ. Bồ đập lúa là cái hộp gỗ hình chữ nhật, chiều ngang khoảng một thước hai, chiều dài một thước rưỡi đến một thước sáu, chiều cao khoảng sáu tấc, đặt trên hai thanh gỗ cong lên ở phía trước để dễ kéo trượt trên mặt ruộng. Bốn góc có chỗ để cắm bốn cây cao chừng hai thước rưỡi có độ cong ra hướng ngoài để lớp dưới căng tấm mê bồ (cà tăng), lớp trên căng mấy tấm lá chằm nóp (hay lá vàng bạc được đan bằng lá dừa nước), giữ không cho hột lúa văng ra ngoài khi đập. Mê bồ và lá chằm nóp chỉ căng ba mặt, mặt trước (hướng kéo tới của bồ) không căng lá, chính là chỗ của người đứng đập bồ. Trái tim của bồ đập lúa là một cái thang cong, những thanh ngang làm tre, gỗ hoặc bằng sắt, mỗi thanh cách nhau khoảng một tấc. Khi bó lúa đập vào thang sẽ làm cho hạt lúa rơi xuống bồ. Lúa cắt để đập bồ phải dài, không bó và xếp thành hàng. Cặp
đập bồ dùng loại cặp dài (mỗi thanh dài khoảng sáu tấc). Dây quai dài khoảng năm tấc, một đầu thắt vào đầu một thanh cặp, đầu kia thắt vào giữa thanh cặp. Người đập lúa bồ dùng cặp kẹp mớ lúa vừa với cặp rồi đem đến bồ, đập vào thang từ hai, ba cái. Sau đó để mớ lúa trên thang, nhả cặp ra rồi kẹp lại theo tư thế nghiêng bốn lăm độ, tiếp tục đập hai, ba cái, lại nhả ra, kẹp vào y như vậy 3 lần xem như đã đập giáp vòng mớ lúa. Nếu nhìn thấy phần ngọn lúa đã sạch thì đập nhẹ vào thang một, hai cái rồi đem rơm đi bỏ (rơm bỏ theo hàng để tiện cho việc tận dụng sau này). Sau đó lấy cặp đi kẹp mớ lúa khác, nếu mớ lúa nằm hơi xa so với bồ thì đưa nguyên kẹp lúa lên vai vác cho đỡ mỏi tay. Khi thấy bồ đầy lúa thì ngưng đập, hốt lúa vào bao vác lên bờ, sau đó dời bồ lại một chỗ khác, sao cho bán kính đi lấy lúa mớ của một bồ lúa là tiện lợi nhất. Thông thường, một công đất đập bốn điểm, bốn bồ là tốt nhất. Do sự bất tiện của đập bồ mà càng về sau càng có ít người dùng.
Ở miệt Long An không gọi bồ đập lúa mà gọi là cộ đập lúa.
Cộ ở đây nhỏ hơn, chiều ngang chừng tám tấc, dài khoảng một thước hai, cũng đặt trên hai thanh cong để tiện di chuyển. Khi đập thường kéo giữa hai lối gặt chứ không tính bốn điểm như miệt dưới. Một sự khác biệt nữa là không dùng cặp mà dùng nài. Đó là một vòng dây, dùng hai ngón tay cái căng ra (lúc này dài khoảng 4-5 tấc) rồi choàng qua mớ lúa đem vào cộ đập. Các bước đập còn lại giống như đập bồ, do cộ nhỏ nên khi đầy hốt ra chừng hai giạ lúa. Vùng này có tập quán sử dụng rơm cho nhiều việc khác nên hình thức đập bồ đối với lúa mùa khá phổ biến.
Một kiểu đập lúa hồi xưa cũng khá phổ biến nhưng nay không còn là hình thức dùng trâu đạp lúa. Trước hết là chuẩn bị sân đạp. Lựa chỗ khô ráo ngay trên ruộng, dùng trâu dậm cho mặt đất dẽ chặt, sau đó dùng len sủi đất cho bằng phẳng. Tùy theo diện tích lớn hay nhỏ mà chuẩn bị sân đạp thích hợp. Lúa sau khi được cắt bó lớn (bằng 5-6 lần bó đập ghế), phơi khô trên đồng được trâu kéo về sân đạp, được chất dựng đứng (bông lúa hướng lên trên) thành ba, bốn lớp từ dưới lên và theo hình tròn. Trường hợp lúa cắt không bó lại thì cũng phải rải theo lớp. Ruộng ít dùng một, hai con, ruộng nhiều dùng bốn, năm con hoặc hơn nữa để đạp cho nhanh. Những nhà có bốn, năm chục công ruộng, sân đạp lên đến cả công đất. Nếu trâu ít phải đi đạp vần công để khi đến ruộng nhà làm cho nhanh. Trước khi đạp phải cho trâu ăn no. Nếu đạp sớm phải chuẩn bị sẵn
cỏ cho trâu, nếu để trâu đói, nó sẽ ăn những cọng rơm còn nguyên bông lúa. Bầy trâu đi theo hình vòng tròn đạp lên những bó lúa đó, con đi đầu phải có người cỡi để dẫn đường cho những con đi sau. Lúc nào cũng phải có người cầm thúng đứng chờ. Khi thấy có con trâu nào đứng lại, đuôi cong lên là phải đưa thúng vô hứng phân liền, không để rơi xuống làm dơ lúa. Thấy lúa đã rụng nhiều thì cho trâu dừng lại, dùng mỏ sảy sủi từng bó lúa lên, trở bề. Bó nào thấy hột lúa rụng hết thì giũ qua một cái rồi quăng ra ngoài. Bó nào chưa sạch thì để lại đặng trâu đạp tiếp. Hết lớp lúa trên thì tiếp đến lớp dưới, cứ như vậy đến khi nào xong thì nghỉ. Nói vậy thôi chứ trâu mệt cũng phải cho nghỉ ngơi, ăn uống, mà thật ra người đã mệt trước rồi.
