Borobudur, largest Buddhist Temple in the World - Indonesia (St). Fr: Minh Đỗ Texas

23 views
Skip to first unread message

Mikali Nguyễn

unread,
Mar 29, 2025, 7:26:07 PMMar 29
to Giaitri & Kienthuc (EG)

NGÔI ĐỀN PHẬT GIÁO LỚN NHẤT THẾ GIỚI HỒI SINH


Borobudur hay Ba La Phù đồ là một ngọn tháp phù đồ Phật giáo lớn ở miền trung đảo Java, Indonesia. Borobudur được dựng vào khoảng thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 9 dưới vương triều Sailendra vốn sùng đạo Phật. Tọa lạc trên đỉnh đồi giữa vùng đồng bằng phì nhiêu, Borobudur sừng sững nổi lên giữa lòng chảo, chung quanh là núi rừng bao bọc.

Theo tính toán của các nhà khảo cổ thì ngôi đền tháp Phật giáo vĩ đại này phải mất 100 năm để xây dựng hoàn thành.

1.jpg

Borobudur – địa điểm tham quan ngoài trời rộng hơn 2.500 m2 và là ngôi đền Phật giáo lớn nhất thế giới. 

Sau khi các quy định mới được áp dụng để bảo tồn giá trị lịch sử và văn hóa di sản của đền Borobudur (Indonesia), du khách đã có những trải nghiệm rất khác khi tham quan điểm du lịch tâm linh độc đáo này.

Kỳ quan kỹ thuật cổ xưa

Ngôi đền Phật giáo Đại thừa tuyệt đẹp này gần thành phố Yogyakarta, miền Trung Java, Indonesia.

Có niên đại từ thế kỷ VIII-IX, Borobudur được xây dựng theo hình kim tự tháp trên một ngọn đồi. Borobudur ẩn mình dưới lớp tro núi lửa và thảm thực vật rừng rậm cho đến năm 1835. Công trình được cho là đã mất cả thế kỷ để xây dựng và được cấu tạo từ andesite (đá núi lửa màu xám), được cắt, vận chuyển và lát mà không cần vữa. Ngày nay, các nhà sử học không biết nhiều về việc xây dựng hoặc mục đích ban đầu của công trình. Họ vẫn đang nghiên cứu so sánh hàng nghìn bức phù điêu chạm khắc để tìm manh mối.

Công trình có 3 tầng chính, bao gồm 5 bậc thang vuông đồng tâm, 3 bệ tròn và một bảo tháp đồ sộ trên đỉnh. Cấu trúc trên đỉnh đồi 3 tầng có hình dạng của Mandala từ trên cao và bảo tháp phía trên có thể được nhìn thấy nhô lên so với vùng nông thôn đồi núi xung quanh. Mandala là một họa tiết hình tròn mang ý nghĩa rất đặc biệt trong Phật giáo và Ấn Độ giáo.

2.jpg

Về mặt thẩm mỹ, kiến trúc, trí tuệ và lịch sử, đền Borobudur được cho là đáng kinh ngạc không kém gì quần thể đền Angkor Wat của Campuchia. 

Ngôi đền cũng sở hữu bộ sưu tập 504 bức tượng Phật, 72 bảo tháp. Mỗi bảo tháp có một bức tượng của Đức Phật nằm rải rác xung quanh các bậc thang. Các bức tường và lan can của Borobudur cũng được trang trí với hơn 1.600 tấm phù điêu. Chịu tác động của thời tiết tự nhiên hơn 1.000 năm, Borobudur đã trải qua một cuộc cải tạo lớn vào năm 1970.

3.jpg
Tượng Phật không đầu tại Borobudur. 

Trong số các pho tượng còn sót lại, một số bức tượng Phật ở đền Borobudur bị mất phần đầu. Nhiều người kể rằng lý do các pho tượng Phật bị mất đầu là bởi một nhóm người địa phương đã đánh cắp và bán cho các thương lái đến từ Hà Lan, Ấn Độ và Trung Quốc.

Đền Borobudur còn có 2.670 bức tranh điêu khắc trên đá mô tả khung cảnh độc đáo của xã hội cách đây 1.200 năm. Đó là những hình ảnh cuộc sống hàng ngày ở Java vào thế kỷ thứ VIII, từ thường dân cho tới hoàng tộc, tu sĩ. Ngoài ra, ngôi đền cũng mô tả các huyền thoại trong Phật Giáo như Atula, các vị thần, Bồ Tát…

Những bức phù điêu quý giá được sử dụng như một cẩm nang tham khảo phong phú cho các nhà sử học chuyên nghiên cứu về kiến trúc, vũ khí, trang phục, tín ngưỡng, hay các phương tiện vận tải của thế kỷ VIII ở Java.

4.jpg
Năm 1991, địa danh này được ghi nhận là di sản thế giới của UNESCO. 

