Dịch Sai (9/3/2023)
Người ta thường nghĩ cứ đi du học Anh, Mỹ, Úc, vân vân, là nói đúng và viết đúng tiếng Anh, nhưng không phải thế. Lại càng không đúng khi cho
rằng cứ có bằng tiến sĩ là dịch đúng. Tôi đã làm nghề dịch thuật để kiếm sống trong 35 năm vừa qua, và rất đau lòng khi thấy các bản dịch chính thức của HĐGMVN, chuyển ngữ các tài liệu rất quan trọng của giáo hội như giáo luật, tông thư hay thông điệp của giáo hoàng, lại có quá nhiều lỗi sai dịch thuật sơ đẳng. Tôi đã nói nhiều về những lỗi sai này từ cách đây hơn 2 năm nhưng HĐGMVN chẳng thèm sửa mà còn tiếp tục cho ra những bản dịch sai nhiều như trước. Dưới đây tôi đăng lại một bài viết cũ đã đăng vào năm 2020: 527. Những Hạt Sạn Trong Bản Dịch Patris Corde Của HĐGMVN (18/12/2020)
Tông thư “Với Trái Tim Người Cha” của Đức Phan-xi-cô là một tông thư khá ngắn nhưng không hiểu sao bản dịch chính thức của HĐGM lại có nhiều hạt sạn to và nhỏ trong đó. Một điều ngạc nhiên nữa là Lm Lê Công Đức, ĐCV Huế, người thường dịch các tông thư, tông huấn, thông điệp của Đức Phan-xi-cô lại khen (trên Facebook của Cha) rằng đây là “một bản dịch tốt”? Liệu cha Đức có ý mỉa mai gì không? Sau đây là những hạt sạn tôi nhặt được, quá nhiều so với một bản văn ngắn như thế!
1. Câu “We know that Joseph was a lowly carpenter” được dịch là “Chúng ta biết rằng thánh Giuse là một người thợ mộc đơn sơ.” Từ “lowly” ở đây có nghĩa là “tầm thường” hay “thấp hèn” chứ không có nghĩa là “đơn sơ.”
2. Câu “Joseph had the courage to become the legal father of Jesus, to whom he gave the name revealed by the angel” được dịch là “Thánh Giuse đã can đảm trở thành người cha của Chúa Giêsu theo lề luật, Đấng mà ngài đã đặt cho cái tên được mặc khải qua sứ thần báo trước.” Ở đây ý “báo trước” được thêm vào chứ không có trong bản gốc la-tinh. Nên dịch là “Thánh Giuse đã can đảm trở thành người cha hợp pháp của Chúa Giêsu, Đấng ngài đã đặt cho cái tên được sứ thần mặc khải.”
3. Cụm từ “patron of a happy death” được dịch là ““bổn mạng kẻ mong sinh thì”. “Mong sinh thì” là cụm từ cổ có nghĩa là “muốn được chết,” và do đó không đúng nghĩa lắm. Nên dịch là “bổn mạng của kẻ chết trong niềm vui.”
4. Ở số 4, câu “Joseph appears as the figure of a respectful and sensitive man” được dịch là “Thánh Giuse trở thành hình ảnh của một người đàn ông biết tôn trọng và tinh tế.” Từ “appears as” có nghĩa là “trông như” chứ không phải “trở thành”, “sensitive” ở đây có nghĩa là “nhậy cảm” chứ không phải “tinh tế,” và “respectful” là “đáng tôn trọng” chứ không phải là “biết tôn trọng.” Do đó nên dịch là “Thánh Giuse trông như là hình tượng của một người đàn ông nhạy cảm và đáng tôn trọng.”
5. Ở số 4, “Often in life” được dịch là “Trong cuộc sống’ và thiếu nghĩa từ “often.” Nên dịch là “Thường trong cuộc sống.”
6. Ở số 4, cụm từ “mysterious as they seemed” được dịch là “dù các sự kiện ấy xem ra gây hoang mang.” Từ “mysterious” có nghĩa là “bí ẩn” hay “khó hiểu” chứ không có nghĩa là “gây hoang mang.”
7. Ở số 4, mệnh đề “who had urged him to rebel against the evil he endured” được dịch là “bà đã xúi giục ông phản kháng vì những điều ác mà ông phải gánh chịu.” Từ “urge” là “nài xin” chứ không phải là “xúi giục”; từ “against” là “chống lại” chứ không phải “vì”. Mệnh đề này nên dịch là “bà đã nài xin ông nổi lên chống lại cái ác mà ông đã chịu đựng.”
8. Ở số 4, cụm từ “in its mysterious and irreducible complexity” được dịch là “trong tính phức tạp bí ẩn và không thể giải thích của nó.” Từ “irreducible” có nghĩa là “không thể giản lược” chứ không có nghĩa là “không thể giải thích.”
9. Ở số 4, cụm từ “In this greater perspective” được dịch là “Theo góc nhìn rộng hơn này.” Từ “perspective” có nghĩa là “tầm nhìn” hay “cách nhìn” chứ không có nghĩa là “góc nhìn.”
10. Ở số 5, cụm từ “This emerges” được dịch là “Lòng can đảm này thể hiện.” Từ “emerges” có nghĩa là “phát sinh” chứ không có nghĩa là “thể hiện.”
11. Ở cuối số 5, cụm từ “Consequently, the Church cannot fail …” được dịch là “Và Hội Thánh không thể không …” Từ “consequently” có nghĩa là “do đó” chứ không có nghĩa là “và.”
12. Ở số 7, mệnh đề “It has no use for tyrants” được dịch là “Nó không chấp nhận những bạo chúa.” Trong tự điển Longman, kiểu nói “have no use for somebody or something” có nghĩa là “không tôn trọng ai hay cái gì” chứ không có nghĩa là “không chấp nhận.”
13. Ở số 7, câu “It rejects those who confuse authority with authoritarianism, service with servility, discussion with oppression, charity with a welfare mentality, power with destruction” được dịch là “Nó từ chối những người nhầm lẫn quyền hành với độc đoán, phục vụ với tùng phục, thảo luận với áp bức, bác ái với trợ giúp, sức mạnh với hủy diệt” Trong câu này, các cặp từ được dùng theo nghĩa hơi giống nhau nhưng hoàn toàn khác nhau, do đó từ “servility” nên dịch là “lệ thuộc,” cụm từ “a welfare mentality” nên dịch là “não trạng phúc lợi.”
14. Ở số 7, mệnh đề “When fathers refuse to live the lives of their children for them” được dịch là “Khi người cha từ bỏ cám dỗ sống cuộc sống của con cái mình.” Không có từ nào có nghĩa là “cám dỗ.” Nên dịch là “Khi người cha từ bỏ việc sống cuộc sống của con cái mình thay cho chúng.”
15. Lời kinh “Obtain for us grace, mercy and courage, and defend us from every evil” được dịch là “Xin ban cho chúng con ân sủng, lòng thương xót và lòng can đảm, và xin bảo vệ chúng con khỏi mọi sự dữ.” Cụm từ “Obtain for us” mang ý nghĩa “Xin ngài hãy cầu xin cho chúng con” chứ không phải “Xin ban cho chúng con” bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới ban ơn sủng. Dịch “Xin ban cho chúng con ân sủng” là sai tín lý; cũng như Đức Mẹ chỉ là “Mẹ Chúa Cứu Chuộc” chứ không thể “đồng công cứu chuộc.” Do đó nên dịch là “Xin ngài cầu xin Chúa ban cho chúng con ân sủng, lòng thương xót và lòng can đảm.”
Ghi chú: Quý vị thử vào trang mạng của HĐGMVN và tìm đọc bản dịch chính thức tông thư Patris Corde xem có sửa gì không.