Ở miệt Gò Công, Tiền Giang, hình thức đạp trâu còn kéo dài đến cuối những năm 1980. Cái khác ở đây là sân đạp làm gần nhà, để chuẩn bị sân đạp người ta dùng phân trâu còn tươi, pha thêm nước rồi quét trên mặt sân
đất. Một hai ngày nắng sẽ làm mặt sân hồ lại, khi trâu đạp hột lúa không rơi vào lỗ nẻ, cũng như ít bụi đất bám so với không quét phân trâu. Thứ hai nữa là bó lúa nhỏ chỉ xếp có một lớp, để nằm ngang chứ không dựng đứng và chỉ đạp bằng một con trâu (có lẽ do diện tích đất ruộng của từng hộ ở vùng này không nhiều?).
Còn miệt Tân Hội (nay thuộc huyện Tân Hiệp, Kiên Giang) ở thập niên 1960 là vùng đất rộng người thưa của Tứ giác Long Xuyên. Người có ruộng vài trăm công không hiếm. Người ta sáng tạo ra cách đạp lúa mới: bằng máy cày!
Lúa cũng chất thành sân và nhiều lớp như đạp trâu nhưng sân rộng hơn, máy cày sẽ chạy vòng quanh thay trâu. Khi máy dừng thì dùng mỏ sảy để trở bề và vít rơm rạ. Lúa sau khi đạp được mang lên một cái đài cất cao 4-5 thước để giê
nên lúa sạch bong. Mỗi giạ đều nặng 21-22 ký. Mấy người hàng xáo mê lúa thứ này lắm. Cách đập lúa phổ biến nhất của những năm 70-80
Hai loại ghế đập lúa (một chưn và hai chưn) và cặp đập
Ở quê tôi là đập lúa bằng ghế. Ghế đập lúa làm bằng một miếng ván ngang năm tấc, dài một thước hai, dày từ năm phân trở lên (càng dày thì vác càng nặng). Ghế xưa có một chưn chỏi ở một đầu và một thanh gỗ nằm ngang dưới
chân chỏi. Ghế cách tân có hai chưn chỏi nên trông vững chãi hơn. Khi đập lúa, mặt ghế, chân ghế và mặt đất tạo thành một hình tam giác không đều. Loại gỗ thường dùng làm ghế là cây tràm, sao hoặc dầu để sử dụng lâu dài. Bên cạnh ghế còn có cặp đập lúa dùng để kẹp bó lúa đập vào ghế. Cặp làm bằng hai thanh gỗ tròn, dài khoảng ba tấc hai đến ba tấc rưỡi. Dùng loại gỗ dai nhưng nhẹ để đập đỡ mỏi tay (ưa thích nhất là làm bằng nhánh cây mù u già).
Phần cán của hai thanh vừa nắm tay sau đó thon dần về phần đầu. Đối với thanh cầm tay trái, phía dưới đầu thanh khoảng ba phân có khấc một ngấn tròn làm chỗ cột quai cặp. Đối với thanh cầm tay phải, ngấn cột dây quai dịch
xuống một phần ba tính từ đầu thanh gỗ. Quai cặp được thắt từ nhiều loại dây khác nhau. Nếu thắt bằng rơm, dây chuối thì đập chừng một thiên (một ngàn bó) là hết mức, phải làm lại. Nếu thắt bằng lạt dừa (vỏ phần bẹ của lá dừa nước phơi khô) thì đập được vài thiên… Bền nhất là thắt bằng dây nylon, tận dụng từ lưới cũ của mấy tàu đánh cá. Độ dài của quai cặp sau khi thắt vào khoảng hai tấc, sao cho khi đặt thanh cặp tay phải lên thanh tay trái thì quai cặp tạo thành một vòng tròn khuyết vừa với kích cỡ của bó lúa. Nếu vòng tròn này chật quá thì khi kẹp bó lúa khoảng cách giữa tay phải và tay trái sẽ cách nhau khá xa, khó thao tác, nếu vòng tròn rộng quá thì ngược lại. Cả hai trường hợp người đập lúa đều phải cân nhắc tháo dây quai ra thắt lại cho vừa.
