Con người & Sự kiện liên quan đến việc Đức Phật nhập diệt - Google Groups

25 views
Skip to first unread message

Minh Nguyen Quang

unread,
Jul 16, 2024, 9:56:20 PM7/16/24
to alphonsefamily, giaitri
Tập III. Con người & Sự kiện liên quan đến việc Đức Phật nhập diệt 

* Dẫn nhập:
1/ Đây là tập thứ III, tiếp theo của loạt bài:
Đức Phật tu sai cách nên bị ung thư bao tử mà chết (Factcheck)
image.png

2/ Tập này nêu ra những chi tiết để dùng làm căn cứ minh chứng cho các tập sau. Cái nhìn ở đây là theo logic thông thường, lược bớt các huyền bí tôn giáo
Các tập này sau khi hoàn chỉnh sẽ đăng thành bài độc lập. Bắt đầu từ tập này sẽ đánh số thứ tự từng chỉ mục để dễ tham khảo đối chiếu sau này
3/ Các bình luận nếu có sẽ đăng ở cuối cùng của loạt bài này

---o0o---

Sự kiện bữa ăn cuối cùng của Thế Tôn trước khi nhập Niết bàn do Cunda (Thuần Đà, Châu Na) dâng cúng được đề cập đến trong các kinh như kinh Đại Bát Niết Bàn (Trường Bộ I), kinh Du Hành (Trường A Hàm I), kinh Đại Bát Niết Bàn (Bắc bản), kinh Niết Bàn (Nam bản)Có thể tham khảo tại đây: 

1. Cunda là ai?
1.1. Đây là Cunda Kammaraputta (Cunda con thợ rèn)  Kusinara nhằm phân biệt với Cunda Thera hay Maha Cunda (Cunda Trưởng lão)Nhiều bản dịch nói đây là con trai người thợ kim hoàn, thợ rèn, thợ kim loại, hay thợ bạc.  
image.png

* Tìm hiểu thêm thì thấy Cunda không phải người nghèo mà ngược lại. Trong  Kinh Niết Bàn, Cunda được giới thiệu như là một "thợ rèn giàu có"(setthi). Ông ta là chủ khu vườn xoài ở Pāvā (vườn xoài là 1 tài sản có giá trị lúc đó). Ông ta đã chuẩn bị một bữa ăn thịnh soạn với nhiều thực phẩm thượng vị không chỉ cho 1 mình Đức Phật mà cho cả đám đông các đệ tử của Ngài đến viếng nhà, thể hiện sự giàu có và lòng hiếu khách của ông.

2. Loại thức ăn Cunda dâng cúng cho Đức Phật là gì?
Đây được coi là nguyên nhân dẫn đến cái chết của Đức Phật
2.1. Theo từ gốc: đây là món Sūkaramaddava 
image.png
Tranh Cunda đang làm món Sūkaramaddava  

Trong Kinh Mahāparinibbāṇa, Đức Phật Gautama và một nhóm tỳ khưu ở lại vườn xoài của Cunda và được Cunda cúng dường một bữa ăn. Bữa ăn bao gồm các món cứng và món mềm: gạo nếp, bánh ngọt và Sūkaramaddava... 
Sūkaramaddava được dịch khác nhau tùy theo truyền thống Phật giáo. Vì từ này được sáng tác bởi sūkara, có nghĩa là con lợn và maddava , có nghĩa là mềm mại, dịu dàng, tinh tế nên có thể có hai lựa chọn thay thế:
Thịt lợn hay thịt lợn rừng mềmthịt của một con lợn rừng không quá già cũng không quá non..
Những gì lợn hay lợn lòi ưa thíchđể chỉ 1 loại nấm hoặc khoai mỡ hoặc củ.  

Ý tưởng rằng bữa ăn cuối cùng của Đức Phật bao gồm thịt lợn thường được giới Phật phái Nguyên thủy ủng hộ; ngược lại giải thích đây là nấm, 1 món ăn chay theo phái Đại thừa, được trình bày ở tôn phái này.
Điều này phản ánh những quan điểm truyền thống khác nhau về việc ăn chay của Phật giáo và giới luật của các hệ phái Phật giáo.

2.2. Ngoài 2 nghĩa chính nói trên, Sūkara - maddava còn được dịch ra theo nhiều cách hiểu khác nhau gây ra nhiều tranh cãi của giới học giả Phật giáo: Nấm, Nấm chiên đàn, Nấm mọc trên cây đàn hương, Mộc nhĩ, Nấm Truffles, Thịt heo phơi khô xay nhuyễn, Măng hoặc Nấm mọc ở nơi bị heo dẫm đạp (maddita), Món ngon chế biến từ thịt heo rừng, Loại dược thảo mà heo rừng ưa thích... 

2.3. Món ăn dâng Phật  1 bát cháo hay canh, có chỗ nói là cơm cà ri Sūkara - maddava

* Không tìm thấy chỗ nào nói đây là "nấm heo" (?) như nhà sư Thích Nhật Từ đã nói và cũng không tìm thấy đây là loại nấm gì? Nói theo cách như vậy là thiếu tôn trọng, không thích hợp với món ăn dâng cúng cho Đức Phật, trong khi Cunda đã tự tay làm và dành cho Đức Phật 1 món ăn trân quý nhất, nhằm tỏ lòng quý trọng Ngài. Ông ta cũng không phải vì quá nghèo nên đi mót nấm heo rừng cho Phật ăn như ngài Thượng tọa nói.

3. Đức Phật đã nói gì với Cunda khi thọ dụng món ăn:
3.1. Trước khi ăn: Sau khi đã ngồi xong, Đức Phật nói với Cunda, con trai người thợ kim hoàn: “Cunda, ngươi có thể dâng cho ta món sukara-maddava do ngươi chuẩn bị và phục vụ những thức ăn khác cho đoàn chúng tỳ khưu. Chớ đem món này dâng cúng cho chư Tăng".
Tuân lời, theo đó Cunda phục vụ món sukara-maddava được đích thân chuẩn bị cho Đức Phật và phục vụ các món ăn còn lại cho chư Tăng chúng .
3.2. Sau khi dùng bữa xong: Đức Phật bảo: "này Cunda, hay đem chôn món  sukara-maddava còn lại, bởi Ta không thấy 1 ai trong thế gian này bao gồm chư thiên, Ma, Phạm, và dân chúng, cùng với chúng sa môn, Bà la môn, và mọi người, có thể ăn mà tiêu hóa được món này, trừ Như Lai" 
Cunda vâng lời, ông đem chôn món sukara-maddava còn lại xuống hố
Sau khi dùng món ăn của Cunda, Thế Tôn bị nhiễm bệnh nặng, bệnh lỵ huyết, đau đớn gần như đến chết, và Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác, nhẫn nại, chịu đựng cơn bệnh.... 
Vì sự việc này mà Cunda đã vô cùng hối hận vì đã vô tình đầu độc Đức Phật.

* Ở trên đây ta thấy Đức Phật đã biết trước món ăn có độc cả trước và sau khi ăn. Kng ai lại cẩn thận dặn dò như vậy khi ăn, các yêu cầu lạ thường nhưchỉ dọn cho 1 mình Ngài ăn, không dọn cho người khác; Hãy chôn thức ăn thừa còn lại để không ai có thể đụng tới và Lời nói khẳng định: không ai ở trên đời này có thể tiêu thụ được món ăn này, ngoài Ta...đã cho thấy rõ như vậy.

Tuy nhiên trong 1 video về chủ đề liên quan của Thích Nhật Từ (TNT):
Vấn đáp: Sự việc đức Phật ăn phải nấm độc | TT. Thích Nhật Từ
image.png

Vì sao Đức Phật biết rõ nấm độc mà vẫn ăn? Nhà sư TNT trả lời (tóm tắt):
Đức Phật đã chứng đc được Thiên nhãn thông, tức Tuệ giác, nên có thể thấy rõ được sự việc xảy ra trong quá khứ và tương lai. Nhưng không phải lúc nào Đức Phật cũng mở Tu giác này (mở van) mà phải định tâm thiền định trong vòng 1 , 2 giây để m ổ khóa về Thiên nhãn minh. Lúc nhận cúng dường của Thuần Đà, Ngài đã không dùng đến Thiên nhãn Thông nên không biết thức ăn này có độc, ăn vào có thể dẫn đến cái chết của mình...

Phát biểu của nhà sư TNT phủ nhận Đức Phật đã biết thức ăn có độc, khác biệt với ghi nhận ở Kinh điển nói trên. Không rõ căn cứ vào đâu mà ngài này lại nói như vậy và không tìm thấy Kinh sách nào ghi chép lại cách giải thích lạ lùng đó. Còn việc tại sao biết mà vẫn ăn ta sẽ bàn tiếp ở Tập sau.

4. Câu chuyện giữa Đức Phật và Tôn giả A Nan nói về Cunda:
Sau khi thụ trai, đức Phật giảng pháp cho ông Châu Na nghe xong, Ngài và đại chúng lại tiếp tục đi, trên đường đi đức Phật hỏi Tôn giả A-nan-Đà:
- Ông Châu Na có ý gì hối hận không?
Tôn-giả A nan Đà đáp:
- Thưa Thế Tôn, ông Châu Na cúng dường đức Phật như thế không được lợi phúc gì cả, vì sau khi Như Lai thụ trai tại nhà ông thì Ngài nhập diệt.
Đức Phật dạy:
- Chớ nói như vậy, chớ nói như vậy. Hiện nay Châu Na được lợi ích lớn là: “Được sức khoẻ tốt, được tiếng tốt, được sống lâu, có nhiều của cải tiền bạc, đến khi qua đời được sinh lên cõi Trời muốn chi có nấy”, tại sao vậy? Vì: người cúng dàng Như Lai lúc thành đạo cũng như người cúng dàng Như Lai lúc sắp nhập Niết Bàn, công đức của hai người này không hơn không kém. Vậy thầy hãy đến báo cho Châu Na biết.
Tôn-giả A-nan-Đà vâng lời dạy của đức Phật, liền trở lại báo tin mừng cho ông Châu Na biết; Đức Phật đi được một đoạn đường nữa thì bệnh tình phát khởi trầm trọng, nên Ngài phải dừng lại nghỉ dưới một gốc cây....

* Đoạn trên đây cho thấy: trong suốt 49 năm tu đạo và hoằng pháp, Đức Phật Thích Ca đã thọ nhận không biết bao nhiêu sự cúng dường của Phật tử khắp gần xa ở xứ Ấn Độ thời bấy giờ. Nhưng trong vô số sự cúng dường đó, Đức Phật xác nhận có 2 sự cúng dường đặc biệt nhất, có phước báo to lớn nhất và ngang nhau, đó chính là bát cháo sữa của nàng cư sĩ Sujata (cứu Ngài để sau đó Ngài tìm ra con đường Trung đạo tu thành chánh quả) và canh nấm của anh thợ rèn Cunda (lúc sắp nhập niết bàn).
image.png

5. Câu chuyện giữa Đức Phật, Tôn giả A nan và Thiên Ma Ba Tuần liên quan đến cái chết của mình:
Đây là đoạn xảy ra sát trước khi gặp Cunda để thọ dụng:

