1. Khuynh hướng Bảo thủ hay Canh tân trong giáo hội Công giáo
👉 Với chủ đề như trên, ắt có nhiều tín hữu cho rằng cách tiếp cận như vậy là thiếu nghiêm túc, có cái nhìn sai lệch và méo mó vì đạo Công giáo luôn là Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền. Giáo hội luôn Hiệp nhất, phi chính trị và không hề có phe này, phái nọ...
👉 Thực ra trong lịch sử đạo Công giáo, có hai khuynh hướng lớn thường được nhắc đến là bảo thủ (conservative) và canh tân (progressive) luôn đấu tranh lẫn nhau. Đây là hai cách tiếp cận khác nhau đối với việc giải thích giáo lý, thực hành tôn giáo và thích ứng với các thay đổi trong xã hội. Nó chi phối đến cách đối xử của Giáo hội đối với các tín hữu và ảnh hưởng cụ thể đến đời sống thiêng liêng của nhiều người.
👉 Trong Giáo hội Công giáo, "bảo thủ" và "canh tân" là hai xu hướng tư tưởng hoặc cách tiếp cận liên quan đến việc duy trì hoặc cải cách các truyền thống, giáo lý, và thực hành tôn giáo. Dưới đây là giải thích ngắn gọn:
1. Bảo thủ (Conservative):
Chỉ những người hoặc nhóm trong Giáo hội muốn duy trì các truyền thống, giáo lý, và thực hành lâu đời của Công giáo mà không thay đổi hoặc chỉ thay đổi rất ít.
Họ thường nhấn mạnh việc bảo vệ tính bất biến của giáo lý, phụng vụ truyền thống (như Thánh lễ bằng tiếng Latinh), và các giá trị đạo đức truyền thống.
Ví dụ: Những người ủng hộ giữ nguyên các quy định về hôn nhân, gia đình, hay vai trò giới tính theo quan điểm truyền thống....
2. Canh tân (Reformist/Progressive):
Chỉ những người hoặc nhóm ủng hộ việc cải cách hoặc thích nghi Giáo hội để phù hợp hơn với bối cảnh xã hội hiện đại.
Họ có thể đề xuất thay đổi trong phụng vụ (như sử dụng ngôn ngữ địa phương), cách tiếp cận các vấn đề xã hội (như vai trò của phụ nữ, quan điểm về hôn nhân đồng giới), hoặc cách diễn giải giáo lý để gần gũi hơn với thế giới đương đại.
Ví dụ: Những người ủng hộ Công đồng Vatican II (1962-1965), vốn đưa ra nhiều cải cách lớn trong Giáo hội, như hiện đại hóa phụng vụ và thúc đẩy đối thoại liên tôn.
* Lưu ý:
- Hai xu hướng này không hoàn toàn đối lập mà thường tồn tại trên một quang phổ. Nhiều người Công giáo có thể kết hợp cả hai, tùy vào vấn đề cụ thể.
- Các tranh luận giữa bảo thủ và canh tân thường xoay quanh cách cân bằng giữa việc bảo tồn bản sắc Công giáo và đáp ứng những thay đổi của thời đại.
👉 Không phải là không có lý do khi 2 khuynh hướng này không những chi phối quan điểm của nhiều viên chức cấp cao của Vatican mà còn chính là chủ đề nóng bỏng và gây tranh cải tại các Thượng hội đồng Giám mục của Vatican: Thượng Hội đồng về Gia đình ngoại thường (2014), Thượng Hội đồng về Gia đình thường lệ (2015), Thượng Hội đồng về vùng Amazon (2019) và "Thượng Hội đồng về Tính Hiệp Hành" (2021-2024) do ĐGH Phanxicô khởi xướng.
2. Những người quan tâm đến định hướng cải cách của Giáo hội là ai?
Những người quan tâm đến chủ đề trên (bảo thủ - canh tân) thường là những tín hữu hạng 2, bị coi là đang sống trong tình trạng tội lỗi hay "rối đạo" (khó hay không được lên Thiên đàng) hoặc là những người tuy không phải như vậy nhưng có trăn trở với những bước đi tiến bộ của Giáo hội phù hợp với thời đại: bao dung, chào đón những người anh em bị coi là sa ngã theo tinh thần Lòng Chúa thương xót, mong muốn các giáo lý của Giáo hội tương thích và không đi ngược với quan niệm đạo đức cốt lõi của xã hội.
Họ có thể là một những người sau đây:
- Đồng tính và có quan hệ ĐTLA
- Đã từng ly dị và tái hôn không hợp theo quy tắc của Giáo hội
- Đã từng phá thai, đã và đang sử dụng các phương thức ngừa thai, tránh thai bị cấm và muốn thụ thai nhân tạo...(sẽ nói thêm chi tiết ở dưới)
- Đã và đang có quan hệ tự do luyến ái: QHTD tình dục trước hôn nhân; sống chung và có QHTD đối với người chưa có bí tích hôn phối.
- Muốn có sự cởi mở hơn trong thủ tục hôn nhân với người ngoại đạo
- Mong muốn được chết theo cách trợ tử và an tử trong bình an
- Mong muốn phụ nữ có vai trò chính thức và lớn hơn trong giáo hội: được làm phó tế (như hầu hết các giáo hội Kitô giáo khác), được làm linh mục, giám mục (như Tin Lành, Anh giáo)
- Mong muốn Giáo hội cởi mở hơn trong vấn đề độc thân linh mục: cho phép đàn ông đã có vợ được làm linh mục (như Công giáo Đông phương và Chính Thống giáo Đông phương), cho phép linh mục được cưới vợ (như Tin Lành, Anh giáo)
- Mong muốn Giáo hội có những bước đi tiến tới hợp nhất đối với các giáo hội Kitô giáo khác và không kỳ thị, tẩy chay đối với các tôn giáo khác (hiếm có).
Họ cũng có thể là những người di dân, người nghèo, những người ở nơi xa xôi hẻo lánh nào đó: rừng Amazon, Phi châu...thiếu chăm sóc mục vụ.
Liên quan đến các giáo huấn của Giáo hội Công giáo về hôn nhân, tính dục, và việc điều hòa sinh sản.
Như ta đã biết, Thông điệp Humanae Vitae (Sự Sống Con Người) do ĐGH Phaolô VI ban hành ngày 25/7/1968. Thông điệp này cấm các hành vi sau đây vì bị xem là vi phạm luật tự nhiên và ý định của Thiên Chúa.:1. Ngừa thai nhân tạo: dưới mọi hình thức như như thuốc tránh thai, bao cao su... nhằm ngăn chặn sự thụ thai trong hành vi vợ chồng. Trong đó có hành vi cố ý làm cho hành vi vợ chồng mất khả năng sinh sản như triệt sản, giao hợp ngưng ngang...
2. Phá thai trực tiếp: nghiêm cấm mọi hành vi phá thai trực tiếp, dù với bất kỳ lý do nào, kể cả lý do y tế.
3. Triệt sản trực tiếp:
Việc triệt sản (vô hiệu hóa khả năng sinh sản của nam hoặc nữ, dù tạm thời hay vĩnh viễn) vì mục đích tránh thai cũng bị cấm. Điều này bao gồm các thủ thuật như thắt ống dẫn tinh hoặc thắt ống dẫn trứng khi thực hiện với ý định ngăn chặn sự thụ thai.
4. Hành vi hôn nhân cố ý vô hiệu quả sinh sản: Bất kỳ hành vi nào trong hoặc trước khi thực hiện hành vi vợ chồng nhằm cố ý ngăn chặn khả năng sinh sản (như sử dụng các phương tiện hoặc hành động làm gián đoạn quá trình tự nhiên của sự thụ thai) như giao hợp ngưng ngang đều bị cấm.
Riêng về việc thụ tinh nhân tạo:
Trong Thông điệp Humanae Vitae, ĐGH Phaolô VI không đề cập trực tiếp đến thụ tinh nhân tạo (như thụ tinh trong ống nghiệm - IVF) vì công nghệ này chưa phổ biến vào năm 1968. Tuy nhiên, giáo huấn của Giáo hội Công giáo về thụ tinh nhân tạo được làm rõ trong các tài liệu sau này, đặc biệt là trong Donum Vitae (1987) và Dignitas Personae (2008) của Bộ Giáo lý Đức tin. Dựa trên các nguyên tắc của Humanae Vitae, Giáo hội đưa ra quan điểm rõ ràng về thụ tinh nhân tạo như sau:
1. Cấm thụ tinh nhân tạo thay thế hành vi vợ chồng: cấm các phương pháp như IVF liên quan đến việc thụ tinh ngoài cơ thể (trong phòng thí nghiệm)
2. Tôn trọng phẩm giá phôi thai: cấm đông lạnhphôi thai để sử dụng hoặc để nghiên cứu
3. Cấm sử dụng tinh trùng hoặc trứng từ người thứ ba: sử dụng tinh trùng hoặc trứng từ người ngoài cuộc (người hiến tặng) trong thụ tinh nhân tạo cũng bị cấm,
Thông điệp Humanae Vitae và các hướng dẫn có liên quan của Giáo hội đã bị phản đối kịch liệt vì nó đi ngược lại với ý chí của vợ chồng nhằm duy trì hạnh phúc hài hòa của gia đình mình, đi ngược lại quan điểm tiến bộ của xã hội và chủ trương của LHQ về sinh sản có kế hoạch, phòng ngừa các bệnh nguy hiểm lây nhiễm qua đường tình dục (sử dụng bao cao su). Nó đẩy giáo dân đi vào con đường phạm tội khi muốn ngừa thai, thụ tinh nhân tạo...
Cho đến nay, hầu như không thấy có viên chức Vatican hay tờ báo Công giáo nào, dù cho có bảo thủ đến đâu, còn lên tiếng ủng hộ Thông điệp Humanae Vitae, trừ việc cấm phá thai (nhưng ở các lớp Giáo lý Hôn nhân ở VN vẫn tuyên truyền cho quan điểm cấm này, khuyến khích thay bằng phương pháp ngừa thai tự nhiên!)
Quan điểm của những người mong muốn canh tân là Giáo hội hãy hủy bỏ Thông điệp này (trừ vấn đề phá thai) vì nó quá lạc hậu, can thiệp sâu đời sống tình dục của vợ chồng và nhất là xa rời thực tế cả về lĩnh vực đạo đức xã hội.
3. Phân loại những tín hữu quan tâm hay không quan tâm đến bước đi của Giáo hội (canh tân - bảo thủ):
Xin mạn phép được tạm phân loại như sau:
1. Những người muốn canh tân👉 Là những tín hữu "rối đạo: QHĐT, ly dị tái hôn... hay cảm thấy không thể thực hiện được theo lời giáo huấn bảo thủ của Giáo hội (ngừa thai, thụ tinh nhân tạo...)
👉 Những người khác cảm thấy bất bình vì quan điểm của Giáo hội đã không còn tương thích với quan điểm đạo đức cơ bản của xã hội đương đại: thăng tiến vai trò của phụ nữ, về QHTD...
Riêng đối với những tín hữu rối đạo: họ không tự nhận mình là hoàn toàn thánh thiện mà chỉ mong Giáo hội mở rộng vòng tay chào đón họ để họ không phải bị phân biệt đối xử và thậm chí bị khinh miệt ngay cả trong chính gia đình họ hàng của họ.
Họ đã bị như vậy trong hàng thập kỷ qua là quá đủ rồi!
Một hình ảnh trong Phúc âm kể về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ xứ Canaan, tượng trưng cho những người bị xã hội hoặc luật lệ tôn giáo xem như “ngoài rìa” của cộng đoàn ơn cứu độ và nói về Lòng thương xót của Chúa. Có thể lấy làm minh họa cho tâm trạng của họ.
Matthêu 15:26-27: Người đáp: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con.”. Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.”
Marcô 7:27-28: Người nói với bà: “Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó.” Nhưng bà trả lời: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ nhỏ.”
Đây cũng là lời dạy rằng ơn cứu độ của Thiên Chúa không chỉ dành riêng cho ai mà còn mở rộng cho mọi người.
2. Những người không quan tâm
Đây là những người cảm thấy bằng an trong cuộc sống cá nhân và gia đình trong vòng tay của Chúa và của Giáo hội nên bàng quang, tránh xa những tranh cải chính trị - tôn giáo, không chạy theo phe này hay phái nọ để lo chuyên tâm về phần hồn của mình. Đây là thái độ chính đáng, không có gì phải phiền trách.
3. Những người bảo thủ
Người Công giáo bảo thủ coi đức tin Công giáo là kim chỉ nam không thể thay đổi. Họ là những người không muốn Giáo hội thay đổi bất cứ tín điều gì đã từng ban bố trước đây hàng chục TK, dù là để diễn giải cho lời Chúa dạy trong Phúc âm hay để là thực hành theo ý chỉ được coi là có giá trị muôn đời của 1 Giáo hoàng nào đó, mặc dù quan điểm này có thể đi ngược lại lợi ích của Giáo hội, lợi ích thiêng liêng của nhiều tín hữu và đi ngược lại cách nhìn nhận về nền tảng đạo đức cốt lõi của xã hội.
Những người bảo thủ, nhất là những viên chức cấp cao ở Vatican, luôn là thành phần mạnh miệng phản đối, chỉ trích gay gắt và thậm chí đe dọa ly khai hay chụp mũ "lạc giáo", gây áp lực khi Giáo Hội có ý định muốn canh tân.
Lý do có thể là:
1/ Trung thành với Giáo lý và Truyền thống với lòng kính trọng. Sợ thay đổi có thể bị coi là mối nguy hiểm làm giảm giá trị cốt lõi của đức tin, làm suy yếu đức tin:
2/ Lo ngại trước sự suy thoái đạo đức trước sự biến đổi của xã hội. Họ xem những giá trị hiện đại (chẳng hạn như cá nhân chủ nghĩa, tục hóa, chủ nghĩa tiêu dùng) là đi ngược lại với các nguyên tắc Kitô giáo. Do đó, họ bảo vệ nghiêm ngặt giáo huấn của Giáo hội như một cách chống lại những ảnh hưởng tiêu cực.
3/ Mong muốn sự chắc chắn trong đời sống đức tin, tìm kiếm sự ổn định: Trong một thế giới đầy biến động, một số người bảo thủ cảm thấy rằng Giáo hội với truyền thống và nguyên tắc không thay đổi là nguồn an ủi và ổn định tinh thần.
Họ tin rằng việc tuân theo giáo huấn truyền thống là cách trung thành với thẩm quyền của Giáo hội và Đức Thánh Cha.
Tuy nhiên tính bảo thủ trong Công giáo có cả mặt tích cực và tiêu cực. Một mặt, nó bảo vệ các giá trị cốt lõi và giữ gìn truyền thống; mặt khác, nếu quá cực đoan, nó có thể cản trở sự đổi mới cần thiết để Giáo hội tiếp cận thế giới hiện đại. Điều quan trọng là duy trì sự cân bằng giữa lòng trung thành với truyền thống và sự cởi mở với Chúa Thánh Thần để Giáo hội luôn sống động và thích nghi với những nhu cầu mới.
MS