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã công nhận đền Borobudur là Di sản Thế giới vào năm 1991. Ngôi đền cũng trải qua nhiều lần trùng tu vào thời đó, song vẫn giữ được tính chất thần thoại, huyền bí và kỳ diệu đến mức không thể nào khám phá hết được.

Đóng cửa để trùng tu

Din, một hướng dẫn viên, cho biết anh rất vui với những thay đổi của đền Borobudur kể từ khi được mở cửa trở lại vào tháng 3 năm nay, 2025.

Ngôi đền Phật giáo lớn nhất thế giới này từng trải qua quá trình trùng tu diễn ra vào tháng 3/2020, trùng thời điểm đại dịch Covid-19 xuất hiện. Ngôi đền buộc phải đóng cửa vì tình trạng bảo tồn không tốt, bao gồm các vấn đề liên quan việc phá hoại di tích, vẽ bậy, nhai kẹo cao su…

Năm 2016, ngôi đền đã xuống cấp nghiêm trọng. Tục lệ leo lên các bảo tháp để chạm vào tượng Phật của người dân địa phương cũng là vấn đề, khiến đá dần bị mòn đi. Trước những nguy cơ ấy, tục lệ này đã bị cấm vào năm 2019.

Quy định bảo tồn mới

Theo chính phủ Indonesia, các quy định mới đã được triển khai nhằm mục đích bảo tồn ngôi đền và cũng là "bảo tồn di sản lịch sử và văn hóa".

Hiện nay, khu phức hợp đền giới hạn chỉ đón 1.200 du khách mỗi ngày với 150 khách mỗi giờ, trong 8 khung giờ. Thuế nhập cảnh đã tăng từ mức cố định 25 USD lên 90 USD (khoảng 1,4 triệu rupiah) đối với khách du lịch nước ngoài và khoảng 50 USD đối với khách du lịch nội địa.

5.jpg
Indonesia yêu cầu khách du lịch đi “dép đặc biệt” tại kỳ quan Phật giáo lớn nhất thế giới. 

Du khách được phát một loại dép đặc biệt có tên “upanat" để đi và phải có hướng dẫn viên là người địa phương theo sát.

Những chiếc dép “upanat” được làm từ lá dứa dệt, thiết kế đặc biệt nhẹ và giúp đôi chân thoải mái. Bên cạnh đó, việc sử dụng dép “upanat” từ nguyên liệu địa phương được kỳ vọng mang lại lợi ích kinh tế cộng đồng.

Để ngăn chặn rủi ro gây hại cho ngôi đền như đã đề cập ở trên, du khách cần xuất trình giấy tờ tùy thân khi mua vé và thông tin cá nhân của khách được lưu trữ trong dây đeo cổ tay, được bộ phận an ninh quét để đảm bảo tuân thủ giới hạn thời gian.

6.jpg
Nhiều quy định mới được áp dụng để gìn giữ và bảo tồn điểm du lịch tâm linh độc đáo này.

Ngoài ra, khách du lịch không được phép mang thức ăn theo khi đi tham quan ngôi đền, vì vậy mọi người không thể xả rác bừa bãi như trước.

Học sinh chỉ được phép vào sân, không được phép vào đền để giảm thiểu tình trạng dán bả kẹo cao su hay dùng bút xóa viết vẽ bậy lên điểm tham quan.

Trước đây, du khách cũng có cơ hội lên tới đỉnh đền khi mặt trời chưa ló dạng để tận hưởng khoảnh khắc bình minh, đứng giữa những bức phù điêu cổ kính, tôn nghiêm, lấp lánh nắng vàng. Tuy nhiên, với quy định mới, đền Borobudur chỉ mở cửa từ 8-16h và người dân cũng như du khách không thể tiếp cận bảo tháp trên cùng nữa.

Liên quan đến vấn đề này, hướng dẫn viên địa phương cho biết quy định giờ mở cửa mới được đưa ra do các bậc thang ở đây rất dốc, từng có quá nhiều người lớn tuổi trượt chân, ngã và bị thương khi tham quan đền lúc trời tờ mờ sáng.

7.jpg

Borobudur - Kỳ Quan Phật Giáo Lớn Nhất Thế Giới
Hiện tại, ngôi đền phật giáo lớn nhất thế giới không còn mở cửa cho du khách vào đón bình minh.

Nằm ở miền Trung đảo Java của Indonesia, Borobudur là một ngôi đền tháp Phật giáo khổng lồ nổi lên đột ngột giữa vùng lòng chảo, xung quanh là rừng rậm. Vào năm 2012, Tổ chức Kỷ lục thế Giới Guinness đã công nhận đây là công trình đền tháp Phật giáo lớn nhất thế giới.