Vị trí được lựa chọn làm sân đập lúa thường phải đáp ứng ba yêu cầu cơ bản. Đó là đường vận chuyển lúa hột về nhà hoặc để xuống xuồng (ghe) gần nhất; việc gom lúa bó về sân đập tiện nhất; và có mặt đất tương đối bằng phẳng,khô ráo. Sau khi chọn được vị trí tốt thì trải đệm cho sân đập. Hồi xưa đệm được đan bằng cây cỏ bàng hoặc lác phơi khô cán dẹp. Đệm bàng thường có hình vuông, mỗi chiều hai mét rưỡi đến ba mét. Đến những năm 60 bắt đầu có đệm dệt máy bằng những sợi nylon nhiều màu, tạo thành nhiều sọc khác nhau. Khi phân bón hóa học được sử dụng khá phổ biến, người ta rọc bao đựng phân (thường là bao urea) may lại thành chiếc đệm có kích thước thay đổi theo
ý thích của chủ nhà. Tiến thêm một bước nữa là đệm bằng lưới cước, mềm, nhẹ nhưng khá chắc với những lỗ nhỏ, hạt bụi lọt nhưng hạt lúa không lọt. Đệm cước hiện nay còn khá phổ biến nhưng bên cạnh đó đã xuất hiện những tấm bạt nhựa với nhiều loại khổ khác nhau. Loại bạt này đa năng hơn, có thể lót phía dưới để hứng lúa nhưng cũng có thể đậy phía trên khi trời mưa không cho lúa ướt.
Chiều dài của sân đập dựa trên khả năng hột lúa văng xa nhất về phía trước tính từ ghế đập cộng thêm hai mét phía đầu ghế để chất lúa bó và ba mét ở cuối sân dùng để giũ rơm. Chiều ngang của sân dựa trên số ghế đập sẽ
đặt và khả năng văng xa nhất của hột lúa theo chiều ngang tính từ ghế, thông thường khoảng ba mét là an toàn. Trải xong đệm là sắp đặt ghế, chừa khoảng cách từ chân chống của ghế đến mí đệm đầu sân khoảng 2 mét làm chỗ đứng
cho người đập và chất lúa bó (phần bông lúa luôn được quay vô sân đập). Để tránh đệm bị rách vì cấn với mặt đất tại vị trí chân chống và chân ghế đập, người ta dùng bó lúa chưa đập để kê lót phía dưới. Việc này còn giúp cho ghế
không bị lắc khi đập.
Chuẩn bị cho ngày đập lúa, người chủ ruộng phải làm nhiều việc. Sau khi gặt xong khoảng 2 ngày trở lên (nếu muốn đập xong đem lúa hột về đổ bồ luôn thì để thêm hai ba ngày nữa), nếu đất rộng thì việc gom lúa bó về một chỗ cùng lúc sẽ khó khăn thì chủ ruộng gom lúa bó theo từng dây, mỗi dây 25 tầm bo, mỗi tầm bo bốn bó là bằng một trăm bó. Đến ngày đập lúa dùng trâu kéo từng dây lúa bó về sân cho thợ đập. Trâu yếu hoặc đường xa kéo mỗi lần
một trăm bó. Trâu khỏe, đường gần mỗi lần kéo được hai trăm bó, đem đặt ngay đầu ghế cho người đập.
Nếu ruộng không rộng lắm thì có thể dùng sức người hoặc dùng trâu gom trực tiếp về chất thành từng dây (theo chiều dài) hay từng cây (hình vuông) gần sân đập. Khi thợ đập đến thì chuyển lúa bó qua trước đầu ghế, mỗi lần một trăm bó. Công đập lúa thường tính bằng thiên (một ngàn bó) không bao gồm khâu hốt lúa hột vô bao và vận chuyển về nhà. Chuyện này chủ ruộng phải thuê người khác. Mỗi thiên được trả công bằng một giạ lúa. Người thợ đập lúa thường đến ruộng sớm để tranh thủ trời mát đập cho khỏe. Trước tiên, quay mặt về phía sau, nơi chất lúa bó, dùng ngón trỏ của tay trái kéo đầu bó lúa lên, tay phải vừa luồn quai cặp xuống bó lúa vừa khép cặp lại kẹp bó lúa ngay vị trí dây bó, quay đầu lại hướng ghế giơ cao lên đập xuống hai cái. Giở bó lúa thẳng đứng, hai tay hở cặp ra, đồng thời ngón cái của tay trái khều bó lúa cho lăn bằng một phần tư đến một phần ba bó lúa. Xong siết cặp lại ngay và giơ lên đập xuống ghế hai cái, lại dựng và xoay bó lúa như lúc nãy. Khi đập phải chú ý nhấn phần cổ bó lúa (phía dưới dây buộc) vào đầu ghế thì hột lúa mới rụng hết, vì khi cắt có những bông bị cắt ngắn nên nằm trong kẹt của bó lúa. Lúa muồi đập tám cái (xoay 3 lần) là sạch. Lúa dai đập mười, thậm chí mười hai cái mới sạch. Người đập giỏi thì từ sáu giờ rưỡi sáng đến mười hai giờ trưa là rồi, nếu lúa không dai sẽ xong sớm hơn. Người đập trung bình hoặc gặp lúa dai thì khoảng hai giờ chiều cũng rồi.
