Tập V: Các vấn nạn khó hiểu trong sự kiện Đức Phật viên tịch
* Đây là tập tiếp theo của loạt bài:
Đức Phật tu sai cách nên bị ung thư bao tử mà chết (Factcheck)* Xin nhắc lại đây là những phân tích theo logic thông thường dựa theo Kinh điển chính thống của Phật giáo, lược bớt các huyền bí tôn giáo.
* Phân tích ở đây là theo giả định rằng các sự kiện nói trên là có thực hay gần với sự thực lịch sử do Kinh điển chính thức của Phật giáo ghi chép lại, không phải là Kinh điển Ngụy tạo (Buddhist Apocrypha).
---o0o---
Ở các tập trước, kinh điển cho thấy có các sự kiện xảy ra như: Tôn giả A nan làm thinh, không đáp lời khi Đức Phật ngỏ ý muốn sống thêm trọn kiếp; Ma Ba Tuần nhiều lần thúc ép Đức Phật sớm diệt độ; Đức Phật đã biết món Sūkara - maddava có độc mà vẫn ăn và bộc phát bệnh mà qua đời...
Sau đây là những điều khó hiểu:
1. Có sức ép làm Phật sớm phải diệt độ?
Ma Ba Tuần đã 4 lần thúc ép Đức Phật diệt độ nhưng đến lần thứ 4 Ngài mới miễn cưỡng hứa sẽ nhập niết bàn trong 3 tháng nữa.
- Nếu loại bỏ sự xuất hiện của Ma Ba Tuần, coi đây là huyền bí tôn giáo, thì liệu ở đoạn kinh này có ý muốn nói có 1 thế lực ẩn danh nào đó ép Đức Phật sớm diệt độ?
- Tôn giả A Nan có thể có vai trò gì trong việc này khi không đáp lời mong muốn kéo dài sự sống của Đức Phật, không đem nước cho Ngài uống khi Ngài khát nước trầm trọng, cần bù nước để kéo dài sự sống trong lúc mất máu... để sau này bị Đức Phật trách móc và bị Đại hội Tập kết Kinh điển lần 1 nêu danh kiểm điểm?
2. Tại sao biết món ăn có độc mà không ai phản ứng gì?
Các lời nói lạ thường của Đức Phật khi ăn: chỉ dọn cho 1 mình Ta, chỉ có ta mới tiêu hóa nổi, hãy chôn thức ăn thừa... có sự chứng kiến của Cunda và ít nhất là A Nan (thị giả theo sát Đức Phật và có khả năng cao nhất là người đã ghi nhận lại sự việc này trong Kinh điển) nhưng tại sao các người này lại không thắc mắc hay phản ứng gì mà vẫn dọn món ăn đó ra cho Ngài thọ dụng?
3. Tại sao Đức Phật biết món Sūkaramaddava có độc mà vẫn ăn?
Sự kiện Đức Phật thọ dụng món ăn Sūkaramaddava có độc do Cunda dâng cúng được ghi nhận tại Kinh Trường bộ tập 1 và Kinh Đại Bát Niết Bàn
Sự việc này dẫn đến 1 số câu hỏi khó có lời giải như:
- Có phải Ngài xả bỏ tuổi thọ và quyết định ăn món ăn độc ngoài ý muốn vì lời hứa với Ma Ba Tuần hay chịu 1 sức ép sớm diệt độ nào đó?
- Bữa ăn của Cunda là 1 trong những bữa ăn chiêu đãi bình thường trong cuộc đời Ngài. Nhưng tại sao Ngài lại ca ngợi bữa ăn này có công đức vô lượng cao hơn tất cả, sánh bằng với bữa ăn của nàng cư sĩ Sujata đã giúp Ngài sống sót để tu thành chánh đạo? Có phải là do đã biết bữa ăn này của Cunda sẽ giúp cho Ngài tiếp cận đến cái chết, hoàn thành lời hứa diệt độ?
Liên quan đến chủ đề trên có 1 số chú giải sau:3.1. Đức Phật biết mình sắp chết nên đã thọ dụng món ăn và qua đó muốn độ cho cư sĩ Cunda vì nhân duyên và tâm thành kính của Cunda và tạo phước báu vô lượng cho ông. Giải thích này có vẽ miễn cưỡng với lời Đức Phật dạy: "Không nên tự làm khổ mình, khổ người và khổ cho cả hai" vì thực tế là sau khi dùng món ăn này:
- Đức Phật bị bệnh lỵ huyết (kiết lỵ), chịu đau đớn dữ dội và viên tịch
- Dù cho có được Đức Phật trấn an bằng lời tán dương trên, Cunda vẫn phải hối hận dằn dặt và chịu mang tiếng là người đã dâng món ăn có độc cho Đức Thế Tôn.
Sau này Cunda có được phước báu gì hay không thì Kinh điển không ghi chép lại. Tuy nhiên sự kiện này có mâu thuẫn với lời Phật dạy nói trên.
3.2. Nhà sư Thích Nhật Từ:
Lúc nhận cúng dường của Thuần Đà, Ngài đã không dùng đến Thiên nhãn Thông nên không biết thức ăn này có độc....
* Xem lại ở Tập 3 (mục III.3)
3.3. Nhà sư Thích Thông Lạc: đoạn kinh trên được thêm vào để hủy báng Phật pháp, làm cho kinh Phật mất hết ý nghĩa:
Hãy coi video dưới đây được cho là của thầy Thích Thông Lạc: Tại sao Đức Phật biết nấm độc mà vẫn ăn - Bậc A La Hán Thích Thông Lạc
Lập luận ở đây nói rằng:
- Việc Đức Phật biết nấm độc mà vẫn ăn là 1 sự giả dối không thể nào tha thứ được vì Đạo Phật là đạo trí tuệ Chuyển hóa nhân quả. Biết nấm độc, không cho tỳ kheo ăn mà mình lại ăn là không trí tuệ, là điều vô lý, nhất là khi Đức Phật đã thông hiểu luật nhân quả.
- Luật nhân quả là đạo luật chuyển hóa bằng thiện pháp. Đức Phật đã tu hành chứng đạo, sống toàn thiện tức là đã chuyển hóa được nhân quả. Ngài đã làm chủ hoàn toàn, muốn sống chết đều theo ý muốn của Ngài: Này A-Nan, người nào thường xuyên tu tập bốn môn thần túc, có thể tùy ý muốn sống đến một kiếp hay hơn một kiếp cũng được. Này A Nan, Như Lai đã nhiều lần tu tập bốn món thần túc này, chuyên chú nhớ mãi không quên. Bởi vậy cho nên Như-Lai tùy ý muốn sống một kiếp hay hơn một kiếp cũng được để diệt trừ sự tăm tối cho đời, đem lại lợi ích cho Người và Trời.
- Đức Phật đã làm chủ nhân quả mà chịu ăn nấm độc để chịu kiết lỵ ra máu mà chết, làm chủ nhân quả mà để cho nhân quả làm chủ mình thì là điều hết sức vô lý.
- Đoạn kinh này là do người sau không biết luật "Nhân quả chuyển hóa" nên xen đoạn kinh này vào để che đậy sự tu hành không làm chủ được lão bệnh tử. Chắc chắn đoạn kinh này là do các Tổ thêm vào để dựng nên thuyết "Nhân quả định mệnh", tức nhân quả cố định không thay đổi được để chỉ rõ pháp môn Đại Thừa và Thiền tông không làm chủ được sinh lão bệnh tử.
- Nếu đúng nhân quả là định mệnh thì đạo Phật không tuyên bố làm chủ sinh lão bệnh tử, đạo Phật không ra đời vì ra đời có làm ra lợi ích gì cho ai.
- Các học giả đã phỉ báng đạo Phật trong đoạn kinh này, phỉ báng Phật Pháp tăng, đây là kinh sách phát triển do các tổ Bà La Môn khéo léo xen vào để phá hoại kinh pháp của Đức Phật.
- Chính Đức Phật chết không vì bệnh đau chết mới là đúng nghĩa của đạo giải thoát...
Lập luận này khó hiểu vì các lý do sau:
- Sinh bệnh lão tử là quy luật tất yếu, là lẽ vô thường của cuộc đời con người, có nguồn gốc từ Đạo Phật. Quy luật này được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giác ngộ và thuyết giảng trong bài Kinh Chuyển Pháp Luân đầu tiên
- Tu tập thành đạt hay Chuyển hóa nhân quả có thể giúp con người giảm bớt nghiệp lực, từ đó giảm bớt khổ đau hay có thể kéo dài tuổi thọ và hướng đến giác ngộ. Tuy nhiên, nó không thể thay đổi được quy luật sinh tử hay tránh khỏi cái chết.
- Tuy Đức Phật có nói đã tu tập được 4 môn thần túc, có thể tùy ý muốn sống đến một kiếp hay hơn một kiếp cũng được và Đức Phật cũng tỏ ý muốn sống thêm để diệt trừ sự tăm tối cho đời, đem lại lợi ích cho Người và Trời... Nhưng kết cục là Ngài đã chết!
- Không thấy chỗ nào nói đạo Phật tuyên bố có thể làm chủ được quy luật sinh lão bệnh tử. Từ trước đến nay, không có nhà tu hành Phật giáo dù tu theo pháp môn nào mà có khả năng thoát khỏi quy luật trên.
- Về đoạn kinh nói trên do ai đó, Tổ Bà La Môn (?), cố tình đưa vào để phỉ báng Phật Pháp Tăng thì chưa từng thấy có nghiên cứu nào nói đến. Muốn nói như vậy phải kinh điển minh chứng mới có thể phủ nhận được các lời dạy trong Kinh Phật và thay thế bằng các đoạn kinh tương ứng mang tính lịch sử khác.
- Nên nhớ, các học giả Phật giáo đã thống nhất: Kinh tạng Nikaya là Tập hợp kinh điển chính của Phật giáo Nguyên thủy, được xem là có độ tin cậy cao nhất và được chấp nhận rộng rãi bởi hầu hết các truyền thống Phật giáo. Trong 5 bộ Nikaya thì có 4 bộ đầu đáng tin cậy, chứa đựng lời dạy của Đức Phật; còn bộ sau cùng là do người đời sau tương tác xen vào với nhiều vấn đề. Trong đó, Dīgha Nikāya (Trường Bộ kinh), nói về cái chết của Đức Phật nói trên, là bộ kinh đầu tiên (được tin cậy).
4. Có sự xung đột nào trong nội bộ Phật giáo dẫn đến cái chết của Đức Phật?
4.1. Có 1 số trường hợp xung đột trong tăng đoàn xuất phát từ mâu thuẫn cá nhân, ganh tỵ hoặc bất đồng quan điểm.
Có sự kiện các Tỳ kheo bất hòa tranh cãi xuất hiện trong thời Phật còn tại thế.
Nhóm Lục quần Tỳ kheo là những ví dụ điển hình. Câu chuyện tại Kosambi là một sự kiện đặc biệt nổi tiếng khi vị sư trì luật và vị sư trì kinh cùng đồ chúng tranh cãi nhau dẫn đến bất hòa trong Tăng. Sự việc căng thẳng đến nỗi Đức Phật phải bỏ vào rừng ẩn cư, cho đến khi mọi người nhận ra lầm lỗi của mình, thành tâm sám hối, mâu thuẫn chấm dứt Ngài mới trở về.
4.2. Vụ Đề Bà Đạt Đa (Devadatta):
Đề Bà Đạt Đa có tham vọng muốn kế vị Đức Phật làm người lãnh đạo Tăng đoàn nên đã thực hiện nhiều hành động để mưu sát Phật, chia rẽ cộng đồng Phật giáo và chống lại Đức Phật:
- Đề xuất những quy tắc tu hành hà khắc, trái ngược với lời dạy của Đức Phật.
- Xúi giục một số Tỷ-kheo ni theo mình và lập ra một giáo phái mới.
- Âm mưu ám sát Đức Phật, nhưng không thành công: thả voi điên ra, ném đá sắc nhọn làm chân Phật chảy máu.
Tuy nhiên ông ta lâm bệnh nặng trên đường đến gặp Đức Phật, gần cổng tu viện Jetavana và trước khi chết ông đã thành thật hối hận về hành động của mình và quy y Đức Phật (có kinh nói Đề Bà Đạt Đa chết do đất rút và bị tái sinh vào địa ngục A Tỳ)
4.3. Khác biệt quan điểm người kế thừa tăng đoàn sau khi Đức Phật nhập diệt:
Nguồn tư liệu Kinh và Luật tạng cho thấy, sau khi Phật nhập diệt trong tăng đoàn hình thành hai quan điểm "trọng kinh" của A Nan và "trọng luật" của Ca Diếp. Hai quan điểm này được thể hiện rõ trong 2 nguồn tư liệu khác nhau là Kinh và Luật.
- Luật tạng cho rằng, Ca Diếp là vị kế thừa sau khi Phật nhập diệt.
- Tuy nhiên, quan điểm này không được chấp nhận bởi Kinh tạng. A Nan công khai phủ bác vì khi Phật còn tại thế không trao quyền lãnh đạo tăng già cho bất cứ ai và tăng chúng cũng chưa bao giờ mở cuộc họp chỉ định hay mời vị nào thay thế cho Phật để lãnh đạo chúng tăng....
Tuy nhiên các sự kiện trên là không nghiêm trọng (chư tăng bất hòa), chấm dứt khi Phật còn tại thế (Đề Bà Đạt Đa đã chết) và xảy ra sau khi Phật nhập diệt (sự khác biệt về quan điểm kế thừa tăng đoàn) nên chỉ đề cập thêm cho biết, không có chứng cứ cứ gì liên quan gì đến việc Đức Phật diệt độ.
MS (còn tiếp)