Tên gọi Borobudur có gốc từ Vihara Buddha Ur trong tiếng Phạn, có nghĩa là "ngôi Phật tự trên ngọn đồi". Từ chân đồi khách phải leo hơn 15m mới lên tới nền đền tháp.

Ngôi đền tháp này được xây dựng trong khoảng dưới vương triều Sailendra sùng đạo Phật vào khoảng thế kỷ thứ 8 – 9.

Cấu trúc Borobudur gồm 9 tầng chồng lên nhau, tầng trên nhỏ hơn tầng dưới, tổng chiều cao 42m, tương đương chiều cao của một tòa nhà 10 tầng hiện đại.

6 tầng dưới của Borobudur có bình đồ hình đa giác với 20 cạnh, trong khi 3 tầng trên có bình đồ hình tròn – là phần tinh túy nhất của công trình.

Trên vòng tròn thứ nhất có 36 stupa (phù đồ hay tháp bà), vòng tròn thứ hai có 24 stupa. Các stupa ở 2 tầng này được gọi tên là Parinirwana và đều được đục lỗ trống chung quanh hình thoi.

Vòng tròn thứ 3 có 16 stupa, được đục lỗ trống hình vuông và gọi tên là Nirwana, bao quanh một stupa lớn nằm ở trung tâm.

Theo ước tính, nếu trèo lên từng tầng một và đi dọc chu vi của tất cả 9 tầng thì quãng đường tổng cộng sẽ là 5 km.

Các vách tường 6 tầng dưới của Borobudur đều được phủ kín phù điêu, chạm trổ rất công phu, mô tả về cuộc đời của đức Phật, các bồ tát và các anh hùng đã giác ngộ Phật pháp, cũng như các giáo lý của đạo Phật.

Tổng chiều dài các bức điêu khắc là hơn 4km. Để cảm nhận được hết nội dung của tác phẩm đồ sộ này sẽ phải mất đến 2 ngày.

Ngoài các phù điêu, còn có trên 400 tượng Phật được đặt trong các stupa và 4 mặt của Borobudur.

Theo tính toán của các nhà khảo cổ thì công trình vĩ đại này phải mất 100 năm để xây dựng hoàn thành.

Sau khi vương triều Phật giáo Syailendra sụp đổ, Borobudur đã bị bỏ hoang và lãng quên trong suốt 10 thế kỷ.

Công trình đã được một phái đoàn các nhà khoa học châu Âu, do chính quyền thuộc địa Hà Lan ở Indonesia cử đến tái khám phá vào năm 1814.

Khi đó Borobudur đã đổ nát nhiều và nằm dưới một vùng cây cối um tùm.

Người ta tin rằng ngôi đền tháp đã bị chôn vùi sau vụ phun trào lớn của núi lửa Merapi tại vùng này vào thế kỷ thứ 14.

Đây có thể là một điều may mắn, khi tro bụi đã phủ kín Borobudur, giúp hạn chế sự hủy hoại của thời gian và con người.

Sau đó, chính quyền thuộc địa đã cho dân địa phương khai quật Borobudur, và sự kì vĩ của công trình khi hiện lộ đã khiến tất cả những người chứng kiến kinh ngạc.

Vào năm 1970, chính phủ Indonesia phải kêu gọi UNESCO giúp đỡ để phục hồi toàn diện Borobudur. 600 nhà phục chế có tên tuổi trên thế giới đã tiến hành trùng tu lại ngôi đền trong suốt 12 năm trời và tiêu tốn mất 50 triệu đôla Mỹ.

Ngày nay, Borobudur đã trở lại với dáng dấp gần như ban đầu và trở thành một trong những kì quan nổi tiếng của thế giới.


Một số hình ảnh khác

Ngôi đền Phật giáo lớn nhất thế giới: Nơi ngắm bình minh và hoàng hôn tuyệt đẹp! - Ảnh 2.
Ngôi đền được xây dựng vào thế kỷ thứ 9 và được người dân địa phương gọi là "Candi Borobudur".

Ngôi đền Phật giáo lớn nhất thế giới: Nơi ngắm bình minh và hoàng hôn tuyệt đẹp! - Ảnh 3.
Lối vào chính của đền đặt tại cửa phía Đông.
Ngôi đền Phật giáo lớn nhất thế giới: Nơi ngắm bình minh và hoàng hôn tuyệt đẹp! - Ảnh 4.

Kiến trúc đền Borobudur có thể chia làm ba phần từ thấp lên cao, tượng trưng cho ba cảnh giới của cõi Ta-bà: Kamadhatu (Dục giới), Rupadhatu (Sắc giới) và Arupa Dhatu (Vô sắc giới)


Kiến trúc tổng quát của Đền Borobudur được chia làm ba phần từ thấp lên cao, tượng trưng cho ba cảnh trong giới Ta-bà: Tầng thấp nhất chính là Dục giới, tầng tiếp theo là Sắc giới những tầng trên cùng là Vô sắc giới. Borobudur là đại diện cho Phật giáo thực nghiệm đối với các tín đồ Phật giáo dưới vương triều Sailendra. Từ Đền Borobudur họ có thể hình dung quá trình tu luyện của bản thân.

