Đình Phan Đình Phùng ở Kiên Giang | Ks. Lê Quốc Việt

58 views
Skip to first unread message

Minh Nguyen Quang

unread,
Sep 22, 2023, 7:39:13 PM9/22/23
to giaitri

ĐÌNH PHAN ĐÌNH PHÙNG Ở KIÊN GIANG?

image.png


Ai cũng biết: Anh hùng dân tộc Phan Đình Phùng (1847-1896) lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống pháp trong phong trào Cần Vương cuối thế kỷ 19 tại Hương Khê, Hà Tĩnh. Sau khi hy sinh, ông xứng đáng là thần trong lòng nhân dân địa phương.

Tuy nhiên, đình thờ Cụ Phan Đình Phùng lại có tại ấp Gò Đất, xã Bình An, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang là điều gây nhiều thắc mắc đối với khách phương xa, kể cả trong một bộ phận không nhỏ người dân địa phương.

Trên tinh thần trân quý các giá trị truyền thống của dân tộc, chúng tôi đã nghiên cứu vấn đề và tiếp cận từ bốn góc độ: một là tài liệu lịch sử có liên quan đến vùng đất này, hai là căn cứ vào sắc thần, ba là căn cứ các câu đối hiện có tại đình và bốn là thu thập thông tin từ những bậc tiền bối.

1. Từ các tư liệu lịch sử cho thấy:

- Khu vực đất ngôi đình tọa lạc thuộc xã Vĩnh An từ năm 1808, đến năm 1910 thành làng An Phong, năm 1935 thành làng Bình An và từ năm 1956 gọi là xã Bình An cho đến nay.

- Từ năm 1757, đạo Kiên Giang được thành lập, đây là quãng thời gian người Việt đến khai phá và định cư tại vùng đất này với quy mô ngày càng đông, nhưng có lẽ việc tổ chức quản lý theo thôn, xã là chưa thể được, sau đó là giai đoạn người Xiêm dưới danh nghĩa giúp Chúa Nguyễn đã chiếm đóng, khai thác. Do vậy việc xây dựng đình trong thời gian này là không thể. Chúng tôi giả thiết rằng, ngay sau khi quân Xiêm rút khỏi vùng đất Nam Bộ (1799), đặc biệt là sau khi Chúa Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long (1802), người dân quần cư ở đây bắt đầu phát triển nhanh, ban đầu chính quyền quản lý lỏng lẻo xem như một thôn đặt tên là Vĩnh An, nhân dân phấn khởi trong không khí hòa bình nên đã xây dựng ngôi đình và được triều Nguyễn đưa vào quản lý hành chính theo cấp xã năm 1808 gọi là xã Vĩnh An.

2. Từ sắc thần:

Sắc phong thần do vua ban của đình được bảo quản tại nhà trưởng tộc, hiện trạng tuy có bị mục, rách một phần nhưng bút tích còn khá rõ ràng, khi đến lễ cúng chánh vào trung tuần tháng Giêng thì thực hiện nghi thức thỉnh sắc về đình đễ người dân chiêm bái.

Dịch âm sắc thần của đình như sau:

"Sắc Bổn cảnh thành hoàng chi thần, nguyên tặng Quảng Hậu Chánh Trực Hựu Thiện chi thần, hộ quốc tí dân nẫm trứ linh ứng tứ. Kim phi ưng cảnh mạng, miến niệm thần hưu, khả gia tặng Quảng Hậu Chánh Trực Hựu Thiện Đôn Ngưng chi thần. Nhưng chuẩn Kiên Giang huyện, Vĩnh An thôn y cựu phụng sự thần. Kì tương hữu bảo ngã lê dân. Khâm tai!”

Tự Đức ngũ niên, thập nhứt nguyệt nhị thập cửu nhựt.

[Sắc mạng chi bảo].

Dịch nghĩa:

“Sắc cho Thành hoàng bổn cảnh, vốn được tặng danh hiệu "Quảng Hậu Chánh Trực Hựu Thiện chi thần", giúp nước che dân từng nhiều phen hiển hiện linh ứng. Nay ta ít đức mà lãnh sứ mạng lớn, luôn nghĩ về công đức của thần nên tặng thêm danh hiệu Quảng Hậu Chánh Trực Hựu Thiện Đôn Ngưng chi thần. Nhưng vẫn chuẩn cho thôn Vĩnh An, huyện Kiên Giang thờ phụng như cũ. Thần phải tương trợ để bảo vệ dân đen của ta. Kính đấy!".

Ngày 29 tháng 11 năm Tự Đức thứ năm.

[Có đóng dấu "Sắc mạng chi bảo"]

Sắc thần đã khẳng định tên gọi của đình khi xưa là Vĩnh An. Vấn đề đặt ra là tại sao lại ghi Vĩnh An thôn? Có hai giả thiết: một là đình được xây dựng khi Vĩnh An còn là thôn, chưa nâng lên thành xã, hai là vào năm 1852 vua Tự Đức ban sắc phong thần cho rất nhiều đình ở Miền Nam nên cơ quan phụ trách việc soạn thảo sắc thần thực hiện theo một mẫu chung, chỉ thay đổi địa danh. Đây là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.

3. Từ các câu đối trong đình

Theo tài liệu còn lưu giữ, ngôi đình khi xưa có nhiều câu đối, sau hai lần bị chiến tranh tàn phá, ngôi đình được xây dựng mới từ năm 1975 chỉ còn giữ lại một số câu đối mà thôi. Thời điểm năm 2013, bên trong đình có tám câu đối bằng chữ Hán Nôm đắp nổi trên hai hàng cột, hàng thứ nhất có bốn câu, hàng thứ hai có bốn câu.

Được sự giúp đỡ chí tình của ông Lê Công Lý (Tiền Giang) và ông Đỗ Trọng Hùng (Khánh Hoà), chúng tôi sắp xếp được bốn cặp đối hoàn chỉnh sau đây:

Cặp thứ nhất, hàng cột thứ nhất:

春至豪家迎百福

Xuân chí hào gia nghinh bách phước

Xuân tới, ngôi nhà rạng rỡ đón trăm điều phúc.

日和風送竹平安

Nhật hòa phong tống trúc bình an

Ngày êm đềm trôi như gió thổi qua khóm trúc mang bình yên đến.

Cặp thứ hai, hàng cột thứ hai:

永轉帝庭生瑞色

Vĩnh chuyển đế đình sanh thụy sắc

Thường xuyên thay đổi khiến đình có thêm nhiều màu sắc tươi xinh .

安城廣願似神恩

An thành quảng nguyện tự thần ân

(Thánh đã đến) giữ yên đất này, công đức, tâm nguyện lớn lao ấy như ơn đức của Thần.

Cặp thứ ba, hàng cột thứ nhất:

永廣民居神德戊()

Vĩnh quảng dân cư thần đức mậu

Đức của vị thần này thấm nhuần rộng khắp và bền vững lâu dài trong dân cư nơi đây.

安刊舍美聖皇恩

An sang xá mỹ thánh hoàng ân

Nhờ ơn của Vua (hoặc người tạo ra vùng đất) mà xây dựng được ngôi nhà đẹp đẽ này.

Cặp thứ tư, hàng cột thứ hai:

永盛黎民祈聖降

Vĩnh thạnh lê dân kỳ thánh giáng

Muốn phát triển thịnh vượng lâu dài nên dân chúng cầu Thánh (chỉ 1 ai đó) xuống (giúp)

安新聖座繞祥光

An tân thánh tọa nhiễu tường quang

Bố trí sang chỗ mới làm cho chỗ ngồi của Thánh (chỉ ban thờ) lộng lẫy ánh sáng đẹp đẽ.

Như vậy, nếu lấy chữ đầu của các cặp đối trong đình ghép lại chúng ta thấy có ba lần từ Vĩnh An được nhắc lại.

4. Từ thông tin thu thập được

Trong quá trình thu thập thông tin, chúng tôi được tiếp cận một tài liệu vô cùng quý giá của ông Nguyễn Văn Sô (1915-1996). Ông chính là người con của vùng đất này, từ khi trưởng thành cho đến khi mất đi, ông có nhiều đóng góp rất lớn cho vùng quê cũng như ngôi đình này. Tâm sự của ông được kể lại qua bút tích của người con dâu (cô Trần Thị Thanh Phụng) vào năm 1984 như sau:

“Xã Vĩnh An có ngôi đình cổ - Đình Vĩnh An – Hiện nay được cất tại thửa đất trên bờ rạch Thông Lưu giữa xóm Xà Xiêm củ. Từ đầu thế kỷ thứ 19, tổ tiên chúng tôi từ Miền Đông xuống Miền Tây đồng bằng sông Cửu Long khai khẩn đất hoang, lập nghiệp thành cánh đồng lúa trù phú. Để đoàn kết chống nạn thú dữ, tương trợ nhau khi đau ốm, neo đơn, góp sức phá rừng, cha ông chúng ta đã tập họp thành xóm ấp, tuy là khác tông nhưng tình đoàn kết keo sơn coi nhau như ruột thịt. Thậm chí có người đã cải họ của mình để được đồng họ với nhau. Cuộc sống chung chạ, ông cha ta cần tổ chức cuộc sống có quy củ, có kỷ cương nên lập làng ấp noi theo cổ lệ thời xưa, tạo nên ngôi đình làng để cùng nhau hàng năm họp mặt thờ cúng một thần linh mà các vị đã thành khẩn tin tưởng là giúp bá tánh trong làng được yên ổn mưu sinh, tránh mọi bệnh tật nguy hiểm và cầu cho quốc thới dân an, mưa hòa gió thuận, mùa màng tốt đẹp.

Ngôi đình làng Vĩnh An đầu tiên cất tại vịnh Ông Tạo. Lúc thiếu thời (lúc ông Sô còn nhỏ) thấy trên khoảnh đất lá dừa nước nhô lên một cây sao cổ thụ cành lá sum xê đánh dấu nơi ngôi đình củ tọa lạc. Cách nay 100 năm, ngôi đình được dời về chỗ hiện nay. Năm 1921, tôi vừa 7 tuổi đầu, đi học ở trường làng, trường bé, khép nép nằm cạnh ngôi đình. Lúc đó, tôi còn nhớ ngôi đình rất to lớn, vách gạch, lợp ngói, có đủ chánh điện, võ ca và võ quy. Trước đình có cây dương cao, cây sao to và hai cây điệp lớn giao cành nhau, mùa hè trổ bông đỏ rực, bên hông mặt đình cây tràm, gốc to hai người ôm. Góc đình phía sau bên phải gần cây trôm còn có một giàn gừa, chằng chịt rễ trùm lên miều ông hổ. Cảnh này chứng minh làng ta ngày xưa có rừng, có cọp beo, heo rừng … sinh sống, cũng theo quy luật thịnh suy, chịu cảnh tang thương của chiến tranh giành chủ quyền cho đất nước.

Năm 1946, ngôi đình bị giặc Pháp đốt rụi võ ca. Năm 1952, đồng bào trong xã tuy phân tán nhiều vì chiến tranh, nhưng cũng cố gắng tạo lại ngôi đình củ, cất lại võ ca bằng lá. Mặc dù gặp khó khăn nhưng với tinh thần tôn cổ…và lòng sùng bái bổn cảnh thành hoàng nên việc cúng tế vẫn được tổ chức hàng năm dù không linh đình bằng những ngày chưa chiến tranh.

Năm 1963, bà con trong làng chung sức tạo lại ngôi đình, võ ca được cất lại bằng thiếc khá khang trang, lòng dân hồ hởi với ngôi đình mới này. Sự tế tự có tăng thêm đôi phần.

Năm 1972, chiến tranh diễn ra ác liệc tại khu vực này, một lần nữa ngôi đình bị tàn phá chỉ còn lại bốn đài trụ của ngôi chánh điện, đứng vững mà thôi.

Năm 1975, Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đồng bào bám trụ và những người di cư lần lượt trở về, cùng nhau góp sức xây dựng lại ngôi đình hiện nay, một ngôi đình thô sơ với một tòa chánh điện và một võ quy lợp thiếc. Việc cúng tế, tinh thần theo cổ lệ được phục hồi.

Những cây trôm, cây gáo, cây sao, cây dương, cây điệp cổ bị đốn phá nay đã được bà con trồng lại chỗ củ.

Đình Vĩnh An nay thờ cụ Phan Đình Phùng, người lãnh đạo phong trào kháng Pháp nổi tiếng với trận Hương Khê kéo dài trên 10 năm. Mặc dù ngôi đình còn đơn sơ, không tráng lệ như xưa nhưng với sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của chính quyền địa phương cùng lòng quan tâm cao độ của toàn thể nhân dân trong ấp, ngôi đình sẽ được xây dựng lại trong một ngày gần đây.”

Theo các cụ cao niên, sau khi bị bom đạn phá hủy năm 1972, các vị chức sắc trong Đình, dưới sự hỗ trợ của ông Nguyễn Văn Sô, lúc đó là Thư ký Quận Kiên Thành, ông Nguyễn Thanh Triều (tên thường gọi Chín Triều, Xã trưởng xã Bình An thời bấy giờ) đã yêu cầu chính quyền quận thực hiện chính sách bồi hoàn “nạn nhân chiến cuộc” để xây dựng lại ngôi đình, nhưng quan điểm của chính quyền địa phương lúc đó cho rằng thờ thành hoàng bổn cảnh là không cụ thể nên không chấp nhận, những người đại diện dân làng mới thống nhứt lấy tên vị anh hùng dân tộc Phan Đình Phùng (việc lựa chọn này cũng rất cân nhắc để không trùng các anh hùng dân tộc đã được phụng thờ ở các ngôi đình khác trong tỉnh) và được chính quyền quận Kiên Thành chấp nhận đưa vào danh sách bồi thường. Vì vậy ngôi đình mang tên Đình Phan Đình Phùng từ năm 1972, đến năm 1973 được cất lại bằng thiếc, năm 1983 mới được sửa chửa lớn và cất lại bằng ngói như hiện nay (2013).

Kết luận: Đình Phan Đình Phùng tọa lạc tại ấp Gò Đất, xã Bình An, huyện Châu Thành có tên gốc là đình Vĩnh An, được xây dựng khoảng đầu thế kỷ 19, vị trí đầu tiên tại vịnh Ông Tạo, nơi tọa lạc hiện nay là vị trí thứ hai. Đình đã bị chiến tranh phá hủy hai lần, năm 1946 và năm 1972. Từ năm 1972 đến nay mang tên đình Phan Đình Phùng nhưng vẫn đồng thời thờ thành hoàng bổn cảnh, các bậc tiền hiền, hậu hiền của vùng đất này và việc cúng tế vẫn được duy trì như xưa.

Theo chúng tôi, việc trả lại tên gốc cho ngôi đình có lịch sử trên dưới 200 năm là không cần thiết nhưng cần làm rõ lịch sử để tránh gây ngộ nhận cho nhiều người khi mang tên gọi như hiện nay. Mặc khác cũng cần đề nghị chính quyền địa phương xem xét công nhận đậy là di tích văn hóa-lịch sử cấp tỉnh, điều này hoàn toàn xứng đáng với công sức cha ông chúng ta đã dựng nên một di tích văn hoá truyền thống và truyền lại cho các thế hệ hôm nay./.

Châu Thành, tháng 10 năm 2017

Lê Quốc Việt

Giaitri&Kienthuc

unread,
Dec 29, 2023, 9:19:15 PM12/29/23
to Giaitri&Kienthuc
Bổ sung hình ảnh:

Vào lúc 06:39:13 UTC+7 ngày Thứ Bảy, 23 tháng 9, 2023, KiếnThức&GiảiTrí đã viết:
Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages