Trưa 2/11/1999, lúc tôi đang là phóng viên thường trú tại
Hà Nội... VTV đưa tin về trận lũ lịch sử ở Huế. Tin
“chay”, không có hình vì đường truyền bị tê liệt do
lũ. Tối hôm ấy mới có những hình ảnh đầu tiên về
Huế và Đà Nẵng. Dù đã quá quen với thông tin về thiên
tai nhưng ít ai có thể tưởng tượng trận lũ lại kinh
hoàng đến vậy...
23 giờ khuya, tôi tiếp tục dán mắt vào chương trình
thời sự cuối ngày. Chuông điện thoại reo. Tổng Biên
tập gọi: “Có xem truyền hình không?”. Tôi đáp đang
xem. Ông hỏi tôi có dự định gì. Tôi ngần ngại:
“Chắc các báo đều đã gửi phóng viên đến Huế, ta là
tuần báo, e khó cạnh tranh thông tin”. Liền sau đó, tôi
nhận thêm một bài học: “Không phải là chuyện cạnh
tranh thông tin. Bạn đọc có quyền đặt câu hỏi phóng
viên báo ta đứng ở đâu khi lũ cướp đi hàng trăm mạng
người dân Huế!”. Ông cho biết lúc này không có chuyến
bay nào từ TP.HCM đi Huế và Đà Nẵng nên Toà soạn không
thể cử phóng viên ra Huế. Tôi phải tìm cách có mặt ở
Huế và phải chuyển về những thông tin, hình ảnh nóng
nhất trước giờ đưa báo vào nhà in!
Sân bay Đà Nẵng và Phú Bài đều ngưng hoạt động, không
có chuyến bay dân sự nào cất, hạ cánh. Tôi thức trắng
một đêm nghĩ cách. 4 giờ 30 sáng, tôi gọi Trung tướng
Nguyễn Huy Hiệu - Phó Tổng Tham mưu trưởng quân đội (nay
là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng). Nhờ sự can thiệp của
ông và Trung tâm Tìm kiếm Cứu nạn quốc gia, tôi được
“quá giang” chiếc trực thăng MI-17 của Không quân vào
Huế. Đến nơi, tôi lại được đi theo trực thăng bay
thả hàng ở Phú Vang, Phú Lộc. Đang lũ, lại còn áp
thấp. Mưa tối trời, chục cuộn phim 100ASA tôi mang theo
trở thành vô dụng. Rất may, ngay trên trực thăng, một
đồng nghiệp nhượng lại cho tôi mấy cuộn phim có độ
nhạy 1600ASA. Tối đó, về khách sạn, chúng tôi lùng sục
khắp nơi nhưng không có hiệu ảnh (Photo MiniLab) nào hoạt
động. Cuối cùng, một ông thợ tráng phim thủ công nhận:
“Tráng dùm mỗi nhà báo một cuộn nhưng không rọi”.
Tôi muốn phát khùng lên sau khi đã cố gắng đến kiệt
sức để vào Huế chụp mấy cuộn phim, giờ thành công
cốc...
Ngọc Trường - phóng viên Thông tấn xã Việt Nam kéo tay
tôi: “Để tao giúp”! Anh lôi trong ba lô ra cả chục
cuộn phim đã chụp và bảo: “Ngồi cắt từng đoạn sáu
tấm...”. Vậy là cái máy scan phim của Ngọc Trường
biến thành báu vật, thành vị cứu tinh. Nói ra thì... quê
song đến lúc ấy, tôi mới biết trên đời này có một
loại máy biết đọc phim và chuyển ảnh thành file vào máy
tính, không cần phải qua công đoạn rọi ảnh.
Hàng chục nhà báo có mặt tại Huế chen nhau vào căn phòng
12m2 của tôi và Ngọc Trường nhờ đọc ảnh dùm... 1 giờ
sáng, Trường chỉ tay vào màn hình: “Một ngôi làng ở
Nam Đông chìm trong biển lũ - Chiều nay mày không đi Nam
Đông, chắc chắn không có tấm này. Cho mày!”. Tôi hỏi
ảnh của ai, anh gãi đầu: “... Của một trong số hai
chục thằng phóng viên ảnh nãy giờ nhờ anh em mình scan
phim. Tao thấy đẹp nên lưu luôn vào máy tính. Nhiều ảnh
quá, không nhớ của ai”. Tôi tặc lưỡi: “Thôi thì đa
tạ anh Ngọc Trường, đa tạ quý dồng nghiệp nào đó. Mai
kia mốt nọ có ai phát hiện ra ảnh của mình thì làm ơn
lên tiếng. Đức Hiển hứa trả nhuận ảnh gấp chục
lần và đãi một chầu nhậu”. Hứa xong mới biết mình
bị lừa, Ngọc Trường tỉnh bơ: “Hứa thì nhớ giữ
lời, ảnh này tao chụp bằng máy kỹ thuật số!”.
Điện thoại di động của Ngọc Trường bị vô nước,
vậy là điện thoại của tôi trở thành đồ xài chung.
Chiếc máy xách tay nối mạng của Trường cũng vậy. Ba
giờ sáng, tôi gửi xong toàn bộ ảnh về địa chỉ e-mail
của Toà soạn rồi thức trắng đêm viết bài. Sáng sớm,
uống xong ly cà phê, Tổng Biên tập gọi ra: Đã nhận
được toàn bộ bài và ảnh! Ngày hôm sau, đồng nghiệp
gọi tôi, mô tả lại trang báo vừa phát hành: Thư ngỏ
của Ban Biên tập và bài tường thuật với chục tấm
ảnh của tôi dàn kín hai trang báo. Một ông cụ ở quận 4
đọc xong, thuê xe chở ngay đến Toà soạn hai tấn gạo
gửi đồng bào Huế!
Khi nhận lệnh lên đường, tôi chỉ chăm chăm chuyện làm
sao vào đến Huế. Những ngày ở giữa tâm lũ, mới thấy
nỗi lo vẫn còn phía trước. Có lẽ tôi đã không thể
tự mình xoay sở nếu không có sự trợ giúp từ những
phương tiện hiện đại của đồng nghiệp...
Bây giờ, sau bảy năm gắn bó với nghề, những phương
tiện kỹ thuật số không còn xa lạ với tôi nữa. Trong
những chuyến công tác xa, khi cần bảo mật tư liệu vừa
thu thập được, tôi vẫn thường gửi tất cả (ảnh và
các file ghi âm) vào một trong những hộp thư điện tử
của mình rồi xoá file trong máy đi. Hết đợt công tác,
về tới Sài Gòn mới mở e-mail ra nhận lại. Máy tính cá
nhân và máy ghi âm kỹ thuật số cho phép tôi biên tập
những đoạn phỏng vấn mà không chờ trả băng tới, lui
như trước. Muốn tìm lại một đoạn ghi âm cũ, chỉ cần
nhấp chuột. Đôi khi chợt nghĩ tới ngày xưa, những lần
theo dõi các kỳ họp Quốc hội, khổ sở vì chụp xong
ảnh là chạy ra Lab rửa ảnh rồi gửi phát chuyển nhanh
về Toà soạn, mất cả ngày. Giờ thì tất cả các công
đoạn ấy chỉ tính bằng phút...
Con đường tiếp cận với công nghệ thông tin (CNTT) của
tôi giống như với một “người tình nhỏ”: Nhận ra
những điểm hấp dẫn, rồi mê, rồi “dan díu” không
bỏ được. Khác chăng là nếu cô nhân tình ngoài đời
rồi sẽ già và xấu đi, càng ngày càng dễ cáu kỉnh, sự
khó thương tăng dần theo đà tàn phai của nhan sắc thì
người tình CNTT lại ngày càng đẹp, càng đắc dụng và
chẳng bao giờ ghen... Ngay cả vợ tôi cũng ghen với “cô
bồ nhí nhiều dây” này. Nửa đêm mà vẫn còn ngồi
trước màn hình máy tính thì thế nào nàng cũng bảo:
“Anh ôm máy tính ra salon ngủ nhé!”.
(*) Thư ký Toà soạn báo Pháp Luật TP.HCM