5 huyền thoại về sự bất khả ngộ của Giáo hoàng | Anmai, CSsR (factcheck)

70 views
Skip to first unread message

Mikali Nguyễn

unread,
Jun 9, 2025, 8:27:35 PMJun 9
to Alphonse Family (AF)
huyền thoại về sự bất khả ngộ của Giáo hoàng mà quá nhiều người vẫn tin (kể cả bạn!)

* Bài viết này có lẽ của Caroline Perkins là Điều phối viên Nội dung Kỹ thuật số của ChurchPOP (nhà thờ POP). Church POP là một trang web và nền tảng truyền thông Công giáo, cung cấp nội dung liên quan đến đức tin, văn hóa, và đời sống tâm linh. 
ChurchPOP, thuộc sở hữu của EWTN Global Catholic Network, không được điều hành trực tiếp bởi các tu sĩ hoặc linh mục. ChurchPOP không trực thuộc một giáo phận nào, là 1 kênh thông tin độc lập như Alphonse Family (AF) vậy 😁. Như tất nhiên có quy mô toàn cầu, khác với AF.
Hiện tại, chưa thấy các tổ chức kiểm chứng thông tin lớn như PolitiFact, FactCheck.org, hay Snopes chỉ ra rằng ChurchPOP đã đăng bài viết bị đánh giá là sai sự thật. Hôm nay sẽ factcheck bài này, tất nhiên theo ý kiến cá nhân. Factcheck sẽ đến sau
MS

Có rất ít điều “Công giáo” hơn trong Công giáo so với giáo hoàng, đặc biệt là liên quan đến giáo điều về sự bất khả ngộ của giáo hoàng. Thật không may, nó cũng bị hiểu lầm rộng rãi. Sau đây là 5 huyền thoại phổ biến về sự bất khả ngộ của giáo hoàng.

 Sau đây là năm quan niệm sai lầm phổ biến về sự bất khả ngộ của Giáo hoàng:

Lầm tưởng 1: Sự bất khả ngộ của Giáo hoàng có nghĩa là Giáo hoàng không bao giờ sai.

Sự thật : Sự bất khả ngộ của Giáo hoàng có nghĩa là Giáo hoàng  có thể  bất khả ngộ khi ngài giảng dạy theo một cách nhất định,  không phải  là ngài luôn bất khả ngộ trong mọi điều ngài giảng dạy mọi lúc. Ngài chỉ bất khả ngộ khi ngài, trong khi thi hành chức vụ Phêrô của mình, cố ý giảng dạy một điều gì đó một cách dứt khoát cho toàn thể Giáo hội. Rất hiếm khi các Giáo hoàng viện dẫn thẩm quyền này.

Lầm tưởng thứ 2: Điều này có nghĩa là Giáo hoàng không bao giờ phạm tội.

Sự thật : Sự bất khả ngộ của Giáo hoàng chỉ liên quan đến giáo lý, không phải sự thánh thiện của Giáo hoàng. Như cựu Giáo hoàng của chúng ta, Giáo hoàng Francis, đã khiêm tốn thừa nhận, Giáo hoàng là một người tội lỗi, cần đến ân sủng của Chúa và đi xưng tội như mọi người khác.

Caroline Perkins, Nhà thờ POP

Lầm tưởng thứ 3: Điều này có nghĩa là Giáo hoàng có thể đưa ra những học thuyết mới.

Sự thật : Trên thực tế, Giáo hội Công giáo dạy rằng sự mặc khải của Thiên Chúa đã chấm dứt sau cái chết của vị tông đồ cuối cùng. Điều duy nhất mà thẩm quyền của Giáo hội, bao gồm cả giáo hoàng, có thể làm là bảo vệ, giải thích và làm sáng tỏ Lời Chúa. Giáo hoàng không có khả năng tiết lộ những chân lý “mới”, chỉ có thể giải thích đúng những gì Chúa đã tiết lộ.

Caroline Perkins, Nhà thờ POP

Lầm tưởng 4: Đây là một phát minh hiện đại.

Sự thật : Đúng vậy, sự bất khả ngộ của giáo hoàng đã trở thành giáo điều vào thế kỷ 19 – nhưng Giáo hội luôn tin vào điều đó. Bạn có thể thấy điều đó trong các giáo phụ, thậm chí ngay từ thế kỷ thứ hai, trong các tác phẩm của Thánh Irenaeus ( Chống lại các tà thuyết , III.3).

Lầm tưởng thứ 5: Điều này không có trong Kinh thánh.

Sự thật : Chúa Jesus đã nói với Phêrô rằng ông là “đá” mà trên đó Ngài sẽ xây dựng Hội Thánh của Ngài, và rằng “các cửa địa ngục sẽ không thắng được Hội Thánh.” (Mt. 16 ) Nếu Hội Thánh được xây dựng trên Phêrô (người kế nhiệm là giáo hoàng), và Hội Thánh không thể thất bại, thì điều đó có nghĩa là Chúa Thánh Thần sẽ không để giáo hoàng thất bại. Đó là bản chất của sự bất khả ngộ của giáo hoàng. 

Lm. Anmai, CSsR tổng hợp

Mikali Nguyễn

unread,
Jun 16, 2025, 8:15:57 AMJun 16
to Alphonse Family (AF)
FACTCHECK
image.png
Câu chữ xanh là câu trong bài bị factcheck, câu chữ nâu là factcheck
image.png

Có rất ít điều “Công giáo” hơn trong Công giáo so với giáo hoàng, đặc biệt là liên quan đến giáo điều về sự bất khả ngộ của giáo hoàng.
* Câu này đúng ở chỗ nó nhấn mạnh sự thần thánh hóa vai trò cá nhân của Giáo hoàng Công giáo (không thể sai lầm) tương đương với đức tin vào Chúa Kitô, Thánh Kinh, Truyền thống, các Bí tích và sự hiệp thông phổ quát của Giáo hội. Đồng thời nó tạo nên sự khác biệt giữa Công giáo, cáo giáo hội Kitô giáo khác và các tôn giáo khác.
Các giáo hội Kitô giáo khác:
👉 Họ bác bỏ tín điều này. Ở họ không có tín điều tương đương vì họ không chấp nhận ý tưởng rằng bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào có thể có thẩm quyền tuyệt đối trong việc giảng dạy đức tin, ngoại trừ Thánh Kinh và cho rằng tín điều này đã đặt quyền bính con người ngang hàng hoặc cao hơn Thánh Kinh, điều mà họ xem là không phù hợp với đức tin Kitô giáo.
👉 Các Giáo hội khác thường phân tán thẩm quyền qua
Thánh Kinhcác Công đồng,, hoặc ý thức chung của cộng đồng tín hữu. Chính Thống giáo có khái niệm gần nhất với bất khả ngộ, nhưng nó thuộc về các Công đồng chung hoặc sự đồng thuận của Giáo hội, không phải cá nhân. Tin Lành và Anh giáo từ chối ý tưởng bất khả ngộ của con người, nhấn mạnh vào Thánh Kinh hoặc lý trí.

 Các tôn giáo khác:
👉 Hồi giáo, Do Thái giáo, Phật giáo, đạo Sikh, đạo Lão và Nho giáo đều không có tín điều tương đương. Chỉ có lời của Thượng đế, Allah được mạc khải qua kinh Thánh mới không thể mắc sai lầm. Không có cá nhân nào, ngay cả nhà lãnh đạo tối cao như Muhammad, Đức Phật, Dalai Lama...dù cho tuyên bố theo thể thức nào có thể được coi là bất khả ngộ như Giáo hoàng.
👉 Một số tôn giáo (như Hồi giáo, Do Thái giáo, Sikh) xem các văn bản thiêng liêng là có thẩm quyền tối cao hoặc gần với bất khả ngộ, nhưng thẩm quyền này thường không tập trung vào một cá nhân mà phân tán qua kinh thánh, truyền thống, hoặc cộng đồng. Các tôn giáo như Phật giáo và Ấn Độ giáo nhấn mạnh trải nghiệm cá nhân hơn thẩm quyền tuyệt đối.


Lầm tưởng 1: Sự bất khả ngộ của Giáo hoàng có nghĩa là Giáo hoàng không bao giờ sai.
Sự thật: Sự bất khả ngộ của Giáo hoàng có nghĩa là Giáo hoàng có thể  bất khả ngộ khi ngài giảng dạy theo một cách nhất định, không phải là ngài luôn bất khả ngộ trong mọi điều ngài giảng dạy mọi lúc. Ngài chỉ bất khả ngộ khi ngài, trong khi thi hành chức vụ Phêrô của mình, cố ý giảng dạy một điều gì đó một cách dứt khoát cho toàn thể Giáo hội. Rất hiếm khi các Giáo hoàng viện dẫn thẩm quyền này.
* Factcheck: Sự thực không phải đơn giản như vậy.
1. Các nhà thần học Công giáo đều giải thích nhất quán rằng:
Tín điều bất khả ngộ của Giáo hoàng (The Dogma of Papal Infallibility) được Công đồng Vatican I (1869-1870) định nghĩa, khẳng định rằng Giáo hoàng không thể sai lầm khi phát biểu ex cathedra (từ ngai Tòa Phêrô) về các vấn đề đức tin và luân lý, với ý định công bố một giáo huấn chính thức cho toàn thể Giáo hội, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. 
Chỉ có 3 tín điều được tuyên bố ex cathedra :
Tín điều về Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (1854, Đức Piô IX).
Tín điều bất khả ngộ của Giáo hoàng (1870. Công đồng Vatican I, Đức Piô IX).  
Tín điều về Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (1950, Đức Piô XII).
Những tuyên bố này được xem là không thể sai lầm vì được Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
image.png

Ta hãy phân tích nhấn mạnh các tiêu chuẩn chữ đỏ nói trên
Theo Công đồng Vatican I (Hiến chế Pastor Aeternus), một phát biểu ex cathedra phải thỏa mãn các tiêu chí sau:
1. Tư cách của Giáo hoàng:
Phát biểu được đưa ra bởi Giáo hoàng với tư cách là người kế vị Thánh Phêrô, đóng vai trò là mục tử tối cao của toàn thể Giáo hội Công giáo.
2. Về đức tin hoặc luân lý:
Nội dung phải liên quan đến một giáo lý thuộc về đức tin (ví dụ: về Thiên Chúa, Chúa Giêsu, Đức Maria) hoặc luân lý (các nguyên tắc đạo đức).
3. Ý định ràng buộc:
Giáo hoàng phải rõ ràng bày tỏ ý định công bố một giáo huấn ràng buộc tất cả các tín hữu Công giáo, không chỉ là ý kiến cá nhân hay hướng dẫn mục vụ.
4. Chính thức và công khai: Phát biểu phải được đưa ra dưới hình thức một tuyên bố chính thức, thường qua một văn kiện long trọng (như tông hiến, tông thư, hoặc sắc lệnh).

2. Có những tín điều gần tương đương với bất khả ngộ (không thể sai lầm)
Mặc dù được khẳng định như vậy, tức là có rất ít tín điều bất khả ngộ (được tuyên bố theo thể thức ex cathedra). Nhưng trong thực tế có những tín điều mà Giáo hoàng đưa với tư cách cá nhân (không thông qua Công đồng hay Thượng Hội đồng) nhưng buộc Giáo hội và tín hữu phải tuân theo, được coi như bất khả ngộ, mặc dù có nhiều tranh cãi và phản đối
Ta lấy thí dụ bằng 2 Thông điệp gây tranh cãi sau đây: 
- Thông điệp Humanae Vitae vSự sống con người (1968) của Đức Phaolô VI
Tông thư Ordinatio Sacerdotalis về việc Phong chức linh mục (1994) của Đức Gioan Phaolô II
Cả 2 đều có đặc điểm gần như 1 tín điều bất khả ngộ:
1. Ban hành với tư cách Giáo hoàng: do chính Giáo hoàng ban hành, với tư cách cá nhân mà không có sự bàn bạc, thảo luận gì trước đó của 1 Công đồng hay Thượng Hội đồng Giám mục. Việc có do Chúa Thánh Thần soi sáng hay không thì không dám bàn
2. Liên quan về đức tin và luân lý: về nguyên tắc quan hệ tình dục trong gia đình và vai trò không thể đảo ngược của nam giới trong việc đảm nhiệm chức thánh
3. Ý định ràng buộc: 
👉 Ràng buộc toàn thể các tín hữu về luân lý tính dục, hôn nhân và việc điều hòa sinh sản, vi phạm là có tội (Humanae Vitae
👉 Ràng buộc Giáo hội, không cho phép phong chức linh mục cho nữ giới (Ordinatio Sacerdotalis)
Trong Ordinatio Sacerdotalis, Đức Gioan Phaolô II tuyên bố một cách long trọng: “Tôi tuyên bố rằng Giáo hội không có thẩm quyền để phong chức linh mục cho phụ nữ, và giáo huấn này phải được tất cả các tín hữu của Giáo hội tuân giữ một cách dứt khoát.” (Ordinatio Sacerdotalis, số 4).
4. Chính thức và công khai: hai văn kiện này được ban hành bằng Thông điệp và Tông huấn là 2 văn kiện cấp cao của Vatican. 

3. Có 1 khái niệm gọi là Giáo huấn dứt khoát”(Doctrina Definitive Tenenda) luôn chi phối và cản trở Giáo hội mỗi khi có ý muốn cải cách
Trong thần học Công giáo, “Giáo huấn dứt khoát” (definitive teaching) đề cập đến một giáo huấn được Giáo hội trình bày như là chân lý ràng buộc, phải được các tín hữu tuân giữ, dù không nhất thiết là bất khả ngộ theo nghĩa ex cathedra.
Cả 2 văn kiện trên: Humanae Vitae và Ordinatio Sacerdotalis đều mang các đặc điểm sau:
- Đều thuộc về thẩm quyền giảng dạy (magisterium) của Giáo hội, qua Giáo hoàng
- Nhằm bảo vệ và truyền đạt chân lý đức tin hoặc luân lý cho toàn thể Giáo hội.
- Yêu cầu các tín hữu tuân giữ và chấp nhận như một phần của đức tin Công giáo.
- Đều là Giáo huấn dứt khoát, được xem là gắn liền với chân lý bất biến, nên khó có khả năng thay đổi.

Điều quan trọng là các Hồng y thuộc phe bảo thủ đã nhiều lần viện dẫn Giáo huấn dứt khoát (Doctrina definitive tenenda) do các Giáo hoàng tiền nhiệm ban hành như là một “vũ khí” để ngăn chặn đối thoại và đổi mới.

Các hồng y bảo thủ như Hồng y Raymond Burke, Robert Sarah, Walter Brandmüller, Gerhard Müller, Joseph Zen, Juan Sandoval Íñiguez... đã bày tỏ lo ngại về hướng đi của Thượng Hội đồng. Một số người trong nhóm này đã viện dẫn các Giáo huấn dứt khoát của các Giáo hoàng tiền nhiệm để lập luận rằng các thay đổi được đề xuất có thể mâu thuẫn với chân lý đức tin hoặc luân lý của Giáo hội.

Các hồng y bảo thủ không chỉ gửi dubia riêng tư mà còn công khai chúng qua các blog như của Sandro Magister và Messa in Latino, nhằm gây áp lực công khai lên Đức Phanxicô và định hướng dư luận Công giáo trước Thượng Hội đồng.

Có thư mở trước Mật nghị (2025): Một tài liệu mang tên Renewal and Restoration in the Church (2025), được cho là có sự khuyến khích từ một hồng y cấp cao, đã kêu gọi các hồng y trong Mật nghị tái khẳng định các giáo huấn dứt khoát, như Ordinatio Sacerdotalis (về phong chức) và Humanae Vitae (về tránh thai), đồng thời phản đối tính đồng nghị vì cho rằng nó cho phép giáo dân hoặc không Công giáo tham gia vào các vấn đề giáo lý, điều trái với truyền thống tông đồ.

Lầm tưởng thứ 2: Điều này có nghĩa là Giáo hoàng không bao giờ phạm tội.

Sự thật: Sự bất khả ngộ của Giáo hoàng chỉ liên quan đến giáo lý, không phải sự thánh thiện của Giáo hoàng. Như cựu Giáo hoàng của chúng ta, Giáo hoàng Francis, đã khiêm tốn thừa nhận, Giáo hoàng là một người tội lỗi, cần đến ân sủng của Chúa và đi xưng tội như mọi người khác.
* Factcheck: Bây giờ, dưới ánh sáng của internet, không ai còn lầm tưởng như vậy nữa.
👉 Theo giáo lý Công giáo, Đức Giáo hoàng, dù được coi là người kế vị Thánh Phêrô và có quyền bất khả ngộ trong một số trường hợp khi giảng dạy về đức tin và luân lý, vẫn là một con người và có thể phạm tội. Không có giáo lý nào trong Công giáo khẳng định rằng Đức Giáo hoàng miễn nhiễm với tội lỗi. Thực tế, các Đức Giáo hoàng thường xuyên xưng tội, thể hiện rằng họ cũng cần ơn tha thứ như mọi tín hữu khác.

👉 Trong lịch sử Giáo hội Công giáo, một số Đức Giáo hoàng đã bị cáo buộc hoặc ghi nhận là có những hành vi gây tranh cãi, bị coi là phạm tội hoặc bê bối, đặc biệt trong các thời kỳ mà quyền lực thế tục và thần quyền lẫn lộn. Dưới đây là một vị Giáo hoàng nổi bật  dựa trên các tài liệu lịch sửGiáo hoàng John XII (955–964)Giáo hoàng Alexander VI (Rodrigo Borgia, 1492–1503)Giáo hoàng Benedict IX (1032–1044, 1045, 1047–1048)Giáo hoàng Innocent VII (1484–1492)Giáo hoàng Sixtus IV (1471–1484)Giáo hoàng Boniface VIII (1294–1303)Giáo hoàng Leo IX (1049–1054)
image.png

MS (còn tiếp)

Mikali Nguyễn

unread,
Jun 17, 2025, 12:33:42 AMJun 17
to Alphonse Family (AF)
Lầm tưởng thứ 3: Điều này có nghĩa là Giáo hoàng có thể đưa ra những học thuyết mới.
image.png

Sự thật: Trên thực tế, Giáo hội Công giáo dạy rằng sự mặc khải của Thiên Chúa đã chấm dứt sau cái chết của vị tông đồ cuối cùng. Điều duy nhất mà thẩm quyền của Giáo hội, bao gồm cả giáo hoàng, có thể làm là bảo vệ, giải thích và làm sáng tỏ Lời Chúa. Giáo hoàng không có khả năng tiết lộ những chân lý “mới”, chỉ có thể giải thích đúng những gì Chúa đã tiết lộ.
Factcheck: nhận định này có vẻ phiến diện.
Có những học thuyết (hay tín điều) mới khởi đầu từ Giáo hội và có những học thuyết khởi đầu từ Giáo hoàng mà trong Kinh Thánh không có, hoặc đề cập đến rất ít, hoặc có đề cập nhưng không rõ ràng. Ở đây ta chỉ bàn về những học thuyết mới do các Giáo hoàng đề ra với tư cách cá nhân (không từ sự thống nhất của Công đồng hay Thượng Hội đồng).
Nên nhớ mỗi học thuyết mới ban hành từ những Tông hiến, Thông điệp, Tông thư....đều được trích dẫn có căn cứ từ Kinh Thánh. Nhưng vấn đề là chứng cứ đó có rõ ràng là từ Kinh Thánh nói hay do Chúa nói hay không thì là chuyện cần bàn.
Ta có các văn kiện tiêu biểu nổi bật  chứa đựng học thuyết mới ban hành từ các Giáo hoàng sau đây cần xem xét:
1. Học thuyết "Truyền sinh" (The doctrine on the transmission of life) ở Thông điệp Humanae Vitae (1968) của ĐGH Phaolô VI, 
2. Học thuyết về "Thần học về Thân xác" (Theology of the Body), là tuyển tập của 129 bài giáo lý (1979 - 1984) của ĐGH Gioan Phaolô II
3. Học thuyết về "Chức tư tế thánh hiến" (Ordained priesthood), khẳng định rằng Giáo hội Công giáo không có quyền phong chức linh mục cho phụ nữ ở Tông thư Ordinatio Sacerdotalis (1994) của ĐGH Gioan Phaolô II
4. Học thuyết về "Sinh thái học toàn diện"(Integral Ecology) ở Thông điệp Laudato Si’ (2015) của ĐGH Phanxicô....
Các nhà thần học Công giáo đều phủ nhận đó là các học thuyết mới do tất cả đều xuất phát từ Kinh Thánh mà ra (không có gì mới). Để tránh đi vào tranh cãi dài dòng ta phân tích sơ bộ về 2 học thuyết mang tính ràng buộc rõ ràng đối với Giáo hội và tín hữu là học thuyết 1 và 3:
1. Học thuyết "Truyền sinh" ở Thông điệp Humanae Vitae (1968)
Học thuyết này không mới khi nhấn mạnh đến tình yêu vợ chồng. Nó chỉ "mới" khi cấm, không có phép ngừa thai, phá thai, sinh con ngoài ống nghiệm, thụ tinh nhân tạo...
👉 Các nhà thần học Công giáo khi biện minh cho Humanae Vitae thường trích dẫn 2 đoạn Kinh Thánh Cựu ước sau:
Sáng Thế 1:28: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất.”
Sáng Thế 38:8-10: “Ônan biết rằng dòng dõi sinh ra sẽ không thuộc về mình, nên mỗi khi ăn ở với chị dâu, anh để giống đổ ra ngoài đất, kẻo sinh ra dòng dõi cho anh mình. Điều Ônan làm là điều dữ trước mặt Đức Chúa, nên Người khiến anh phải chết.”
👉 Trong bốn sách Tin Mừng (Matthêu, Máccô, Luca, và Gioan), không có ghi lại bất kỳ câu nói trực tiếp nào của Chúa Giêsu về việc cấm "ngừa thai" hay "phá thai"....
Như vậy có thể nói "học thuyết truyền sinh" (ăn ở vợ chồng bắt buộc phải hướng vào mục tiêu sinh con) là mới khi: 
  • Không có câu Kinh Thánh nào trực tiếp cấm các phương pháp ngừa thai hiện đại. 
  • Chỉ có Giáo hội Công giáo giữ một lập trường rất rõ ràng và nhất quán như trên. Các giáo hội Kitô giáo khác lại có một quan điểm mềm dẻo hơn, đặc biệt là trong cộng đồng Tin Lành, nơi quyền tự quyết của lương tâm cá nhân thường được nhấn mạnh. Họ cho rằng Kinh Thánh không cấm rõ ràng ngừa thai, và việc điều hòa sinh sản là vấn đề lương tâm cá nhân, miễn là vẫn tôn trọng phẩm giá hôn nhân.

2. Học thuyết về "Chức tư tế thánh hiến" (Ordained priesthood) 
ở Tông thư Ordinatio Sacerdotalis (1994):
Các Giáo hội Kitô giáo ngoài Công giáo (như Anh giáo, Tin Lành, và một số hệ phái Chính Thống hiện đại) cũng viện dẫn nhiều đoạn Kinh Thánh để ủng hộ việc phong chức linh mục hoặc mục sư cho phụ nữ. Những lập luận này dựa trên cách diễn giải khác về các đoạn Kinh Thánh, nhấn mạnh bình đẳng giới tính trong ơn gọi, vai trò lãnh đạo của phụ nữ trong Giáo hội sơ khai, và bối cảnh văn hóa của thời Kinh Thánh.
Vậy thì cùng viện dẫn xuất phát từ Kinh Thánh, cái nào là mới và không mới?
MS

Mikali Nguyễn

unread,
Jun 18, 2025, 2:04:56 AMJun 18
to Alphonse Family (AF)
Đây là Tập 4 tiếp theo của Loạt bài có tiêu đề trên:

Lầm tưởng 4: Đây là một phát minh hiện đại.
Sự thật: Đúng vậy, sự bất khả ngộ của giáo hoàng đã trở thành giáo điều vào thế kỷ 19 – nhưng Giáo hội luôn tin vào điều đó. Bạn có thể thấy điều đó trong các giáo phụ, thậm chí ngay từ thế kỷ thứ hai, trong các tác phẩm của Thánh Irenaeus ( Chống lại các tà thuyết , III.3).
image.png

Factcheck: Điều này không phản ánh đúng lịch sử về sự hình thành của tín điều bất khả ngộ.

1. Các nhà thần học công giáo biện minh ra sao?
Tín điều bất khả ngộ của Giáo hoàng (Papal Infallibility) được chính thức công nhận tại Công đồng Vatican I (1869-1870), nhưng ý tưởng về quyền bính tối cao và sự không thể sai lầm của Giáo hoàng trong việc giảng dạy về đức tin và luân lý đã có nguồn gốc từ rất sớm trong truyền thống Công giáo, dù chưa được định nghĩa rõ ràng trước thế kỷ 19. Trước Công đồng Vatican I, Khái niệm bất khả ngộ của Giáo hoàng không được hệ thống hóa thành một tín điều rõ ràng, nhưng đã có những tiền đề thần học và thực hành trong Giáo hội

1. Thời kỳ đầu Giáo hội:
👉 Ý tưởng về quyền bính tối cao của Giáo hoàng được xây dựng dựa trên lời Chúa Giêsu nói với Phêrô trong Matthêu 16:18-19: "Con là Phêrô, nghĩa là Đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Giáo hội của Thầy... Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời." Điều này được hiểu là Phêrô (và các Giáo hoàng kế vị) có quyền bính đặc biệt.
👉 
Các Giáo hoàng thời kỳ đầu, như Lêô I (440-461) và Grêgôriô I (590-604), đã thực thi quyền bính trong việc giải quyết các tranh luận thần học (như Công đồng Chalcedon, 451) và được coi là những tiếng nói có thẩm quyền cao trong Giáo hội.

2. Thời Trung Cổ:
👉 Các thần học gia như Thánh Thomas Aquinas (1225-1274) và Duns Scotus (1266-1308) đã thảo luận về vai trò của Giáo hoàng như một thẩm quyền tối cao trong các vấn đề đức tin. Tuy nhiên, họ không sử dụng thuật ngữ "bất khả ngộ" một cách chính thức.
👉 Trong cuộc tranh luận về quyền bính giữa Giáo hoàng và các công đồng (Conciliarism), như tại Công đồng Constance (1414-1418), vai trò của Giáo hoàng đôi khi bị thách thức, nhưng ý tưởng về quyền giảng dạy không thể sai lầm trong các vấn đề đức tin và luân lý vẫn được một số nhà thần học ủng hộ.

3. Thời kỳ Cải cách:
Trong bối cảnh Cải cách Tin Lành (thế kỷ 16), các nhà thần học Công giáo như Thánh Robert Bellarmine (1542-1621) đã bảo vệ mạnh mẽ quyền bính của Giáo hoàng, bao gồm ý tưởng rằng Giáo hoàng có thể đưa ra những phán quyết không thể sai lầm trong các vấn đề đức tin khi nói với tư cách là người đứng đầu Giáo hội.

4. Các Giáo phụ nói gì?
Các Giáo phụ (Church Fathers) không sử dụng thuật ngữ "bất khả ngộ" theo cách hiện đại, nhưng một số ý kiến của họ đã góp phần hình thành nền tảng cho tín điều này:
👉 Thánh Irênê thành Lyon (thế kỷ 2):
Trong tác phẩm Chống các lạc giáo (Adversus Haereses), Irênê nhấn mạnh vai trò của Giáo hội Rôma như một điểm quy chiếu chính thống cho đức tin, vì Giáo hội này được thành lập bởi Phêrô và Phaolô. Ông viết: "Vì với Giáo hội này [Rôma], do quyền bính vượt trội của nó, mọi Giáo hội phải đồng thuận" (Adversus Haereses, 3.3.2). Điều này ngụ ý một sự công nhận về thẩm quyền đặc biệt của Tòa Rôma.
👉 Thánh Augustinô (354-430):
Augustinô thường nhấn mạnh sự thống nhất của Giáo hội dưới quyền lãnh đạo của Tòa Phêrô. Ông viết: "Rôma đã lên tiếng; vụ việc đã được giải quyết" (Sermo 131, 10), ám chỉ quyền bính của Giáo hoàng trong việc giải quyết các tranh cãi thần học.
Tuy nhiên, Augustinô cũng nhấn mạnh rằng quyền bính này không phải là tuyệt đối trong mọi trường hợp, mà phải phù tín với Thánh Kinh và Truyền thống.

👉 Thánh Lêô I (440-461):
Lêô I, được gọi là Lêô Cả, đã khẳng định mạnh mẽ quyền tối thượng của Giáo hoàng. Trong các bài giảng và thư từ, ông nhấn mạnh rằng Phêrô tiếp tục "nói" qua các Giáo hoàng kế vị. Tài liệu Tome của Lêô (449) được chấp nhận tại Công đồng Chalcedon như một tuyên bố chính thống về đức tin, cho thấy sự công nhận thực tế về thẩm quyền của Giáo hoàng.
👉 Thánh Grêgôriô I (590-604):
Grêgôriô Cả, một trong những Giáo hoàng đầu tiên có ảnh hưởng lớn, nhấn mạnh vai trò của Tòa Phêrô như "người đứng đầu các Giáo hội". Ông không nói trực tiếp về bất khả ngộ, nhưng các thư từ của ông cho thấy ông xem vai trò của mình là bảo vệ đức tin chính thống một cách không thể sai lầm trong các vấn đề quan trọng.

Kết luận của các nhà thần học:

Mặc dù tín điều bất khả ngộ chỉ được định nghĩa chính thức tại Công đồng Vatican I vào thế kỷ 19, nhưng ý tưởng về quyền bính tối cao và sự không thể sai lầm của Giáo hoàng trong các vấn đề đức tin đã có nguồn gốc từ thời các Giáo phụ và phát triển qua nhiều thế kỷ. Các Giáo phụ như Irênê, Augustinô, Lêô I, và Grêgôriô I đã đặt nền móng bằng cách nhấn mạnh vai trò đặc biệt của Tòa Phêrô trong việc bảo vệ đức tin chính thống.

Factcheck đoạn này:
image.png
1. Ý tưởng về quyền bính tối cao của Giáo hoàng được xây dựng dựa trên lời Chúa Giêsu nói với Phêrô trong Matthêu 16:18-19: ta sẽ nói sau ở Tập tiếp theo.
2. Không nên lầm tưởng thẩm quyền, quyền bình  tối cao (Papal Supremacy, hay Primatus Papae hoặc Supremum Pontificium) với quyền bất khả ngộ của Giáo hoàng (Papal Infallibility)
Mặc dù vậy trong lịch sử, ở thời kỳ đế chế Constantine, quyền bính tối cao của Giáo hoàng (Giám mục Rôma) đã bị thách thức bởi các hoàng đế, đặc biệt là Constantine Đại đế và các vị kế nhiệm như Constantius II. Các thách thức này xuất phát từ mô hình caesaropapism, trong đó hoàng đế can thiệp vào các vấn đề tôn giáo, triệu tập công đồng, bổ nhiệm giám mục, và thậm chí trục xuất Giáo hoàng (như trường hợp Liberius). Mặc dù Tòa Rôma được kính trọng như trung tâm chính thống, quyền bính của nó chưa được định nghĩa rõ ràng và thường bị lu mờ bởi quyền lực hoàng gia hoặc các tòa giám mục khác như Constantinople.
3. Nếu phân tích kỹ, ta thấy các Giáo phụ tập trung nói về: 
👉 Quyền bình không thể sai lầm của Giáo hội, Công đồng (tập thể) dưới quyền lãnh đạo của Tòa Phêrô (Rôma), hơn là nói về quyền bất khả ngộ của Giáo hoàng (cá nhân)
👉 Augustinô cũng nhấn mạnh rằng quyền bính này không phải là tuyệt đối trong mọi trường hợp.
👉 Họ không sử dụng thuật ngữ "bất khả ngộ" theo nghĩa hiện đại.

2. Các phản đối về quyền bất khả ngộ của Giáo hoàng.
Tín điều về quyền bất khả ngộ của Giáo hoàng (Papal Infallibility) trong hiến chế Pastor Aeternus đã gây ra nhiều tranh cãi và phản đối trong lịch sử, cả trước và sau khi được công nhận. Các phản đối này đến từ nhiều nguồn: trong nội bộ Giáo hội Công giáo, từ các Giáo hội Kitô giáo khác, và từ các nhóm bên ngoài như học giả, chính trị gia, và nhà cải cách.

Các phản đối khá dài, sau đây chỉ liệt kê các phản đối trước Công đồng Vatican I
1. Chủ nghĩa Công đồng (Conciliarism):
Trong thế kỷ 14-15, Giáo hội Công giáo đối mặt với khủng hoảng, đặc biệt là Đại Ly giáo Phương Tây (1378-1417), khi có nhiều người cùng tuyên bố là Giáo hoàng. Điều này dẫn đến phong trào Conciliarism, cho rằng quyền bính tối cao thuộc về các Công đồng chung (Ecumenical Councils) chứ không phải Giáo hoàng.
2. Các nhà thần học như Marsilius của Padua (TK 14) và William của Ockham
(1287–1347):
Họ lập luận rằng quyền bính của Giáo hội nằm trong tập thể các giám mục hoặc cộng đồng tín hữu, không phải một cá nhân như Giáo hoàng. Họ cho rằng Giáo hoàng có thể sai lầm, đặc biệt trong các vấn đề không liên quan đến đức tin cốt lõi.
3. Công đồng Constance (1414-1418): 
Công đồng này ban hành sắc lệnh Haec Sancta, tuyên bố rằng Công đồng có quyền bính trên cả Giáo hoàng trong các vấn đề liên quan đến đức tin, sự thống nhất, và cải cách Giáo hội. Sắc lệnh này được một số người hiểu là phủ nhận quyền bất khả ngộ của Giáo hoàng.

3. Các tín điều hoặc giáo huấn của các Giáo hoàng bị cho là sai lầm phải bãi bỏ hoặc điều chỉnh: 
image.png

👉 Như ta đã biết ở Tập 1, có 03 tín điều được tuyên bố bất khả ngộ, có giá trị vĩnh viễn và không thể bị bãi bỏ. Và trong lịch sử Giáo hội Công giáo, không có trường hợp nào một tín điều được ban hành ex cathedra hoặc qua Công đồng chung, điển hình là 03 tín điều nói trên, bị xác định là sai lầm và bị bãi bỏ.
👉 Tuy nhiên có những tín điều, một số giáo huấn hoặc phán quyết của Giáo hoàng, không phải tín điều ex cathedra, đã bị sửa đổi hoặc bãi bỏ do sai lầm hoặc không phù hợp
1. Giáo huấn của Đức Honorius I (625-638) về lạc giáo Monothelitism:
 👉 Đức Honorius I bị cáo buộc đã không mạnh mẽ chống lại lạc giáo Monothelitism (quan điểm rằng Chúa Giêsu chỉ có một ý chí, thay vì hai ý chí: thần tính và nhân tính). Trong các thư gửi Thượng phụ Sergius I của Constantinople, Honorius sử dụng ngôn ngữ mơ hồ, dường như ủng hộ Monothelitism.
 👉 Công đồng Constantinople III (680-681) đã kết án Honorius vì đã không bảo vệ đức tin chính thống, và ông bị xem là “hỗ trợ lạc giáo” qua sự im lặng hoặc ngôn ngữ không rõ ràng.
2. Thỏa hiệp của Đức Liberius (352-366) về lạc giáo Arianism:
👉 Dưới áp lực của Hoàng đế Constantius II (một người ủng hộ lạc giáo Arian), Đức Liberius bị cáo buộc đã ký vào một công thức thần học mơ hồ, dường như thỏa hiệp với Arianism (lạc giáo phủ nhận thần tính của Chúa Giêsu). 
👉 Ông bị trục xuất và bị thay thế tạm thời bởi một giám mục đối lập (Felix II). Mặc dù sau khi trở lại, Liberius tái khẳng định đức tin chính thống.
3. Vụ Galileo Galilei (1616-1633): 
👉 Đức Urban VIII và Tòa Thánh kết án Galileo vì ủng hộ lý thuyết nhật tâm (mặt trời là trung tâm vũ trụ), vốn bị xem là trái với Thánh Kinh thời đó. Đây một phán quyết kỷ luật và thần học dựa trên hiểu biết khoa học thời bấy giờ. 
👉 Sau này, Giáo hội (dưới thời Đức Gioan Phaolô II, 1992) thừa nhận sai lầm trong vụ Galileo và phục hồi danh dự cho ông.
4. Giáo huấn về ân xá (thế kỷ 16): 
👉 Một số Giáo hoàng, như Đức Lêô X, ban hành các giáo huấn hoặc thực hành liên quan đến ân xá (indulgences) bị Martin Luther và các nhà cải cách chỉ trích là sai lầm. 
👉 Công đồng Trent (1545-1563) đã cải cách việc lạm dụng ân xá, dù vẫn duy trì giáo lý về ân xá.
5. Các chủ trương chống Hồi giáo, chống Công, bài người Do Thái đã bị bãi bỏ trong thực tế
👉 Các sắc lệnh kêu gọi Thập tự chinh (như của Đức Urban II, Innocent III) là các chính sách chống Hồi giáo thời Trung Cổ đã bị bãi bỏ trên thực tế qua Nostra Aetate (1965) và các giáo huấn đối thoại liên tôn của các Giáo hoàng hiện đại.
👉 Các giáo huấn như Divini Redemptoris (1937) và sắc lệnh 1949 của Đức Piô XI và Piô XII là chống Cộng Sản. Tuy không bị bãi bỏ chính thức, nhưng mất hiệu lực thực tiễn sau Chiến tranh Lạnh, với sự chuyển hướng sang đối thoại và các vấn đề toàn cầu.
👉 Các sắc lệnh như Cum Nimis Absurdum (1555) của Đức Phaolô IV và Quy định của Công đồng Lateran IV (1215) mang tính bài Do Thái đã bị bãi bỏ trên thực tế qua Nostra Aetate (1965) và các cải cách phụng vụ. Giáo hội thừa nhận sai lầm và xin lỗi về các chính sách này.

MS

Mikali Nguyễn

unread,
Jun 19, 2025, 6:44:13 AMJun 19
to Alphonse Family (AF)
Lầm tưởng thứ 5: Điều này không có trong Kinh thánh.
Sự thật: Chúa Jesus đã nói với Phêrô rằng ông là “đá” mà trên đó Ngài sẽ xây dựng Hội Thánh của Ngài, và rằng “các cửa địa ngục sẽ không thắng được Hội Thánh.” (Mt. 16 ) Nếu Hội Thánh được xây dựng trên Phêrô (người kế nhiệm là giáo hoàng), và Hội Thánh không thể thất bại, thì điều đó có nghĩa là Chúa Thánh Thần sẽ không để giáo hoàng thất bại. Đó là bản chất của sự bất khả ngộ của giáo hoàng.
image.png
FACTCHECK:
Theo bản dịch đoạn Matt: 16:18-19 của Nhóm Phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ:
"Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy."

Đoạn Matthêu 16:18-19 nói trên được xem là chứng minh cho quyền bất khả ngộ của Giáo hoàng, dựa trên vai trò đặc biệt của Phêrô và sự truyền thừa quyền lực cho các Giáo hoàng. Công đồng Vatican I đã khẳng định rằng quyền bất khả ngộ là một đặc ân được Chúa ban cho Giáo hoàng khi ngài phát biểu ex cathedra (từ ngai tòa Phêrô) về các vấn đề đức tin và luân lý. Matthêu 16:18-19 được trích dẫn như một nền tảng Kinh Thánh cho giáo lý này.
Tuy nhiên, cách diễn giải này gây tranh cãi với các Giáo hội Kitô giáo khác  cho rằng đoạn Kinh Thánh này không hỗ trợ quyền bất khả ngộ và quyền này không có cơ sở rõ ràng trong Kinh Thánh. Do đó, câu trả lời phụ thuộc vào truyền thống thần học tùy theo góc nhìn khác nhau.

1. Các nhà thần học công giáo biện minh cho tín điều này ra sao?
Giáo hội Công giáo giải thích đoạn Kinh thánh này là bằng chứng rõ ràng cho vai trò đặc biệt của Phêrô và những người kế vị ông (các Giáo hoàng)  tín điều Papal Infallibility  . Luận điểm được xây dựng như sau:
👉 Phêrô là "Đá Tảng" (Petros và Petra): Chúa Giêsu đã chơi chữ với tên của Simon, đổi tên ông thành Phêrô (tiếng Hy Lạp là Petros), có nghĩa là "đá". Sau đó, Ngài nói sẽ xây Hội Thánh của mình trên "tảng đá này" (tiếng Hy Lạp là petra). 
Theo quan điểm Công giáo, "tảng đá", biểu tượng cho nền tảng vững chắc, chính là bản thân Phêrô. Ông được đặt làm nền tảng hữu hình cho sự hiệp nhất và vững bền của Hội Thánh. Việc Hội Thánh được xây trên Phêrô và "quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi" ngụ ý rằng người lãnh đạo này phải được bảo vệ khỏi sai lầm nghiêm trọng trong việc giảng dạy đức tin, nếu không, Hội Thánh sẽ bị dẫn dắt sai lạc và sụp đổ.
👉 "Chìa khóa Nước Trời": Hình ảnh chìa khóa gợi đến Isaias 22:22, nơi người quản gia của vua được trao "chìa khóa nhà Đavít", biểu trưng cho quyền quản trị và đưa ra quyết định thay cho nhà vua. Khi trao chìa khóa cho Phêrô, Chúa Giêsu đã trao cho ông quyền tối cao để cai quản Hội Thánh trên trần gian. Quyền này bao gồm quyền giáo huấn tối cao.
👉 "Cầm buộc và tháo cởi": Đây là một thuật ngữ của các rabbi Do Thái, có nghĩa là quyền đưa ra những phán quyết có tính ràng buộc về giáo lý (cấm điều gì đó - "cầm buộc") và kỷ luật (cho phép điều gì đó - "tháo cởi"). Lời hứa rằng những gì Phêrô cầm buộc hay tháo cởi dưới đất "cũng sẽ được" như vậy trên trời cho thấy các quyết định chính thức của ông được Thiên Chúa phê chuẩn. Để có sự bảo đảm này, khi Phêrô nhân danh toàn thể Hội Thánh định tín một giáo lý về đức tin hay luân lý, ông phải được Chúa Thánh Thần gìn giữ khỏi sai lầm. Đây chính là cốt lõi của đặc sủng bất khả ngộ.
Theo đó, Công giáo tin rằng đặc quyền này không chỉ dành cho riêng Phêrô mà còn được truyền lại cho những người kế vị ông trên ngai tòa Rôma.

2. Quan điểm của các Giáo hội khác phản bác quyền Bất khả ngộ
Các truyền thống Kitô giáo khác, chủ yếu là Tin Lành và Chính Thống giáo, có cách giải thích khác về đoạn Kinh thánh nói trên như sau:
👉 "Đá Tảng" là Lời tuyên xưng của Phêrô: Nhiều nhà thần học Tin Lành cho rằng "tảng đá" mà Chúa Giêsu nói đến không phải là con người Phêrô, mà là lời tuyên xưng đức tin ngay trước đó của ông: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Matthêu 16:16). Theo họ, Hội Thánh được xây dựng trên nền tảng là đức tin vào Chúa Giêsu Kitô, chứ không phải trên một con người.
👉 Quyền "cầm buộc và tháo cởi" được trao cho tất cả các Tông đồ: Họ chỉ ra rằng trong Matthêu 18:18, Chúa Giêsu cũng trao quyền "cầm buộc và tháo cởi" cho tất cả các tông đồ, không chỉ riêng Phêrô. Điều này cho thấy quyền bính trong Hội Thánh được trao cho tập thể các tông đồ và những người kế vị họ (các giám mục), chứ không tập trung vào một cá nhân duy nhất.
👉 Phêrô là "người đứng đầu trong số những người bình đẳng" (Primus inter pares): Chính Thống giáo Đông phương công nhận vai trò lãnh đạo và địa vị danh dự của Phêrô trong số các tông đồ. Tuy nhiên, họ không chấp nhận quyền tài phán tối cao và quyền bất khả ngộ của cá nhân Giám mục Rôma (Giáo hoàng) trên toàn thể Hội Thánh. Đối với họ, sự bất khả ngộ thuộc về toàn thể Hội Thánh khi các giám mục hiệp thông với nhau, đặc biệt là tại các Công đồng Đại kết.
👉 Thiếu bằng chứng rõ ràng về bất khả ngộ: Các nhà phê bình cho rằng Matthêu 16:18-19 không trực tiếp đề cập đến quyền bất khả ngộ. Họ lập luận rằng khái niệm này là sự phát triển muộn màng trong thần học Công giáo, không được minh định trong Kinh Thánh hoặc truyền thống sơ khai.
👉 Lịch sử và thực tiễn không thuyết phục: Một số chỉ ra rằng trong lịch sử, có những trường hợp các Giáo hoàng đưa ra quyết định hoặc tuyên bố gây tranh cãi, mâu thuẫn hoặc sai lầm, làm dấy lên nghi ngờ về quyền bất khả ngộ. 
Tuy nhiên, Công giáo đáp lại rằng quyền bất khả ngộ chỉ áp dụng trong các tuyên bố ex cathedra, vốn rất hiếm (ví dụ: tuyên bố về Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 1854 và Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời năm 1950).

3. Ý kiến riêng (cá nhân):
3.1. Ý nghĩa của đoạn Matt 16: 18-19 
Đoạn Kinh thánh này nhấn mạnh đến quyền bính lãnh đạo tối cao của Phêrô và các Giáo hoàng kế nhiệm hơn là quyền bất khả ngộ (không thể sai lầm) của người lãnh đạo tối cao này.
👉 Như đã nói ở Tập 4: Không nên lầm tưởng quyền bính  tối cao (Papal Supremacy, hay Primatus Papae hoặc Supremum Pontificium) với quyền bất khả ngộ của Giáo hoàng (Papal Infallibility). Hai quyền này khác nhau:
Quyền tối cao nhấn mạnh thẩm quyền quản trị và lãnh đạo của Giáo hoàng trên toàn Giáo hội, là quyền giám quản (jurisdiction), tức là quyền ban hành luật lệ, bổ nhiệm giám mục,  thiết lập giáo phận, ban hành luật phụng vụ,giải quyết tranh chấp, và đưa ra các quyết định có tính ràng buộc về tổ chức và kỷ luật Giáo hội. Khi thực hiện các quyền này Giáo hoàng, đặc biệt với tư cách cá nhân, vẫn có thể mắc phải sai lầm trong nhiều lĩnh vực. 
👉 Theo ngữ cảnh, đoạn "quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi" là nói đến sự không thể sai lầm của Hội thánh (tập thể), dưới sự lãnh đạo của Giáo hoàng, không phải nói về quyền bất khả ngộ của cá nhân Phêrô (Giáo hoàng).
👉 Theo ngữ cảnh, quyền "cầm buộc" và "tháo cỡi" trong đoạn Kinh thánh nói trên đúng là Chúa đã giao cho Phêrô. Tuy nhiên quyền này càng không nói lên tính bất khả ngộ 
Cụm từ này không phải do Chúa Giêsu sáng tạo ra. Đó là một thuật ngữ pháp lý và học thuật rất phổ biến của các Rabbi (thầy dạy luật) Do Thái thời đó.
Cầm buộc (tiếng Do Thái: asar): Có nghĩa là "cấm". Khi một Rabbi "cầm buộc", ông đang giải thích luật Torah và tuyên bố rằng một hành động nào đó là bị cấm, không được phép làm. Điều này tương đương với việc ban hành một quy định hoặc đặt ra một giới hạn.
Tháo gỡ (tiếng Do Thái: hittir): Có nghĩa là "cho phép". Khi một Rabbi "tháo gỡ", ông tuyên bố rằng một hành động nào đó là được phép, không bị ràng buộc, ngăn cấm nữa, hoặc một người nào đó được miễn trừ khỏi một quy định. Điều này tương đương với việc dỡ bỏ, thay đổi một quy định cũ đã ban hành, ban ân xá, hoặc tạo ra một ngoại lệ.
Quyền cầm buộc nhằm thiết lập cấu trúc và sự ổn định trong 1 tổ chức. 
- Ngược lại, quyền tháo gỡ nhằm cải cách thay đổi cách quản lý cho linh hoạt và nhân văn hơn. "Tháo gỡ" mang lại sự linh hoạt, lòng trắc ẩn và khả năng thích ứng cho tổ chức. Nó ngăn không cho các quy tắc trở nên cứng nhắc và vô nhân đạo. Nó trả lời câu hỏi: "Làm thế nào để chúng ta áp dụng các nguyên tắc của mình một cách công bằng và hiệu quả trong một thế giới luôn thay đổi?"
Về nguyên tắc, bất kỳ nhà lãnh đạo giỏi nào cũng phải biết khi nào cần "cầm buộc" (siết chặt kỷ luật, củng cố nguyên tắc) và khi nào cần "tháo gỡ" (thể hiện sự cảm thông, tìm giải pháp sáng tạo). Một tổ chức chỉ có "cầm buộc" sẽ trở nên độc đoán và sụp đổ. Một tổ chức chỉ có "tháo gỡ" sẽ trở nên hỗn loạn và tan rã. Sự kết hợp của cả hai mới tạo ra một cộng đồng vững mạnh và bền lâu. Thực hiện song song 2 quyền mang tính đối lập này là mâu thuẫn với tính bất khả ngộ: bất biến, không thể sai lầm của người lãnh đạo. 
Do vậy đoạn Kinh thánh nói trên đã mang ý nghĩa phi bác tín điều nói trên.

3.2. Nghiên cứu sâu hơn về bối cảnh của Công đồng Vatican I (tóm tắt)
Nghiên cứu này cho ta thấy điều gì đã thúc đẩy Công đồng này ban hành tín điều Papal InfallibilityCông đồng Vatican I tuyên bố quyền bất khả ngộ của Giáo hoàng trong bối cảnh sự suy giảm quyền lực thế tục của Giáo hoàng, sự gia tăng của các tư tưởng tự do và thế tục và áp lực từ phong trào Ultramontanism trong Giáo hội. 
 * Ultramontanism là phong trào nhấn mạnh quyền tối thượng và thẩm quyền tập trung của Giáo hoàng, phát triển mạnh trong thế kỷ 19 như một phản ứng trước các thách thức từ chủ nghĩa tự do, thế tục hóa, và sự suy giảm quyền lực thế tục của Giáo hoàng. Phong trào này đã định hình Giáo hội Công giáo hiện đại thông qua Công đồng Vatican I, nhưng cũng gây tranh cãi và chia rẽ. Nó đi ngược lại với các phong trào đối lập khác như:
Gallicanism: Nhấn mạnh quyền tự trị của các giáo hội quốc gia (đặc biệt ở Pháp) và sự kiểm soát của nhà nước đối với Giáo hội 
Conciliarism: Cho rằng quyền lực tối cao thuộc về các công đồng chung, không phải của Giáo hoàng.
Febronianism: Một phong trào ở Đức thế kỷ 18, tìm cách hạn chế quyền Giáo hoàng và tăng quyền cho các giám mục địa phương.
Những yếu tố này kết hợp với mong muốn củng cố thẩm quyền thiêng liêng của Giáo hoàng và bảo vệ Giáo hội trước các thách thức của TK 19 đã thúc đẩy việc hình thành nên giáo lý mang tính "hộ giáo" này. Mặc dù gây tranh cãi từ đó cho đến nay, nhưng quyền bất khả ngộ đã trở thành một phần cốt lõi của giáo lý Công giáo, định hình vai trò của Giáo hoàng trong Giáo hội hiện đại.
Vấn đề đặt ra là trong thời đại hiện nay, với nhiều thay đổi qua nhiều thập kỷ, việc tập quyền hay tản quyền, cá nhân hóa hay tập thể hóa quyền quản trị đối những quyết định quan trọng của Giáo hội đang là vấn đề thời sự được bàn bạc để có sự thích ứng (điển hình qua Thượng Hội đồng về tính Đồng nghị) thì tín điều Papal Infallibility, mặc dù  áp dụng trong phạm vi rất hạn chế, có còn phù hợp nữa hay không, hay là trở nên cản trở cho tiến trình cải cách Giáo hội?

3.3. Trong Kinh thánh, Phêrô đã từng mắc phải sai lầm, làm dấy lên sự nghi ngờ về cơ sở lý luận ban đầu của quyền bất khả ngộ 
Theo Kinh Thánh, Thánh Phêrô, người được Chúa Giêsu chọn làm “tảng đá” để xây dựng Hội Thánh (Matthêu 16:18), đã từng mắc sai lầm trong cuộc đời mình. Những sai lầm này cho thấy sự yếu đuối của con người và lòng thương xót của Thiên Chúa trong việc sử dụng những người bất toàn để thực hiện kế hoạch của Ngài. Dưới đây là phân tích các sai lầm chính của Phêrô được ghi lại trong Tân Ước, mặc dù các vụ việc này không liên quan đến giáo lý chính thức, mà là hành vi cá nhân, nhưng cho thấy Phêrô vẫn có thể mắc sai lầm trong nhận thức và cách ứng xử lúc bấy giờ.
1. Thiếu đức tin và sự nghi ngờSự kiện đi trên mặt nước (Matthêu 14:28-31): Khi Chúa Giêsu đi trên mặt nước đến với các môn đệ giữa cơn bão, Phêrô xin Chúa cho ông cũng được đi trên mặt nước. Ban đầu, Phêrô bước đi, nhưng khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và bắt đầu chìm. Chúa Giêsu trách ông: “Người đâu mà kém tin, sao lại nghi ngờ?”.
Sai lầm: Phêrô thiếu niềm tin vững vàng vào quyền năng của Chúa Giêsu, để nỗi sợ hãi lấn át.
2. Hiểu sai về sứ mạng của Chúa Giêsu (Matthêu 16:21-23): Sau khi Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là “Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Matthêu 16:16), Chúa Giêsu tiết lộ rằng Ngài sẽ phải chịu khổ hình và chết. Phêrô phản đối, nói: “Xin Thiên Chúa đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”. Chúa Giêsu quở trách: “Satan, hãy lui ra! Con là chướng ngại vật cho Thầy, vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”.
Sai lầm: Phêrô hiểu sai về sứ mạng của Đấng Cứu Thế, muốn Chúa Giêsu tránh thập giá, phản ánh tư tưởng trần thế hơn là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
3. Chối Chúa Giêsu (Matthêu 26:69-75; Mác-cô 14:66-72; Lu-ca 22:54-62; Gioan 18:15-27): Trong đêm Chúa Giêsu bị bắt và đưa ra xét xử, Phêrô, dù trước đó thề sẽ trung thành đến chết (Matthêu 26:33-35), đã chối rằng mình không biết Chúa Giêsu ba lần khi bị các đầy tớ và người khác hỏi. Sau lần chối thứ ba, gà gáy, và Phêrô “khóc lóc thảm thiết” vì hối hận.
Sai lầm: Phêrô để nỗi sợ hãi và áp lực khiến ông phản bội lời hứa trung thành với Chúa Giêsu. Đây là một trong những sai lầm nghiêm trọng nhất của ông, nhưng cũng cho thấy sự yếu đuối của con người.
4. Hành động không nhất quán tại Antiôkhia (Galát 2:11-14): Thánh Phaolô thuật lại rằng Phêrô (gọi là Kêpha) tại Antiôkia đã từng ăn uống với các tín hữu gốc ngoại bang (không Do Thái), nhưng khi một số người Do Thái từ Giêrusalem đến, Phêrô rút lui và tránh tiếp xúc với họ vì sợ bị chỉ trích. Hành động này bị Phaolô xem là “giả hình”, vì nó mâu thuẫn với niềm tin rằng các tín hữu, dù Do Thái hay ngoại bang, đều bình đẳng trong Chúa Kitô. Phaolô đã công khai đối chất với Phêrô.
Sai lầm: Phêrô hành động không nhất quán với giáo lý về sự bình đẳng trong Giáo hội sơ khai, để áp lực xã hội ảnh hưởng đến quyết định của mình.

3.4. Papal Infallibility không có lợi cho Giáo hội trong thời đại hiện nay, khi mà xã hội đã có nhiều biến đổi, nhất là về nền tảng đạo đức
Việc không có lợi mà còn có hại này không nằm ở bản thân việc thực hành quyền này vì  vốn từ trước đến nay chỉ áp dụng hạn chế ở vỏn vẹn 3 tín điều, mà nằm ở cách hiểu nhầm lẫn và lợi dụng tín điều này để phục vụ cho toan tính riêng tư.
Như ở Tập 1 đã đề cập, nhiều nhà thần học, các hồng y thuộc phe bảo thủ đã áp dụng Giáo huấn dứt khoát” (Doctrina Definitive Tenenda) để phục vụ cho mục tiêu chính trị của mình là cố tình chi phối và cản trở Giáo hội mỗi khi có ý muốn cải cách. 
Nếu như Papal Infallibility chỉ áp dụng đối với các tín điều mà Giáo hoàng tuyên bố theo thể thức long trọng (ex cathedra) thì phe bảo thủ coi các học thuyết, tín điều do Giáo hoàng tiền nhiệm tuyên bố bằng văn bản hay cả khi phát biểu, nếu phù hợp với mục tiêu chính trị của mìnhđều là khuôn vàng thước ngọc và chân lý bất biến, không thể thay đổi, cũng như Papal Infallibility vậy.

Thực tế ở triều đại Đức Phanxicô ta đã thấy sự cản trở ngày càng nguy hiểm này:

- Đức Phanxicô là người có thực tâm muốn cải cách Giáo hội trong nhiều lĩnh vực
- Ngài đã tổ chức nhiều Thượng hội đồng Giám mục: Gia đình (2014, 2015), Amazon (2019) và Tính Đồng hành (2023–2024) nhằm mục đích bàn bạc và tìm ý kiến đồng thuận của tập thể Giám mục trong hướng đi cải cách Giáo hội.
- Trong thực tế, các đề nghị cải cách ở các Thượng hội đồng (THĐ) này đã nhận được sự đồng tình của 80–90% nghị phụ, các vấn đề gây tranh cãi thường đạt tỷ lệ thấp hơn nhưng cũng vượt ngưỡng 2/3, đạt khoảng 67-75%.
- Nhưng sau đó đã không có cải cách triệt để nào được thực hiện vì bị vấp phải sự phản đối quyết liệt của các hồng y, giám mục bảo thủ thiểu số. Lý luận chủ chốt của những người này là viện dẫn các văn bản và lời nói của các Giáo hoàng tiền nhiệm như là "vũ khí "để bảo vệ cho cái mà họ cho là truyền thống cần bảo vệ.
- Mặc dù ĐGH Phanxicô đã rất dè đặt khi ban hành Tông huấn Amoris Laetitia (là kết quả của THĐ) với những cải cách rất dè dặt, hạn chế nhưng cũng không thực hiện được do bị sự phản đối quyết liệt nói trên.
- Fiducia Supplicans (“Lòng Tin Khẩn Nguyện”) là một tuyên bố về giáo lý Công giáo được Bộ Giáo lý Đức tin ban hành ngày 18/12/2023, với sự phê chuẩn của Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng bị phản đối nên hầu như không thực hiện được.
- Thượng Hội đồng về Tính Hiệp hành cũng đi vào khoảng không vì cho đến nay cũng không đưa ra được kết quả cải cách nào cụ thể.

Tóm lại: 
1. Trong thời đại hiện nay, ý tưởng về quyền khả ngộ của các Giáo hoàng đã trở nên kỳ dị khi mang đến siêu quyền lực cho cá nhân lãnh đạo, không tương ứng với bất kỳ cấu trúc tổ chức xã hội và tôn giáo nào. 
2. Tín điều này đã cản trở tiến trình cải cách bức thiết của Giáo hội và là rào cản đối với nỗ lực Đại kết giữa các giáo hội Kitô giáo. 
3. Khi còn tín điều về Quyền bất khả ngộ (Papal Infallibility) và Giáo huấn dứt khoát (Doctrina Definitive Tenenda) thì các Giáo hoàng tiếp theo sẽ xoay xở rất khó khăn khi đưa ra các ý tưởng cải cách mới hoặc có các thay đổi khác với người tiền nhiệm.
4. Các thế lực bảo thủ sẽ dựa vào đó để kết án các Giáo hoàng cải cách là lạc giáo và sẽ dựa vào đó để đe dọa ly khai, gây rạn nứt trong Giáo hội, như đã từng làm từ trước đến nay.

MS

Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages