Lượm lặt tin tức Công giáo tuần qua 16/9/2023
Chương trình lễ tấn phong các hồng y mới và khai mạc Thượng Hội đồng Giám mục
Hôm 11 tháng Chín vừa qua, theo ủy nhiệm của Đức Thánh cha Phanxicô, Đức Tổng giám mục Diego Ravelli, Trưởng ban nghi lễ phụng vụ của Tòa Thánh, đã công bố chương trình lễ tấn phong hồng y mới và lễ khai mạc Thượng Hội đồng Giám mục thứ XVI.

Lúc 10 giờ sáng, thứ Bảy, ngày 30 tháng Chín, Đức Thánh cha sẽ chủ tọa Công nghị để tấn phong 21 hồng y mới, gồm các nghi thức đội mũ, trao nhẫn và chỉ định nhà thờ hiệu tòa cho các vị.
Các hồng y cũ được yêu cầu có mặt lúc 9 giờ 30, trước bàn thờ chính của Đền thờ thánh Phêrô. Thời gian cũng tương tự như vậy đối với các Tổng giám mục, giám mục và các giám chức khác. Còn các tiến chức hồng y có mặt lúc 9 giờ 30, tại Nhà nguyện thánh Sebastiano, phía cuối Đền thờ để đi rước lên trước bàn thờ chính.
Sau lễ, từ 11 giờ 30 đến 13 giờ 30, sẽ diễn ra các cuộc viếng thăm chúc mừng các tân hồng y.
Sáng thứ Tư, ngày 04 tháng Mười, lúc 9 giờ, tại thềm Đền thờ thánh Phêrô, Đức Thánh cha sẽ chủ sự thánh lễ với các tân hồng y và Hồng y đoàn, nhân dịp khai mạc Thượng Hội đồng Giám mục kỳ thứ XVI. Đồng tế với Đức Thánh cha là các hồng y mới, và các thành viên Hồng y đoàn, các Thượng phụ, Tổng giám mục, giám mục và linh mục thành viên Thượng Hội đồng Giám mục, cũng như các vị khác, có vé do Ban phụng vụ của Đức Thánh cha cung cấp.
Đức Hồng Y tân cử Ángel Fernández Artime, bề trên tổng quyền Dòng Salêdiêng Don Bosco, người Tây Ban Nha được bổ nhiệm dù chưa phải là giám mục.

Trong số các vị Hồng Y tân cử sẽ được tấn phong vào ngày 30 tháng 9 năm 2023, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tuyển chọn một người quen biết ngài lâu năm từ Buenos Aires. Ngài là một linh mục dòng người Tây Ban Nha tên là Ángel Fernández Artime, người kế vị thứ 10 của Don Bosco với tư cách là Bề trên Tổng quyền của Dòng Salêdiêng.
Cha Fernández là bề trên đầu tiên của một Hội Dòng được bổ nhiệm làm Hồng Y trong khi đang giữa nhiệm kỳ. Với sự tân cử của ngài, con số Hồng Y Salêdiêng sẽ tăng lên 10 vị.
Cha thừa nhận khi nghe tin về việc bổ nhiệm mình làm Hồng Y vào ngày 9 tháng 7 trong tổng số 18 Hồng Y tân cử “Tôi nghĩ chắc có một sai lầm nào đó,” vì cha thậm chí chưa phải là giám mục. Khi Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp ngài trong buổi tiếp kiến vào ngày 11 tháng 7, cha đã nói với Đức Thánh Cha: “Thưa Đức Thánh Cha, ngài đã làm gì với con vậy?”
Theo thỏa thuận với Đức Thánh Cha, cha sẽ tại vị là Bề trên cả thêm một năm nữa, sau khi được bổ nhiệm làm Hồng Y. Cha sẽ chính thức từ chức khỏi chức vụ Tổng quyền Hội dòng vào ngày 31 tháng 7 năm 2024, như cha đã giải thích trong một lá thư gửi các Salêdiêng.
Nhiều năm kinh nghiệm làm bề trên Tổng quyền Dòng Salêdiêng
Cha Ángel Fernández Artime, 63 tuổi, sinh ra trong một gia đình đánh cá ở Gozón-Luanco, Tây Ban Nha, vào ngày 21 tháng 8 năm 1960. Ngài khấn trọn đời vào ngày 17 tháng 6 năm 1984 trong dòng Salêdiêng ở Santiago de Compostela. Ba năm sau, ngài được thụ phong linh mục vào ngày 4 tháng 7 năm 1987 tại Giáo phận León. Trong thời gian phục vụ, ngài đã phục vụ với tư cách là Ủy viên mục vụ giới trẻ, Phó Giám tỉnh và bề trên tỉnh Salêdiêng.
Năm 2009, ngài được bổ nhiệm làm bề trên tỉnh miền Nam Argentina, có trụ sở tại Buenos Aires. Như vậy, ngài đã cộng tác với Đức Tổng Giám Mục Buenos Aires lúc bấy giờ là Đức Hồng Y Jorge Mario Bergoglio.
Sau đó vào ngày 23 tháng 12 năm 2013, ngài được bổ nhiệm làm bề trên tỉnh Tây Ban Nha ở Địa Trung Hải. Tuy nhiên, cha chưa bắt đầu nhiệm vụ mới này, thì ngày 25 tháng 3 năm 2014, Tổng Tu nghị đã chọn ngài làm Bề trên Tổng Quyền. Ngài lại mới tái trúng cử trách nhiệm này trong sáu năm nhiệm ký thứ hai vào ngày 11 tháng 3 năm 2020. Trong nhiệm kỳ vừa qua, cha đã viếng thăm 118 quốc gia.
Gần gũi với Đức Thánh Cha Phanxicô
Trong cách tiếp cận các vấn đề mục vụ của mình, Cha Ángel rất thân thiết với ĐTC Phanxicô. Là con cái của Don Bosco, đam mê giáo dục, ngài đặc biệt quan tâm đến các tù nhân trẻ. Cha phát biểu cùng đồng hành với giới trẻ trong đời, cái nét trẻ “như đã có sẵn trong máu huyết của tôi, và bất cứ nơi nào tôi đi và bất cứ điều gì tôi được yêu cầu làm, điểm nhấn luôn là hướng về giới trẻ, giáo dục, những người dễ bị tổn thương nhất!”
Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2018, Cha đã lên tiếng phản đối các chính sách chống nhập cư là “vô nhân đạo”. Cha đã nói lên quan điểm này sau khi được tái bổ nhiệm vào năm 2023, phản đối quan điểm coi nhập cư là mối đe dọa an ninh, mà cho rằng “tỵ nạn gây ra nhiều mối phức tạp!” Về cuộc chiến ở Ukraine cũng vậy, cha đã ủng hộ đường lối của Đức Thánh Cha Phanxicô.
Trong những năm gần đây, cha Ángel Fernández Artime điều hành các Salêdiêng đã phát triển sự gần gũi gắn bó hơn với Vatican, đặc biệt qua việc ký kết hợp tác với Bộ Truyền thông vào năm 2017.

Vào đêm trước lễ Thánh Gioan Bosco, trong giờ Truyền tin ngày 30 tháng 1 năm 2022, Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ rằng ngài đã cầu nguyện cho tất cả các thành viên của gia đình Salêdiêng bằng cách theo dõi từ xa thánh lễ do Cha Ángel Fernández Artime cử hành tại đền thờ Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu. Ngài bày tỏ lòng kính trọng đối với con cái Don Bosco “làm rất nhiều điều tốt đẹp trong Giáo hội” trên khắp thế giới. Quyết định của ĐTC về việc bổ nhiệm Cha Bề trên Tổng quyền vào Hồng Y đoàn được coi là sự ghi nhận những công việc của Hội Dòng và có lẽ trong tâm tư của Đức Thánh Cha có chương trình cho Đức Tân cử Hồng Y Artime làm một cái gì đó cho giới trẻ trong Giáo hội...
Chúa Giêsu là Đường và Tính đồng nghị
Tiến sĩ Angela Franks là một nhà thần học, diễn giả, nhà văn và là mẹ của sáu đứa con. Bà phục vụ với tư cách là Giáo sư Thần học tại Chủng viện St. John ở Boston và là Nghiên cứu viên Cao cấp tại Viện Abigail Adams ở Cambridge. Bà giữ mục Đời Sống và Phẩm Giá cho tạp chí Church Life Journal của Đại học Notre Dame. Trên tạp chí The Thomist số 87, bà có bài “Jesus the Way and Synodality” (https://whatweneednow.substack.com/p/jesus-the-way-and-synodality):
Khi tôi được yêu cầu viết về tính đồng nghị cho The Thomist, một tạp chí học thuật, tôi đã cố gắng từ chối. Tôi đã không say mê theo dõi các diễn biến, nhưng tôi đã lưu ý rất nhiều xã hội học, nói chung thuộc loại thế phẩm chất lượng kém, cũng như sự vắng mặt rõ rệt của tên Chúa Giêsu Kitô ở đó.
Tuy nhiên, chủ bút đã thắng thế, và vì tội lỗi của mình, tôi quyết định có một cái nhìn mới về chủ đề này. Tôi lấy điểm khởi đầu của mình từ từ nguyên của chữ synod, như một con đường (hodos) cùng đi với nhau (syn). Khi thăm dò chữ “con đường” trong Kinh thánh, tôi đã phát hiện ra một số hướng dẫn quan trọng để hiểu về tính đồng nghị, vốn đã vươn lên bình diện Kitô giáo thực sự (trái ngược với bình diện xã hội học đơn thuần). Trong tiểu luận này, tôi sẽ tóm tắt những hướng dẫn đó.
I. Người nhắc đến chữ “con đường” rõ ràng nhất là chính Chúa Kitô, Đấng là “Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14:6). Nhưng chữ “con đường” lần đầu tiên được tìm thấy trong Kinh thánh tiếng Do Thái, nói về đường lối chính trực của Thiên Chúa, được ban cho dân Israel trong luật pháp của Người. “Vì Chúa hằng che chở nẻo đường người công chính, còn đường lối ác nhân đưa tới chỗ diệt vong” (Tv 1:6). “Đường kẻ lành đi là đường ngay thẳng, lối kẻ hiền theo là lối Chúa san bằng” (Is 26:7). Ngôn ngữ này được phát triển trong Tân Ước. “Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính...” (Mt 21:32). “Chúng đã bỏ con đường ngay thẳng mà lạc lối, đi theo con đường của Balaam, con trai Bôsô, là kẻ ưa thích được trả tiền công vì làm điều ác…” (2 Pr 2:15). “Con đường ngay thẳng” hay “con đường công chính” gắn liền với việc tuân theo lề luật của Thiên Chúa. ““Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Mt 7:13-14).
Chúa Kitô tiếp thu những lời khuyên dạy này về sự công chính và kết nối chúng với Bản vị của Người; bây giờ con đường công chính không chỉ là vấn đề tuân theo lề luật của Thiên Chúa mà là đi theo Con Đường là chính Người. Ngay cả những người Pharisiêu cũng thừa nhận rằng Chúa Giêsu “thành thật và [dạy] đường lối của Thiên Chúa phù hợp với sự thật” (Mt 22:16), nhưng Người còn hơn thế nữa: Người chính là Đường.
Tính triệt để của tuyên bố này thậm chí có thể được hiểu rõ hơn bằng cách nhìn vào bối cảnh của Gioan 14, trong đó, Chúa Giêsu tự xưng là Đường.
Chúa Giêsu dạy: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường [hodon] rồi” (Ga 14:1–4)
Đến đây, chúng ta (đã biết phần cuối câu chuyện) có thể nghĩ rằng Chúa Giêsu đang nói về con đường Thập Giá, Phục Sinh và Lên Trời của Người. Nhưng Tôma, với đặc sủng nói to lên những gì người khác nghĩ, đã thúc đẩy câu chuyện diễn ra một cách đáng ngạc nhiên.
Ông Tôma thưa: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu; làm sao chúng con biết được đường đi [hodon]?” Chúa Giêsu nói với ông: “Thầy là đường [Egō eimi hē hodos], là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy thì các con cũng biết Cha Thầy; ngay từ bây giờ, các con biết Người và đã thấy Người” (Ga 14:5–7).
Câu trả lời của Chúa Giêsu cho chúng ta biết rằng câu 4 và 6 giải thích lẫn nhau. Con-đường-Chúa-Giêsu-đi cũng là một với chính Người. Người là Con-đường-Người-đi, khi Người đích thân đi tới Chúa Cha. Chúa Giêsu không chỉ là con đường cho chúng ta, theo nghĩa một tấm gương để chúng ta noi theo (dù Người cũng là như vậy). Chính Người là con đường. Người là một danh từ nhưng theo một nghĩa nào đó, Người cũng là một động từ, là chính việc bước đi.
Tuyên bố này đơn giản là không thể hiểu được - như các Tông đồ dường như nhận thấy - nếu không hiểu một nền thần học Ba Ngôi nào đó (vì vậy hãy thắt dây an toàn). Theo Thánh Tôma Aquinô, Các Ngôi trong Ba Ngôi là “những mối quan hệ tồn hữu”. Để hiểu điều này, bạn cần biết sự phân biệt do Aristốt đưa ra giữa bản thể và những tùy thể. Như Thánh Tôma giải thích về Aristốt, các bản thể tự hiện hữu, như “một hữu thể” hoặc “điều này”. Nói cách khác, là con ruồi giấm này, là con người đó, là cây phong này. Tốt, nhưng điều gì không “tự hiện hữu” như “điều này”? Chà, đối với một số người có thể là “accidents”.
Đối với các triết gia, “accidents” không có nghĩa là làm rơi ly cà phê hay đụng xe. “Accidents” (tùy thể) là một điều gì đó phụ thuộc vào một bản thể để hiện hữu. Màu sắc chẳng hạn: cây phong này chuyển sang màu vàng vào mùa thu. Nhưng màu vàng không phải là thứ bạn hướng tới, hay là bạn phải mất một ngày để đi tham quan. (“Cuối tuần này bạn làm gì?” “Ồ, tôi đang lái xe lên để xem màu vàng.” “mà, màu vàng gì chứ?”) Bạn không nhìn vào màu vàng; bạn nhìn vào những thứ màu vàng. Màu sắc, giống như màu vàng, chỉ hiện hữu trong sự vật, tức là trong các bản thể. Vì vậy, màu sắc không “tự hiện hữu” mà chỉ hiện hữu “trong sự vật” - trong các bản thể mà cách tự hiện hữu đặc thù của chúng còn được gọi là tồn hữu (subsisting). Các bản thể tồn hữu, trong khi các tùy thể hiện hữu nơi hữu thể khác.
Các mối liên hệ đều là tùy thể; bạn không gặp tình phụ tử, thay vào đó bạn gặp những con người (bản thể!) là những người cha (các mối liên hệ). Ngoại lệ chứng tỏ quy luật, ngoại lệ đó là… Ba Ngôi. Trong Thiên Chúa, có những mối liên hệ hành động như những bản thể, bởi vì những mối liên hệ này tồn hữu. Nói cách khác, Chúa Cha không phải là một người (rất, rất, rất) to lớn nào đó đồng thời cũng là một người cha. Tư cách cha trong Thiên Chúa không phải là một tùy thể. Thực ra, không có gì nơi Thiên Chúa là tùy thể cả; Người hoàn toàn đơn giản. Như Thánh Tôma nói, “bất cứ điều gì ở trong Thiên Chúa đều là Thiên Chúa”. Điều ở trong chúng ta là tùy thể – mối liên hệ – trong Thiên Chúa đơn giản là chính Người. Thiên Chúa không có tình yêu (như chúng ta); Người chính là tình yêu, đồng nhất với tình yêu (xem I Ga 4:8).
Như vậy, Thiên Chúa Cha tự sinh ra chính mình, từ thuở đời đời, sinh ra Chúa Con và thở ra Chúa Thánh Thần. Đây không phải là những hành động rời rạc mà đơn giản là đồng nhất với chính Thiên Chúa Cha. Theo nghĩa đó, khía cạnh “động từ” và khía cạnh “danh từ” của Ba Ngôi—Việc hành động và việc hiện hữu của Các Vị—đơn giản là đồng nhất.
Cũng vậy, Chúa Con đơn giản là mối liên hệ làm con (filiation), được Chúa Cha sinh ra và là việc thổi ra Chúa Thánh Thần. Nhưng còn một điều khác về Chúa Con: Người nhập thể thành Chúa Giêsu Kitô bằng cách mang lấy bản chất con người vào Ngôi vị của Người. Như là Thần-nhân, Chúa Giêsu nói với Tôma rằng Người là con đường mà ngài sẽ đi. Người có thể như vậy chính vì từ đời đời Người là sự tiếp nhận vĩnh viễn quyền làm con từ Chúa Cha. Như đoạn Gioan 14 tiếp tục, “Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (Ga 14:12).
Joseph Ratzinger gọi đây là “hữu thể xuất hành” của Chúa Giêsu; tôi gọi nó là bản chất-véctơ của Chúa Kitô. Toàn bộ sự hiện hữu của Chúa Giêsu là con đường dẫn tới Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Là Đấng được Chúa Cha sai đến thế gian và sẽ về cùng Chúa Cha (Ga 14:28), Người vừa là Đấng được sai đi vừa là chính Con đường của sai đi và bước đi.
Chúng ta dường như đang ở rất xa “tính đồng nghị”. Và quả thực, đó có thể là một phần của vấn đề. Hodos mà Chúa Giêsu là xem ra dường như quá xa vời với tâm trí của mọi người khi họ viết và nói về tính đồng nghị. Tuy nhiên, để trở thành Kitô hữu trọn vẹn, chúng ta phải thừa nhận rằng bất cứ “con đường” nào của tính đồng nghị đều phải bắt nguồn từ Chúa Kitô là Đường, trong Người mà chúng ta là Kitô hữu phải “sống, cử động và hiện hữu” (Cv 17:28).
Là Kitô hữu, chúng ta được kêu gọi để đồng hình đồng dạng, một cách xa xôi, với việc Chúa Con đến và đi từ và tới Chúa Cha: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20:21); và phù hợp với sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần: “[Chúa Giêsu nói:] 'Như Kinh thánh đã nói: “Sông nước sống sẽ chảy ra từ lòng người tin.”' Bây giờ, Người nói điều này về Chúa Thánh Thần, Đấng mà những người tin vào Người phải đón nhận…” (Ga 7:38–39). Như Ratzinger lưu ý, “Trở thành một Kitô hữu có nghĩa là giống như Chúa Con, trở thành một người con; nghĩa là không đứng một mình và trong chính mình, mà sống hoàn toàn cởi mở trong tư thế ‘từ’ và ‘hướng tới’”.
Có lẽ vì lý do này mà Giáo hội của các Tông đồ đã nhanh chóng được gọi là “con đường” [đạo] (Cv 9:2). Giáo Hội hiện hữu để là con đường dẫn tới Con Đường là Chúa Kitô. Ở đây, tất cả ngôn ngữ Cựu Ước về “con đường công chính” đều tìm thấy vị trí của nó trong Giáo hội, bởi vì người Do Thái biết rằng không phải mọi con đường đều phù hợp với đường lối của Thiên Chúa. “Chúa phán thế này: Này Ta đặt trước mặt các ngươi con đường sống và con đường chết” (Grm 21:8; xem Đnl 30:15). Trong Thư gửi tín hữu Rôma, Thánh Phaolô trích dẫn Is 59:8: “Chúng nhanh chân đi đổ máu người ta, đi tới đâu cũng gieo tai rắc hoạ. Chúng chẳng biết con đường đưa tới bình an” (Rm 3:15-17). Bối cảnh trong thư Rôma 3 nhằm nhấn mạnh rằng tất cả đều thiếu sót và cần có sự cứu chuộc do máu Chúa Kitô. Chỉ trong Chúa Kitô, chúng ta mới có thể tìm được con đường bình an, bởi vì chỉ trong Chúa Kitô mới có sự cứu rỗi (xem Cv 4:12).

Theo Người đòi hỏi một lối sống nhất định. “Thật vậy, Thiên Chúa đã không kêu gọi chúng ta sống ô uế, nhưng sống thánh thiện. Vậy ai khinh thường những lời dạy trên, thì không phải khinh thường một người phàm, nhưng khinh thường Thiên Chúa; Đấng hằng ban cho anh em Thánh Thần của Người (I Tx 4:7–8). Thân xác của người Kitô hữu là một phần của thân thể Chúa Kitô và là đền thờ của Chúa Thánh Thần (xem I Cr 6:17–19). “Vì bạn đã được mua bằng một giá đắt; vậy hãy lấy thân xác mình mà tôn vinh Thiên Chúa” (I Cr 6:20). Như Israel vốn biết, Giáo hội cũng lặp lại rằng có con đường công chính và con đường chết chóc.
Thánh Phaolô đã đích thân trải nghiệm điều này, đã trải qua cả hai con đường. Ngay sau khi nhận được những lá thư để bách hại Giáo hội, những người “của Con Đường” (tēs Hodou, Cv 9:2), chính ngài, như Ananias đã cho thấy, là người nhận được sự hiện ra của Chúa ở “trên đường” (en tē hodō, 9:17) đến Đamát. Điều được dự định là cuộc hành trình đi đến cái chết của Giáo hội lại trở thành cuộc hành trình dẫn đến sự sống cho Thánh Phaolô và cho các dân tộc, trong lòng con đường giáo hội được đại diện bởi Ananias, người chữa lành và rửa tội cho ngài, và bởi Barnabas, người biện hộ cho ngài (xem 9:27). Thánh Phaolô viết và hành động như ngài đã làm một phần là để bảo vệ các bước đi của Giáo Hội non trẻ, để Giáo Hội có thể vững bước đi trên con đường dẫn tới Con Đường.
Như thế, bất cứ phiên bản nào của tính đồng nghị nếu bỏ qua cả Chúa Kitô là Đường Đi lẫn đời sống luân lý là con đường dẫn đến Người đều không đạt đến bình diện syn-hodos, con đường cùng nhau bước đi.
Nhưng còn việc lắng nghe, sự đa dạng và sự đồng hành, những khẩu hiệu được lặp đi lặp lại thì sao? Chúng thích ứng ra sao? Trên thực tế, Gioan 14 cũng giúp chúng ta hiểu được chúng. Câu 2 nói đến việc có nhiều chỗ ở trong nhà Cha. Theo truyền thống, khía cạnh này của Giáo hội được thể hiện bằng một “dấu hiệu” của Giáo hội, đó là “tính Công Giáo” hay “tính phổ quát”. Giáo Hội Công Giáo không phải là một tổ chức dựa trên địa lý, quốc gia hay giai cấp; nó dành cho tất cả mọi người, ở mọi thời điểm và địa điểm. Kitô giáo dành cho “tất cả các dân tộc” (Mt 28:19), và Chúa Kitô ở với chúng ta “mọi ngày” (Mt 28:20).
Như Hans Urs von Balthasar đã nói, mỗi Kitô hữu, nhờ phép rửa, nhận được “một nhiệm vụ và sứ mạng thuộc về mình chứ không thuộc về ai khác”. Trên thực tế, Balthasar lập luận, sứ mệnh này là bí quyết dẫn tới bản sắc mỗi con người. Nó chứa đựng “ý tưởng sâu sắc nhất về bản ngã họ - mà nếu không thì sẽ không thể khám phá được.”
Những sứ mệnh này có thể bao gồm việc tạo ra các linh đạo và tổ chức mới, như lịch sử của Giáo hội đã chứng minh rõ ràng. Đức Hồng Y Ratzinger nói rằng những hình thức mới này “là câu trả lời của Chúa Thánh Thần cho những hoàn cảnh đang thay đổi trong đó Giáo hội đang sống”. Những hình thức mới này xuất hiện từ bên dưới thay vì bị áp đặt về mặt hành chính từ bên trên. “Chúng phải được trao cho chúng ta, và chúng đã được trao. Chúng ta chỉ cần lưu ý đến chúng: bằng ơn biện phân …” Nói cách khác, sự biện phân liên quan đến tính xác thực của một sứ mạng như được đo lường bằng mặc khải và sự thánh thiện. Phong trào hay nền linh đạo mới này có phải là con đường đi đến Con Đường không? Hay nó dẫn đi xa khỏi Con Đường?
Nói cách khác, việc biện phân không phải là vấn đề hỏi xem liệu một nẻo đường hay quan điểm đặc thù có phù hợp với tôi hay không. Đúng hơn vấn đề phải hỏi là liệu nó có khiến tôi trở nên giống Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần hơn hay không, và Thánh Phaolô cảnh cáo chúng ta rằng việc phù hợp với Chúa Kitô là phù hợp với việc đóng đinh [cruciformity]. Chúng ta phải hoàn thành những đau khổ của Chúa Kitô (xem Cl 1:24) trong xác thịt của chính mình (xem Gl 6:17), như một việc đặt cọc cho sự phục sinh của xác thịt đó theo gương Chúa Kitô (xem I Cr 15:20).
Thánh Phaolô còn cho chúng ta biết thêm rằng việc truyền giáo nhằm xây dựng thân thể của Chúa Kitô, là Giáo hội. “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (I Cr 12:4–7; xem thêm I Cr 14:4, 12). Những đặc sủng này phải được Giáo hội kiểm nghiệm. “Hãy kiểm tra mọi sự : điều gì tốt thì giữ; còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa” (I Tx 5:21–22).
Một tiêu chuẩn mà Giáo hội đưa ra đối với các phong trào mới là liệu chúng có phù hợp với “sự hiệp nhất trong đức tin và sự hiểu biết về Con Thiên Chúa” hay không (Eph 4:13). Chỉ nhờ sự hiệp nhất đó mà sự hiệp nhất của thân thể Chúa Kitô mới được duy trì, để nó có thể “sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Kitô vì Người là Đầu. Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ, nhờ mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng và mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của mình. Như thế Người làm cho toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái” (Eph 4:15–16).
Do đó, lạc giáo làm tổn hại đến sự hiệp nhất của thân thể Chúa Kitô, nhưng lạc giáo đồng thời làm tổn hại đến sự đa dạng thực sự của các sứ vụ của giáo hội. Do đó, nghịch lý thay, nếu không có sự hiệp nhất thì nhiệm thể của Chúa Kitô cũng sẽ thiếu sự đa dạng! Một cơ thể với tất cả các bộ phận của nó phải thống nhất để sống. Nếu không, Balthasar khẳng định, “sẽ không có cơ thể sống mà chỉ có sự khác biệt tuyệt đối”, các bộ phận riêng lẻ của cơ thể - bàn tay này, cơ quan kia - bị cắt khỏi toàn thể, không có sự sống và cuối cùng là thối rữa. Chức vụ trong Giáo hội, chẳng hạn như Huấn quyền, hiện hữu để phục vụ sự hiệp nhất này, và đôi khi điều đó có nghĩa là Giáo hội phải nói không với một Kitô hữu nào đó cứ khăng khăng đòi tính chân chính cho việc biện phân của họ. Balthasar viết,
“Chính chức vụ của Giáo hội giành lấy những tiêu chuẩn riêng của từng cá nhân và giao chúng cho Chúa của Giáo hội, bảo đảm rằng kinh nghiệm về tình yêu của Giáo hội sẽ vượt lên trên chính nó theo hướng tình yêu của Chúa Kitô (với tư cách là Đầu của Giáo hội) và sẽ vượt qua mọi tính chủ quan của nó và đạt tới tính khách quan của tình yêu ‘tin tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả’ (1 Cr 13:7)”.
Như thế, chức vụ trong Giáo hội phải lưu ý đến sự đa dạng thực sự của các sứ mệnh trong thân thể, như những điều ngạc nhiên của Chúa Thánh Thần, Đấng thổi bất cứ nơi nào Người muốn, và nó phải kéo tất cả các Kitô hữu ra khỏi tầm nhìn giới hạn của họ để đạt tới một bình diện giáo hội thực sự phổ quát.
Lumen Gentium của Công đồng Vatican II cho chúng ta biết rằng nhiệm vụ cổ vũ sự hiệp nhất của Giáo hội, trong căn bản, thuộc về Đức Giáo Hoàng. Ngoài ra, mỗi giám mục là nguyên tắc và nền tảng của sự hiệp nhất trong giáo phận của mình. Những vai trò định chế này cũng là các đặc sủng, nghĩa là các ơn của Chúa Thánh Thần, được Thiên Chúa ban cho chúng ta để xây dựng thân thể. Chúng không phải là sự áp đặt của con người đối với quyền tự do của các thành viên Giáo hội, mặc dù chúng có thể xuất hiện hoặc thậm chí được thực hiện theo cách đó; không có gì bảo đảm rằng các thành viên của hàng giáo phẩm, kể cả Đức Giáo Hoàng, sẽ không sai lầm trong hoạt động củng cố hoặc đàn áp các phong trào và đặc sủng của giáo hội. Khả thể này là kết quả tất yếu của khía cạnh con người của Giáo hội. Nhưng chúng ta không thể đáp lại khả thể này bằng cách bác bỏ toàn bộ cấu trúc. Đúng hơn, chúng ta phải tin tưởng rằng sự quan phòng của Chúa Cha sẽ bảo đảm để những sứ mệnh đích thực sẽ được hoàn thành, hy vọng bởi người Kitô hữu đã nhận sứ mệnh, nhưng có lẽ theo một cách khác, bởi một người khác, có thể ở một thời đại khác. Sứ mệnh quan trọng hơn thành tích cá nhân của người được giao nó. “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể. Kẻ trồng người tưới đều như nhau, nhưng ai nấy sẽ được thù lao theo công khó của mình” (I Cr 3:6–8).
Tôi tin rằng những điểm này phác họa một tầm nhìn thực sự của Kitô giáo về tính đồng nghị, chứ không phải là một tầm nhìn xã hội học kém tiêu chuẩn. Con Đường là Chúa Kitô, Đấng là con đường Người sẽ đi, nghĩa là từ và về với Chúa Cha. Giáo Hội là con đường đi đến Con Đường này và Giáo Hội phải kêu gọi chúng ta đi vào con đường công chính để chúng ta có thể “di chuyển” trong Con Đường là Chúa Kitô. Tính đồng nghị, như một sự suy tư về tính đa dạng của các sứ mệnh trong sự hiệp nhất của Giáo hội - tính Công Giáo của Giáo hội - có thể nhắc nhở chúng ta về quá trình biện phân thực sự về sứ mệnh, vốn đòi hỏi việc xây dựng thân thể của Chúa Kitô, là Giáo hội.
Liệu Thượng Hội đồng về Tính đồng nghị có phản ảnh những sự thật này không? Chà, tôi không phải là thầy bói, và chắc chắn có những dấu hiệu đáng nản lòng. Nhưng nếu chúng ta thực sự lắng nghe, các Kitô hữu có thể nghe được câu trả lời của Chúa Kitô: Egō eimi hē hodos, “Ta là Đường.” Chúa Thánh Thần sẽ ban cho chúng ta phương tiện, nếu chúng ta chấp nhận chúng, để tìm thấy hữu thể của mình và “di chuyển” trong Con Đường đó
Đức Giáo Hoàng Phanxicô: Thượng Hội đồng về Tính đồng nghị ‘thực sự quan trọng’ mặc dù ‘ít được công chúng quan tâm’
Courtney Mares của hãng tin CNA, ngày 26 tháng 8 năm 2023 cho hay: Đức Giáo Hoàng Phanxicô thừa nhận hôm thứ Bảy rằng Thượng hội đồng sắp tới có thể “ít được công chúng quan tâm”, nhưng nhấn mạnh rằng thượng hội đồng “thực sự quan trọng” đối với Giáo Hội Công Giáo.

Thực vậy, ngài nói vào ngày 26 tháng 8, “Tôi biết rõ rằng việc nói về ‘Thượng hội đồng về tính đồng nghị’ có thể có vẻ là một điều gì đó khó hiểu, tự quy chiếu, quá mang tính kỹ thuật và ít được công chúng quan tâm.
“Nhưng những gì đã xảy ra trong năm qua, sẽ tiếp tục diễn ra tại phiên khoáng đại vào tháng 10 tới và sau đó là giai đoạn thứ hai của Thượng hội đồng 2024, là một điều thực sự quan trọng đối với Giáo hội”.
Đức Giáo Hoàng đã nói về tầm quan trọng của Thượng Hội Đồng gần một tháng trước phiên họp đầu tiên của Thượng Hội Đồng hoàn cầu về Tính Đồng nghị diễn ra tại Vatican từ ngày 4 đến ngày 28 tháng 10.
Đây là phiên họp đầu tiên trong hai phiên họp lên đến đỉnh cao cam kết kéo dài nhiều năm trên toàn thế giới của Giáo hội, trong đó người Công Giáo được yêu cầu gửi phản hồi ở cấp giáo phận, quốc gia và lục địa.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói, “Chúng ta đã mở cửa, chúng ta mang đến cho mọi người cơ hội tham gia, chúng ta đã tính đến nhu cầu và đề xuất của mọi người. Chúng ta muốn cùng nhau đóng góp để xây dựng Giáo hội nơi mọi người cảm thấy như ở nhà, nơi không ai bị loại trừ”.
“Lời Tin Mừng rất quan trọng là: tất cả mọi người. Mọi người, mọi người: không có người Công Giáo hạng nhất, hạng hai hay hạng ba, không. Tất cả cùng nhau. Mọi người. Đó là lời mời gọi của Chúa.”
Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh rằng Giáo hội cần phải “làm quen với việc lắng nghe nhau, nói chuyện, không cắt ngang một lời” và “lắng nghe và thảo luận một cách trưởng thành”.
Ngài nói, “Đây là một ân sủng mà tất cả chúng ta cần để tiến về phía trước. Và đó là điều mà Giáo hội ngày nay cống hiến cho thế giới, một thế giới thường không có khả năng đưa ra quyết định, ngay cả khi sự sống còn của chúng ta đang bị đe dọa.
“Chúng ta đang cố gắng học một cách sống mới trong các mối tương quan, lắng nghe nhau để nghe và làm theo tiếng nói của Thánh Thần.”
Để giải thích ý nghĩa của Thượng Hội đồng về Tính Đồng nghị, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã mô tả Thượng hội đồng là “một cuộc hành trình mà Thánh Phaolô VI đã bắt đầu vào cuối Công đồng [Vatican II] khi ngài thành lập Văn phòng Thư ký của Thượng hội đồng giám mục vì ngài đã nhận ra rằng trong Giáo hội phương Tây tính đồng nghị đã biến mất, trong khi ở Giáo hội phương Đông họ có chiều hướng này”.
Ngài nói thêm: “Và cuộc hành trình kéo dài nhiều năm này – 60 năm – đang mang lại kết quả tuyệt vời”.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói về Thượng Hội Đồng sắp tới khi nhận giải thưởng từ các nhà báo Ý tại Điện Tông Tòa Vatican, đồng thời lưu ý rằng ngài thường từ chối các giải thưởng và danh hiệu.
Ngài nói, “Anh chị em hẳn biết rằng, ngay cả trước khi trở thành giám mục Rôma, tôi đã từng từ chối đề nghị trao giải thưởng. Tôi chưa bao giờ nhận được bất cứ thứ gì, tôi không muốn. Và tôi đã tiếp tục làm như vậy ngay cả khi còn là giáo hoàng. Tuy nhiên, có một lý do thôi thúc tôi chấp nhận giải thưởng của anh chị em, đó là tính cấp thiết của việc giao tiếp mang tính xây dựng, thúc đẩy văn hóa gặp gỡ chứ không phải đối đầu; văn hóa hòa bình chứ không phải chiến tranh; văn hóa cởi mở với người khác và không thành kiến”.
“Thông tin sai lệch là một trong những tội lỗi của báo chí,” ngài nói thêm trong khi liệt kê những “tội lỗi báo chí” khác, bao gồm vu khống, phỉ báng và “thích gây tai tiếng”.
Ngài nói: “Chúng ta cần truyền bá một nền văn hóa gặp gỡ, một nền văn hóa đối thoại, một nền văn hóa lắng nghe người khác và những lý do của họ. Văn hóa kỹ thuật số đã mang đến cho chúng ta rất nhiều cơ hội trao đổi mới, nhưng nó cũng có nguy cơ biến truyền thông thành khẩu hiệu”.
Hôm thứ Bảy, Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng đã gặp một phái đoàn gồm các nhà lập pháp Công Giáo đang tham gia cuộc họp về chủ đề “Cuộc đấu tranh giữa các quyền lực lớn, Kiểm soát doanh nghiệp và Chế độ kỹ trị: Câu trả lời của Kitô giáo cho các xu hướng phi nhân tính”.
Mạng lưới các nhà lập pháp Công Giáo quốc tế là một nhóm các nghị sĩ Công Giáo từ khắp nơi trên thế giới tổ chức cuộc họp riêng hàng năm tại Rôma.
Nhóm được thành lập vào năm 2010 bởi Đức Hồng Y người Áo Christoph Schönborn và David Alton, thành viên của Hạ viện Anh, chuyên về tự do tôn giáo, quan hệ giữa Giáo hội và nhà nước, bảo vệ sự sống và truyền đạt tư tưởng Công Giáo trong chính trị thế tục.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói chuyện với các nhà lập pháp về việc “mô hình kỹ trị thống trị ngày nay đặt ra những câu hỏi sâu xa về vị trí của con người và hành động của con người trên thế giới như thế nào”.
Đức Giáo Hoàng nói. “Chắc chắn một trong những khía cạnh đáng lo ngại nhất của mô hình này, với tác động tiêu cực của nó đối với cả hệ sinh thái nhân bản và tự nhiên, là sự quyến rũ tinh vi của nó đối với tinh thần con người, ru ngủ con người – và đặc biệt là giới trẻ – lạm dụng quyền tự do của họ”.
Ngài khuyến khích các nhà lập pháp tiếp tục thúc đẩy giáo huấn xã hội Công Giáo, “đặc biệt là tính trung tâm của giá trị và phẩm giá do Thiên Chúa ban cho mỗi con người”.
Ngài nói, “Tôi cầu xin Chúa Thánh Thần linh hứng và hướng dẫn những nỗ lực của anh chị em nhằm hình thành một thế hệ mới gồm các nhà lãnh đạo Công Giáo được giáo dục tốt và trung thành, cam kết thúc đẩy các giáo huấn xã hội và đạo đức của Giáo hội trong phạm vi công cộng. Bằng cách này, anh chị em chắc chắn sẽ góp phần xây dựng vương quốc của Chúa”.
Đức Thánh Cha lên tiếng chỉ trích ‘ý thức hệ’ đối với Thượng Hội đồng
Pope rues ‘ideological’ criticism of Synod
Trong một cuộc họp với các nhà báo trên chuyến bay trở về từ Mông Cổ vào ngày 4 tháng 9, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chỉ trích ảnh hưởng của các ý thức hệ đối với Giáo hội và cho rằng những lo ngại về Thượng hội đồng về Tính đồng nghị phản ánh những áp lực ý thức hệ không lành mạnh như vậy.
Đức Thánh Cha nói với các phóng viên: “Trong Thượng Hội đồng, không có chỗ cho ý thức hệ”. Ngài kể lại rằng ngài đã nói chuyện với một nữ tu dòng Carmêlô, là người đã bày tỏ lo ngại rằng Thượng hội đồng sẽ thay đổi tín lý Công Giáo. Ngài nói, những mối quan tâm như vậy có nguồn gốc từ ý thức hệ.
Đức Thánh Cha nói: “Luôn luôn, khi một người muốn tách ra khỏi con đường hiệp thông với Giáo hội, điều luôn kéo người ấy ra xa là ý thức hệ”. Không trực tiếp giải quyết những lo ngại về những thay đổi tiềm tàng trong giáo huấn của Giáo hội, ngài nhấn mạnh rằng Thượng hội đồng sẽ không thay đổi giáo lý Công Giáo.
Vấn đề, Đức Giáo Hoàng giải thích là “‘giáo lý’ trong dấu ngoặc kép”. Ngài ví sự hiểu biết đó về giáo lý như “nước cất không có mùi vị và không phải là giáo lý Công Giáo chân chính
Đức Thánh Cha Phanxicô thừa nhận rằng ngài đã chọc giận người Ukraine bằng bài phát biểu ngày 25 tháng 8 với khán giả là giới trẻ Nga, khi ngài ca ngợi sự lãnh đạo của các sa hoàng thế kỷ 18. Nhưng ngài nói rằng những bình luận của ngài đã bị đưa ra khỏi bối cảnh bởi những người cho rằng ngài đang bảo vệ việc Liên Xô sáp nhập lãnh thổ Ukraine.
“Tôi không nghĩ đến chủ nghĩa đế quốc khi nói điều đó,” Đức Thánh Cha nói với các phóng viên.
“Có lẽ đó không phải là cách diễn đạt tốt nhất,” Đức Giáo Hoàng thừa nhận, “Nhưng khi nói về nước Nga vĩ đại, tôi không nghĩ nhiều về mặt địa lý mà là về mặt văn hóa”.
Ở đây, Đức Thánh Cha đã tố cáo “các chủ nghĩa đế quốc muốn áp đặt ý thức hệ của họ,” và nói thêm rằng “khi văn hóa bị chắt lọc và biến thành ý thức hệ, đó là chất độc”.
Trả lời câu hỏi của phóng viên về Trung Quốc – quốc gia mà chính phủ đã từ chối cấp phép cho các giám mục Công Giáo tới Mông Cổ trong chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha – Đức Thánh Cha nói: “Mối quan hệ với Trung Quốc rất tôn trọng, rất tôn trọng”.
Bảo vệ thỏa thuận bí mật của Vatican với chế độ Trung Quốc, Đức Thánh Cha nói: “Các kênh rất cởi mở. Về việc bổ nhiệm các giám mục, có một ủy ban đã làm việc với chính phủ Trung Quốc và Vatican trong một thời gian dài”.
Năm năm đã trôi qua kể từ khi thỏa thuận của Vatican với Trung Quốc được ký kết, và hàng chục giáo phận Trung Quốc vẫn không có giám mục Công Giáo. Vào tháng 7, khi ông Thẩm Bân được bổ nhiệm ở Thượng Hải, đây là lần đầu tiên kể từ năm 2021, một giám mục mới đảm nhận vai trò lãnh đạo một giáo phận Trung Quốc. Và vị giám mục đó đã được bổ nhiệm mà không có sự chấp thuận của Vatican – khiến Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Vatican, nói rằng động thái này “dường như coi thường tinh thần đối thoại và cộng tác đã được thiết lập giữa Vatican và phía Trung Quốc trong nhiều năm qua”.
Trong những nhận xét khác trong phiên hỏi đáp, Đức Thánh Cha Phanxicô lặp lại sự lên án thường được bày tỏ của ngài đối với “việc chiêu dụ tín đồ”, nói rằng: “Điều quan trọng là việc truyền giáo không được coi là việc chiêu mộ đạo.”
Đã đến lúc Đức Phanxicô lái Thượng hội đồng về tính đồng nghị khỏi chiều hướng chính trị?
Michael Hanby, giáo sư về tôn giáo và triết học khoa học tại Viện Nghiên cứu về Hôn nhân và Gia đình Gioan Phaolô II của Đại học Công Giáo Hoa Kỳ, trong bài “Tính Đồng Nghị và Thánh Thần Chân Lý”, trên tờ First Things Tháng 8 năm 2023 (https://www.firstthings.com/article/2023/08/synodality-and-the-spirit-of-truth), trích lời của Marx cho rằng, các sự kiện và các nhân vật vĩ đại trong lịch sử thế giới dường như xảy ra hai lần... lần đầu là bi kịch, lần thứ hai là trò hề.” Thượng hội đồng về tính đồng nghị dường như được định sẵn để xác nhận những lời của Marx (vốn là một câu sửa đổi của Hegel). Bi kịch phát sinh từ sự chia rẽ sâu xa về thần học và triết học đã gây khó khăn cho Công Giáo trong suốt thời kỳ hiện đại, kể từ khi Thiên Chúa biến mất khỏi chân trời và Giáo hội trở nên chia rẽ giữa chủ nghĩa truyền thống kiên cường và chủ nghĩa lịch sử hiện đại. Vào khoảng đầu thế kỷ 20, Maurice Blondel đã mô tả kết quả bằng những từ ngữ có lẽ còn phù hợp hơn với thời đại chúng ta: “Mỗi ngày trôi qua, sự xung đột giữa các khuynh hướng đặt Công Giáo chống lại Công Giáo trong mọi trật tự - xã hội, chính trị, triết học - được bộc lộ sắc nét hơn và tổng quát hơn. Người ta gần như có thể nói rằng hiện nay có hai ‘tinh thần Công Giáo’ khá xung khắc nhau... Và điều đó rõ ràng là bất thường, vì không thể có hai đạo Công Giáo.”

Hơn một thế kỷ sau, quan sát đen tối này lại mang lại niềm an ủi lạ lùng. Đó là một lời nhắc nhở rằng chúng ta không sống trong Năm Zero của Công Giáo, rằng sự chia rẽ hiện tại của chúng ta có một lịch sử lâu dài, và phần lớn những gì chúng ta đang trải qua đã được dự đoán, chẩn đoán và chỉ trích từ nhiều thập niên trước. Những câu hỏi có tầm quan trọng về mặt triết học và thần học vẫn còn tồn tại với chúng ta – những câu hỏi về sự thật – vốn lâu đời hơn và lâu dài hơn triều giáo hoàng hiện tại và sâu xa hơn những bề ngoài của tiến trình thượng hội đồng và thời đại truyền thông xã hội. Hiểu những câu hỏi này là cần thiết nếu chúng ta muốn hiểu được những khó khăn hiện tại của mình. Sự hiểu biết này sẽ là một thành tựu khó đạt được trong sự thiếu suy nghĩ của thời điểm hiện tại - đó là nơi trò hề bắt đầu.
Vào thời của Blondel, một nhóm kiểm duyệt tự bổ nhiệm, Sodalitium Pianum [hội kín Piô], đã tiến hành một chiến dịch bí mật và nghiền nát tư tưởng chống lại những người bị họ coi là kẻ thù duy hiện đại của Đức Giáo Hoàng, thường sử dụng các chiến thuật độc đoán để đe dọa và bịt miệng họ. Trong thập niên qua, Sodalitium Franciscanum [hội kín Phanxicô] tự phong, một đảo ngược có tính ý thực hệ tiền thân đầu thế kỷ XX của nó, đã tiến hành một chiến dịch tương tự. Nó biến tất cả các câu hỏi triết học và thần học thành các câu hỏi chính trị, biến “đúng” và “sai” thành “bạn” và “kẻ thù”, với sự thật của mọi ý tưởng được đo lường bằng việc liệu nó có “ủng hộ” Đức Giáo Hoàng Phanxicô và “giấc mơ” của ngài về thế giới hay không. Giáo hội, được đánh đồng, dứt khoát, với ý nghĩa của Công đồng Vatican II.
Thí dụ, trang mạng Where Peter Is hiện hữu chủ yếu để công bố danh sách các kẻ thù, với chủ sở hữu của nó dựa vào sự uyên bác sâu rộng của mình để tố cáo “những kẻ ly giáo”, bao gồm một số giám mục và Hồng Y của Giáo hội, từ phòng khách của ông ta ở ngoại ô Maryland. Massimo Faggioli, một nhà sử Giáo hội của Villanova và được cho là người làm việc chăm chỉ nhất trên Twitter, dậy trước bình minh để tweet các công văn từ tiền tuyến trong một chiến dịch bất tận nhằm miêu tả những người Công Giáo Mỹ là những người theo chủ nghĩa Trump và những người theo chủ nghĩa truyền thống loạn trí, kẻ thù của giáo hoàng và những kẻ ngoại đạo đối với “đạo Công Giáo hoàn cầu”—có thể nói là một phạm trù xã hội học hơn là thần học. Và sau đó là sự tuyên truyền, bút chiến và viết sách nhỏ vô tận của người viết tiểu sử Đức Giáo Hoàng, Austen Ivereigh, người đồng tác giả tài liệu thượng hội đồng hoàn cầu đầu tiên. Đội ngũ báo chí, theo kịch bản này, giúp tạo ra một buồng vang âm [echo chamber] gợi lại mô tả của Hannah Arendt về cuộc sống dưới các chế độ toàn trị của thế kỷ XX.
Sự kiện nền giáo dục hoàn hảo nhất về chủ nghĩa Mác và Lênin không hề là kim chỉ nam cho hành vi chính trị - ngược lại, người ta chỉ có thể đi theo đường lối của đảng nếu mỗi sáng lặp lại những gì Stalin đã tuyên bố vào đêm hôm trước - đương nhiên dẫn đến cùng một trạng thái tinh thần, cùng sự phục tùng tập trung, không bị phân chia bởi bất cứ nỗ lực nào để hiểu những gì một người đang làm, mà khẩu hiệu khéo léo của Himmler dành cho những người lính SS của ông đã bày tỏ: “Danh dự của tôi là lòng trung thành của tôi.”
Không phải những người Công Giáo cấp tiến là những người theo chủ nghĩa Stalin và Đức Quốc xã hay giáo hoàng là một nhà độc tài, mà đúng hơn là có một điều gì đó vô lý cố hữu về việc giản lược Công Giáo thành chính trị, đặc biệt là trong thời đại truyền thông xã hội. Có thể ai sở hữu quá khứ sẽ kiểm soát tương lai, và ai sở hữu internet sẽ sở hữu quá khứ, nhưng nỗ lực “kiểm soát câu chuyện” này đòi hỏi một khả năng thôi nhìn và quên nào đó không hợp với lối suy nghĩ nghiêm túc. Thật vậy, điều đáng chú ý về “dự án Faggioli” về kiểm soát tường thuật, nhằm thúc đẩy việc giải thích tiến bộ về Vatican II, là nó thiếu suy nghĩ nghiêm túc xiết bao. Người ta có thể lùng sục các dòng tweet, sách, bài báo và chuyên mục của nhà thần học tự mô tả này, người dường như thực sự không biết sự khác biệt giữa thần học và xã hội học về tôn giáo, và không bao giờ gặp phải một ý tưởng thần học hoặc triết học đúng đắn hoặc thậm chí một câu hỏi về sự thật theo nghĩa sự kiện, nhiều hơn nghĩa chức năng. Faggioli thường xuyên mô tả việc phản đối Đức Phanxicô như sự phản đối Vatican II, không bao giờ dừng lại để xem xét điều ngược lại: đó là sự phản đối Vatican II có thể bắt nguồn từ việc chống lại vị giáo hoàng hiện tại hoặc những mưu đồ vô tận của những người mà Faggioli gọi là “Công Giáo của Đức Giáo Hoàng Phanxicô”. Tuy nhiên, chủ nghĩa truyền thống đã phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết trong thập niên qua, trớ trêu thay, cho thấy rằng không ai đã làm ít hơn cho việc tiếp nhận Công đồng đích thực, hoặc nhiều cho những kẻ thù duy truyền thống của Đức Giáo Hoàng, hơn những người tự coi là bạn hữu của ngài...
Nghiêm trọng hơn việc đe dọa kẻ thù là việc Sodalitium Franciscanum không ngừng tập chú vào Đức Giáo Hoàng khiến người Công Giáo khó có thể nghĩ đến bất cứ điều gì khác. Kết quả là, chúng ta phải lao đao trong việc đặt Công đồng và Thượng hội đồng về Tính đồng nghị vào bối cảnh lịch sử và trí thức của chúng. Chúng ta không thể hiểu được vấn đề căn bản trong “các khuynh hướng xung đột” của Blondel, hay tại sao “Giáo hội trong thế giới hiện đại” lại là một câu hỏi gây nhiều tranh cãi như vậy ngay từ đầu. Sự tuyệt đối hóa chính trị là triệu chứng chính của cuộc khủng hoảng Công Giáo trong thời hiện đại, vì việc chuyển từ thần học sang chính trị là một trong những dấu hiệu của thời hiện đại. Thành thử, một trong những mối quan tâm sôi nổi của Công đồng là sự chiến thắng của trật tự khoa học và kỹ thuật - và do đó là của quyền lực – đối với tính siêu việt của Thiên Chúa và tính tặng phẩm [givenness] của bản chất con người.
Tính ưu việt của chính trị chưa bao giờ là sai lầm độc chiếm của cánh tả Công Giáo. Đơn cử một thí dụ rõ ràng, ở Pháp đầu thế kỷ XX, đó là một đặc điểm của cánh hữu. Gần đây hơn ở Hoa Kỳ, tính ưu việt này mang hình thức một nỗ lực kết hợp Công Giáo bảo thủ và chủ nghĩa tự do mới, một nỗ lực hiện đang bị làm sai lệch bởi việc thực hiện các tiền đề tự do theo cách thế tục trong các phản đề kỹ trị và toàn trị của chúng, vốn đã bộc lộ bộ mặt chống Thiên Chúa giáo của chủ nghĩa tân tự do. Một “đạo Công Giáo chính trị” vẫn tồn tại trong chủ nghĩa toàn diện [integralism] và trong nỗi hoài niệm duy truyền thống về hiện trạng trước công đồng, nhưng đây là một nền chính trị ảo dành cho một thế giới ảo, không có tương lai thực sự trong Giáo hội hoặc trong một thế giới thế tục dựa trên sự đàn áp của nó. Động lực hiện nay đang theo điều mà Augusto Del Noce gọi là “chủ nghĩa tân hiện đại” của đạo Công Giáo cấp tiến, vốn phù hợp hơn nhiều với thực tại chính trị của thời đại, và những giả định sinh động của nó được phản ảnh hoàn hảo qua những nhân vật như Faggioli và Ivereigh.
Chủ nghĩa duy hiện đại vào thời của Blondel đáp lại các triết lý lịch sử thế kỷ 19 và sự thăng tiến được cho là của một “tôn giáo của nhân loại”. Những người duy hiện đại nhấn mạnh rằng sau Kant và Hegel, chúng ta sống trong một kỷ nguyên mới và các chân lý của đức tin phải giải đáp những thách thức triết học do thời hiện đại đặt ra, với việc nó cấm tính siêu việt và việc nó khám phá ra “các quy luật của lịch sử”. Trớ trêu thay, những xu hướng triết học này sẽ lên đến tuyệt đỉnh trong việc thay thế hoàn toàn triết học bằng chính trị, khi Marx, Dewey và những người theo chủ nghĩa thực dụng Mỹ đã lật đổ “triết học về sự hiểu biết” để ủng hộ hành động khoa học và chính trị, thuyết biến hóa của Darwin hạ giá các nền triết học ‘duy yếu tính” về bản nhiên con người, và sự biến đổi thế giới đã thay thế lối hiểu thế giới như mục tiêu và thước đo của tư duy. “Có thật không?” nhường chỗ cho “Tác dụng của nó là gì?” hoặc “Nó thúc đẩy sự quan tâm của ai?”
Mặc dù “chủ nghĩa tân hiện đại” có cùng đường lối siêu hình như tiền thân của nó, nhưng nguồn gốc và bản chất của nó lại khác. Nó không phải là một hiện tượng triết học mà là một hiện tượng chính trị. Nó bắt nguồn từ sự phản đối của Công Giáo đối với chủ nghĩa phát xít, nỗ lực của Jacques Maritain và những người khác nhằm hòa giải đạo Công Giáo và chủ nghĩa nhân bản hiện đại trong một chủ nghĩa Tôma không phản động tương thích với nền dân chủ hiện đại. Tham vọng này sẽ xúc tác nhiều nỗ lực sau này nhằm tổng hợp Đạo Công Giáo với các yếu tố “tích cực” và “đạo đức” của tư tưởng Mác Xít, rõ ràng không mấy quan tâm đến việc loại chủ nghĩa vô thần đặc biệt của Marx có thể được đưa vào Kitô giáo một cách vô hình. Chống chủ nghĩa phát xít vẫn là yếu tính và lẽ sống của chủ nghĩa tân hiện đại. Faggioli đã vô tình tiết lộ sự thật này trong bài ca tụng gần đây của ông về “liên minh giữa những người Công Giáo, những người theo chủ nghĩa Xã hội-Cộng sản và những người theo chủ nghĩa tự do thế tục đã góp phần giải phóng nước Ý và cai trị trong nửa thế kỷ sau năm 1945,” dường như đã mang lại “cho đất nước một DNA đạo đức và chính trị bất biến.” Ở chỗ khác trong cùng một đoạn, khi ông than thở về sự biến mất của “những người Công Giáo của Đức Giáo Hoàng Phanxicô” - hậu duệ của “những người đã biến nước Ý thành một nước cộng hòa được thành lập dựa trên các giá trị chống Phát xít” - dường như ông đã xác định được yếu tính của “Đạo Công Giáo của Đức Giáo Hoàng Phanxicô” không phải với bất cứ nội dung thần học nào, mà với “các giá trị chống Phát xít”...
Về mặt lịch sử mà nói, chủ nghĩa tân hiện đại phát triển nhờ sự chiến thắng của chính trị đối với triết học và thần học và đơn giản coi việc phủ định tính siêu việt là điều hiển nhiên. Do đó, nó chu toàn và hoàn hảo hóa nền siêu hình của chủ nghĩa duy hiện đại trước kia chính bởi vì nó phi triết lý, bởi vì, nói theo kiểu nói của Del Noce, “triết lý tự vượt quá chính nó trở thành chính trị và tìm được ở đó việc xác minh cho nó”.
Không giống như chủ nghĩa hiện đại trước đó, chủ nghĩa tân hiện đại không đưa ra sự biện minh mang tính suy lý hoặc lý thuyết nào cho chính nó, ngoài việc thỉnh thoảng viện dẫn thẩm quyền của khoa học hoặc bản chất bị lịch sử điều kiện hóa của sự thật, và việc nại đến Chúa Thánh Thần, giờ đây bị vũ khí hóa để làm cho những người bất đồng trở thành phạm thánh. Chắc chắn, đây là một lý do dẫn đến tình huống hoàn toàn thiếu việc tự nhận thức về mặt triết học ở những nhân vật như Faggioli - và thực sự là sự thiếu vắng tư duy trong các tác phẩm của chủ nghĩa tân hiện đại so với tác phẩm của những nhân vật trước đó, chẳng hạn như Loisy và Tyrrell. Chủ nghĩa tân hiện đại gần như được dành toàn bộ cho lịch sử, xã hội học và các hình thức duy chức năng khác của lý trí. Nó thừa nhận thẩm quyền của các khoa học thực nghiệm và giả thiết tính ưu việt của lịch sử như một lĩnh vực của các mối quan hệ quyền lực nội tại đang tiệm tiến khai mở. Đối với Del Noce, nhân vật đặc trưng của chủ nghĩa tiến bộ Công Giáo, “Chủ nghĩa xã hội học,” là sự phụ thuộc hoàn toàn của triết học và thần học vào các hình thức tư tưởng này và các tiền giả định hữu thể học của chúng, vốn giản lược các yêu sách của sự thật vào các điều kiện lịch sử, chính trị và kinh tế của chúng và do đó vào các biểu thức ý thức hệ. Đơn cử một thí dụ trong toàn bộ thể loại, cuốn Vatican II: The Battle for Meaning Vatican II [Vatican II: Cuộc chiến giành Ý nghĩa] của Faggioli được chi phối triệt để bởi cách tiếp cận này, đặt ý nghĩa của Vatican II và thần học của nó phụ thuộc vào sự phán xét của các nhà sử học tiến bộ, những người coi Công đồng như một “sự kiện” vẫn đang diễn ra.” Nhưng không nơi nào cách tiếp cận này rõ ràng – hoặc hữu ích, xét vì cuốn sách đã được xuất bản trong triều Giáo Hoàng của Đức Bênêđíctô XVI – hơn là trong việc nó giản lược “tín lý” thành “chính sách tín lý”: từ một chủ trương sự thật về bản chất của sự vật, vốn khó có thể tưởng tượng trong khuôn khổ này, thành một biểu thức của ý chí giành quyền lực trong trò chơi chính trị giáo hội lâu dài.
Ở đây, sự phê phán của Blondel về chủ nghĩa lịch sử trong cuốn History and Dogma [Lịch sử và Tín điều] vẫn mang tính hướng dẫn. Lịch sử và xã hội học không tự cung tự cấp: Blondel nói, “Khoa học” về lịch sử “vẫn phụ thuộc vào những vấn đề ở phía sau, vào những khoa học vượt trội hơn nó, những khoa học mà nó không thể bứng bỏ hay thay thế ngoại trừ bằng sự tiếm quyền và bằng cách tuyên bố một cách sai lầm rằng mình là một loại siêu hình học toàn diện, một tầm nhìn phổ quát, một Weltanschauung [thế giới quan]” Lịch sử có thể chiếm đoạt siêu hình học, nghĩa là, chỉ bằng cách tự nó trở thành một “siêu hình học toàn diện”, bằng cách phủ nhận thực tại siêu việt của hữu thể, bản nhiên, và thậm chí cả Thiên Chúa và coi “các quy luật lịch sử” - giờ đây được cho là đương nhiên đến mức chúng không cần phải biện minh —như có giá trị tối cao. Tuy nhiên, không có gì trong chủ nghĩa vô thần ẩn danh này có thể ngăn cản việc sốt sắng khẩn cầu hữu thể của Chúa Thánh Thần xuống để rửa tội cho một việc lĩnh hội thế giới một cách vô thần. Thật vậy, kiểu thần học giả mạo này rất phổ biến—và được sử dụng một cách rộng rãi—trong Giáo hội đương thời.
Như Del Noce đã thừa nhận, chiến thắng của xã hội học, lịch sử và các hình thức lý trí duy chức năng khác biểu lộ trong suy nghĩ sự biến mất của Thiên Chúa khỏi chân trời hiện đại— theo lời Đức Bênêđíctô XVI viết vào năm 2009, “vấn đề thực sự tại thời điểm này trong lịch sử của chúng ta, và với sự mờ nhạt của ánh sáng đến từ Thiên Chúa, nhân loại đang mất đi phương vị của mình, với những hậu quả hủy diệt ngày càng rõ ràng”. Như chúng ta đã bắt đầu thấy, những hậu quả hủy diệt này đặc biệt ảnh hưởng nặng nề đến chính phạm trù sự thật. Trong cuốn Principles of Catholic Theology [Nguyên tắc Thần học Công Giáo] (1982), Joseph Ratzinger đã viết rằng, do sự chiến thắng của lịch sử đối với hữu thể, “Khái niệm sự thật... nhường chỗ cho khái niệm tiến bộ: ‘sự thật’ là bất cứ điều gì phục vụ cho sự tiến bộ, nghĩa là bất cứ điều gì phục vụ cho luận lý học của lịch sử.” Sự kết hợp giữa sự thật và tiến bộ là yếu tính của việc chính trị hóa.
Trong Gaudium et Spes, Công đồng Vatican II đã đề cập đến điều được gọi là “giai đoạn mới của lịch sử”, một thời điểm được đặc trưng bởi những nhạy cảm lịch sử này. Những sự nhạy cảm này đã không bị loại bỏ. Ngược lại, Công đồng thừa nhận “trí hiểu và các năng lực sáng tạo của con người”, từng khiến loài người “kinh ngạc trước những khám phá và sức mạnh của chính mình” và tra hỏi về vị trí của chúng ta trong vũ trụ. Tập chú Kitô học, nhân học và truyền giáo của Vatican II, rất trung tâm trong giáo huấn của Đức Gioan Phaolô II và Đức Bênêđíctô XVI, nhằm hòa giải sự hiện hữu lịch sử của con người với bản chất siêu việt của họ – để khẳng định cả sứ mệnh lịch sử năng động, “tiến bộ” của Giáo hội và, theo lời của Ratzinger, “sự thống nhất của sự thật trong tính đa dạng của những biểu hiện lịch sử của nó”. Đấng đi vào lịch sử và ngỏ lời với con người vào thời điểm này, bằng cách mặc khải con người cho chính họ và làm sáng tỏ ơn gọi tối cao của họ, vẫn là Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha. Nửa thế kỷ với những cách giải thích thường xuyên bị tranh cãi gay gắt về Công đồng - thực ra là nửa thế kỷ thất bại, thậm chí không đạt được sự đồng thuận về chủ đề trọng tâm của Công đồng - cho thấy khuôn khổ này, bất chấp tính đúng đắn về mặt thần học của nó, đã không thành công trong việc giải quyết xung đột giữa sứ mệnh “tiến bộ” và “tính duy nhất của sự thật”. Đó là bi kịch của đạo Công Giáo hiện đại.
Trong khi đó, việc diễn ra Tiến trình Thượng hội đồng đại diện cho một trò hề - điều đó không có nghĩa đó là một sự kiện tầm phào. Với việc diễn ra tiến trình đồng nghị, cuộc xung đột giữa “hai đạo Công Giáo” đang lên đến tuyệt điểm, mặc dù ở dạng suy thoái về mặt trí thức. Điều này đặc biệt đúng khi Thượng Hội đồng về Tính đồng nghị đã tự bộc lộ là Thượng hội đồng về sự khẳng định và hòa nhập LGBTQ, với việc vị tổng tường trình viên viện dẫn lịch sử và khoa học để làm suy yếu “nền tảng khoa học-xã hội học” của giáo huấn Giáo hội về tình dục, một giáo huấn mà ngài minh nhiên bác bỏ. Văn phòng Thượng Hội đồng của Vatican đã đăng trên mạng xã hội một bức tranh biếm họa nổi tiếng về một nữ linh mục trên bậc thềm của một nhà thờ, nắm tay một nhà hoạt động mặc áo thung “Niềm tự hào” cầu vồng và tuyên bố: “Chúng tôi là những người trẻ”. Không điều nào trong số này có thể gây ngạc nhiên cho bất cứ ai đọc về hoặc đọc giữa các dòng tài liệu làm việc của Thượng Hội đồng về Gia đình trong hai năm 2014–15, mặc dù vẫn còn ngỡ ngàng—hoặc nên ngỡ ngàng—khi thấy một văn phòng của Giáo hội ở Rôma công bố tài liệu trực tuyến tương đương với một tấm áp phích tự hào của người đồng tính.
Rõ ràng, những người cấp tiến được giao nhiệm vụ điều hành các diễn tiến của thượng hội đồng coi Thượng hội đồng như cơ hội cuối cùng vớ được phương thế hằng mong đợi để lật đổ hệ thống giáo huấn về giới tính, phái tính và bản chất con người đã chín mùi quanh thông điệp Humanae Vitae. Những giáo huấn này phải được hạ xuống phạm vi “đạo đức tính dục”, tách rời khỏi các nền tảng thần học, hữu thể học và nhân học, đồng thời tách biệt một cách giả tạo khỏi huấn quyền xã hội nổi tiếng của Giáo hội và mối quan tâm của Giáo hội đối với cuộc sống trong một xã hội bị thống trị bởi kinh tế và kỹ thuật. Hoặc ít nhất, nó sẽ có nghĩa là trang trọng hóa các cách giải quyết “mục vụ” chạy vòng quanh đã trở thành chuẩn mực trên thực tế ở nhiều nơi.
Sự tập chú không tránh khỏi vào các giáo huấn về tình dục của Giáo hội, dù quan trọng đến đâu, cũng dễ dàng quyến rũ chúng ta đi vào một cuộc tranh luận hẹp về những đề xuất đặc thù. Sự xung đột căn bản giữa các khuynh hướng xung đột này, như Đức Hồng Y Ratzinger đã chỉ ra, xảy ra không phải ở bình diện các học thuyết riêng lẻ, mà là “trong lĩnh vực tiền giả định triết học của chúng”. Chiều sâu của sự bất đồng này có thể dễ dàng bị che giấu, thậm chí có thể đối với các bên tranh cãi, bằng cách chia sẻ một số hạn từ nào đó, những hạn từ, tuy nhiên, bị sử dụng theo những cách hoàn toàn khác nhau. Chỉ khi sự bất đồng được giải quyết ở bình diện triết học thì mới có hy vọng có được một giải pháp thực sự. Ratzinger từng đặt câu hỏi “Trong dòng thời gian lịch sử, có một sự đồng nhất nào có thể nhận biết được của con người với chính họ hay không? Có ‘bản chất’ con người nào hay không? Có sự thật nào vẫn mãi đúng trong mọi thời đại lịch sử bởi vì nó là sự thật hay không?” Bản chất của chính Thiên Chúa và cấu trúc của thực tại phụ thuộc vào những câu hỏi này.
Câu hỏi liệu có điều gì đúng ngoài ý nghĩa có điều kiện hoặc chức năng hay không – liệu chúng ta có còn tán thành quan niệm hữu thể học về sự thật hay không – nằm bên dưới nhiều câu hỏi được đặt ra bởi tiến trình thượng hội đồng. Giáo hội có ý định gì khi áp dụng thuật ngữ của phong trào LGTBQ? Làm thế nào Giáo hội có thể chấp nhận ngôn ngữ này mà không chấp nhận việc phong trào đó thay thế hữu thể luận bằng bản sắc? Làm sao nó có thể khẳng định quan niệm về bản sắc này mà không ngầm ủng hộ chế độ y sinh [biomedical] của các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ có tính thương mại, cũng như thí nghiệm khoa học quy mô lớn về hormone ngăn chặn tuổi dậy thì và phẫu thuật xác định lại giới tính - chưa kể đến những biến đổi sâu xa về luật pháp, ngôn ngữ, gia đình và cơ cấu chính trị - cần thiết để biến nó thành quy phạm? Những người cấp tiến như James Martin, S.J., cố gắng một cách vô ích khi đóng ngoặc những câu hỏi như vậy khỏi câu hỏi hội nhập những người LGBTQ, nhưng chúng tạo thành một lớp áo liền mạch. Làm thế nào thuật ngữ này có thể phù hợp với quan niệm hình chất thuyết [hylomorphic] về bản chất con người được Công đồng giảng dạy, hoặc với học thuyết về sự sáng tạo như người ta vẫn luôn hiểu? Có lẽ Giáo hội vẫn tin rằng đàn ông và đàn bà là có thật. Hay ý tưởng về bản chất con người bất biến có tính phát xít?
Các câu hỏi được đưa ra bởi diễn trình thượng hội đồng không chỉ liên quan đến bản chất con người mà còn liên quan đến bản chất của Giáo hội. Giáo hội trong trí tưởng tượng của những kẻ chủ mưu thượng hội đồng là gì? Trong căn bản nó là một thực tại hữu thể học và bí tích, hay một thực tại xã hội học và chính trị? Sự hiệp thông của Ba Ngôi có phải là nền tảng hữu thể học của bản sắc Giáo hội như “Dân Thiên Chúa” như hiến chế Lumen Gentium gợi ý không? Hay “giáo hội học về dân Chúa” là “bối cảnh” cho hiệp thông, được “hiện thực hóa” thông qua phong cách, cơ cấu và sự kiện của Con đường Đồng nghị - nghĩa là thông qua một tiến trình chính trị? (Đây là điều mà Ủy ban Thần học Quốc tế ngụ ý trong nghiên cứu của họ về tính đồng nghị.) “Giáo hội như một toàn thể, trong mầu nhiệm yếu tính của mình... có phải là một thực tại có trước các Giáo hội đặc thù cá thể về mặt hữu thể học và thời gian,” như Tông huấn Communionis Notio của Đức Gioan Phaolô II dạy hay không? Nếu vậy thì Giáo hội có một bản chất thần học và bí tích vượt lên trên vị trí của nó trong không gian và thời gian, và “Dân Thiên Chúa” do đó bao gồm trọn sự hiệp thông các thánh, và cảm thức đức tin được thể hiện đầy đủ nhất trong Qui điển Vinh Sơn (đệ Lêrin): điều được tin ở mọi nơi, luôn luôn, và bởi mọi người.
Ngược lại, nếu cảm thức đức tin tương đương về mặt tôn giáo với dư luận quần chúng và có thể được nhận ra bằng cách bắt chước kém cỏi, phản khoa học các thủ tục thăm dò ý kiến và thu thập dữ kiện của các khoa học xã hội, thì Giáo hội chỉ còn là một thực tại xã hội học và chính trị, một Giáo hội của sự quản lý thuần túy, nếu không muốn nói là thao túng một cách khuyển nho. Tuy nhiên, những phản đối ngược lại, đây chính là cách nó xuất hiện trong nhiều bài viết về tính đồng nghị của Faggioli, như khi ông nói rằng thuật ngữ “Giáo hội có tính đồng nghị” đơn giản “có nghĩa là các tiến trình của giáo hội ít tập trung vào giáo sĩ hơn và cởi mở hơn với vai trò lãnh đạo của giáo dân, đặc biệt là phụ nữ.” Ông thừa nhận rằng đặc điểm này có thể làm cho tính đồng nghị có vẻ giống như một công việc bàn giấy. Nhưng đừng lo lắng—ông bảo đảm với chúng ta rằng “tính đồng nghị là về tính bí tích và Giáo hội như một bí tích,” và “các thượng hội đồng và công đồng luôn có cốt lõi phụng vụ”.
Tất cả những câu hỏi này – và còn nhiều câu hỏi khác – cuối cùng là những câu hỏi về bản chất thực sự của sự vật, thực sự là về việc liệu khái niệm “bản chất thực sự” có bị coi là lỗi thời trong một thế giới bị thống trị bởi khoa học tự nhiên và xã hội hay không, trong đó “tự nhiên” là bất cứ thứ gì được quan sát và do đó mỗi thứ được quan sát đều “tự nhiên” như mọi thứ khác. Tuy nhiên, đây chính là loại câu hỏi dường như bị loại trừ một cách có hệ thống bởi phương pháp “hòa nhập triệt để” của Thượng Hội đồng, như thể nền tảng của “Giáo hội lắng nghe” chỉ có thể được xây dựng trên đống đổ nát của “Giáo hội biết suy nghĩ”.
Những câu hỏi này có thể được trì hoãn nhờ phương pháp vốn được kính trọng xưa nay nhằm tách biệt các mối quan tâm mục vụ và tín lý. Nhưng điều rõ ràng là sự phân biệt này khó đứng vững, vì mọi hoạt động mục vụ phải diễn ra trong một chân trời ý nghĩa và tham chiếu một quan niệm nào đó về điều gì là đúng. Việc phân biệt mục vụ với tín lý dẫn đến kiểu thiếu trung thực mà người ta nhận thấy trong biến thể của James Martin về chiến thuật này. Động thái tu từ rất đơn giản: Hãy nhấn mạnh rằng bạn chưa bao giờ phủ nhận tín lý của Giáo hội, trong khi viết, nói và hành động như thể nó sai, và bạn có thể, trên thực tế, thực hiện một sự biến đổi cái hiểu của Giáo hội về chính mình, về Thiên Chúa, hoặc về bản nhiên con người, mà không bao giờ nêu ra câu hỏi về sự thật. Thành công trên quy mô đủ lớn—làm tràn ngập internet với đủ các bài viết chuyên mục nửa vời hoặc tweet đủ sớm để đồng chí của bạn ở Rôma có thể thưởng thức các cuộc tấn kích của bạn với cà phê buổi sáng của họ—và thế là, bạn có một sự thay đổi mô hình, hoặc ít nhất là ảo tưởng có một mô hình. Chiến thuật này có thể thành công trong việc mang lại sự thay đổi về cơ cấu trong Giáo hội, nhưng nó sẽ không đánh lừa được những ai không muốn bị lừa.
Thật dễ tin khi tin rằng dự án này có thể nghiêm túc về mặt thiêng liêng, như các nhân vật chính của nó nhấn mạnh một cách mến mộ, đồng thời lại không nghiêm túc về mặt trí thức. Toàn bộ truyền thống biện phân các tinh thần, từ Các Thể Chế [Institutes] của Gioan Cassian đến Linh thao của Thánh Inhaxiô, trước hết đều tìm cách tách tiếng nói của Thiên Chúa ra khỏi tinh thần của thời đại – thế gian, xác thịt và ma quỷ, nói theo thuật ngữ cũ. Diễn trình đồng nghị không những hoàn toàn thiếu tính nghiêm ngặt cổ xưa của những thao tác đó - và điều này diễn ra vào chính thời điểm mà tinh thần của thời đại hiện diện khắp nơi, tiếng nói của nó vang lên qua các phương tiện truyền thông, vốn nội thẳm trong tôi hơn chính tôi —nhưng nó chắc chắn mời gọi việc gom chúng thành một. Chỉ cần xem xét một trong những câu hỏi được đặt ra cho các nhóm nhỏ và được thảo luận trong suốt hai phút trong giai đoạn cấp giáo phận của tiến trình thượng hội đồng: “Từ việc chia sẻ trong nhóm nhỏ của bạn, hãy kể tên một nhận thức sâu sắc trong đó bạn đã nghe thấy tiếng Chúa Thánh Thần hôm nay?” Hãy kết hợp câu hỏi này với những câu hỏi khác—“Thiên Chúa đang nói với chúng ta như thế nào qua những tiếng nói ở giữa chúng ta?” “Thiên Chúa đang nói với chúng ta như thế nào qua những giọng nói mà đôi khi chúng ta bỏ qua, kể cả những giọng nói ở vùng ngoại vi?” “Có không gian nào để lắng nghe tiếng nói ở các vùng ngoại vi, đặc biệt là các nhóm văn hóa, phụ nữ, người khuyết tật, những người trải qua nghèo đói, bị gạt ra ngoài lề xã hội hoặc bị loại trừ khỏi xã hội?” – và kết luận không thể tránh khỏi là tiến trình đồng nghị đã được lên kế hoạch từ trước để xác định “Chúa Thánh Thần đang dẫn dắt chúng ta đi đâu.”
Thật không thuyết phục cũng như an tâm khi Austen Ivereigh nhấn mạnh rằng việc biện phân chỉ diễn ra giữa các giám mục ở giai đoạn cuối cùng của tiến trình, như thể không có sự biện phân nào từng được đưa vào phương pháp luận của Thượng Hội đồng, việc xây dựng các câu hỏi hoặc việc lựa chọn các vấn đề của nó hay việc tuyển lựa các nhân viên hành chính của nó. Thượng hội đồng có bị thiết kế một cách ngẫu nhiên không? Điều đó có thể giải thích bản chất lố bịch của một số diễn biến hoặc chất lượng kém của những người viết và quản lý nó, nhưng khó có cơ sở để tin rằng Chúa Thánh Thần đã tự phát thúc đẩy Giáo Hội hoàn vũ chọn việc hòa nhập chính nghĩa LGTBQ như vấn đề quan trọng nhất mà thế giới và Giáo hội phải đối diện. Nhưng trọng điểm của những tuyên bố như vậy không phải là để thuyết phục chúng ta rằng kết quả của những xem xét này là đúng, được truyền thẳng từ Chúa Thánh Thần đến ngòi bút của Ivereigh. Vì với tiết lộ cho rằng chính Ivereigh là một trong những tác giả của tài liệu thượng hội đồng hoàn cầu đầu tiên, và lời huấn giáo lố bịch của nó nên tiếp cận các trang của nó như “nơi thánh”, mục đích quả có tính chính trị. Chúng ta được nhắc nhở ai là người có thẩm quyền ở đây, và chúng ta được hướng dẫn rằng ai chỉ trích Sodalitium Franciscanum là chỉ trích chính giáo hoàng, và do đó tương đương với việc bác bỏ Vatican II.
Nhiều câu hỏi được đặt ra bởi diễn tiến của qui trình đồng nghị và từ vựng chính trị và xã hội học của những người giáo dân cổ vũ nó cuối cùng quy vào câu hỏi về mối tương quan giữa auctoritas [thẩm quyền] và potestas [quyền lực], một mối tương quan xét cho cùng xoay quanh vấn đề sự thật. Một khi chủ nghĩa duy sử và duy xã hội học đã tiêu diệt cơ sở siêu việt của chân lý, giản lược “chân lý” thành tổng số các điều kiện có trước và “những gì chúng ta có quyền thực hiện”, thẩm quyền sẽ trở thành chỉ là một biểu thức khác của ý chí quyền lực. Người ta không thể tung mọi điều lên cao để ai muốn bắt thì bắt—chẳng hạn như “Người đã tạo ra họ có nam có nữ”—trong khi tuy vẫn tin quyền tối thượng của giáo hoàng dựa vào hiến chế Pastor Aeternus, nhưng không coi giáo hoàng như một vị vua có chủ quyền kiểu Hobbes và đặt căn bản cho thẩm quyền của ngài trên quyền lực của ngài chứ không ngược lại. Thẩm quyền không có sự thật cuối cùng không hề là thẩm quyền.
Các nhà sử học gần như chắc chắn sẽ nhìn lại thời kỳ này và kết luận rằng cả di sản của Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng như thẩm quyền của các vị giáo hoàng tương lai đều không được những người bạn của Đức Phanxicô phục vụ tốt, bất kể thành công ngắn hạn của tiến trình thượng hội đồng trong việc biến đổi “hệ thống quản trị giáo hội” yêu quý của Faggioli, hay nói đúng hơn là củng cố quyền kiểm soát cấp tiến đối với chúng. Tín lý bị giản lược thành chính sách tín lý cũng mong manh như bất cứ chính sách nào khác, phụ thuộc vào ý chí của những vị nắm quyền quản trị. Những người cấp tiến hiểu điều này - một lý do chắc chắn khiến họ luôn nóng lòng muốn thấy chính sách được thực hiện trong quá trình kiểm soát nhân sự và thủ tục của họ. Nguyên “chính sách tín lý” mà thôi cũng có thể tạo ra những thay đổi về cơ cấu; nó thậm chí có thể buộc người ta phải tuân phục, phải hoan hô Sodalitium Franciscanum; nhưng nó không thể đem người ta đến chỗ tin vào điều người ta biết là sai. Quyền lực có thể cưỡng bức nhưng không thể buộc người ta có bổn phận. Nó không thể lôi kéo được sự tán thành của đức tin, hoặc sự ưng thuận đó - tức con-sentire [đồng thuận], một "suy nghĩ với" - nghĩa là cùng một lúc biểu lộ sự thật và hành động của mình khi nhượng bộ sự thật. Quyền lực này hoàn toàn thuộc về thẩm quyền sự thật, như Dignitatis Humanae nói, “không thể áp đặt chính nó ngoại trừ nhờ vào sự thật của chính nó, khi nó đi vào tâm trí một cách lặng lẽ và mạnh mẽ”. Trọng điểm không phải là quan điểm dân chủ cho rằng sự đồng ý mang lại quyền lực, như James Martin dường như chủ trương, mà là quan điểm hữu thể học cho rằng thẩm quyền thực sự—thẩm quyền của sự thật—lôi kéo được sự đồng thuận.
Chính nhờ tiêu chuẩn sự thật mà kết quả của Thượng Hội đồng, cũng như tính thỏa đáng của nó như một cách giải thích Công đồng Vatican II, cuối cùng sẽ được đánh giá. Theo lời của Đức Gioan XXIII: “Mối quan tâm lớn nhất của Công đồng chung là kho tàng thánh thiêng của tín lý Kitô giáo phải được bảo vệ và giảng dạy một cách hữu hiệu hơn,” một tín lý, ngài nói thêm, “bao trùm toàn thể con người, bao gồm cả thể xác lẫn linh hồn”. Giáo hội có tính Công đồng vẫn tin vào quan niệm truyền thống này về bản chất con người. Thật khó hiểu làm thế nào mà một kết luận mâu thuẫn hoặc che khuất học thuyết này, đặc biệt khi nó liên quan đến “toàn bộ con người”, lại có thể được coi là đại diện cho tinh thần của Công đồng hoặc là một cách giải thích mạch lạc về “các dấu chỉ của thời đại”, những dấu chỉ ngày nay mang nhiều điềm báo gở hơn so với những năm 1960. Không ai có thể tưởng tượng rằng thập niên 2020 là thời điểm bắt đầu của Thời đại Bảo Bình [age of Aquarius]. Đó là một trò hề mà chúng ta dường như đã được miễn chước.
Thật không may, tiến trình đồng nghị dường như mù quáng trước ý nghĩa của thời điểm lịch sử của chúng ta. Del Noce từng nói một cách thất vọng về loại người Công Giáo tìm cách hấp thụ “sự thật một phần” của chủ nghĩa Marx vào đức tin: “Việc chứng minh rằng chủ nghĩa vô thần là điều yếu tính đối với chủ nghĩa Marx khiến ông hoàn toàn thờ ơ”. Tương tự như vậy, vì chủ nghĩa tân hiện đại, trong căn bản, vốn là một hiện tượng chính trị, nên dường như không có bằng chứng nào có thể thuyết phục những người ủng hộ nó rằng thế giới của chúng ta, trong căn bản, không phải là thế giới của năm 1968... hoặc của năm 1933. Người Công Giáo tân hiện đại là một người duy sử, nhưng không phải là người duy sử tốt. Họ luôn đến hiện trường lịch sử quá muộn đến nửa thế kỷ, có ý định “tiếp xúc” một thế giới không còn hiện hữu nữa — không thể nhìn thế giới như nó là hiện nay, khi các thế lực của một chủ nghĩa toàn trị mới, toàn diện hơn nhưng bề ngoài ít bạo lực hơn xưa, diễu hành dưới lá cờ cầu vồng chứ không phải hình chữ vạn. Trong khi đó, chính thế giới mà người tân hiện đại ca ngợi là “bình đẳng” và “dân chủ” nổi dậy chống lại chính Hữu thể, hoàn thiện các phương tiện kỹ thuật để mang lại cuộc cách mạng của nó và buộc cả một thế hệ phải thực hiện một dự án khoa học rộng lớn và không thể giải trình.
Đây khó là một nhận định mới lạ, hay thậm chí là một nhận định Kitô giáo. Viết vào năm 1958, khi các hung bạo của khoa học “tiến bộ” vẫn còn in sâu trong ký ức của bà, Hannah Arendt nhận xét: “Con người tương lai, con người mà các nhà khoa học nói với chúng ta rằng họ sẽ tạo ra không quá một trăm năm nữa, dường như bị ám ảnh bởi một cuộc nổi loạn chống lại sự hiện hữu của con người như nó đã được ban tặng, một món quà miễn phí từ hư không (nói theo cách thế tục), mà họ muốn trao đổi, có thể nói như vậy, để lấy thứ mà họ đã tự mình làm ra.” Lewis, Huxley, Hans Jonas, Del Noce và Ratzinger nằm trong số nhiều người đã đưa ra những quan sát và tiên tri tương tự trong thế kỷ qua. Tương lai của Arendt là hiện tại của chúng ta. Các lực lượng hùng mạnh trong Giáo hội sẽ giúp Giáo hội đồng hành cùng thế giới khi thế giới hướng tới một tương lai hậu chính trị và hậu nhân bản. Chủ nghĩa tân hiện đại này chỉ minh chứng cho mối quan tâm của Ratzinger về “những tác động hủy diệt” xảy ra sau sự lu mờ của Thiên Chúa và sự thật, xác nhận niềm tin của Arendt rằng chủ nghĩa toàn trị và sự thiếu suy nghĩ đi đôi với nhau. Đến một lúc nào đó, trước rất nhiều cảnh cáo và quá nhiều bằng chứng, quá nhiều hành động tàn bạo và quá nhiều thời gian, người ta phải đặt câu hỏi liệu sự thiếu suy nghĩ này có phải là cố ý hay không.
Mặc dù Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã phát động tiến trình thượng hội đồng, nhưng ngài vẫn chưa đưa ra phán quyết nào về nó. Tôi không muốn đoán trước sự phán xét đó. Từ bản chất của chúng, các quy trình có xu hướng trốn tránh sự kiểm soát của những người khởi xướng ra chúng, giải phóng những sức mạnh không thể dễ dàng thu hồi được. Các sự kiện ở Đức làm tăng khả năng có sự khác biệt giữa việc diễn ra tiến trình thượng hội đồng và ý định của Đức Giáo Hoàng khi phát động nó. Chúng ta không nên giả thiết tiến trình hội nghị đồng nhất với ý muốn của Đức Giáo Hoàng, cũng như chúng ta không nên thừa nhận sự đồng nhất giữa tầm nhìn của Đức Giáo Hoàng và chương trình nghị sự cấp tiến đang được thúc đẩy dưới danh nghĩa của ngài. Chính Faggioli đã viết rằng “quan niệm của vị giáo hoàng 82 tuổi về tính đồng nghị trong giáo hội chắc chắn có những giới hạn và mâu thuẫn của nó”. Ngay cả vào thời điểm muộn màng này, chúng ta vẫn có thể khám phá ra những giới hạn và mâu thuẫn đó là gì. Vẫn có khả năng là Đức Giáo Hoàng có thể bắt chước Đức Phaolô VI, người đã chọc giận tinh thần của thời đại bằng cách bác bỏ các khuyến nghị của Ủy ban Giáo hoàng về Kiểm soát Sinh sản của chính ngài. Vị giáo hoàng này vẫn có thể minh xác rằng tinh thần của thời đại phát biểu qua các bảng câu hỏi của thượng hội đồng, các nhóm tập chú và các viên chức không phải là Thánh Thần Chân Lý.
Đó là sự khôn ngoan cổ xưa như cuốn Cộng hòa của Platông và bi thảm như nhân vật Cordelia của King Lear: Những người bạn thực sự của một nhà cai trị không phải là những kẻ xu nịnh ngài, mà là những người nói ra sự thật, thậm chí có thể gặp nguy hiểm cho chính mình. Điều đúng với các vị vua thậm chí còn đúng hơn với các vị giáo hoàng, những người có thẩm quyền bắt nguồn từ chính Sự thật, mà chức vụ của họ được thành lập để phục vụ. Nếu vị giáo hoàng từ chối cuộc cách mạng đang được thúc đẩy nhân danh ngài - thậm chí ngài có làm thất vọng những kỳ vọng của “dân Chúa” được chăm sóc chặt chẽ - ngài có thể vẫn khám phá ra ai là bạn bè thực sự của ngài và ai từng luôn là bạn bè thực sự của ngài. Tuy nhiên, trước sự lựa chọn ảm đạm mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô phải đối diện dường như không thể tránh khỏi việc tiến hành diễn trình đồng nghị sẽ kết thúc trong thảm kịch: con đường đồng nghị, thay vì là việc chúng ta “cùng bước đi với nhau”, gần như chắc chắn sẽ đẩy nhanh sự chia rẽ của chúng ta. Blondel đúng khi nói: “Điều này rõ ràng là bất thường, vì không thể có hai đạo Công Giáo”.
Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức hy vọng Thượng Hội đồng Giám mục mau lẹ bỏ phiếu cải tổ
Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức, Đức cha Georg Bätzing, Giám mục Giáo phận Limburg, hy vọng Thượng Hội đồng Giám mục thế giới vào tháng Mười sắp tới sẽ mau lẹ bỏ phiếu ủng hộ các đề nghị cải tổ, là truyền chức thánh cho phụ nữ, giải tỏa luật độc thân linh mục, cải tiến luân lý tính dục và các cải tổ khác đang được thảo luận trong Giáo hội Công giáo.

Bischof Georg Bätzing von Limburg
Đức cha Bätzing, là một thành viên của Thượng Hội đồng Giám mục sắp khai diễn. Ngài bày tỏ hy vọng trên đây trong cuộc phỏng vấn dành cho tuần “Die Zeit”, Thời gian, ở Đức, số ra ngày 14 tháng Chín vừa qua. Đức cha nói: “Dân chúng trong Giáo hội chúng tôi không còn kiên nhẫn nữa”.
Đức cha cho rằng không có đụng độ giữa Roma và các giám mục Đức. Những văn kiện nghị quyết của Con đường Công nghị của Công giáo Đức đang cải tổ cuộc đối thoại của Giáo hội Công giáo ở Đức, đó là những đề nghị hoạt động, cần được phối với hợp Giáo hội hoàn vũ. Vấn đề ở đây không phải là các bản văn, nhưng là những hành động thay đổi. Điều này đòi phải có những lý lẽ và thỏa hiệp. Đó là điều chúng tôi vẫn quen thực hiện trong nền văn hóa dân chủ của chúng tôi, và trong Giáo triều Roma người ta không hiểu.
Trong cuộc phỏng vấn, Đức cha Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức bênh vực Đức Giáo hoàng Phanxicô chống lại những lời cáo cuộc cho rằng ngài muốn trì hoãn việc cải tổ, ví dụ cấm thành lập Hội đồng Công nghị tại Đức, trong đó các giám mục cùng với giáo dân thảo luận và quyết định với nhau. Roma chỉ khẳng định rằng cần được chuẩn bị. Ngoài ra, thủ lãnh Giáo hội không thể quyết định điều mà các giám mục Đức mong muốn, nhưng phải liên kết với Giáo hội hoàn vũ. Đức cha Bätzing cho biết là ngài ủng hộ Đức Giáo hoàng Phanxicô 100% và nói thêm rằng: “Tôi đã nói với Đức Giáo hoàng rằng các tín hữu Công giáo Đức lo lắng về vấn đề: không biết Giáo hội Đức có còn sống hay không. Chúng tôi đã nói với Đức Giáo hoàng về điều đó và không chút sợ hãi”.
Một chiến tuyến mới trong Giáo hội Đức: Giải pháp Thay thế cho Nước Đức chống lại Ủy ban Trung ương Người Công Giáo Đức
Luke Coppen của The Pillar, ngày 7 tháng 9, 2023, tường trình rằng, một nhà lãnh đạo giáo dân nổi tiếng người Đức đã gây ra cuộc tranh luận với lời kêu gọi loại trừ các thành viên của một đảng chính trị cực hữu đang nổi tiếng khỏi việc nắm giữ các chức vụ trong Giáo hội.

Irme Stetter-Karp, chủ tịch Ủy ban Trung ương Người Công Giáo Đức (ZdK), đã đưa ra lời kêu gọi trong một cuộc phỏng vấn ngày 15 tháng 8 với Kirche und Leben[Giáo Hội và Cuộc Sống], tạp chí trực tuyến của Giáo phận Münster.
Bà nói rằng các thành viên của đảng Giải pháp Thay thế cho nước Đức (AfD) không được phép giữ các chức vụ giáo dân trong Giáo hội.
Stetter-Karp lập luận rằng đảng đã “ngày càng tiến xa hơn về phía cánh hữu” kể từ khi được thành lập cách đây 10 năm và “rõ ràng là các thái độ và tuyên bố bài Do Thái, phân biệt chủng tộc, vô nhân đạo không có chỗ đứng trong một tổ chức Công Giáo”.
Bà nói: “Sự ủng hộ tích cực dành cho Giải pháp Thay thế cho nước Đức mâu thuẫn với các giá trị căn bản của Kitô giáo.
Cuộc phỏng vấn được thực hiện sau khi Giải pháp Thay thế cho nước Đức tăng mức ủng hộ cao lên tới 21% trong các cuộc thăm dò dư luận, có nghĩa đây sẽ là đảng mạnh thứ hai của đất nước, sau Đảng dân chủ Thiên chúa giáo trung hữu [CDU/CSU], trong trường hợp bầu cử liên bang.
Nhận xét của Stetter-Karp đã nhanh chóng gây ra phản ứng dữ dội từ các thành viên Giải pháp Thay thế cho nước Đức.
Maximilian Krah, một người Công Giáo đại diện cho Giải pháp Thay thế cho nước Đức trong Nghị viện Châu Âu (một cơ quan lập pháp của Liên minh Châu Âu), đã chỉ trích mạnh mẽ Ủy ban Trung ương Người Công Giáo Đức, nhóm giáo dân có ảnh hưởng nhất ở Đức và là động lực thúc đẩy “đường lối đồng nghị” gây tranh cãi của đất nước.
“'Ủy ban Trung ương của người Công Giáo'... hoàn toàn không xuất hiện từ các cuộc bầu cử, mà là một câu lạc bộ gồm những người hoạt động chủ yếu sống toàn thời gian nhờ thuế nhà thờ, thất nghiệp trên thị trường việc làm đầu tiên, và do đó ghét bản thân, Giáo hội, và đức tin,” Krah viết vào ngày 16 tháng 8 trên X, nền tảng truyền thông xã hội trước đây gọi là Twitter.
Stetter-Karp đã minh xác, trong nhận xét với Bayerischer Rundfunk, rằng khi nói “văn phòng”, bà muốn nói đến tất cả các vị trí trong thế giới rộng lớn của các hiệp hội Công Giáo ở Đức, từ hội đồng giáo xứ đến trung tâm giữ trẻ.
Đài truyền hình dịch vụ công có trụ sở tại Munich dẫn lời luật sư giáo luật Thomas Schüller, người nói rằng các hiệp hội Công Giáo có quyền không chỉ cấm các thành viên Giải pháp Thay thế cho nước Đức giữ chức vụ mà còn cấm cả tư cách thành viên.
Ông nói rằng cả các hiệp hội và tổ chức thanh niên Công Giáo dành cho người lớn Công Giáo đều có thể thay đổi quy chế của họ để cấm các thành viên của Giải pháp Thay thế cho nước Đức.
Nhưng ông cho rằng sẽ khôn ngoan hơn nếu áp dụng cách diễn đạt chung trong quy chế.
Schüller nói rằng một sửa đổi có thể nói: “Những người nộp đơn xin gia nhập hiệp hội Công Giáo hoặc những người đã gia nhập hiệp hội đó mà hành xử theo cách gây bất lợi cho hiệp hội, theo nghĩa đưa ra các tuyên bố phân biệt chủng tộc, bài Do Thái, sẽ không được chấp nhận hoặc có thể bị đuổi khỏi hiệp hội.”
Stefan Korioth, giáo sư luật công và luật giáo hội tại Đại học Ludwig Maximilian ở Munich, nói rằng, mặc dù Giáo hội có thể đánh giá sự tương thích với quan điểm của mình khi bổ nhiệm các ứng cử viên vào các chức vụ, “việc lựa chọn trước theo cách sâu rộng như vậy không phải là không có vấn đề.”
Ông lưu ý rằng Giáo hội khuyến khích người Công Giáo tham gia chính trị và Giải pháp Thay thế cho nước Đức không phải là một đảng bị cấm.
Đức không phải là quốc gia châu Âu duy nhất mà các đảng chính trị cực hữu được cho là đang xâm nhập vào cử tri Công Giáo.
Đảng Vox của Tây Ban Nha, cũng được thành lập vào năm 2013, đã tìm cách kêu gọi người Công Giáo trong nước bằng việc bác bỏ việc phá thai và an tử. Nhưng sự thành công của nó đã khiến các viên chức của hội đồng giám mục lo ngại, đặc biệt là việc phản đối vấn đề nhập cư.
Theo tờ báo Công Giáo La Croix, 40% người Công Giáo thực hành đã bỏ phiếu cho phe cực hữu trong vòng đầu tiên của cuộc bầu cử tổng thống Pháp năm 2022, so với mức trung bình toàn quốc là 32%.
Trong khi đó, Ý có chính phủ cánh hữu nhất kể từ Thế chiến thứ hai sau chiến thắng của Giorgia Meloni và đảng Anh em Ý của bà trong cuộc tổng tuyển cử vào tháng 9 năm ngoái. Meloni, người hứa sẽ “bảo vệ Thiên Chúa, đất nước và gia đình,” được cho là đã giành được phiếu bầu của nhiều người Công Giáo.
Giải pháp Thay thế cho nước Đức được thành lập tại Đức vào tháng 2 năm 2013 để cạnh tranh trong cuộc bầu cử liên bang năm đó trên nền tảng bãi bỏ đồng euro, tiền tệ của 20 quốc gia thành viên châu Âu. Nó suýt chút nữa đã trượt ngưỡng bầu cử 5% cần thiết để vào Bundestag [Hạ Viện Đức].
Trong cuộc bầu cử liên bang năm 2017, đảng này đã giành được 12.6% số phiếu bầu, giành được 94 ghế trong Hạ viện và trở thành đảng lớn thứ ba, tập trung vào vấn đề nhập cư sau cuộc khủng hoảng di cư ở châu Âu năm 2015.
Bước vào cuộc bầu cử liên bang năm 2021, Giải pháp Thay thế cho nước Đức đã vận động chống lại việc tiếp tục cấm cửa vì virus corona, nhận được 10.3% phiếu bầu nhưng đang nổi lên là đảng lớn nhất ở các bang Saxony và Thuringia, nằm ở Đông Đức cũ.
Trong số các chính sách trong chương trình hiện tại có cam kết bảo vệ “nhà nước dân chủ, có chủ quyền”, tiến hành các cuộc trưng cầu dân ý kiểu Thụy Sĩ, đóng cửa biên giới ngay lập tức để chấm dứt tình trạng “nhập cư hàng loạt không được kiểm soát” và các biện pháp giúp Đức “có nhiều gia đình hơn. Và thân thiện với trẻ em.”
Người phỏng vấn Stetter-Karp của Kirche und Leben [Giáo Hội và Cuộc Sống] lưu ý rằng Thomas Haldenwang, người đứng đầu cơ quan tình báo nội địa của Đức, đã nói rằng có “những kẻ cực đoan cánh hữu” và “các quan điểm chống hiến pháp” trong Giải pháp Thay thế cho nước Đức.
Cơ quan này đang trong tình trạng cảnh giác cao độ sau vụ bắt giữ 25 thành viên của một nhóm khủng bố cực hữu bị nghi ngờ lên kế hoạch đảo chính ở Đức vào năm ngoái.
Vào tháng 5 năm nay, ủy viên chống chủ nghĩa bài Do Thái của Đức Felix Klein đã cáo buộc Giải pháp Thay thế cho nước Đức dung túng chủ nghĩa bài Do Thái và hỗ trợ các lực lượng tìm cách hạ thấp Nạn Diệt Chủng (Holocaust).
Stetter-Karp nói với Kirche und Leben rằng tình hình hiện tại ở Đức rất nguy hiểm.
Bà nói: “Bất cứ ai quan sát kỹ đều đã thấy rằng không chỉ những câu trả lời đơn giản theo chủ nghĩa dân túy cho những thách thức phức tạp đang diễn ra mà niềm tin vào các đảng và quy trình dân chủ cũng đang bị xói mòn từng bước”.
“Năm 2024, với các cuộc bầu cử ở Châu Âu và các cuộc bầu cử ở Brandenburg, Saxony và Thuringia, sẽ là một phép thử về việc liệu hạt giống của các lực lượng cánh hữu có bén rễ hay không. Tất cả các đảng dân chủ hiện được kêu gọi tích cực giải quyết sự cạnh tranh vì lòng tin của người dân và tích cực ngăn cản sự tham gia của Giải pháp Thay thế cho nước Đức vào chính phủ.”
Stetter-Karp đã nhắc lại lời kêu gọi cấm các thành viên Giải pháp Thay thế cho nước Đức nắm giữ các chức vụ trong Giáo hội trong một cuộc phỏng vấn ngày 31 tháng 8 với phụ bản Christ & Welt của tờ báo Die Zeit.
Bà nói: “Quan điểm của tôi rất rõ ràng: Bất cứ ai ở Giải pháp Thay thế cho nước Đức đều không được trao quyền trong Giáo hội”.
Bà cũng nói rằng sẽ không có viên chức được bầu nào của Giải pháp Thay thế cho nước Đức được mời phát biểu tại Katholikentag (Ngày Công Giáo) vào năm tới tại thành trì Erfurt của đảng.
Bà nhận xét, “Trong Giáo Hội Công Giáo, những giọng điệu cực đoan của cánh hữu đang trở nên to hơn và chói tai hơn. Ngay cả các thành viên trong Giáo hội của chúng tôi ngày càng đại diện cho các quan điểm theo chủ nghĩa duy phục hồi, muốn nhấn mạnh đến truyền thống và dễ bị kích động từ cánh hữu”.
Viết cho tuần báo Công Giáo Die Tagespost, nhà báo Sebastian Sasse lập luận rằng việc Stetter-Karp đề cập đến các xu hướng phục hồi trong Giáo hội cho thấy “sự thúc đẩy thực sự” trong nhận xét của bà.
Ông viết: “Vì vậy, đó chính là nội dung của nó: Chủ tịch ban Trung ương Người Công Giáo Đức muốn hạ bệ các đối thủ chính trị trong Giáo hội của bà, những người chỉ trích Con đường Đồng nghị”.
“Bằng cách liên kết những người chỉ trích này với những người ủng hộ Giải pháp Thay thế cho nước Đức, bà ấy đang chứng tỏ mình là một nhân viên giao tế nhân sự bất đắc dĩ cho đảng.”
Ngân hàng Vatican bác bỏ Cố vấn của Zelensky
Ngân hàng Vatican, có tên chính thức là “Viện Giáo Vụ” (IOR), mạnh mẽ bác bỏ lời cáo buộc vô căn cứ của ông Mychajilo Podoljak, Cố vấn trưởng của Tổng thống Zelensky Ucraina cho rằng Ngân hàng Vatican nhận và đầu tư tiền của Nga.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho kênh truyền hình 24 của Ucraina, hôm mùng 07 tháng Chín vừa qua, ông Podoljak nói răng “Không có vai trò trung gian nào dành cho Đức Giáo hoàng để giải quyết xung đột trên lãnh thổ Ucraina. Đức Giáo hoàng thân Nga và không đáng tín nhiệm... Vatican không thể có một vai trò trung gian nào, vì đó sẽ là một chức năng lường gạt Ucraina hoặc công lý. Trong tình trạng ấy, Ucraina sẽ không nhận được một sự thẩm định đúng đắn nào từ Vatican.”
Ông Podoljak cũng nói đến sự đầu tư của Liên bang Nga vào ngân hàng Vatican và nói rằng: “Chúng ta phải xem những đầu tư mà Nga đang làm tại Ngân hàng Vatican. Chúng ta phải phân tích điều này một cách chi tiết hơn”.
Phản ứng về những lời tuyên bố trên đây, trong thông cáo công bố trưa ngày 09 tháng Chín, Viện Giáo vụ của Vatican, gọi tắt là IOR, khẳng định rằng: Viện Giáo vụ mạnh mẽ bác bỏ những suy đoán của ông cố vấn, theo đó IOR đang đầu tư tiền của Nga.
Điều đó không đúng sự thật, và một hoạt động đầu tư như thế là điều không thể được, xét vì những chính sách của Viện Giáo vụ và những chế tài của quốc tế cũng áp dụng cho cả lãnh vực tài chánh.
“Thực vậy, trước hết Viện Giáo vụ không chấp nhận như khách hàng những tổ chức hoặc cá nhân không có liên hệ chặt chẽ với Tòa Thánh và với Giáo hội Công giáo.
“Thứ hai, Viện Giáo vụ là một tổ chức tài chánh trung, phải chịu sự giám sát, Viện này hoạt động qua các ngân hàng đại lý quốc tế ở cấp cao nhất và không bị tai tiếng, buộc phải tuân hành các quy luật quốc tế.
“Những tuyên bố trái ngược được đưa ra trên báo chí thật là vô căn cứ và vì thế phải bị coi không là gì cả.”
Viện Giáo vụ hiện có 117 nhân viên và quản trị tài sản của khoảng 13.000 khách hàng có liên hệ tới Giáo hội, với tổng số tài sản 5 tỷ Euro. Số lợi nhuận ròng trong năm ngoái (2022) của ngân hàng này là 29 triệu 600.000 Euro, năm trước đó là 18,1 triệu Euro. Trong số tiền lời vừa nói, có 5 triệu được dành để giúp Đức Giáo hoàng.
"Viện Giáo vụ của Vatican không nhận tiền hoặc đầu tư của Nga." Đó là tuyên bố được Viện Giáo vụ của Vatican, thường được gọi là Ngân hàng Vatican, đưa ra để "mạnh mẽ" bác bỏ "cáo buộc" của ông Mychajlo Podoljak, cố vấn của Tổng thống Volodymyr Zelensky, người đã chỉ trích gay gắt Đức Thánh Cha và kêu gọi ngài điều tra các hoạt động bị cáo buộc là của Nga "trong ngân hàng Vatican".
Ngân hàng Vatican nói rằng những hoạt động như thế không thể thực hiện được do các chính sách nghiêm ngặt của Ngân hàng và các biện pháp trừng phạt quốc tế cả đối với lĩnh vực tài chính
Trong một cuộc phỏng vấn dài trên đài truyền hình Canale 24, ông Podoljak đã đưa ra những lời chỉ trích nặng nề đối với Đức Thánh Cha Phanxicô và loại trừ bất kỳ "vai trò hòa giải" nào có thể có của Tòa Thánh cho cuộc chiến ở Ucraina khi đánh giá Đức Thánh Cha "thân Nga và không đáng tin cậy."
Ngoài những lời chỉ trích này, quan chức thân cận với Tổng thống Zelensky - người trước đây đã đánh giá tiêu cực về thái độ của Vatican đối với cuộc chiến ở Ucraina - trong cùng cuộc phỏng vấn này, đã đề cập đến các tài liệu tham khảo liên quan đến một số "đầu tư của Liên bang Nga tại Vatican" và kêu gọi "phân tích vấn đề này chi tiết hơn."
Ngày 9/9, Ngân hàng Vatican đã đưa ra một tuyên bố phủ nhận hoàn toàn những gì được định nghĩa là "các cáo buộc". Thông cáo nêu rõ: "Ngoài việc không tương ứng với sự thật, một hoạt động như vậy cũng sẽ không thể thực hiện được do các chính sách nghiêm ngặt của Ngân hàng Vatican và các lệnh trừng phạt quốc tế cũng áp dụng cho lĩnh vực tài chính."
Thông cáo viết: "Trước hết, trên thực tế, Ngân hàng Vatican không chấp nhận, như là khách hàng, các tổ chức hoặc thể nhân không có mối quan hệ chặt chẽ với Tòa Thánh và Giáo hội Công giáo. Thứ hai, Ngân hàng Vatican là một trung gian tài chính được giám sát, hoạt động thông qua các ngân hàng quốc tế tương đương ở cấp độ cao nhất và danh tiếng hoàn hảo cần thiết để tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế."
Do đó, những tuyên bố của ông Podoljak, "không dựa trên cơ sở nào" và được coi là vô căn cứ.
Tại sao một nhà lãnh đạo Công Giáo Ukraine lại chỉ trích nhận xét về Nga của Đức Thánh Cha
Why a Ukrainian Catholic leader criticized the pope’s Russia remarks
Major Archbishop Sviatoslav Shevchuk, leader of the Ukrainian Greek Catholic Church. Mykola Vasylechko via Wikimedia
Hôm thứ Ba, Vatican đã đưa ra lời thanh minh hiếm hoi về tuyên bố của Đức Thánh Cha Phanxicô.
Việc thanh minh này diễn ra sau những lời chỉ trích công khai thậm chí còn hiếm hoi hơn đối với những nhận xét của giáo hoàng bởi nhà lãnh đạo một Giáo Hội Công Giáo Đông phương.
Nhà lãnh đạo được đề cập là Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk, người đã hướng dẫn Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương từ năm 2011.
Điều gì đã thúc đẩy Đức Cha Shevchuk lên tiếng? Ngài đã nói gì? Và bối cảnh lịch sử là gì?
Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk đã phản ứng thế nào?
Vào ngày 25 tháng 8, Đức Thánh Cha Phanxicô đã được kết nối qua liên kết video với những người tham gia Đại hội Giới trẻ Công Giáo Nga lần thứ 10 tại St. Petersburg.
Theo một báo cáo của Vatican News ngày 26 tháng 8, Đức Thánh Cha đã tương tác “trong hơn một giờ” với khoảng 400 bạn trẻ có mặt tại Vương cung thánh đường Thánh Catherine, là nhà thờ Công Giáo lâu đời nhất ở Liên bang Nga.
Cùng ngày, văn phòng báo chí Tòa Thánh đã công bố nội dung bài diễn văn của Đức Thánh Cha bằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng Ý.
Vào buổi tối, trang web Công Giáo Ý Il Sismografo lưu ý rằng các phương tiện truyền thông Vatican đã bỏ qua những bình luận của Đức Giáo Hoàng được đăng trên trang web của tổng giáo phận Công Giáo Mạc Tư Khoa.
Il Sismografo nhận xét rằng trước khi chúc lành cho giới trẻ, Đức Thánh Cha Phanxicô nói:
“Đừng bao giờ quên di sản của các bạn. Các bạn là người thừa kế của nước Nga vĩ đại. Nước Nga vĩ đại của các vị thánh, của các vị vua, nước Nga vĩ đại của Peter Đại đế, của Nữ Hoàng Catherine II, đế quốc Nga vĩ đại được vun đắp với biết bao văn hóa và nhân văn. Đừng bao giờ từ bỏ di sản này. Đừng bao giờ từ bỏ di sản này. Các bạn là người thừa kế của Nước Nga vĩ đại, hãy tiến lên. Và cảm ơn. Cảm ơn vì cách sống của các bạn, vì cách các bạn trở thành người Nga”.
Vào ngày 28 tháng 8, Il Sismografo đã liên kết với một video trên YouTube cho thấy giáo hoàng nói những lời này một cách ứng khẩu bằng tiếng Ý.
Trang web này bình luận: “Nghe Đức Giáo Hoàng Rôma, vào thời điểm nhạy cảm này trong lịch sử, ca ngợi Catherine II, vị Nữ Hoàng ' đã cấm công bố bất cứ sắc lệnh nào của Đức Giáo Hoàng ở quốc gia của mình ' và là người 'vào năm 1783 đã sáp nhập Crimea, do đó tạo ra một làn sóng 'Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ' mới, có lẽ sẽ khiến nhiều người Công Giáo khá tò mò.”
“Nhưng có lẽ hơn cả là vị giáo hoàng Dòng Tên Jorge Mario Bergoglio là người đã biết ơn khi nhớ lại Sa hoàng đã ngăn chặn việc đàn áp Dòng Tên ở Đế quốc Nga như thế nào.”
Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk đã nói gì?
Trong một tuyên bố được công bố trên trang web chính thức của Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương – là giáo hội lớn nhất trong số 23 Giáo Hội Công Giáo Đông phương hiệp thông hoàn toàn với Rôma – Đức Tổng Giám Mục Shevchuk nói rằng những bình luận của Đức Thánh Cha đã gây ra “đau đớn và mối quan ngại lớn lao”.
Ngài nói “Thật đau đớn và lo lắng khi chúng tôi biết được những lời được tường trình của Đức Thánh Cha Phanxicô tại cuộc gặp gỡ trực tuyến với giới trẻ Công Giáo Nga vào ngày 25 tháng 8 năm 2023 tại St. Petersburg. Chúng tôi hy vọng rằng những lời này của Đức Thánh Cha được nói ra một cách ứng khẩu, không có bất kỳ nỗ lực đánh giá lịch sử nào, chứ đừng nói đến việc ủng hộ tham vọng đế quốc của Nga. Tuy nhiên, chúng tôi chia sẻ nỗi đau lớn mà những lời ấy đã gây ra, không chỉ giữa các giám mục, giáo sĩ, tu sĩ và tín hữu của Giáo cộng đoàn tôi, mà còn giữa các giáo phái và tổ chức tôn giáo khác. Đồng thời, chúng tôi cũng nhận thức được sự thất vọng sâu sắc mà những lời ấy đã gây ra cho xã hội.”
Ngài nói tiếp rằng: “Những lời về ‘nước Nga vĩ đại của Peter Đại Đế I, Nữ hoàng Catherine II, như các đế chế vĩ đại, khai sáng - một đất nước có nền văn hóa vĩ đại và lòng nhân đạo vĩ đại’ - là ví dụ tồi tệ nhất về chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa dân tộc cực đoan của Nga. Có nguy cơ là những lời này có thể bị coi là ủng hộ chính chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa đế quốc đã gây ra cuộc chiến ở Ukraine ngày nay - một cuộc chiến mang lại cái chết và sự hủy diệt cho người dân chúng ta mỗi ngày.”
“Những ví dụ do Đức Thánh Cha đưa ra thực sự mâu thuẫn với giáo huấn của ngài về hòa bình, vì ngài luôn lên án mọi hình thức biểu hiện của chủ nghĩa đế quốc trong thế giới hiện đại và cảnh báo về sự nguy hiểm của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, đồng thời nhấn mạnh rằng đó là nguyên nhân của ‘chiến tranh thế giới thứ ba’ đang diễn ra cục bộ.
“Với tư cách là một Giáo hội, chúng tôi muốn tuyên bố rằng trong bối cảnh Nga xâm lược Ukraine, những tuyên bố như vậy truyền cảm hứng cho những tham vọng thuộc địa mới của quốc gia xâm lược, mặc dù cách thức ‘là người Nga’ như thế đáng bị lên án một cách dứt khoát.”
Đức Tổng Giám Mục Trưởng nói rằng ngài đang chờ đợi việc làm rõ những bình luận từ Tòa thánh.Ngài cũng hứa sẽ nêu vấn đề này với Đức Thánh Cha Phanxicô khi các giám mục Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương sớm nhóm họp tại Rôma để dự Thượng Hội đồng thường niên.
![image.png]()
A portrait of Peter the Great by an unknown artist, after J.-M. Nattier. Public Domain.
Bối cảnh lịch sử là gì?
Hai nhân vật mà Đức Thánh Cha Phanxicô chọn để minh họa cho sự vĩ đại của nước Nga đều đóng những vai trò quan trọng nhưng gây nhiều tranh cãi trên trường thế giới.
Peter thứ nhất là Sa hoàng của toàn nước Nga từ năm 1682 cho đến năm 1721, và trở thành Hoàng đế đầu tiên của toàn nước Nga, và giữ chức vụ này cho đến khi qua đời vào năm 1725. Người đàn ông thường được gọi là Peter Đại đế có thân hình to lớn. Ông nổi tiếng là cao đến 2 mét và được biết đến là người đã đánh các quan chức hàng đầu của mình bằng gậy.
Peter, một nhà cai trị chuyên quyền tàn nhẫn, đã áp đặt những thay đổi sâu rộng lên Giáo hội Chính thống Nga mà những ảnh hưởng vẫn còn được cảm nhận cho đến ngày nay. Ông đã đặt Giáo hội dưới sự quản lý của nhà nước một cách hiệu quả khi tuyên bố rằng Giáo hội không còn được cai trị bởi một Thượng Phụ mà bởi một cơ quan gồm các giám mục và các quan chức được gọi là Thánh Công Đồng.
Mặc dù có khuynh hướng phương Tây nhưng ông không có thiện cảm với Giáo Hội Công Giáo. Theo Bách khoa toàn thư Công Giáo, “Peter Đại đế bộc lộ lòng căm thù chống Công Giáo khi, tại Polotsk năm 1705, ông đã tự tay giết chết tu sĩ Theophanus Kolbieczynski dòng Basiliô. Bằng nhiều biện pháp khác; ông ta đã gây ra những lời vu khống xúc phạm nhất chống lại Công Giáo ở Nga; ông trục xuất Dòng Tên vào năm 1719; ông đã ban hành ukases để buộc người Công Giáo phải cải đạo sang Chính thống giáo, và ngăn cản con cái của các cuộc hôn nhân hỗn hợp trở thành người Công Giáo; và cuối cùng, ông ta tổ chức những cuộc truy hoan quái đản vào năm 1722 và 1725 như một sự nhại lại Cơ Mật Viện bầu Giáo Hoàng, để chế giễu Đức Giáo Hoàng và giáo triều Rôma.”
Tổng thống Nga Vladimir Putin đã đưa ra những so sánh giữa ông và Peter đại đế, nêu bật cuộc đấu tranh của Peter chống lại Thụy Điển trong trận chiến được gọi là Đại chiến phương Bắc.
“Peter Đại đế đã tiến hành cuộc Đại chiến phương Bắc trong 21 năm. Có vẻ như khi đang có chiến tranh với Thụy Điển, ông đã lấy đi thứ gì đó từ họ. Ông ấy không lấy bất cứ thứ gì từ họ, ông ấy trả lại những gì là của Nga”, ông Putin nói sau khi đến thăm một cuộc triển lãm dành riêng cho Peter vài tháng sau khi ông phát động cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào Ukraine.
Catherine Đại đế trở thành Hoàng hậu Nga vào năm 1762, sau khi giám sát việc bắt giữ và buộc chồng bà, Peter Đệ Tam phải thoái vị.
Catherine sinh ra ở Stettin, Vương quốc Phổ, và lớn lên theo Tin lành Lutheran cho đến năm 1744, khi cô chuyển sang Chính thống giáo Nga bất chấp sự phản đối của cha cô.
Như Il Sismografo đã lưu ý, Catherine từ chối cho phép đàn áp Dòng Tên ở Nga, một hành động mà một số học giả tin rằng đã bảo đảm sự sống sót của Dòng Tên. Nhưng cô ấy đối xử khắc nghiệt với những người Công Giáo theo nghi thức Đông phương.
Catherine bị đối phương buộc tội vô đạo đức hoang dâm trong suốt triều đại của mình, nhưng các nhà sử học coi nhiều lời buộc tội là vô căn cứ.
Trong thời gian trị vì lâu dài của mình, bà đã mở rộng đáng kể biên giới của Đế quốc Nga, mở rộng sang vùng được gọi là Nước Nga mới (lục địa phía nam Ukraine), một phần của Ukraine ngày nay ở phía tây sông Dnipro và Crimea.
![image.png]()
The coronation portrait of Catherine II by Vigilius Eriksen
Vatican đã nói gì?
Trong một tuyên bố ngày 29 tháng 8, văn phòng báo chí Tòa Thánh đã tìm cách làm rõ những bình luận của Đức Thánh Cha.
“Trong lời chào gửi giới trẻ Công Giáo Nga trong những ngày qua, rõ ràng là từ bối cảnh ngài nói, Đức Thánh Cha có ý khuyến khích giới trẻ bảo tồn và phát huy những gì tích cực trong di sản văn hóa và tinh thần vĩ đại của Nga, và chắc chắn không đề cao logic đế quốc và tính cách của của các nhà cầm quyền, được trích dẫn để chỉ ra các giai đoạn tham chiếu lịch sử nhất định”.
Vatican xuất bản cẩm nang về chế tài hình sự trong Giáo hội
Nhà xuất bản Vatican đã xuất bản tập “Chế tài hình sự trong Giáo hội”, như một sự “trợ giúp” cho việc áp dụng Quyển VI của Bộ Giáo luật.
![image.png]()
Theo giải thích của Đức cha Juan Ignacio Arrieta, Tổng Thư ký Hội đồng Tòa Thánh về các Văn bản Luật, tập sách không phải là văn bản quy định, cũng không chứa đựng những quy định pháp lý mới. Đúng hơn đó là một hướng dẫn hoặc cẩm nang có mục đích hướng dẫn các Giám mục và các Bề trên dòng tu trên khắp thế giới áp dụng chế tài hình sự của Giáo hội.
Đức cha Arrieta cho biết rằng với việc sửa đổi Quyển VI của Bộ Giáo luật vào tháng 5/2021, Toà Thánh nhận thấy cần phải ban hành cẩm nang càng sớm càng tốt, để hướng dẫn các Giám mục và Bề trên áp dụng. Từ đó với sự giúp đỡ của các chuyên gia tư vấn, chuyên gia trong lĩnh vực từ nhiều quốc gia khác nhau và với sự đóng góp của các Bộ có liên quan, Hội đồng Tòa Thánh về các Văn bản Luật đã phát triển văn bản nhằm góp phần đảm bảo sự an toàn của thủ tục tố tụng hình sự và cung cấp các tiêu chí hữu ích để bảo vệ quyền lợi của tất cả những người liên quan.
Theo quy định của Chế tài Hình sự năm 2021, sự hỗ trợ này gợi ý chỉ áp dụng chế tài hình sự khi cần thiết, nhưng không chậm trễ và với ý thức mục vụ. Vì thế, cẩm nang đặc biệt chú ý sử dụng điều gọi là “các biện pháp hình sự”, và đặc biệt “mệnh lệnh hình sự” để có được sự phục hồi và sửa chữa càng sớm càng tốt cho người đã phạm tội, không bỏ qua nghĩa vụ khắc phục hậu quả đã gây ra hoặc nghĩa vụ bồi thường và hỗ trợ đối với nạn nhân.
Cẩm nang được chia thành ba phần. Phần đầu tiên trình bày các quy định chung của luật hình sự. Phần thứ hai đề cập đến từng tội phạm trong Bộ Giáo luật, chỉ ra các yếu tố cấu thành phải có trong mỗi trường hợp phạm tội. Cuối cùng, phần thứ ba nhằm mục đích hướng dẫn quyền bính Giáo hội về cách tiến hành khi hoàn cảnh cho phép xét xử một tội phạm theo con đường hành chính, bảo đảm đầy đủ, thay vì đi theo con đường của thủ tục tư pháp đã được quy định bởi Bộ Giáo luật.
Đại diện Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc: Phá thai không phải là nhân quyền
Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh cạnh các tổ chức Liên Hiệp Quốc ở Genève, Thụy Sĩ, Đức Tổng giám mục Ettore Balestrero, tái khẳng định rằng phá thai không phải là nhân quyền, mặc dù có nhiều nước ban hành luật cho phá thai.
![image.png]()
Đức Tổng giám mục Ettore Balestrero
Đức Tổng giám mục Balestrero bày tỏ lập trường trên đây trong bài tham luận hôm 13 tháng Chín vừa qua, về vấn đề thứ hai tại khóa họp thứ 54 của Hội đồng nhân quyền Liên Hiệp Quốc, đồng thời khẳng định rằng cần củng cố nguồn cội của các quyền con người, bắt nguồn từ phẩm giá chung, bất khả nhượng của con người vì nó làm cho sự thăng tiến các quyền con người thành một nguồn mạch hiệp nhất, thay vì trở thành mồi cho cá nhân chủ nghĩa ích kỷ và chia rẽ. Điều này càng cần thiết vì hiện nay không thiếu những sức ép đòi giải thích lại bản Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền được ban hành cách đây 75 năm. Những giải thích lại như thế làm thương tổn sự hiệp nhất nội tại, đến độ tạo điều kiện cho việc đưa đẩy sự bảo vệ phẩm giá con người hướng về sự thỏa mãn những tư lợi cá nhân.
Đức Tổng giám mục Đại diện Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc cũng nhấn mạnh rằng “Các quyền con người không phải chỉ là đặc ân được cấp cho các cá nhân do sự đồng thuận của cộng đồng quốc tế. Đúng hơn, các quyền đó tượng trưng “các giá trị khách quan và không lệ thuộc thời gian, vốn là điều thiết yếu đối với sự phát triển con người”. Vì thế, cho dù một xã hội hoặc cộng đồng quốc tế phủ nhận một hoặc nhiều quyền được ghi trong bản Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, sự kiện đó vẫn không làm giảm bớt giá trị của quyền này, và cũng không chuẩn chước cho một ai không tôn trọng quyền ấy”.
Đức Tổng giám mục Balestrero cảnh giác rằng những điều gọi là “các quyền mới” không đạt được sự hợp pháp chỉ vì đa số các nước hoặc cá nhân khẳng định điều đó. Thí dụ tỏ tường nhất về quan niệm sai lầm này là mỗi năm có khoảng 73 triệu thai nhi bị giết hại trong lòng mẹ, nhân danh cái gọi là “một quyền con người”, quyền phá thai.
Cũng trong bài tham luận, Đại diện Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc cũng nhận xét rằng: “thật là một điều thê thảm vì 75 năm sau Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, nhiều anh chị em chúng ta vẫn còn chịu đau khổ vì chiến tranh, xung đột, đói kém, những thành kiến và kỳ thị. Ngoài ra, thật là thiếu tinh thần huynh đệ vốn được cộng đồng quốc tế đã biểu lộ quyết tâm thăng tiến. Ngày nay, quá nhiều khi tinh thần huynh đệ bị coi như một sự yếu thế, nghèo nàn, vô giá trị, và bị làm ngơ không biết tới hoặc thậm chí bị coi như một đe dọa cần loại trừ”. Vì thế, Đức Tổng giám mục nhận định rằng kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền là một cơ hội quan trọng để suy tư về các nguyên tắc nền tảng, để bảo vệ các quyền con người”.
Indonesia sẽ chính thức sử dụng thuật ngữ "Yesus Kristus" khi đề cập đến Chúa Giêsu, thay vì thuật ngữ Hồi giáo
Trong một thông cáo vào ngày 12/9/2023, Bộ trưởng Điều phối Phát triển Con người và Văn hóa, Muhadjir Effendy, cho biết, nhằm đáp lại yêu cầu của các Kitô hữu, chính phủ đã quyết định chính thức thay thế thuật ngữ Hồi giáo "Isa Almasih" bằng "Yesus Kristus", thuật ngữ chính thức mà các Kitô hữu Indonesia sử dụng khi đề cập đến Chúa Giêsu Kitô.
Lễ Giáng sinh tại một nhà thờ ở Indonesia
Từ lâu các Kitô hữu Indonesia đã yêu cầu không sử dụng các thuật ngữ Hồi giáo khi đề cập đến Chúa Giêsu Kitô trong các thông tin liên lạc chính thức.
Ông Effendy cho biết chính phủ sẽ sử dụng thuật ngữ Yesus Kristus trong các tài liệu chính thức, ví dụ như trong danh sách các ngày lễ nghỉ tôn giáo của quốc gia.
Ông Saiful Rahmat Dasuki, Thứ trưởng Bộ Tôn giáo, cho biết sự thay đổi này được khởi xướng bởi đề xuất của các Kitô hữu Tin lành và Công giáo. Theo họ, tên được chọn để gọi nên được thay đổi theo những điều họ tin tưởng.
Trong lịch chính thức của Indonesia, chính phủ xác định ba ngày lễ nghỉ quốc gia liên quan đến Kitô giáo là Lễ Giáng sinh, Thứ Sáu Tuần Thánh và Lễ Thăng thiên. Trước đây, những ngày lễ này được gắn với thuật ngữ Isa Almasih, do đó, các ngày lễ lần lượt được gọi là ngày sinh của Isa Almasih, Sự chết của Isa Almasih và Sự Thăng thiên của Isa Almasih.
Khác biệt giữa hai tên "Isa Almasih" và "Yesus Kristus"
Cha Bernardinus Andereas Atawolo, giảng viên thần học tín lý tại Trường Triết học Driyarkara có trụ sở tại Jakarta, đánh giá cao sự thay đổi này. Cha nói: “Danh từ 'Chúa Giêsu Kitô' chứa đựng một ý nghĩa gần gũi hơn với tâm hồn người Kitô hữu: danh từ nói đến thiên tính của Chúa Giêsu; Người là Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ thế giới.”
Fransiskus Borgias, một nhà thần học giáo dân ở Tây Java cho biết: “Đây là một bước đột phá dũng cảm” vì “quyết định này giả định một số nền tảng thần học đặc biệt.” Theo ông, đó là sự thừa nhận rằng Chúa Giêsu của các Kitô hữu không giống với Isa của truyền thống Hồi giáo. Ông nói thêm: "Mặc dù người ta thường nói rằng Isa và Chúa Giêsu giống nhau, nhưng thực ra là khác nhau, không chỉ về mặt thần học mà còn về mặt xã hội học."
Ông Borgias giải thích thêm rằng Chúa Giêsu là con Đức Maria và Thánh Giuse trong Kinh Thánh, còn Đức Maria là con của hai thánh Gioakim và Anna. Nhưng trong Hồi giáo, Isa là "con của bà Miriam, em gái của ông Môse và Aaron. Vì vậy, Chúa Giêsu là cháu của ông Môsê. Điều như vậy là không thể xảy ra theo niên đại của Kitô giáo và Do Thái giáo."
Hơn nữa, theo Hồi giáo, Isa là một ngôn sứ và không "chết trên thập giá". Còn theo "các Tin Mừng và lịch sử ngoài Kinh Thánh, Chúa Giêsu đã chết trên thập giá và vào ngày thứ ba đã sống lại từ cõi chết.”
Do đó, theo ông Borgias, sự thay đổi thuật ngữ này là một bước đáng hoan nghênh, “mô tả sự hiểu biết và kinh nghiệm về đức tin Kitô giáo dựa trên Kinh Thánh”.
Phải chăng Tòa Thánh sắp phục hồi linh mục khoa học gia Teilhard de Chardin?
Luke Cuppen, trên tạp chí The Pillar ngày 5 tháng 9 năm 2023, nhận định rằng Linh mục Dòng Tên người Pháp Pierre Teilhard de Chardin đã được gọi bằng nhiều tên khác nhau kể từ khi ngài qua đời ở New York năm 1955.
Teilhard: Tiểu luận “Thánh lễ trên thế giới”.
Thực vậy, đối với một số người, ngài là nhà tư tưởng sáng tạo “ngang hàng với Einstein”. Đối với những người khác, ngài là “kẻ dị giáo có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20”.
Nhà thần học, triết gia, nhà khoa học và giáo sư - được mệnh danh là “Darwin Công Giáo” - cũng gây nhiều tranh cãi trong cuộc đời của ngài. Ngài đã kích thích những đánh giá rõ ràng pha trộn trong cả Giáo Hội Công Giáo lẫn cơ sở khoa học.
Nhưng ngài có ý nghĩa gì với vị giáo hoàng Dòng Tên đầu tiên trên thế giới? Đức Phanxicô đã đưa ra một số manh mối vào Chúa nhật 3 tháng 9, 2023, khi ngài đánh dấu kỷ niệm 100 năm một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Teilhard: Tiểu luận “Thánh lễ trên thế giới”.
Bản văn huyền nhiệm này được hình thành từ một kinh nghiệm vào năm 1923, khi Teilhard đang băng qua sa mạc Ordus ở tây bắc Trung Quốc và không thể cử hành Thánh lễ vì thiếu bánh, rượu và bàn thờ.
Bản văn, được xuất bản sau khi qua đời trong cuốn sách “Bài thánh ca của vũ trụ” năm 1961, đã có tác động văn hóa đáng kể, truyền cảm hứng cho mọi thứ, từ một album nhạc jazz đến những lời cầu nguyện bản thân trong đại dịch coronavirus.
Phát biểu sau khi cử hành Thánh lễ cho cộng đồng Công Giáo nhỏ bé của Mông Cổ vào ngày 3 tháng 9, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: “Thánh lễ tự nó là một cách tạ ơn: ‘Thánh lễ tạ ơn’. Khi cử hành Thánh lễ tại vùng đất này, tôi nhớ đến lời cầu nguyện mà Cha Dòng Tên Pierre Teilhard de Chardin đã dâng lên Thiên Chúa đúng một trăm năm trước, trong sa mạc Ordos, cách đây không xa. Ngài cầu nguyện: ‘Lạy Thiên Chúa của con, con phủ phục trước sự hiện diện của Chúa trong vũ trụ mà giờ đây đã trở thành ngọn lửa sống: bên dưới nét mặt của tất cả những ai con sẽ gặp ngày nay, tất cả những gì xảy ra với con, tất cả những gì con đạt được, chính là Chúa con khao khát, chính là Chúa con chờ đợi’. Cha Teilhard de Chardin tham gia nghiên cứu địa chất. Ngài tha thiết muốn cử hành Thánh Lễ, nhưng lại thiếu bánh và rượu. Vì vậy, ngài đã sáng tác ‘Thánh lễ trên thế giới’, bày tỏ sự dâng hiến của mình bằng những lời này: ‘Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy bánh bao trùm này, mà toàn thể tạo vật của Chúa, được thúc đẩy bởi sức hấp dẫn của Chúa, dâng lên Chúa vào buổi bình minh của ngày mới này’.
Đức Giáo Hoàng nói tiếp: “Một lời cầu nguyện tương tự đã hình thành trong khi ngài làm người khiêng cáng cứu thương ở tiền tuyến trong Thế chiến thứ nhất. Vị linh mục này, thường bị hiểu lầm, đã trực giác được rằng “Bí tích Thánh Thể luôn được cử hành một cách nào đó trên bàn thờ thế giới” và là “trung tâm sống động của vũ trụ, cốt lõi tràn ngập tình yêu và sự sống vô tận” (Laudato Sì, 236 ), ngay cả trong thời đại như thời đại của chúng ta, được đánh dấu bằng xung đột và chiến tranh. Vậy thì, hôm nay chúng ta hãy cầu nguyện theo lời của Cha Teilhard de Chardin: ‘Lời rạng ngời, Quyền năng rực sáng, Chúa, Đấng đã nhào nặn nên sự đa dạng để thổi sự sống vào đó, con cầu xin Chúa, hãy đặt trên chúng con đôi bàn tay Chúa – quyền năng, ân cần, có mặt khắp nơi’”.
Việc Đức Thánh Cha trích dẫn rộng rãi công việc của người bạn Dòng Tên của ngài đã đặt ra một số câu hỏi.
Teilhard de Chardin là ai? Tại sao ngài lại phân cực như vậy? Và ngài có đang được phục hồi trong Giáo hội hay không?
Ngài là ai?
Cuộc đời của Teilhard được đánh dấu bằng những căng thẳng và biến động của thế kỷ 20.
Ngài sinh ra tại một lâu đài ở miền trung nước Pháp vào năm 1881, là con thứ tư trong gia đình có 11 người con. Cha ngài là một thủ thư viện và mẹ ngài là chắt gái của nhà văn Voltaire, một nhà phê bình gay gắt đối với Giáo Hội Công Giáo. Phần “de Chardin” trong tên của gia đình là phần còn lại của một tước hiệu quý tộc, vì vậy con trai của họ được biết đến chính thức với cái tên Pierre Teilhard.
Quá trình đào tạo Dòng Tên ban đầu của ngài đã bị gián đoạn bởi các chính sách chống giáo sĩ của Thủ tướng Pháp Émile Combes, một cựu chủng sinh đã trở thành hội viên hội Tam điểm. Ngài chuyển đến Anh để tiếp tục việc học và trở thành một độc giả say mê của Đức Hồng Y John Henry Newman.
Sau khi thụ phong linh mục năm 1911, ngài tập trung vào cổ sinh vật học, nghiên cứu về sự sống cổ xưa trên Trái đất. Nhưng sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, ngài được động viên và làm người khiêng cáng. Tại Paissy, miền bắc nước Pháp, ngài đã cử hành Thánh lễ cho binh lính trong một hang động mà ngày nay có tấm biển tôn vinh ngài.
Sau chiến tranh, ngài hoàn thành việc học và bắt đầu thực hiện các chuyến nghiên cứu tới Trung Quốc. Ngài là thành viên của nhóm đã phát hiện ra Người Bắc Kinh, một điển hình về loài Homo erectus [người đứng thẳng]đã tuyệt chủng.
Nhưng các tác phẩm của ngài bắt đầu vấp phải sự phản đối. Năm 1927, Dòng Tên cấm xuất bản tác phẩm “The Divine Milieu” [Lãnh vực Thần linh]của ngài, tác phẩm này chỉ được phát hành sau khi ngài qua đời.
Được yêu cầu tóm tắt cương lĩnh cá nhân của mình vào năm 1934, ngài viết: “Tôi tin rằng vũ trụ là một cuộc biến hóa; Tôi tin rằng sự biến hóa tiến tới tinh thần; Tôi tin rằng tinh thần, nơi con người, tự hoàn thiện ở bản vị; Tôi tin rằng bản vị tối cao là Chúa Kitô vũ trụ”.
Bản tóm tắt súc tích này về các xác tín của ngài đã làm nổi bật sự khác biệt trong các ý tưởng thần học của ngài. Nó nhấn mạnh rằng biến hóa là một yếu tố nền tảng trong thần học của ngài và ngài tin rằng nó đang tiến tới một mục tiêu xác định - một ý tưởng được ghi lại trong câu nói nổi tiếng của ngài “mọi sự lên cao đều phải hội tụ” (mà nhà văn người Mỹ Flannery O'Connor đã chọn làm tiêu đề của tuyển tập truyện ngắn).
Teilhard cho rằng Trái đất đã trải qua ba giai đoạn phát triển: địa quyển (vật chất vô tri), sinh quyển (sự sống sinh học) và tri quyển (noosphere=suy nghĩ/lý trí). Ngài tin rằng noosphere sẽ lên đến tuyệt đỉnh trong điều được ngài gọi là Điểm Omega, điểm mà ngài đồng nhất với Chúa Kitô, Đấng tự mô tả mình là “Alpha và Omega” trong Sách Khải Huyền của Tân Ước.
Sau chuyến đi đến Mỹ năm 1937, danh tiếng của ngài ngày càng lan rộng bên kia Đại Tây Dương.
Nhưng vào năm 1944, ngài được biết rằng Rôma đã từ chối cho phép ngài xuất bản tác phẩm “Hiện tượng con người”, tác phẩm này cũng chỉ được xuất bản sau khi ngài qua đời.
Sau vài năm ở Mỹ, ngài qua đời vào Chúa nhật Phục sinh năm 1955 và được chôn cất tại nghĩa trang Dòng Tên Thánh Andrew-on-Hudson, gần Poughkeepsie, bang New York, địa điểm hiện thuộc về Viện Ẩm thực Hoa Kỳ.
Khi những cuốn di cảo bắt đầu thu hút trí tưởng tượng của người Công Giáo, Văn phòng Thánh của Vatican đã đưa ra một cảnh cáo chính thức vào năm 1962. Văn phòng này tuyên bố rằng các tác phẩm này “có rất nhiều điều mơ hồ và thậm chí còn có những sai sót nghiêm trọng, đến mức xúc phạm đến tín lý Công Giáo”.
Bản cảnh cáo viết, “Vì lý do này, các nghị phụ nổi tiếng và đáng kính nhất của Văn phòng Thánh đã khuyến khích tất cả các Bản quyền cũng như bề trên các tu viện, viện trưởng các chủng viện và viện trưởng các viện đại học hãy bảo vệ tâm trí một cách hữu hiệu, đặc biệt là giới trẻ, chống lại những nguy hiểm do tác phẩm của Cha Teilhard de Chardin và những người theo ngài gây ra”.
Trong khi đó, Teilhard đã tạo ra một cái bóng râm văn hóa lâu dài. Ngài đã truyền cảm hứng cho các nghệ sĩ từ Salvador Dalí, người nổi tiếng đã dựa trên lý thuyết của ngài cho bức tranh hoành tráng “Công đồng chung” năm 1960, cho đến nhà văn Hoa Kỳ Don DeLillo, người đã trích dẫn ý tưởng của ngài trong cuốn tiểu thuyết Point Omega năm 2010. Ngài cũng được cho là nguồn cảm hứng cho Cha Lankester Merrin, nhà khảo cổ học do Max von Sydow thủ vai trong bộ phim kinh dị “The Exorcist” năm 1973.
![image.png]()
Một cửa sổ kính màu (trên cùng bên trái) mô tả Pierre Teilhard de Chardin, S.J., tại Nhà thờ St. Anne ở Heerlen, Hà Lan.
Tại sao ngài lại phân cực như vậy?
Tại sao Teilhard lại chia rẽ công luận một cách gay gắt như vậy?
Có nhiều manh mối trong tiểu sử của ngài.
Vào thời ngài, có những người Công Giáo tin rằng ngài là thiên tài đã mạnh dạn mở rộng phạm vi thần học, trong khi những người khác lại kết luận rằng ngài là một kẻ dị giáo có tư tưởng gần như phiếm thần.
Nhà thần học Dòng Tên Henri de Lubac, người đã dành nhiều cuốn sách cho nhà cổ sinh vật học, đã từng viết: “Chúng ta không cần quan tâm đến một số người gièm pha Teilhard, những người mà cảm xúc đã làm cùn mòn trí thông minh”.
Ngược lại, triết gia Công Giáo Dietrich von Hildebrand đã ngỡ ngàng khi nghe Teilhard chỉ trích Thánh Augustinô thành Hippo khi ông gặp vị tu sĩ Dòng Tên này vào năm 1949. Ông viết rằng lời chỉ trích đó truyền tải “việc Teilhard thiếu cảm nhận thực sự về sự vĩ đại trí thức và thiêng liêng”.
Hildebrand viết, “Tuy nhiên, chỉ sau khi đọc một số tác phẩm của Teilhard, tôi mới nhận ra đầy đủ những tác động tai hại trong các ý tưởng triết học của ngài và sự không tương thích tuyệt đối giữa hư cấu thần học của ngài (như Étienne Gilson gọi nó) với sự mặc khải Kitô giáo và học thuyết của Giáo hội”.
Những quan điểm phân cực này về Teilhard vẫn còn tồn tại trong thế giới Công Giáo ngày nay, với điểm khác biệt là kể từ khi xuất bản một tiểu luận năm 2017 của nhà đạo đức học John P. Slattery, sự chú ý của giới phê bình đã tập trung vào thái độ của vị tu sĩ Dòng Tên đối với thuyết ưu sinh.
Bài tiểu luận lập luận rằng “từ những năm 1920 cho đến khi qua đời vào năm 1955, Teilhard de Chardin đã dứt khoát ủng hộ các thực hành ưu sinh phân biệt chủng tộc, ca ngợi khả năng thực hiện các thí nghiệm của Đức Quốc xã và coi thường những người mà ngài cho là con người ‘không hoàn hảo’”.
Slattery cho rằng những ý tưởng này không phải ngẫu nhiên mà là nền tảng cho “thần học vũ trụ” nổi tiếng của ngài. Ông nói thêm rằng điều này sẽ thúc đẩy việc xem xét lại vị trí của Teilhard trong thần học thế kỷ 21.
Những người bảo vệ vị tu sĩ Dòng Tên này đã phản ứng bằng cách lưu ý rằng Teilhard tỏ ra gần gũi với người em gái khuyết tật của mình, Marguerite-Marie, và lập luận rằng ngài ủng hộ sự cải thiện tinh thần của nhân loại hơn là thuyết ưu sinh sinh học.
Danh tiếng của ngài có được ‘phục hồi’ không?
Vatican từ lâu đã phải đối diện với áp lực phải dỡ bỏ lời cảnh cáo năm 1962 liên quan đến các tác phẩm của Teilhard.
Năm 1981, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ngài, Đức Hồng Y Agostino Casaroli, Ngoại trưởng Vatican lúc bấy giờ, đã công bố một bài báo trên tờ L’Osservatore Romano ca ngợi “chứng từ về cuộc sống mạch lạc của một người được Chúa Kitô chiếm hữu trong sâu thẳm tâm hồn”.
Giữa sự suy đoán cho rằng điều này báo hiệu việc phục hồi vị tu sĩ Dòng Tên này, văn phòng tín lý của Vatican đã đưa ra một tuyên bố làm rõ rằng cảnh cáo vẫn còn hiệu lực.
Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, cựu lãnh đạo văn phòng tín lý của Vatican, đã làm nhiều người nhướn lông mày vào năm 2009 khi ngài trích dẫn Teilhard một cách tích cực trong khi suy tư về Thư của Thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma.
“Bản thân chúng ta, với toàn bộ con người mình, phải tôn thờ và hy sinh, và bằng cách biến đổi thế giới của chúng ta, hãy dâng nó lại cho Thiên Chúa”, Đức Thánh Cha nói trong bài giảng tại Nhà thờ Aosta ở tây bắc nước Ý.
“Vai trò của chức linh mục là thánh hiến thế giới để nó có thể trở thành một bánh thánh sống động, một phụng vụ: để phụng vụ không phải là một điều song song với thực tại của thế giới, nhưng chính thế giới sẽ trở thành một bánh thánh sống động, một phụng vụ.”
“Đây cũng là tầm nhìn tuyệt vời của Teilhard de Chardin: cuối cùng chúng ta sẽ đạt được một phụng vụ vũ trụ thực sự, nơi vũ trụ trở thành bánh thánh sống động.”
Các nhà bình luận đã bị chia rẽ về mức độ quan trọng của những nhận xét đó. Nhưng người phát ngôn của Vatican lúc đó là Cha Federico Lombardi, một tu sĩ Dòng Tên, nói: “Cho đến nay, không ai dám nói rằng [Teilhard] là một tác giả không chính thống và không nên nghiên cứu”.
Sau cuộc bầu cử của Đức Thánh Cha Phanxicô vào năm 2013 và việc xuất bản thông điệp sinh thái Laudato si’ năm 2015 của ngài (đã trích dẫn Teilhard trong phần chú thích ở cuối trang), các thành viên của Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa đã bỏ phiếu đề nghị Đức Thánh Cha Phanxicô loại bỏ lời cảnh cáo.
Các thành viên cho biết trong một tuyên bố năm 2017: “Chúng tôi nhất trí đồng ý, mặc dù một số bài viết của ngài có thể mở ra những lời chỉ trích mang tính xây dựng, nhưng tầm nhìn tiên tri của ngài đã và đang truyền cảm hứng cho các nhà thần học và nhà khoa học”.
Vào khoảng thời gian đó, một bản kiến nghị kêu gọi phong Teilhard làm Tiến sĩ Giáo hội bắt đầu thu thập được hàng nghìn chữ ký.
Vào tháng 5 năm nay, Dòng Tên đã khai trương Trung tâm Teilhard de Chardin ở ngoại ô Paris được gọi là Thung lũng Silicon của Pháp để phục vụ như “nơi đối thoại giữa khoa học, triết học và tâm linh”.
Những bình luận của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Mông Cổ đã không trực tiếp đề cập đến bài phát biểu hay những tranh cãi xoay quanh Teilhard. Nhưng bằng cách trích dẫn một đoạn dài đáng kể tiểu luận của nhà cổ sinh vật học, chắc chắn ngài đang khuyến khích người Công Giáo đọc “Thánh lễ trên thế giới”, có thể là cửa ngõ dẫn đến các tác phẩm khác của tu sĩ Dòng Tên “thường bị hiểu lầm” này.
Vì vậy, hiện tại, chúng ta vẫn chưa có sự phục hồi chính thức. Thay vào đó, có lẽ những gì chúng ta có là điều mà một số người gọi là “một quá trình phục hồi lâu dài”: Một quá trình lộn xộn trong đó những người có thẩm quyền cao nhất của Giáo hội đưa ra những đề cập tích cực đến các khía cạnh trong công trình của Teilhard mà không cam kết đánh giá lại toàn diện.
Người Hồi giáo Ý lên án bài giảng của Imam Birmingham
![image.png]()
Hội đồng Lãnh đạo Tôn giáo của Cộng đồng Tôn giáo Hồi giáo Ý Coreis lên án những tuyên bố của một giáo sĩ đến từ Birmingham ở Vương quốc Anh trong đó ông ta cho rằng những phụ nữ ngoại tình đáng bị ném đá trong bài giảng cầu nguyện của cộng đồng vào hôm thứ Sáu.
Tuyên bố nói rằng các thành viên của Hội đồng hướng dẫn tôn giáo của Cộng đồng tôn giáo Hồi giáo Ý Coreis, giống như nhiều trung tâm và cơ quan điều phối đào tạo tôn giáo khác ở Âu Châu và trên thế giới, “rất vinh dự được rút ra từ các nguồn giáo lý tôn giáo thông qua việc đọc và giải thích cập nhật các giáo lý tôn giáo, những lời giảng dạy của những bậc thầy đích thực về trí tuệ và tình yêu tri thức, hòa bình và đoàn kết”.
Tuy nhiên, tuyên bố nhấn mạnh rằng: “Sự hiểu biết và thực hành đạo Hồi không bao giờ có thể tách rời khỏi việc tuân theo trí tuệ giác ngộ và mô hình nhân từ của các nhà tiên tri cũng như những người thừa kế tinh thần và trí tuệ đích thực của họ”.
Trong một video lan truyền trên mạng xã hội, vị lãnh đạo chính của nhà thờ Hồi giáo Green Lane, một đại diện cho chủ nghĩa chính thống cực đoan ở Birmingham, Anh, giải thích trong một bài giảng về cách thực hiện một cách chính xác việc hành quyết bằng cách ném đá các phụ nữ ngoại tình. Đoạn video đã gây ra sự phẫn nộ và náo động và kết quả là chính quyền đã thu hồi khoản tài trợ trị giá hai triệu bảng dành cho nhà thờ Hồi giáo.
Trong bài giảng tại Coreis, Imam Sheikh Zakaullah Saleem đã giải thích thủ tục ném đá đúng cách của Hồi Giáo phải được thực hiện như sau: người phụ nữ bị kết tội ngoại tình trước tiên phải được “chôn đến thắt lưng” để “bảo vệ sự khiêm tốn của mình”, và chỉ sau đó mới có thể bắt đầu bị ném đá, và việc ném đá chỉ kết thúc khi người phụ nữ bị kết án chết vì vết thương của mình. Những lời dạy của ông đã vấp phải những chống đối của chính cộng đoàn Hồi Giáo này.
Bạo hành chống Kitô tại Nepal vì một video ăn thịt bò
Một làn sóng bạo hành chống các tín hữu Kitô tại Nepal, từ hơn hai tuần nay vì có một video về cảnh tượng một nhóm người dân tộc tại nước này ăn thịt bò, trái với tín ngưỡng của đa số dân Nepal theo Ấn giáo.
Cha Silas Bogani, Tổng đại diện Giáo phận Nepal bao trùm toàn lãnh thổ Nepal nói với hãng tin Công giáo Á châu Ucan, hôm mùng 07 tháng Chín rằng: “Những vụ tấn công và bạo hành, đặc biệt chống các nhóm tín hữu Kitô thiểu số, thật là đáng lo âu. Chúng tôi lên tiếng kêu gọi hòa hợp tôn giáo. Không ai được xúc phạm đến tình cảm tôn giáo của người khác”.
Ít nhất bảy thánh đường Kitô ở Nepal đã bị tấn công trong khoảng ba tuần qua, vụ mới nhất xảy ra hôm mùng 05 tháng Chín vừa qua, ở tỉnh Lumbini, gần biên giới Ấn Độ.
Những vụ tấn công và xách nhiễu Kitô bắt đầu sau khi một video được phổ biến ồ ạt trên các mạng xã hội ở Nepal, ngày 15 tháng Tám vừa qua, cho thấy các thành viên một cộng đồng dân tộc ăn thịt bò tại một làng gần thành phố Dharan ở miền đông Nepal.
Ông Mohan Shrestha, phát ngôn viên đảng quốc gia dân tộc Rastriya Prajatantra Ấn giáo, gọi tắt là RPP, nói rằng: giết bò cái và ăn thịt bò xúc phạm đến tình cảm tôn giáo của người Ấn giáo, vốn coi bò cái là vật thánh được tôn kính. Một số người từ bên ngoài đang xúi giục những người dân tộc bạo động và phá rối sự hòa hợp tôn giáo và xã hội với mục đích xô đẩy đất nước đến bạo lực chủng tộc”.
Tại Nepal, hàng trăm người dân tộc đã trở thành Kitô hữu trong những năm gần đây. Nhiều thừa sai Tin lành, kể cả từ Hàn Quốc, tích cực truyền đạo nơi các nhóm dân tộc. Nhiều người theo Kitô giáo để thoát khỏi chế độ phân biệt giai cấp trong Ấn giáo. Các tổ chức của người dân tộc như “Liên minh Nepal các sắc tộc bản xứ” cho biết video ăn thịt bò là một hình thức phản đối chống lại luật kỳ thị cấm giết bò cái và ăn thịt bò và Luật pháp Nepal phạt tù những người vi phạm luật này.
Tình trạng trở nên căng thẳng giữa hai nhóm người dân tộc và người Nepal, hai bên trao đổi những tuyên bố oán ghét và đe dọa bạo lực, khiến cho tình hình trở nên căng thẳng, có nguy cơ leo thang.
Các nhóm Ấn giáo dự định tổ chức một cuộc biểu tình lớn tại thủ đô Kathmandu, vào ngày 13 tháng Chín này, để đòi tái lập chế độ quân chủ tại Nepal và giải tán chế độ dân chủ hiện nay tại nước này.
Theo Niên giám Tòa Thánh, năm 2022, tại Nepal chỉ có gần 8.000 tín hữu Công giáo trên tổng số 32 triệu rưỡi dân cư, với 14 giáo xứ, 49 nhà thờ, 1 giám mục, 112 linh mục, trong đó 90 vị thuộc các dòng tu, 85 tu huynh và 112 nữ tu.
Giám mục Nigeria kêu gọi cầu nguyện sau khi một chủng sinh bị thiêu sống
Thông báo về việc chủng sinh Na'aman Danlami, 25 tuổi, đã bị thiêu sống trong một cuộc tấn công tại nhà xứ giáo xứ Thánh Raphael ở Fadan Kamantan trong cuộc tấn công vào khoảng 8 giờ tối Thứ Năm ngày 7/9/2023, Đức cha Julius Yakubu Kundi của Giáo phận Kafanchan, Nigeria, kêu gọi tín hữu kiên vững trong thời gian thử thách và chứng mình rằng vũ khí tàn ác của kẻ thù không thể chiến thắng đức tin.
Chủng sinh Na'aman Danlami người Nigeria
Đức cha Kundi cho biết những kẻ tấn công muốn bắt cóc cha xứ nhưng vì khó vào được nơi cư trú của ngài nên chúng đã dùng đến việc phóng hỏa cơ sở này. Hai linh mục cùng hiện diện trong nhà xứ khi đó là Cha Emmanuel Okolo và Cha Monday Noah, đã thoát khỏi cuộc tấn công.
Tạ ơn Chúa về mùa gặt truyền giáo
Trong thông điệp có tựa đề: “Không gì có thể lấy đi niềm vui của chúng ta”, được đưa ra vào trước lễ kính Thánh Phêrô Claver, bổn mạng của giáo phận, vào ngày 9/9, Đức cha Kundi kêu gọi dân Chúa tạ ơn vì mùa gặt bội thu trong việc truyền giáo mà họ đã trải qua trong ba thập kỷ qua. Ngài nói rằng "Vâng, chúng ta rất đau buồn! Chúng ta vô cùng đau buồn trước vụ sát hại khủng khiếp người anh em của chúng ta, chủng sinh Naaman Ngufe", nhưng “Hãy chứng minh cho kẻ thù của chúng ta thấy rằng kho vũ khí tà ác của chúng lại một lần nữa thất bại.”
Hãy mạnh mẽ trong Chúa trong thời gian đầy thử thách và khó khăn
Đức cha mời gọi các tín hữu hãy mạnh mẽ trong Chúa trong thời gian đầy thử thách và khó khăn, đồng thời cầu nguyện xin Chúa chúc lành và tôn vinh Giáo hội của Nguời ở Kafanchan.
Trong khi bảo đảm sự gần gũi với đàn chiên trong thời điểm thử thách này, Đức cha Kundi đã trích dẫn Kinh Thánh để khẳng định sự gần gũi của Thiên Chúa với dân Chúa ở miền trung bắc Kanduna, nơi đã bị tàn phá bởi bạo lực không thể chữa trị được bởi lực lượng dân quân Fulani. Ngài nói: “Không gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu đã được thể hiện một cách dồi dào đối với chúng ta với tư cách là một Giáo hội và một dân tộc.”
Sự hiệp nhất của các Giám mục Nigerria
Trong thông điệp, Đức cha cũng cho biết "Tất cả các Giám mục Công giáo Nigeria hiệp nhất với chúng ta trong những lời cầu nguyện và tạ ơn Chúa vì lòng thương xót và tình yêu của Người đối với chúng ta vì đã giữ cho chúng ta sống và cùng nhau trong một đức tin và vẫn ngày càng mạnh mẽ hơn.”
Kết thúc thông điệp, Đức cha cầu nguyện xin Chúa “ban cho thầy Naaman được sự phán xét nhân từ và phần thưởng vĩnh cửu."
Giáo Hội, hôn nhân, gia đình, cũng như xã hội nói chung đang trải qua một cuộc khủng hoảng với tỷ lệ nghiêm trọng. Nhiều người đang cảm thấy vô vọng. Tất cả mọi người sẽ đồng ý rằng điều tối cần thiết là hy vọng. Nhưng chúng ta phải đặt một cái gì đó dưới sự hy vọng của mình để biến nó thành hiện thực. Hy vọng chúng ta cần không phải là một mong muốn đơn thuần.
Nếu chúng ta hy vọng chiếc giày vừa vặn, trước tiên nên đo bàn chân. Nếu chúng ta hy vọng giảm cân thì nên ăn kiêng và tập thể dục. Hy vọng cần nền tảng. Vậy chúng ta nên làm gì để hy vọng của chúng ta trở thành hiện thực? Bài viết này trình bày năm lý do để hỗ trợ hy vọng đó.
Hơn 800 năm trước, một giáo dân nghèo đã cầu nguyện trong nhà thờ xứ bị đổ nát. Khi ngước nhìn Đức Kitô trên Thập Giá, ông thốt lên lời cầu này: “Lạy Thiên Chúa vĩ đại và vinh hiển, lạy Chúa Giêsu Kitô của con! Xin Ngài soi sáng cho con và giải trừ bóng tối trong tâm hồn con! Xin cho con đức tin thực sự, mục đích vững chắc và đức ái hoàn hảo. Lạy Chúa, xin ban cho con biết Chúa rõ ràng để con có thể hành động theo ánh sáng của Ngài và phù hợp với Thánh Ý Ngài trong mọi sự!”
Từ trên Thánh Giá, một giọng nói vang lên với anh ta: “Francesco, va e ripara la mia casa che, come vedi, e tutta in rovina.” [Phanxicô, hãy đi sửa lại ngôi nhà của Ta, vì như con có thể thấy, tất cả trong cảnh đổ nát.] Khi lời này, Phanxicô ngây ngất trong trạng thái xuất thần.
Sự trao đổi bằng lời nói này xuất xứ từ một nguồn đáng tin cậy, từ ngòi bút của Thánh Bonaventura (1221-1274), người đã viết cuốn “Cuộc Đời Phanxicô.” Theo thần học gia và triết gia vĩ đại dòng Phanxicô này, Chúa Kitô đã áp dụng những lời của Ngài cho nhiều điều khác hơn là nhà thờ đổ nát ở San Damiano, tức là cho Giáo Hội nói chung. Trong ngôn ngữ Ý, các chữ “casa” (ngôi nhà) và “chiesa” (nhà thờ) có cấu trúc tương tự nhau và gợi ý một sự thân thiết nhất định giữa ngôi nhà và nhà thờ. Thậm chí sự giống nhau đó còn rõ ràng hơn trong tiếng Latinh giữa các từ “ecclesiola” (nhà thờ nhỏ) và “Ecclesia” (Giáo Hội). Ngôi nhà, gia đình và Giáo Hội phải được hiệp nhất mật thiết với nhau để bất kỳ ai trong số họ đều có thể thịnh vượng.
Kinh nghiệm của Thánh Phanxicô Assisi trong nhà thờ tồi tàn đó cung cấp cho chúng ta 5 lý do để hy vọng.
1. Cuộc khủng hoảng hiện nay trong Giáo Hội không phải là duy nhất. Các cuộc khủng hoảng đã xảy ra trước đây nhưng Giáo Hội đã phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Kiến thức về lịch sử có thể là nguồn an ủi và động lực. Quan điểm có thể giúp đỡ để chúng ta không bỏ cuộc.
2. Thánh Phanxicô, còn gọi là “Poverello,” vì chấp nhận nghèo khó và là một giáo dân khiêm tốn. Vì vậy, chúng ta có thể nhìn đến giáo dân để đóng góp đáng kể vào việc xây dựng lại Giáo Hội, và chính Giáo Hội sẽ được đổi mới từ nền tảng. Giáo dân có thể chủ động, họ không cần phải đợi các giáo sĩ giao nhiệm vụ.
3. Rõ ràng trong lời Chúa nói với Phanxicô rằng Ngài muốn Giáo Hội của Ngài được sửa chữa. Phần còn lại của giải pháp nằm ở việc chúng ta tìm cách hợp tác với ân sủng của Thiên Chúa. Ngài nắm quyền và sẽ không để cho các tôi tớ trung thành của Ngài phải thất bại.
4. Chúa Giêsu nói với Phanxicô từ Thập Giá. Con đường đổi mới sẽ không dễ dàng, đòi hỏi nhiều hy sinh như Chúa Giêsu xác định: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Mt 7:13-14) Thập Giá đối lập trực tiếp với đường lối của thế gian.
5. Việc Phanxicô cầu xin Thiên Chúa ban đức tin, hy vọng và lòng bác ái cho thấy tầm quan trọng không chỉ của các nhân đức siêu nhiên này, mà còn cả các đức tính hằng ngày như lịch sự, khiết tịnh, từ bi, chăm sóc,... Khi chúng ta cư xử một cách đạo đức là chúng ta đang sống cuộc đời của Đức Kitô. Bằng cách noi gương Ngài, chúng ta cũng góp phần vào việc sửa chữa Giáo Hội của Ngài.
Như đã nói trên đây, 5 lý do này đều ủng hộ niềm hy vọng của chúng ta, cung cấp nền tảng cho sự hy vọng thực sự. Viễn cảnh, vai trò giáo dân, lời Chúa hứa hợp tác, đánh giá Con Đường Thập Giá, và sự sẵn lòng sống đạo đức của chúng ta, cung cấp những viên gạch vững chắc mở đường cho sự đổi mới của Giáo Hội hiện đang trải qua một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng.
Chúng ta có thể được khuyến khích và truyền cảm hứng bởi những lời nói và di sản của hai vị thánh Phan Sinh vĩ đại: Thánh Phanxicô Assisi và Thánh TS Bonaventura. Các ngài sống ở thế kỷ XIII, nhưng tấm gương của họ vẫn tiếp tục nuôi dưỡng chúng ta về mặt tinh thần và cung cấp niềm hy vọng cho chúng ta.
Ước gì chúng ta có thể cầu nguyện với lòng khiêm nhường chân thành như Thánh Phanxicô!
![image.png]()
![image.png]()
MỘT PHÚT SUY TƯ ...