Trong lúc đập lúa, luôn cần người quét lá ủ, lá khô và hột lép rơi cùng hột chắc gần ghế đập cho được lúa sạch. Phần lúa lép và lúa lừng được quét về cuối sân, ngay chỗ giũ rơm để tận thu những hột lúa dù rụng nhưng vẫn nằm trong kẹt của bó lúa. Sân lúa có một người đập thì cần một người vừa quét lúa vừa giũ rơm. Nếu có hai người đập thì phải có hai người, một người chuyên quét lúa, một người chuyên giũ rơm thì mới kịp. Khi lúa hột đã lên ngập chân ghế thì người ta dỡ ghế lấy bó lúa kê chân lúc đầu ra để sau khỏi quên, khi lúa đầy lên phân nửa chân ghế thì người ta cào lúa hột ra hai bên, để tránh lúa bó đập xuống không nhằm ghế mà đập lên lúa hột.
Sau khi đập xong, phần lúa xung quanh ghế đến giữa sân được hốt vô bao. Đây là phần lúa sạch nhất, chắc hột nhất, nếu có giữ giống cho năm sau là phải chọn ở khúc này. Còn lúa cuối sân, là lúa được quét từ trên xuống và từ
lúa giũ rơm mà có. Nếu tranh thủ giê luôn ngoài ruộng thì có thể nhập chung với phần lúa đầu sân xem như lúa sạch. Nếu không giê được thì hốt vô bao riêng, gọi là lúa ngọn, đem về nhà giê hoặc để dành cho gà, vịt ăn cũng được.
Cái bao đựng lúa
Bao đựng lúa là một thứ mà người làm ruộng rất cần để chuyển những hột lúa mình làm ra từ ngoài đồng về nhà hoặc từ nhà đến chỗ bán. Nếu ít ruộng hoặc cần phải lấy rơm dùng cho những mục đích khác thì sau khi cắt xong người ta gánh lúa bó về nhà để đập rồi phơi, giê sạch đem vào cất giữ mà không cần dùng bao.
Ở đồng bằng Nam bộ từ khi khai phá đến nay không người trồng lúa nào là không dùng bao sau khi thu hoạch. Và bao đựng lúa từ đó cũng đã phát triển ngày càng phù hợp hơn, bền chắc hơn. Từ hồi xa xưa lắm ông cha mình đựng lúa bằng gì tôi không biết nhưng những loại bao tôi đã từng thấy tận mắt đó là cà ròn, bao bố và bao nylon.
Cà ròn là tên gọi theo tiếng Khmer để chỉ một loại bao được làm bằng cỏ bàng. Cỏ bàng có tính chất như cây lác dệt chiếu nhưng thân hình tròn, mọc thành từng đám ở những vùng đất lung sâu, nhiều phèn, còn hoang hóa chưa trồng lúa được. Trước đây, cỏ bàng mọc khá phổ biến ở vùng Tứ giác Long Xuyên, được người dân nhổ về phơi cho từng cọng héo lại, dùng chày giã dập rồi đan thành bao cà ròn. Mỗi bao có thể đựng chừng một giạ rưỡi lúa hột (30kg). Ngoài ra người ta còn đan thành những tấm đệm dùng để phơi lúa. Những tấm nhỏ hơn khâu lại thành nóp (túi ngủ, có nắp đậy lại sau khi chun vô) mang theo mình để ngủ mỗi khi đi công việc xa nhà hay đi ngủ ruộng giữ lúa. Đó chính là những chiếc nóp của một thời hào hùng trong bài hát Nam bộ kháng chiến của Nhạc sĩ Tạ Thanh Sơn. Những chiếc giỏ xách đủ cỡ, những chiếc nón tiện dụng nhưng rẻ tiền của một thời kinh tế đất nước khó khăn cũng có nguồn gốc từ những cọng bàng bé nhỏ ấy. Nhà văn Sơn Nam có viết về nỗi cơ cực của người khai thác bàng vào khoảng trước năm 1940 như vầy: “Nghề nhổ bàng cực nhọc, chuyến đi ba bốn ngày đêm mới xong, nhổ ở đất hoang, xa chòm xóm, nhiều muỗi mòng. Đem theo mớ gạo, củi mắm, nấu ăn tạm no, ban đêm muỗi bay ào ra như đàn ong, không chỗ nằm ngủ vì xuồng quá nhỏ. Nhiều người ỷ sức trai, cho nước tràn vào ngập xuồng rồi dầm mình trong nước, không bị muỗi cắn (gọi khôi hài là ngủ mùng nước), hoặc nằm lim dim kê đầu lên mũi xuồng, dễ thở hơn, khi muỗi bu lại quá nhiều thì đứng dậy, dùng sào mà chống cho xuồng lướt nhanh nổi gió, muỗi bay theo không kịp, chịu đựng như vậy chờ khi trời sáng. Nghề nhổ bàng có tiền nhanh nhưng dễ sanh bệnh.
Khi hoàng hôn đến, nghĩ đến phận người giữa đồng cỏ bao la, chỉ biết nương tựa linh hồn vào đỉnh núi Cấm vùng Thất Sơn, với ánh trăng mờ ảo, bầy chim ăn đêm bay qua lại kêu lên. Các dạng tín ngưỡng dân gian được mảnh đất tốt mà nảy nở”.
Trong quá trình mở mang diện tích trồng lúa với sản lượng không ngừng gia tăng, dưới chính sách khai thác thuộc địa của người Pháp và năng lực kinh doanh của người Hoa trên lĩnh vực lúa gạo ở miền Nam, nhu cầu sử dụng một vật dụng đựng lúa gạo thích hợp hơn đã xuất hiện, cùng tồn tại song song và từng bước, từng bước rất chậm thay thế cho bao cà ròn. Đó chính là bao bố. Có lẽ bao bố xuất hiện từ những năm 20 của thế kỷ XX để phục vụ cho quá trình bảo quản, vận chuyển và xuất khẩu của các chành lúa gạo địa phương và các nhà xuất khẩu gạo. Nhưng việc thay thế hoàn toàn bao cà ròn phải chờ đến đầu thập kỷ 70, bao bố hợp lực cùng bao nylon vì bao bố phải nhập khẩu.
Bao bố được sản xuất từ sợi của một loại cây gọi là cây đay. Do Pháp không có xây dựng nhà máy dệt nên không khuyến khích phát triển loại cây này. Lúc cao điểm mỗi năm phải nhập từ Ấn Độ và Pakistan khoảng 25 triệu bao. Năm 1940, người Nhật bắt dân ta nhổ lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh dẫn đến gần hai triệu người chết đói năm 1945. Năm 1954 cả nước chỉ có khoảng 500 ha
đay, chủ yếu là dùng để dệt chiếu và thắt võng. Sau 1954, Chính phủ rất quan tâm phát triển cây trồng này, đến cuối năm 1974, miền Bắc có khoảng 10.800 ha đay tập trung ở Hải Hưng, Thái Bình, Hà Nam Ninh. Ở miền Nam, sau năm 1975 có khoảng 500 ha, đến năm 1983 đã có 10.000 ha, tập trung ở An Giang, Long An, Kiên Giang, Hậu Giang.
Từ sau năm 1989, khi Việt Nam xuất khẩu gạo trở lại, hiệu quả của việc trồng đay không bằng trồng lúa nên người ta bỏ dần. Mặt khác, với sự tiện dụng và giá thành không cao, bao nylon (pp - poly propylen) đã đẩy nhanh việc xóa sổ diện tích trồng đay vào những năm 1990.
Thực tiễn ở nước ta từng trồng hai loại: đay xanh ( jute) và đay cách (kenaf ). Đay xanh còn có tên gọi địa phương là cây bố. Đay xanh chất lượng sợi tuy cao nhưng thường cho năng suất thấp nên ít được trồng, chủ yếu được sử dụng để se thành sợi trân dệt chiếu và thắt võng. Do vậy khi thu hoạch không cần ngâm giặt mà dùng dao cạo bỏ thịt bám trên sợi tơ nằm ở phần vỏ thân rồi đem đi phơi. Lá đay xanh còn được dùng để ăn như một loại rau xanh, ví dụ như xào mỡ cho thêm tép bạc vào thì càng ngon, hay nấu canh với khoai lang, đặc biệt là nấu riêu cua thì ngon tuyệt. Lá đay xanh loại trái tròn ăn được lá nhưng vị hơi nhẩn đắng do có chứa corchorin nên cũng ít được dùng làm thức ăn và không dùng trong chăn nuôi. Lá đay trái dài có vị ngọt thường được dùng để nấu ăn kể cả trong chăn nuôi. Đay cách chủ yếu được dùng để dệt bao bố,
dệt vải (thô), lót xe, khăn trải bàn, rèm treo cửa… Nhưng để có được sợi phục vụ cho công nghiệp thì phải trải qua một quá trình vất vả không thua kém gì trồng lúa. Hầu hết đay cách sản xuất đại trà ở nước ta là có quang cảm ánh sáng. Gieo trồng từ giữa tháng 4 đến giữa tháng 5 dương lịch, thu hoạch vào cuối tháng 9 đầu tháng 10. Trong quá trình đó, nào là làm đất, gieo giống, bón phân, xịt thuốc, nhổ nguyên cây, cột thành bó đem về ngâm nước chừng 7-10 ngày rồi đem lên tách phần da ra khỏi thân. Sau đó đem xuống nước vừa đập vừa rửa (giặt) để tách phần thịt của cây ra khỏi sợi tơ. Mỗi mùa thu hoạch kết thúc, những người trồng đay thường hay bị ảnh hưởng sức khỏe, nhất là những thứ bệnh ngoài da.
Bao bố dùng để đựng lúa thường có hai kích cỡ. Loại nhỏ chứa được khoảng một giạ rưỡi (30kg), dùng lâu ngày bao giãn ra có thể đựng nhiều hơn một chút. Loại này thường được nông dân sử dụng để vận chuyển lúa hột từ ruộng về nhà vì vừa sức vác của những người đã trải qua nhiều công đoạn từ sáng tới chiều với những việc như: gom lúa bó, đập rồi hốt vô bao, vác xuống xuồng (ghe) để chở về nhà. Khuyết điểm của loại này cũng không khác bao cà ròn là khi gặp nước trong những trường hợp như mắc mưa, chìm xuồng hay lúa ướt thì rất dễ bị mục. Loại bao lớn chứa được 70kg lúa (tức ba giạ rưỡi), khi dùng đựng gạo thì cân nặng được 100kg. Thường khi đựng gạo người ta dùng bao có một sọc xanh ở giữa nên còn gọi là bao chỉ xanh. Đây là ký hiệu một loại bao tốt được nhập khẩu. Vì chứa đựng khối lượng nhiều, trọng lượng nặng nên loại bao này chỉ dùng ở các kho chứa, các nhà máy xay xát của chành lúa gạo để tập kết chở đi Sài Gòn chờ xuất khẩu và những công nhân bốc vác ở đây mang tính chuyên nghiệp. Nhìn những công nhân vác trên lưng mình một bao chỉ xanh gạo 100kg đi ra từ nhà máy rồi bước lên cây đòn dày với hai chân run
run để lên xe tải (hồi đó quen gọi là xe hàng) mà lòng thấy xót xa. Do vậy những công nhân này khi về già thường mang bệnh hậu. Ngày nay các kho lúa gạo hay các nhà máy xay xát người ta đã cải tiến để làm giảm sự nặng nhọc của công nhân bốc vác. Băng chuyền hay những chiếc xe cây mà mỗi lần có thể chuyển được một, hai tấn được đưa vào sử dụng. Hiện đại hơn nữa là dùng máy hút lúa thẳng từ dưới ghe lên lò sấy hoặc các xilo trong kho.
Bao nylon có lẽ xuất hiện ở Nam bộ vào những năm 1960, gắn liền với việc thâm canh tăng năng suất lúa. Kết thúc thời kỳ Pháp thuộc, việc tăng sản lượng lúa để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu bằng cách mở rộng thêm diện tích
đã trở nên khó khăn. Sau năm 1954, ở Nam bộ, diện tích không những không mở rộng thêm mà còn bị hoang hóa ngày càng nhiều do điều kiện chiến tranh ác liệt. Do vậy việc duy trì hay gia tăng sản lượng lúa chỉ còn trông chờ vào kỹ thuật thâm canh tăng năng suất mà trước hết là bón thêm phân hóa học cho cây lúa. Mà phân hóa học thì chỉ đựng được trong bao nylon. Sau khi bón phân cho lúa người ta giữ cái bao đó lại, giặt sạch và dùng để đựng lúa. Hồi đó đâu có nhà máy nào chuyên sản xuất bao này bán cho nông dân đựng lúa như bây giờ, nên chỉ còn cách mót dần từng năm qua việc bón phân. Vì vậy mà đến đầu
những năm 70, những chiếc xuồng, chiếc vỏ chở lúa thu hoạch về có đủ ba loại bao: cà ròn, bao bố, bao nylon. Những năm 80 thì bao cà ròn không còn nữa. Những nhà không có bao đựng lúa thì người ta sắp xếp thời gian thu hoạch để mượn qua mượn lại, vì vai trò quan trọng nhất của nó chỉ là chứa lúa chở từ ruộng về nhà mà thôi. Về đến nhà, đổ ra sân phơi khô là người ta đem vô bồ cất giữ, chỉ khi nào đi xay hoặc đi bán mới lại cần bao. Vì những nhược điểm như cà ròn nên đến cuối những năm 80 thì bao bố chỉ còn trong các kho và nhà máy xay xát lớn. Thế kỷ 20 kết thúc cũng là thời điểm cáo chung của bao bố.
Ngày nay người ta dùng bao nylon trong tất cả các khâu. Từ chở lúa hột về nhà, đi vào nhà máy, đựng gạo đem ra chợ hay đem đi xuất khẩu vì bao nylon được sản xuất từ nguyên liệu hóa học. Đó là sản phẩm của cracking dầu mỏ nên giá thành rất rẻ, không thấm nước. Dơ thì giặt sạch xài tiếp, giữ càng kỹ thì xài càng lâu.
Đưa lúa về nhà
Lúa đã vô bao rồi, giờ phải chuyển về nhà thôi. Nếu lúa ít, gần nhà thì chủ ruộng và nhân công (hoặc những người vần công) cùng nhau từ từ vác bộ về. Nếu lúa nhiều hoặc từ sân đập về nhà hơi xa thì người ta thuê trâu kéo lúa về. Mà chỉ hơi xa thôi, chừng hai, ba chục công đất trở lại. Chớ trâu kéo xa hơn một cây số chỉ được một vài chuyến thì còn được, kéo nhiều quá thì ít có chủ trâu nào dám nhận. Lúc đó phải chọn thêm cách chở bằng đường sông. Vùng đất đồng bằng này sông rạch chằng chịt, mà con người cũng thường sống ven sông, ven lộ nên việc đưa lúa về nhà bằng hai đoạn. Trâu kéo từ sân đập xuồng bờ rạch hay sông rồi xuồng (ghe) từ bờ sông chở lúa về nhà là phổ biến nhất.
Cộ trâu giống như một chiếc giường hai tầng, gần như hình vuông, mỗi cạnh khoảng hai mét. Tầng trên có lót vạt đầy đủ, tầng dưới chỉ có bốn thanh ngang liên kết nhau mà thôi. Giữa tầng trên và tầng dưới liên kết bằng tám cây đố đứng, mỗi bên bốn cây. Quan trọng nhất là hai thanh xuôi tầng dưới dài, uốn cong lên tạo thành hai cáng cộ để cột vào ách trâu. Hai thanh trên ngắn, liên kết với hai thanh dưới ở đoạn đã uốn cong lên. Việc hai thanh dưới uốn lên là để chịu toàn bộ lực kéo và khi trượt trên mặt đất sẽ không bị vướng víu.
Cộ trâu được dùng vào rất nhiều việc như chở phân, chở lúa, chở các loại nông cụ, vật dụng cồng kềnh, nặng nề mà nhà nông khó mang vác. Trong đó việc gom lúa bó về sân đập và kéo lúa hột về nhà là phổ biến nhất. Bình thường mỗi con kéo khoảng năm bao lúa (9-10 giạ), trâu khỏe kéo được 7-8 bao (14-15 giạ). Tuy nhiên cũng tùy theo đường gần, đường xa mà người ta chất lúa lên cộ cho vừa sức, để lên nhiều quá trâu dễ bị mất sức. Có khi trâu nổi loạn, phá ách không chịu làm việc chớ chẳng chơi!
Cộ trâu
Lúa xuống bờ sông rồi phải đi tiếp đường thủy một đoạn nữa mới tới nhà. Xuồng thường nhỏ, sức chứa không quá 25 giạ (500kg) nên chỉ có người ruộng ít mới dùng chở lúa về nhà. Thường thì người ta dùng những chiếc vỏ chạy bằng máy với sức chở bốn, năm chục giạ. Máy đuôi tôm (máy BS) chạy bằng xăng có từ những năm 60, nhưng do đắt tiền nên ít người được sở hữu. Nhưng một năm chở lúa có một lần thì tiếc gì mà không mượn hay mướn để chở cho nhanh. Nếu chống bằng sào có khi cả ngày chỉ chở được một chuyến không biết chừng nào xong, chạy máy thì ngày năm, sáu chuyến là bình thường.
Bồ lúa.
Ví bồ
Do đã phơi lúa bó mấy ngày trên đồng nên khi đập ra lúa hột là coi như lúa đã khô rồi. Khi đem về tới nhà không phơi thêm cũng được, người ít lúa hay kỹ tánh thường phơi thêm chừng nửa nắng rồi mới ví vô bồ. Hồi đó việc bán lúa ngoài đồng cho hàng xáo cũng đã có nhưng hiếm lắm, chỉ những nhà có ruộng cò bay thẳng cánh phải dùng máy cày mà đạp thì mới có chuyện đó. Còn lại hầu như ai cũng chở về nhà ví bồ giữ lại, khi có giá cao hay có chuyện cần xài tiền thì mới bán. Một điểm rất đặc biệt của lúa mùa là sau khi gặt đem về xay gạo ăn liền, khi nấu cơm sẽ có nhiều nhựa, ăn chưa ngon và dễ ngán (nấu cháo là ăn ngon nhứt), lúa ví bồ (giống như được ủ) khoảng từ hai tháng trở lên ăn bắt đầu sẽ ngon dần lên.
Cà tăng hay còn gọi là mê bồ được đan bằng nan cây trúc có chiều cao từ 1,2 đến 1,5 m. Chiều dài tấm cà tăng tùy theo khối lượng lúa cần ví để tính. Nếu cà tăng làm bằng ruột tre thì phải quét một lớp phân trâu tươi rồi phơi khô thì mới dùng được, nhưng cũng chỉ dùng một lần thôi. Nếu đan bằng trúc già, gác trên giàn bếp cho ngấm bồ hóng thì xài rất lâu hư, trừ khi bị chuột khoét! Khi làm bồ, người ta dùng cà tăng quay lại vòng tròn, bên ngoài có quấn ba vòng dây để niềng, mỗi vòng cách nhau bốn tấc cho một lớp cà tăng. Hồi xưa người ta dùng trúc non chẻ ra hai, ba sợi rồi bện lại làm niềng. Sau này người ta thích dùng dây kẽm hơn vì tiện lợi khi đổ lúa vào giữ cho cà tăng ổn định không bị bung. Phía dưới đáy bồ thường lót lớp trấu từ một đến hai tấc, trải đệm hoặc tấm cao su để không cho hơi ẩm từ trong đất thấm vào lúa, sau đó đổ lúa hột vào. Nếu một lớp cà tăng không chứa hết lúa thì khi còn cách mé trên khoảng bốn tấc người ta chồng thêm một lớp cà tăng nữa. Để lớp dưới định hình cho lớp trên, sau khi quấn dây chì như lớp dưới thì tiếp tục đổ lúa vô, lúc này gọi là bồ lúa hai tầng. Thường khi đổ lúa vô phải có một người ở trong bồ, vừa can lúa ra cho đều, vừa dậm cho lúa dẽ chặt để chứa được nhiều lúa hơn. Có dậm đều như vậy bồ lúa mới tròn đều, đẹp, ít bị méo. Có người kỹ lưỡng, sau khi đổ đầy bồ, dùng tấm cao su đậy lên rồi lại khỏa lớp trấu để không cho chuột ăn. Nhưng đa số thì không đậy gì hết, gà mái tìm chỗ đẻ lên ăn thoải mái rồi ở đó đẻ luôn. Đồ đạc gì muốn cất trên cao, tiện tay cũng thảy lên bồ lúa!
Phân phối
Những bao lúa lên bồ mang nhiệm vụ quan trọng lắm. Nào là lúa giống nè, lúa để ăn trong cả năm nè, lúa để sửa lại cái nhà sau, lúa để cho đứa con lớn đi học ngoài thị xã, để giỗ chạp ông bà, đám cưới gả họ hàng lối xóm…
Nhưng không phải bao lúa nào cũng được lên bồ đâu nhé. Trước hết là phải đong lúa trả công, nào công cày, công gặt, công đập, công nhật, trâu kéo… Rồi lúa trả nợ: lúa thịt heo, lúa khúc vải, lúa bán non vì cần tiền đột xuất…Nhiêu đó là thấy cũng bộn rồi nghen. Rồi tính tới chuyện ăn Tết. Lúa mùa chín vừa trước Tết Nguyên đán mà. Đa số phải hoàn thành việc thu hoạch trước Tết. Những hộ
khá giả, ruộng nhiều phơi luôn lúa bó ngoài đồng, ăn Tết xong mới đập đem về. Có một số giống mùa muộn, nếu cấy trễ có khi qua Tết lúa mới chín. Phải xay bao nhiêu giạ để ăn vừa hết mà không bị mốc. Phải bán bao nhiêu giạ để sắm sửa đợt Tết này đây. Người lớn thì sao cũng được chứ con nít mà Tết không có một, hai bộ đồ mới, một đôi dép mới thì khó chịu lắm. Rồi phải mua nào đồ khô, đồ tươi cho gia đình đón Tết, cúng ông bà, tiếp bà con dòng họ, khách khứa…
Ôi thôi, nhà nông mà, mỗi năm chỉ có một vụ lúa, ngày rước lúa về cũng là ngày tính sổ cho cả năm. Nói rằng tất cả nhu cầu sinh hoạt của nhà nông đều quy ra lúa hay lúa gánh cho tất cả đều đúng. Năm nào mưa thuận gió hòa, không dịch bệnh thì cả nhà no ấm, chuyện học hành của con cái còn được cha mẹ quan tâm. Năm nào mưa nắng thất thường, sâu rầy phát triển thì coi như khổ rồi. Nhà khá giả, nhiều ruộng đất thì có thể vượt qua bình thường, nhà không khá, ruộng không nhiều, mà nhất là chỉ có ruộng mướn, thì coi như khỏi ăn Tết. Nội lo trả công, trả nợ cũ thì đã hết lúa rồi. Vợ chồng phải lo kiếm việc làm thuê làm mướn để sống, con cái đứa nào lớn thì đành phải hy sinh việc học để đi làm tiếp cha mẹ, lo cho mấy em. Nói vậy chớ, đã mấy trăm năm rồi, lúa mùa đã cưu mang người nông dân đồng bằng này không biết bao nhiều mà kể. Chuyện thất bát cũng chỉ là thỉnh thoảng mà thôi