1. Branch Davidian:
Davidian bắt nguồn từ Giáo hội Cơ đốc Phục lâm An thất nhật hoạt động mạnh từ những năm 80 của thế kỷ trước ở Mỹ. Đây là một tổ chức theo chủ nghĩa cơ yếu (niềm tin nghiêm ngặt, trung thành tuyệt đối với những nguyên tắc cơ bản), tin vào sự diễn dịch thánh thư theo nghĩa đen. Lãnh đạo Davidian là David Koresh – một học giả chuyên về thần học. Koresh được coi là “nhà tiên tri” của giáo phái này.
Trọng tâm của Davidian là sách mặc khải, tin rằng ngày tận thế đang tới gần và mọi người phải chuẩn bị. Đầu những năm 90, sóng gió bắt đầu nổi lên đối với giáo phái này.
Báo chí Mỹ bắt đầu đăng bài với nội dung Davidian có những hành vi phi pháp như tích trữ vũ khí, lạm dụng trẻ em… Những bài báo này cáo buộc Koresh quan hệ tình dục với các bé gái, có bé chỉ mới 12 tuổi. Năm 1993, Cục Rượu, Thuốc lá, Súng và Chất nổ của Mỹ (ATF) phát lệnh khám xét, bắt giữ, dẫn tới sự đối đầu giữa giáo phái và cơ quan thực thi pháp luật.
Cục Điều tra liên bang (FBI) đến hiện trường để hỗ trợ từ ngày 28/2/1993 và cuộc bao vây kéo dài 51 ngày. Ngày 19/4/1993, khi FBI phát động tấn công vào tòa nhà Mount Carmel gần thành phố Waco, bang Texas - nơi giáo phái tu luyện, một ngọn lửa lớn bùng lên trong đó. Cuối cùng, hỏa hoạn thiêu chết 76 thành viên giáo phái, gồm cả Koresh, phụ nữ và trẻ em. Bốn đặc vụ liên bang cũng thiệt mạng.
Lời giải thích chính thức được đưa ra là Davidian đã thực hiện thỏa ước tự sát. Tuy nhiên, một số người theo thuyết âm mưu lại cho rằng, chính cơ quan thực thi pháp luật gây ra vụ cháy.
Yêu râu xanh
Theo Encyclopedia Britannica, David Koresh chọn một số thành viên độc thân trong Davidian, gồm cả thiếu nữ tuổi teen, làm vợ “tinh thần”. Năm 1989, Koresh khẳng định mình là bạn đời hoàn hảo cho tất cả nữ thành viên giáo phái, đồng thời tiết lộ ý định sinh ra một dòng dõi con cái mà ông này tin rằng chúng cuối cùng sẽ cai trị thế giới.
Vì một số bà vợ “tinh thần” của Koresh là trẻ em nên một cựu thành viên và một nhà hoạt động chống tà giáo cáo buộc “nhà tiên tri” lạm dụng trẻ em. Cáo buộc lạm dụng trẻ em cộng với việc Koresh bắt đầu tham gia kinh doanh bán lẻ súng đạn đã thu hút sự chú ý của các cơ quan pháp luật.
Sau vụ hỏa hoạn chết người năm 1993, ATF và FBI tiến hành điều tra nội bộ, rồi điều trần trước Hạ viện và Thượng viện Mỹ. Một số đặc vụ bị kỷ luật vì hành động không phù hợp. Tháng 8/1999, chính phủ Mỹ thừa nhận rằng, một số đặc vụ liên bang đã bắn vật liệu dễ cháy vào trong hoặc tới gần tòa nhà Mount Carmel trước khi đám cháy lớn bùng phát.
Một số thành viên giáo phái sống sót cuối cùng bị phạt tù, không phải vì tội giết các đặc vụ ATF mà là vì các hành động của họ trong và sau cuộc đột kích.
2. Phong trào khôi phục 10 điều răn:
Một nhóm linh mục công giáo bị vạ tuyệt thông (khai trừ) lập ra giáo phái này ở Uganda, một nước châu Phi, vào đầu thập niên 90. Đây là một tổ chức Kitô giáo tuân thủ 10 điều răn và lời của chúa
Họ chú trọng tuân thủ 10 điều răn nên ít nói chuyện, vào một số ngày chỉ trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ ký hiệu. Họ thường xuyên nhịn ăn, vào thứ Hai và thứ Sáu chỉ ăn một bữa. Quan hệ tình dục bị cấm tiệt.
Giáo phái này có mục tiêu phụng sự cộng đồng, như lập ra các trường học. Tuy nhiên, giống nhiều giáo phái khác, Phong trào khôi phục 10 điều răn bị ám ảnh với ngày tận thế mà họ cho rằng sẽ xảy ra vào ngày 31/12/1999.
Ngày đó đến mà không có chuyện gì xảy ra nên họ lại đoán ngày tận thế sẽ diễn ra vào 17/3/2000. Hôm ấy, đông đảo thành viên giáo phái tập trung tại một nhà thờ với cửa chính, cửa sổ đóng chặt bằng ván. Lửa bùng lên và sau đó, trong đống tro tàn người ta tìm thấy 924 thi thể. Khám nghiệm tử thi cho thấy hầu hết thành viên giáo phái bị đầu độc trước khi nhà thờ bốc cháy. Đây là một trong những vụ giết người bi thảm nhất liên quan giáo phái trong lịch sử nhân loại.
Ngoài ra, các nhân chứng nói rằng, lãnh đạo giáo phái chưa bao giờ nói đến chuyện tự tử tập thể khi chuẩn bị cho các tín đồ đón ngày tận thế. Một tín đồ sống sót kể rằng, khi rời giáo phái, ông đã gặp một thành viên ngoan đạo cầm búa và đinh. Vì thế, người ta tin rằng, thành viên đó chính là người đóng đinh vào các cửa sổ để ngăn các tín đồ thoát thân trong vụ cháy.
Tổng thống Uganda lúc đó là Yoweri Museveni gọi sự kiện đẫm máu đó là “vụ giết người hàng loạt do các linh mục hám tiền thực hiện”. Phó tổng thống Speciosa Wandira Kazibwe nhận định: “Đây là vụ giết người hàng loạt nhẫn tâm, được dàn xếp kỹ càng do một mạng lưới tội phạm độc ác, nham hiểm giả danh người theo tôn giáo thực hiện”.
Ban đầu người ta tin rằng, 5 lãnh đạo giáo phái chết trong vụ cháy, nhưng sau đó cảnh sát cho rằng, hai người sáng lập Joseph Kibweteere và Credonia Mwerinde có thể vẫn còn sống và phát lệnh truy nã quốc tế để bắt giữ họ. Năm 2014, lực lượng cảnh sát Uganda thông báo, có thông tin rằng Kibweteere đang lẩn trốn ở Malawi, đài truyền hình hàng đầu Uganda NTVUganda đưa tin ngày 3/4/2014.
3. Dòng Đền thờ Thái dương:
Được Luc Jouret và Joseph De Mambro thành lập vào đầu những năm 80, Dòng Đền thờ Thái dương là một tổ chức tôn giáo nhỏ có trụ sở ở Thụy Sĩ. Nhóm này hoạt động khá bí mật, dành nhiều thời gian thực hiện các nghi lễ cổ xưa, theo Occult Museum.
Giống nhiều giáo phái khác, Dòng Đền thờ Thái Dương tin rằng, ngày tận thế đang đến gần và con người cần phải rời bỏ thế giới trần tục này. Giữa những năm 90, thi thể các thành viên giáo phái bắt đầu xuất hiện, trước tiên là ở bang Fribourg của Thụy Sĩ. Đầu tiên người ta tìm thấy 23 xác người trong các vụ cháy, sau đó là 25 thi thể. Tất cả đều bị đánh thuốc cho mê man rồi bị bắn chết.
Nhiều nạn nhân được tìm thấy trong một nhà thờ bí mật trong lòng đất, có nhiều gương và các đồ vật mang tính biểu tượng của dòng tu quân đội Kitô giáo Hiệp sĩ Đền Thánh. Các thi thể đều mặc áo choàng mang tính nghi lễ và được đặt theo hình tròn, chân chụm vào nhau, đầu hướng ra ngoài.
Hai ngày sau đó, thi thể hai thành viên của giáo phái cùng con trai 3 tháng tuổi của họ được tìm thấy ở tỉnh Quebec của Canada. Cơ quan chức năng xác định đây là vụ giết người rồi tự sát. Xu hướng này tiếp diễn trong vài năm với các thành viên giáo phái bị đánh thuốc, bắn và đốt cháy. Nhiều người tin rằng, Dòng Đền thờ Thái dương đã chấm dứt hoạt động, song giới chuyên gia cho rằng, một số người vẫn đang thực hành giáo phái này.
4. Cổng Thiên đường:
Giáo phái này được Marshall Applewhite và Bonnie Nettles thành lập vào thập niên 70 ở Mỹ. Họ tin rằng, con người không thể phát triển trong tình trạng hiện tại, phải tiến tới cõi vô hình, một trung giới khác. Theo họ, linh hồn con người rời khỏi thể xác, lơ lửng trong một thế giới riêng, bay lượn khắp vũ trụ.
Tín đồ Cổng Thiên đường cũng tin rằng một phi thuyền ngoài hành tinh đi theo sao chổi Hale-Bopp và họ sẵn sàng gia nhập cõi khác ở tầng nấc cao hơn xét về sự phát triển của con người. Vào tháng 3/1997, các thành viên giáo phái chuyển sang cõi khác bằng cách uống thuốc độc.
Thi thể của 40 thành viên, trong đó có Applewhite được tìm thấy trong một tòa nhà ở bang California. Họ đều mặc trang phục giống nhau, gồm giày hiệu Nike, mảnh vải màu tím che kín đầu và thân…
Đến nay, người dân xứ sở mặt trời mọc vẫn nhớ đến vụ đầu độc ngày 20/3/1995 như là một trong những hành động khủng bố kinh khủng nhất trong lịch sử. Đây cũng chính là tội ác đẫm máu nhất trong số 13 tội danh mà trùm giáo phái Aum bị toà án Nhật Bản cáo buộc.
Aum Shinrikyo là giáo phái pha trộn giữa
một số quan niệm triết học với đạo Phật, Ấn Độ giáo và đạo Cơ đốc. Giáo
phái này đã phát triển nhanh chóng trong thập kỷ 90 của thế kỷ trước
với 10.000 tín đồ tại Nhật Bản và 30.000 tín đồ ở các nước khác.
Năm 1990, Asahara và một số tín đồ của Aum đã khiến dư luận ngạc nhiên khi tham gia chạy đua vào Quốc hội nhưng đã thất bại thảm hại. Sau sự kiện này, anh ta bắt đầu nhồi nhét vào đầu những kẻ cuồng tín rằng, chỉ có những ai theo giáo phái Aum mới được sống sót trong ngày tận thế đang đến rất gần.
Nhân viên y tế chữa trị cho những nạn nhân trong vụ tấn công bằng khí độc ở trạm tàu điện ngầm tại thủ đô Tokyo. Chính quyền Nhật Bản lên án sự việc là một vụ “khủng bố”.
Tháng 3/1995, Asahara đã lệnh cho thuộc hạ tấn công tàu điện ngầm Tokyo bằng chất độc thần kinh ngay trước khi cảnh sát Nhật Bản mở cuộc đột kích vào tổ chức của Aum. Các cuộc điều tra sau này cho thấy, Aum đã ráo riết tích lũy một kho các loại vũ khí hoá học và sinh học để dùng trong cuộc chiến với chính phủ. Phát hiện này cùng với vụ đầu độc năm 1995 đã biến Shoko Asahara trở thành một trong những kẻ bị truy nã gắt gao nhất trong lịch sử Nhật Bản. Ông ta bị cảnh sát phát hiện ngày 16/5/1995. Phiên toà xét xử trùm giáo phái Aum đã phải kéo dài suốt gần 8 năm mới đưa ra được phán quyết cuối cùng.
Tấn
công sarin tàu điện ngầm Tokyo là một hành động khủng bố trong nước Nhật
Bản xảy ra vào ngày 20/3/1995, tại Tokyo do thành viên của giáo phái
Aum Shinrikyo thực hiện.
Trong năm cuộc tấn công phối hợp, những kẻ tấn công đã xả khí sarin trên ba tuyến tàu Tokyo Metro ngày nay (lúc đó là một phần của Tàu điện ngầm Tokyo) trong giờ cao điểm, giết chết 12 người, làm bị thương nặng 50 người và gây ra những vấn đề về thị giác tạm thời cho gần 5.000 người khác. Cuộc tấn công nhằm vào các đoàn tàu đi qua Kasumigaseki và Nagatachō, trụ sở của chính phủ Nhật Bản. Cho đến vụ cháy tòa nhà Myojo 56 vào ngày 1/9/2001, đây là sự cố chết nhiều người nhất xảy ra ở Nhật kể từ khi kết thúc Thế chiến II. Tháng 7/2018, Nhật Bản đã thực thi án tử hình đối với Shoko Asahara, thủ lĩnh giáo phái Aum Shinrikyo, cùng 6 thành viên khác của tổ chức đứng sau vụ tấn công bằng khí sarin ở ga tàu điện ngầm Tokyo năm 1995. Theo truyền thông địa phương, Asahara bị tử hình bằng hình thức treo cổ. |
Năm 2017, Mackenzie và Mwikamba bị cáo buộc tuyên truyền cực đoan, từ chối cho trẻ em trong giáo phái tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục, đồng thời điều hành một trường học và kênh truyền hình trái phép. Nhiều đứa trẻ đã thiệt mạng do không được chăm sóc y tế và vào năm 2017, giới chức đã giải cứu 93 đứa trẻ từ giáo phái của Mackenzie.
Đến năm 2018, Mackenzie bị các lãnh đạo cộng đồng và các nhà hoạt động chỉ trích vì xúi giục trẻ em bỏ học. Năm 2019, Mackenzie bị bắt vì kích động công chúng phản đối hệ thống đăng ký nhận dạng sinh trắc học do chính phủ triển khai, ví nó như "Sổ của Quái vật". Ông ta cũng bị cáo buộc tẩy não và bắt cóc trẻ em gia nhập giáo phái
Theo trang web của nhóm và truyền thông địa phương, các tín đồ trong giáo phái Tin lành Quốc tế tôn thờ William Branham (1909 - 1965), mục sư Cơ đốc giáo người Mỹ với quan điểm chữa bệnh bằng đức tin. Ông này đã tuyên bố mình là một nhà tiên tri, đến trần gian để chuẩn bị cho Chúa Jesus giáng thế lần thứ hai. Các nhà điều tra đã phát hiện ra những tập sách nhỏ ghi chép những lời răn dạy từ Branham tại nơi các tín đồ của Mackenzie tụ tập.
Mackenzie rao giảng nhiều về ngày tận thế và chỉ trích những "tệ nạn từ cuộc sống phương Tây", như các dịch vụ y tế, giáo dục, thực phẩm, thể thao, âm nhạc. Trong một bài hát có tựa đề "Kẻ chống Chúa", ông ta cáo buộc Giáo hội Công giáo, Mỹ và Liên Hợp Quốc là công cụ cho Satan, giống như với những lời rao giảng bảo thủ của Branham.
Mackenzie thuyết phục các tín đồ bỏ việc, bỏ học, ngừng sử dụng "đồ ăn trần tục" và không đến bệnh viện điều trị khi gặp vấn đề sức khỏe. Họ gặp nhau vào thứ 7 hàng tuần dưới gốc cây từ 9h đến 17h để học "những bài học cuộc sống".
Cảnh sát cho biết Mackenzie còn nói với các tín đồ rằng việc "nhịn ăn để gặp Chúa Jesus" chỉ được tính nếu họ tụ tập lại với nhau và đề nghị biến trang trại của ông ta làm địa điểm tập trung.
Giới chức tìm thấy thi thể trong rừng Shakahola, Kenya ngày 22/4. Ảnh: Reuters
Mackenzie bị cáo buộc yêu cầu tín đồ không giao du với bất kỳ ai từ "thế giới bên ngoài" nếu muốn lên thiên đường và phải tiêu hủy tất cả tài liệu do chính phủ cung cấp, trong đó có cả thẻ căn cước và giấy khai sinh.
Dưới đây là lược sử hình thành và những huyền thoại chung quanh giáo phái này.
Nhân vật Ahn Sahng-hongAhn Sahng-hong (안상홍) sinh ngày 13/1/1918 tại một ngôi làng nhỏ bé tại huyện Myeongdeok-ri, tỉnh North Jeolla, trong thời kỳ bị Nhật Bản chiếm đóng. Cả cha lẫn mẹ đều là người Hàn quốc theo Phật Giáo.
Sau đó, gia đình ông dọn lên thành phố Busan. Ông đã lớn lên tại quận Haeundae của thành phố này; và đó cũng là nơi ông lập ra một giáo phái mới.
Từ năm 1937 cho đến hết thế chiến hai, Ahn Sahng-hong sống với mẹ tại Nhật Bản trước khi trở về Hàn quốc vào năm 1946. Sau khi về nước, ông bắt đầu lui tới với Hội Thánh Cơ Đốc Phục Lâm (Seventh-day Adventist) tại Incheon từ năm 1947. Theo lời kể của Ahn Sahng-hong, một năm sau đó ông tuyên bố từ bỏ Phật Giáo, và được Mục Sư Lee Myeong-deok ban phép Rửa Tội. Tuy nhiên, năm 2011, Hội Thánh Cơ Đốc Phục Lâm ra một thông cáo nói giáo phái Tin Lành này không hề có Mục Sư nào tên là Lee Myeong-deok vào năm 1948, và cho biết thêm, theo sổ bộ của họ, Ahn Sahng-hong được Mục Sư Gim Seo-gyeong rửa tội vào ngày 9/10/1954 lúc ông ta 36 tuổi [3]
Năm 1953, Ahn Sahng-hong tuyên bố mình nhận được Mạc Khải và ba năm sau tuyên bố rằng trong vòng 10 năm nữa Chúa lại đến lần thứ hai.
Tháng Tư 1958, ông kết hôn với bà Hwang Wonsun (1923–2008).
Tháng Ba 1962, ông bị Hội Thánh Cơ Đốc Phục Lâm trục xuất sau những tranh cãi gay gắt về vấn đề thánh giá và các ảnh tượng trong nhà thờ. Theo Ahn Sahng-hong, tôn thờ thánh giá và các ảnh tượng trong nhà thờ là tôn thờ ngẫu tượng. 23 người trong Hội Thánh Cơ Đốc Phục Lâm tại Incheon bỏ đi với ông.
Ngày 28 tháng Tư 1964, Ahn Sahng-hong tuyên bố thành lập giáo phái mới gọi là Witnesses of Jesus Church of God (Hội Thánh Đức Chúa Trời các chứng nhân của Chúa Giêsu) tại Busan. Trước khi ông qua đời vào năm 1985, giáo phái này có đến 13 cộng đoàn tại Nam Hàn.
Những tin tưởng của Ahn Sahng-hong
Về cơ bản, các tin tưởng của Ahn Sahng-hong cũng tương tự những gì được tin tưởng trong Hội Thánh Cơ Đốc Phục Lâm. Tuy nhiên, trong hơn 20 quyển sách do ông viết, Ahn Sahng-hong nhấn mạnh đến cuộc sống của Giáo Hội trong thời các Thánh Tông Đồ và đưa ra một số giải thích cực đoan về Kinh Thánh để quy định rằng:
1. Phụ nữ phải trùm đầu trong khi cầu nguyện.
2. Phép rửa là bước đầu tiên hướng tới sự cứu rỗi. Không tồn tại ơn cứu độ bên ngoài những người được rửa tội.
3. Ngày Sa-bát nên được cử hành vào các ngày thứ Bảy, chứ không phải Chúa Nhật.
4. Ngày 25/12 không nên được cử hành như là lễ Chúa Giáng sinh bởi vì nó là ngày lễ thần mặt trời.
5. Thập giá và các ảnh tượng Chúa, Đức Mẹ và các thánh bị coi là một hình thức tôn thờ ngẫu tượng.
6. Cần đề cao và cử hành các ngày lễ Do Thái Giáo như Lễ Vượt Qua, Lễ Bánh Không Men và các ngày lễ khác được nêu trong chương 23 của Sách Lê-vi: lễ hoả tế, lễ dâng bó lúa đầu mùa, lễ lều…
Cánh chung luận
Với mục đích gây hoang mang ngõ hầu chiêu dụ tín đồ, Ahn Sahng-hong đặc biệt quan tâm đến những tiên đoán về ngày tận thế. Ông cảnh cáo các tín hữu là họ đang sống trong “thời sau hết”.
Năm 1956, ông tiên đoán là trong vòng 10 năm nữa Chúa lại đến lần thứ hai; và đó là ngày thế mạt.
Tư tưởng cánh chung luận của ông được nhiều người Hàn quốc đón nhận một phần lớn vì hoàn cảnh lịch sử của đất nước này. Họ đồng hoá việc chiếm đóng của Nhật Bản với ách cai trị đè nặng lên dân Do Thái là “dân tộc đang bước đi trong tối tăm”.
Trong cuốn “The Bridegroom Was a Long Time in Coming, and They All Became Drowsy and Fell Asleep” (Chú rể đến muộn, và các cô phù dâu thiếp đi) phát hành vào năm 1980, Ahn Sahng-hong lại dự đoán tận thế sẽ diễn ra vào năm 2012.[4]
Cô dâu Thiên quốc
Vào năm 1978, một nhóm người trong giáo phái của Ahn Sahng-hong tôn vinh một thành viên nữ giàu có tên là Um Sooin (sinh năm 1941) lên hàng thần thánh. Một loạt ấn bản được tung ra quả quyết bà ta là “cô dâu duy nhất” trên thiên quốc được sai xuống để an ủi loài người. Mặc dù, đã cẩn thận tôn vinh cả Ahn Sahng-hong là Chúa Kitô xuống thế lần thứ hai; cả nhóm cùng với bà Um Sooin bị Ahn Sahng-hong trục xuất ra khỏi giáo phái.
Ahn Sahng-hong tỏ ra rất khinh miệt phụ nữ. Trong cuốn “Problems with the New Jerusalem, the Bride and Women’s Veils” (1980, in lại 1983) (Vấn nạn với nhóm Tân Giêrusalem, Cô Dâu và khăn che đầu của phụ nữ) [5], Ahn Sahng-hong viết: “Đàn bà nên học mọi sự trong lặng lẽ và trong sự phục tùng. Tôi không cho phép một người phụ nữ giảng dạy hoặc có quyền hành trên một người đàn ông; đàn bà phải biết im lặng. Adong được tạo ra trước rồi mới đến Evà. Và Adong không phải là người bị [con rắn] lừa dối; mà chính là người đàn bà đã bị lừa dối và trở thành tội nhân.”
Cái chết của Ahn Sahng-hong
Ngày 24/2/1985, Ahn Sahng-hong bị nhồi máu cơ tim đang khi ăn trưa. Ông được đưa vào nhà thương. Tuy nhiên, trên đường đi cấp cứu, Ahn Sahng-hong lại bị thêm tai biến mạch máu não. Ngày hôm sau, 25/2/1985 ông qua đời tại nhà thương Công Giáo Maryknoll của thành phố Busan bỏ lại người vợ và 3 đứa con.
Ông được chôn cất tại nghĩa trang Seokgye cách thành phố Busan 30km về phía Bắc. Trên phần mộ của ông, người ta đọc thấy dòng chữ sau: “Phần mộ của tiên tri Êlia Ahn Sahng-hong”[6].
Giáo phái Đức Chúa Trời Mẹ
Sau cái chết bất ngờ của Ahn Sahng-hong, tranh chấp nổi lên trong giáo phái Hội Thánh Đức Chúa Trời các chứng nhân của Chúa Giêsu do ông thành lập.
Lần này, một nhóm người khác lại tôn vinh một người đàn bà khác, 41 tuổi, làm lãnh đạo tinh thần của họ. Đó là bà Jang Gil-ja (장길자). Bà này sinh ngày 29/10/1943. Jang Gil-ja là chủ tịch của hai quỹ từ thiện rất giàu có tên là 국제위러브유 운동 (Chúng tôi thương mến bạn) và 새생명복지회 (Phúc Lợi trong cuộc sống mới) [7].
Sau Đại Hội Bất Thường vào ngày 4/3/1985, giáo phái do Ahn Sahng-hong thành lập lúc đầu tách ra thành 2 giáo phái:
Thứ nhất là nhóm New Covenant Passover Church of God – Hội Thánh Đức Chúa Trời Giao ước Mới trong Lễ Vượt Qua. Nhóm này do vợ và các con của Ahn Sahng-hong lãnh đạo và vẫn đặt trụ sở tại địa điểm cũ tại thành phố Busan.
Phóng viên Lee Seung-yeon của tờ Modern Religion viết vào tháng 2/2012 rằng “Các buổi lễ được thực hiện tại nhà thờ của nhóm Giao ước Mới trong Lễ Vượt Qua không khác bao nhiêu với các giáo hội [Tin Lành] chính thống. Các giáo dân cầu nguyện cùng danh Chúa Giêsu Kitô và đọc kinh Lạy Cha. Họ hát những bài thánh ca chính thống không có sửa đổi. Giống như các tín đồ Cơ Đốc Phục Lâm, họ giữ ngày thứ Bảy là ngày Sa-bát.”
Nhóm thứ hai, là nhóm truyền vào Việt Nam từ năm 2001, có tên là Witnesses of Ahn Sahng-hong Church of God (Hội Thánh Đức Chúa Trời các chứng nhân của Ahn Sahng-hong), sau lại đổi tên thành World Mission Society Church of God (Hội Thánh Đức Chúa Trời Hiệp hội Truyền giáo Thế giới) thường được gọi với cái tên phổ biến hơn là giáo phái Đức Chúa Trời Mẹ. Nhóm này dời trụ sở từ Busan về Hán Thành.
Trong Đại Hội ngày 2 tháng Sáu, 1985, tại Hán Thành, nhóm này đưa ra 3 quan điểm mới.
Thứ nhất, Ahn Sahng-hong phải được nhìn nhận là Chúa Kitô xuống thế lần thứ hai. Xa hơn, Ahn Sahng-hong phải được xem là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Thứ hai, bà Jang Gil-ja được gọi là Đức Chúa Trời Mẹ, tức là hình ảnh phụ nữ của Đức Chúa Trời.
Thứ ba, các kinh nguyện kêu cầu cùng Thiên Chúa phải được sửa lại để kêu cầu cùng Ahn Sahng-hong.
Việc tôn phong người phàm lên hàng thần thánh đã bị Hội Đồng Quốc Gia Các Giáo Hội Kitô Nam Hàn lên án mạnh mẽ coi giáo phái này là một tà giáo phạm thượng, phản nghịch cùng Thiên Chúa. [9]
Tuy bị lên án như thế, tà giáo “Hội Thánh Đức Chúa Trời các chứng nhân của Ahn Sahng-hong” dưới quyền lãnh đạo của bà Jang Gil-ja và tổng Mục Sư Joo-Cheol Kim tỏ ra thành công vượt bậc và gây không ít khó khăn cho Giáo Hội Công Giáo tại Nam Hàn.
Jang Gil-ja và Joo-Cheol Kim là những người có tài làm thương mại lại có vốn từ các tín hữu đóng góp nên họ làm chủ các đại công ty và có nhiều cổ phần trong những công ty lớn khác tại Nam Hàn, Hoa Kỳ và các nước khác.
Ngày nay tà phái này có đến 450 nhà thờ tại Nam Hàn và 6,000 nhà thờ tại 175 quốc gia khác.
Phương thức hoạt động của tà giáo này tỏ ra rất thành công tại các quốc gia kém mở mang tại Á, Phi. Chẳng hạn như tại Nigeria, trong tư cách chủ nhân các siêu thị, và các công ty lớn, họ thường thuê mướn một số lớn các nhân công vào đó để …ngồi chơi xơi nước, gần như không làm gì cả trong một thời gian ngắn. Sau đó, một thời gian họ dùng công ăn việc làm gây sức ép buộc gia nhập giáo phái, nếu không chịu thì mất việc làm. Tại các nước phát triển, họ lại hoạt động theo một phương thức khác. Theo Chris Harris của People.com[10], tà phái này tận dụng Internet để tiếp cận với những người có khó khăn trong cuộc sống, các cựu chiến binh khủng hoảng sau khi trở về từ chiến tranh, và cả những người nghiện sex muốn được sống cuộc sống bầy đàn chung chạ.
Tuy nhiên, có vẻ như đạo Hồi không quan tâm mấy đến ngày tận thế. Vì theo họ, chỉ có Thượng Đế Allah mới biết được cụ thể là ngày nào.
Trong Ấn Độ giáo, thời gian kết thúc xảy ra khi Kalki, hóa thân cuối cùng của Vishnu, xuống trần gian trên một con ngựa trắng và chấm dứt giai đoạn Kali Yuga hiện tại. Trong Phật giáo, Đức Phật đã tiên đoán rằng những giáo lý của ông sẽ bị lãng quên sau 5.000 năm, sau đó là sự hỗn loạn. Một vị Bồ Tát tên là Di Lặc sẽ xuất hiện và tái khám phá giáo lý của Phật pháp. Sự hủy diệt cuối cùng của thế giới sau đó sẽ đi qua bảy mặt trời.
Ở các tôn giáo khác ngoài Kitô giáo, họ không quan tâm nhiều đến ngày Tận thế nên không bị chi phối trong cuộc sống; họ không phải dọn mình hay chuẩn bị cho ngày cuối cùng này, ngoài việc chuẩn bị cho cái chết của mình. Ngày Tận thế là mảnh đất màu mỡ cho các giáo phái suy diễn để lợi dụng hay lôi kéo tín hữu vào các niềm tin sai lạc, có thể dẫn đến chết người hàng loạt.
MS