Ngôi đền Borobudur bị lãng quên ở Java, Indonesia. Ảnh: Rex.

Ngôi đền Borobudur bị lãng quên ở Java, Indonesia.


Những bức tượng Phật ở Borobudor. Ảnh: Getty.

Những bức tượng Phật ở Borobudor.


Ngôi đền Borobudur bị lãng quên ở Java, Indonesia. Ảnh: Rex.

Ngôi đền Borobudur bị lãng quên ở Java, Indonesia.

Những chạm khắc chi tiết trên mặt tiền của ngôi đền. Ảnh: CNN.

Những chạm khắc chi tiết trên mặt tiền của ngôi đền.


Kiến trúc độc đáo của Borobudor. Ảnh: CNN.

Kiến trúc độc đáo của Borobudor.


Vẻ đẹp huyền ảo của ngôi đền Borobudor. Ảnh: Getty.

Vẻ đẹp huyền ảo của ngôi đền Borobudor.

Xung quanh ngôi đền là những tán lá rừng nhiệt đới rậm rạp. Ảnh: Rex.

Xung quanh ngôi đền là những tán lá rừng nhiệt đới rậm rạp. 

Vẻ đẹp huyền ảo của ngôi đền Borobudor. Ảnh: Getty.

Vẻ đẹp huyền ảo của ngôi đền Borobudor.

Đền Borobudur

Đền Borobudur

                       BOROBUDUR (Java, Indonesia) - Largest Buddhist temple in the world (full tour)

Borobudur | Largest Buddhist Temple in the World | Indonesia


Khi viếng Đền Borobudur hãy bắt đầu đi từ cổng phía Đông và đi theo chiều kim đồng hồ, ở mỗi tầng đều có bậc thang để trèo lên tầng cao hơn. Phía trên vách đá được tái hiện các cảnh tượng điêu khắc của Dục giới, bao gồm những cảnh tượng của thế giới tham dục (kamadhatu), phô bày đủ loại chúng sinh như loài người, quỷ đói, súc sinh và các cảnh tượng như tham lam, những xung năng thấp kém, tham dục và hận thù. Bắt đầu từ tầng tiếp theo là cảnh tượng của Sắc giới là những bậc thánh nhân, và sau hết là các thiên nhân thuộc Vô sắc giới. Đặc biệt, ở trên tầng cao hơn hết kể lại sự tích tiền thân của Đức Phật trong nhiều kiếp trước, sau đó là ngày đản sinh, ngày Đức Phật từ bỏ cung điện đi tìm đạo, ngày Đức Phật đạt được Giác ngộ, và ngày Đức Phật tu luyện thành đạo…
🏯🏯🏯🏯🏯

Ba La Phù đồ tọa lạc tại Magelang Regency, Trung Java, Indonesia, là ngôi chùa 9 tầng.

Toàn cảnh Ba La Phù đồ nhìn từ trên cao. Ảnh minh họa: Historia.nationalgeographic.com.es
Toàn cảnh Ba La Phù đồ nhìn từ trên cao. 


Thế kỷ VIII, Java (Indonesia) là vùng đảo tôn thờ Ấn Độ giáo nhưng cũng chính tại đây, mọc lên bảo tháp Phật giáo khổng lồ sẽ trở thành di tích Phật giáo lớn nhất thế giới - Borobudur hay còn gọi là Ba La Phù đồ. Người ta ước tính, công trình này phải tốn nhiều năm mới hoàn thành nhưng tư liệu sử học Indonesia đương thời lại không có ghi chép nào về nó cả.


Kiến trúc kỳ vĩ

Ba La Phù đồ tọa lạc tại Magelang Regency, Trung Java, Indonesia, là ngôi chùa 9 tầng được trang hoàng bởi 2.672 tấm phù điêu chạm khắc nổi và 504 pho tượng Phật.

Trong 9 tầng của Ba La Phù đồ, 6 tầng dưới hình vuông còn 3 tầng trên hình tròn. Đế của Ba La Phù đồ có kích thước 123m x 123m, diện tích tổng thể 15.129m2 và mỗi tầng vuông cao 4m.

Trung tâm tầng thượng của Ba La Phù đồ là bảo tháp lớn và vây xung quanh là 72 bảo tháp nhỏ. Các bảo tháp đều có hình chuông, bên trong lòng chuông là tượng Phật ngồi. Chiều cao từ đế đến đỉnh là 35m.

Nhìn bề ngoài, Ba La Phù đồ tương tự một kim tự tháp bậc thang. Nó được xây dựng trên một ngọn đồi tự nhiên, tốn khoảng 55.000m3 đá và loại đá được dùng để xây dựng nó là đá núi lửa được khai thác từ các mỏ lân cận hoặc dưới lòng Progo. Các viên đá được cắt mài cẩn thận và việc xây dựng là xếp chồng chúng lên nhau mà không cần vữa.

Thay vì vữa, người ta đục đẽo mộng đá như mộng gỗ và lắp ghép. Phần mái của Ba La Phù đồ cũng như hốc chuông, vòm cổng thì sử dụng kỹ thuật vòm giật cấp, tức là xếp viên đá trên nhô ra một chút so với viên đá dưới để dần tạo thành hình vòng cung vững chãi.

Ấn tượng là Ba La Phù đồ còn được trang bị hệ thống thoát nước mưa cực kỳ hiệu quả. Nó có đến 100 vòi thoát nước được lắp đặt và chúng ẩn trong các chạm khắc độc đáo là tượng đầu người khổng lồ và tượng đầu thủy quái Makara (sinh vật tưởng tượng có mõm cá sấu, mũi voi và mình cá).


Với vật liệu toàn bằng đá và quy mô lớn, ước tính thời gian hoàn thành Ba La Phù đồ phải mất nhiều chục năm. Ban đầu, các nhà khảo cổ cho rằng công trình này được bao quanh bởi hồ nước nhân tạo, mang ý tưởng ngôi chùa như bông sen mọc lên giữa hồ nhưng các nhà sử học Indonesia đã bác bỏ.

Mặc dù rất kỳ vĩ và tốn nhiều công sức, Ba La Phù đồ không được ghi chép trong tư liệu nào đương thời. Kết quả là về sau, không ai biết nó do người hay tổ chức nào thiết kế, xây dựng.


di-tim-chu-nhan-cua-ba-la-phu-do-lung-danh-2.jpgNgười Chăm nhiều khả năng là nhà kiến tạo Ba La Phù đồ. 


Kiệt tác của người Chăm?

Tháng 6/2012, Ba La Phù đồ được Guinness ghi nhận là chùa Phật lớn nhất thế giới. Giới sử học tạm đồng thuận, đây là công trình được xây dựng bởi Vương triều Sailendra. Tuy nhiên, bản thân vương triều này cũng là một bí ẩn.

Người Indonesia cho rằng, Vương triều Sailendra bắt đầu vào khoảng năm 760, sử dụng chữ Phạn và chữ Ấn Độ cổ. Cư dân Java rất giỏi thâm canh lúa nước, khai thác biển và gia tộc giàu mạnh nhất là Shailendra đã nổi lên cai trị toàn vùng.

Về mặt địa lý, Java là hòn đảo lớn, có nguồn gốc là đảo núi lửa. Vì nằm trên biển, nó phải được người di cư tìm đến thì mới có dân cư. Theo tư liệu cổ thì từ khoảng thế kỷ IV, nơi đây có vương quốc.

Năm 640, nó là Vương quốc Kalingga và từng cử sứ giả đến Trung Quốc. Đầu thế kỷ VIII, Java thuộc về Nhà Medang cực kỳ sùng bái Ấn Độ giáo, thờ thần Shiva. Tiếp nối Nhà Medang là Nhà Sailendra và tôn giáo cũng đột ngột chuyển sang Phật giáo Đại thừa.

Sự đột ngột này khiến các học giả không thể không đặt ra câu hỏi gốc gác của Nhà Sailendra từ đâu? Có người cho rằng, họ là dân Java địa phương, cũng có người cho rằng họ di cư từ Sumatra (Ấn Độ) hoặc Campuchia sang. Nhà nghiên cứu David Hatcher Childress, tác giả của Thế giới đã mất của người Chăm (The Lost World of the Cham) thì một mực tin rằng, người Sailendra xuất thân từ người Chăm.


Theo lập luận của David, người Chăm đã sinh cư ở bờ biển miền Trung Việt Nam từ thế kỷ II, nhiều khả năng đã thành lập nhà nước từ thế kỷ IV và là một thế lực mạnh thống trị khu vực Phù Nam (bây giờ là Campuchia, Indonesia và bán đảo Malaysia). Tín ngưỡng của người Chăm là sự hòa quyện giữa Phật giáo và Ấn Độ giáo.

Họ xây dựng cả đền Hindu lẫn chùa Phật cùng lúc và thờ phụng cả 2 hệ thống thần linh. Khi đến Java, người Chăm di cư vẫn giữ tục lệ này. Vì thế, việc Nhà Medang xây dựng đền thờ Ấn Độ giáo còn Nhà Sailendra xây dựng phù đồ (bảo tháp Phật giáo) không có gì mâu thuẫn.

Thực tế ở Java cũng chứng minh lập luận này của David. Cách Ba La Phù đồ không xa là quần thể đền thờ Ấn Độ giáo khổng lồ được xây dựng vào thế kỷ IX – Prambanan. Nó cũng được UNESCO công nhận là đền thờ Ấn Độ giáo lớn nhất ở Indonesia và lớn thứ 2 ở Đông Nam Á (sau Angkor Wat, Campuchia).

Vì thế kỷ IX vẫn là thời đại của Vương triều Sailendra nên nhiều khả năng, người Sailendra chính là chủ nhân của Prambanan. Nói cách khác, họ đã xây dựng cả Ba La Phù đồ lẫn Prambanan. Ở làng Sojomerto thuộc Trung Java, người ta tìm thấy một số bia đá với nội dung cho thấy người Sailendra theo Ấn Độ giáo.

Từ kết quả khai quật di tích Ba La Phù đồ, có thể thấy bảo tháp Phật giáo này được khởi công từ khoảng năm 760, trùng với thời điểm lập quốc của Nhà Sailendra. Khoảng năm 928, sau nhiều vụ phun trào núi lửa, Ba La Phù đồ bị bỏ hoang. Có lẽ, các vua Sailendra đã chuyển tới miền Trung Java an ổn hơn để ở và dĩ nhiên, bách tính của họ cũng theo chân.

Trong khi Ba La Phù đồ bị vùi lấp bởi tro núi lửa và cỏ, cây dần bao phủ thì Java vẫn phát triển không ngừng. Thế kỷ XV, hầu hết dân số đều cải sang đạo Hồi. Người ta không lãng quên Ba La Phù đồ nhưng lại gắn nó với những truyền thuyết ma quái, xem như địa điểm gở.

Phải đến thế kỷ XIX, Ba La Phù đồ mới được khai quật và thế kỷ XX thì trùng tu. Hiện, Ba La Phù đồ là một trong các địa điểm du lịch hút khách nhất Java, mỗi năm đều có hàng triệu người đến thăm.


🏯🏯🏯🏯🏯

Borobudur là một bảo tháp hùng vĩ và lớn nhất của PG thế giới và được xem là một trong 70 kỳ quan của thế giới được Tổ chức Unesco ghi nhận là một Thánh tích quan trọng và đã tài trợ để trùng tu vào năm 1973. 

 

Bảo tháp hiện nay tọa lạc ở quận Borobudur, miền Nam Magelang, Trung tâm Java, Indonesia. Quần thể kiến trúc độc đáo này được xây dựng trên một ngọn đồi  27 mét (rộng 2 cây số rưỡi), với chiều cao của tháp 32 mét, gồm có 9 tầng, 1.600.000 phiến đá chạm trổ, 504 tượng Phật, 72 tháp hình quả chuông và 1500 tháp hình tứ giác. Bảo tháp được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 7 và 8 Tây lịch. Theo các nhà khảo cổ thì công trình vĩ đại này phải mất 100 năm để xây dựng hoàn thành.  

Ý nghĩa và tên gọi của Bảo Tháp Borobudur:

Ở Ấn Độ gọi Tháp là Stùpa hay Thùpa;Trung Hoa gọi là Phù Đồ hay Phật Đồ;  Tích Lan gọi là Dagola, Miến Điện gọi là Pagoda, Tây Tạng gọi là Chorten hay Tumulus, tiếng Anh gọi là Tower... nghĩa là chỗ cao ráo trang nghiêm, nơi hội tụ công đức, ngôi lăng mộ lớn,  nơi để tôn thờ xá lợi của Phật và các vị A La Hán. Bảo Tháp đầu tiên được xây dựng tại Ấn Độ ngay sau Phật nhập diệt tại thành Câu Thi Na và Ma Kiệt Đà và về sau nó trở thành một biểu tượng quan trọng của Phật giáo. 

Danh hiệu Borobudur (Bà La Phù Đồ) phát xuất từ nguyên ngữ Sanskrit, có nghĩa là  "Ngôi chùa ở trên đồi" (Buddhist Monastery on the hill), và nhiều nghĩa khác nhau là : "Borobudur là Borobudur", nghĩa là Borobudur chỉ là một cái độc nhất vô nhị theo kiểu cách của chính nó, không giải thích, không bàn cãi được. Theo họa sĩ Nieuwenkamp thì cho rằng "Borobudur như là một đóa sen lớn rực rỡ nổi lên giữa hồ"  (a big lotus flower bud ready to bloom was floating on a lake). Ý kiến này được nhà khảo cổ N. Rangkuti (1987) đồng ý rằng hình ảnh của Borobudur trông nổi bật so với tất cả những phong cảnh bao quanh nó. Rồi từ những nghiên cứ về địa lý, các chuyên gia chứng minh rằng Borobudur vào thời điểm ấy được thiết kế ở giữa một cái hồ rất lớn, tất cả những làng mạc xung quanh Borobudur đều ở độ cao 235m so với mặt biển. Mực nước này hiện nay vẫn giống nhau so với mực nước của một cái hồ cạnh Borobudur. 

Rồi dựa trên bản khắc năm 842 TL, nhà khảo cổ Casparis cho rằng "Borobudur là một nơi để cầu nguyện" (a place for praying). Borobudur là "Vô lượng Phật" (Countless Buddhas), là "Núi công đức của các Bồ tát" (A mountain of the virtues of the Bodhisattava). Đối với người Indonesia thì định nghĩa đơn giản hơn, Borobudur có nghĩa là " ngôi chùa ở Bobur " ( Monastery at Budur), vì Budur là địa danh của Java (Indonesia cũ) và Boro được biến thể từ chữ BaraByhara, phát xuất từ chữ "Vihara" (chùa), một từ của Sanskrit. 

 Kiến trúc của Borobudur:

Borobudur quay mặt về hướng đông, có 4 cửa và 9 tầng; tầng thứ nhất  được thiết tạo những tháp hình tứ giác với những hình tượng Phật và Bồ tát được chạm trổ lên đó, đặc biệt là ghi lại toàn bộ lịch sử của Đức Phật Thích Ca Mưu Ni, vị khai sáng đạo Phật, với những quan cảnh từ đản sinh, xuất gia, thành đạo, giáo hóa và Niết bàn. Tầng thứ hai, chạm trổ những chuyện tiền thân của Phật Thích Ca được mô tả trong Jataka. Tầng thứ ba, bốn và năm là trình bày hình ảnh của các vị Bồ tát như Quan Âm, Địa Tạng, đặc biệt là chuyện Sudha gặp Bồ tát Di Lặc (Maitreya) được diễn tả trong Kinh Hoa Nghiêm. Và bốn tầng tháp còn lại phía trên là phần tháp hình quả chuông. Trong mỗi tháp đều có tôn trí hình tượng Phật. Toàn bộ 1.600.000 phiến đá lớn nhỏ của Borobudur được điêu khắc và chạm trổ một cách tinh tế, sắc sảo và đẹp đẽ đã tạo nên một vẻ đẹp hùng tráng cho Borobudur. 

Về mặt tổng thể, Borobudur được nhìn từ trên cao xuống trông giống như một đồ hình Mandala, biểu trưng cho cấu trúc của vũ trụ theo quan điểm của PG, trời tròn đất vuông (xin xem hình của Borobudur). 

Thời gian xây dựng Tháp Borobudur:

Borobudur được xây dựng từ năm 750 đến 850 TL trong khoảng thời gian của hai triều đại Sailendra và Sanjaya. 

Triều vua Sailendra trị vì một phần lớn ở Sumatra và tầm ảnh hưởng của hoàng gia này kéo dài đến miền Đông Ấn Độ. Các vị vua của triều đại này đều là tín đồ thuần thành của PG Đại Thừa, một tông phái PG xuất phát từ bắc Ấn Độ, kinh điển viết bằng ngôn ngữ Sanskrit. Triều đại này đã phát tâm kiến tạo công trình vĩ đại này vào năm 750 TL như để dánh dấu sự vững mạnh của PG tại Indonesia vào thời bấy giờ. 

Thời gian khám phá và trùng tu tháp Borobudur:

Bảo tháp Borobudur được khám phá vào năm 1814 do công của Toàn quyền Anh quốc tại Indonesia, ông Thomas Stanford Raffles, trong một tình trạng bị đổ nát và chôn vùi dưới một vùng cây cối um tùm. Người ta tin rằng bảo tháp đã bị mất tích sau cơn núi lửa xảy ra tại vùng này vào thế kỷ thứ 14. Sau đó, toàn quyền Raffles đã cho dân làng khai quật và mọi ngưòi đều sửng sốt trước “một ngôi vườn tháp” của Java vĩ đại như thế mà bấy lâu họ không hề biết. 

Đến năm 1900, chính quyền Hòa Lan tiếp thu Indonesia và họ đã thành lập một Ủy ban bảo trì Borobudur, một dự án trùng tu lại Borobudur được thực hiện ngay lập tức vào năm 1907 đến 1911 bởi tiến sĩ Th. Van Erg, một kỷ sư quân sự Hòa Lan, công trình trùng tu này đã bị ngưng lại vì những biến động của thế chiến thứ nhất (1913-1917). Trong hai thập niên 1950 và 1960, chính quyền Indonesia có nhiều chương trình trùng tu nho nhỏ. Đến năm 1967, giáo sư Soekmono, chủ tịch Viện Khảo cổ Indonesia, kêu gọi tổ chức Unessco cứu vãn Borobudur và tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc này đã ghi nhận Borobudur là một di tích lịch sử quan trọng của thế giới và đã tài trợ để trùng tu lại thánh tích này từ năm 1973 đến 1983. Công việc đại trùng tu này kéo dài ròng rả 10 năm, với 700 công nhân làm việc toàn thời, sáu ngày mỗi tuần, để khai quật, cạo rửa, tô đắp và sắp xếp lại phiến đá bị đánh cắp... đặc biệt hãng máy tính IBM đã tài trợ cho ban trùng tu một máy điện toán để giúp tính toán đo đạt và thay thế những phiến đá chạm trổ bị đánh cắp vào những chỗ trống sao cho cân xứng. 

Cuối cùng công việc trùng tu đã hoàn mãn với tổng chi phí là 25 triệu đô la, tăng gấp ba lần so với dự tính ban đầu. Trong ngày khánh tạ Borobudur, 23 tháng 2 năm 1983, Tổng thống Indonesia, ông Suharto đã phát biểu rằng : "chính quyền Indonesia luôn quan tâm đến những di sản của lịch sử và có những kế hoạch để bảo trì. Từ nay Borobudur đã có thể chịu đựng với thời gian một ngàn năm nữa....

 

Lời  kết:

  Nhiều nhà khảo cổ học và sử học tin rằng ngôi bảo tháp vĩ đại này được xây dựng bởi vua Sailendra như để biểu dương sức mạnh chính trị của mình. Cũng có ý kiến cho rằng Borobudur chỉ là sản phẩm của những vị vua Phật Giáo chuyên chế, tự nhận mình là những vị Bồ tát để thực hiện công trình vĩ đại này để vinh danh PG và cũng để tôn vinh chính mình. Cho dù mục đích của người tạo dựng ra nó là gì, Borobudur vẫn là Borobudur như thuở nào mà người Phật tử Indonesia thường gọi như vậy để nói lên niềm tự hào của mình. 

Borobudur được xem là hòn ngọc của vùng Nam bán cầu, rõ ràng Borobudur đã trở nên nổi tiếng từ khi tổ chức Unesco biết đến, hằng năm có nhiều chục ngàn người đổ xô về chiêm bái thánh tích này.  Bốn khách sạn lớn được dựng lên ở một thành phố gần Borobudur để cung ứng cho nhu cầu du lịch nơi vùng này.  

 Ngày nay Borobudur nằm giữa một thung lũng được bao quanh bởi những ngọn đồi thấp, và đặc biệt là nằm ở giữa hai con sông lớn của Indonesia là Progo và Elo. Borobudur cách 90km về hướng Đông Nam của tỉnh Semarang và khoảng 42km hướng Tây Bắc của thành phố Yogyakarta. Du khách có thể chọn xe Taxi hoặc xe buýt để viếng thăm Thánh tích nổi tiếng này. 

Nguồn gốc của khu đền Borobudur cho đến nay vẫn còn là một điều bí ẩn chưa ai khai phá được? Có nhiều ý kiến cho rằng, nguồn gốc của đền Borobudur bắt nguồn từ đất nước Campuchia - Nước cổ Phật giáo. Vào đầu thế kỷ thứ 18, hoàng triều Sanjaya theo Ấn giáo và thờ thần Shiva đã đóng đô ở vùng Bắc trung tâm Đảo Java. Một hoàng thân người Campuchia đã được hoàng triều này che chở, và sau đó ông trở về Campuchia vào năm 802 và lên ngôi vua. Nhiều người nói rằng chính ông đã đem theo về nước dự án đầu tiên của Borobudur, vì họ tìm thấy trên đất Campuchia một ngôi đền nhỏ xây bằng gạch hình tháp tương trợ với mô hình của Borobudur.

Đến năm 850 được xem là năm hoàn thành Borobudur. Tuy nhiên, vào khoảng đầu thế kỷ 18, những người buôn bán Á rập đã đưa Hồi giáo vào Indonesia. Trong vòng hai trăm năm, cả đất nước Indonesia hầu như hoàn toàn bị Hồi giáo hoá. Và đền Borobudur trở nên hoang tàn từ đó. Cho đến sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, người dân Indonesia mới dần ý thức được tầm quan trọng của Borobudur, sau đó họ liền mời các nhà khảo cổ trên thế giới đến để nghiên cứu, bên cạnh đó yêu cầu UNESCO giúp sức để trùng tu. Và sau đó một chương trình cấp thời vào năm 1948 do Liên Hiệp Quốc đưa ra đã giúp cho Borobudur thoát khỏi cảnh hoang tàn và quên lãng. Tiếp theo là một chương trình trùng tu rộng lớn hơn kéo dài từ 1973 đến 1982 do UNESCO chịu trách nhiệm với sự hợp tác của 27 quốc gia trên thế giới đã hồi phục cho ngôi Đền Borobudur. 





Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages