Báo cáo: “Quyền các-bon rừng ở Việt Nam – Thực tiễn và một số vấn đề lý luận”

14 views
Skip to first unread message

Thu Le

unread,
Nov 11, 2025, 9:07:28 PMNov 11
to forest-car...@googlegroups.com
Kính gửi Quý thành viên Mạng lưới,

Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện các cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính theo Công ước khung của Liên Hợp Quốc và Thỏa thuận Paris, rừng được nhìn nhận như một trụ cột quan trọng trong chiến lược đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Sau hơn ba thập kỷ bảo vệ và phát triển rừng, ngành lâm nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực, song hệ thống pháp luật hiện hành vẫn thiếu các quy định cụ thể về quyền các-bon rừng — bao gồm quyền sở hữu, quyền giao dịch và quyền sử dụng nguồn thu từ kết quả giảm phát thải. Báo cáo “Quyền các-bon rừng ở Việt Nam: Thực tiễn và một số vấn đề lý luận” được thực hiện nhằm:
  • Phân tích khuôn khổ pháp lý và thực tiễn hiện nay liên quan đến quyền các-bon rừng;
  • Nhận diện những hạn chế, khoảng trống pháp lý;
  • Đề xuất hướng xác định quyền các-bon rừng và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành.
Báo cáo xác định ba thành tố cốt lõi cấu thành quyền các-bon rừng, gồm:
  • Quyền sở hữu các-bon được hấp thụ, lưu giữ trong rừng;
  • Quyền mua bán, chuyển nhượng kết quả giảm phát thải hoặc tín chỉ các-bon;
  • Quyền hưởng lợi từ việc giao dịch các kết quả giảm phát thải/tín chỉ các-bon rừng.
Báo cáo cũng làm rõ nguyên tắc xác định quyền sở hữu các-bon rừng theo loại hình rừng:
  • Đối với rừng tự nhiên và rừng trồng do Nhà nước đầu tư, quyền sở hữu các-bon rừng thuộc Nhà nước;
  • Với chủ rừng được giao rừng thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước có thể công nhận quyền sở hữu sau khi kết quả giảm phát thải và tín chỉ các-bon được xác định, thẩm định và ghi nhận đóng góp vào NDC quốc gia;
  • Đối với rừng sản xuất do tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng đầu tư, quyền sở hữu các-bon rừng thuộc về các chủ rừng đó.
Báo cáo khẳng định các-bon là sản phẩm mới của rừng, tương tự như các sản phẩm hữu hình khác (gỗ, củi, nhựa, quả...) nhưng có tính vô hình, đòi hỏi cơ chế phân phối nguồn thu phù hợp với chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) và thông lệ quốc tế.
Nhóm nghiên cứu đề xuất một số kiến nghị sửa đổi chính sách pháp luật:
  • Sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự 2015, Luật Lâm nghiệp 2017, Luật Quản lý và sử dụng tài sản công;
  • Bổ sung quy định coi các-bon được hấp thụ và lưu giữ trong rừng là một loại lâm sản;
  • Tăng cường quản lý Nhà nước đối với các-bon rừng, bao gồm điều tra, kiểm kê, xây dựng cơ sở dữ liệu và bản đồ các-bon rừng;
  • Xây dựng quy trình thẩm định, phát hành tín chỉ và cơ chế chia sẻ lợi ích cho các chủ rừng;
  • Giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường là cơ quan đầu mối quản lý nhà nước về các-bon, và Cục Lâm nghiệp – Kiểm lâm là đơn vị giúp Bộ triển khai các nhiệm vụ này.
Quý anh/chị có thể đọc toàn văn báo cáo tại:  Quyền các-bon rừng ở Việt Nam: Thực tiễn và một số vấn đề lý luận
Trân trọng,

Ms. Lê Thu
Điều phối viên, Mạng lưới EUDR Lâm nghiệp
Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages