” Một ứng viên tiêu biểu đã trả lời: “Đó chính là tính chặt chẽ của
hợp đồng”. Nhiều người khi đó đã nghi ngờ tính nghiêm túc trong câu
trả lời của ứng viên này, nhưng Bill Gate không nghĩ vậy. Ông đã cho
ứng viên này điểm tối đa và nhận anh ta vào làm việc.
Trong khi đa số các Công ty của Việt Nam hiện nay chưa quan tâm nhiều
đến vấn đề này, vẫn sử dụng những mẫu hợp đồng khuôn sáo, đơn điệu –
“năm câu ba điều”, khó hiểu và thậm chí lạc hậu so với pháp luật hiện
hành. Hậu quả là khi thực hiện hợp đồng rất khó khăn, dễ xảy ra tranh
chấp và thường bị thua khi kiện tụng. Tình trạng này do nhiều nguyên
nhân: văn hóa kinh doanh trọng tín hơn trọng lý, quy mô kinh doanh còn
nhỏ, chưa có bài học đau xót trong giao thương quốc tế nên chưa sợ…đặc
biệt là còn thiếu hiểu biết pháp luật và kỹ năng soạn thảo hợp đồng
thương mại. Đó cũng chính là lý do tác giả viết bài này.
1. Những điểm chung cần quan tâm khi soạn thảo hợp đồng thương mại
(http://sinhvientdt.com/f/showthread.php?p=88145)
a) Soạn thảo Dự thảo hợp đồng trước khi đàm phán:
Soạn dự thảo hợp đồng (bước 1), đàm phán, sửa đổi bổ sung dự thảo
(bước 2), hòan thiện – ký kết hợp đồng (bước 3) là một quy trình cần
thiết. Soạn dự thảo hợp đồng giúp cho doanh nghiệp văn bản hóa những
gì mình muốn, đồng thời dự liệu những gì đối tác muốn trước khi đàm
phán. Nó giống như một bản kế hoạch cho việc đàm phán, khi có một dự
thảo tốt coi như đã đạt 50% công việc đàm phán và ký kết hợp đồng. Nếu
bỏ qua bước 1 chỉ đàm phán sau đó mới soạn thảo hợp đồng thì giống như
vừa xây nhà vừa vẽ thiết kế, nên thường dẫn đến thiếu sót, sơ hở trong
hợp đồng, đặc biệt đối với những thương vụ lớn.
Trên thị trường hiện nay có rất nhiều sách viết về hợp đồng và thường
kèm theo nhiều mẫu hợp đồng các loại. Ví dụ: cuốn Pháp luật về hợp
đồng trong thương mại và đầu tư, do TS. Nguyễn Thị Dung (chủ biên).
Doanh nghiệp nên dựa vào các mẫu hợp đồng đó để xem như là những gợi ý
cho việc soạn dự thảo hợp đồng. Tuy nhiên hợp đồng được ký kết trên
nguyên tắc tự do và bình đẳng, do đó nội dung của mỗi hợp đồng cụ thể
luôn có sự khác nhau. Bởi nó phụ thuộc vào ý chí của các bên và đòi
hỏi thực tiễn của việc mua bán mỗi loại hàng hoá, dịch vụ là khác
nhau, trong các điều kiện, hoàn cảnh, thời điểm khác nhau. Đăc biệt
phải xác định (dự liệu) những rủi ro kinh doanh nào có thể hiện diện
trong các giao dịch của doanh nghiệp và loại bỏ hay giảm thiểu những
rủi ro đó bằng việc sử dụng các điều khoản hợp đồng; điều này các hợp
đồng mẫu thường ít khi đề cập. Ví dụ: khi mua hàng hóa, phải dự liệu
đến cả những tình huống hiếm khi xảy ra: hàng giả, hàng nhái; gặp bão,
lụt trong quá trình vận chuyển, giao hàng; khi tranh chấp kiện tụng
thì tiền phí luật sư bên nào chịu; những thiệt hại gián tiếp bên vi
phạm có phải chịu không…? Do vậy không thể có một mẫu hợp đồng nào là
chuẩn mực, nó thường thừa hoặc thiếu đối với một thương vụ cụ thể.
Doanh nghiệp phải phải sửa cho phù hợp theo ý muốn của hai bên, đừng
lạm dụng mẫu – chỉ điền một vài thông số và hoàn tất bản dự thảo hợp
đồng.
b) Thông tin xác định tư cách chủ thể của các bên:
Doanh nghiệp và các cá nhân, tổ chức khác có quyền tham gia ký kết hợp
đồng thương mại, nhưng để xác định được quyền hợp pháp đó và tư cách
chủ thể của các bên thì cần phải có tối thiểu các thông tin sau:
- Đối với tổ chức, doanh nghiệp: Tên, Trụ sở, Giấy phép thành lập và
người đại diện.Các nội dung trên phải ghi chính xác theo Quyết định
thành lập hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy phép đầu
tư của doanh nghiệp. Các bên nên xuất trình, kiểm tra các văn bản,
thông tin này trước khi đàm phán, ký kết để đảm bảo hợp đồng ký kết
đúng thẩm quyền.
- Đối với cá nhân: Tên, số chứng minh thư và địa chỉ thường trú. Nội
dung này ghi chính xác theo chứng minh thư nhân dân hoặc hộ chiếu hoặc
hộ khẩu và cũng nên kiểm tra trước khi ký kết.
c) Tên gọi hợp đồng:
Tên gọi hợp đồng thường được sử dụng theo tên loại hợp đồng kết hợp
với tên hàng hóa, dịch vụ. Ví dụ: tên loại là hợp đồng mua bán, còn
tên của hàng hoá là xi măng, ta có Hợp đồng mua bán + xi măng hoặc Hợp
đồng dịch vụ + khuyến mại. Hiện nhiều doanh nghiệp vẫn còn thói quen
sử dụng tên gọi “HỢP ĐỒNG KINH TẾ” theo Pháp lệnh hợp đồng kinh tế
(1989) nhưng nay Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã hết hiệu lực, nên việc
đặt tên này không còn phù hợp. Bộ luật dân sự năm 2005 đã dành riêng
Chương 18 để quy định về 12 loại hợp đồng thông dụng, Luật thương mại
năm 2005 cũng quy định về một số loại hợp đồng, nên chúng ta cần kết
hợp hai bộ luật này để đặt tên hợp đồng trong thương mại cho phù hợp.
d) Căn cứ ký kết hợp đồng:
Phần này các bên thường đưa ra các căn cứ làm cơ sở cho việc thương
lượng, ký kết và thực hiện hợp đồng; có thể là văn bản pháp luật điều
chỉnh, văn bản uỷ quyền, nhu cầu và khả năng của các bên. Trong một số
trường hợp, khi các bên lựa chọn một văn bản pháp luật cụ thể để làm
căn cứ ký kết hợp đồng thì được xem như đó là sự lựa chọn luật điều
chỉnh. Ví dụ: một doanh nghiệp Việt Nam ký hợp đồng mua bán hàng hoá
với một doanh nghiệp nước ngoài mà có thoả thuận là: Căn cứ vào Bộ
luật dân sự 2005 và Luật thương mại 2005 của Việt Nam để ký kết, thực
hiện hợp đồng thì hai luật này sẽ là luật điều chỉnh đối với các bên
trong quá trình thực hiện hợp đồng và giải quyết tranh chấp (nếu có).
Do đó cũng phải hết sức lưu ý khi đưa các văn bản pháp luật vào phần
căn cứ của hợp đồng, chỉ sử dụng khi biết văn bản đó có điều chỉnh
quan hệ trong hợp đồng và còn hiệu lực.
e) Hiệu lực hợp đồng:
Nguyên tắc hợp đồng bằng văn bản mặc nhiên có hiệu lực kể từ thời điểm
bên sau cùng ký vào hợp đồng, nếu các bên không có thỏa thuận hiệu lực
vào thời điểm khác; Ngoại trừ một số loại hợp đồng chỉ có hiệu lực khi
được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật, như: hợp đồng
mua bán nhà, hợp đồng chuyển nhượng dự án bất động sản, hợp đồng
chuyển giao công nghệ… Các bên phải hết sức lưu ý điều này bởi vì hợp
đồng phải có hiệu lực mới phát sinh trách nhiệm pháp lý, ràng buộc các
bên phải thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng.
Liên quan đến hiệu lực thi hành của hợp đồng thương mại thì vấn đề
người đại diện ký kết (người ký tên vào bản hợp đồng) cũng phải hết
sức lưu ý, người đó phải có thẩm quyền ký hoặc người được người có
thẩm quyền ủy quyền. Thông thường đối với doanh nghiệp thì người đại
diện được xác định rõ trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc
Giấy phép đầu tư. Cùng với chữ ký của người đại diện còn phải có đóng
dấu (pháp nhân) của tổ chức, doanh nghiệp đó. Về thẩm quyền ký kết hợp
đồng thương mại nếu nghiên cứu sâu rộng thì cũng còn rất nhiều vấn đề
phải bàn, bạn đọc có thể tham khảo thêm cuốn Pháp luật về hợp đồng
trong thương mại và đầu tư, do TS. Nguyễn Thị Dung (chủ biên).
2. Kỹ năng soạn thảo một số điều khoản quan trọng của hợp đồng thương
mại
Thông thường để một văn bản hợp đồng được rõ ràng, dễ hiểu thì người
ta chia các vấn đề ra thành các điều khoản hay các mục, theo số thứ tự
từ nhỏ đến lớn. Trong phần này, tác giả đưa ra những lưu ý, kỹ năng
khi soạn thảo một số vấn đề (điều khoản) quan trọng thường gặp trong
hợp đồng thương mại.
a) Điều khoản định nghĩa:
Điều khoản định nghĩa được sử dụng với mục đích định nghĩa (giải
thích) các từ, cụm từ được sử dụng nhiều lần hoặc cần có cách hiểu
thống nhất giữa các bên hoặc các ký hiệu viết tắt. Điều này thường
không cần thiết với những hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ thông
thường phục vụ các nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Nhưng nó rất quan
trọng đối với hợp đồng thương mại quốc tế, hợp đồng chuyển giao công
nghệ, hợp đồng tư vấn giám sát xây dựng; bởi trong các hợp đồng này có
nhiều từ, cụm từ có thể hiểu nhiều cách hoặc từ, cụm từ chuyên môn chỉ
những người có hiểu biết trong lĩnh vực đó mới hiểu. Ví dụ: “pháp
luật”, “hạng mục công trình”, “quy chuẩn xây dựng”. Do vậy để việc
thực hiện hợp đồng được dễ dàng, hạn chế phát sinh tranh chấp các bên
phải làm rõ (định nghĩa) ngay từ khi ký kết hợp đồng chứ không phải
đợi đến khi thực hiện rồi mới cùng nhau bàn bạc, thống nhất cách hiểu.
Mặt khác khi có tranh chấp, kiện tụng xảy ra thì điều khỏan này giúp
cho những người xét xử hiểu rõ những nội dung các bên đã thỏa thuận và
ra phán quyết chính xác.
b) Điều khoản công việc:
Trong hợp đồng dịch vụ thì điều khoản công việc (dịch vụ) mà bên làm
dịch vụ phải thực hiện là không thể thiếu. Những công việc này không
những cần xác định một cách rõ ràng, mà còn phải xác định rõ: cách
thức thực hiện, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm của người trực tiếp
thực hiện công việc, kết quả sau khi thực hiện dịch vụ. Ví dụ: trong
Hợp đồng tư vấn và quản lý dự án, không những cần xác định rõ công
việc tư vấn, mà còn phải xác định rõ: cách thức tư vấn bằng văn bản,
tư vấn theo quy chuẩn xây dựng của Việt Nam, người trực tiếp tư vấn
phải có chứng chỉ tư vấn thiết kế xây dựng, số năm kinh nghiệm tối
thiểu là 5 năm, đã từng tham gia tư vấn cho dự án có quy mô tương ứng.
Có như vậy thì chất lượng của dịch vụ, kết quả của việc thực hiện dịch
vụ mới đáp ứng được mong muốn của bên thuê dịch vụ. Nếu không làm được
điều này bên thuê dịch vụ thường thua thiệt và tranh chấp xảy ra trong
quá trình thực hiện hợp đồng là khó tránh khỏi.
c) Điều khoản tên hàng:
Tên hàng là nội dung không thể thiếu được trong tất cả các hợp đồng
mua bán hàng hóa. Để thuận lợi cho việc thực hiện hợp đồng và hạn chế
tranh chấp phát sinh, tên hàng cần được xác định một cách rõ ràng.
Hàng hoá thường có tên chung và tên riêng. Ví dụ: hàng hoá – gạo (tên
chung), gạo tẻ, gạo nếp (tên riêng). Nên khi xác định tên hàng phải là
tên riêng, đặc biệt với các hàng hoá là sản phẩm máy móc thiết bị. Tuỳ
từng loại hàng hoá mà các bên có thể lựa chọn một hoặc nhiều cách xác
định tên hàng sau đây cho phù hợp: Tên + xuất xứ; tên + nhà sản xuất;
tên + phụ lục hoặc Catalogue; tên thương mại; tên khoa học; tên kèm
theo công dụng và đặc điểm; tên theo nhãn hàng hoá hoặc bao bì đóng
gói.
Lưu ý: Không phải tất cả các loại hàng hoá đều được phép mua bán trong
thương mại mà chỉ có những loại hàng hoá không bị cấm kinh doanh mới
được phép mua bán. Ngoài ra đối với những hàng hoá hạn chế kinh doanh,
hàng hoá kinh doanh có điều kiện, việc mua bán chỉ được thực hiện khi
hàng hoá và các bên mua bán hàng hoá đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo
quy định của pháp luật. Vấn đề này hiện nay được quy định tại một số
văn bản sau: Luật thương mại 2005 tại các điều: Điều 25, Điều 26, Điều
32, Điều 33; Nghị định số: 59/NĐ-CP ngày 12/06/2006 về hàng hoá, dịch
vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện; Nghị
định số:12/NĐ – CP ngày 23/01/2006 về mua bán, gia công, đại lý hàng
hoá quốc tế và Thông tư số: 04/TT-BTM ngày 06/04/2006.
d) Điều khoản chất lượng hàng hoá:
Chất lượng hàng hoá kết hợp cùng với tên hàng sẽ giúp các bên xác định
được hàng hoá một cách rõ ràng, chi tiết. Trên thực tế, nếu điều khoản
này không rõ ràng thì rất khó thực hiện hợp đồng và rất dễ phát sinh
tranh chấp. Dưới góc độ pháp lý “chất lượng sản phẩm, hàng hoá là:
tổng thể những thuộc tính, những chỉ tiêu kỹ thuật, những đặc trưng
của chúng, được xác định bằng các thông số có thể đo được, so sánh
được phù hợp với các điều kiện hiện có, thể hiện khả năng đáp ứng nhu
cầu của xã hội và của cá nhân trong những điều kiện sản xuất, tiêu
dùng xác định, phù hợp với công dụng của sản phẩm hàng hoá” (Điều 3,
Nghị Định số: 179/NĐ-CP ngày 21/10/2004 quy định quản lý Nhà nước về
chất lượng sản phẩm, hàng hoá).
Nói chung chất lượng sản phẩm, hàng hoá được thể hiện thông qua các
chỉ tiêu kỹ thuật và những đặc trưng của chúng. Muốn xác định được
chất lượng hàng hoá thì tuỳ theo từng loại hàng hoá cụ thể để xác
định, dựa vào các chỉ tiêu về cơ lý, các chỉ tiêu về hoá học hoặc các
đặc tính khác của hàng hoá đó.
Nếu các bên thoả thuận chất lượng hàng hoá theo một tiêu chuẩn chung
của một quốc gia hay quốc tế thì có thể chỉ dẫn tới tiêu chuẩn đó mà
không cần phải diễn giải cụ thể. Ví dụ: các bên thoả thuận: “chất
lượng da giầy theo tiêu chuẩn Việt Nam theo Quyết định số: 15/QĐ- BCN,
ngày 26/05/2006 về việc ban hành tiêu chuẩn ngành Da – Giầy”. Văn bản
này có thể đưa vào mục tài liệu kèm theo của hợp đồng.
e) Điều khoản số lượng (trọng lượng):
Điều khoản này thể hiện mặt lượng của hàng hoá trong hợp đồng, nội
dung cần làm rõ là: đơn vị tính, tổng số lượng hoặc phương pháp xác
định số lượng. Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán đá xây dựng để xác định
số lượng các bên có thể lựa chọn một trong các cách sau: theo trọng
lượng tịnh (kilôgam, tạ, tấn), theo mét khối, theo toa xe, toa tàu,
hay theo khoang thuyền.
Đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thì cần phải quy định cụ thể
cách xác định số lượng và đơn vị đo lường bởi hệ thống đo lường của
các nước là có sự khác biệt. Đối với những hàng hoá có số lượng lớn
hoặc do đặc trưng của hàng hoá có thể tự thay đổi tăng, giảm số lượng
theo thời tiết thì cũng cần quy định một độ dung sai (tỷ lệ sai lệch)
trong tổng số lượng cho phù hợp.
f) Điều khoản giá cả:
Các bên khi thoả thuận về giá cả cần đề cập các nội dung sau: đơn giá,
tổng giá trị và đồng tiền thanh toán. Về đơn giá có thể xác định giá
cố định hoặc đưa ra cách xác định giá (giá di động). Giá cố định
thường áp dụng với hợp đồng mua bán loại hàng hoá có tính ổn định cao
về giá và thời hạn giao hàng ngắn. Giá di động thường được áp dụng với
những hợp đồng mua bán loại hàng giá nhạy cảm (dễ biến động) và được
thực hiện trong thời gian dài. Trong trường hợp này người ta thường
quy định giá sẽ được điều chỉnh theo giá thị trường hoặc theo sự thay
đổi của các yếu tố tác động đến giá sản phẩm.
Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán sắt xây dựng (sắt cây phi 16), hai bên
đã xác định giá là: 200.000 đồng/cây nhưng loại thép cây này được sản
xuất từ nguyên liệu thép nhập khẩu và giá thép nhập khẩu bên bán không
làm chủ được nên đã bảo lưu điều khoản này là: “Bên bán có quyền điều
chỉnh giá tăng theo tỷ lệ % tăng tương ứng của giá thép nguyên liệu
nhập khẩu.”
g) Điều khoản thanh toán:
Phương thức thanh toán là cách thức mà các bên thực hiện nghĩa vụ
giao, nhận tiền khi mua bán hàng hoá. Căn cứ vào đặc điểm riêng của
hợp đồng, mối quan hệ, các điều kiện khác mà các bên có thể lựa chọn
một trong ba phương thức thanh toán sau đây cho phù hợp:
Phương thức thanh toán trực tiếp: khi thực hiện phương thức này các
bên trực tiếp thanh toán với nhau, có thể dùng tiền mặt, séc hoặc hối
phiếu. Các bên có thể trực tiếp giao nhận hoặc thông qua dịch vụ
chuyển tiền của Bưu Điện hoặc Ngân hàng. Phương thức này thường được
sử dụng khi các bên đã có quan hệ buôn bán lâu dài và tin tưởng lẫn
nhau, với những hợp đồng có giá trị không lớn.
Phương thức nhờ thu và tín dụng chứng từ (L/C) là hai phương thức được
áp dụng phổ biến đối với việc mua bán hàng hoá quốc tế, thực hiện
phương thức này rất thuận tiện cho cả bên mua và bên bán trong việc
thanh toán, đặc biệt là đảm bảo được cho bên mua lấy được tiền khi đã
giao hàng. Về thủ tục cụ thể thì Ngân hàng sẽ có trách nhiệm giải
thích và hướng dẫn các bên khi lựa chọn phương thức thanh toán này.
Lưu ý: Việc thanh toán trực tiếp trong các hợp đồng mua bán hàng hoá
giữa các thương nhân Việt Nam với nhau hoặc với cá nhân, tổ chức khác
trên lãnh thổ Việt Nam chỉ được sử dụng đồng tiền Việt Nam chứ không
được sử dụng các đồng tiền của quốc gia khác, đồng tiền chung Châu Âu
(ngoại tệ), theo Điều 4, Điều 22 – Pháp lệnh ngoại hối – 2005.
h) Điều khoản phạt vi phạm:
Phạt vi phạm là một loại chế tài do các bên tự lựa chọn, nó có ý nghĩa
như một biện pháp trừng phạt, răn đe, phòng ngừa vi phạm hợp đồng,
nhằm nâng cao ý thức tôn trọng hợp đồng của các bên. Khi thoả thuận
các bên cần dựa trên mối quan hệ, độ tin tưởng lẫn nhau mà quy định
hoặc không quy định về vấn đề phạt vi phạm. Thông thường, với những
bạn hàng có mối quan hệ thân thiết, tin cậy lẫn nhau, uy tín của các
bên đã được khẳng định trong một thời gian dài thì họ không quy định
(thoả thuận) điều khoản này. Còn trong các trường hợp khác thì nên có
thoả thuận về phạt vi phạm.
Mức phạt thì do các bên thoả thuận, có thể ấn định một số tiền phạt cụ
thể hoặc đưa ra cách thức tính tiền phạt linh động theo % giá trị phần
hợp đồng vi phạm. Theo Bộ luật dân sự (Điều 422): “Phạt vi phạm là sự
thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm có nghĩa
vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm; mức phạt vi phạm do các
bên thoả thuận”. Nhưng theo Luật thương mại (Điều 301) thì quyền thoả
thuận về mức phạt vi phạm của các bên bị hạn chế, cụ thể: “Mức phạt
đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi
phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng nhưng không quá 8% giá trị
phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm”. Do vậy, các bên khi thoả thuận về
mức phạt phải căn cứ vào quy định của Luật thương mại để lựa chọn mức
phạt trong phạm vi từ 8% trở xuống, nếu các bên thoả thuận mức phạt
lớn hơn (ví dụ 12%) thì phần vượt quá (4%) được coi là vi phạm điều
cấm của pháp luật và bị vô hiệu.
Các trường hợp vi phạm bị áp dụng chế tài phạt các bên cũng có thể
thoả thuận theo hướng cứ vi phạm các thoả thuận trong hợp đồng là bị
phạt hoặc chỉ một số vi phạm cụ thể mới bị phạt. Ví dụ: thoả thuận là:
“Nếu bên bán vi phạm về chất lượng hàng hoá thì sẽ bị phạt 6% giá trị
phần hàng hoá không đúng chất lượng. Nếu hết thời hạn thanh toán mà
bên mua vẫn không trả tiền thì sẽ bị phạt 5% của số tiền chậm trả”.
j) Điều khoản bất khả kháng:
Bất khả kháng là sự kiện pháp lý nảy sinh ngoài ý muốn chủ quan của
các bên, ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện hợp đồng đã ký. Đó là
các sự kiện thiên nhiên hay chính trị xã hội như: bão, lũ lụt, hạn
hán, động đất, núi lửa, chiến tranh, bạo động, đình công, khủng hoảng
kinh tế. Đây là các trường hợp thường gặp làm cho một hoặc cả hai bên
không thể thực hiện được hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ của
mình. Khi một bên vi phạm hợp đồng do gặp sự kiện bất khả kháng thì
pháp luật không buộc phải chịu trách nhiệm về tài sản (không bị phạt
vi phạm, không phải bồi thường thiệt hại).
Trên thực tế, nếu không thoả thuận rõ về bất khả kháng thì rất dễ bị
bên vi phạm lợi dụng bất khả kháng để thoái thác trách nhiệm dẫn đến
thiệt hại cho bên bị vi phạm. Trong điều khoản này các bên cần phải
định nghĩa về bất khả kháng và quy định nghĩa vụ của bên gặp sự kiện
bất khả kháng. Ví dụ: Điều khoản bất khả kháng:
- Định nghĩa “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách
quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã
áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép;
- Bên gặp sự kiện bất khả kháng phải thông báo ngay cho bên kia biết
và phải cung cấp chứng cứ chứng minh sự kiện bất khả kháng đó là
nguyên nhân trực tiếp dẫn tới việc vi phạm hợp đồng”.
k) Điều khoản giải quyết tranh chấp:
Đối với việc lựa chọn giải quyết tại Trọng tài hay tại Toà án thì thoả
thuận phải phù hợp với quy định của pháp luật, cụ thể:
Trường hợp thứ nhất: Hợp đồng (http://sinhvientdt.com/f/showthread.php?
p=88145) mua bán hàng hoá giữa các thương nhân với các tổ chức, cá
nhân khác không phải là thương nhân khi có tranh chấp thì do Toà án có
thẩm quyền giải quyết. Các bên không thể lựa chọn Trọng tài để giải
quyết theo Điều 1, Điều 7, Điều 10 Pháp lệnh Trọng tài ngày 25/02/2003
và Điều 2 Nghị Định số: 25/NĐ-CP ngày 15/01/2004.
Trường hợp thứ hai: Hợp đồng mua bán hàng hoá giữa thương nhân với
thương nhân khi có tranh chấp thì các bên có quyền lựa chọn hình thức
giải quyết tại Trọng tài hoặc tại Toà án; nếu có sự tham gia của
thương nhân nước ngoài thì các bên còn có thể lựa chọn một tổ chức
Trọng tài của Việt Nam hoặc lựa chọn một tổ chức Trọng tài của nước
ngoài để giải quyết.
Khi các bên lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp tại Trọng tài thì
thoả thuận phải nêu đích danh một tổ chức Trọng tài cụ thể, ví dụ:
“Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được
giải quyết tại Trung tâm trọng tài quốc tế bên cạnh Phòng thương mại
và công nghiệp Việt Nam”. Nếu chỉ thoả thuận chung chung là: “trong
quá trình thực hiện hợp đồng nếu có tranh chấp sẽ được giải quyết tại
Trọng tài” thỏa thuận này vô hiệu.
Riêng đối với hợp đồng mua bán hàng hoá giữa thương nhân Việt Nam với
thương nhân nước ngoài thì các bên còn phải quan tâm đến việc lựa chọn
luật áp dụng khi giải quyết tranh chấp là: luật của bên mua, luật của
bên bán hay luật quốc tế (các công ước quốc tế – ví dụ: Công ước Viên
năm 1980 về mua bán hàng hoá). Đây là vấn đề hết sức quan trọng, để
tránh những thua thiệt do thiếu hiểu biết pháp luật của nước ngoài hay
pháp luật quốc tế thì thương nhân Việt Nam nên chọn luật Việt Nam để
áp dụng cho hợp đồng thương mại.
Tóm lại: Nội dung của hợp đồng (http://sinhvientdt.com/f/
showthread.php?p=88145)hoàn toàn do các bên thoả thuận và quyết định
cho phù hợp với những điều kiện hoàn cảnh, loại hàng hoá, dịch vụ cụ
thể; tuy nhiên, những thoả thuận đó phải không vi phạm các điều cấm
của pháp luật. Hợp đồng bằng văn bản là một hình thức ký kết hợp đồng
quan trọng, thậm chí bắt buộc trong hoạt động thương mại như: hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế, hợp đồng mua bán nhà. So với hình thức bằng
lời nói “lời nói gió bay” thì hình thức văn bản “giấy trắng mực đen”
góp phần hạn chế việc các bên “trở mặt” trong quá trình thực hiện hợp
đồng. Nhưng ngược lại nếu không chú trọng việc soạn thảo hợp đồng thì
lại “bút sa gà chết” hoặc tự “mua dây buộc mình”. Để có một văn bản
hợp đồng rõ ràng, chặt chẽ, dễ đọc, dễ hiểu, dễ thực hiện, đảm bảo
được quyền lợi cho các bên, hạn chế tranh chấp và giảm thiểu rủ ro
trong thương mại. Đòi hỏi các bên phải thận trọng, hiểu biết pháp luật
và có kỹ năng, kinh nghiệm thực tế trong việc soạn thảo, đàm phán ký
kết hợp đồng thương mại.
SOURCE: TẠP CHÍ LUẬT HỌC – THÁNG 11/2008