Khi đức Phật đi đến ngôi tháp Già ba La, Ngài bảo Tôn giả trải tọa cụ (“niṣidana”: là tấm vải nhỏ để trải ra ngồi thiền) dưới gốc cây để Ngài nghỉ tại đấy, khi Tôn giả trải tọa cụ xong, đức Phật an tọa rồi bảo:
- Này A-Nan, người nào thường xuyên tu tập bốn món thần túc, có thể tùy ý muốn sống đến một kiếp hay hơn một kiếp cũng được. Này A Nan, Như Lai đã nhiều lần tu tập bốn món thần túc này, chuyên chú nhớ mãi không quên. Bởi vậy cho nên Như-Lai tùy ý muốn sống một kiếp hay hơn một kiếp cũng được để diệt trừ sự tăm tối cho đời, đem lại lợi ích cho Người và Trời.
Lúc đó Tôn giả A nan Đà nghe rồi làm thinh không thưa hỏi nói năng chi cả, Đức Phật lại nói lần thứ hai, Tôn giả vẫn làm thinh; Đức Phật lại nói y như thế lần thứ ba, Tôn giả cũng vẫn làm thinh, vì lúc đó bị ma si ám, mê man không hiểu để thưa thỉnh, rồi đức Phật bảo:
- Này A-Nan nên biết, nay đã phải thời (đến giờ).
Tôn-giả A-nan-Đà vâng ý chỉ, đứng dậy đảnh lễ rồi lui ra, đến một gốc cây không xa ngồi thiền.

Chỉ trong chốc lát Ma Ba-Tuần đến thưa với Phật (lần 1):
- Sao Ngài chưa sớm vào Niết bàn? nay đã đúng thời rồi, xin Ngài mau diệt độ.
- Thôi, thôi Ba Tuần, ngươi đừng nói nữa, Ta đã tự biết thời. Như Lai giờ đây chưa vội vào Niết bàn, vì Ta cần đợi các Tỳ kheo về đông đủ; trong số đó có những đệ tử đã khéo chế ngự được thân tâm, mạnh dạn không khiếp sợ, họ thường sống trong an ổn. Họ không những việc lợi mình đã làm xong, mà còn làm thầy để dẫn dắt kẻ khác, hiện đang truyền bá chính pháp, giảng giải nghĩa lý; nếu họ gặp chủ thuyết ngoại đạo, họ đủ sức đem chính pháp và sự tự chứng ngộ cùng thần biến của mình ra để hàng phục chúng, nhưng mà những đệ tử ấy chưa về. Lại có những Tỳ kheo (Tăng), Tỳ kheo Ni (Ni), Ưu Bà Tắc (Cư sĩ Nam), Ưu Bà Di (Cư sĩ Nữ) cũng chưa quy tụ; vả lại Ta muốn truyền phạm hạnh một cách sâu rộng, và phổ biến giáo lý giác ngộ cho hàng Trời-Người đều biết và thấy thần biến.
Ma Ba-Tuần thưa (lần 2):
- Khi xưa, Ngài ở bên bờ sông Ni Liên Thuyền thuộc xứ Uất Tỳ La, và lúc ở dưới gốc cây A du Ba Ni câu Luật khi Ngài mới thành đạo Chính-Giác, những lúc ấy tôi đã đến thỉnh Ngài nên vào Niết bàn; nay đã đúng lúc rồi, vậy xin Ngài hãy mau mau diệt độ.
Đức Phật lại trả lời:
- Thôi, thôi, Ba Tuần, Ta tự biết thời, Như Lai chưa vội vào Niết bàn, mà cần đợi các đệ tử trở về, và cho đến hàng Trời Người đều biết và thấy được thần biến, Ta mới nhập diệt.
Ma Ba Tuần lại thưa (lần 3):
- Thưa Ngài, nay các đệ-tử của Ngài đã nhóm họp, và cho đến hàng Trời - Người đã thấy thần biến, nay đã đúng lúc rồi, sao Ngài chưa diệt độ?
Đức Phật bảo:
- Thôi, thôi, Ba Tuần, Ta tự biết thời, còn không bao lâu nữa, sau tháng này, Ta sẽ ở nơi sinh quán đời trước của Ta, giữa cây Long Thọ, trong rừng Ta La thuộc xứ Câu thiLa mà nhập Niết bàn.
Lúc ấy Ma Ba Tuần nghĩ: “Phật không bao giờ đổi ý, không bao giờ nói dối, và chắc chắn là Ngài sẽ diệt độ”, nên vui mừng nhảy nhót rồi biến mất.

Sau khi Ma Ba-Tuần biến đi không lâu, đức Phật nhập định Ý-tam-Muội mà xả bỏ tuổi thọ; ngay lúc đó cõi đất rung động mạnh, nhân dân cả nước đều kinh sợ, lông tóc dựng ngược....

Sáng hôm sau, đức Phật bảo Tôn-giả A-nan-Đà đến Hương Pháp nhóm họp hết thảy các Tỳ  kheo chung quanh vùng đến giảng đường Hương Pháp. Tại đấy, đức Phật dạy các Tỳ kheo:
- Ta do những Pháp sau đây mà tự chứng ngộ thành bậc Chính Đẳng Chính Giác, đó là: “Bốn Niệm Xứ, Bốn Ý Đoạn, Bốn Thần Túc, Bốn Thiền, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Giác Chi, và Tám Chính Đạo”. Vậy các thầy hãy ở trong giáo pháp ấy siêng năng tu học, cùng nhau hưng say (hưng thịnh say sưa) phát triển. Các thầy hãy khéo thụ trì tùy theo trường hợp mà tu hành, tại sao vậy?, vì không bao lâu nữa, Như Lai, sau 3 tháng sẽ nhập Niết bàn.
Các Tỳ kheo nghe Phật nói như thế, hết sức sửng sốt kinh hoàng, hoang mang tột độ, gieo mình xuống đất, giậm chân đập tay, cất tiếng kêu than: “Tại sao đức Thế Tôn diệt độ quá sớm? Tại sao con mắt thế gian diệt mất quá mau? Tại sao đức Thế Tôn bỏ chúng con bơ vơ? Chúng con sẽ không còn nhìn thấy đức Thế Tôn nữa. Chúng con sẽ mất đức Thế Tôn mãi mãi v.v.”
Có Tỳ kheo thương cảm lăn lóc, cũng như rắn bị chém đứt làm hai, quằn quại, run rẩy, ngẩn ngơ, không còn biết gì cả.
Một lúc trôi qua như thế, đức Phật bảo:
- Các thầy hãy dừng cơn bi lụy, chớ ôm lòng sầu muộn, vì từ Trời, Đất cho đến chư Thiên, Người, Vật, không một cái gì là không thành trụ hoại diệt (sinh ra, phát triển, biến dạng, diệt mất), không một sinh vật nào sinh ra mà không chết đi. Nếu các thầy muốn cho các pháp hữu vi không biến dịch thì không được. Hơn nữa trước đây Ta đã từng giảng rằng: “Ân ái là vô thường, nếu có xum họp ắt phải có chia lìa, nhất là thân này không phải của ta, mạng sống không tồn tại mãi mãi được”.
Rồi Ngài nói tiếp: Ta sở dĩ khuyên bảo như thế vì tối hôm qua Thiên Ma Ba Tuần đã đến thỉnh Ta nhập Niết bàn ba lần, tới lần thứ ba Ta đã chấp thuận lời thỉnh cầu ấy, và sau đó Ta đã xả bỏ tuổi thọ rồi.

Bấy giờ Tôn giả A nan Đà đứng dậy, quỳ gối phải, chắp tay thưa:
- Cầu mong đức Thế Tôn thương xót chúng sanh, hãy sống thêm một kiếp, không nên diệt độ sớm, để làm lợi ích cho Trời và Người.
Khi ấy đức Phật im lặng không đáp, Tôn giả A nan Đà thưa thỉnh lần thứ 2, đức Phật cũng vẫn im lặng, Tôn giả thưa thỉnh lần thứ 3, lúc ấy đức Phật mới nói:
- Này A Nan, thầy 3 lần làm phiền Ta, Thầy đã đích thân nghe từ Như Lai nói là người nào tu tập bốn pháp Như ý túc một cách chuyên chú không quên, nên tùy ý muốn kéo dài mạng sống trong một kiếp hay hơn một kiếp cũng được. Như-Lai đã tu tập bốn pháp Như ý túc một cách chuyên chú không quên, có thể tùy ý kéo dài tuổi thọ trong một kiếp hay hơn một kiếp, Thầy đã được Ta nhắc đi nhắc lại tới ba lần như thế; tại sao lúc ấy thầy không thỉnh cầu Như-Lai sống một kiếp hay hơn một kiếp? Nay thầy mới nói há không trễ muộn hay sao? Ta ba lần hiện tướng, thầy 3 lần làm thinh. Sau đó không lâu, Thiên Ma tới, thỉnh cầu Ta nhập Niết bàn 3 lần, Ta đã hứa với Thiên Ma, và Ta đã xả bỏ tuổi thọ tối hôm qua; một khi đã xả bỏ, nhổ bỏ, mà muốn cho Như Lai hành động trái với lời nói của mình sẽ không bao giờ có sự kiện ấy.

* Ở trên đây ta thấy có Đức phật ngỏ ý muốn sống thêm cho trọn kiếp hay hơn một kiếp (kalpa: rất nhiều năm, xấp xỉ: 10^14 nămmức thọ mệnh dài nhất trong tiểu kiếp là 84.000 tuổi) nhưng bị sức ép hay bị ngăn trở bởi:

1. Thiên Ma Ba Tuần thúc giục Phật sớm diệt độ và Ngài đã hứa...:
Thiên ma Ba Tuần là Ma Vương trú ngụ và cai quản cõi Trời thứ sáu - cõi Trời Tha Hóa Tự Tại (cõi Trời cao nhất trong cõi Trời Dục Giới).

image.png

Ngoài việc cố gắng ngăn cản Phật Thích Ca đạt được Giác ngộ bằng đội quân của mình và hình ảnh những người phụ nữ xinh đẹp, quyến rũ, được cho là con gái của mìnhMa vương còn nhiều lần thúc giục Đức Phật sớm diệt độ (sớm chết) để ngăn cản Phật truyền bá chánh pháp. Y đã hiện ra 2 lần để thực hiện ý đồ này:

Lần 1Năm xưa, Đức Phật tu dưới gốc cây bồ đề khi Ngài mới thành đạo , Y đã đến thỉnh Ngài nên vào Niết bàn.
image.png

Lần 2Như ở đoạn kinh trên, khi đức Phật đi đến ngôi tháp Già ba La (3 tháng trước khi diệt độ), y lại tái xuất hiện và thêm 3 lần thúc giục Ngài hãy mau mau diệt độ, sao chưa diệt độ... Lần nào Ngài cũng lấy cớ này cớ nọ để từ chối. Nhưng cuối cùng Thế Tôn đã hứa với y là sẽ diệt độ trong 3 tháng nữa

2. Những hành vi kỳ lạ của tôn giả A Nan:
Tôn giả A Nan là người hầu cận theo sát Đức Phật ở mọi nơi
image.png

2.1. Khi đó Đức Phật khen quang cảnh tươi đẹp và ngỏ ý muốn sống thêm. Ngài nói, theo sở đắc tu tập thần túc của Ngài, Ngài nói có thể tùy ý kéo dài tuổi thọ và muốn sống 1 kiếp hay hơn một kiếp để diệt trừ sự tăm tối cho đời, đem lại lợi ích cho Người và Trời. Nhưng Đức Phật gợi ý đến 3 lần  tôn giả A Nan làm thinh không nói gì! Nếu A Nan thỉnh cầu Ngài sống thêm thì Ngài sẽ nhận lời, không phải hứa với Ma Vương là sẽ diệt độ trong 3 tháng.  
Sau này Tôn giả mới 3 lần thỉnh cầu Phật hãy ở lại cho đến trọn kiếp vì lợi ích cho chúng sanh. Nhưng Phật nói đã thời gian cầu khẩn ấy đã qua  ngài đã chấp thuận lời thỉnh cầu của Ma vương mà đã xả bỏ tuổi thọ rồi.

Vì hành vi này Đức Phật đã trách tôn giả:
Này Ananda, một thời Ta ở Vesàli tại điện thờ Udena. Tại đấy, này Ananda, Ta cũng nói. "Này Ananda, khả ái thay Vesàli, khả ái thay điện thờ Udena. Này Ananda, những ai đã tu bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo thời, nếu người ấy muốn, có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại. Dầu vậy, này Ananda, Ngươi không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng, sự hiện tướng quá rõ ràng của Như Lai, Ngươi không thỉnh cầu Như Lai: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người". Này Ananda, nếu Ngươi cầu thỉnh Như Lai, Như Lai có thể bác bỏ hai lần cầu thỉnh, nhưng đến lần thứ ba, Như Lai có thể nhận lời. Này Ananda, như vậy là lỗi của Ngươi, như vậy là khuyết điểm của Ngươi.

2.2. Đức Phật bị ly huyết nên mất nước, khát nước trầm trọng. Ngài đã khẩn thiết yêu cầu A Nan lấy nước uống. Nhưng tôn giả viện cớ nói có khoảng 500 cỗ xe chạy qua, do bánh xe khuấy lên làm nước vẩn đục không uống được, nên phải đi đến con sông sắp tới mới có nước trong...Giục mãi đến lần thứ 3 Tôn giả mới đi lấy nước thì có nước trong tại đó. Ngay sau đó, Đức Phật có giải thích rằng vì nước sông luôn tuôn chảy và sẽ cuốn trôi các chất vẩn đục. Việc này A Nan sao lại không biết? 

Vì cả 2 hành vi trên mà Tôn giả A Nan đã bị kiểm điểm suýt mất ghế thành viên tại đại hội Tập kết kinh điển Phật giáo lần 1 do Đại Ca Diếp làm chủ tọa. 
https://thuvienhoasen.org/a10439/05-ton-gia-a-nan-da-da-van-de-nhat
image.png

Đại hội này đã đưa A Nan ra kiểm điểm buộc phải sám hối do 5 tội thiếu trách nhiệm trong bổn phận làm thị giả của Đức Phật. Trong đó có tội:
1/ Không cầu xin Đức Phật sống trường thọ. Khi Đức Phật già yếu, Ngài nói với Ānanda rằng trên thực tế, một vị Phật có thể sống trong một kiếp. Trước câu nói này, Ānanda không nói gì, và Đức Phật nhập niết bàn tháng sau đó. Ānanda sau đó bị buộc tội im lặng, không yêu cầu Đức Phật ở lại trần gian trong một kiếp.
* A Nan trần tình: không phải tôi không muốn thỉnh Phật trụ thế lâu dài, nhưng vì ác ma Ba Tuần che mờ tâm trí của tôi, nên tôi không thưa thỉnh...

2/ Lúc ở gần thành Kusinara, trong lúc mất máu suy kiệt, khát nước và mặc dù đã 3 lần khẩn khoản yêu cầu. Nhưng mượn cớ nước không sạch, A Nan đã không lấy nước cho Phật uống. Đã biết Đức Phật có đại thần lực, có thể khiến nước đục trở thành trong, A Nan vẫn không lấy nước dâng Phật.
* Nan trần tình: không phải là tôi không dâng nước cho Phật, nhưng vì bấy giờ có 500 chiếc xe vừa đi qua phía trên dòng sông khiến cho nước đục sợ uống vào sinh bệnh, nên tôi không lấy nước cho Thế Tôn...

MS
(Còn tiếp)

Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages