Các giai đoạn của Năm Thánh
Năm 2025, về cơ bản, sẽ được đánh dấu bằng các giai đoạn khác nhau của Năm Thánh: bắt đầu vào ngày 24/12/2024 với việc Đức Thánh Cha Phanxicô mở Cửa Thánh tại Đền thờ Thánh Phêrô, và sau đó Cửa Thánh tại nhà tù Rebibbia, ngày 26/12. Các Cửa Thánh còn lại được mở trong Năm Thánh 2025 là tại 3 Đền thờ Giáo hoàng khác ở Roma: Đền thờ Thánh Gioan Laterano, vào ngày 29/12/2024; Đền thờ Đức Bà Cả vào ngày 01/01/2025, và Đền thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành vào Chúa nhật ngày 05/01/2025.
Những sự kiện lớn trong năm 2025 là Năm Thánh Thế giới Truyền thông (24-26/1/2025); Năm Thánh của Lực lượng Vũ trang, Cảnh sát và An ninh (8-9/2); Năm Thánh của nghệ sĩ (15-18/02); Năm Thánh Phó tế (21-23/2); Năm Thánh Tình nguyện viên (8-9/3).
Bên cạnh đó cũng có Năm Thánh các Thừa sai Lòng Thương Xót (28-30/3); Năm Thánh Bệnh nhân và Lĩnh vực Y tế (5-6/4); Năm Thánh Thanh thiếu niên (25-27/4); Năm Thánh Người Khuyết tật (28-29/4); Năm Thánh Công nhân (1-4/5); Năm Thánh Doanh nhân (4-5/5); Năm Thánh các Ban nhạc (10-11/5); Năm Thánh của các Giáo hội Đông phương (12-14/5).
Tiếp đến sẽ là Năm Thánh của các Huynh đoàn, được tổ chức từ 16-18/5; Năm Thánh Gia đình, Trẻ em, Ông bà và Người cao tuổi (30/5-1/6); Năm Thánh của các Phong trào, Hiệp hội và Cộng đoàn mới (7-8/6).
Trong số các sự kiện, sẽ có Năm Thánh của Tòa Thánh (9/6); Năm Thánh của Giới Thể thao (14-15/6); Năm Thánh của Chính phủ (20-22/6); Năm Thánh của các chủng sinh (23-24/6); Năm Thánh của các Giám mục (25/6); Năm Thánh của các Linh mục (25-27/6); Năm Thánh các nhà truyền giáo kỹ thuật số và những người Công giáo có ảnh hưởng (28-29/7); Năm Thánh giới trẻ (28/7-3/8); Năm Thánh An Ủi (15/9), nhắm đến tất cả những người đang trải qua thời kỳ đau đớn và phiền muộn vì bệnh tật, tang chế, bạo lực và lạm dụng.
Cuối cùng sẽ là Năm Thánh của ngành Công lý (20/9); Năm Thánh Giáo lý viên (26-28/9); Năm Thánh Thế giới Truyền giáo (4-5/10); Năm Thánh Người Di cư (4-5/10); Năm Thánh Đời sống Thánh hiến (8-9/10); Năm Thánh Linh đạo Thánh Mẫu (11-12/10); Năm Thánh Thế giới Giáo dục (31/10-2/11); Năm Thánh Người nghèo (16/11); Năm Thánh các Ca đoàn và Hợp xướng (21-23/11); và Năm Thánh của các Tù nhân (14/12).
Trong số những ngày quan trọng liên quan đến Năm Thánh, đã có ngày ấn định cho hai lễ phong thánh: lễ phong thánh cho Chân phước Carlo Acutis, sẽ diễn ra vào ngày 27/4, Năm Thánh Thanh Thiếu Niên; và lễ phong thánh cho Chân phước Pier Giorgio Frassati, sẽ được cử hành vào ngày 03/8, Năm Thánh Giới Trẻ.
Năm Thánh sẽ kết thúc vào ngày 6/01/2026, lễ Hiển Linh. Dự kiến có 34 triệu du khách sẽ đến Roma trong Năm Thánh này.
Cuốn tự truyện mới của Đức Thánh Cha Phanxicô
Chưa đầy một năm sau khi xuất bản cuốn tự truyện “Cuộc đời: Câu chuyện của tôi qua lịch sử”, cuốn sách mới dày 400 trang tựa đề “Hy vọng”, nói về cuộc đời Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ được ra mắt vào ngày 14/01/2025 bởi khoảng 10 nhà xuất bản, trong đó có cả nhà xuất bản Albin Michel ở Pháp.
Nhà xuất bản Random House cho biết, theo kế hoạch ban đầu thì sách sẽ chỉ được phát hành sau khi Đức Thánh Cha qua đời. Tuy nhiên, nghĩ đến ích lợi cho mọi người, ngài đã quyết định xuất bản trong Năm Thánh Hy vọng 2025.
Trong đoạn trích đầu tiên, được báo “Người đưa tin chiều” của Ý công bố vào ngày 17/12/2024, Đức Thánh Cha tiết lộ chi tiết về hai vụ mưu sát mà ngài đã thoát khỏi trong chuyến viếng thăm Iraq vào năm 2021.
Một Lễ Phục Sinh chung
Năm 2025 này sẽ có tính biểu tượng đại kết mạnh mẽ, với việc cử hành chung Lễ Phục sinh vào cùng ngày 20/4, thông qua sự thống nhất giữa lịch Giulianô (được Chính thống giáo và các Giáo hội Đông phương sử dụng) và lịch Grêgôrianô (được Công giáo Latinh và các hệ phái Kitô khác sử dụng).
Trong buổi tiếp kiến với nhóm làm việc liên tôn “Pasqua Together 2025-Phục sinh cùng nhau 2025” tại Vatican vào tháng 9/2024, Đức Thánh Cha giải thích sáng kiến về ngày lễ này là điều cần thiết cho sự đáng tin cậy của chứng tá Kitô giáo.
Ngài nhấn mạnh: “Trong nhiều dịp, tôi đã nhận được lời kêu gọi tìm kiếm một giải pháp cho vấn đề thống nhất ngày lễ Phục sinh, để việc cử hành chung ngày Chúa sống lại không còn là một luật trừ nữa, nhưng trở thành điều bình thường”.
Một chuyến tông du có thể đến Thổ Nhĩ Kỳ vào tháng 5
Một tháng sau lễ Phục sinh năm 2025, Đức Thánh Cha có thể đặt nền móng mới để tăng cường mối quan hệ giữa Chính thống giáo và Công giáo trong chuyến tông du đến Nixêa, nay là thành phố Iznich, ở phía bắc Thổ Nhĩ Kỳ. Ngài có thể thực hiện chuyến đi này với Đức Thượng Phụ Bartolomeo I vào cuối tháng 5, nhân dịp kỷ niệm 1700 năm Công đồng được tổ chức tại thành phố này, công đồng đặc biệt dẫn đến việc xác định Kinh Tin Kính. Trong một lá thư gửi Thượng phụ Constantinople vào ngày 30/11/2024, Đức Thánh Cha cho biết việc chuẩn bị cho một cuộc gặp có thể đã bắt đầu.
Hiện tại, không có chuyến đi nào khác trong chương trình nghị sự, vì sức khỏe của Đức Thánh Cha và lịch trình bận rộn của Năm Thánh dường như thu hẹp các khả năng của các chuyến viếng thăm. Những kế hoạch còn lại được đề cập thường xuyên là việc Đức Thánh Cha về thăm quê hương Argentina của ngài, có thể kết hợp với các điểm dừng ở Quần đảo Canary và Uruguay.
Chuyến đi tới Ấn Độ dự kiến vào năm 2026 vẫn đang được nghiên cứu. Ở châu Âu, Serbia và Kosovo có thể là những điểm đến phù hợp với mong muốn của Đức Thánh Cha là bày tỏ sự ưu ái các quốc gia mà chưa một vị tiền nhiệm nào của ngài từng đến thăm. Việc bổ nhiệm một Hồng y gần đây ở Belgrade có thể cho thấy một dấu hiệu về mặt này.
Tiếp tục tiến trình hiệp hành
Phiên họp thứ hai của Thượng Hội đồng về Hiệp hành, quá trình suy tư rộng lớn bắt đầu vào năm 2021 nhằm làm cho Giáo hội Công giáo trở nên toàn diện hơn, có tính tham gia nhiều hơn và ít tính giáo sĩ hơn, đã chính thức kết thúc vào ngày 27/10/2024. Nhưng trên thực tế, công việc vẫn đang diễn ra.
Một mặt, 10 nhóm làm việc do Đức Thánh Cha thành lập để nghiên cứu một số vấn đề nhạy cảm – lãnh đạo chung, cải cách chủng viện, phó tế phụ nữ, v.v. – phải đưa ra kết luận vào tháng 6/2025. Mặt khác, Tài liệu chung kết của Thượng Hội đồng, mà Đức Thánh Cha đã ký, đưa ra những hướng dẫn cụ thể cho các giáo phận về việc trao quyền cho giáo dân. Cả một chương trình chỉ mới bắt đầu.
Phiên tòa phúc thẩm tòa nhà Luân Đôn
Sau 86 phiên xét xử, ngày 16/12/2023, phiên toà tại Vatican do thẩm phán Giuseppe Pignatone chủ trì đã tuyên phạt 10 bị cáo liên quan đến việc Phủ Quốc vụ khanh Toà Thánh mua toà nhà ở số 60 Đại lộ Sloane ở Luân Đôn trong các giai đoạn giữa năm 2014 và 2018 từ doanh nhân người Ý Raffaele Mincione, người vào thời điểm đó đang quản lý hàng trăm triệu euro thuộc các quỹ của Phủ Quốc vụ khanh Toà Thánh.
Toà cho rằng các bị cáo đã phạm tội tham ô trong việc sử dụng bất hợp pháp, vi phạm các luật về quản lý tài sản của Giáo hội, với tổng số tiền là hơn 200 triệu đô-la Mỹ, tương đương với khoảng một phần ba số tiền mà Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh có thời đó. Số tiền này được thanh toán từ năm 2013 đến 2014, theo quyết định của Đức Tổng giám mục Phụ tá Quốc vụ khanh Tòa Thánh bấy giờ là Angelo Becciu.
Với các tội phạm này, toà đã tuyên án các bị cáo, từ phạt hành chính đến hình sự, đến hơn 7 năm tù. Tòa án cũng ra lệnh tịch thu số tiền 166 triệu euro từ những người bị kết án và yêu cầu họ bồi thường cho các bên dân sự số tiền hơn 200 triệu euro.
Tòa án nhìn nhận tội trạng của Đức Hồng Y Becciu và ông Raffaele Mincione đã liên hệ trực tiếp với Phủ Quốc vụ khanh để được khoản thanh toán, cả khi không có những điều kiện dự kiến xảy ra, lạm dụng chức vụ và xúi giục các nhân chứng vi phạm trách nhiệm. Với tội phạm này, Đức Hồng Y Becciu bị tuyên án với mức 5 năm 6 tháng tù giam, 8.000 euro tiền phạt và cấm vĩnh viễn không được đảm nhận các chức vụ công quyền.
Phần thứ hai của vụ việc dự kiến sẽ bắt đầu vào năm 2025, nhưng vẫn chưa ấn định ngày nào. Người kế nhiệm Chủ tịch Tòa án Vatican, ông Giuseppe Pignatone, người đã nghỉ hưu vì lý do tuổi tác, sẽ phải phụ trách vụ việc.
Hướng tới việc bổ nhiệm nữ Tổng trưởng đầu tiên?
Đức Thánh Cha Phanxicô vẫn chưa thực hiện lời hứa mà ngài đã đưa ra vào cuối năm 2022: “trong vòng hai năm” đưa một phụ nữ lên làm Tổng trưởng của một Bộ của Toà Thánh. Trong một cuộc phỏng vấn gần đây với “Canal Orbe 21” đài truyền hình Công giáo Argentina, Đức Thánh Cha nhắc lại ý định này, đồng thời bày tỏ mong muốn “ngày càng có nhiều phụ nữ” tham gia Giáo triều Roma. Dù lần này ngài không cho biết ngày cụ thể nhưng việc bổ nhiệm “nữ Tổng trưởng” có thể sẽ diễn ra trong thời gian ngắn.
Trong trường hợp này, một số người đang nghĩ đến một trong hai người, đó là Phó Tổng Thứ ký Bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống, bà Gabriella Gambino hoặc Tổng Thư ký Bộ tu sĩ, Sơ Simona Brambilla.
Kỷ niệm Công đồng Vatican II và ngày qua đời của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II
Ngày 02/4/2025 sẽ đánh dấu 20 năm ngày qua đời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Mặc dù hiện tại cả Vatican lẫn cộng đoàn Ba Lan ở Roma đều chưa công bố một chương trình sự kiện chính xác, nhưng vào ngày đó, dự kiến sẽ có một số cử hành. Lễ kỷ niệm này có lẽ sẽ là một trong những cử hành cuối cùng diễn ra với sự hiện diện của những cộng tác viên thân cận của Đức Giáo Hoàng người Ba Lan.
Một cử hành quan trọng khác sẽ là kỷ niệm 60 năm kết thúc Công đồng Vatican II, vào ngày 08/12/2025. Trong số các giám mục trực tiếp tham gia Công đồng, chỉ có ba vị còn sống đến ngày nay, trong số đó có Đức Hồng Y người Nigeria Francis Arinze, 92 tuổi, vẫn là một nhân vật năng động và được kính trọng trong số các hồng y sống ở Roma. Được bổ nhiệm làm giám mục phụ tá của Onitsha vào tháng 8/1965, ở tuổi 32, Đức Hồng Y đã tham gia phiên họp cuối cùng của Công đồng.
Theo Sắc chỉ Công bố Năm Thánh được Đức Thánh Cha ban hành vào ngày 9/5/2024, và được nhắc lại trong một thông cáo của Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc vào ngày 1/8/2024, Cửa Thánh là Cửa được Đức Thánh Cha thiết lập cụ thể thuộc những đền thờ được chỉ định. Cụ thể, ngoài Cửa Thánh Đền thờ Thánh Phêrô được Đức Thánh Cha mở vào lễ đêm Giáng Sinh, các Cửa Thánh còn lại được mở trong Năm Thánh 2025 là tại 3 Đền thờ Giáo hoàng khác ở Roma: Đền thờ Thánh Gioan Laterano, vào ngày 29/12/2024; Đền thờ Đức Bà Cả vào ngày 1/1/2025, và Đền thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành vào Chúa Nhật ngày 5/1/2025. Ngoài ra, theo ý Đức Thánh Cha, một Cửa Thánh đã được mở tại nhà tù Rebibbia ở Roma vào ngày 26/12/2024 để trao cho các tù nhân một dấu hiệu gần gũi cụ thể.
Đức Hồng y Reina, Đại diện của Đức Thánh Cha cai quản giáo phận Roma, đã mở Cửa Thánh nhà thờ Chính tòa của Đức Thánh Cha. Cử hành này cũng đánh dấu việc khai mạc Năm Thánh tại tất cả các giáo phận trên toàn thế giới.
Thị trưởng Roma cũng tham dự Thánh lễ. Ông đã khánh thành quảng trường trước Đền thờ Thánh Gioan Laterano và khu vực đối diện với Cầu Thang Thánh, những công trình được trùng tu chuẩn bị cho Năm Thánh.
Hiệp thông với Đức Thánh Cha tại nhà thờ chính tòa của ngài
Khi mở Cửa Thánh, Đức Hồng y Reina nguyện xin cho tất cả những ai đi qua Cửa đều được ân sủng của Thiên Chúa đồng hành. Trong sự hiệp thông với Đức Thánh Cha, tại Nhà thờ Chính tòa của ngài, các tín hữu được mời gọi cùng nhau cầu nguyện và được đảm bảo về sự hỗ trợ thiêng liêng và niềm vui của ngài.
Gần gũi với những người đau khổ
Trong bài giảng, Đức Hồng y Giám quản Roma đặc biệt nhớ đến “những người cảm thấy xa cách và không xứng đáng” và những người mang “gánh nặng của sự cay đắng sâu sắc” trong lòng. Ngài nhớ đến những người bệnh, tù nhân, những người bị đè nặng bởi nỗi đau, sự cô đơn, nghèo đói và khó khăn. Ngài đã động viên họ khi nói rằng đừng để ai cảm thấy bị bỏ rơi “do chán nản hoặc thiếu ý nghĩa”, những người đã mất hy vọng hoặc đã ngừng tìm kiếm vòng tay của Chúa Cha. Và “trong thế giới này bị chiến tranh, bất hòa và bất bình đẳng xé nát, chúng ta hãy mở rộng vòng tay chào đón mọi người”.
Đón Chúa vào tâm hồn và vào nhà
Đức Hồng y Reina nói rằng Thánh Gia Nazareth là “hình mẫu của mọi cộng đoàn gia đình và là tấm gương phản chiếu sự hiệp thông Ba Ngôi”. Ngài mời gọi mọi người nhận ra mình là một phần của gia đình Thiên Chúa, được kêu gọi phát triển trong sự hiệp nhất và bác ái lẫn nhau. Ngài nói tiếp: “Cửa Thánh mà chúng ta bước qua gợi lên cử chỉ hàng ngày mà chúng ta thực hiện khi bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà của mình. Cánh cửa này, giờ đây đã rộng mở, đã giới thiệu chúng ta không chỉ đến ngôi nhà của Chúa mà còn đến tận sâu thẳm trái tim Người”.
Ơn làm con cái Chúa
Trong bài giảng, Đức Hồng y cũng mời gọi khám phá lại ý nghĩa của việc sống như con cái Thiên Chúa, đồng thời nhấn mạnh rằng nhận thức của con người về tình phụ tử của Thiên Chúa thường bị bóp méo như thế nào. Mối quan hệ mà Chúa muốn thiết lập là mối quan hệ trong đó “làm con không phải là điều kiện để được điều gì hay xứng đáng, mà là một món quà”.
Vòng tay rộng mở của Chúa Cha là Cửa Thánh
Ngài nhấn mạnh rằng vòng tay rộng mở của Chúa Cha, không chút e dè, đầy sự dịu dàng, lòng trắc ẩn và “niềm hy vọng không lay chuyển” có thể khôi phục lại phẩm giá của chúng ta. Một lần nữa, xét theo câu chuyện về hai người con trong Dụ ngôn Người con hoang đàng, ngài đã nhận xét với sự an ủi lớn lao: “Vòng tay rộng mở đó chính là Cửa Thánh. Không quan trọng chúng ta đã đi lạc xa đến đâu, không quan trọng chúng ta đã làm gì, lãng phí hay hủy hoại điều gì. Khoảnh khắc chúng ta quyết định quay về với Chúa, chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy một cánh cửa đóng kín, mà là một vòng tay chào đón và chúc lành cho chúng ta”.
Ngài nói tiếp: “Từ vòng tay rộng mở đó, chúng ta học cách trở thành Giáo hội, trở thành bí tích của Giáo hội, trở thành gia đình của Thiên Chúa, Đấng dẫn đưa tự do của chúng ta hướng đến điều thiện”. Vì vậy, ngài khuyến khích mọi người bước qua Cửa Thánh với lòng tin tưởng, để nếm trải và chiêm nghiệm lòng nhân từ của Chúa, để trải nghiệm niềm vui của Người và trở thành “những người không biết mệt mỏi gieo rắc hy vọng và xây dựng tình huynh đệ” trên thế giới của chúng ta.
Mang Chúa vào gia đình, vào các tương quan
Kết thúc bài giảng, Đức Hồng y Reina mời gọi các tín hữu “khi bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà của mình, chúng ta cố gắng mang Chúa vào gia đình, vào các mối quan hệ hàng ngày, vào mối quan hệ với con cái, vào các mối quan hệ hôn nhân, trong sự quan tâm và chăm sóc người già”.
Ngài cầu mong rằng “chứng tá của chúng ta, giống như chứng tá của Đức Maria và Thánh Giuse, trở nên sáng ngời và sinh hoa trái, để mọi cánh cửa đóng kín đều trở thành cánh cửa mở và mọi trái tim xa xôi đều tìm được đường về nhà Chúa Cha”.
Cửa Thánh được mở ra giữa tiếng vang của quả chuông “Người Lạc đường”. Chuông này được đưa đến tháp chuông mới của Đền thờ Đức Bà Cả vào năm 1376, điểm cao nhất của trung tâm Roma, và được đặt tại đây cho đến năm 1884. Khi chuông bị nứt và được gỡ xuống và đưa đến Bảo tàng Vatican. Chuông được gióng lên vào lúc 9 giờ tối để nhắc nhớ câu chuyện về người hành hương bị lạc trong đêm và nhờ tiếng chuông đã tìm được đường trở lại thành phố. Từ nay trở đi, câu chuyện về “Người Lạc Đường” sẽ không chỉ đề cập đến người hành hương trẻ tuổi mà còn đề cập đến chính chiếc chuông lịch sử đã quay trở lại Đền thờ sau 140 năm.
Trong bài giảng, Đức Hồng y đã liên kết ý nghĩa của những thánh tích quý giá được lưu kính tại Đền thờ Đức Bà Cả với ý nghĩa của Năm Thánh. Ngài cũng nhắc rằng "Không phải những ý tưởng hay công nghệ sẽ mang lại cho chúng ta niềm an ủi và hy vọng, mà là khuôn mặt của Mẹ Thiên Chúa".
Trước tiên là chuông “Người Lạc Đường”. Đức Hồng y nói rằng tiếng chuông “Người Lạc Đường” là tiếng Mẹ Thiên Chúa gọi chúng ta. Ngài nói: "Từ đỉnh đồi Esquilino, điểm cao nhất của trung tâm Roma, kể từ Năm Thánh đầu tiên của Giáo hội, tiếng chuông tiếp tục tỏa lan âm thanh của nó khắp Kinh thành muôn thưở, mang đến niềm an ủi cho mọi người hành hương".
Ngài giải thích rằng âm thanh của chiếc chuông này không chỉ đánh dấu giờ và giờ cầu nguyện, mà còn biến thành âm thanh hình ảnh truyền thống được gán cho Đức Maria, hình ảnh người hướng dẫn và biển chỉ dẫn, Stella Maris (Sao Biển), soi sáng con đường trong đêm tối".
Ngài nói tiếp: "Không chỉ âm thanh của chuông "của kẻ lạc lối" mà cả những lời của Tông Đồ Phaolô: 'Khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con của Người sinh ra bởi một người phụ nữ' (Gl 4,4), hôm nay soi sáng và hướng dẫn suy tư của chúng ta trong Thánh lễ trọng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa và trong hoàn cảnh đặc biệt của việc mở Cửa Thánh của Đền thờ Giáo hoàng này".
“Thời gian viên mãn”, Đức Hồng y giải thích, là "khi Thiên Chúa trở thành con người và nhập thể trong lòng một người phụ nữ là Đức Maria. Mẹ là con đường Chúa đã chọn; Mẹ là điểm đến của nhiều người và nhiều thế hệ đã chuẩn bị cho việc Chúa đến trong thế giới". Do đó, "Thời gian đạt được sự viên mãn khi nó được kết hợp với vĩnh cửu, nghĩa là với thời gian vô tận của Thiên Chúa".
Đức Hồng y lưu ý rằng thời gian do Chúa tạo dựng. Con người thường muốn gia tăng hoặc hoàn thiện thời gian theo những cách khác nhau bằng các công nghệ mới, nhưng mọi nỗ lực đều kết thúc bằng sự mất mát hoặc theo cách mà chúng ta có thể định nghĩa là "sự mệt mỏi về thời gian". Ngài đưa ra ví dụ về computer hoặc điện thoại di động: được thiết kế để tiết kiệm và làm phong phú thêm thời gian, nhưng chúng thường trở thành kẻ thù tồi tệ nhất của thời gian.
Tuy nhiên, Đức Hồng y nhấn mạnh, "con người không bao giờ có thể cảm thấy lạc lõng, lạc hướng hay mệt mỏi bởi thời gian dành cho Chúa. Đức Trinh Nữ Maria là tâm điểm của thời gian này: Thiên Chúa vui lòng thay đổi lịch sử và thời đại của chúng ta qua Mẹ, Người Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội của dân được tuyển chọn".
** Tiếp tục bài giảng, Đức Hồng y suy tư về bức ảnh Đức Maria là Phần rỗi của dân thành Roma và nói rằng Mẹ nhận biết các thời gian và sự khẩn cấp của các con của Mẹ. Ngày lễ hôm nay các tín hữu đặc biệt tôn vinh bức ảnh được tôn kính trong Đền thờ. Đây cũng là lòng sùng kính của người Roma và của các tín hữu trên thế giới đối với Đức Mẹ. Đức Hồng y nhắc lại lời của Đức Thánh Cha khi cử hành Thánh lễ tại Đền thờ cách đây 7 năm.
“…Mẹ bảo vệ đức tin, bảo vệ các tương quan, cứu giúp khi thời tiết xấu và bảo vệ khỏi sự dữ. Nơi có Đức Mẹ, ma quỷ không vào. Ở đâu có Mẹ, rối loạn không thắng thế, sợ hãi không thống trị. Ai trong chúng ta không cần điều này, ai trong chúng ta không đôi khi bối rối hay bồn chồn?"
"Biết bao lần trái tim là biển giông bão, nơi những làn sóng khó khăn chồng lên nhau và những cơn gió lo âu không ngừng thổi! Đức Maria là chiếc tàu an toàn giữa đại lụt. Không phải những ý tưởng hay công nghệ sẽ mang lại cho chúng ta niềm an ủi và hy vọng, mà là khuôn mặt của Mẹ Thiên Chúa”.
"Bàn tay của Mẹ Maria vuốt ve cuộc đời chúng ta, áo choàng của Mẹ che chở chúng ta, cũng như Mẹ bảo vệ chúng ta trong vòng tay của Mẹ - vòng tay của một người trong chúng ta! - Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ".
Đức Hồng y nói rằng các tín hữu hành hương bước qua Cửa Thánh của Đền thờ Đức Bà Cả trong Năm Thánh và cầu nguyện trước Linh ảnh Mẹ Thiên Chúa và trước Nôi Thánh Chúa Giêsu sẽ có ảm giác và sự chắc chắn rằng Mẹ Thiên Quốc đang ở bên mình. Mọi người sẽ bắt đầu từ đây với sự chắc chắn rằng mình được ân sủng, sự bảo vệ, chăm sóc và dịu hiền mẫu tử của Đức Maria đồng hành.
Ngài nhấn mạnh rằng việc chúng ta đến với Mẹ sẽ trở thành việc Mẹ đi đến với chúng ta và ở với chúng ta. "Như Mẹ đã đi theo Chúa Giêsu Con của Mẹ - từ khi sinh ra cho đến khi chết, trong những lúc vui tươi cũng như trong những giờ phút đau đớn đen tối - Mẹ, với tư cách là một Người Mẹ, đồng hành cùng toàn thể Giáo Hội và mỗi tín hữu hướng tới Con của Mẹ. Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta, Mẹ là người quyết định trong thời viên mãn, Mẹ cũng là người quyết định đối với cuộc sống của mọi Kitô hữu. Bởi vì không ai biết rõ thời gian và sự cấp bách của con cái mình hơn Mẹ".
** Cuối cùng, Đức Hồng y nói đến Chiếc Nôi Thánh được lưu kính tại Đền thờ Đức Bà Cả, một chứng nhân thầm lặng về việc Chúa Giêsu giáng sinh.
Đền thờ Đức Bà Cả còn được gọi là Bêlem của phương Tây, bởi vì nơi đây có lưu kính thánh tích Nôi Thánh, ngôi nhà khiêm nhường và nghèo khó đầu tiên của Chúa Giêsu. Đức Hồng y lưu ý rằng từ chứng nhân âm thầm về sự giáng sinh của Con Thiên Chúa, nhân loại đã bắt đầu đếm những năm của kỷ nguyên Kitô giáo: "thời gian của chúng ta được xác định chính xác bắt đầu từ Cái nôi đó!".
Ngài nhắc lại rằng những người hành hương Kitô giáo đầu tiên đến máng cỏ của Chúa Giêsu là các mục đồng. Các mục đồng, trong đêm thánh đó, mang theo cốt lõi của Kitô giáo: lên đường gặp Chúa, đi theo ngôi sao của Người.
Đền thánh Đức Bà Cả cổ kính này nằm ở trung tâm Roma, ngay trung tâm của một con đường có cấu trúc hình ngôi sao gợi nhớ đến Ngôi sao Bêlem. Theo Đức Hồng y, ngôi sao này gói gọn một cách hoàn hảo sứ mạng của Đền thờ: trở thành một ngôi sao sáng, phục vụ Ánh sáng Chân thật, biểu thị Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa thật và là người thật, được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria. Do đó, từ 1.600 năm qua, Đền thờ này đã như ngôi sao Bêlem, nơi truyền bá lời loan báo của thiên thần gửi đến các mục đồng: đừng sợ hãi, nhưng lên đường đến với Chúa.
Kết thúc bài giảng, Đức Hồng y mời gọi cộng đoàn cầu xin "ân sủng để Năm Thánh này thúc đẩy chúng ta bước về phía Chúa với mối quan tâm đích thực và chân thành đối với những người thân yêu của chúng ta, đối với người nghèo, người bệnh, đối với những người đã mất đi con đường chân lý, niềm vui và của hòa bình".
Bởi vì "Tất cả chúng ta đều được mời gọi đến với cùng niềm hy vọng này, không có sự phân biệt. Tất cả chúng ta đều có thể bước đi trên con đường hy vọng vui tươi này. Mọi người! Và Mẹ Maria ở bên cạnh tất cả mọi người, không có ngoại lệ. Giống như một người mẹ, Mẹ yêu thương tất cả các con và luôn chăm sóc tất cả".
Và Đức Hồng y mời gọi cộng đoàn đón nhận lời Đức Thánh Cha, trong Sắc chỉ công bố Năm Thánh Spes non confundit, "mời gọi những người hành hương đến Roma hãy dừng lại cầu nguyện tại các đền thánh Đức Mẹ của thành phố để tôn kính Đức Trinh Nữ Maria và cầu xin sự bảo vệ của Mẹ". Đức Thánh Cha viết: "Tôi tin tưởng rằng tất cả mọi người, đặc biệt là những người đau khổ và sầu khổ, sẽ có thể cảm nghiệm được sự gần gũi nhất trìu mến nhất của những người mẹ, những người không bao giờ bỏ rơi con cái mình. Đối với Dân thánh của Thiên Chúa, Mẹ là 'dấu hiệu của niềm hy vọng chắc chắn và niềm an ủi' (Niềm Hy vọng không làm thất vọng, số 24)”.
Và Đức Hồng y kết thúc với lời mời gọi: "Hôm nay, vào đầu Năm Thánh, chúng ta hãy phó thác cuộc đời, thời gian của chúng ta cho Mẹ Thiên Chúa, để Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu: thời gian viên mãn, của mọi thời gian, của thời gian của mỗi người chúng ta. Amen".
Trong bài giảng thánh lễ, Đức Hồng y Pizzaballa nhìn nhận rằng: các con tin, những vụ sát hại, những người tị nạn, trước những thực tại đó, thật là khó tin một sự chấm dứt bạo lực tại Thánh địa. Dầu vậy, chúng ta không thể từ bỏ hy vọng: hy vọng là sức mạnh lôi kéo và là nền tảng của mọi sáng kiến. Vì nếu “không có tin tưởng chúng ta sẽ thành công thì chúng ta sẽ không dấn thân vào công việc. Cả sự tin tưởng cũng cần có hy vọng nơi Thiên Chúa và cần phải có sự kiên nhẫn”.
Đức Hồng y nhìn nhận rằng trong thời đại khó khăn vì chiến tranh, oán ghét và bạo lực, thật là khó nói về hy vọng và tin nơi hy vọng, nhất là quanh chúng ta người ta chỉ nói về chiến tranh, bạo lực, nghèo đói và cuộc sống khó khăn và cam go.
Đức Hồng y Pizzaballa cũng nhận định rằng trong việc tin nơi Thiên Chúa, vấn đề không phải là tin nhận trọn vẹn những điều phải tin, nhưng là nhìn nhận sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống của mỗi người chúng ta. Ngoài ra, tin nơi Thiên Chúa không có nghĩa là tin tương nơi hoạt động và khả năng của mình, nhưng có nghĩa là chia sẻ cuộc sống và đam mê của bạn với Chúa và tín thác nơi Ngài”.
Mặt khác, trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Sir của Hội đồng Giám mục Ý, truyền đi ngày 29 tháng Mười Hai vừa qua, cha Francesco Patton, Bề trên Dòng Phanxicô tại Thánh địa, cho biết theo sắc lệnh của Tòa Ân giải tối cao, ngày 13 tháng Năm năm nay, Đức Thánh cha ban ơn toàn xá cho các tín hữu nào viếng một trong ba Vương cung thánh đường ở Thánh địa, là Đền thờ Thánh Mộ ở Jerusalem, Đền thờ Truyền tin ở Nazareth, và Đền thờ Chúa Giáng sinh ở Bethlehem. Các tín hữu hành hương nào sốt sắng tham dự thánh lễ, hoặc phụng vụ Lời Chúa hay Phụng vụ Các Giờ kinh, đi Đàng Thánh Giá, lần hạt Mân côi, hát thánh ca Akathistos kính Đức Mẹ, hay nghi thức thống hối với phần xưng tội riêng, thì được ơn toàn xá.
Sau cùng, cha Patton cho biết cũng sẽ có một đoàn tín hữu từ Thánh địa đến hành hương tại Roma trong Năm Thánh 2025 này.
Chiến dịch do Hội Giáo hoàng Nhi đồng Truyền giáo hay cũng gọi là Hội Thánh nhi đề xướng và cổ võ, với sự tham dự của khoảng nửa triệu em tại Đức và tám mươi lăm ngàn em tại Áo. Khẩu hiệu chiến dịch năm nay là: “Các bạn hãy lên tiếng”, nhắm đến “các quyền của trẻ em”, nhấn mạnh điều này là tất cả mọi người đều là con cái được Thiên Chúa yêu thương và có quyền được một đời sống xứng đáng. Chiến dịch khuyến khích các trẻ em và người trẻ cùng nhau dấn thân với các bạn trẻ đồng lứa ở mọi đại lục, để đảm bảo sao cho các quyền của trẻ em được nhìn nhận, bảo đảm và bảo vệ.
Năm 1989, Liên Hiệp Quốc đã thông qua Hiến chương về các Quyền trẻ em. Nhưng hiện nay các trẻ em vẫn ở trong tình trạng khó khăn: 250 triệu em, nhất là các trẻ nữ không được cắp sách đến trường. 160 triệu trẻ em nam nữ bị bó buộc phải lao động, và một nửa trong số các em vừa nói bị bó buộc phải làm việc như nô lệ và bị bóc lột. Một phần tư trẻ em trên thế giới bị suy dinh dưỡng. Hơn 43 triệu trẻ em và thiếu niên là những người tị nạn và tản cư.
Chiến dịch Lễ Ba Vua tại Đức đã được phát động từ năm 1959 và dần dần trở thành một chiến dịch liên đới lớn nhất trên thế giới do các trẻ em và nhắm giúp các trẻ em tại Á, Phi, Mỹ Latinh, Úc châu và Đông âu.
Ngày lễ Hiển Linh, mùng 06 tháng Giêng năm 2025 tới đây, trong thánh lễ Đức Thánh cha Phanxicô cử hành tại Đền thờ thánh Phêrô thường sẽ có hai mươi mốt Ca viên Ngôi sao đến từ Áo, Thụy sĩ, Ý, Slovak, Rumani.
Tại Áo, thứ Sáu, ngày 27 tháng Mười Hai vừa qua, một nhóm Ca viên ngôi sao đã được Đức Hồng y Christoph Schönborn, Dòng Đa Minh, Tổng giám mục Giáo phận thủ đô Vienne, tiếp kiến. Sau đó, thứ Hai, ngày 30 tháng Mười Hai, các em sẽ được Tổng thống Alexander Van der Bellen tiếp đón tại phủ Tổng thống. Cùng ngày thứ Hai, một nhóm các em sẽ được bà Bộ trưởng Quốc phòng và Đức Tổng giám mục Werner Freisteller, Giám mục Giáo hạt quân đội Áo đón tiếp, rồi lần lượt nhiều vị lãnh đạo khác trong chính quyền.
Các cuộc tiếp kiến này như một khích lệ các em trong công tác lạc quyên giúp đỡ các em nghèo. Năm ngoái, các em đã quyên góp được ngân khoản kỷ lục 19 triệu 500.000 Euro và tài trợ khoảng 500 dự án giúp đỡ các trẻ em ở các vùng nghèo trên thế giới. Từ khi chiến dịch Lễ Ba Vua được khởi sự tại Áo, hồi năm 1954 đến nay, các em Ca viên ngôi sao đã quyên góp được 540 triệu Euro.
Tại Ba Lan cũng có chiến dịch Lễ Ba Vua và các thiếu nhi, thiếu niên tham gia chiến dịch được gọi là các “Ca viên truyền giáo”.
Trong chiến dịch hồi năm ngoái (2023), các em đã quyên góp được gần một triệu 100.000 đồng Ba Lan, tương đương với 260.000 Euro, nếu cộng thêm với những đóng góp khác của Hội Nhi đồng Truyền giáo, thì ngân khoản lên tới gần hai triệu 775 đồng Ba Lan, tương đương với 653.000 Euro. Ngân khoản này được dành để giúp các trẻ em nghèo tại mười nước nghèo, qua Bộ Loan báo Tin mừng, đó là các nước Kenya, Madagascar, Nigeria, Uganda, Bolivia, Colombia, Bangladesh, Ấn Độ, Sri Lanka và Albani. Cụ thể, có 81 dự án giáo dục và sức khỏe cho các trẻ em tới 14 tuổi.
Năm nay, chiến dịch các Ca viên truyền giáo đặc biệt nhắm giúp các trẻ em ở Cộng hòa Dân chủ Congo.
Tin về việc triệu Đức Sứ thần Tòa Thánh tại Tel Aviv đã được nhiều cơ quan truyền thông Israel xác nhận, như trang mạng Ynet.
Trong cuộc gặp gỡ với Đức Sứ thần Tòa Thánh, ông Eyal Bar-Tal, Tổng thư ký Bộ Ngoại giao Israel, lên án những tuyên bố của Đức Giáo hoàng, nhưng không đưa ra trách cứ chính thức nào đối với Đức Sứ thần.
Đức Giáo hoàng cũng tái kêu gọi ngưng bắn tại Gaza trong lễ Vọng Giáng sinh, và ngài nhấn mạnh con số các thường dân bị thiệt mạng vì các cuộc không kích của Israel.
Trước đó, trong một cuốn sách phỏng vấn, Đức Thánh cha ủng hộ một cuộc điều tra tường tận về những lời cáo buộc Israel thi hành cuộc diệt chủng tại Gaza.
Cho đến nay, nhà cầm quyền Israel luôn luôn bác bỏ những lời cáo buộc của quốc tế, và nhân danh quyền tự vệ chống Hamas đã gây ra cái chết cho hơn 45.000 thường dân tại Gaza, những vụ dội bom vào các trường học và nhà thương, nhà thờ, trái ngược với công pháp quốc tế về nhân đạo và bất chấp sự lên án của Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc và dư luận thế giới.
Các nhà lập pháp Úc đã gây ngạc nhiên cho thế giới khi gần đây thông qua luật cấm trẻ em dưới 16 tuổi sử dụng các trang mạng xã hội phổ biến như Facebook, Instagram, X và TikTok.
Luật được Thượng viện Úc thông qua vào cuối tháng 11/2024, dự kiến có hiệu lực vào ngày 10/12/2025, đưa ra mức phạt hàng chục triệu đô la Úc đối với các công ty truyền thông xã hội nếu họ không xác minh đầy đủ độ tuổi của người dùng và thực hiện các bước hợp lý để ngăn trẻ em dưới 16 tuổi có tài khoản.
Kế hoạch này đã nhận được cả lời khen ngợi và phê bình từ nhiều nơi trên thế giới, trong đó có cả nhiều người Công giáo với câu hỏi đặt ra là liệu lệnh cấm này có thực sự hiệu quả hay không.
Về vấn đề này, Đức Tổng Giám Mục Peter Comensoli của Melbourne cho biết, Giáo hội Úc đang tích cực tham gia vào việc ủng hộ và chủ động giúp đỡ cha mẹ bảo vệ con cái của họ trực tuyến, bao gồm cả những tác động tiêu cực tiềm ẩn của phương tiện truyền thông xã hội và sử dụng điện thoại. Tổng Giáo Phận đã thực hiện các bước để đào tạo giáo viên và phụ huynh về tầm quan trọng của "an toàn mạng", và đã tổ chức cuộc gặp gỡ về chủ đề này với hơn 120 nhà giáo dục của Tổng Giáo Phận để nghe các chuyên gia trong lĩnh vực này, nói về những cách tốt nhất để làm việc với học sinh sử dụng công nghệ.
Ngài nhấn mạnh vai trò quan trọng của cha mẹ là những nhà giáo dục chính của con cái, những người mà ngài cho biết phải tham gia tích cực vào việc bảo vệ trẻ em khỏi những tác hại trực tuyến, đặc biệt là nội dung khiêu dâm và bắt nạt trên mạng.
Đức Tổng Giám Mục giải thích, các cha mẹ chia sẻ với ngài rằng thật khó bảo vệ con cái khỏi những tác hại tiềm ẩn của phương tiện truyền thông xã hội, cũng như việc từ chối con cái thứ mà tất cả bạn bè của chúng đều đang sử dụng. Việc có cả thế giới trong tay có thể mang lại nhiều điều tốt đẹp nhưng trẻ em cần thời gian để trưởng thành để có thể hiểu đúng cách sử dụng một cách tốt nhất.
Vào tháng 6 năm ngoái, Hội đồng Giám mục Úc đã yêu cầu chính phủ xem xét Đạo luật An toàn Trực tuyến năm 2021, tập trung vào tính “cấp bách” bảo vệ trẻ em khỏi nội dung khiêu dâm trực tuyến. Các Giám mục đã thúc giục chính phủ thực hiện xác minh tuổi đối với nội dung khiêu dâm trực tuyến, đồng thời ủng hộ việc trao quyền cho cha mẹ thông qua giáo dục và các nguồn lực. Các Giám mục cũng nói rằng các công ty truyền thông xã hội phải chịu trách nhiệm pháp lý về nghĩa vụ chăm sóc để ngăn chặn trẻ em truy cập vào nội dung có hại.
Đức Tổng Giám Mục Comensoli nhận xét, cách tiếp cận lành mạnh đối với công nghệ như phương tiện truyền thông xã hội có nghĩa là coi nó không chỉ là "nguồn gây hại" nhưng còn là một công cụ để "chia sẻ Chúa Kitô với thế giới". Nhưng giống như tất cả các công cụ, "chúng ta phải học cách sử dụng chúng đúng cách".
Giáo hội có thể giúp những người trẻ vun đắp mối quan hệ lành mạnh với công nghệ bằng cách nuôi dưỡng sự suy tư tâm linh và áp dụng các nhân đức trụ - tiết độ, thận trọng, công bằng và kiên cường - vào các tương tác trực tuyến.
Theo phúc trình cuối năm của Diễn đàn Kitô Thống nhất (UCF), con số 745 chỉ là những vụ được thông báo cho Diễn đàn. Điều này có nghĩa là nhiều vụ khác có thể đã xảy ra, nhưng không được báo cáo trên đường dây nóng của tổ chức, không được tính vào tổng số vụ việc.
Chưa tính bạo lực ở Manipur - nơi có hơn 200 nhà thờ bị phá hủy trong cuộc xung đột giáo phái năm 2023 - dữ liệu cho thấy một bức tranh ảm đạm về thù ghét các Kitô hữu ngày càng gia tăng.
Bang Uttar Pradesh ghi nhận số vụ việc cao nhất với 182 vụ, tiếp theo là bang Chhattisgarh với 139 vụ. Các vụ việc được ghi nhận tại 23 trong số 28 bang của Ấn Độ cho thấy bản chất lan rộng của vấn đề. Diễn đàn Kitô Thống nhất cho rằng các số liệu không phản ánh đúng quy mô thực sự của bạo lực do không báo cáo đầy đủ.
Tổ chức cũng chỉ ra các vấn đề mang tính hệ thống, bao gồm các cáo buộc về sự thiên vị của cơ quan thực thi pháp luật. Một phúc trình của Liên đoàn Nhân dân vì Tự do Dân sự (PUCL) đã trích dẫn sự đồng lõa của cảnh sát trong các tội phạm chống các Kitô hữu, làm xói mòn thêm lòng tin vào hệ thống tư pháp.
Ngoài ra, sự vắng mặt kéo dài của đại diện Kitô giáo trong các ủy ban thiểu số quốc gia và các cơ quan nhà nước vẫn là một mối quan ngại.
Ấn Độ hiện xếp thứ 11 trong Danh sách theo dõi thế giới của Tổ chức Open Doors về các quốc gia mà các Kitô hữu phải đối diện với sự bách hại nghiêm trọng nhất.
Diễn đàn Kitô Thống nhất nêu bật sự tương phản rõ rệt giữa phản ứng thờ ơ của chính phủ Ấn Độ đối với bạo lực chống các Kitô hữu, và sự can thiệp nhanh chóng của chính phủ này vào các trường hợp tương tự liên quan đến người thiểu số ở nước láng giềng Bangladesh.
Tổ chức đã kêu gọi hành động khẩn cấp, bao gồm một cuộc điều tra cấp quốc gia và khôi phục bản kiến nghị đệ trình vào năm 2022 nhưng chưa được Tòa án Tối cao xử lý, về việc yêu cầu hành động nghiêm khắc hơn đối với các nhóm tự vệ.
Trước tình trạng bạo lực ngày càng tăng này, đặc biệt trong dịp lễ Giáng sinh, với 14 vụ tấn công các Kitô hữu từ phía các tín đồ Ấn giáo cực đoan, 400 lãnh đạo Kitô đã yêu cầu Tổng thống Droupadi Murmu và Thủ tướng Narendra Modi, hành động ngay lập tức giải quyết vấn đề bạo lực chống các Kitô hữu.
Một mục sư ẩn danh cho biết các tín hữu Kitô vừa nói đã phải chịu nhiều sức ép, như tình trạng thiếu thốn lương thực trầm trọng, và bắt buộc phải làm việc cả ngày Chúa nhật khiến họ buộc lòng phải ký giấy cam kết theo Phật giáo.
Naga, vùng của các tín hữu vừa nói là một vùng tự trị ở miền Saga thuộc Myanmar, được thành lập theo quy định Hiến pháp năm 2008 của Myanmar. Các thừa sai Kitô đến vùng này năm 1985 để truyền đạo và có nhiều người dân tại đây tin và theo đạo.
Sau năm 1994, Hội đồng tái lập Trật tự và luật pháp quốc gia (SLORC) đã ra lệnh kiến thiết các chùa Phật giáo trong các làng ở Naga, bất luận tín ngưỡng của người dân địa phương, đồng thời cũng hứa tưởng thưởng những ai trở lại Phật giáo.
Một cựu đại biểu quốc hội cho biết “Sự can thiệp của quân đội Myanmar tại một số làng đưa tới sự phá hủy các thánh đường Kitô, bách hại các Kitô hữu và bắt các thủ lãnh Kitô.
Khoảng 127.000 người dân trong vùng, phần lớn thuộc bộ lạc Nagar, hợp với các tín hữu Kitô thành một khối dân 73%, trong khi số Phật tử chỉ có 25%, và 2% là những người theo đạo cổ truyền Nat.
Bà Marta Petrosillo, người đang phụ trách soạn thảo phúc trình hai năm một lần về tự do tôn giáo trên thế giới của Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ cho biết, có 307 triệu Kitô hữu đang sống trong 28 quốc gia bị bách hại.
Các Kitô hữu ở khắp các châu lục đều bị khủng hoảng về tự do tôn giáo, nhưng trong những năm gần đây, châu Phi là nơi tự do tôn giáo của các Kitô hữu ngày càng bị vi phạm nặng nề. Nguyên nhân là do các nhóm Hồi giáo cực đoan đã di chuyển từ Trung Đông đến đây, đặc biệt ở khu vực Hồ Tchad và Sahel. Như trường hợp của Burkina Faso: 10 năm trước, trong chỉ số Khủng bố Toàn cầu, Burkina Faso đứng sau vị trí 100, nhưng năm 2024 đã lên đứng ở vị trí đầu tiên trong bảng xếp hạng này, và 67% nạn nhân của các cuộc tấn công khủng bố là ở đất nước này. Sau Burkina Faso, một số quốc gia khác ở châu Phi, trong đó các Kitô hữu cũng đang phải chịu đựng các cuộc bách hại, như Nigeria, Mozambique, Sudan, Niger, Mali và Congo.
Ở khu vực Trung Đông, do chiến tranh, nguồn thu nhập từ du lịch giảm, các Kitô hữu phải đối diện với cuộc khủng hoảng kinh tế nặng nề.
Ở Pakistan, tội báng bổ tiếp tục là một vấn đề làm cho các Kitô hữu bị kết án tử.
Một vấn đề khác gây đau khổ cho cộng đoàn Kitô là nạn bắt cóc, cải đạo và cưỡng bức hôn nhân đối với các phụ nữ, và nhiều trường hợp là trẻ nữ. Hiện tượng này vẫn không dừng lại và làm cho gia đình các nạn nhân thường không được bảo vệ, bất lực trước hệ thống tư pháp không bảo đảm công lý.
Ở Ấn Độ, có nhiều cuộc tấn công chống các Kitô hữu của những kẻ cực đoan Ấn Giáo; trong khi ở châu Á, bách hại tôn giáo đối với các cộng đoàn Kitô của các chế độ độc tài như Triều Tiên là một nguyên nhân đáng lo ngại.
Cuối cùng ở châu Mỹ Latinh được đánh dấu bằng bạo lực chống các tu sĩ do tội phạm lan rộng ở Mexico; trong khi tại Nicaragua mối lo ngại chính là do “sự leo thang tiêu cực” bởi việc đóng cửa nhiều tổ chức phi chính phủ và các thực thể có liên quan đến Giáo hội Công giáo.
Ông Schneider cho biết mới đây ông đã thấy tận mắt: các trẻ em tại Sudan hoàn toàn kiệt lực, gầy giơ xương, trông như những bóng ma không hồn và cha mẹ các em tuyệt vọng, lo sợ cho mạng sống của con cái, tất cả chỉ vì cuộc nội chiến hiện nay giữa hai phe quân đội tranh giành quyền bính với nhau tại nước này: phe quân đội chính quy và lực lượng khai triển nhanh.
Tình hình Sudan ngày càng suy đồi trông thấy, hậu quả của cuộc nội chiến từ tháng Tư năm ngoái. Hàng chục ngàn người đã chết, hàng triệu người khác phải tản cư và chưa có viễn tượng chấm dứt cuộc nội chiến đẫm máu hiện nay.
Trong Sứ điệp Giáng sinh, công bố trưa ngày 25 tháng Mười Hai vừa qua, với phép lành toàn xá cho Roma và toàn thế giới, Đức Thánh cha Phanxicô cũng kêu gọi hòa bình và tố giác rằng chiến tranh là nguyên do chính yếu tạo nên cuộc khủng hoảng nhân đạo.
Và trong buổi đọc kinh Truyền tin, trưa ngày 26 tháng Mười Hai, nhằm lễ kính thánh Stêphanô tử đạo, Đức Thánh cha kêu gọi ủng hộ chiến dịch của tổ chức Caritas Quốc tế, một cơ quan quy tụ hơn 160 Caritas quốc gia trên thế giới, vận động giảm và tha nợ cho các nước nghèo bị nạn nợ nần quốc tế cản trở sự phát triển, và ngài cũng tố giác rằng: “Vấn đề nợ nần gắn liền với vấn đề hòa bình và “chợ đen buôn bán võ khí”. Hãy chấm dứt nạn thực dân hóa các dân tộc bằng vũ khí. Chúng ta hãy làm việc cho sự giải giáp, chống lại nạn đói, bệnh tật, chống lại nạn trẻ em phải lao động! Hòa bình tại Ucraina đau thương, tại Gaza, Israel, miền bắc Kivu ở Cộng hòa Dân chủ Congo và bao nhiêu nước đang có chiến tranh”.
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay thuật lại cho chúng ta cột mốc quan trọng trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa: đó là sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa. Theo nghĩa Hy Lạp, “baptizo” (phép rửa) được hiểu là “nhúng, nhấn chìm, hay ngâm mình, đổ nước lên để rửa sạch, làm sạch”. Đây chính là cách thức mà Gioan Tẩy Giả đã thực hiện cho những ai đến với ông với lòng sám hối, ăn năn về tội lỗi của mình. Số người đến với ông rất đông, và hôm nay, có Đức Giêsu.
Chúng ta có thể thắc mắc: tại sao Đức Giêsu, Đấng vô tội mà lại đến xin ông Gioan làm phép rửa cho mình, chấp nhận dìm sâu trong dòng nước Jordan, một nghi thức dành cho những người ý thức mình tội lỗi và muốn được thanh tẩy? Có những lý giải như thế này:
Thứ nhất, Chúa chấp nhận dìm sâu trong dòng nước Jordan, như bước đầu tiên làm ứng nghiệm sứ mạng tại thế của Ngài, đó là đồng hóa với thân phận con người! Ngài không chọn đi vào trần gian nơi cung điện nguy nga lộng lẫy, hay xuất thân thuộc hàng danh gia vọng tộc…Biến cố Chúa Giáng Sinh cho thấy chọn lựa của Chúa xuất phát từ tình yêu, và vì yêu nên muốn trở nên gần gũi với con người, nhất là những người nghèo hèn khốn khổ.
Thứ hai, bằng việc chấp nhận dìm sâu trong dòng nước Jordan, Chúa Giêsu muốn để lại mẫu gương khiêm nhường cho con người noi theo. Thật vậy, Chúa không chỉ đến để cứu độ con người, nhưng còn muốn san sẻ, đồng cảm với thân phận con người. Ngài biết sự mỏng dòn yếu đuối của con người, cần lắm sự mạnh mẽ để chấp nhận những lầm lỗi của mình và khao khát được dìm trong ân sủng Chúa, để tìm kiếm sự giao hòa từ Thiên Chúa và từ anh chị em mình.
Thứ ba, đang khi chấp nhận dìm sâu trong dòng nước Jordan, Chúa bắt đầu sứ mạng công khai của mình. Ba mươi năm ẩn dật đã qua, đây là lúc “thanh niên” Giêsu công khai về nhân tính và thiên tính của mình: Ngài vừa là con người lịch sử, con của bác thợ mộc Giuse, vừa là con Thiên Chúa với sự hiện diện của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Kể từ nay, tiếng nói của Chúa Cha sẽ vang vọng nơi cuộc đời của Ngài, và Thần Khí của Thiên Chúa luôn ở cùng Ngài. Trong dòng nước Jordan, Con Thiên Chúa không bắt đầu sứ mạng cứu độ một mình, nhưng cả Ba Ngôi Thiên Chúa cùng nhau đi vào tiến trình cứu độ.
Và cuối cùng, Chúa chấp nhận dìm mình trong dòng nước Jordan bởi gánh tội của muôn dân như lời đã chép trong sách tiên tri Isaia: “Chính Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng họa, phải nhục nhã ê chề. Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành”. (Is 53,4-5).
Chúa Giêsu vì yêu thương nhân loại, đã chấp nhận để Gioan làm phép rửa, chịu dìm mình trong dòng nước như bao tội nhân, điều này thách thức đôi chân của những tâm hồn đang bước theo Chúa, và đang từng ngày muốn trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, còn tôi?
Thiết nghĩ, khi mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn dám thực thi tất cả những điều trên, thì tất cả sẽ được nhìn thấy vinh quang và ơn cứu độ của Thiên Chúa tỏ hiện, và đó chính là lòng từ bi, nhân ái và thương xót.
Mở đầu cuộc gặp gỡ, Đại sứ Cộng hòa Cipro cạnh Tòa Thánh, ông George Poulides, Niên trưởng đoàn ngoại giao, đã đại diện mọi người chúc mừng Đức Thánh Cha nhân dịp đầu năm mới và nhắc đến những hoạt động của ngài đã mang lại những hướng đi cho cộng đồng các dân nước.
Trong diễn văn đáp lời, Đức Thánh Cha nhắc đến những phát triển trong các quan hệ ngoại giao của Tòa Thánh trong năm qua với các nước, đặc biệt việc ký hiệp định bổ sung thứ hai cho hiệp định về quy chế pháp lý của Giáo hội Công giáo tại Burkina Faso, hiệp ước song phương với Cộng hòa Séc về một số vấn đề pháp lý, và Thoả thuận Tạm thời giữa Tòa Thánh-Trung Quốc về bổ nhiệm Giám mục.
Cách riêng, Đức Thánh Cha bày tỏ lòng biết ơn chính phủ Ý vì các hoạt động chuẩn bị cho Năm Thánh. Theo ngài, nhờ công việc không ngừng của nhiều người mà hôm nay dân thành Roma, khách hành hương và khách du lịch có thể tận hưởng vẻ đẹp của thành phố muôn thuở. Ngài cũng gửi lời cám ơn đến các lực lượng cảnh sát, bảo vệ dân sự, cơ quan y tế và các tình nguyện viên, mỗi ngày làm việc hết sức để đảm bảo an toàn cho Năm Thánh.
Năm mới khởi đầu với những bất ổn
Đức Thánh Cha nhận xét về tình hình thế giới với những bất ổn xảy ra đầu năm, đó là sự tái diễn các hành động khủng bố ở Magdeburg của Đức và ở New Orleans của Hoa Kỳ. Ngày nay, mọi người phải sống trong bối cảnh xã hội ngày càng phân cực, với cảm giác lo sợ và không tin tưởng người khác và tương lai. Điều này càng trở nên trầm trọng hơn bởi việc tạo ra và loan tin giả, bóp méo sự thật và lương tâm, khơi dậy nhận thức sai lầm về thực tế và tạo ra bầu khí nghi ngờ kích động hận thù, gây nguy hiểm cho sự an toàn của người dân và ảnh hưởng đến sự chung sống và sự ổn định của toàn quốc gia. Những ví dụ bi thảm về điều này là các cuộc tấn công nhắm vào Thủ tướng Slovakia và Tổng thống đắc cử Hoa Kỳ.
Mong ước của Đức Thánh Cha
Trước thực trạng thế giới như vậy, Đức Thánh Cha bày tỏ mong ước năm mới và cũng là Năm Thánh này có thể là cơ hội để tất cả mọi người, Kitô hữu và không Kitô hữu, suy nghĩ lại các mối liên hệ để vượt qua tư duy đối đầu và thay vào đó là tư duy gặp gỡ, để thời gian tới mọi người không phải sống trong sự tuyệt vọng, nhưng như những người hành hương hy vọng trên một hành trình dấn thân xây dựng một tương lai hoà bình.
Mặt khác, trước mối đe doạ ngày càng rõ của chiến tranh thế giới, ơn gọi ngoại giao là khuyến khích đối thoại với tất cả, gồm cả những người được xem là “không dễ chịu” và những người không cho là hợp pháp để đàm phán. Đây là cách duy nhất để phá vỡ xiềng xích hận thù và trả thù đang giam cầm, và để tháo gỡ ích kỷ, kiêu ngạo con người.
Ngoại giao hy vọng
Với những suy xét này và khởi đi từ những lời của ngôn sứ Isaia, được Chúa Giêsu nhận cho chính mình trong hội đường Nazareth vào lúc bắt đầu cuộc đời công khai: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi… sai tôi đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa” (Is 61,1-2a), Đức Thánh Cha nói rằng ngài muốn trình bày với các đại sứ một số điểm của ngoại giao hy vọng mà tất cả đều được kêu gọi thực hiện. Nói chung, ngài muốn nhấn mạnh một số trách nhiệm mà mỗi lãnh đạo chính trị cần ghi nhớ trong khi thi hành nhiệm vụ, vốn phải hướng đến việc xây dựng công ích và sự phát triển con người toàn diện.
Mang tin vui cho kẻ nghèo hèn
Trước hết mang tin vui cho kẻ nghèo hèn. Đức Thánh Cha nhận xét chưa bao giờ nhân loại đạt được những tiến bộ, phát triển và giàu có như thời đại hôm nay, nhưng cũng chưa bao giờ con người cảm thấy cô đơn, lạc lối, thích thú cưng hơn là trẻ em như ngày nay. Vì thế, nhu cầu đón nhận tin vui càng trở nên cấp thiết. Tin vui này Thiên Chúa ban cho nhân loại trong đêm Giáng sinh. Mọi người, cả những người không phải là Kitô hữu đều có thể trở thành người mang niềm hy vọng và sự thật.
Mặt khác, con người được ban cho một khát khao bẩm sinh về sự thật. Nhưng thời nay, với các phương tiện truyền thông hiện đại và trí tuệ nhân tạo, dường như việc phủ nhận sự thật luôn chiếm ưu thế. Vì thế, một ngoại giao hy vọng trước hết là một ngoại giao của sự thật. Nơi nào thiếu mối liên kết giữa thực tế, sự thật và kiến thức, thì nơi đó nhân loại không còn có thể nói và hiểu nhau nữa, vì thiếu nền tảng của một ngôn ngữ chung, như ở câu chuyện Tháp Babel trong Kinh Thánh. Truyền thông, đối thoại và dấn thân vì công ích đòi hỏi thiện chí và tuân thủ một ngôn ngữ chung. Điều này đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực ngoại giao.
Băng bó những tấm lòng tan nát
Đức Thánh Cha đi đến điểm thứ hai: một ngoại giao hy vọng cũng là một ngoại giao của sự tha thứ. Ngài mong muốn trong Năm Thánh 2025, tất cả Cộng đồng quốc tế nỗ lực trước hết chấm dứt cuộc chiến tranh đẫm máu ở Ucraina đã diễn ra trong ba năm và gây ra nhiều nạn nhân. Một số dấu hiệu khích lệ đã xuất hiện ở phía chân trời, nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm để xây dựng các điều kiện cho một nền hoà bình công bằng và lâu dài, cũng như chữa lành những vết thương do cuộc xâm lược gây ra.
Đồng thời, ngài nhắc lại lời kêu gọi ngừng bắn và thả các con tin Israel ở Gaza, nơi mà tình hình nhân đạo rất nghiêm trọng, và yêu cầu làm sao để người Palestine nhận được mọi viện trợ cần thiết. Ngài hy vọng người Israel và Palestine có thể tái xây dựng những cây cầu đối thoại và tin tưởng nhau, để các thế hệ tương lai có thể sống cạnh nhau trong hoà bình.
Cũng liên quan đến chiến tranh, Đức Thánh Cha lưu ý các loại vũ khí ngày càng tinh vi và huỷ diệt. Ngài kêu gọi sử dụng tiền mua vũ khí để thành lập quỹ toàn cầu xoá đói và phát triển các nước nghèo.
Về việc dân thường và cơ sở hạ tầng bị tấn công, ngài hy vọng Năm Thánh này sẽ là thời điểm thuận tiện để cộng đồng quốc tế làm việc tích cực để đảm bảo quyền con người không phải hy sinh trước các đòi hỏi quân sự.
Ngoài Ucraina, Israel, Palestine, Đức Thánh Cha còn nhắc đến những nơi chiến tranh và xung đột đang tàn phá đời sống người dân: Châu Phi: Sudan, Sahel, Sừng châu Phi, Mozambique, Haiti; Châu Á với Myanmar; Châu Mỹ Latinh với Venezuela, Bolivia, Colombia và Nicaragua.
Công bố tự do cho nô lệ
Về công bố tự do cho các nô lệ, Đức Thánh Cha nói: “Hai ngàn năm Kitô giáo đã đóng góp loại bỏ chế độ nô lệ khỏi mọi hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hình thức nô lệ”.
Ngài liệt kê những hình thức đó: Trong lao động với điều kiện làm việc vô nhân đạo. Phải làm sao để lao động thực sự mang lại phẩm giá và phát triển cho con người; Tình trạng nô lệ khủng khiếp của nghiện ma tuý, đặc biệt ảnh hưởng đến người trẻ. Không thể chấp nhận được khi chứng kiến nhiều cuộc đời, gia đình và đất nước bị huỷ hoại bởi tai hoạ này; Nô lệ của hoạt động buôn người, hình thức nô lệ khủng khiếp nhất. Ngoại giao hy vọng là ngoại giao của tự do, đòi hỏi cam kết chung của cộng đồng quốc tế loại bỏ hình thức thương mại khốn khổ này.
Về điểm này, Đức Thánh Cha còn đề cập đến hiện tượng di cư, mà theo ngài vẫn còn bị bao phủ bởi một đám mây đen ngờ vực, thay vì được coi là một nguồn tăng trưởng. Điều quan trọng nữa là phải giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của việc di chuyển, để việc rời khỏi nhà của một người nhằm tìm một nhà khác là một lựa chọn chứ không phải là một “nghĩa vụ sinh tồn”. Trong cái nhìn này, ngài tin rằng một cam kết chung để đầu tư vào hợp tác phát triển là điều cần thiết, để giúp xóa bỏ một số nguyên nhân khiến người dân di cư.
Công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm
Đức Thánh Cha nói đến điểm cuối cùng: Công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm. Ngài nhắc lại Năm Thánh là thời gian thuận tiện để thực hành công lý, tha nợ và ân xá cho các tù nhân, bãi bỏ án tử hình. Theo ngài, không có khoản nợ nào cho phép ai đó, kể cả nhà nước, đòi hỏi mạng sống của người khác. Mặt khác, chúng ta không thể quên rằng theo một nghĩa nào đó, tất cả chúng ta đều là tù nhân, bởi vì tất cả chúng ta đều là những người mắc nợ: nợ Thiên Chúa, người khác và cả Trái đất thân yêu của chúng ta.
Với cái nhìn này, Đức Thánh Cha kêu gọi các quốc gia giàu có tha nợ cho những quốc gia không bao giờ có thể trả được. Đó không chỉ là một hành động liên đới hay cao thượng, nhưng trên hết là công lý.
Về phần Giáo hội, ngài nhấn mạnh, Tòa Thánh sẵn sàng đồng hành với tiến trình này với ý thức rằng không có biên giới hay rào cản nào, chính trị hay xã hội, mà chúng ta có thể che giấu đằng sau.
Đức Thánh Cha kết thúc: “Theo quan điểm Kitô giáo, Năm Thánh là thời gian ân sủng. Và tôi ước mong năm 2025 này thực sự là một năm ân sủng, giàu sự thật, tha thứ, tự do, công lý và hòa bình! Niềm hy vọng được chứa đựng trong trái tim mỗi người như một niềm khao khát và chờ đợi sự tốt lành, và mỗi người chúng ta được mời gọi làm cho niềm hy vọng đó lan toả xung quanh chúng ta. Đây là lời chúc chân thành nhất gửi tới quý vị, các Đại sứ thân mến, tới gia đình, các chính phủ và những dân tộc mà các quý vị đại diện: cầu mong niềm hy vọng nảy nở trong trái tim chúng ta, và thời đại của chúng ta tìm thấy hòa bình đáng mong muốn”.
Sau bài diễn văn dài, Đức Thánh Cha bắt tay chào thăm tất cả các vị đại sứ hiện diện.
Trang mạng Angelus-Magazine của Tổng giáo phận, đã đăng tải lời kêu gọi của Đức cha José H. Gomez, Tổng giám mục sở tại, nói rằng “Xin anh chị em tiếp tục cầu nguyện cho tất cả những người đang chịu đau khổ vì nạn cháy rừng ở miền nam California. Tâm hồn tôi cũng lo âu cho những người láng giềng của chúng ta, đã phải bỏ gia cư và mất sản nghiệp. Chúng ta hãy cầu nguyện cho họ và cầu nguyện cho các nhân viên cứu hỏa cũng như những nhân viên cứu trợ”.
Tại khu vực Pacific Palisades, ở mạn tây Los Angeles, nhà thờ Corpus Christi đã bị hỏa hoạn, trong khi nhiều giáo xứ ở trong các khu vực phải di tản.
Cho đến nay, khoảng 130.000 người đã phải tản cư và hơn 1.000 nhà cửa bị thiêu hủy.
Chính quyền đã huy động hơn 7.500 người để chống hỏa hoạn.
Hỏa hoạn bộc phát ở vùng Los Angeles vì hạn hán và gió nóng thổi mạnh vượt ra ngoài khả năng kiểm soát: đã có nhiều người thiệt mạng và 130.000 phải bỏ gia cư để di tản. Tổng thống Biden đã tuyên bố vùng hỏa hoạn là miền bị thiên tai, đồng thời ông phải hủy bỏ chuyến viếng thăm tại Ý, trong đó cả chương trình gặp Đức Thánh cha, vào thứ Sáu, ngày 10 tháng Giêng cũng bị hủy bỏ.
Tổng thống Biden, muốn viếng thăm Ý từ ngày 09 đến ngày 12 tháng Giêng này, trước khi giã từ chức vụ. Ông muốn gặp Đức Thánh cha vào sáng thứ Sáu, ngày 10 tháng Giêng này để trao đổi những cố gắng kiến tạo hòa bình trên thế giới, và ông cũng gặp Tổng thống Sergio Mattarella và bà Thủ tướng Giorgia Meloni của Ý, nhưng nay dự án này bị hủy bỏ vì hỏa hoạn.
Hai tháng trước đó, ngày 06 tháng Mười Một năm 2024, Đức Tổng giám mục Welby đã thông báo sẽ rời khỏi chức vụ vào ngày 06 tháng Giêng, sau 12 năm tại chức. Lý do vì vụ xì căng đan mà Đức Tổng giám mục không xử lý người thuộc quyền đã lạm dụng tính dục hàng trăm trẻ vị thành niên, mặc dù ngài biết vụ này.
Đức Tổng giám mục Stephen Cottrell của Tổng giáo phận York, nhân vật thứ hai trong Anh giáo tại Anh quốc, tạm thời đảm nhận chức vụ thay thế Đức Tổng giám mục Welby, trong khi chờ đợi bổ nhiệm người kế vị. Tiến trình này có thể kéo dài nhiều tháng.
Đức Tổng giám mục Welby đã tròn 69 tuổi hôm thứ Hai, ngày 06 tháng Giêng vừa qua. Ủy ban Hoàng gia bổ nhiệm Giáo chủ Anh giáo gồm 16 thành viên, có quyền bỏ phiếu, và có nhiệm vụ chọn hai ứng viên để trình lên Thủ tướng Anh, rồi ông sẽ chọn một vị và đệ lên Vua Charles III, để chính thức bổ nhiệm trong tư cách là Giáo chủ của Anh giáo tại Anh quốc.
Hồi giữa tháng Mười Hai vừa qua, ông Jonathan Douglas Evans, cựu Giám đốc cơ quan tình báo nội địa của Anh Quốc, đã được bổ nhiệm làm Chủ tịch Ủy ban Hoàng gia chọn ứng viên Giáo chủ. Lần đầu tiên Ủy ban này có thêm năm thành viên thuộc Liên hiệp Anh giáo thế giới. Liên hiệp này gồm 85 triệu tín hữu trên toàn cầu và Đức Tổng giám mục Giáo phận Canterbury là Giáo chủ danh dự.
Một luật sư thuộc quyền của Đức Tổng giám mục Welby là John Smyth đã lạm dụng tính dục hàng trăm trẻ vị thành niên, trong khoảng thời gian từ 2013 đến 2024, nhưng Đức Tổng giám mục đã không xử lý. Nay ngài lãnh nhận trách nhiệm và xin từ nhiệm.
Theo thủ tục: Ban Bổ nhiệm của Hoàng gia Anh sẽ lập một ban Giám mục Anh giáo để chọn tên hai ứng viên, rồi gửi lên Thủ tướng Anh, ông Keir Starmer, một người tự xưng là vô thần. Thủ tướng sẽ chọn một trong hai ứng viên đó để Vua Charles III phê chuẩn. Tiến trình bổ nhiệm này có thể kéo dài vài tháng.
Ví dụ, vị tiền nhiệm của Đức Tổng giám mục Justin Welby là Đức Tổng giám mục Rowan Williams từ chức hồi tháng Ba năm 2012, nhưng mãi tám tháng sau đó, tức là tháng Mười Một năm 2012, Đức Tổng giám mục Welby mới được bổ nhiệm.
Sau khi Đức Tổng giám mục Welby từ nhiệm, thì Đức Tổng giám mục Giáo phận York sẽ tạm thời điều hành Giáo hội, Đức Giám mục Giáo phận London sẽ đảm nhận công việc của Giáo phận York và Đức giám mục Giáo phận Dover đảm trách Giáo phận London.
Liên hiệp Anh giáo trên thế giới hiện có khoảng 80 triệu tín hữu, nhưng Liên hiệp này hiện bị chia rẽ vì các giáo phận Anh giáo, đặc biệt tại Phi châu, đã thiết lập Liên hiệp Anh giáo Nam Ban Cầu, vì không chấp nhận lập trường của Đức Tổng giám mục Justin Welby ủng hộ đồng tính luyến ái.
Ngày 20 tháng 12 năm 2024, Tổng thống đắc cử Donald Trump đã cử ông Brian Burch làm Đại sứ Mỹ tại Tòa thánh. Ông Burch, người công giáo bảo thủ chống Đức Phanxicô là nhân vật truyền thông nổi tiếng. Ông được biết đến nhiều nhất với tư cách là chủ tịch của CatholicVote, trang web và nhóm vận động công giáo bảo thủ đã ủng hộ ông Trump trong chiến dịch tranh cử năm 2024 với số tiền đầu tư 10 triệu đô la, kết quả Tổng thống Trump có được 56% phiếu của người công giáo. Trang web Công giáo Crux cho biết, ông Trump đã nhanh chóng đề cử ông Brian Burch, không qua quá trình xem xét kỹ lưỡng các ứng cử viên, như thế ngay từ đầu ông đã biết ông muốn ai ở vị trí này.
Tổng thống Trump viết trên mạng xã hội Twitter: “Trong cuộc bầu cử vừa qua, ông Brian Burch đại diện rất tốt cho tôi, có được nhiều phiếu bầu của người công giáo hơn bất kỳ ứng cử viên tổng thống nào trong lịch sử. Brian yêu Giáo hội, yêu nước Mỹ, ông sẽ làm chúng ta tự hào. Xin chúc mừng ông bà Brian và gia đình tốt đẹp của ông.”
Một người công giáo bảo thủ chống Đức Phanxicô
Là nhà bình luận thường xuyên trên các phương tiện truyền thông truyền thống và trên mạng xã hội, ông Brian Burch thường chỉ trích Đức Phanxicô, đặt ra vấn đề về sự phù hợp của ngài với tư cách là một nhà đối thoại ngoại giao.
Thần học gia, sử gia, giáo sư tại Trường Đại học Villanova Massimo Faggioli nói trên trang National Catholic Reporter: “Việc ông Trump chọn một nhà hoạt động chính trị theo đảng phái, thay vì một học giả công giáo hay chính trị gia kỳ cựu để đại diện cho Hoa Kỳ tại Tòa thánh là điều rất đáng chú ý. Đây là một bổ nhiệm đặc biệt, nói lên điều gì đó về mối quan hệ ông Donald Trump muốn tạo ra với Vatican.”
Trong một công bố sau khi được bổ nhiệm, ông Burch nói: “Tôi cam kết làm việc với các nhà lãnh đạo Vatican và chính quyền mới để thúc đẩy phẩm giá của tất cả mọi người và lợi ích chung. Tôi chờ quá trình xác nhận để được phục vụ đất nước và Giáo hội của tôi. Nguyện xin danh Chúa được vinh quang.”
Đối đầu với làn sóng ‘dân túy’, Giáo hoàng có nguy cơ phơi bày xương xẩu của Giáo hội ..
Sau khi Donald Trump đắc cử, các chuyên gia đã suy đoán về cách Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ phản ứng lần này với một tổng thống Hoa Kỳ phản đối quan điểm của ngài về vấn đề nhập cư và nhiều cuộc xung đột đang diễn ra trên thế giới.
Đối với nhiều người, câu hỏi này đã được giải đáp bằng việc bổ nhiệm Hồng Y Robert McElroy làm Tổng giám mục mới của Washington, DC. McElroy, người đã phục vụ với tư cách là Giám mục San Diego kể từ năm 2015, là một trong những thành viên lãnh đạo của phe cấp tiến trong Giáo Hội Công Giáo tại Hoa Kỳ và thường phản đối các chính sách của Trump về vấn đề nhập cư và ủng hộ các vấn đề LGBTQ+ trong Giáo hội.
Trump đã nói rằng ông sẽ trục xuất những người nhập cư chưa đăng ký và hứa sẽ yêu cầu Quốc hội thiết lập việc chỉ có hai giới tính được công nhận ở cấp liên bang, điều này bị phản đối bởi những người ủng hộ "sự khẳng định chuyển giới".
Việc bổ nhiệm McElroy vào tòa Washington là điều bất ngờ đối với nhiều người, những người cho rằng Đức Phanxicô sẽ đưa ra lựa chọn mang tính hòa giải hơn cho chức vụ này, xét đến chiến thắng lớn của Trump vào tháng 11.
Có hai vấn đề chính mà triều Giáo hoàng Phanxicô phải đối đầu trong những năm tháng suy yếu của vị giáo hoàng 88 tuổi này.
Đầu tiên là mối quan ngại của Đức Phanxicô về sự hưng thịnh của những người theo chủ nghĩa dân túy cánh hữu trong các nền dân chủ trên thế giới.
Những người bảo thủ đang giành được nhiều quyền lực hơn ở phương Tây, như thủ tướng Hungary là Viktor Orban và Giorgia Meloni lãnh đạo Ý.
Ngay cả chiến thắng của Đảng Lao động ở Anh dường như cũng không đại diện cho sự trỗi dậy của chủ nghĩa tự do Anh. Chiến thắng của đảng diễn ra khi đảng Bảo thủ bị cáo buộc là không "đủ bảo thủ" và mức độ ủng hộ của Đảng Lao động đang giảm nhanh chóng trong các cuộc thăm dò.
Ngay trước khi Đức Phanxicô bổ nhiệm McElroy vào tòa Washington, thủ tướng Canada Justin Trudeau đã tuyên bố từ chức, hy vọng sẽ ngăn chặn chiến thắng dự kiến của Đảng Bảo thủ trong cuộc bầu cử liên bang vào tháng 10.
Tuy nhiên, việc bổ nhiệm McElroy cũng chỉ ra một vấn đề khác mà Đức Phanxicô phải đối đầu trong những năm cuối đời: Cuộc khủng hoảng lạm dụng không hồi kết trong Giáo hội.
Vị Hồng Y này bị cáo buộc là không giải quyết thỏa đáng những cáo buộc mà chuyên gia về lạm dụng tình dục của giáo sĩ Richard Sipe đưa ra vào năm 2016. (Sipe qua đời vào năm 2018.)
Bản thân giáo hoàng từ lâu đã bị ám ảnh bởi những cáo buộc mà ngài có xu hướng tin vào những lời phản đối vô tội của giáo sĩ đối với những cáo buộc từ các nạn nhân.
Đức Phanxicô đã nghe theo lời của Giám mục người Chile Juan Barros, Gustavo Óscar Zanchetta người Argentina và Theodore McCarrick về sự phản đối của các nạn nhân, trước khi đảo ngược hướng đi sau sự phẫn nộ của công chúng.
Kể từ những năm 1950, các chính trị gia bảo thủ ở phương Tây nói chung vốn tôn trọng Vatican, thường sợ mất phiếu bầu của người Công Giáo. Các nhà lãnh đạo dân túy mới – những người thường có sự ủng hộ mạnh mẽ từ những người Công Giáo đi lễ – ít có khả năng sợ xúc phạm đến giới lãnh đạo Giáo hội bằng cách nêu ra những điểm yếu của Vatican khi họ cảm thấy bị giáo hoàng tấn công.
Vài năm tới có thể sẽ đáng lưu ý.
Nữ tu Simona Brambrilla
Đó là nữ tu Simona Brambrilla, 60 tuổi, Dòng Thừa sai Đức Mẹ an ủi (MC), nguyên là Bề trên Tổng quyền dòng này, trước khi được Đức Thánh cha bổ nhiệm làm Tổng thư ký Bộ các dòng tu hồi tháng 10 năm 2023, kế nhiệm Đức Tổng giám mục José Carballo, Dòng Phanxicô, người Tây Ban Nha.
Cùng ngày 06 tháng Giêng, Đức Thánh cha bổ nhiệm Đức Hồng y Ángel Fernández Artime, người Tây Ban Nha, nguyên Bề trên Tổng quyền Dòng Don Bosco, làm Quyền Tổng trưởng Bộ các Dòng tu.
Hai vị Tổng trưởng này kế nhiệm Đức Hồng y João Braz de Aviz, người Brazil, 78 tuổi (1947).
Đức Thánh cha đã nhiều lần bày tỏ ý định bổ nhiệm một phụ nữ làm Bộ trưởng một cơ quan trung ương Tòa Thánh.
Cũng hôm mùng 06 tháng Giêng, Đức Thánh cha đã bổ nhiệm Đức Hồng y Robert Walter McElroy, Giám mục Giáo phận San Diego, bang California, làm tân Tổng giám mục chính tòa Giáo phận Washington DC, thủ đô của Mỹ, kế nhiệm Đức Hồng y Wilton Daniel Gregory, tới tuổi về hưu.
Khu vực này gọi là Wadi al Kharar, nơi mà nhà khảo cổ dòng Phanxicô, cha Michele Piccirillo, đã đưa ra ánh sáng những di tích của các thánh đường, nơi các cộng đồng Kitô tiên khởi đã kính nhớ sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giordan. Năm 2030 tới đây sẽ kỷ niệm hai ngàn năm biến cố này, như được thuật lại trong các sách Tin mừng. Cha Piccirillo qua đời năm 2008, là người đã xác định được địa điểm gọi là “Betania bên kia sông Giordan”.
Tham dự thánh lễ do Đức Hồng y Parolin cử hành sẽ có khoảng bảy ngàn người, gồm các tín hữu Công giáo ở Thánh địa cũng như từ nước ngoài.
Hồi Năm Thánh 2000, Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã đến hành hương tại nơi Chúa Giêsu chịu Phép rửa, trong cuộc hành hương Năm Thánh của ngài tại Thánh địa. Sau đó, năm 2009, Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI đã đặt viên đá đầu tiên xây thánh đường Công giáo Latinh, và Đức Thánh cha Phanxicô đã viếng thăm công trường xây cất hồi năm 2014 và thánh đường này sẽ được long trọng khánh thành vào thứ Sáu, ngày 10 tháng Giêng này.
Việc hoàn thành thánh đường này trong Năm Thánh là một bước tiến quan trọng tiến đến kỷ niệm vào năm 2030 đối với Thánh địa, và biến cố này cũng nuôi dưỡng hy vọng của các tín hữu ở địa phương. Họ mong rằng hòa bình có thể cho phép nhiều tín hữu hành hương đến viếng nơi Thánh này tại Giordani.
Trong khi đó, vùng này tiếp tục có thêm những đề nghị mới về tinh thần: Hồi mùa hè vừa qua, Hoàng thân Ghazi bin Mohammed, Cố vấn trưởng của Vua Abdullah II ở Giordani, về các vấn đề văn hóa và tôn giáo, đồng thời cũng là Chủ tịch Hội đồng quản trị của chính quyền về địa điểm Chúa chịu phép rửa, đã chính thức khánh thành Con đường thánh Gioan Tẩy Giả: một đường dài ba cây số để đi bộ, có bảy chặng khác nhau, với những khía cạnh để suy niệm, dựa trên Kinh thánh. Con đường đi từ đồi thánh Elia tiến qua khu vực Wadi Al-Kharar cho đến bể rửa tội, nguồn suối Gioan Tẩy Giả và những di tích của các thánh đường được xây cất thời cổ, để tưởng niệm Chúa Giêsu chịu phép rửa. Con đường kết thúc tại khu vực nhà thờ Công giáo Latinh.
Giáo hoàng Francis đã tham gia vào nhóm những kẻ vu khống máu đã cáo buộc Israel về tội diệt chủng, viết rằng: "Theo một số chuyên gia, những gì đang xảy ra ở Gaza có đặc điểm của một cuộc diệt chủng." Bản cáo trạng này hoàn toàn sai sự thật, về mặt luật pháp và đạo đức. Vatican biết diệt chủng là gì. Họ đã hoàn thiện tội ác chống lại loài người này trong các cuộc Thập tự chinh, Tòa án dị giáo và các cuộc tàn sát do các giáo sĩ gây ra dẫn đến cuộc diệt chủng Holocaust.
Thực tế là Israel đã giết ít thường dân hơn nhiều so với bất kỳ quốc gia nào trong lịch sử khi tiến hành các cuộc chiến tranh đô thị tương tự, đặc biệt là nơi các chiến binh Hamas ẩn náu trong dân thường, chính xác là để buộc Israel giết càng nhiều thường dân càng tốt.
Bằng cách chấp nhận chủ nghĩa Palestine và ủng hộ câu chuyện của Hamas, ông ta đang đứng về phía kẻ thù của Kitô giáo, kẻ thù của Do Thái giáo và kẻ thù của sự đàng hoàng. Tôi sẽ không nguyền rủa Giáo hoàng Francis; Kinh thánh đã làm như vậy:
Kirill đã đáp lại thỉnh cầu của Putin và nói: “Tổng thống Vladimir Vladimirovich thân mến! Đây là các thánh giá và ảnh của Đại tông đồ thánh vương Vladimir, vị sáng lập đất nước chúng ta, Người đã bảo vệ tổ quốc với thanh gươm trên tay và tiếp tục là biểu tượng sự thống nhất đất nước Nga. Hơn nữa, đây là vị bảo vệ tổng thống trên thiên quốc. Tôi tin rằng điều này sẽ có một ý nghĩa đặc biệt cho tất cả các binh sĩ lãnh nhận ảnh này”.
Thông Điệp Lễ Giáng Sinh oan nghiệt của Thượng Phụ Kirill sẽ khiến nhiều người phải chết
Các vị lãnh đạo Kitô thuộc 30 nhóm Giáo hội đã đưa ra lời kêu gọi khẩn cấp, ngày 31 tháng Mười Hai năm 2024 vừa rồi, gửi tới Tổng thống Droupadi Murmu và Thủ tướng Narendra Modi, sau khi có tin về ít nhất 14 vụ bạo hành, đe dọa và làm gián đoạn các buổi lễ của các Kitô hữu trong mùa Giáng sinh.
Thông cáo của các vị lãnh đạo Kitô trưng dẫn các con số thống kê về bạo lực chống Kitô hữu: 720 vụ nhắm vào cộng đoàn Tin lành, trong khi đó Diễn đàn Liên hiệp Kitô ghi nhận có 760 vụ xảy ra từ tháng Giêng đến tháng Mười Một năm ngoái. Hai phúc trình này đặc biệt tố giác các đạo luật cấm cải đạo tại một số bang ở Ấn Độ, những đe dọa gia tăng chống tự do tôn giáo, sự leo thang các diễn văn cổ võ oán ghét Kitô hữu và những chính sách loại trừ không cho các tín hữu Kitô gốc giai cấp cùng đinh Dalit được hưởng sự nâng đỡ của chính quyền như trường hợp tín đồ các tôn giáo khác.
Các vị lãnh đạo Kitô cũng đặc biệt kêu gọi thủ tướng Modi giữ một vai trò hữu hình, cụ thể hơn, trong việc thăng tiến hòa bình và hòa giải tại bang Manipur ở miền Đông bắc Ấn, nơi đã xảy ra các vụ xung đột giữa các bộ tộc và tôn giáo làm cho hơn 250 người chết và 360 nhà thờ cũng như nơi thờ phượng bị phá hủy, hàng chục ngàn người phải di tản kể từ tháng Năm năm 2023. Chính quyền trung ương Ấn cần đề ra các biện pháp cụ thể để cải tiến tình trạng tại Manipur, kể cả việc mau lẹ mở cuộc điều tra không thiên tư về những vụ tấn công các nhóm tôn giáo thiểu số, ban hành các hướng dẫn rõ ràng cho chính quyền bang, trong việc bảo vệ các quyền theo hiến pháp về tự do tôn giáo và khởi sự đối thoại đều đặn với các đại diện mọi tôn giáo, bảo vệ quyền tự do tuyên xưng và thực hành tín ngưỡng của họ.
Laura Yustres Vélez, được gọi là "Lalachús", là một nữ diễn viên và diễn viên hài người Tây Ban Nha xuất hiện trong chương trình "La Revuelta", một chương trình hài kịch đêm trên truyền hình công cộng Tây Ban Nha. Trong chương trình Đêm giao thừa vừa qua, Lalachús đã chiếu một hình ảnh giống như bức ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu truyền thống, nhưng trong đó có khuôn mặt của một con bò đực trong chương trình "El Gran Prix", một chương trình giải trí gia đình nổi tiếng ở Tây Ban Nha.
Bức ảnh có một vầng hào quang phía sau đầu nhân vật, một Thánh Tâm trên ngực nơi tay trái được đặt lên, và tay phải giơ lên với ba ngón tay duỗi thẳng và hai ngón tay gập lại, tượng trưng cho Chúa Ba Ngôi.
Phản ứng của các Giám mục Tây Ban Nha
Tổng giám mục Luis Argüello, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Tây Ban Nha, cho biết ngài rất buồn bởi hình ảnh gây tranh cãi này. Ngài nói: "Với lý do tự do ngôn luận và sự thái quá của lễ hội, [đài truyền hình công cộng Tây Ban Nha] TVE đã chế giễu biểu tượng trái tim rất được mọi người Công giáo yêu quý". "Điều đáng buồn nhất là những người chịu trách nhiệm không nhận thức được việc họ đang làm. Một lần nữa, sự tầm thường lại bao quanh chúng ta".
Tổng giám mục của Sevilla, José Ángel Saiz Meneses, cũng chỉ trích sự chế giễu này và hỏi: "Họ sẽ lợi dụng sự kiên nhẫn của chúng ta đến bao giờ?"
Tổng giám mục của Oviedo, Jesús Sanz Montes, nhấn mạnh rằng "nếu cô ấy cố gắng làm [điều tương tự] với [hình ảnh] của Mohammed, thì điều đó sẽ không hề buồn cười chút nào".
Giám mục của Vitoria, Juan Carlos Elizalde, chỉ ra rằng "Người Công giáo không phải là công dân hạng hai, và càng không phải như vậy ở một đất nước mà phần lớn công dân được rửa tội hoặc là con của người Công giáo".
Còn Đức Cha Fernando Prado, giám mục của Bilbao, đã kêu gọi mọi người phản đối vụ việc bằng cách chọn các kênh truyền hình khác vào năm tới.
Phản ứng của tổ chức luật sư Công giáo của Tây Ban Nha
Trong khi đó, tổ chức các luật sư Công giáo của Tây Ban Nha đã nộp đơn khiếu nại chống lại chủ tịch của Đài phát thanh truyền hình Tây Ban Nha, José Pablo López, và Yustres với cáo buộc phạm tội thù hận theo Điều 510 của Bộ luật Hình sự Tây Ban Nha và một đơn khiếu nại khác vi phạm tình cảm tôn giáo theo Điều 525 của bộ luật.
Tổ chức này cũng cáo buộc "các cuộc tấn công vào các Kitô hữu đang được sử dụng để gây tranh cãi và do đó tăng lượng người xem, điều đã xảy ra với lễ khai mạc Thế vận hội Olympic" và "việc sử dụng hình ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu với [con bò đực] trên 'Gran Prix' biểu thị sự khinh miệt và chế giễu rõ ràng đối với các nghi lễ và biểu tượng của Công giáo và cấu thành sự xúc phạm, lăng mạ và phẫn nộ đối với tình cảm tôn giáo và niềm tin Công giáo".
Lễ thánh hiến sẽ diễn ra vào lúc 11 giờ sáng ngày 10 tháng Giêng, sau đó là buổi tiếp tân với sự hiện diện của các vị lãnh đạo chính quyền, các đại sứ, và các chức sắc của Giáo hội địa phương.
Thứ Bảy, ngày 11 tháng Giêng, Đức Hồng y Parolin sẽ gặp gỡ Hàng giáo sĩ và tu sĩ Giordani, và có thể ngài sẽ thăm tổ chức bác ái Caritas Giordani cũng như Cơ quan cứu trợ Công giáo Hoa Kỳ. Ban chiều, Đức Hồng y sẽ gặp đại diện các Giáo hội Kitô và cũng sẽ có cuộc trao đổi với Ngoại trưởng Giordani, ông Ayman Safadi và một vài vị đại sứ.
Chúa nhật, ngày 12 tháng Giêng, Đức Hồng y Quốc vụ khanh sẽ được Quốc vương Abdullah của Giordani tiếp kiến, rồi ngài viếng thăm nhà thờ Công giáo Latinh ở Madaga, trước khi cử hành thánh lễ tại đền thánh trên núi Nebo, cao 817 mét, cùng với cha Phanxicô Patton, Bề trên Dòng Phanxicô tại Thánh địa. Nebo là nơi có mộ của ông Môsê.
Vì cuộc viếng thăm trên đây, Đức Hồng y Parolin sẽ không có mặt tại Vatican, khi Tổng thống Mỹ, ông Joe Biden đến viếng thăm từ giã Tòa Thánh. Cuộc gặp gỡ giữa Tổng thống Biden và Đức Thánh cha dự kiến sẽ diễn ra vào ngày 10 tháng Giêng tới đây. Tuy nhiên trước đó, thứ Năm, ngày 09 tháng Giêng, Đức Thánh cha sẽ tiếp kiến Đoàn Ngoại giao các nước cạnh Tòa Thánh, nhân dịp đầu năm mới. Trong diễn văn quan trọng nhân dịp này, chắc chắn ngài sẽ cập đến nhiều vấn đề thời sự, trong đó có tình hình Ucraina và Trung Đông.
Hiện nay trên thế giới, 184 quốc gia có tương quan ngoại giao với Tòa Thánh và 12 nước khác không có quan hệ ngoại giao hoàn toàn, trong số này 8 nước không có đại diện nào của Tòa Thánh, nổi bật trong đó có Afghanistan, nơi mà từ sau khi nhóm Taliban trở lại nắm quyền tại đây, không có thánh đường nào được hoạt động. Trước đó, trong khuôn viên Đại sứ quán Ý có một nhà nguyện, nhưng rồi đại sứ quán này đóng cửa dưới chế độ mới, và các cha dòng thánh Barnabê coi sóc nhà nguyện, cũng phải rời bỏ Afghanistan.
Một quốc gia khác không có đại diện nào của Tòa Thánh, là Arập Saudi. Dầu vậy, Tòa Thánh cũng có một số tương quan không chính thức với nước này. Ví dụ, Tòa Thánh tham dự, như một quan sát viên, việc thành lập “Trung tâm đối thoại liên tôn, gọi tắt là KAICIID, được Arập Saudi bảo trợ và có trụ ở tại Vienne bên Áo.
Trung Quốc không có tương quan ngoại giao nào với Tòa Thánh. Tòa Sứ thần Tòa Thánh tại Đài Bắc, từ năm 1979, không có vị Sứ thần, nhưng có một Đức ông Đại biện. Ngoài ra, có một Sứ bộ ngoại giao của Tòa Thánh, gọi là “Sứ bộ nghiên cứu”, đặt tại Hong Kong, và chính thức gắn liền với Tòa Sứ thần Tòa Thánh tại Philippine. Năm 2016, lần đầu tiên, Niên giám Tòa Thánh có ghi địa chỉ và số điện thoại của Sứ bộ này ở Hong Kong. Sau khi gia hạn hiệp định giữa Trung Quốc và Tòa Thánh hồi tháng Mười năm vừa qua. Đức Hồng y Parolin, Quốc vụ khanh cho biết Tòa Thánh cũng sẵn sàng di chuyển Văn phòng nghiên cứu này từ Hong Kong về Bắc Kinh.
Không có mối quan hệ ngoại giao nào giữa Tòa Thánh với Triều Tiên hay Bắc Hàn, Bhutan, Maldive và Tuvalu.
Tuy không có sứ thần, nhưng Tòa Thánh có Khâm sứ Tòa Thánh, tức là Đại diện của Đức Giáo hoàng cạnh Giáo hội địa phương, nhưng không có tính cách ngoại giao trước mặt chính quyền dân sự, tại một số nước, như Comore, Somalia bên Phi châu, Brunei và Lào. Tại hai nước này, cũng đã có hồng y. Đức Thánh cha đã bổ nhiệm một Hồng y tại Brunei, nhưng tiến chức đã qua đời đột ngột hồi năm ngoái, và không hề được trao mũ hồng y vì không thể đến Roma trong thời đại dịch Covid-19. Quốc gia Lào cũng có một hồng y, là đại diện Tông tòa ở Viên Chăn, nhưng Đức Hồng y người Lào cũng mới từ nhiệm và nghỉ hưu
Hành động cải cách cuối cùng của Đức Phanxicô là bổ nhiệm Giám đốc Cơ quan Giám sát và Thông tin Tài chính, ông cũng giữ chức phó chủ tịch. Một lựa chọn Đức Phanxicô đi lui một bước so với con đường đặc biệt về minh bạch tài chính do Đức Bênêđíctô XVI khởi xướng và đã làm cho quốc tế hài lòng, quay trở lại một cách hiệu quả mô hình dường như đã lỗi thời: mô hình trên danh nghĩa, các chủ tịch nước và các cơ quan quản lý bị lẫn lộn về sự hợp tác trong các cơ quan của Vatican, không hoạt động đầy đủ khi nói đến việc có một cơ cấu hiện đại cho Nhà nước.
Một cách nào đó, quyết định này phản ánh con đường Đức Phanxicô cải cách Giáo triều khởi xướng khi ngài được bầu. Các thể chế đã được thành lập theo thứ tự: một Hội đồng Hồng y, vẫn họp nhưng bây giờ nói về việc áp dụng tính đồng nghị nhiều hơn là về cải cách; hai ủy ban về Viện Công tác Tôn giáo và về cơ cấu kinh tế và hành chính; một hội đồng và một ủy ban tái cơ cấu truyền thông.
Tất cả trước tiên là để góp phần tạo một cơ cấu kinh tế mới cho Tòa thánh, được thực hiện qua các thử nghiệm và qua các sai sót, để qua một bên các con đường cải cách trước đó. Tất cả được đặt vấn đề lại. Quá trình củng cố luật lệ của Vatican cũng đã có nhiều điều chỉnh khác nhau, trong trường hợp này cũng có những bước thụt lùi. Giống như khi quyết định tất cả thẩm phán Vatican có thể làm việc bán thời gian, trong khi các cuộc cải cách và yêu cầu quốc tế yêu cầu ít nhất có một thành viên làm việc toàn thời gian cho Tòa thánh.
Sau cuộc cải cách Giáo triều ra đời gần như bất ngờ năm 2022, hai năm qua Đức Phanxicô đã có những điều chỉnh, làm cho cuộc cải cách thích ứng với các hoàn cảnh mới, không lo đi chệch khỏi con đường đã có lúc bắt đầu.
Trong suốt 11 năm, Tự sắc Motu Proprio trên trang web của Vatican liệt kê 77 điều khoản. Trong số này có những biện pháp tối thiểu, cũng như việc ban hành Nội quy của các cơ quan mới của Vatican. Trong năm qua, chỉ có bảy tự sắc, nhưng chúng rất có ý nghĩa.
Tháng 1 năm 2024, Đức Phanxicô ban hành sắc lệnh liên quan đến các quy định pháp lý tại Thành quốc Vatican. Đó là điều khoản nhắc lại về các biện pháp quản lý, tất cả được dán ở Sân Damaso, trước cửa Bưu điện và Dinh Thống đốc. Tóm lại, không cần thiết phải đợi các điều khoản được công bố trong Acta Apostolicae Sedis (Công báo Tông tòa).
Ngày 28 tháng 2, Đức Phanxicô công bố Munus Tribunalis (Văn phòng Tòa án) sửa đổi luật Tòa án tối cao của Tông tòa Signatura. Vatican News cho biết những thay đổi này là “tối thiểu”, trên hết đó là điều chỉnh từ vựng về thuật ngữ và ngôn ngữ để hài hòa với ngôn ngữ của “tòa chống án” của Vatican với ngôn ngữ được thiết lập với Tông hiến Anh em hãy rao giảng Tin Mừng Praedicate Evangelium hoặc với cuộc cải cách chung của Giáo triều.
Cuộc cải cách nêu rõ Tông tòa Signatura có thẩm quyền rõ ràng với “các tòa án hình sự quốc gia” do một số Giáo hội địa phương thành lập. Trong nhiều trường hợp, việc sửa đổi các đoạn văn chỉ đơn giản là thay thế từ “Thánh Bộ” trong luật Signatura bằng từ “cơ quan giáo triều”, nhưng đồng thời làm tăng thẩm quyền của nó.
Thuật ngữ “bộ” trước đây bao gồm nhiều cấp khác nhau của các cơ quan giáo triều, và cũng bao gồm các Bộ và Hội đồng Giáo hoàng. Với Tông hiến Praedicat Evangelium, tất cả đều là các bộ, Đức Phanxicô đã thành lập nhiều tổ chức giáo triều mới, phải được đưa vào thẩm quyền của Tông tòa Signatura như văn phòng Tổng Kiểm toán, Hội đồng Kinh tế, Ủy ban Réservé cũng như Văn phòng Nhiếp chính Camerlengo.
Trên thực tế, Camerlengo chủ trì một ủy ban gồm ba hồng y, trong số đó luôn có chủ tịch Hội đồng Kinh tế, nhưng không còn Tông Tòa bên cạnh nữa, đã biến mất trong cuộc cải cách của Đức Phanxicô.
Quả mâm xôi ở Vatican
Vì vậy, cuộc cải cách cũng xác định ai có thể là thành viên của Tông tòa. Với luật năm 2008, các thành viên của Tòa án Tối cao Tông tòa Signatura là một nhóm hồng y và giám mục được Giáo hoàng bổ nhiệm, và cũng là một số giáo sĩ có danh tiếng tốt, tiến sĩ giáo luật và có kiến thức giáo luật đặc biệt. Với cuộc cải cách, từ giáo sĩ được thay thế bằng từ “linh mục” và do đó khả năng trở thành thành viên hạn chế dành cho các linh mục và giám mục, ngoại trừ các lời đối thoại. Đây cũng là trường hợp của Tông hiến Anh em hãy rao giảng Tin Mừng Praedicate Evangelium, nhưng sự thay đổi này thực sự không được giải thích.
Đúng là Đức Bênêđíctô XVI đã nói rõ trong Hội nghị Omnium in Mentem (Tất cả trong Tinh thần), một phó tế ngay cả khi được thụ phong, cũng không hành động nhân danh Chúa Kitô. Tuy nhiên, cũng đúng là sự thay đổi về thuật ngữ không thể được xem là một hài hòa đơn thuần, nhưng đúng hơn là một hạn chế, trong số những điều đi ngược lại ý tưởng về tính đồng nghị do Đức Phanxicô đưa ra, nhưng phản ánh rất nhiều một thực tiễn.
Ngày 27 tháng 3 năm 2024, Đức Phanxicô công bố một tự sắc khác với những sửa đổi với Luật Hệ thống Tư pháp, các quy định về phẩm giá nghề nghiệp và đối xử kinh tế với các thẩm phán thông thường của Tòa án, văn phòng Cổ động Công lý và Quy định chung của Quỹ hưu trí.
Đây là một điều khoản có ba nhóm quy tắc. Kỷ luật về việc chấm dứt chức vụ thẩm phán được đề cập đến, trong số những điều khác, bằng việc sửa đổi luật về Hệ thống Tư pháp Vatican lần thứ ba. Sau đó, nhóm quy tắc thứ hai, liên quan đến khả năng bồi thường và đền bù trong trường hợp quản lý quy trình không tốt. Và cuối cùng là nhóm quy tắc thứ ba, liên quan đến cách đối xử kinh tế với các thẩm phán, giúp cải thiện hoàn toàn điều kiện của các thẩm phán.
Việc xử lý tài chính với các thẩm phán đã là chủ đề của một điều khoản được đưa ra trước khi có phán quyết trong phiên tòa xét xử về việc quản lý quỹ của Bộ Ngoại giao, trong đó trên thực tế đã phân loại các thẩm phán, mặc dù bán thời gian, trong số các ban, các nhà điều hành.
Đây là những việc làm rõ thủ tục nhưng cũng có những vấn đề gai góc. Chẳng hạn khả năng bổ nhiệm một “phụ tá chánh án” xét xử với chức năng gián tiếp, để “đảm bảo thời gian xét xử hợp lý”, với một điều khoản trên thực tế có nguy cơ làm mất tính hợp pháp của chánh án.
Về vấn đề lương, Quy định chung của Quỹ hưu trí cũng được thay đổi. Và đây là chủ đề cần được hiểu. Gần đây Đức Phanxicô đã bổ nhiệm Hồng y Kevin J. Farrell, người quản lý duy nhất của Quỹ hưu trí, việc trả lương cũng được mở rộng cho những người phục vụ một thời gian ngắn ở Vatican, hoặc chỉ phục vụ một phần thời gian. Có thực sự có một cuộc khủng hoảng trong Quỹ Hưu trí, hay các biện pháp đang được khắc phục tình trạng đỏ trong các bộ phận tài chính khác của Vatican, rút ra từ chính quỹ hưu trí không?
Cuối cùng, có một tự sắc không liên quan đến Giáo triều Rôma nhưng liên quan đến giáo phận Rôma. Với Vẻ đẹp Đích thực, ngày 1 tháng 10 năm 2024, Đức Phanxicô đã can thiệp vào cơ cấu của giáo phận Rôma, bãi bỏ khu vực trung ương.
Một quyết định được cho là phản ứng mục vụ với sự phân chia giữa trung tâm lịch sử và vùng ngoại vi. Trung tâm lịch sử được “tích hợp” vào sự năng động của các vùng ngoại vi, để – như được giải thích trong tự sắc – thúc đẩy sự thống nhất lớn hơn trong việc quản lý mục vụ và làm cho trung tâm lịch sử trở nên dễ tiếp cận hơn cho tất cả tín hữu trong Giáo phận, không chỉ những người hành hương và khách du lịch.
Đó là đòn giáng mới nhất vào giáo phận Rôma, trong năm qua đã chứng kiến ba phụ tá rời đi, trong một số trường hợp không được thay thế bằng các phụ tá khác mà bằng các đại diện giám mục, và giáo phận này đã được Đức Phanxicô cải cách cơ cấu một cách sâu sắc.
Do đó, ngay cả giáo phận của Đức Giáo hoàng cũng trở thành một phần của một cuộc cải cách tổng thể, trên thực tế, đã phá bỏ các cơ cấu cũ. Tuy nhiên, các cấu trúc mới được thực hiện qua các thử nghiệm và qua các sai sót. Với những bước đi tới và những bước đi lui. Đây là cách thực hiện cuộc cải cách của Đức Phanxicô.
Chính Tổng thống thông báo quyết định này với Đức Thánh cha, trong cuộc điện đàm hôm 11 tháng Giêng vừa qua. Lẽ ra, hai vị gặp nhau trong ngày 10 tháng Giêng trước đó, trong cuộc viếng thăm giã từ mà Tổng thống Biden dự kiến thực hiện tại Ý, nhưng vì hỏa hoạn tại Los Angeles khiến ông phải hủy bỏ chuyến đi.
Cuộc điện đàm ngày 11 tháng Giêng vừa rồi, giữa Tổng thống Mỹ và Đức Thánh cha Phanxicô tiếp theo lần điện thoại trước đó, ngày 20 tháng Mười Hai năm 2024, trong đó có vấn đề các quyền con người, đặc biệt là Đức Thánh cha bày tỏ quan tâm vì số phận các tù nhân đang bị giam trong các khu tử tội ở các nhà tù liên bang của Mỹ. Sau cuộc nói chuyện này, Tổng thống Biden đã cải án tử hình cho 37 tử tội nam nữ thành án tù chung thân.
Thông cáo của Nhà Trắng cho biết Tổng thống Biden đã “cám ơn Đức Thánh cha vì sự dấn thân liên lỉ của ngài để thoa dịu những đau khổ trên thế giới, kể cả những cố gắng nhắm thăng tiến các quyền con người và bảo vệ tự do tôn giáo”. Tóm lại, đó cũng là những lý do khiến Tổng thống Biden quyết định trao tặng Huân chương tự do cho Đức Thánh cha, như ông đã trao tặng trước đó một tuần cho 19 nhân vật thuộc giới chính trị và nghệ thuật, “đã góp phần đặc biệt cho sự thịnh vượng, các giá trị hoặc cho an ninh của Mỹ, cho hòa bình trên thế giới và những cố gắng quan trọng khác về xã hội, công và tư”.
Đây không phải là lần đầu tiên một vị Giáo hoàng được trao tặng Huân chương tự do của Mỹ. Ngày 04 tháng Sáu năm 2004, Tổng thống George W. Bush đã trao tặng huân chương này cho Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong cuộc viếng thăm của ông tại Vatican.
Thông cáo cũng giải thích thêm: "Cánh tay phải của ngài đã được cố định như một biện pháp phòng ngừa".
Sáng 16/01/2025, Đức Thánh Cha vẫn giữ lịch trình làm việc và các cuộc tiếp kiến vẫn diễn ra. Cụ thể ngài tiếp bà Nosipho Nausca-Jean Jezile, Chủ tịch Uỷ ban An ninh Lương thực Thế giới; phái đoàn Hồi giáo Bektashi đến từ Albania; và ban giám đốc, giáo sư và sinh viên trường nội trú dành cho các linh mục Argentina đang học ở Roma
Đức Hồng Y Schönborn nói với hãng tin Kathpress: “Nhiều người coi tôn giáo là nguyên nhân gây ra xung đột. Cùng nhau, chúng tôi tin rằng tôn giáo không phải là vấn đề, nhưng ít nhất là một phần quan trọng của giải pháp cho vấn đề".
Thực tế, sau 30 năm làm Tổng Giám Mục Vienne, điều rất quan trọng đối với Đức Hồng Y là tái khẳng định sự dấn thân của ngài đối với sự chung sống hòa bình của các tôn giáo. Ngài nhắc lại rằng trong những thập kỷ gần đây ở Áo, các tôn giáo đã nỗ lực làm việc để “đặt tên cho những vết thương trong quá khứ” và tìm cách hòa giải.
Chủ tịch cộng đồng tôn giáo Hồi giáo Vural cảm ơn Đức Hồng Y Schönborn vì lời mời tham gia Tuyên bố chung cũng như về nhiều cuộc họp và sáng kiến trước đó. Ông nói, đối thoại liên tôn giáo là một trụ cột quan trọng để đảm bảo hòa bình và gắn kết.
Rabbi trưởng Engelmayer cũng ca ngợi sáng kiến của Đức Hồng Y Schönborn và nhấn mạnh rằng không phải tự nhiên mà các cộng đồng tôn giáo ở Áo có thể hiểu nhau như hiện nay. Rabbi nói: “Chúng tôi đang chứng minh rằng các tôn giáo có thể chung sống cách hoà bình và tôn trọng, sống cùng với nhau là cách để làm phong phú, và mong muốn sống và có thể sống hoà bình với nhau ở đất nước này”.
Hôm mùng 10 tháng Giêng vừa qua, hãng tin Công giáo Mỹ CNA nhắc lại rằng: “Đức Thánh cha thường kêu gọi hòa bình và lên án những hành động của quân đội Israel bắn vào các thường dân” và nay các lãnh tụ này kêu gọi Đức Giáo hoàng đừng đưa ra những lời kêu gọi như thế.
Trong thư đề ngày 30 tháng Mười Hai năm 2024, gửi Đức Giáo hoàng Phanxicô, họ bày tỏ quan tâm vì những bình luận của Đức Giáo hoàng liên quan đến cuộc chiến tranh tự vệ của Israel chống Hamas và viết rằng: “Chúng tôi đánh giá cao quan tâm của ngài về đau khổ của các thường dân vô tội và muốn phổ biến hòa bình và cảm thương trên thế giới, nhưng những tuyên bố của ngài chỉ xuyên tạc chiến dịch quân sự hợp pháp của Isrel và nuôi dưỡng trào lưu bài Do thái và chĩa mùi dùi bất công vào nhà nước Israel.”
Lá thư của các lãnh tụ này nhắc đến diễn văn của Đức Giáo hoàng nói với Hồng y đoàn đến chúc mừng ngài, ngày 21 tháng Mười Hai năm 2024, nhân lễ Giáng sinh. Đức Giáo hoàng mở đầu bài diễn văn và nói: “Hôm qua, Đức Thượng phụ Công giáo Latinh Jerusalem không được phép vào Gaza, như đã (được Israel) hứa; và hôm qua, các trẻ em bị dội bom. Thật là điều tàn ác. Đây không phải là chiến tranh. Tôi muốn nói với anh chị điều này vì nó đánh động tâm hồn tôi”.
Theo các lãnh tụ Do thái, tuyên bố của Đức Giáo hoàng không “nhìn nhận quyền của Israel được tự vệ sau cuộc thảm sát, ngày 07 tháng Mười năm 2023, khi những tên khủng bố Hamas sát hại 1.200 thường dân vô tội và bắt giữ 251 con tin, trong đó 101 người còn bị giữ”.
“Hơn nữa, Đức Giáo hoàng không nhìn nhận Hamas sử dụng các khiên thuẫn người và các cơ cấu dân sự vào mục tiêu khủng bố, gây nguy hiểm cho toàn dân chúng ở Gaza”.
Trang mạng CNA nhận xét rằng đây không phải là lần đầu tiên tuyên bố của một lãnh tụ Công giáo về quan hệ giữa Israel và Hamas bị Israel phê bình. Đại sứ quán Israel cạnh Tòa Thánh hồi tháng Sáu năm ngoái đã bênh vực quyền của Israel được tự vệ, sau một tuyên ngôn của các vị lãnh đạo Công giáo tại Thánh địa cho rằng chiến dịch của Israel tiếp tục tại Gaza không phải là một cuộc chiến tranh chính đáng.
Trong một thông cáo báo chí, Hội đồng - gồm tất cả các Giám mục Công giáo tại Giêrusalem, Palestine, Israel, Jordan và đảo Sýp – chào mừng thông báo ngừng bắn ở Gaza và bày tỏ hy vọng rằng lệnh ngừng bắn sẽ chấm dứt đau khổ do bạo lực gây ra trong 15 tháng xung đột.
Tuy nhiên, các vị mục tử cũng nhấn mạnh rằng kết thúc chiến tranh không có nghĩa là chấm dứt xung đột. Hoà bình thực sự và lâu dài chỉ có thể đạt được qua một giải pháp công bằng giải quyết tận gốc nguyên nhân của cuộc xung đột kéo dài này. Đó là tạo ra “một quá trình dài” để giải quyết các vấn đề sâu xa ở trung tâm của cuộc xung đột, để chứng tỏ ý muốn cùng nhận ra những đau khổ của nhau và thúc đẩy một nền giáo dục hướng đến lòng tin tưởng, vượt qua nỗi sợ hãi người khác và biện minh cho bạo lực như một công cụ chính trị.
Về vấn đề này, thông cáo báo chí của các Giám mục kêu gọi cộng đồng quốc tế “phát triển một tầm nhìn chính trị rõ ràng và công bằng cho giai đoạn hậu chiến”, vì một tương lai được xây dựng trên “nhân phẩm, an ninh và tự do cho tất cả các dân tộc là điều kiện tiên quyết cho một nền hoà bình thực sự và lâu dài”.
Các Giám mục nói thêm rằng rất mong những người hành hương trở lại để kính viếng các Địa điểm Thánh. Đó là những nơi cầu nguyện và bình an. Thực tế, trước đây, các Kitô hữu hành hương thường đến các địa điểm thánh ở Palestine và Israel quanh năm, nhưng kể từ khi chiến tranh nổ ra vào tháng 10/2023, họ gần như biến mất hoàn toàn - gây ra hậu quả kinh tế thảm khốc cho nền kinh tế địa phương phụ thuộc vào du lịch.
Cuối cùng, các các Giám mục cũng nhắc đến Năm Thánh 2025 của Giáo hội, với chủ đề “Những người hành hương hy vọng”, coi lệnh ngừng bắn là “một dấu hiệu nhắc nhở chúng ta về lòng thành tín của Chúa”.
Ngày 16/01, Qatar và Mỹ, hai bên trung gian hòa giải cho thỏa thuận ngừng bắn tại Dải Gaza, đã thông báo chính thức về thỏa thuận ngừng bắn và trao trả con tin giữa Israel và lực lượng Hamas.
Đối với cha Patton, trong giai đoạn này, điều quan trọng là không để Israel và Hamas đơn độc. Trong thời kỳ giao tranh, cộng đồng quốc tế vắng mặt, giờ đây cần phải làm cho mọi người hiểu rằng cộng đồng này vẫn còn tồn tại và vẫn duy trì khả năng xây dựng.
Tuy nhiên, theo Bề trên Dòng Phanxicô ở Thánh Địa, thoả thuận ngừng bắn ở Dải Gaza không được trở thành cái cớ để biến Bờ Tây thành một Gaza mới. Cha hy vọng tác động của lệnh ngừng bắn ở Gaza cũng sẽ mang lại điều tích cực cho Bờ Tây.
Hướng đến các gia đình của các con tin người Israel, cha cho rằng thoả thuận này có thể mở ra hy vọng sau nhiều tháng nỗ lực không thành trong việc giải thoát họ. Nhưng sẽ là một ý tưởng tốt đẹp nếu các bên liên quan, từ những gì khủng khiếp và đau đớn của cuộc chiến, học được rằng người ta không thể tiếp tục như thế, bởi vì nếu tiếp tục như vậy có nghĩa là thêm đau khổ vào đau khổ, thêm lo sợ vào lo sợ, và làm cho tương lai thêm bất ổn. Nếu chúng ta muốn đảm bảo tương lai cho tất cả mọi người, cách duy nhất là chấp nhận lẫn nhau.
Một khía cạnh quan trọng của thoả thuận liên quan đến viện trợ nhân đạo cho người dân Gaza. Về vấn đề này, cha Patton cảnh báo nguy cơ viện trợ trở thành mục tiêu cướp bóc và trộm cắp của các băng đảng có vũ trang. Để tránh điều này, cần phải trao cho Gaza một hình thức quản lý nào đó, một cơ cấu tối thiểu, cả về hành chính và cảnh sát. Thực vậy, dân chúng đã kiệt sức, vì thế phải có người điều hành không chỉ đối với các xe tải chở hàng nhưng còn phải đồng hành trong việc phân phối hàng hoá một cách trật tự.
Donald Trump, Tổng thống tương lai thứ 47 của Mỹ sẽ nhậm chức ngày 20 tháng 1 năm 2025, ông đề cử Brian Burch làm Đại sứ Mỹ tại Vatican, chức vụ này đã bị bỏ trống kể từ ngày 8 tháng 7. Ngày 20 tháng 12, ông viết trên trang Truthsocial: “Tôi hân hạnh thông báo ông Brian Burch sẽ là Đại sứ Hoa Kỳ tại Tòa thánh. Ông Brian Burch, 49 tuổi, sống ở Chicago là người công giáo mộ đạo, cha của chín đứa con và là chủ tịch của CatholicVote (…). Ông đại diện cho tôi trong cuộc bầu cử vừa qua, ông có được phiếu của cử tri công giáo nhiều hơn bất kỳ ứng cử viên tổng thống nào trong lịch sử!”
CatholicVote là tổ chức phi chính phủ bảo thủ không có quan hệ nào với Giáo hội Công giáo Hoa Kỳ. Tổ chức này dự vào cuộc chiến chống nhập cư, phá thai và hôn nhân đồng giới. Trong chiến dịch tranh cử Tổng thống vừa qua, người đồng sáng lập CatholicVote năm 2008 và chủ tịch Brian Burch đã trình bày chi tiết trong một bài đăng trên blog về kỹ thuật ông dùng để có được phiếu của người công giáo ở các bang chiến lược như Wisconsin, Michigan, Pennsylvania, Arizona và Florida.
Vatican và Cơ quan tình báo FBI
Kỹ thuật này được gọi là “hàng rào địa lý” bao gồm việc định vị địa lý qua các ứng dụng, khuyến khích cử tri bỏ phiếu qua các quảng cáo có mục tiêu. Người công giáo ở các bang này thường xuyên đi lễ (ít nhất 3 lần trong 90 ngày). Ông Brian Burch viết: “Những cử tri quan trọng nhất mà chúng tôi cần thuyết phục đang ngồi cạnh bạn mỗi ngày chúa nhật!”
Ông cho biết: “Quan điểm chính trị của họ không giống nhau, nhưng dữ liệu cho biết 60 đến 70% là tín hữu công giáo.” Theo một thăm dò ý kiến do Washington Post thực hiện, 59% người công giáo bỏ phiếu cho Donald Trump ngày 5 tháng 11 năm 2024 – nhiều hơn 20 điểm so với Kamala Harris. Năm 2020, 52% ủng hộ đảng viên Đảng Dân chủ Joe Biden, tổng thống công giáo thứ hai của Hoa Kỳ. Theo Diễn đàn Nghiên cứu Pew, 20,8% người Mỹ theo đạo công giáo.
Trên mạng xã hội, trong một số trường hợp, ông ủng hộ các hồng y chống lại Đức Phanxicô như Hồng y Raymond Burke, nuôi dưỡng ý tưởng cho rằng Giáo hoàng chống lại người công giáo truyền thống. Tháng 4 năm 2023, ông viết trên Twitter: “Thật là một trùng hợp kỳ lạ khi FBI thừa nhận đã hợp tác với chính quyền giáo phận để thâm nhập vào các cộng đồng Thánh lễ Latinh (ủng hộ) vào đúng thời điểm mà Giáo hoàng và các người khác đang phạt các giáo xứ đó? Những lãnh đạo Giáo hội nào đang nói chuyện với FBI?”
Vài tháng sau, ngay sau phiên họp đầu tiên của Thượng hội đồng về tính đồng nghị tại Rôma, trên Twitter, vị đại sứ tương lai đã chỉ trích trực tiếp “các hành động của Đức Phanxicô về việc khuyến khích người công giáo tiến bộ, cảnh báo họ tính đồng nghị chỉ là một mưu mẹo.” Sau thông báo về việc bổ nhiệm, Chủ tịch CatholicVote tuyên bố cam kết “làm việc với các nhà lãnh đạo Vatican và chính quyền mới của Tổng thống Donald Trump để thúc đẩy phẩm giá của tất cả các dân tộc và lợi ích chung”.
Hoa Kỳ ủng hộ những người công giáo đóng vai trò trong chiến dịch tranh cử
Giống như hầu hết những người tiền nhiệm của ông, ông Brian Burch sẽ đến Rôma mà không có một kinh nghiệm ngoại giao nào. Một quan sát viên cho biết: “Các nước lớn duy trì quan hệ ngoại giao với Tòa thánh thường cử các nhà ngoại giao chuyên nghiệp đến Vatican, ngoại trừ Hoa Kỳ, họ gởi người công giáo đảm nhận vị trí chiến lược này.”
Với công việc này, thường các nhà ngoại giao giàu kinh nghiệm được bổ nhiệm làm việc ở Tòa Thánh trong nửa sau sự nghiệp của họ. Trước khi đến Tòa Đại sứ Pháp ở Villa Bonaparte, đại sứ Pháp Florence Mangin đã là đại sứ Pháp ở Bồ Đào Nha. Đồng nghiệp người Bỉ Bruno van der Pluijm trình ủy nhiệm thư lên Đức Phanxicô ngày 19 tháng 12 đã là đại sứ ở Tunisia và Trung Quốc. Akira Chiba (Nhật Bản) đã là đại sứ ở Trung Quốc, Iran và Mỹ. Đại sứ Anh Chris Trott đã làm việc ở Miến Điện, Nhật Bản, Afghanistan… Danh sách các đại sứ như thế này rất dài.
Các đại sứ được chọn của Mỹ thường rất khác nhau và mang tính chính trị. Người tiền nhiệm ông Brian Burch là cựu thượng nghị sĩ Đảng Dân chủ Joseph Donnelly, đã về Mỹ ngày 8 tháng 7 để tham gia vận động tranh cử cho Tổng thống Joe Biden. Trong nhiệm kỳ đầu tiên của Tổng thống Donald Trump, ông đã bổ nhiệm bà Callista Gingrich, vợ của ứng cử viên tranh cử sơ bộ Đảng Cộng hòa năm 2012 Newt Gingrich vào Vatican. Bà kế nhiệm nhà nhân đạo Ken Hackett, luật gia Mary-Ann Glendon và giáo sư thần học Miguel Diaz. Học giả Minnesota này với quan điểm tiến bộ về phá thai và nghiên cứu tế bào gốc đã được Barack Obama cử đến Vatican năm 2009.
Từ lâu Tòa Thánh và Hoa Kỳ không duy trì quan hệ ngoại giao. Không có đại diện chính thức nào của Hoa Kỳ hiện diện ở tiểu bang nhỏ nhất thế giới giữa thời sụp đổ của các Quốc gia Giáo hoàng vào cuối thế kỷ 19 và năm 1984. Đại sứ Mỹ đầu tiên tại Tòa thánh là kỹ sư William A. Wilson, bạn thân của cựu Tổng thống Ronald Reagan
Trong một sắc lệnh do Tòa thánh ban hành vào tháng trước, các lệnh trừng phạt bằng tiền và án tù đối với những người vi phạm các quy định an ninh nghiêm ngặt của Thành phố Vatican đã được tăng đáng kể.
The document, signed by Cardinal Fernando Vérguez Alzaga, president of the Pontifical Commission for Vatican City State, provides for monetary fines ranging from 10,000 to 25,000 euros (about $10,200 to $25,700) and prison sentences ranging from one to four years .......
Văn bản do Hồng y Fernando Vérguez Alzaga, chủ tịch Ủy ban Giáo hoàng về Nhà nước Thành phố Vatican ký, quy định mức phạt tiền từ 10.000 đến 25.000 euro (khoảng 10.200 đến 25.700 đô la) và án tù từ một đến bốn năm...
Ngày thứ năm 9 tháng 1-2025, Hội đồng Giám mục Ý (CEI) công bố bản hướng dẫn trong đó có điều kiện chấp nhận các ứng viên đồng tính vào chức linh mục. Công bố này tạo tranh cãi ở Ý và nhiều nơi khác.
Các định hướng và chuẩn mực được Hội đồng Giám mục Ý lần thứ 78 tổ chức tại Assisi từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 11 năm 2023 đã được thông qua.
Hội đồng Giám mục Ý nêu rõ trên trang web: “Văn bản được Tòa thánh xác nhận qua sắc lệnh của Bộ Giáo sĩ, trình bày tiến trình đào tạo linh mục được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn đầu mang tính khai tâm để xây dựng sự gắn kết nội tại. Giai đoạn hai là khám phá Dân Chúa và để cộng đồng Kitô giáo tham gia nhiều hơn vào việc đào tạo các ứng viên chức linh mục.”
Văn bản này được đưa ra để thử nghiệm trong ba năm, có lẽ sẽ không được chú ý nếu không có câu “sự phân định không được giới hạn ở khuynh hướng đồng tính, nhưng là tầm nhìn toàn bộ về nhân cách ứng viên”. Tuy nhiên, Hội đồng Giám mục Ý nhắc lại, “sự khiết tịnh trong đời sống độc thân là điều kiện thiết yếu”. Các ứng viên được yêu cầu không ủng hộ “văn hóa đồng tính”.
Một tiến bộ “giả tạo”?
Một mở đầu không thể không gây tranh cãi, đặc biệt trên báo chí ở Ý và nhiều nơi khác. Một số cơ quan truyền thông hoan nghênh sự phát triển được cho là tích cực, hướng tới sự hòa nhập rộng hơn trong Giáo hội. Tuy nhiên, nhiều người chỉ trích các ”điều kiện” đặt ra cho các ứng viên đồng tính, họ xem đây là “đạo đức giả”.
Nhật báo Le Monde ngày 10 tháng 1-2025 lưu ý: “Những quy tắc gợi nhớ đến chính sách ‘không hỏi, không nói’ được quân đội Mỹ áp dụng trong nhiều năm, buộc các quân nhân đồng tính sống trong sợ hãi sẽ “bị trục xuất khỏi quân đội nếu bị phát hiện”.
Trang tin tức Ý ilsussidiario.net mỉa mai: “Trên thực tế, vấn đề không hề tồn tại: từ xa xưa, những người đồng tính đã là linh mục, họ giữ những vị trí quan trọng trong cộng đồng và không ai ngạc nhiên”. Một thực tế Đức Phanxicô xác nhận trong một câu nói đùa không phù hợp (sau đó ngài đã xin lỗi) ám chỉ có “bầu khí “frocciagine” tiếng lóng của người La-mã nói về người đồng tính, một từ ngữ mang tính xúc phạm khi nói về họ. ( được biết Giáo hoàng đã dùng từ ngữ “frociaggine” (làm tình bằng hậu môn) trong cuộc họp kín với các giám mục, và ông lại dùng từ này khi nói chuyện với khoảng 200 linh mục Ý để nói đến bầu khí và văn hóa trong giáo triều Rôma, nhắc lại kỷ luật của Giáo hội: chủng sinh có khuynh hướng đồng tính nặng sẽ không được nhận vào chủng viện. )
Có mâu thuẫn trong các văn bản?
Trang ilsussidiario.net nhấn mạnh: “Vì vậy, những gì chúng ta thấy trên bàn của Hội đồng Giám mục Ý chắc chắn không phải là điều mới mẻ, dù chúng hoàn toàn mới khi tuyên bố khuynh hướng tình dục này phù hợp với chức thánh.”
Điều này trái ngược với thực tế năm 2006, khi Bộ Giáo dục Công giáo với sự chấp thuận của Đức Bênêđíctô XVI đã quy định: “Nếu một ứng viên đồng tính hoặc có khuynh hướng đồng tính sâu đậm, vì lương tâm, linh hướng cũng như cha giải tội có nhiệm vụ thuyết phục họ không nên đi tiếp con đường chịu chức.” Những tuyên bố này có vẻ mâu thuẫn với nhau và chắc chắn sẽ tạo tranh cãi trong Giáo hội.
Trang web tiếng Pháp Tribune chrétienne nhấn mạnh: “Trước các câu hỏi này, không chỉ giáo dân nhưng cả linh mục đều chờ lời giải thích, vì đằng sau những tiêu chuẩn mới này không chỉ là tương lai của việc đào tạo linh mục mà còn là tương lai của nhận thức về Giáo hội trong một thế giới đang đi tìm điểm quy chiếu.”
Linh mục thần học gia Nicolas Glasson, phụ trách ơn gọi tại giáo phận Lausanne, Geneva và Fribourg (Thụy Sĩ) khẳng định với trang Công giáo Thụy sĩ, các chỉ thị tương tự như chỉ thị của Giáo hội Ý không nằm trong chương trình nghị sự. Đây là vấn đề tế nhị, cần được giải quyết theo từng trường hợp cụ thể. Nguyên tắc phân định của các nhà lãnh đạo chủng viện trước hết là xem xét con người trên cơ sở tài liệu của Bộ Giáo dục Công giáo năm 2006, linh mục Glasson lưu ý: “Điểm cần chú ý là xác định những gì có thể là khuynh hướng đồng tính ăn sâu như Văn bản năm 2006 của Bộ Giáo dục Công giáo đã mô tả. Liệu người đó có thể sống với khuynh hướng của mình mà không gây nguy hiểm không?”
Tài liệu mới của Hội đồng Giám mục Ý về đào tạo linh mục có tựa đề “Việc đào tạo linh mục trong Giáo hội Ý: Hướng dẫn và quy tắc cho các chủng viện” và được đăng vào ngày 9/1/2025 trên trang web của Bộ Giáo sĩ.
Những quy tắc được nói đến đã được các Giám mục Ý phê chuẩn vào tháng 11/2024 trong đại hội toàn thể diễn ra tại Assisi.
Đoạn 44 của tài liệu nêu rõ rằng “mục tiêu của việc đào tạo các ứng viên chức linh mục, trong phạm vi tình cảm-tính dục, là khả năng chấp nhận như một món quà, tự do lựa chọn và sống có trách nhiệm sự khiết tịnh trong đời sống độc thân”.
Cách giải thích sai
Trong một bài đăng ngày 10/1/2025 về vấn đề này, báo New York Times viết rằng “Vatican cho phép những người đàn ông đồng tính người Ý được đào tạo để trở thành linh mục, nếu họ vẫn độc thân” và rằng “theo các hướng dẫn mới của Giáo hội tại Ý, các ứng viên vào chủng viện không nên bị loại dựa trên khuynh hướng tính dục”.
Theo Đức Cha Manetti, cách giải thích này “không phải là cách hiểu đúng vì ở phần đầu đoạn văn này nhắc lại các chuẩn mực của giáo quyền”.
Trung thành với giáo huấn của Giáo hội
Theo báo Avvenire, đoạn 44 “lặp lại, từng chữ một, những gì được thiết lập trong số 199 của tài liệu do Bộ Giáo sĩ khi đó ban hành ngày 8/12/2016, có tựa đề là ‘Món quà của ơn gọi linh mục: Nguyên tắc căn bản về đào tạo linh mục. Tài liệu này lấy lại nội dung của hướng dẫn do Bộ Giáo dục Công giáo khi đó công bố vào năm 2005”.
Cả hai tài liệu đều nói rằng những người có khuynh hướng đồng tính luyến ái “tại căn” không thể được nhận vào các chủng viện.
Tài liệu “Món quà của ơn gọi linh mục” nêu rõ rằng “về những người có khuynh hướng đồng tính luyến ái tìm cách gia nhập chủng viện, hoặc phát hiện ra tình trạng như vậy trong quá trình đào tạo, Giáo hội, kiên định với giáo huấn của chính mình, trong khi tôn trọng sâu sắc những người này, không thể chấp nhận vào chủng viện hoặc vào chức thánh những người thực hành đồng tính luyến ái, thể hiện khuynh hướng đồng tính luyến ái sâu sắc hoặc ủng hộ cái gọi là ‘văn hóa đồng tính’. Trên thực tế, những người như vậy ở trong một tình huống cản trở nghiêm trọng đến việc họ có thể tương quan đúng đắn với nam giới và nữ giới”.
Giúp các ứng viên chức linh mục phân định
Báo Avvenire chỉ ra rằng điều mới trong tài liệu mới của Giáo hội Ý nằm ở “sự phân định” của các ứng viên, đặc biệt là trong ba năm đầu tiên của quá trình đào tạo.
Đức Cha Manetti giải thích với Avvenire: “Chúng tôi nhắm đặt con người lên hàng đầu bằng cách giúp các ứng viên chức linh mục làm sáng tỏ trong chính họ... một sự đồng hành để tự nhận thức mà thường thiếu ở các thế hệ trẻ và điều đó không loại trừ ngay cả những người trẻ mới vào chủng viện”.
Sách dày hơn 400 trang được nhà xuất bản Mondadori ở Ý ấn hành, trong đó Đức Thánh cha kể lại tiểu sử của ngài: lớn lên, học hỏi từ ông bà và cha mẹ di cư năm 1929 từ Ý sang Argentina, rồi giai đoạn làm Bề trên Dòng Tên tại nước này, dưới thời độc tài quân phiệt từ năm 1976 đến 1983.
Sách cũng trình bày những mong ước nòng cốt trong triều đại Giáo hoàng của ngài về hòa bình, bảo vệ môi trường, công bằng xã hội. Ngài chống lại chính sách mị dân và sự loại trừ người di dân, đồng thời kêu gọi thận trọng trước những kỹ thuật mới. Ngài tỏ ra lạc quan về tương lai của Giáo hội Công giáo.
Đức Thánh cha mạnh mẽ phê bình những người bảo thủ, bám víu vào truyền thống, đặc biệt là những người tiếp tục cử hành thánh lễ Latinh, theo nghi thức tiền công đồng, quay lưng với giáo dân. Thái độ cứng nhắc này đi liền với những áo lễ và phẩm phục phụng vụ đắt tiền, thêu thùa, và theo ngài đó, không phải là một sự trở về với thánh thiêng, nhưng là do tinh thần phe phái. Theo Đức Thánh cha, “nhiều khi những thói quen đó che đậy những thiếu quân bình nghiêm trọng, những xáo trộn về cảm xúc.” Ngài cho biết đã phải bốn lần đối phó với những vấn đề đó, ba vụ ở Ý và một vụ ở Paraguay.
Liên quan đến vấn đề này, Đức Thánh cha than phiền là luôn có những giáo phận chấp nhận những chủng sinh đã bị các chủng viện khác loại bỏ: “Thường thường, có những gì đó không ổn nơi các chủng sinh ấy, những điều đó khiến các ứng sinh ấy che đậy nhân cách của họ, đằng sau những quan niệm cứng nhắc và phe phái”.
Trong cuốn sách này, Đức Thánh cha cũng mô tả sự kháng cự trong nội bộ Giáo hội chống lại sự cởi mở đối với việc cho những người ly dị tái hôn lãnh nhận các bí tích và việc chúc lành cho những cặp đồng phái. Ngài mô tả sự kháng cự đó là “giả hình”. Đức Thánh cha nói: “Chủ trương truyền thống, bám víu và thái độ lạc hậu vẫn tái diễn trong mỗi thế kỷ, đó là một hiện tượng thú vị về phương diện xã hội học, vì nó luôn nói về một thời điểm được coi là hoàn hảo, nhưng thực ra mỗi thời đại khác nhau”.
Trong cuốn tiểu sử tự thuật, Đức Thánh cha cũng nói tới những tình hình xã hội, chính trị. Ngài mạnh mẽ lên án cuộc tấn công khủng bố của Hamas chống Israel, vào ngày 07 tháng Mười năm 2023 và nói rằng: ngày ấy, một “chủ nghĩa man rợ mới” đã bắt đầu với cuộc tàn sát mà các thành viên lực lượng Hamas gây ra. Họ thảm sát người Israel không thương tiếc, các binh sĩ và thường dân”.
Tuy nhiên, Đức Thánh cha cũng lên án các cuộc tấn công của quân đội Israel: đó là một cuộc chiến tranh ảnh hưởng đến những thường dân không có khả năng tự vệ, thậm chí cả những nhân viên Caritas, những người phân phối viện trợ nhân đạo. Đó là một cuộc chiến khiến thường dân phải liên tục bị tai ương và đói khổ, nó cũng gây ra kinh hoàng như những hành động khủng bố vô nghĩa lý trước đó”.
Trong tiểu sử tự thuật, Đức Thánh cha không quên nói về cuộc sống tâm lý của ngài và nhắc lại những lần ngài đi khám bác sĩ phân tâm dưới thời chế độ độc tài quân phiệt ở Argentina, vì chứng loạn thần kinh và thiếu kiên nhẫn của mình, điều này cũng thỉnh thoảng tái diễn đối với ngài tại Vatican.
Chưa có Giáo hoàng nào tâm sự nhiều như vậy và cũng chưa có Giáo hoàng nào tường thuật đầy đủ về cuộc đời mình như ngài. Ngài thích công việc ngài làm: kể những giai thoại nhẹ nhàng hoặc bi thảm, đôi khi thêm vào những câu chuyện hài hước.
Đức Phanxicô, tên thật là Jorge Bergoglio kể cuộc đời ngài trong quyển tiểu sử “Hy vọng”. Kể từ đầu triều, ngài đã xuất bản hàng chục tác phẩm thiêng liêng nhưng chưa bao giờ ngài viết một cách cá nhân như vậy, ngay cả trong các cuộc phỏng vấn đôi khi ngài lồng vào đó những ký ức riêng tư. Trên thực tế, chưa bao giờ có một Giáo hoàng nào tâm sự nhiều đến vậy; không Giáo hoàng nào kể câu chuyện đời mình. Quyển sách dự kiến sẽ xuất bản ngay sau khi ngài qua đời nhưng “Hy vọng” đã thúc đẩy ngài xuất bản ngay bây giờ. Ngài làm một công việc mà ngài rất giỏi: kể những giai thoại nhẹ nhàng hoặc bi thảm, đôi khi hài hước, để rút ra bài học hy vọng cho thời chúng ta. Vì thế quyển hồi ký có tên: “Hy vọng”.
Điều đáng chú ý là một số cuộc gặp gỡ là nguồn cảm hứng cho cách ngài quản lý công việc của ngài. Từ người giúp việc đến cô gái mại dâm trong khu phố, từ các bạn cùng lớp đến các mối tình thuở thơ ấu, từ các nạn nhân của chế độ độc tài ở Argentina, quê hương ngài sinh ra, lớn lên và ở đó cho đến khi làm giáo hoàng… Nhiều vị trí và các quyết định của ngài bắt nguồn từ câu chuyện đời ngài và có thể được giải thích do hoàn cảnh phổ biến, thậm chí là bất lợi từ nơi ngài xuất thân. Chắc chắn ngài là Giáo hoàng đầu tiên của thời hiện đại xuất thân từ một gia đình di cư Ý khiêm tốn.
Mở đầu quyển tiểu sử, ngài lập tức ngài nhắc lại người dân của ngài đã phải liều mạng chạy trốn khỏi cảnh nghèo đói. Ngài đặc biệt nhấn mạnh đến câu chuyện ông bà nội phải rời quê cha đất tổ ở Piedmont nước Ý đi Argentina để mong có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Vì thế ngài không ngừng bảo vệ người di cư, đến mức vấn đề người di cư như một ám ảnh của ngài, do đó chúng ta hiểu vì sao ngài không ngừng bảo vệ người di cư, vì ngài xem mình là người như họ. Từ trước đến nay. Vào những tuần đầu tiên của triều giáo hoàng, ngài đã đến hòn đảo nhỏ Lampedusa, ngài đã nghĩ đến câu chuyện của cha mẹ, họ đã có thể chết trên tàu khi vượt Địa Trung Hải để đi Argentina. Ngay từ chương đầu của quyển tiểu sử, ngài viết: “Vì sao là họ mà không là tôi?”.
Cuộc ẩu đả
Sau đó, ngài cho biết ngài gần gũi với người dân thuộc mọi tầng lớp xã hội trong các khu phố lao động ở Buenos Aires, nơi ngài lớn lên. Sự chung sống giữa các cộng đồng, tình đoàn kết đã tôi luyện ngài. Người lớn trong khu phố trông chừng trẻ em, ngài được tự do qua nhà ông bà nội, đến văn phòng cha làm việc… phá phách, ẩu đả nhau. Ngài kể khi còn nhỏ ngài đã đập bể kiếng nhà của một góa phụ có người đến ve vãn. Cùng với em trai Alberto, ngài bắt chước cảnh Chaplin cầm dù từ trên sân thượng nhảy xuống. Khi còn là thiếu niên, ngài đánh một bạn cùng lớp mà ngài coi thường. Trong lúc đánh nhau, ngài vật bạn té xuống đất, bạn bị bất tỉnh. Sự việc được thu xếp ổn thỏa nhưng thân phụ ngài bắt ngài phải xin lỗi. Bây giờ ngài vẫn còn bị mặc cảm tội lỗi, dù ngài đã chuộc lỗi, đã có tình bạn chân thành với bạn khi ngài là Tổng giám mục Buenos Aires và bạn đã là một mục tử truyền giáo. Từ đó, hai người là bạn thân không rời nhau.
Bạn ấy không phải là người duy nhất làm ngài hối hận. Khi còn là hiệu trưởng trường Colegio Máximo de San Miguel ở Córdoba, ngài lấy lý do “bất khả kháng” để không tiếp bà Concetta, người giúp việc cho cha mẹ khi ngài còn nhỏ. Ngài cho biết ngài đã khóc khi ý thức việc mình làm. Nhiều năm sau, khi là hồng y, tài xế của ngài không ai khác chính là con trai của bà Concetta. Vì thế ngài nối lại liên lạc với bà được mười năm trước khi bà qua đời.
Ngài vẫn còn giữ tượng Thánh Tâm bà đã cho ngài trong những giây phút cuối đời, mỗi tối ngài hôn tượng trước khi đi ngủ.
Mối quan hệ đáng ngạc nhiên với “La Porota”
Trong một bài khác, ngài nhắc lại mối quan hệ của ngài với một cô gái mại dâm “sang trọng” có biệt danh là “La Porota”, bà sống trong khu phố thời thơ ấu của ngài và liên lạc với ngài khi ngài là hồng y. Ngài kể, bà chửi thề trong từng câu nói, nhưng không vì thế mà bà không muốn về lại với tôn giáo, đến mức một ngày nọ, bà điện thoại cho ngài biết, tất cả bạn bè của bà là gái mại dâm. Ngài nhớ lại, đó là buổi lễ đẹp nhất của ngài. Ngay sau đó, bà gọi ngài để xin xức dầu.
Trong hồi ký, ngài cho biết ngài có tình cảm sâu đậm với người phụ nữ này và cầu nguyện cho bà hàng năm trong ngày giỗ bà. Trong các trang sách, ngài kể mối liên hệ đặc biệt của ngài với đất nước Argentina và người dân ngài rất yêu thương ở đây. Ngài nhận ra ngài được hình thành bởi quê hương, nơi định hình cho ngài về mặt thiêng liêng và chuẩn bị để ngài thực hiện sứ mệnh toàn cầu của ngài. Ngài cầu nguyện mỗi ngày cho người dân Argentina, dưới mắt ngài, họ là điểm neo thiết yếu, đến mức gần đây ngài bày tỏ mong muốn sớm về thăm đất nước, sau khi dừng chân ở Cape Verde…
Đức Phanxicô mang tâm trạng hướng nội và tự kiểm trong quyển tiểu sử của ngài
Trong quyển tiểu sử phát hành ngày thứ ba 14 tháng 1 năm 2025, Đức Phanxicô tiết lộ các chi tiết bên trong mật nghị bầu ngài năm 2013 và những phản kháng ngài gặp phải kể từ đó, ngài cũng nói đến một số quyết định gây tranh cãi nhất trong triều của ngài.
“Hy vọng” dự định phát hành sau khi ngài qua đời, nhưng theo yêu cầu của chính ngài, quyển sách đã có mặt ở các tiệm sách trên hơn 80 quốc gia trùng với thời điểm bắt đầu Năm Thánh 2025.
Các nhà xuất bản cho biết đây là quyển tiểu sử đầu tiên của một Giáo hoàng đương nhiệm viết, dù trước đây ngài đã cộng tác viết nhiều quyển sách theo kiểu hồi ký, phần lớn triều và lịch sử cá nhân của ngài đã được biết đến nhiều.
Nhưng quyển tiểu sử “Hy vọng” có cái nhìn sâu sắc về cách ngài nhìn tuổi thơ của ngài ở Buenos Aires và cách tuổi thơ này đã ảnh hưởng đến các ưu tiên của ngài với tư cách là Giáo hoàng.
Đúc kết từ những buổi nói chuyện kéo dài sáu năm với nhà báo người Ý Carlo Musso, “Hy vọng” đưa ra những phân tích đôi khi không mấy hay ho về ngài và những quyết định ngài đã làm hoặc những điều ngài hối tiếc – ít nhất là trước khi ngài làm Giáo hoàng.
Đó là lần ngài bắt người bạn cùng lớp trả tiền sửa chiếc xe đạp người bạn làm hư của ngài, hay khi ngài đánh một người bạn cùng lớp gần bất tỉnh, ngài rất xấu hổ về tuổi trẻ của mình, ngài không nghĩ ngài xứng đáng với chức giáo hoàng.
Ngài viết: “Nếu tôi nghĩ ơn lớn nhất mà tôi muốn Chúa ban và để tôi trải nghiệm thì đó là ơn xấu hổ.”
Vẫn còn những bí ẩn
Thật kỳ lạ, nhiều người vẫn còn chưa biết hai giai đoạn trong quá khứ của ngài, ngài nhắc lại một lần nữa trong quyển tiểu sử. Một giai đoạn liên quan đến thời gian ngài ở Córdoba, Argentina từ năm 1990 đến năm 1992. Ngài chưa bao giờ giải thích lý do bên trong của các tu sĩ Dòng Tên đã đưa ngài “đi đày” như một cha giải tội tại nhà thờ Dòng Tên trong hơn một năm, mười năm sau khi ngài đã là Giám tỉnh. Giai đoạn này chỉ được nhắc đến thoáng qua, ngài chỉ nói đây là “đêm đen tối ở Córdoba”.
Một giai đoạn khác chưa được biết giai đoạn ngài đi Đức để nghiên cứu về thần học gia Romano Guardini cho luận án mà ngài chưa bao giờ hoàn thành.
Tác động của các vụ bê bối lạm dụng tình dục của giáo sĩ, làm rung chuyển triều của ngài trong nhiều năm cũng ít được thảo luận. Ngài chỉ đề cập ngắn gọn vụ tai tiếng xảy ra trong chuyến đi Chi-lê năm 2018. Nhưng ngài dành nhiều thời gian hơn để ghi lại kỷ niệm ấm lòng trong chuyến đi này, khi ngài làm lễ cưới cho một cặp vợ chồng trên chuyến bay đến Iquique.
Con đường đi đến chức vụ giáo hoàng
Phần sau quyển sách, ngài tập trung vào triều của ngài, ít tự chỉ trích hơn, ngài mạnh mẽ bảo vệ các quyết định đôi khi gây tranh cãi của ngài. Ngài chia sẻ cảm xúc khi số phiếu bắt đầu có lợi cho ngài trong ngày thứ nhì bỏ phiếu bầu ngài làm giáo hoàng tháng 3 năm 2013.
Đức Phanxicô tiết lộ ngài ở trong số các hồng y nhận được “nhiều phiếu tạm thời” ở vòng đầu tiên khi bỏ phiếu để xem hướng đi của cuộc bầu cử. Ngài cho biết ngài không biết phiếu ở vòng đầu tiên, nhưng nhận ra số phận của mình đã được định đoạt khi ngài có 69 phiếu ở vòng thứ tư, trong số 77 phiếu cần thiết để có hai phần ba trong số 115 hồng y.
Vòng thứ năm – vòng ngài trở thành Giáo hoàng – thực ra đã phải làm hai lần. Một lá phiếu dư dính vào lá phiếu của một hồng y đã điền, vì vậy khi kiểm có 116 phiếu thay vì 115. Các lá phiếu bị đốt, không được mở ra và phải bỏ phiếu lại.
Ngài viết: “Khi tên tôi được gọi lần thứ 77, mọi người đã vỗ tay nhưng việc kiểm phiếu vẫn tiếp tục. Tôi không biết chính xác cuối cùng có bao nhiêu phiếu, tôi không nghe được nữa vì tiếng ồn đã lấn át giọng của người kiểm phiếu.”
Một trong những việc ngài làm sau cuộc bỏ phiếu là ôm hôn Hồng y Angelo Scola, Tổng giám mục giáo phận Milan, người được đánh giá cao trước mật nghị đến nỗi Hội đồng Giám mục Ý đã ra thông cáo báo chí để công bố việc bầu ngài. Đức Phanxicô viết: “Ngài xứng đáng được ôm như thế này.”
Trang phục đúng cho ngài
Khi vào phòng thánh, còn gọi là “phòng nước mắt” để mặc trang phục Giáo hoàng, ngài cho biết ngài có trong túi chiếc nhẫn giám mục cũ ngài đã dùng, cho thấy khi buổi sáng mặc trang phục, ngài đã có trực giác ngài sẽ được bầu.
Ngài viết về trang phục tối hôm đó: “Đôi giày đỏ ư? Không, tôi mang đôi giày chỉnh hình vì bàn chân tôi bị bẹt.” Ngài không muốn mặc chiếc áo choàng ngắn nhung đỏ, gọi là mozzetta, được người tiền nhiệm của ngài ưa chuộng. Ngài nói: “Những thứ này không hợp cho tôi. Hai ngày sau họ bảo tôi nên mặc quần màu trắng. Họ làm tôi cười. Tôi nói: ‘Tôi không muốn làm người bán kem, tôi giữ quần đen của tôi.’”
Những ai đi tìm thông tin đồn đại hiện nay về Vatican trong quyển sách này sẽ thất vọng, vì Đức Phanxicô chỉ viết ngắn gọn những phần gây tranh cãi nhất trong triều của ngài. Ngài tin chắc về các quyết định của ngài, ngài chỉ trích các linh mục công giáo theo truyền thống là cứng nhắc và không cân bằng về mặt tinh thần. Ngài viết: “Sự cứng nhắc này thường đi kèm với những trang phục hào nhoáng đắt tiền với ren, với các trang trí lạ mắt. Đây không phải là thích truyền thống nhưng là thói thích phô trương của một số giáo sĩ. Những cách ăn mặc này đôi khi che giấu sự mất cân bằng về tinh thần, sự lệch lạc về cảm xúc, những khó khăn về hành vi, một vấn đề cá nhân có thể bị lợi dụng.”
Những quyết định khó khăn
Ngài viết: “Việc cải cách bộ máy hành chính của Vatican, đặc biệt là việc áp dụng các tiêu chuẩn kế toán và ngân sách quốc tế vào tài chính của Tòa Thánh là nhiệm vụ khó khăn nhất và là công việc tạo nhiều phản kháng lớn nhất cho sự thay đổi.”
Ngài khẳng định: “Tôi được gọi để ra trận”
Ngài kiên quyết bảo vệ quyết định xét xử mười người ở cấp cao, trong đó có một hồng y bị cáo buộc có hành vi sai trái về tài chính liên quan đến khoản đầu tư vào một bất động sản ở London. Phiên tòa đã đưa ra một số bản án, nhưng đã làm tổn hại đến danh tiếng của Tòa thánh; nhiều người đặt câu hỏi về vai trò của Đức Phanxicô trong vụ này và liệu những người bị cáo buộc có được xét xử công bằng hay không.
Ngài viết: “Những quyết định đưa ra liên quan đến vấn đề này không dễ dàng chút nào, tôi chắc chắn sẽ có vấn đề, nhưng tôi hiểu, không bao giờ được che giấu sự thật và việc không minh bạch luôn là một quyết định xấu nhất”.
Sau khi các giám mục châu Phi nhất trí bác bỏ Tuyên ngôn Fiducia supplicans về mục vụ chúc phúc cho người đồng tính, Đức Phanxicô vẫn giữ nguyên quyết định của ngài, ngài nhấn mạnh chúc phúc là dành cho con người, chứ không dành cho mối quan hệ. Ngài lặp lại cuộc phỏng vấn với hãng tin AP năm 2023: “Đồng tính không phải là một tội ác.”
Trong một bài đăng trên tạp chí “The Tablet” của Công giáo tại Anh quốc, ông Ivereign cho rằng cuốn sách mới không đáng được gọi là một cuốn “Tiểu sử tự thuật” và không chứa đựng nhiều điều mới. Ông viết: “Tôi mong đợi nhiều hơn từ cuốn “Hy vọng” vì nó có vẻ là một cuốn tiểu sử tự thuật thực sự”. Ông đặc biệt phê bình điều này là những điều được thuật lại trong sách bị ngưng lại sau 20 năm đầu tiên trong cuộc đời của Đức Jorge Mario Bergoglio và sau đó là một loạt những suy tư của ngài về các vấn đề thời sự, trong đó có bao gồm cả hai giai thoại trong quá khứ. “Nhưng trong một cuốn tiểu sự tự thuật, người ta mong đợi được biết về những gì xuất phát trực tiếp hơn trong triều đại Giáo Hoàng trong 50 năm kế tiếp”. Sách im lặng về 13 năm của Đức Bergolio làm Tổng giám mục Giáo phận Buenos Aires.
Ông Ivereigh cũng phê bình điều này là “nhiều điều trong sách là những điều công chúng đã biết được ‘hâm nóng lại’: tôi có thể nói 95% cuốn sách xào lại tài liệu đã được dư luận biết đến. Theo đó, nhiều điều mới trong cuốn sách hiển nhiên là không phải của Đức Giáo hoàng Phanxicô.”
Ông cũng tỏ ra không hiểu nổi về một số sai lầm lớn trong bản dịch cuốn sách sang tiếng Anh. Ông viết: “Phải chăng là một điều không đẹp với Đức Giáo hoàng Phanxicô khi công bố những gì được gọi là chuyện kể của ngài khi nó đầy những lỗi lầm của người mới bắt đầu”.
Tuy có phần bực tức và thất vọng, nhưng ông Ivereigh cũng nhìn nhận có những điều tốt trong cuốn “Hy vọng”, đó là “Đức Giáo hoàng Phanxicô trình bày cho chúng ta những suy tư mạnh mẽ, tha thiết và xúc tích về ngày nay và kêu gọi hoán cải, lời kêu gọi này càng rạng ngời trong bối cảnh đen tối này... Nếu đây là cuốn tiểu sử cuối cùng của Đức Phanxicô, thì đó không phải là một bản tóm tắt dở dang về chứng từ của ngài”.
Ông Austen Ivereigh được coi là một chuyên gia thông thạo về Đức Thánh cha Phanxicô. Năm 2014 ông đã xuất bản cuốn: “Nhà đại cải cách: Đức Phanxicô và sự hình thành một vị Giáo hoàng cấp tiến” (The Great Reformer: Francis and the Making of a Radical Pope). Năm 2020, ông đã xuất bản cùng với ngài cuốn sách tựa đề “Dám mơ ước” (Dare to Dream).
Một gia đình ở miền Nam California, Mỹ – nơi đang xảy ra trận đại hỏa hoạn nghiêm trọng cướp đi mạng sống của ít nhất 24 người, đã bất ngờ nổi tiếng trên các nền tảng mạng xã hội khi mặc dù toàn bộ căn nhà của gia đình bị cháy, một vài bức tượng ở đó lại không hề bị ảnh hưởng.
Được biết, ngôi nhà của gia đình này đã bị ngọn lửa thiêu rụi, thế nhưng duy nhất bức tượng Đức Mẹ Maria trong căn nhà vẫn còn đứng vững và gần như còn nguyên sau trận hỏa hoạn.
“Thật đáng kinh ngạc khi mọi thứ đã bị thiêu rụi nhưng bức tượng Đức Mẹ và tượng Thánh Joseph trong nhà chúng tôi vẫn nguyên vẹn”, Ông Peter Halpin, người đứng đầu gia đình, chia sẻ.
“Mặc dù có chút cháy sém, nhưng chúng tôi lấy đó làm cơ hội để cầu nguyện”, ông nói thêm. “Chúng tôi đã cầu nguyện với Chúa Giêsu, sau đó hát một bài hát đặc biệt mà cả gia đình tôi đã thuộc lòng suốt bao năm qua để kính Đức mẹ. Đó là một khoảnh khắc thật đặc biệt”.
Ông Halpin chia sẻ vào tuần trước, gia đình ông đã “vi phạm luật” khi ghé thăm ngôi nhà nơi cả gia đình sinh sống cùng nhau trong 37 năm qua, vì đây là khu vực đang trải qua thiên tai.
Khi phát hiện đám cháy Eaton chết chóc đã thiêu rụi toàn bộ ngôi nhà, họ đã dựa vào đức tin, cùng với sáu người con và những người thân khác trong gia đình, hát lên những bài ca tôn vinh trong một video đã nhanh chóng lan truyền trên mạng xã hội Instagram.
“Ý định của chúng tôi không phải là để video này trở nên nổi tiếng”, ông nói. “Nó chủ yếu chỉ là chuyện gia đình, nhưng phản ứng từ cộng đồng thật không thể tin được và họ rất chân thành”.
Vợ của ông Peter, bà Jackie, cho biết rằng bà đã quỳ xuống vì xúc động sau khi con rể của bà lén đến khu vực ngôi nhà một ngày trước đó, chụp một bức ảnh cho thấy bức tượng vẫn đứng vững trước hỏa hoạn.
Khi vụ hỏa hoạn vẫn còn hoành hành với mức độ dữ dội chưa từng có ở Los Angeles, một đoạn video đăng trên Instagram ngày 10 tháng 1 cảnh gia đình ông Halpins đứng giữa đống tro tàn của ngôi nhà mình hát một bài hát Đức Mẹ, bức tượng Đức Mẹ của gia đình vẫn còn nguyên.
Một tuần sau khi vụ hỏa hoạn bùng phát ở Los Angeles, thành phố này vẫn còn bị cháy dù các nhân viên cứu hỏa được huy động tối đa để dập tắt ngọn lửa. Số người thiệt mạng đã lên đến con số 16 và ngọn lửa chưa được dập tắt, mỗi ngày nó thiêu rụi thêm nhiều hecta đất để lại cảnh tượng hoang tàn ngày tận thế. Hàng ngàn ngôi nhà, xe cộ, nhà thờ, cơ sở hạ tầng bị thiêu rụi. Giữa cơn ác mộng chưa kết thúc này, đôi chút âm thanh hy vọng vẫn vang lên.
Gia đình Halpins đã làm chứng cho điều này
Ngôi nhà của họ nằm ở phía bắc Los Angeles, ngày thứ năm 9 tháng 1, họ đã có thể về nhà, nhưng chẳng còn gì ở nhà, tất cả đã thành tro bụi. Nhưng giữa cảnh đổ nát này, Peter Halpin cùng vợ và sáu người con đã vô cùng kinh ngạc khi thấy tượng Đức Mẹ Guadalupe vẫn còn nguyên vẹn. Dù đau buồn, ngay lập tức cả gia đình cất lên tiếng hát ngợi khen.
Một đoạn video của người bạn gia đình chia sẻ cho thấy cảnh gia đình Halpins giữa đống tro tàn của ngôi nhà họ, bầu trời vẫn còn phản chiếu màu sắc của ngọn lửa. “Regina Caeli, laetare, alleluia“, họ hát bằng nhiều giọng khác nhau bài Nữ Vương Thiên đàng trong một khoảnh khắc đặc biệt cảm động. Một bài thánh ca được gia đình yêu thích vì chính mẹ của Peter Halpins đã dạy bài thánh ca này cho chín người con của bà. Lời chứng sống động về đức tin này đã được hơn 2 triệu người xem trên Instagram, làm dấy lên phản ứng ngưỡng mộ trước thông điệp hy vọng mà vợ chồng Halpin làm chứng.
Anh Andrew Halpin, 36 tuổi con trai của gia đình Halpins, là nhà soạn nhạc, anh nói với National Catholic Register: “Ngay bây giờ, tôi muốn mạnh mẽ vì cha mẹ tôi, vì gia đình tôi. Khi chúng tôi bắt đầu hát, tôi cảm thấy tất cả chúng tôi mạnh mẽ vì nhau. Chúng tôi là một gia đình rất yêu âm nhạc, âm nhạc đã thấm vào chúng tôi ngay từ đầu đời. Sau đức tin, âm nhạc là một trong những yếu tố gắn kết nhất của gia đình tôi. Không một khoảnh khắc vui buồn nào mà âm nhạc không đóng vai trò quan trọng trong gia đình tôi.”
Khi anh em Andrew mất ngôi nhà thời thơ ấu, nơi cha mẹ họ vẫn sống ở đây, anh Andrew nói: “Chúng tôi phải trao mọi thứ cho Chúa. Và nếu đó là ngôi nhà của chúng tôi bây giờ, tôi tin rằng chúng tôi đang ở trong lòng bàn tay của Ngài.”
Lời cầu nguyện của Đức Phanxicô
Sau giờ Kinh Truyền Tin ngày chúa nhật 12 tháng 1, Đức Phanxicô đã bày tỏ nỗi đau của ngài trước những mất mát này: “Tôi rất gần gũi với người dân Los Angeles. Tôi cầu nguyện cho tất cả mọi người.” Một ngày trước đó, ngài gởi điện chia buồn với Tổng giám mục Los Angeles, José H. Gómez, ngài phó các nạn nhân cho lòng thương xót vô biên của Chúa.
Chỉ số bách hại toàn cầu, do Open Doors, một tổ chức theo dõi bách hại Kitô giáo có trụ sở tại Hà Lan, công bố vào ngày 15/01, liệt kê 50 quốc gia nơi các Kitô hữu sống và tuyên xưng đức tin của mình gặp nguy hiểm nhất. Lần thứ ba liên tiếp và là lần thứ 23 kể từ lần đầu tiên công bố Chỉ số vào năm 1993, Bắc Hàn đứng đầu bảng xếp hạng. Kể từ năm 2002, nước này lúc nào cũng đứng số 1, ngoại trừ năm 2022, đứng thứ hai sau khi Taliban lên nắm quyền ở Afghanistan.
Ngoài sự đàn áp ngột ngạt mà các Kitô hữu hầm trú ở Bắc Hàn đã phải chịu đựng trong một thời gian dài, Chỉ số 2025 nêu bật các xu hướng tiềm ẩn khác, chẳng hạn như bạo lực chết người kéo dài trên khắp lục địa châu Phi. Gia tăng bạo lực chống các Kitô hữu ở Trung Á là xu hướng mới lớn nhất cho năm 2025.
Hơn 200 triệu Kitô hữu phải di dời
Phúc trình năm 2025 cho biết hơn 380 triệu Kitô hữu (1/7 Kitô hữu trên thế giới) bị bách hại và phân biệt đối xử mạnh mẽ vì đức tin, so với 365 triệu vào năm 2024. Như vậy, có 4.476 Kitô hữu đã bị giết trên toàn thế giới vì đức tin, nhưng số vụ không được ghi nhận còn cao hơn nhiều. Và 209.771 Kitô hữu đã bị buộc phải di dời do bạo lực và xung đột, trong đó có gần 136.000 người chỉ riêng ở châu Phi cận Sahara.
Trung Á: bách hại của các chính phủ chuyên quyền
Điểm số của Kyrgyzstan trong Chỉ số bách hại toàn cầu tăng 7,5 điểm, quốc gia này tăng 14 bậc lên vị trí thứ 47, trở lại top 50 lần đầu tiên kể từ năm 2013. Đây là tình trạng đi xuống rõ rệt nhất của một quốc gia trong năm nay. Việc thắt chặt kiểm soát nhà nước ở nước láng giềng Kazakhstan đã nâng điểm Chỉ số của nước này lên 3 điểm, đẩy quốc gia này tăng 9 bậc trên bảng xếp hạng, lên vị trí thứ 38.
Nội chiến và tình trạng vô chính phủ ngày càng gia tăng bách hại
Tổ chức Open Doors khẳng định, trong xã hội Hồi giáo nghiêm khắc của Yemen, các Kitô hữu phải chịu đựng sự bách hại khắc nghiệt trong nhiều năm. Cuộc nội chiến nổ ra từ năm 2015 cũng dẫn đến tình trạng vô chính phủ ngày càng gia tăng và tạo không gian cho sự bách hại các nhóm thiểu số như Kitô hữu. Yemen tăng 4,6 điểm trong phúc trình mới nhất và nước này đứng thứ 3.
Giao tranh giữa quân đội Myanmar và nhiều lực lượng dân quân đối lập cũng đã đẩy nước này vào danh sách “bách hại cực đoan” của phúc trình, bao gồm 13 quốc gia đứng đầu bảng xếp hạng. Điểm số của Sudan tăng 3 điểm trên bảng xếp hạng do nội chiến ngày càng gia tăng.
Giáo hội ngày càng bị đẩy vào hầm trú ẩn
Việc trục xuất các Kitô hữu khỏi xã hội và sự suy yếu của các Giáo hội là một điều đã được thấy ở một số quốc gia. Ở Algeria, Libya và Afghanistan, sự hiện diện hữu hình của Kitô giáo đang giảm dần, buộc thiểu số Kitô giáo phải gặp nhau một cách bí mật. Ở Algeria, sau nhiều lần đóng cửa nhà thờ, hiện nay không có nhà thờ Tin lành nào mở cửa thường xuyên.
Ở Trung Quốc và các quốc gia chuyên quyền khác, các Kitô hữu ngày càng thận trọng trong việc công khai tuyên xưng đức tin của mình, dù là trong xã hội hay trong các hoạt động trực tuyến, do sự giám sát ngày càng tăng.
Bạo lực tiếp diễn ở châu Phi cận Sahara và Ấn Độ
Châu Phi là lục địa có dân số Kitô giáo nhiều nhất thế giới. Trong những năm gần đây, do sự triển khai của các nhóm Hồi giáo ở châu Phi cận Sahara, cuộc sống của các Kitô hữu ở châu lục này ngày càng tồi tệ. Bạo lực chống các Kitô hữu được xếp vào loại “cực kỳ cao” ở 13 quốc gia châu Phi, gồm Burkina Faso, Mali và Cộng hòa Dân chủ Congo.
Chad xếp ở vị trí thứ 49 do sự yếu kém của chính phủ, khiến các chiến binh Boko Haram hoạt động kéo dài, cùng với việc các Kitô hữu phải đối diện với sự tẩy chay, giám sát và đe dọa nghiêm trọng từ xã hội. Tình hình ở Nigeria vẫn cực kỳ bạo lực. Quốc gia này đứng thứ 7 trong bảng xếp hạng 50 quốc gia bách hại các Kitô hữu. Ấn Độ đứng thứ 11. Kể từ khi ông Narendra Modi được tái bổ nhiệm làm thủ tướng vào năm 2024, các cuộc tấn công chống các Kitô hữu đã gia tăng.
Trong điện văn gửi đi ngày 20 tháng Giêng năm 2025, Đức Thánh cha nồng nhiệt chúc mừng và đoan hứa cầu nguyện, xin Thiên Chúa toàn năng ban cho Tổng thống thứ 47 của nước Mỹ được “khôn ngoan, sức mạnh và được bảo vệ trong khi thi hành nghĩa vụ cao cả”.
Ngài cũng viết rằng: “Được gợi hứng từ những lý tưởng của đất nước Tổng thống, là một lãnh thổ mang lại cơ may và chào đón tất cả mọi người, tôi hy vọng rằng dưới sự lãnh đạo của Tổng thống, nhân dân Mỹ sẽ thịnh vượng và luôn luôn cố gắng xây dựng một xã hội công bằng hơn, trong đó có không có chỗ cho oán ghét, kỳ thị hoặc loại trừ. Đồng thời, giữa lúc gia đình nhân loại chúng ta đang đương đầu với nhiều thách đố, không kể tai ương chiến tranh, tôi cũng cầu xin Thiên Chúa hướng dẫn những nỗ lực của Tổng thống trong việc thăng tiến hòa bình và hòa giải giữa các dân tộc. Với tâm tình đó, tôi khẩn cầu Thiên Chúa ban dồi dào phúc lành trên Tổng thống, gia đình và nhân dân Hoa Kỳ yêu quý”.
Trong buổi lễ cầu nguyện tại Washington National Cathedral hôm thứ Ba vừa qua, nữ Giám Mục Mariann Budde của Giáo phái Episcopal đã ngỏ lời xin Tổng Thống Trump hãy thương xót đến những người đang sống trong nỗi sợ hãi cho cuộc đời họ, mà theo bà họ là những người LGBTQ. Bà nói: "Have mercy upon the people in our country who are scared now." Xin nhắc rằng bà này cũng là người đồng tính Lesbian.
Trong bài diễn văn nhậm chức, TT Trump đã nhấn mạnh rằng luật pháp dưới thời ông chỉ chấp nhận có 2 giới tính: Nam và Nữ "As of today, it will henceforth be the official policy of the United States government that there are only two genders, male and female."
Bà Giám Mục khỏi cần cầu xin sự thương xót, vì có ai ngược đãi, đàn áp những người LGBTQ đâu. Họ có cần bà Giám Mục xin giùm đâu? Họ tự hào về tình trạng giới tính của họ lắm cơ mà. Bà không thấy là những người này luôn ăn mặc diêm dúa, phất lá cờ sáu màu la hét trên đường phố thường xuyên đó sao? Chính phủ Trump đã làm gì mà họ phải sợ hãi cho cuộc đời của họ ?
Chẳng qua TT Trump muốn chấm dứt sự nhượng bộ quá mức mà từ nhiều năm qua, chính phủ và các công ty doanh nghiệp đã dành cho họ quá nhiều ưu tiên. Sự bất phân rõ ràng Nam Nữ cũng tạo ra những khó khăn trong việc đối xử ở nơi làm việc, trường học, thể thao... Ngân sách quốc gia cũng đã hao tốn quá nhiều cho cái phong trào này rồi.
Được phỏng vấn, cố đạo Budde nói, “Chúng ta cần thay thế Trump.”
Bà Budde này nổi tiếng cuồng chống Trump, chống chính phủ Mỹ đặc biệt sau cái chết của George Floyd.
Đổ thêm dầu vào lữa, Giáo hoàng Francis gọi kế hoạch trục xuất di dân bất hợp pháp của TT Trump là Ô NHỤC, ‘Disgrace.’
Nhiệm vụ của những nhà lãnh đạo tôn giáo và tinh thần là kêu gọi lòng nhân đạo và sự cầu nguyện, tránh dính dấp với chính trị. Nếu các vị nầy có lòng can đảm thật sự, thì họ nên chỉ trích những bạo chúa như Putin, Tập-Cận-Bình, hay Kim-Chính-Ân -điều mà họ không bao giờ làm- thay vì chụp mũ TT Trump là độc tài; bởi vì Trump có bao giờ bỏ tù, tra tấn, hay tử hình người khác như Putin, Tập, hay Kim đâu.
‘Chích khuyển phệ Nghiêu’ là câu thành ngữ Trung Hoa, dẫn lời một mưu sĩ thời Xuân Thu Chiến Quốc tên là Điêu Bột nói với An Bình Quân Điền Đan, nước Tề: Con chó của đạo chích sủa vua Nghiêu không phải vì nó yêu đạo chích, ghét vua Nghiêu. Chẳng qua, vì vua Nghiêu không phải chủ của nó nên nó sủa đó thôi. Thay vì, hiên ngang chỉ trích chế độ độc tài Biden, võ khí hóa tư pháp, giết hại thai nhi vô tội..., họ lại sủa cắn Trump.
Thiết nghĩ TT Trump nên chở đầy xe buses toàn di dân lậu, có tiền án tới những nhà thờ của họ để họ nuôi. Cũng nên, cho bọn khủng bố Hồi Giáo, gián điệp Trung Cộng, và di dân lậu có tiền án này lên máy bay, thả dù xuống quốc gia thành Vatican để họ được bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Rồi hãy xem những người nầy sẽ làm gương trước cho người khác như thế nào.... Đừng tin những gì bọn đạo đức giả nói, mà hãy nhìn kỹ những gì họ làm.
Ngày 04/11/2021, Đức Thánh Cha đã bổ nhiệm sơ Petrini làm Tổng Thư ký Phủ Thống đốc thành Vatican, một chức vụ trước đây thường do một giám mục nắm giữ.
Trong cuộc phỏng vấn được phát vào tối Chúa nhật ngày 19/01/2025, Đức Thánh Cha thông báo bắt đầu vào tháng 3 tới, sơ Raffaella Petrini sẽ là Chủ tịch Phủ Thống đốc thành Vatican, thay thế Đức Hồng Y Fernando Vérgez Alzaga nghỉ hưu.
Đức Thánh Cha lưu ý: “Công việc của phụ nữ trong Giáo triều từng tiến triển chậm nhưng hiệu quả. Bây giờ, chúng ta có nhiều người nữ”. Và khi liệt kê các vai trò được giao cho phụ nữ tại Vatican, ngài nói thêm: “Tại Phủ Thống đốc, Tổng thư ký, người sẽ trở thành Chủ tịch vào tháng 3, là một nữ tu... Phụ nữ quản lý tốt hơn chúng ta”.
Trong cuộc phỏng vấn, Đức Thánh Cha còn đề cập đến một số vấn đề. Trước hết trả lời câu hỏi về Hoa Kỳ trong bối cảnh có tin đồn về kế hoạch trục xuất hàng loạt những người di cư sau lễ nhậm chức của Tổng thống Donald Trump, Đức Thánh Cha mô tả đây là một sự bất hạnh.
Về chủ đề di cư, Đức Thánh Cha nhắc lại bốn điều cần làm để giải quyết tình trạng khẩn cấp này: “Người di cư phải được chào đón, đồng hành, thăng tiến và hòa nhập”.
Ngài cũng đề cập đến mối quan ngại về tỷ lệ sinh giảm, và trích dẫn độ tuổi trung bình của Ý là “46”. Ngài nói: “Nếu bạn không có con, bạn phải cho người di cư vào”.
Đức Thánh Cha cũng nói về cuộc chiến ở Trung Đông, lưu ý đến lệnh ngừng bắn bắt đầu vào Chủ nhật tại Gaza và việc thả ba phụ nữ bị Hamas bắt làm con tin, đồng thời ngài cũng bày tỏ lòng biết ơn những người đã đàm phán lệnh ngừng bắn.
Sau đó, thảo luận về giải pháp hai Nhà nước, ngài nhấn mạnh: “Tôi tin rằng đó là giải pháp duy nhất. Một số người sẵn sàng, những người khác thì không. Hòa bình lớn hơn chiến tranh”. Theo ngài, cần phải can đảm để theo đuổi hòa bình, bởi vì “đôi khi bạn mất đi một thứ gì đó, nhưng bạn đạt được nhiều hơn thế”.
Tiếp tục nói về hy vọng, chủ đề chính của Năm Thánh, Đức Thánh Cha gọi hy vọng là “mỏ neo” để bám vào như ngài đã nhấn mạnh trong Thánh lễ mở Cửa Thánh ở nhà tù Rebibbia, đồng thời kêu gọi: “Đừng quên tù nhân; nhiều người bên ngoài còn có tội hơn họ”.
Kết thúc cuộc phỏng vấn, Đức Thánh Cha đưa ra một yêu cầu cho Năm Thánh: “Đừng để cơ hội này trôi qua. Hãy can đảm tiến về phía trước. Và đừng bao giờ đánh mất ý nghĩa hài hước”.
Thực tế, hàng ngàn Kitô hữu ở đây sống chủ yếu nhờ thu nhập từ đón tiếp khách hành hương, đặc biệt là ở khu vực Bêlem. Và tiếp đến Năm Thánh đang diễn ra mà ba địa điểm thánh ở Thánh Địa đã được dành riêng cho cuộc hành hương Năm Thánh, tại Giêrusalem, Nazareth và Bêlem. Vì thế, cha Patton kêu gọi củng cố đức tin của các tín hữu qua những nơi đã chứng kiến sự nhập thể, cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Các Kitô hữu ở Thánh Địa cảm thấy cần phải tham gia cùng với những người hành hương vào việc tái khẳng định đức tin của mình.
Bề trên Dòng Phanxicô ở Thánh Địa nói: “Các nơi đón tiếp của chúng tôi sẵn sàng mở cửa trở lại trong vài tuần tới, để chào đón những người muốn chia sẻ với chúng tôi thời gian của Mùa Chay và Phục Sinh. Năm nay, các cử hành sẽ đặc biệt quan trọng không chỉ đối với Năm Thánh nhưng còn là sự trùng hợp với những ngày tháng của các Giáo hội Kitô khác”.
Trong những ngày gần đây, với sự cộng tác của Bộ Du lịch Israel, một nhóm linh mục chịu trách nhiệm hành hương trong các giáo phận đã viếng thăm Thánh Địa. Đức cha Attilio Nostro, Giám mục Mileto-Nicotera-Tropea, đứng đầu nhóm tuyên bố: “Trong kinh nghiệm này, chúng tôi đã nghe thấy tiếng kêu của Mẹ Giáo hội Giêrusalem, một lần nữa đang chờ đợi những người con hành hương của mình trên mảnh đất của Chúa Giêsu và Đức Maria Mẹ Người”.
Sử gia Giovanni Maria Vian: “Quyền lực liên quan đến giáo hoàng sẽ không còn có thể được thực thi theo cách tương tự sau thời Đức Phanxicô.”
Liệu Đức Phanxicô có phải là giáo hoàng cuối cùng không? Đó chính là điều mà một lời tiên tri bí ẩn thời Trung cổ gợi ý, là sợi dây chung cho công việc của nhà sử học. Ông đảm bảo: “Chúng ta đang ở bước ngoặt của đời sống Giáo hội công giáo.”
Sử gia Giovanni Maria Vian cho rằng đạo công giáo đang trải qua thời kỳ mang tính quyết định lịch sử. Là cựu giám đốc nhật báo Osservatore Romano của Vatican từ năm 2007 đến năm 2018, ông là nhà báo độc lập, có cái nhìn uyên bác và phê phán về Tòa thánh và về giáo hoàng. Tác phẩm mới nhất của ông, Giáo hoàng Cuối cùng (The Last Pope, nxb. Deer).
Liệu Đức Phanxicô có phải là “giáo hoàng cuối cùng” như tựa đề quyển sách mới nhất của ông không?
Sử gia Giovanni Maria Vian: Tiêu đề này được cho là lời tiên tri của tu sĩ người Ai-len thời Trung cổ Malachi. Tài liệu này liệt kê một trăm giáo hoàng, có niên đại từ thế kỷ 12 cho đến một giáo hoàng có biệt danh “Vinh quang của Cây Ô liu”. Sau đó, danh sách này tiếp tục với phần mô tả về ngày tận thế: “Trong cuộc đàn áp cuối cùng của Giáo hội Rôma Thần thánh sẽ có một ‘Phêrô La Mã’, người sẽ chăn dắt đàn chiên vượt qua nhiều hoạn nạn. Sau đó thành phố bảy ngọn đồi sẽ bị hủy hoại và quan tòa khủng khiếp sẽ phán xét người dân.” Nếu nghiên cứu theo thứ tự danh sách thì Đức Bênêđíctô XVI (1927-2022) sẽ là “Vinh quang của Cây Ô-liu”, do đó Đức Phanxicô là “Phêrô La Mã” của ngày tận thế.
Chắc chắn tài liệu này là giả mạo, trên thực tế được viết năm 1590 – trước đây chúng tôi không thấy đề cập đến nó – với mục đích ủng hộ một hồng y trong mật nghị thời đó, và chắc chắn cũng để khẳng định với người theo Tin lành Cải cách, rằng danh sách giáo hoàng vẫn còn dài. Được một nhà báo người Đức đặt câu hỏi năm 2016, Đức Bênêđíctô XVI không tin vào lời tiên tri này, ngài có câu trả lời thú vị. Trước hết, ngài nhắc lại mức độ thế tục hóa ở châu Âu và sự thay đổi sâu sắc trong đạo công giáo. Sau đó ngài nói thêm: “Tôi không còn thuộc về thế giới cũ nữa, nhưng trên thực tế thế giới mới vẫn chưa thực sự bắt đầu.”
Do đó, Đức Bênêđíctô XVI khẳng định ngài và những người kế nhiệm ngài thuộc một thế hệ được hình thành trong thế giới công giáo “cũ”, một thế giới sẽ sớm không còn tồn tại. Ý tưởng chính, cũng là chìa khóa để đọc quyển sách của tôi là chúng ta đang ở bước ngoặt của đời sống Giáo hội, và quyền lực của giáo hoàng không còn có thể được thực thi theo cách tương tự sau Đức Phanxicô.
Có nghĩa là? Những thay đổi nào sẽ được mong đợi?
Thế giới công giáo được cấu trúc xung quanh “quyền tối cao” của giáo hoàng: giáo hoàng được cho là “không thể sai lầm” và chính thức nắm giữ mọi quyền lực của Giáo hội. Ý tưởng này xuất hiện trong thế giới Latinh từ những thế kỷ đầu tiên của kitô giáo, nhưng giáo điều về tính không thể sai lầm của giáo hoàng chỉ được Công đồng Vatican I công bố năm 1870. Một số người nhìn thấy đây là khả năng có ảnh hưởng phổ quát, đạo đức và tâm linh, gần như đây là hình thức tái cân bằng cho Tòa thánh sau khi mất các Quốc gia Giáo hoàng và quyền lực tạm thời.
Cụ thể, tín điều về tính không thể sai lầm của giáo hoàng giả định giáo hoàng có thể đưa ra phán quyết cuối cùng về các vấn đề đức tin và đạo đức. Đó là trường hợp năm 1950, khi Đức Piô XII (1876-1958) chính thức công bố tín điều Đức Mẹ Lên Trời (Đức Trinh Nữ Maria hồn xác lên trời). Nhưng đó chỉ là vấn đề thiết lập một ý tưởng đã có từ lâu về truyền thống công giáo. Trên thực tế, chính với Đức Phanxicô việc thực thi quyền lực giáo hoàng đã lên cao điểm, ngài không ngần ngại cho mình có toàn bộ quyền hạn để đưa ra quyết định, như khi ngài cải cách giáo triều năm 2022 bất chấp phản đối hoặc khi ngài can thiệp vào các tranh luận của Thượng Hội đồng gia đình năm 2014-2015 (khi đó hầu hết các đề xuất của các giám mục đều bị bác bỏ), tuyên bố ngài là người kế vị Thánh Phêrô với tư cách là nguyên thủ quốc gia.
Trước đây chưa có giáo hoàng nào tuyên bố quyền lực đến mức này. Nghịch lý thay, chính ngài, Giáo hoàng đến từ Nam bán cầu lại kêu gọi phi tập trung hóa nhiều hơn, giảm bớt sức nặng cho Rôma, trao nhiều quyền hơn cho “các vùng ngoại vi”. Nhưng ngài chưa đi xa đủ, tôi nghĩ chúng ta phải đối diện với sự bực tức từ các tín hữu đến giáo triều đến hàng giám mục, đến mức giáo hoàng tương lai sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc phát minh ra một cách thức mới để thực thi quyền lực.
Có phải Đức Phanxicô đã tiến xa hơn những giáo hoàng tiền nhiệm của ngài không? Cuộc cải cách giáo triều năm 2022 đã mở cửa cho giáo dân vào văn phòng các Bộ.
Đức Phanxicô có sáng kiến tuyệt vời. Nhưng đây chỉ là khởi đầu của thay đổi, không phải không có mâu thuẫn. Giáo dân chắc chắn có thể được bổ nhiệm làm Bộ trưởng chịu trách nhiệm các Bộ, nhưng thực tế, đến nay chỉ có ông Paolo Ruffini là người đứng đầu Bộ Truyền thông. Giáo hoàng có thể hoàn toàn phản đối việc đề cử, cũng như ngài có thể đưa ra bất kỳ quyết định nào mà không cần tham khảo ý kiến của một bộ.
Lấy ví dụ về hệ thống tư pháp của Vatican nhỏ bé này. Ngày nay, theo Hiệp định Lateran (1929), Vatican có thể đưa các vụ án hình sự ra trước công lý Ý. Vì thế phiên tòa xét xử ông Mehmet Ali Agça, người Thổ Nhĩ Kỳ ám sát Đức Gioan-Phaolô II (1920-2005) ngày 13 tháng 5 năm 1981 đã được giao cho công lý Ý. Nhưng năm 1998, vụ ám sát hai vệ binh Thụy Sĩ và một phụ nữ ở trung tâm Vatican lại được giao cho tòa án Vatican. Tuy nhiên, công lý của Vatican chỉ là ảo tưởng: không có phân chia quyền lực, vì người đứng đầu mọi quyền lực là Giáo hoàng.
Vatican vẫn tiếp tục hoạt động từ trước thời Montesquieu (1689-1755). Ngay cả ngày nay, vì sao phiên tòa xét xử tòa nhà London (Hồng y Angelo Becciu người Ý đã bị tòa án hình sự Vatican kết án năm năm rưỡi tù giam năm 2023 vì tội tham ô ngân quỹ) lại không giao cho công lý Ý hoặc Anh? Trên thực tế, các cải cách của Đức Phanxicô vẫn còn một số công việc chưa xong.
Còn Thượng Hội đồng về tương lai của Giáo hội, kết thúc vào cuối tháng 10 thì sao? Từ việc linh mục độc thân cho đến chức phó tế nữ, ngay lập tức những chủ đề nhạy cảm bị loại ra khỏi các tranh luận… Những hậu quả nào có thể xảy ra?
Theo tôi, vấn đề chính của Thượng Hội đồng là ở phương pháp tham vấn. Mục tiêu nhằm tạo năng động giữa các tín hữu, khuyến khích họ chịu trách nhiệm về Giáo hội, thoát khỏi vòng quyền lực thông thường. Chúng ta nên nhớ, tiến trình này được gọi là “thượng hội đồng về tính đồng nghị” bắt đầu bằng việc tham khảo ý kiến giáo dân trên khắp thế giới. Các giám mục của mỗi quốc gia, rồi mỗi châu lục đã gặp nhau để tóm tắt vấn đề, và vào tháng 10, lần đầu tiên Thượng Hội đồng quy tụ các tu sĩ và giáo dân – kể cả phụ nữ – đã gặp nhau ở Rôma để thảo luận về vấn đề này. Đó là điều chưa từng có.
Vẫn còn phải xem Đức Phanxicô sẽ rút ra được điều gì từ điều này. Khi mở chức phó tế nữ, ngài chỉ định hai ủy ban có trách nhiệm thực hiện chức vụ này. Không có gì ngăn cản việc có các nữ phó tế, vì đã có một số ở thời Cổ đại. Nhưng dù quan điểm của những tham vấn này như thế nào thì vẫn có rủi ro là sẽ không có gì thay đổi. Bởi vì mọi thứ đều nằm trong tay Giáo hoàng. Đức Phanxicô nhắc chúng ta phải thoát khỏi chủ nghĩa giáo sĩ trị, khỏi một Giáo hội được lãnh đạo bởi các giáo sĩ toàn năng. Ngài đúng, nhưng ngài phải áp dụng yêu cầu này.
Triều Đức Phanxicô là triều đại chứng kiến nhiều tiết lộ nhất về bạo lực tình dục của các giáo sĩ (dù các sự việc đã có từ thế kỷ 20). Ông đánh giá thế nào về câu trả lời của ngài?
Trong các bài phát biểu, dường như ngài đã nắm được vấn đề. Tuy nhiên, vẫn còn những vùng xám như vụ linh mục Dòng Tên Marko Rupnik (nghệ sĩ khảm người Slovenia bị buộc tội bạo lực tình dục). Tháng 5 năm 2020, Vatican ra lệnh dứt phép thông công nhưng lệnh được dỡ bỏ một tháng sau đó. Trong một phỏng vấn với hãng tin AP tháng 1 năm 2023, Đức Phanxicô giải thích ông Rupnik thừa nhận một phần cáo buộc và bồi thường cho nạn nhân. Bị loại khỏi Dòng Tên, cuối cùng ông được một giáo phận ở Slovenia nhận làm linh mục. Với sự hỗ trợ nào? Và hôm nay ông ở đâu? Bí ẩn, có người nói ông đang ở Rôma.
Trong khi đó, các tranh khảm của ông vẫn tiếp tục tô điểm các tòa nhà giáo hội trên khắp thế giới, và các phương tiện truyền thông Vatican tiếp tục dùng để minh họa cho các bài báo hoặc thông điệp trên mạng xã hội, trước sự ngạc nhiên của các nạn nhân. Trong trường hợp này cũng như những trường hợp khác – của Giám mục Argentina Gustavo Zanchetta bị kết án năm 2022 vì tấn công tình dục hoặc Giám mục Ấn Độ Franco Mulakkal (đã từ chức năm 2023, kể từ khi bị buộc tội cưỡng hiếp một nữ tu) -, vai trò của Đức Phanxicô cần được làm rõ.
Nói rộng hơn, trong những năm qua, rất tiếc Giáo hội vẫn còn bị khóa chặt tầm nhìn về các chủ đề này. Chúng ta nên nhớ, trong giáo luật, bạo lực tình dục vẫn bị xếp vào loại vi phạm điều răn thứ sáu (“Ngươi không được phạm tội ngoại tình”), đó là tội ác và phải bị xem là tội ác, như bà Lucetta Scaraffia, sử gia đã viết trong quyển sách Vượt ngoài điều răn thứ sáu (Au-delà du sixième commandement, nxb. Salvator).
Nếu Đức Bênêđíctô XVI và Đức Phanxicô là các giáo hoàng của “thế giới cũ” thì các giáo hoàng của “thế giới mới” sẽ như thế nào? Chân dung của họ có đang nổi lên không?
Tôi sẽ không mạo hiểm dự đoán vị giáo hoàng tương lai, nhưng chúng ta có thể có một số nhân vật có nhân cách cao cả như Thượng phụ Latinh Pierbattista Pizzaballa của Giêrusalem, ngài là một trong những hồng y cuối cùng được Đức Phanxicô phong: đại diện cho Giáo hội với sự cân bằng và can đảm ở Đất Thánh trong thời điểm khó khăn này.
Và Hồng y Anders Arborelius, giáo phận Stockholm, sinh ở Thụy Sĩ trong một gia đình theo giáo phái Tin lành Luther. Ngài trở lại đạo công giáo, đa ngôn ngữ, chuyên gia về các vấn đề tình dục, hướng tới chủ nghĩa đại kết: hào quang của ngài vượt ngoài khuôn khổ Hội đồng Giám mục nhỏ bé của ngài.
Vì sao không phải là một giáo hoàng Châu Phi? Người được biết đến nhiều nhất hiện nay là Hồng y Fridolin Ambongo người Congo (thành viên Hội đồng “C9” các Hồng y có nhiệm vụ giúp giáo hoàng quản trị chính phủ). Hay một người châu Á như Hồng y Miến điện Charles Maung Bo? Thách thức trong việc nối lại quan hệ với Trung Quốc sẽ rất lớn trong những năm tới.
Dù gì xảy ra, Giáo hoàng tương lai phải nhạy cảm với thời đại của mình. Chắc chắn tình trạng thế tục ngày càng gia tăng, đặc biệt ở phương Tây, chúng ta phải đối diện với sa mạc tâm linh. Nhưng nhiều người vẫn tiếp tục khao khát sự siêu việt, đối đầu được với mầu nhiệm của sự sống và sự dữ, được chào đón, được lắng nghe, được trấn an, bị thách thức bởi một điều gì đó vượt quá giới hạn của họ. Tôi hy vọng Giáo hoàng kế tiếp sẽ đáp ứng được cơn khát thiêng liêng này.
Công giáo Hàn Quốc
Công giáo được du nhập vào Hàn Quốc thông qua các sách Công giáo được dịch và viết bằng chữ Hán. Một số học giả Hàn Quốc nghiên cứu các sách này đã đến với đức tin. Lee Seung-hun, một trong những học giả, đã được rửa tội tại Bắc Kinh, Trung Quốc, vào năm 1784. Sau đó ông trở về Hàn Quốc và rửa tội cho một số người. Cộng đoàn Công giáo đầu tiên ở Hàn Quốc hình thành nhưng đến năm 1785 thì bị chính quyền bách hại. Qua các đau thương bách hại, các tín hữu vẫn giữ vững đức tin và tiếp tục truyền bá Phúc Âm. Lịch sử Công giáo Hàn Quốc sau đó tiếp tục trải qua nhiều cuộc bách hại khốc liệt nhưng vẫn phát triển nhờ sự kiên cường trong đức tin của các tín hữu.
Tổng giáo phận Seoul được chính thức thành lập vào năm 1962. Theo trang web của tổng giáo phận Seoul, hiện nay tổng giáo phận có một Hồng y hưu trí, một Tổng Giám mục, 3 Giám mục phụ tá và 974 giáo sĩ phụ trách 233 giáo xứ với tổng số 1.583.170 giáo dân.
Thánh lễ truyền chức linh mục sẽ được truyền hình trực tiếp trên Đài phát thanh Công giáo Hòa bình của Hội đồng Giám mục Hàn Quốc, để các tín hữu trên khắp quốc gia chứng kiến cột mốc lịch sử này tại Tổng giáo phận Seoul.
Nguồn tin của Giáo hội cho biết như trên, qua kênh thông tin độc lập tên là Despacho 505.
Chủng viện thánh Gonzaga là con tim của một giáo phận, nơi đào tạo các linh mục tương lai. Cha Erik Díaz cho biết trong lúc cảnh sát đến chiếm chủng viện, các chủng sinh đang theo học. Tất cả đã bị trục xuất khỏi nơi đào tạo này và bị yêu cầu trở về nhà. Cho đến nay, người ta không rõ các nhân viên của chủng viện có bị bắt hay không.
Giáo phận Matagalpa do Đức cha Rolando Álvarez cai quản. Tháng Tám năm 2022, ngài bị nhà nước Nicaragua bắt giam, kết án 26 năm tù vì tội phản quốc và trục xuất sau đó sang Roma, từ ngày 14 tháng Tư năm ngoái (2024).
Tình trạng trên đây được trình bày trong phúc trình công bố hồi cuối năm vừa qua, 2024, do Viện Quan sát ở Vienne, bên Áo về nạn bất bao dung và kỳ thị các tín hữu Kitô ở Âu châu.
Phúc trình thường niên này phân tích những vụ được thu thập tại 35 nước Âu châu, do các cảnh sát, các tổ chức dân sự và các thống kê chính thức. Phúc trình cho biết trong năm 2023 có 2.444 vụ được ghi nhận, kể cả 232 vụ trực tiếp từ các nạn nhân, như những xách nhiễu, đe dọa và bạo hành.
Con số cao nhất các vụ bài Kitô giáo xảy tại Pháp, với gần 1.000 vụ: trong số này có những vụ xúc phạm, phá hoạt các thánh đường, thường có kèm theo những khẩu hiệu bài Kitô giáo.
Đứng thứ hai trong danh sách là Anh quốc, với hơn 700 vụ bài Kitô, thứ ba là nước Đức tăng 105%, từ 135 vụ trong năm 2022 lên 277 vụ trong năm 2023.
Ngoài những vụ hành hung và phá hoại, phúc trình còn tố giác sự gia tăng những hành động kỳ thị chống Kitô hữu, tại những nơi làm việc hoặc nơi công cộng. Sức ép trên các Kitô hữu tạo ra hiện tượng các Kitô hữu ngày càng phải tự kiểm duyệt, họ không dám công khai biểu lộ niềm tin. Đồng thời, nhiều chính phủ Âu châu ban hành những hạn chế tự do tôn giáo, nhiều khi đi tới độ cấm đi rước hoặc trừng phạt những tín hữu Kitô biểu lộ niềm tin của họ nơi công cộng cách ôn hòa.
Bình luận về những con số những vụ việc vừa nói, trang mạng Tribune Chrétienne, Diễn đàn Kitô, ở Pháp nhận xét rằng sự gia tăng bất bao dung tại nơi làm việc diễn ra trong một bối cảnh ngày càng tục hóa. Tại Pháp, có vấn đề cơ bản được nêu lên: làm sao một nước vẫn tuyên bố mình bảo vệ các quyền căn bản của con người mà lại dung thứ những thái độ và hành động đố kỵ như thế đối với một cộng đồng tôn giáo?
Nhiều quan sát viên tố giác rằng tình trạng đó cho thấy rõ một sự mâu thuẫn đáng trách. Trong khi những tuyên ngôn chính thức đề cao sự bao dung và tôn trọng, thì những hành động thực tế dường như cho thấy các Kitô hữu ngày càng bị gạt ra ngoài lề”.
Phúc trình ở Vienne kêu gọi cấp thiết gây ý thức trong dư luận quần chúng và có những hành động cụ thể để bảo vệ tự do tôn giáo. Âu châu phải bảo đảm cho mọi công dân cơ hội thực hành niềm tin của họ mà không phải sợ hãi hoặc kỳ thị.
Không có gì nguy hiểm về mặt tâm lý lẫn luân lý cho bằng nói dối, phủ nhận sự thật. Chúa Giêsu cảnh cáo, chúng ta có thể phạm một tội không thể tha thứ (nguyên văn lời Ngài) khi phạm đến Thần Khí.
Đó là tội gì? Vì sao không thể tha thứ? Tội này liên kết như thế nào với việc không nói thật?
Và đây là bối cảnh khi Chúa Giêsu nói lời cảnh báo này. Ngài vừa trừ quỷ, có vài người chứng kiến chuyện này họ tin theo giáo lý của họ, chỉ có những ai đến từ Thiên Chúa mới có thể trừ quỷ. Nhưng họ ghét Chúa Giêsu, nên việc Ngài trừ quỷ là một sự thật khó chịu với họ, khó chịu đến mức họ chọn phủ nhận những gì họ vừa tận mắt chứng kiến. Thế là, trái với mọi điều họ đã biết là có thật, họ khẳng định Chúa Giêsu trừ quỷ nhờ phép của quỷ vương Beelzebub. Họ dư biết không phải vậy. Họ biết mình đang phủ nhận sự thật.
Phản ứng đầu tiên của Chúa Giêsu là cố làm cho họ thấy họ nói dối. Ngài viện đến logic, Ngài lập luận nếu quỷ Beelzebub lại đi trừ quỷ, thì có phải là nhà Satan tự chia rẽ và cuối cùng nó sẽ sụp đổ. Nhưng họ cứ khăng khăng với lời phủ nhận của họ. Lúc đó, trong bối cảnh cụ thể này, Chúa Giêsu nói lời cảnh cáo về mối nguy phạm một tội không thể tha thứ: phạm đến Thần Khí.
Về căn bản, lời cảnh cáo này là gì?
Những người Chúa Giêsu nhắm đến đã phủ nhận một hiện thực mà họ vừa thấy tận mắt, chỉ vì quá khó để họ tiếp nhận sự thật ấy. Cho nên họ phủ nhận sự thật, họ hoàn toàn ý thức mình đang nói dối.
Lời nói dối đầu tiên của chúng ta không nguy hiểm đến vậy, vì chúng ta vẫn còn biết mình đang nói dối. Nguy cơ là nếu chúng ta cứ khăng khăng với lời nói dối ấy và tiếp tục phủ nhận (và nói dối), thì chúng ta đi đến mức độ tin vào lời nói dối, xem nó là sự thật, và xem sự thật là giả dối. Lúc đó, sự xuyên tạc được xem là nhân đức, và như thế tội này trở nên không thể tha thứ, không phải vì sự tha thứ không được ban nhưng vì chúng ta không còn tin mình cần được tha thứ, không muốn tha thứ hay mở lòng để đón nhận tha thứ.
Theo bất cứ cách nào, mỗi khi chúng ta nói dối, chúng ta phủ nhận sự thật là chúng ta bắt đầu nhốt lương tâm lại, và nếu chúng ta cứ nhất quyết làm, thì cuối cùng (không nói quá) chúng ta làm tâm hồn bị biến thái đến nỗi với chúng ta, giả dối trông như sự thật, bóng tối trông như ánh sáng, và địa ngục trông như thiên đàng.
Địa ngục chưa bao giờ là một bất ngờ kinh khủng với những người hạnh phúc và căn bản thành thật. Địa ngục chỉ phát triển trọn vẹn qua sự thiếu thành thật lâu dài, được duy trì khi chúng ta phủ nhận hiện thực quá lâu đến nỗi xem sự thiếu thành thật là sự thật. Không có ai trong địa ngục ăn năn và mong sao mình có một cơ hội khác để sống và chết đi cho tốt đẹp. Nếu có người ở trong địa ngục, thì người đó, bất kể bản thân đang thống khổ, lại cảm thấy xem thường và khinh thị sự ngây thơ của những người thành thật đang ở thiên đàng.
Và tại sao đó là tội “phạm đến Thần Khí”?
Trong thư Thánh Phaolô gởi tín hữu thành Galát, ngài đưa ra hai con đường căn bản để chúng ta sống. Chúng ta có thể sống ngoài Thần Khí. Và chúng ta sống như thế mỗi khi chúng ta sống dâm bôn, thờ quấy, hận thù, bất hòa, chia rẽ, và không thành thật. Chính nói dối đẩy chúng ta đến đó. Ngược lại, chúng ta sống trong Thần Khí khi chúng ta sống trong bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Và chúng ta được như thế mỗi khi chúng ta thành thật. Do đó, mỗi khi nói dối, mỗi khi phủ nhận hiện thực, mỗi khi phủ nhận sự thật, là chúng ta (hoàn toàn và thực tế) đang bước ra khỏi Thần Khí và phạm thượng vì khinh thị Thần Khí.
Satan là vua dối trá. Chính vì thế mà nguy cơ lớn nhất trong thế giới chúng ta chính là khối lượng lời nói dối, tin giả, tin sai sự thật, phủ nhận thẳng thừng mỗi khi chúng ta thấy sự thật không hợp với ý thích của mình, phủ nhận hiện thực hiện diện gần như khắp nơi. Chẳng có gì mang tính hủy hoại và nguy hiểm cho sức khỏe linh hồn, cho khả năng tạo cộng đồng giữa chúng ta, cho tương lai của hành tinh, cho ý thức của chính chúng ta cho bằng thẳng thừng phủ nhận sự thật.
Khi sự thật bị phủ nhận: khi sự thật lịch sử bị viết lại để xóa bỏ một sự thật đau lòng, khi có người cho rằng chuyện bạn tận mắt chứng kiến không xảy ra, khi có người bảo cuộc diệt chủng Do Thái không xảy ra, khi có người bảo ở đất nước này chưa hề có chế độ nô lệ, khi có người nói không có trẻ em chết ở Sandy Hook, thì như vậy không chỉ là không tôn trọng hàng triệu người, mà con nhạo báng với ý thức của cả một văn hóa.
Khi có chuyện gì đó xảy ra rồi sau đó bị phủ nhận, thì đó không chỉ là giễu cợt với sự thật, mà còn gieo tai họa cho ý thức chúng ta, đặc biệt với người nói dối.
Trên đây là câu trả lời của Bộ Phụng tự và Kỷ luật bí tích nhằm giải tỏa nghi vấn được một số người nêu lên năm vừa qua: đó là lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội trùng vào Chúa nhật, ngày 08 tháng Mười Hai, nên phần lớn các giáo phận trên thế giới đã di chuyển lễ Đức Mẹ sang ngày thứ Hai, ngày 09 tháng Mười Hai. Một số giám mục tại Hoa Kỳ vẫn nhắc nhở các tín hữu về nghĩa vụ phải tham dự thánh lễ kính Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, ngày 09 tháng Mười Hai, trong khi một số giám mục khác chuẩn chước cho các tín hữu về việc dự lễ này.
Trong một thư gửi đến Đức cha Thomas Paprocki, Giám mục Giáo phận Springfield, bang Illinois, hồi tháng Chín năm ngoái, Bộ về các văn bản luật nói rằng “Các tín hữu buộc phải được dự lễ buộc vào ngày mà lễ ấy được dời tới”.
Tuy nhiên, trong thông cáo chính thức đề ngày 23 tháng Giêng vừa qua, Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích cho biết đã tham khảo ý kiến với Bộ về các văn bản luật và quyết định rằng “Trong trường hợp di chuyển lễ buộc sang một ngày khác thì sự bó buộc dự lễ không được di chuyển theo”.
Mỗi Chúa nhật là ngày thánh buộc phải dự lễ vì đó là cuộc tưởng niệm sự chết và phục sinh của Chúa. Những ngày lễ trọng khác, các tín hữu buộc phải dự lễ, như: lễ Giáng Sinh, Lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, lễ Hiển Linh, lễ Chúa Thăng Thiên, lễ kính Mình Máu Thánh Chúa, lễ Đức Mẹ Hồn xác lên trời, lễ thánh Giuse, lễ thánh Phêrô và Phaolô tông đồ và lễ các thánh.
Vì lịch phụng vụ của Giáo hội bao gồm các ngày lễ cố định, như Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm 08 tháng Mười Hai và các ngày lễ vào những ngày khác nhau như Lễ Hiện Xuống, lễ Phục sinh và những Chúa nhật Mùa vọng hay Mùa chay, nên thỉnh thoảng có hai lễ trùng vào Chúa nhật. Trong trường hợp đó, lễ nào giữ vị thế cao hơn trong danh sách các ngày phụng vụ thì buộc phải dự lễ, và lễ khác được dời đến ngày gần nhất. Trong tháng Mười Hai, Chúa nhật thứ II Mùa vọng có vị thế cao hơn lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm.
Bộ Phụng tự và Kỷ luật bí tích nói rằng vấn đề này không được xác định trong bộ giáo luật, nên Giáo hội theo một đường lối thực thành đã được xác định theo đó, trong trường hợp chuyển một ngày lễ buộc, thì nghĩa vụ phải dự lễ không được di chuyển theo.
Thủ tục dễ dàng mà không lơ là sự thật và công lý
Đức Thánh Cha nhắc lại rằng mục đích của thủ tục tuyên bố hôn nhân vô hiệu, như Đức Bênêđictô XVI đã nói trong bài phát biểu trước Tòa Thượng thẩm Rota năm 2006: “không làm phức tạp cuộc sống của các tín hữu một cách không cần thiết, càng không làm gia tăng sự tranh chấp, mà chỉ là để phục vụ sự thật”. Khái niệm này cũng được Đức Phaolô VI giải thích, khi ngài hoàn thành cuộc cải cách với Tự sắc Causas matrimoniales năm 1975, và cũng tại Tòa Rota, ngài đã nói rõ rằng mục tiêu của việc đơn giản hóa là để việc xử lý các vụ án hôn nhân trở nên “dễ dàng hơn, và do đó mang tính mục vụ hơn, mà không làm ảnh hưởng đến các tiêu chuẩn của sự thật và công lý, mà một thủ tục phải tuân thủ một cách trung thực”.
Ngài nhấn mạnh: “Chúng ta phải lắng nghe nỗi đau và hy vọng của nhiều tín hữu đang tìm kiếm sự rõ ràng về sự thật trong tình trạng cá nhân của họ, và do đó, về khả năng tham gia trọn vẹn vào đời sống bí tích. Đối với nhiều người đã trải qua một cuộc hôn nhân không hạnh phúc, việc xác minh tính thành sự của hôn nhân là một cơ hội quan trọng; và những người này cần được giúp đỡ để đi trên con đường này một cách dễ dàng nhất có thể”.
Nhiệm vụ của Giám mục giáo phận
Nhân kỷ niệm 10 năm cải cách thủ tục tuyên bố hôn nhân vô hiệu, được thực hiện với hai Tự sắc Mitis Iudex Dominus Iesus và Mitis et Misericors Iesus, Đức Thánh Cha dừng lại để nói về “tinh thần” đã thúc đẩy cuộc cải cách này và nhắc lại rằng việc sửa đổi “các quy định liên quan đến thủ tục tuyên bố hôn nhân vô hiệu” đã được Thượng Hội đồng năm 2014 yêu cầu để làm cho các thủ tục trở nên “dễ tiếp cận và nhanh chóng hơn”. Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh rằng những đổi mới này cũng liên quan đến cơ cấu, để các thủ tục hành chính về công lý “đáp ứng tốt nhất nhu cầu của những người đến với Giáo hội để làm sáng tỏ tình trạng hôn nhân của họ”. Ngài nhấn mạnh rằng ngài đã muốn đặt Giám mục giáo phận “làm trung tâm của cuộc cải cách”, Giám mục giáo phận phải “quản trị công lý trong giáo phận, vừa là người bảo đảm sự gần gũi của các tòa án và giám sát chúng, vừa là thẩm phán” có quyền quyết định khi “sự vô hiệu rõ ràng” và do đó có thể áp dụng “thủ tục ngắn gọn”.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Tôi đã thúc giục việc đưa hoạt động của các tòa án vào trong mục vụ giáo phận, yêu cầu các Giám mục đảm bảo rằng các tín hữu biết đến sự tồn tại của thủ tục này như một phương cách có thể giúp họ giải quyết tình trạng khó khăn của mình. Đôi khi thật đáng buồn khi biết rằng các tín hữu không biết đến con đường này. Hơn nữa, điều quan trọng là ‘các thủ tục phải miễn phí, để Giáo hội có thể thể hiện tình yêu thương nhưng không của Đức Kitô, Đấng đã cứu chuộc tất cả chúng ta’.”
Tầm quan trọng của việc đào tạo
Trong các giáo phận, Đức Giám mục phải đảm bảo thành lập một tòa án với các giáo sĩ và giáo dân được đào tạo tốt, “đảm bảo rằng họ thực hiện công việc của mình một cách công bằng và cẩn trọng”. Về việc đào tạo “khoa học, nhân bản và tinh thần”, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng điều này là nền tảng, và đầu tư vào đó luôn mang lại ích lợi cho các tín hữu, “những người có quyền được xem xét cẩn thận các yêu cầu của họ, ngay cả khi họ nhận được phản hồi tiêu cực”.
Sự khôn ngoan, công lý và bác ái
Về cuộc cải cách của mình, Đức Thánh Cha đặc biệt nhắc đến việc bãi bỏ “yêu cầu về hai phán quyết đồng thuận” và khuyến khích “quyết định nhanh chóng hơn các vụ án mà sự vô hiệu rõ ràng, nhằm mục đích mang lại lợi ích cho các tín hữu và mang lại sự bình an cho lương tâm của họ”. Tuy nhiên, ngài khuyên nên áp dụng các quy định một cách khôn ngoan và công bằng, mà không quên bác ái.
Gia đình là hình ảnh của sự hiệp thông yêu thương của Ba Ngôi
Cuối cùng, Đức Thánh Cha lưu ý rằng “gia đình là hình ảnh sống động của sự hiệp thông yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi”, và vì thế “mỗi người tham gia vào thủ tục phải tiếp cận thực tế hôn nhân và gia đình với sự kính trọng”.
Ngài nhấn mạnh: “Đôi vợ chồng kết hợp trong hôn nhân đã nhận được ân sủng của sự bất khả phân ly, không phải là một mục tiêu để đạt được bằng nỗ lực của họ, càng không phải là một giới hạn đối với tự do của họ, mà là một lời hứa của Thiên Chúa, Đấng làm cho sự trung tín của con người trở nên khả thi”.
Cách đây hơn hai tuần, Đức Tổng giám mục Rino Fisichella, Quyền Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin mừng, Phân bộ các vấn đề cơ bản và cũng là vị đặc trách tổ chức và điều hành các sinh hoạt Năm Thánh, cho biết đã có nửa triệu tín hữu bước qua Cửa Thánh trong hai tuần lễ đầu tiên. Ban tổ chức dự đoán sẽ khoảng 30 triệu tín hữu về Roma hành hương nhân dịp Năm Thánh. Số người sẽ lên tới mức cao điểm vào dịp lễ Phục sinh và các tháng mùa hè năm nay.
Cách đây ít lâu, Liên hiệp các khách sạn và du lịch ở Roma than thở rằng trong những tuần lễ đầu của Năm Thánh, số lượng người giữ phòng ở các khách sạn không như họ mong đợi, vì thế một số khách sạn đã phải hạ giá để chiêu dụ khách mời.
Đức Thượng phụ nhấn mạnh rằng, “cuộc hành hương này chứng tỏ quyết tâm của chúng tôi thăng tiến sự hòa giải”.
Ngài tuyên bố như trên trong cuộc gặp gỡ giới báo chí, sau bài thuyết trình tại Hội đồng Âu châu ở thành phố Strasbourg, bên Pháp hôm 28 tháng Giêng vừa qua.
Đức Thượng phụ cũng nhận xét rằng trong thời gian gần đây, các cuộc trao đổi giữa Giáo hội Roma và Giáo hội Constantinople đã thắt chặt các quan hệ giữa hai Giáo hội. Tòa Thượng phụ không những dấn thân đối thoại thần học với Công giáo, nhưng cả về việc chọn một ngày chung để cử hành lễ Phục sinh. Ngài nói: “Chúng tôi tin rằng dịp kỷ niệm lịch sử 1.700 năm Công đồng Nicea sẽ gợi hứng cho cuộc đối thoại mới về thần học và sự cộng tác giữa các Giáo hội Kitô. “Chúng ta hãy xây dựng một thế giới, trong đó ước nguyện của Chúa Kitô cho các môn đệ được nên một sau cùng sẽ được thực hiện”.
Trả lời câu hỏi: thế giới Kitô chuẩn bị thế nào để kỷ niệm 1.700 năm Công đồng Nicea và tình trạng mối quan hệ giữa hai khối Giáo hội, Đức Thượng phụ nói: “Dịp kỷ niệm 1.700 năm sắp tới cũng là cơ hội để làm chứng về tình hiệp thông gia tăng, tình hiệp thông này vốn có giữa tất cả những tín hữu đã chịu phép rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Câu chuyện bắt đầu từ website chính thức của chi Hội Tam Điểm tại Tiểu bang South Carolina, thông báo cựu Tổng Thống Joe Biden được gia nhập vào hiệp hội nầy ngày 19 tháng 1.
Thông báo Tổng Thống Hoa Kỳ Joe Biden đã chính thức gia nhập Hội Tam Điểm Prince Hall tại South Carolina vào ngày 19 tháng 1, đã tạo ra cuộc tranh luận gay gắt trong các giới tôn giáo và chính trị.
Truyền thông chính thức xác nhận rằng Joe Biden có đến South Carolina ngày 19 tháng 1.
South Carolina, một tiểu bang có ý nghĩa đặc biệt sau chiến thắng của Biden trong cuộc bầu cử sơ bộ của đảng Dân chủ năm 2020, đã tạo điều kiện cho ông đạt được mục tiêu của cuộc đời mình là được bầu làm tổng thống Hoa Kỳ. Chuyến đi được cho là cách Biden nói lời “cảm ơn” tới Tiểu bang, ngoài ra cũng nói không biết rõ ông còn đến đó để làm điều gì khác nữa.
President Biden to visit South Carolina day before Trump's inauguration
"President Joe Biden visits South Carolina on Sunday, January 19, the final full day of his presidency.
The White House announced that the president travels to Charleston, though his specific plans were not disclosed..."
"President Joe Biden will travel to Charleston on Sunday, Jan. 19, according to the White House.
No additional details were revealed by the White House Tuesday. Biden is expected to attend President-elect Donald Trump's inauguration on Monday, Jan. 20....."
"...Afterward, the Bidens will tour the International African American Museum. It was built on a waterfront site where tens of thousands of enslaved Africans were brought to the U.S. from the late 1760s through 1808, according to the museum's website."
It is with great pleasure that I, Victor C. Major 27th The Most Worshipful Grand Master, welcome our newest member to the Prince Hall Family. On Sunday, January 19, 2025 at a private event, Master Mason membership with full honors were conferred upon President Joseph R. Biden, Jr. in recognition of his outstanding service to the United States of America.
RESOLUTION OF MEMBERSHIP
To be a Freemason is to be part of a brotherhood dedicated to personal growth, service to others, and the pursuit of knowledge and truth. It is an honor to belong to an organization that promotes these timeless values:
WHEREAS, President Joseph R. Biden, Jr. has demonstrated exceptional dedication and service to the United States of America.
WHEREAS, his service reflects the core values of the Most Worshipful Prince Hall Grand Lodge of Free and Accepted Masons of the State of South Carolina, including brotherly love, relief, and truth.
WHEREAS, President Joseph R. Biden, Jr. contributions have significantly benefited the citizens of the United States of America;
THEREFORE, BE IT RESOLVED, that I, 27th Most Worshipful Grand Master, Victor C. Major, on behalf of the members of the Most Worshipful Prince Hall Grand Lodge of Free and Accepted Masons of the State of South Carolina, hereby confer membership upon President Joseph R. Biden, Jr. in recognition of his outstanding service to the United States of America.
BE IT FURTHER RESOLVED, that this resolution of Membership be recorded in the archives of the Most Worshipful Prince Hall Grand Lodge of Free and Accepted Masons of the State of South Carolina.
GIVEN THIS 19th DAY OF January A.D. 2025
Victor C. Major
27th Most Worshipful Grand Master
Most Worshipful Prince Hall Grand Lodge
of Free and Accepted Masons of the State of South Carolina
Il Papa ad Auschwitz, luglio 2016
Trong buổi đọc kinh Truyền tin, trưa Chúa nhật ngày 26 tháng Giêng vừa qua, Đức Thánh cha nói: “Ngày mai là Ngày quốc tế tưởng niệm, nhớ đến các nạn nhân cuộc Diệt chủng Do thái. 80 năm giải phóng trại tập trung Auschwitz. Kinh hoàng do cuộc tiêu diệt hằng triệu người Do thái và các tín ngưỡng khác trong những năm ấy không thể bị quên lãng và cũng chẳng thể chối bỏ. Tôi nhớ đến một nữ thi sĩ nổi tiếng người Do thái gốc Hungary, bà Edith Bruck, sinh sống tại Roma này. Bà đã chịu đau khổ vì tất cả những điều đó. Ngày hôm nay, nếu muốn, anh chị em có thể nghe bà trong chương trình truyền hình “Thời tiết thế nào” (Che tempo che fa). Chúng ta cũng tưởng niệm bao nhiêu tín hữu Kitô, trong đó có nhiều người tử đạo. Tôi tái kêu gọi tất cả mọi người cộng tác vào việc loại bỏ tai ương bài Do thái, cùng với mọi hình thức kỳ thị và bách hại tôn giáo. Chúng ta hãy cùng nhau xây dựng một thế giới huynh đệ hơn, công bằng hơn, bằng cách giáo dục những người trẻ có một trái tim cởi mở đối với tất cả mọi người, theo tiêu chuẩn tình huynh đệ, tha thứ và hòa bình”.
Tại trại tập trung Auschwitz ở Ba Lan, hôm 27 tháng Giêng đã có lễ nghi tưởng niệm cuộc diệt chủng với sự tham dự của 60 phái đoàn các nước; nhiều phái đoàn do các vị lãnh đạo cấp cao nhất lãnh đạo, như Vua Charles III của Anh Quốc, Tổng thống Mattarella của Ý hay Tổng thống Pháp Emmanuel Macron. Không có sự hiện diện của phái đoàn Nga và Thủ tướng Netanyahu của Israel.
Hôm thứ Năm, ngày 23 tháng Giêng vừa qua, chính phủ Cộng hòa Estoni đã thông qua dự luật do Bộ trưởng Nội vụ, ông Lauri Laanemets đề nghị cấm Giáo hội Chính thống Estoni, vốn thuộc Tòa Thượng phụ Chính thống Mascơva không được hoạt động tại nước này. Dự luật sẽ được chuyển tới quốc hội để thảo luận và biểu quyết.
Trang mạng “Risu” của Giáo hội Chính thống Ucraina cho biết trong cuộc họp báo sau phiên họp của Hội đồng Bộ trưởng Estoni, Bộ trưởng Laanemets nói rằng tại Estoni, một Giáo hội hay một hiệp hội tôn giáo không được liên kết với một cơ quan chính phủ nước ngoài đe dọa quốc gia Estoni. Luật mới nhắm ngăn chặn sự phổ biến ý thức hệ khủng bố hoặc cực đoan do các hiệp hội tôn giáo ở Estoni. Trong thực tế, luật này nhắm cấm Giáo hội Chính thống thuộc Tòa Thượng phụ Chính thống Mascơva không được hoạt động.
Theo Bộ trưởng Nội vụ Estoni, Giáo hội Chính thống Nga là một dụng cụ quan trọng để ảnh hưởng tới Estoni.
Tại Cộng hòa này có hai Giáo hội Chính thống: Cộng đoàn lớn hơn thuộc Tòa Thượng phụ Chính thống Mascơva và đa số tín hữu là người gốc Nga. Một cộng đoàn nhỏ hơn thì thuộc Tòa Thượng phụ Chính thống Constantinople ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Trong cuộc kiểm tra dân số hồi năm 2021, 16% dân Estoni là tín hữu Chính thống giáo.
Hồi tháng Tám năm ngoái, Giáo hội Chính thống thuộc Tòa Thượng phụ Chính thống Mascơva chính thức thông báo tách rời khỏi Giáo hội mẹ và một đại hội của Giáo hội đã thông qua quy chế mới, xác định sự độc lập với Mascơva về quản trị, kinh tế và giáo dục. Cả danh xưng cũng được đổi thành “Giáo hội Chính thống Estoni” và xóa bỏ câu “Thuộc Tòa Thượng phụ Mascơva”.
Tuy nhiên, theo tòa án khu vực Tartu, việc đổi tên như vậy vẫn chưa đủ. Vì thế, ngày 10 tháng Giêng vừa qua, Đại hội của Giáo hội Chính thống này lại đổi tên thành “Giáo hội Chính thống Kitô Estoni”. Nhưng điều này có đủ để xóa bỏ sự nghi ngờ của chính phủ Estoni về sự độc lập của Giáo hội này hay không, các quan sát viên vẫn còn đặt câu hỏi.
Từ nhiều năm nay, chính phủ Estoni vẫn mạnh mẽ đòi Giáo hội Chính thống Estoni phải hoàn toàn cắt đứt mọi quan hệ với Chính thống Mascơva, vì Chính thống này công khai ủng hộ cuộc xâm lăng của Nga tại Ucraina. Thủ lãnh Giáo hội Chính thống Estoni, là Đức Tổng giám mục Eugeni Reshetnikov, quốc tịch Nga, đã phải rời bỏ Estoni hồ tháng Hai năm ngoái (2024), vì chính phủ Estoni từ chối không gia hạn giấy phép cư trú cho vị này.
Người ta thường nói đến giải pháp thống nhất hai Giáo hội Chính thống tại Estoni. Thủ lãnh Chính thống Estoni, Đức Tổng giám mục Stefanus nhiều lần tuyên bố Giáo hội thuộc quyền ngài sẵn sàng tìm kiếm một giải pháp tốt nhất đáp ứng nguyện vọng của mọi phía.
Ấn Độ, Brazil và Indonesia là ba quốc gia ghi nhận số ca bệnh phong cao nhất trong những tháng gần đây. Mặc dù có thể chữa trị được, bệnh phong vẫn là vấn đề y tế quan trọng ở nhiều quốc gia tại châu Phi, châu Á và Mỹ Latinh, nơi điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn tạo điều kiện cho bệnh lây lan.
Thống kê toàn cầu về bệnh phong
Trong năm 2023, có 182.815 ca bệnh phong được ghi nhận trên toàn cầu, tăng 5% so với năm trước, theo báo cáo hàng năm mới nhất của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) được công bố vào tháng 9 năm 2024. Ấn Độ, Brazil và Indonesia tiếp tục là những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Trong số các ca bệnh mới, 5,7% là trẻ em và 39,9% là phụ nữ. Báo cáo cũng ghi nhận sự gia tăng số người bị khuyết tật nghiêm trọng tại thời điểm chẩn đoán: năm 2023, 5,3% trong tổng số ca chẩn đoán có khuyết tật nghiêm trọng, trong đó 2,7% là trẻ em. Điều này cho thấy vẫn còn nhiều khó khăn trong việc nhận biết sớm triệu chứng, cũng như chất lượng và khả năng tiếp cận dịch vụ y tế, dẫn đến chẩn đoán muộn và gây ra những khuyết tật không thể phục hồi.
Câu chuyện hy vọng
Tuy nhiên, có nhiều câu chuyện mang hy vọng đã được kể. Một trong những câu chuyện được kể là trường hợp của Dario, 18 tuổi, sống ở một ngôi làng nhỏ thuộc tỉnh Manica, Mozambique. Câu chuyện của Dario gắn liền với cảnh nghèo đói và bệnh phong, nhưng cũng gắn liền với phẩm giá và sự hòa nhập để có thể phá vỡ vòng luẩn quẩn của sự loại trừ và nghèo đói. Mắc bệnh phong từ năm 11 tuổi, Dario mang những vết sẹo trên gương mặt, mắt và đôi tay, dẫn đến tình trạng bị xa lánh. Bạn bè cùng trang lứa tránh xa vì sợ hãi, khiến Dario phải nghỉ học trong ba năm. Nhưng được chẩn đoán kịp thời nhờ sự hỗ trợ của tổ chức AIFO, Dario đã tìm được con đường hy vọng. Hiện nay, Dario đã quay lại trường, tham gia một khóa học làm thợ cắt tóc và bắt đầu có thu nhập, trở nên dần độc lập.
Ngày Thế Giới Phòng Chống Bệnh Phong là dịp để cộng đồng quốc tế tái khẳng định cam kết hỗ trợ những người mắc bệnh phong, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương nhất sống trong điều kiện nghèo đói và bị kỳ thị, giúp người bệnh tiếp cận được cơ hội chữa lành, hòa nhập và hy vọng.
Trong Thánh lễ tại Nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Tổng giám mục nhấn mạnh: Sự “phẫn nộ” trước điều ác và bất công là chính đáng. Nhưng hận thù thì không bao giờ, ngay cả khi bị bách hại vì đức tin, dẫn đến phân biệt đối xử, tù đày hay thậm chí cái chết. Ngài khuyến khích mọi người đừng để trái tim mình bị đầu độc bởi hận thù, đồng thời mạnh mẽ lên án những vi phạm đối với tự do tôn giáo, “một quyền cơ bản, tiên quyết và bất khả xâm phạm, cần được thúc đẩy ở khắp mọi nơi, và vì quyền này, nhiều người đã hy sinh mạng sống của mình”.
Khiêm nhường xây dựng hòa bình
Đức Tổng Giám mục Gallager nhấn mạnh đến “sự can đảm xây dựng hòa bình”, như “con đường hy vọng” trong thử thách và nghịch cảnh. Ngài nói: “Chỉ khi nuôi dưỡng lòng khiêm nhường, hiền hòa và bao dung, chúng ta mới có thể phá vỡ những bức tường vô hình đang chia rẽ xã hội chúng ta”. Ngài cảnh báo rằng: “Nơi nào có kiêu ngạo, nơi đó có chiến tranh, có tham vọng áp đảo người khác, có thái độ tự tôn. Không có khiêm nhường thì không có hòa bình, và không có hòa bình thì không có hiệp nhất”.
Gieo hy vọng giữa những hoang tàn của thế giới
Đức Tổng Giám mục mời gọi mọi người “sống trọn vẹn đức tin của mình” trước những thách đố của thế giới hôm nay. Ngài lấy hình ảnh quen thuộc với Monaco – khúc cua đầu tiên của chặng đua Công thức 1 mang tên thánh Devota – để nhắc về những “bước ngoặt trong đời sống Kitô hữu, những thay đổi không thể tránh khỏi trong hành trình đức tin”. Ngài khích lệ: “Ước gì khúc cua thánh Devota này giúp chúng ta tránh những lạc lối, vững bước trên con đường ngay thẳng và an toàn: con đường của Chúa Kitô”.
LÀM MÔN ĐỆ: THIÊN CHÚA MỜI GỌI VÀ CON NGƯỜI ĐÁP TRẢ
“Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người”
(Lc 5,11)
Theo giáo luật, các hồng y thuộc đẳng Giám mục sẽ họp nhau để bầu vị Niên trưởng, kế nhiệm Đức Hồng y Giovanni Battista Re 91 tuổi, sắp mãn nhiệm kỳ 5 năm, vào ngày 19 tháng Ba tới đây. Trước kia, Niên trưởng Hồng y đoàn giữ chức vụ trọn đời, nhưng Tông hiến Praedicate Evangelium, Hãy loan báo Tin mừng, do Đức Thánh cha Phanxicô ban hành, ấn định nhiệm kỳ của vị niên trưởng này là 5 năm, có thể được tái cử một lần. Tuy nhiên, Đức Hồng y Re cho biết ngài không muốn được tái cử.
Các hồng y thuộc đẳng Giám mục hiện nay có 12 vị, trong đó sau Đức Hồng y Re là Đức Hồng y Leonardo Sandri, 81 tuổi, người Argentina, gốc Ý, Đức Hồng y Francis Arinze người Nigeria, 92 tuổi, Đức Hồng y José Saraiva Martins, người Bồ Đào Nha 93 tuổi, Đức Hồng y Tarcisio Bertone, Dòng Don Bosco, người Ý, 90 tuổi, Đức Hồng y Beniamino Stella, người Ý, 83 tuổi, Đức Hồng y Marc Ouellet, người Canada, 80 tuổi, Đức Hồng y Béchara Rai, người Liban, 84 tuổi, Thượng phụ Công giáo Maronite.
Có một số vị dưới 80 tuổi là Đức Hồng y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh, 70 tuổi, Đức Hồng y Fernando Filoni, 78 tuổi, Đức Hồng y Luis Antonio Tagle, người Philippines, 67 tuổi, và Đức Hồng y Louis Raphael Sako, người Irak 75 tuổi, Thượng phụ Công giáo Canđê.
Đức Hồng y Niên trưởng là người đứng đầu trong số 252 Hồng y đồng hàng, trong số này đó 138 vị cử tri, dưới 80 tuổi, có thể tham dự mật nghị Hồng y bầu Giáo hoàng mới. Tuy nhiên, ngài giữ vai trò quan trọng trong đời sống thường nhật của Giáo hội và trong thời gian Tòa Thánh trống tòa: Hồng y Niên trưởng chủ tọa các cuộc họp của Hồng y đoàn để chuẩn bị bầu Giáo hoàng mới và các nghi thức tại Nhà nguyện Sistina.
Báo Il Tempo cho rằng kế nhiệm Đức Hồng y Re có thể là Đức Hồng y Leonardo Sandri, 81 tuổi, nguyên Tổng trưởng Bộ các Giáo hội Công giáo Đông phương, hoặc Đức Hồng y Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, 70 tuổi.
Khóa họp này là một thời điểm quan trọng trong tiến trình phân định về sứ mang của dòng Tên. Trang mạng của dòng Tên ở Ba Lan (Jezuici.pl) đưa tin trên đây và nhấn mạnh rằng đây sẽ là cơ hội để thu thập những thành quả của các tiến trình khác nhau đang diễn ra trong dòng Tên trên thế giới.
Từ sau Tổng Tu nghị thứ 36 của dòng Tên hồi năm 2016, dòng theo đuổi con đường những ưu tiên tông đồ hoàn cầu, từ năm 2019 đến 2029, gợi ý cho những kế hoạch và hướng dẫn sự dấn thân của các tu sĩ dòng Tên trên thế giới. Trong số những thách đố dòng theo đuổi trong những năm gần đây, có những suy tư về lời khấn thanh bần, vai trò của phụ nữ trong hoạt động tông đồ, ơn gọi của các tu huynh dòng Tên, củng cố các mạng cộng tác giữa hoạt động tông đồ, căn tính cũng như sứ mạng của các cơ sở giáo dục. Dòng Tên cũng dấn thân trong lãnh vực sinh thái toàn diện, và nhất là đào sâu những nguồn mạch đoàn sủng của dòng - đặc biệt là linh thao của thánh Inhaxio Loyola và hiến pháp của dòng Tên, cũng như cải tiến các chương trình huấn luyện.
Đồng thời, dòng tiếp tục tái khẳng định sự dấn thân kiến tạo những môi trường trong hoạt động tông đồ của mình, trong đó mỗi người cảm thấy an toàn.
Trang mạng của dòng Tên cho biết khóa họp vào tháng Mười tới đây, mặc dù không có quyền lập pháp và không ban hành các sắc lệnh, nhưng cũng là cơ hội để tất cả các bề trên suy tư về những thành quả hoạt động trong những năm gần đây, tại tất cả các tỉnh dòng, thẩm định những thách đố hiện nay và nắm bắt những khả thể của dòng đáp ứng những thách đố ấy một cách thích hợp.
Theo Niên giám năm 2023 của Tòa Thánh, Dòng Tên tiếp tục là dòng nam đông tu sĩ nhất trong Giáo hội, với gần 14.400 tu sĩ, trong số này có 10.432 linh mục, hoạt động tại 1.218 nhà trên thế giới. Đứng thứ hai, sau Dòng Tên là Dòng Salésien Don Bosco, với 14.143 tu sĩ. Hai dòng chỉ cách nhau khoảng 290 tu sĩ.
Đức cha Antôn Hoàng Hữu Thư, tên tiếng Lào là Adoun Hongsaphong, năm nay 61 tuổi, sinh ngày 04 tháng Tư năm 1964, tại Paksé, học Triết và Thần học tại Đại chủng viện thánh Carlo Borromeo và tốt nghiệp Cao học Thần học tại Đại học Fribourg, bên Thụy Sĩ. Thụ phong linh mục ngày 03 tháng Chín năm 1994 và thuộc Địa phận đại diện Tông tòa Paksé ở miền trung Lào.
Sau đó, cha được gửi sang Roma du học và đậu Cao học giáo luật tại Đại học thánh Tôma Aquinô, quen gọi là Angelicum (1994-1996). Trở về nước, cha lần lượt đảm nhận các nhiệm vụ: Cha phó nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Vô Nhiễm ở Ubon Ratchatani, bên Thái Lan (1997-1999); Thẩm phán tòa án của Tổng giáo phận Tharé-Nonseng, Thái Lan (1999-2005), đồng thời làm cha sở giáo xứ Thánh Gia ở Ban Nongkhu, Thái Lan (1999-2005).
Sở dĩ cha Hoàng Hữu Thư hoạt động ở vùng đông bắc Thái Lan, vì khu vực này chỉ cách Paksé với sông Mekong và dân chúng nói cùng một ngôn ngữ như người Lào.
Từ năm 2005, cha Hoàng Hữu Thư làm Giám đốc Đại chủng viện dự bị ở Paksé trong chín năm (2005-2014), đồng thời làm cha sở nhà thờ Chính tòa và phụ trách 12 giáo họ thuộc Địa phận đại diện Tông tòa Paksé (2005-2014). Cùng thời gian đó, cha Antôn Thư làm giáo sư về giáo luật, các bí tích, đại kết, dẫn nhập Kinh thánh tại Đại chủng viện quốc gia ở Thakeh (từ 2005); Rồi cha phụ trách mục vụ cho 11 giáo họ thuộc Địa phận Paksé từ năm 2014.
Giáo hội Công giáo tại Lào chỉ có khoảng gần 53.000 tín hữu Công giáo trên tổng số 7 triệu 300.000 dân, hầu hết theo Phật giáo. Giáo hội tại nước này có bốn địa phận Đại diện Tông tòa là Viên Chăn, Paksé, Savannakhet và Luang Prabang.
Theo Niên giám 2023 của Tòa Thánh, Paksé có đông tín hữu Công giáo nhất, với 22.000 người, tiếp đến là Viên Chăn 14.000, tương đương với 0,6% trên tổng số 2,5 triệu dân cư. Thứ ba là Savannakhet có 12.000 và sau cùng là Luang Prabang chỉ có 2.600 tín hữu Công giáo. Địa phận bé nhỏ này do cha Tito Banchong, thuộc Dòng Hiến Sinh Đức Mẹ Vô Nhiễm (OMI), làm Giám quản Tông tòa trong 10 năm, từ 1999 đến 2019, sau đó thì không có ai kế nhiệm. Cha mới qua đời tại Viên Chăn ngày 25 tháng Giêng vừa qua, hưởng thọ 78 tuổi, sau thời gian dài chịu đựng bệnh tật. Cha từng bị Pathet Lào cầm tù trong 7 năm trời và không có một tin tức nào, khiến người ta nghĩ rằng cha đã chết.
Đức Hồng y Louis Marie Ling của Viên Chăn đã gọi cha Tito Banchong là “một vị tử đạo từ từ”.
Ngỏ lời chào các tham dự viên, Đức Thánh Cha trích dẫn lời Thánh Vịnh: “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau” (Tv 133,1), và bày tỏ niềm vui về chuyến thăm này. Đức Thánh Cha cũng đánh giá cao những nỗ lực của Ủy ban đối thoại thần học chung giữa Giáo hội Công giáo và các Giáo hội Chính Thống Đông Phương, và nhấn mạnh tầm quan trọng của “cuộc đối thoại bác ái song hành với đối thoại chân lý”.
Trong bài diễn văn được trao cho các tham dự viên vì ngài bị cảm nên không đọc được, Đức Thánh Cha đã suy tư về “Tín biểu đức tin” - một yếu tố quan trọng trong đời sống đức tin và trong phong trào hiệp nhất Kitô giáo. Ngài nhấn mạnh ba khía cạnh của Tín biểu: thần học, Giáo hội học và thiêng liêng.
Về khía cạnh thần học, Tín biểu là tuyên ngôn các chân lý đức tin, nối kết các tín hữu trong sự hiểu biết về mẫu nhiệm cứu độ. Về khía cạnh Giáo hội học, Tín biểu là dấu chỉ nhận biết và hiệp thông. Ngài nhắc đến hình ảnh “symbolon” trong tiếng Hy Lạp, chỉ một mảnh gốm được chia đôi để xác nhận mối quan hệ. Những Kitô hữu vẫn còn chia cắt hôm nay cũng giống như những mảnh gốm chưa được hợp nhất trong cùng một đức tin duy nhất.
Về khía cạnh thiêng liêng, Tín biểu chính là lời ca chúc tụng Thiên Chúa, là cách thức đoàn dân Kitô hữu liên kết với Chúa và với nhau. “Nếu ma quỷ phân tán, thì Tín biểu hiệp lại!” Đức Thánh Cha đặc biệt nhấn mạnh tình yêu thương trước khi tuyên xưng đức tin, như trong phụng vụ Đông phương: “Hãy yêu thương nhau, để cùng nhất trí tuyên xưng đức tin vào Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Để kết luận, Đức Thánh Cha diễn tả: “Ước gì chuyến thăm này trở thành Tín biểu hữu hình cho sự hiệp nhất”. Ngài đảm bảo luôn cầu nguyện cho từng người và các Giáo hội, đồng thời xin mọi người cũng cầu nguyện cho ngài và cho Bộ Cổ võ sự Hiệp nhất các Kitô hữu.
Đức cha Edward B. Scharfenberger, Giám mục giáo phận Albany và là chủ tịch đền thánh, chia sẻ trong một tuyên bố: “Chúng tôi vui mừng khi các giám mục đã xác nhận điều mà các tín hữu từ lâu đã cảm nhận: Đền Thánh Quốc gia Đức Mẹ Các Thánh Tử đạo là ngôi nhà để nuôi dưỡng sự thánh thiện tại Hoa Kỳ, Canada và Mexico.”
Đền thánh đã nhận được danh hiệu quốc gia sau khi các giám mục xác nhận rằng nơi này đáp ứng các tiêu chuẩn của Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ, “Các Quy tắc về việc Công nhận Đền thánh Quốc gia”, bao gồm việc “được dành riêng để củng cố đức tin của khách hành hương thông qua việc tôn vinh một mầu nhiệm đức tin Công giáo, lòng sùng kính dựa trên truyền thống chân chính của Giáo hội, các mặc khải được Giáo hội công nhận, hoặc cuộc đời của các thánh trong lịch phụng vụ”.
Linh mục Roger Landry, Giám đốc Quốc gia Hiệp hội Truyền giáo Giáo hoàng và là thành viên hội đồng quản trị của Friends of Our Lady of Martyrs, nhấn mạnh rằng đền thánh là nơi mọi tín hữu Công giáo được củng cố trong chiều kích truyền giáo của đời sống Kitô hữu.
Ngài chia sẻ: “Như Đức Thánh Cha Phanxicô nhiều lần nhắc nhở, chúng ta không chỉ ‘có một sứ mạng’ mà ‘là sứ mạng’. Chúng ta được Chúa Giêsu Kitô trao phó sứ mạng hoàn thành công cuộc cứu độ của Người trong thế giới”.
Cha Landry cho rằng: Mối liên hệ sâu sắc với bốn vị thánh và anh hùng đức tin làm cho đền thánh “có lẽ trở thành nơi linh thiêng nhất đối với người Công giáo tại quốc gia này, chỉ sau nhà tạm trong các nhà thờ và linh hồn của những trẻ sơ sinh vừa được rửa tội”.
Về phần mình, bà Julie Baaki, Giám đốc điều hành đền thánh, nhận định: “Đền thánh quốc gia của chúng tôi là nơi bình an để khách hành hương đến cầu nguyện cho những anh chị em đang bị bách hại trên khắp thế giới, cũng như xin ơn can đảm để vượt qua những thử thách trong hành trình cuộc sống, lớn lên trong đức tin và truyền lại đức tin ấy cho người khác”.
Nhà thờ trong khuôn viên đền thánh được xây dựng vào năm 1930 và có sức chứa hơn 8.000 người, trở thành nhà thờ có sức chứa lớn nhất tại Tây Bán cầu. Đền Thánh Quốc gia Đức Mẹ Các Thánh Tử đạo sẽ bắt đầu mùa hành hương năm 2025 vào ngày 3 tháng 5 và sẽ mở cửa đến ngày lễ kính các thánh tử đạo Bắc Mỹ vào 19 tháng 10.
Ông Karkosik năm nay 73 tuổi là một doanh nhân và là người đầu tư vào thị trường chứng khoán, được coi là 1 trong những người giàu nhất Ba Lan. Làng Kikol có 1.500 ngàn dân cư thuộc tỉnh Kujawsko-Pomorskie ở miền trung bắc Ba Lan.
Theo bà xã trưởng Ranata Golebiewska, chính quyền đã chấp thuận việc xây tượng đài này, cao hơn cả tượng đài ở thị trấn Miribel, thuộc miền tây Pháp, tượng này cao 35 mét được xây dựng cách đây hơn 80 năm.
Tượng đài Đức Mẹ cao nhất thế giới hiện nay ở Philippines được dựng lên từ nhiều năm nay và cao hơn 90 mét.
Công trình xây dựng tượng đài Đức Mẹ ở Kikol sẽ được hoàn thành trong năm tới. Tượng cao 40 mét, được đặt trên một bệ hình vương miện cao 15 mét. Vị trí của tượng đài gần Đền thánh Đức Mẹ ở làng Konotopie.
Cách đây 15 năm, một tượng khổng lồ Chúa Kitô đã được dựng lên tại Swibodzin, ở miền tây Ba Lan, cao 52 mét, kể cả bệ.
CatholicVote NEWS FEED
Trong một lá thư mục-vụ ngày 31 tháng 1, Giám Mục Michael Burbidge của Arlington, Virginia, nhấn mạnh rằng việc thực-thi chính-sách nhập-cư không nên tạo ra xung đột giữa phẩm-giá con người và luật-pháp.
Giám mục Burbidge đã mở thư mục-vụ bằng cách đưa ra “sự khuyến-khích mục vụ” cho Tổng Thống Donald Trump, Phó Tổng Thống JD Vance, các nghị-sĩ Quốc Hội, các quan-chức dân-cử, tất cả người Công-giáo và những người có thiện-chí, kêu gọi họ “xem xét lợi -ích chung của đất nước bằng ánh sáng đức tin”.
Sau đó, Đức GM nhấn mạnh trong bức thư rằng “luật-pháp là để bảo-vệ và thúc đẩy lợi-ích chung,” và rằng “cải-cách nhập-cư toàn diện không nhất thiết là làm tổn-hại đến phẩm-giá của bất kỳ người nào”.
GM viết: “Ngay cả khi cải-cách nhập-cư bao gồm việc hồi hương những người đã phạm tội bạo-lực hoặc những người vi-phạm các điều khoản về quyền ở lại, phẩm-giá con người vẫn có thể được tôn-trọng”. “Chúng ta không được cho rằng có sự xung-đột giữa phẩm-giá con người và pháp-quyền.”
Đức Giám mục Burbidge cũng thừa-nhận thực tế tội phạm trong một số cộng-đồng người nhập-cư. Ngài viết: “Thật đáng buồn, một số người đã vào đất nước chúng ta, hợp pháp hoặc bất hợp pháp, đã phạm tội nghiêm trọng”. “Hành-vi như vậy phải chịu hậu-quả, vì không có chỗ cho bạo-lực, buôn bán hoặc hoạt-động băng đảng trong xã-hội chúng ta. Luật-pháp của chúng ta tồn tại để bảo-vệ lợi ích của tất cả mọi người và chúng phải được tôn-trọng.”
Trích dẫn các giám-mục Công giáo gần đây đáp lại vấn-đề nhập-cư nhằm vào các cuộc truy quét trục xuất của liên-bang, Đức GM Burbidge khẳng-định quan-điểm chung của họ rằng “mọi quốc-gia đều có quyền và trách-nhiệm 'thúc đẩy trật-tự công-cộng, an toàn và an-ninh thông qua các biên-giới được quản lý tốt và các giới-hạn công-bằng' về vấn đề nhập-cư.'”
“Tất cả các anh em giám-mục của tôi đều đồng ý với điều này, và cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô, chúng tôi khẳng-định rằng mọi người di-cư đều là ‘con cái Thiên Chúa’,” Đức Giám mục Burbidge nói thêm.
Đức Giám Mục Burbidge nhấn mạnh các cộng đồng nhập-cư đa dạng đã làm phong phú Giáo Hội ở Bắc Virginia, và nhắc lại các nguyên-tắc lâu đời của Giáo Hội: “Quyền của mọi người đối với sự toàn vẹn và đoàn kết của gia-đình họ bất kể họ định-cư ở đâu,” và “quyền của mọi người đối với sự an-toàn tâm-linh được chăm sóc bởi các bí-tích.”
Ngài nhắc nhở người Công-giáo về nghĩa-vụ đạo-đức của mình: “Với tư-cách là những người tin vào Chúa Giêsu Kitô, chúng ta cũng có nghĩa-vụ phục-vụ những người đến với chúng ta để được giúp đỡ - bất kể họ là ai”.
Ngài kêu gọi: “Vì những lý-do này, tôi cầu xin những người chịu trách nhiệm thực-thi pháp-luật hạn chế đi vào không-gian thiêng-liêng của chúng tôi trừ khi thực sự cần-thiết và rõ-ràng để bảo-đảm an-toàn cho tất cả mọi người”.
Ngài kết thúc bằng một tuyên-bố chắc chắn về quan-điểm của Giáo Hội: “Chúng ta là một Giáo Hội đại-diện cho công-lý, không chống lại việc thực-thi luật-pháp, nhưng áp-dụng với lòng thương-xót và sự hiểu biết vì lợi-ích của tất cả mọi người và đất nước của chúng ta”.
Đức Giám mục Thomas Daly Địa phận Spokane đang kêu gọi cử tri Công giáo tại tiểu bang Washington phản đối một dự luật được đề xuất, theo đó các Linh mục sẽ vi phạm Ấn tín Tòa giải tội trong những trường hợp phát hiện hành vi lạm dụng trẻ em trong khi ngồi Tòa giải tội.
Dự luật, được đề xuất tại cả hai nghị viện của Cơ quan lập pháp tiểu bang, sẽ sửa đổi luật tiểu bang để yêu cầu các giáo sĩ báo cáo các trường hợp lạm dụng trẻ em mà không có ngoại lệ đối với những trường hợp lạm dụng được phát hiện trong Bí tích Giải tội.
Phiên bản năm 2023 của đề xuất này đưa ra sự miễn trừ cho các cáo buộc lạm dụng được biết “chỉ thông qua lời thú tội”. Dự luật mới nhất không có ngoại lệ như vậy.
Thượng nghị sĩ Noel Frame, đảng Dân chủ-Seattle, nói với tờ Washington State Standard rằng đề xuất này là “một chủ đề khó đối với nhiều đồng nghiệp của tôi, đặc biệt là những người có quan điểm tôn giáo sâu sắc”.
“Tôi cũng biết rằng có quá nhiều trẻ em là nạn nhân của tình trạng lạm dụng — Cơ quan lập pháp có nhiệm vụ phải hành động”, bà lập luận.
Giáo luật quy định rằng bất kỳ Linh mục nào cố tình vi phạm Ấn tín Tòa giải tội đều tự động bị vạ tuyệt thông. Trong tuần này, Đức Giám mục Daly đã nhấn mạnh sự phản đối của mình đối với biện pháp này, đồng thời cam đoan với các tín hữu rằng các giáo sĩ “cam kết giữ Ấn tín Tòa giải tội — thậm chí đến mức phải vào tù”.
“Bí tích Sám hối là điều thiêng liêng và sẽ vẫn mãi như vậy trong Giáo phận Spokane”, vị Giám chức cho biết.
Đức Giám mục Daly lưu ý rằng Giáo phận Spokane dành nhiều nguồn lực cho vấn đề an toàn cho trẻ em và áp dụng “chính sách không khoan nhượng đối với hành vi lạm dụng tình dục trẻ em”.
Vị Giám chức cho biết Giáo phận sẽ tuân theo tiến trình lập pháp xung quanh dự luật. Ngài kêu gọi cầu nguyện “để các nhà lập pháp của chúng ta sẽ tạo ra luật pháp đúng đắn” tôn trọng quyền tự do tôn giáo tại Hoa Kỳ.
“Tôi hết sức khuyến khích các tín hữu Công giáo ở miền đông Washington gọi điện cho đại diện tiểu bang và trân trọng yêu cầu họ bỏ phiếu chống lại biện pháp này”, Đức Giám mục Daly viết.
Đây không phải là nỗ lực gần đây duy nhất chỉ thị các Linh mục vi phạm Ấn tín Tòa giải tội nhằm chống lại tình trạng lạm dụng trẻ em.
Một dự luật được đề xuất tại Montana vào đầu năm nay có nội dung “loại bỏ quyền miễn trừ của hàng giáo sĩ trong việc báo cáo bắt buộc về tình trạng lạm dụng và bỏ mặc trẻ em”.
Giáo sĩ “không được từ chối báo cáo khi được yêu cầu… vì lý do bác sĩ-bệnh nhân hoặc đặc quyền tương tự”, theo nội dung dự luật của Montana. Biện pháp đó đã bị đình trệ tại ủy ban vào tháng 1.
Vào tháng 5 năm 2023, các nhà lập pháp Delaware đã đề xuất một dự luật yêu cầu các Linh mục phải phá vỡ Ấn tín Tòa giải tội trong các trường hợp báo cáo lạm dụng tình dục. Một luật tương tự đã được đề xuất tại Vermont vào cùng thời điểm. Cả hai dự luật đều không được thông qua tại các cơ quan lập pháp tương ứng của họ.
Trong thông báo gửi đến các nhà báo, Phòng Báo chí Toà Thánh cho biết: “Do tình trạng viêm phế quản trong những ngày này và để tiếp tục các hoạt động, các buổi tiếp kiến của Đức Thánh Cha Phanxicô vào thứ Sáu, ngày 7/2, và thứ Bảy, ngày 8/2, sẽ diễn ra tại Nhà Thánh Marta”.
Sáng thứ Năm, ngày 6/2, Đức Thánh Cha cũng đã thực hiện các buổi tiếp kiến theo lịch trình tại nơi cư trú của ngài trong nội thành Vatican thay vì tại Dinh Tông Toà. Ngài đã tiếp các linh mục và đan sĩ trẻ của các Giáo hội Chính Thống Đông phương đang có chuyến thăm học tập tại Roma. Sau đó ngài đã gặp các bác sĩ sản khoa và nhân viên y tế đến từ các tỉnh miền nam Calabria, Ý.
Trước đó, trong buổi tiếp kiến chung hôm thứ Tư (5/2) tại Đại thính đường Phaolô VI, cha Pierluigi Giroli, một nhân viên của Phủ Quốc Vụ Khanh, đã đọc bài giáo lý của Đức Thánh Cha, trong khi chính ngài trực tiếp đọc lời kêu gọi cầu nguyện cho “các quốc gia đang chịu cảnh chiến tranh”.
Tỷ lệ tín hữu Chính thống tại Ucraina xuống thấp nhất so với những năm trước đây: trong hai năm 2013 và 2014, có tới hơn 70% dân Ucraina tuyên bố mình là tín hữu Chính thống, năm 2022 là năm Nga bắt đầu tấn công nước này, có 62,7% dân chúng xác nhận mình theo Chính thống và nay chỉ còn 55,4%.
Trong số các tín hữu Chính thống, có 35,2% cho biết mình thuộc Giáo hội Chính thống Ucraina (OCU), nhưng sau khi Nga xâm lăng Ucraina, con số này tăng lên 42,2%. Số tín hữu thuộc Tòa Thượng phụ Chính thống Mascơva là 5,5%. Ngoài ra, số người tuyên bố mình là tín hữu Chính thống mà không nói thuộc Ucraina hay Nga là 19%, trong khoảng thời gian 2022-2023 tức là sau khi xảy ra chiến tranh.
Tuy nhiên, số tín hữu Công giáo Ucraina nghi lễ Đông phương gia tăng: năm 2013, chỉ có 5,7%, sau đó tăng lên 9,6% trong năm 2020 và khi bắt đầu chiến tranh Nga-Ucraina năm 2022 thì tỷ lệ là 10,2% và nay tăng lên 11,9%.
Số các tín hữu Công giáo Latinh hồi năm 2010 chỉ có 0,4% dân Ucraina, rồi tăng lên 1,9% vào năm 2022, và nay tụt xuống còn 1%.
Số các tín hữu Tin lành cũng có phần suy giảm: khi mới bắt đầu chiến tranh năm 2022 thì có 3,7% nay nay chỉ còn 2,5%.
Tại Ucraina cũng có một tỷ lệ cao, 18,4%, những người tuyên bố mình không theo tôn giáo nào. Năm 2022, con số này là 18,8%.
Viện Razumov cũng thăm dò lập trường của các công dân Ucraina trước lời khẳng định rằng: “Tại Ucraina, có tự do hoàn toàn về tôn giáo và lương tâm, và có sự bình đẳng của mọi tôn giáo trước pháp luật”: có 63% những người được hỏi ý kiến tuyên bố đồng ý với lời khẳng định trên đây và có 25% nói là không có. Điều này có nghĩa là tự do tôn giáo ở Ucraina hiện nay bị giảm mất 8% so với thời gian trước năm 2020.
Cuộc thăm dò trên đây được thực hiện trực diện trong khoảng thời gian từ ngày 25 đến ngày 31 tháng Mười năm ngoái (2024), tại tất cả các miền của Ucraina không bị chiến tranh.
Bà Regina Lynch, chủ tịch quốc tế của Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ, chia sẻ: “Chúng tôi cảm nhận sâu sắc nỗi thống khổ của người dân Myanmar. Họ đang chịu cảnh đánh bom, đói khát, thiếu điện và những nhu yếu phẩm cơ bản. Các linh mục và tu sĩ thường phải di chuyển trong nhiều ngày trên những hành trình nguy hiểm để đến các giáo xứ xa xôi, nhưng họ vẫn tiếp tục dấn thân vì sứ mạng”.
Bốn năm sau cuộc đảo chính
Cách đây bốn năm, vào ngày 01/02/2021, cuộc đảo chính quân sự đã lật đổ chính phủ dân chủ và gây ra một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Hiện nay, các quốc gia như Australia, Canada, Liên minh châu Âu, Hàn Quốc, New Zealand, Na Uy, Thụy Sĩ, Anh và Mỹ đồng loạt kêu gọi chính quyền quân sự Myanmar chấm dứt bạo lực đối với dân thường và tiến hành đối thoại toàn diện để chuyển tiếp sang dân chủ.
Chiến tranh lan rộng
Trong một cuộc phỏng vấn với Vatican News, ông Ranieri Sabatucci, đại sứ Liên minh châu Âu tại Yangon, nhận định rằng xung đột giữa chính quyền quân sự và các nhóm nổi dậy đã lan rộng khắp đất nước. Quân đội mất kiểm soát nhiều vùng, đặc biệt là miền đông bắc và bang Rakhine, nơi phần lớn đang do Quân đội Arakan kiểm soát. Các cuộc xung đột còn diễn ra trong khu vực trung tâm, giữa những nhóm dân tộc Bamar.
Khủng hoảng kinh tế và xã hội
Nền kinh tế Myanmar đang gặp khó khăn nghiêm trọng với hơn một nửa dân số sống dưới ngưỡng nghèo đói. Nhiều người đã rời bỏ đất nước để tìm việc làm ở nước láng giềng, nhưng thường đối diện với nguy cơ bóc lột.
Ông nhận xét: “Đây là một thảm họa - bởi vì một mặt, chính quyền quân sự nắm quyền không có đủ binh lính để đối phó với tất cả các nhóm nổi dậy, và mặt khác, với chế độ nghĩa vụ bắt buộc, họ không thể thay đổi được tình hình vì tất cả những người bị gọi nhập ngũ đều không muốn chiến đấu, dẫn đến kết quả từ góc độ quân sự cũng rất tồi tệ. Hơn nữa, nhiều người dân hoảng sợ trước chế độ nghĩa vụ bắt buộc và đã lẩn trốn hoặc chạy sang các nước láng giềng. Kết quả là chế độ quân sự đã đẩy xung đột vào trong từng gia đình Myanmar. Chỉ vài ngày trước, họ còn tuyên bố rằng sẽ bắt đầu tuyển dụng cả những phụ nữ trẻ, một dấu hiệu cho thấy sự tuyệt vọng và thiếu tầm nhìn xa, ngay cả từ góc độ kinh tế”.
Người ta thường nói nhiều con là Phúc, làm quan là Lộc, sống lâu là Thọ.
Phúc Lộc Thọ là mơ ước của nhiều người thời xưa. Có thể nói, chữ Phúc gói được cả hai chữ Lộc và Thọ.
Người có phúc thì có những điều tốt lành như sống lâu, phú quý, giàu sang, con đàn cháu đống.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc đến người có phúc.
Ngài nói với các môn đệ, với cả đám đông dân chúng đang chăm chú lắng nghe Ngài giảng trên mảnh đất bằng.
Ngài có gây sốc không khi Ngài nói thẳng với thính giả: Phúc cho anh em là người nghèo, người đang đói, đang khóc, đang chịu bách hại vì Thầy.
Đức Giêsu giảng trước một đám đông người nghèo. Họ kéo đến từ khắp nơi trong và ngoài nước Israel.
Họ nghèo về của cải, về địa vị, về sức khỏe (Lc 6,18).
Họ đến với Đức Giêsu để mong được ơn chữa lành, và ơn bình an.
Vào thời Đức Giêsu, có nhiều người đói.
Chỉ một cơn hạn hán dài cũng đủ làm đồng ruộng cháy khô, gia súc hết sạch, nhiều người trở thành tay trắng. Có người phải ăn xin hay ra nước ngoài kiếm ăn.
Đức Giêsu giảng cho những người bây giờ đang khóc.
Khóc vì mất người thân, khóc vì bị đối xử bất công, khóc vì đất nước chịu cảnh loạn lạc, gia đình ly tán.
Sau thời Đức Giêsu, còn có nhiều kitô hữu chịu bách hại.
Đứng trước những người nghèo đói, khóc than, buồn phiền, Đức Giêsu đã long trọng loan báo tin mừng cho họ.
Họ không phải là những người bất hạnh hay bị Chúa phạt.
Trái lại họ là những người có phúc, vì Thiên Chúa thấy và thương tình trạng khổ đau của họ, và Ngài muốn đảo ngược hoàn cảnh họ đang gánh chịu.
Thiên Chúa sẽ cho họ giàu vì được hưởng Nước của Ngài, cho họ được no nê, được tươi nét mặt, mừng vui nhảy múa.
Đức Giêsu không nói suông.
Ngài làm phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi đám đông, sợ họ bị xỉu vì đói sau ba ngày nghe Ngài giảng (Mc 8,2).
Ngài không chịu được những giọt nước mắt của con người, của bà góa thành Naim khóc đứa con trai duy nhất, của nhà ông trưởng hội đường khóc cô con gái mới qua đời, của chị Maria Magdala khóc vì xác Thầy bị ai lấy mất.
Bao nhiêu giọt nước mắt đã được Đức Giêsu lau khô.
Bao nhiêu niềm vui Ngài đã đem lại cho người đau khổ.
Đức Giêsu không chỉ rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, Ngài còn làm họ được mừng vui, khi đến với họ.
Tội nhân, dân ngoại, trẻ em, phụ nữ, cũng là người nghèo.
Việc Ngài cúi xuống trên những người bị xã hội coi khinh là dấu hiệu cho thấy họ có chỗ trong trái tim Thiên Chúa.
Đức Giêsu cũng đã nói về những mối họa.
Giàu sang, no đủ dư dật, vui vẻ hạnh phúc, được ngợi ca, tự nó, không phải là điều xấu.
Nó chỉ trở nên xấu khi nó khiến lòng con người khép lại, khép lại trước Thiên Chúa và đóng lại trước tha nhân.
Nếu biết sử dụng, những điều có thể trở nên mối họa lại trở nên mối phúc cho chính mình và tha nhân.
Khi tôi chia sẻ cho người khác sự giàu có no đủ của tôi, khi tôi trao cho người khác nụ cười bình an của tôi, khi tôi dùng sự nổi tiếng của mình để phục vụ, lúc ấy họa thành phúc, cho tôi và cho người khác.
Thế giới sẽ còn nghèo đói, còn nước mắt, khổ đau.
Nhưng những mối phúc và mối họa trong Tin Mừng Luca là một lời mời gọi chúng ta cộng tác với Chúa Giêsu để làm cho thế giới này vui hơn, no đủ hơn, chia sẻ hơn.
Nhờ đó người nghèo thấy Nước Thiên Chúa đang ở bên họ.
LỜI NGUYỆN
Lạy Chúa là Cha của gia đình nhân loại,
Chúa đã sáng tạo mọi người bình đẳng về nhân phẩm.
Xin hãy đổ vào lòng chúng con tình huynh đệ,
và gợi lên nơi chúng con ước mơ làm mới lại
các cuộc gặp gỡ, đối thoại, công lý và hòa bình.
Xin hãy thúc đẩy chúng con tạo ra
những cộng đồng lành mạnh hơn,
và một thế giới cao quý hơn,
thế giới không có đói nghèo, chiến tranh hay bạo lực.
Xin cho trái tim của chúng con mở ra
trước mọi dân tộc và quốc gia trên mặt đất.
Xin giúp chúng con nhận ra sự thiện mỹ
mà Chúa đã gieo nơi lòng từng người chúng con,
nhờ đó chúng con rèn đúc mối dây hiệp nhất,
chia sẻ những dự án và những giấc mơ chung.
Amen.
Phanxicô, Giáo hoàng
Trong sứ điệp, Đức Thánh cha nhắc lại rằng trong dịp Hội nghị Thượng đỉnh của Khối bảy cường quốc, gọi là G-7, ở miền Puglia, nam Ý, hồi tháng Sáu năm ngoái (2024), ngài đã nhấn mạnh “cần cấp thiết đảm bảo và bảo tồn không gian cho sự kiểm soát thích đáng của con người trên những chọn lựa do các chương trình Trí tuệ nhân tạo đề ra”. Lý do vì ngài xác tín rằng: “nếu thiếu sự kiểm soát ấy, thì Trí tuệ nhân tạo, tuy là một phương tiện mới mẻ hiệu năng, nhưng nó có thể chứng tỏ khía cạnh ‘đáng sợ’ của nó, khi áp đặt một đe dọa trên phẩm giá con người” (Diễn văn 14/6/2024).
“Vì thế - Đức Thánh cha viết - tôi đánh giá cao những cố gắng đang thực hiện để can đảm và quyết tâm dấn thân vào một tiến trình chính trị nhắm bảo vệ nhân loại, đừng sử dụng Trí tuệ nhân tạo để có thể giới hạn vũ trụ quan của chúng ta vào những thực tại có thể diễn tả trong những con số và đóng khung trong một số phạm trù nhất định, và vì thế, loại trừ sự đóng góp của những hình thức chân lý khác, áp đặt các mô hình nhân học, xã hội kinh tế và văn hóa” (ibid.).
Đức Thánh cha cũng nhắc đến thông điệp Dilexit Nos ngài mới công bố năm ngoái, trong đó Đức Thánh cha phân biệt hoạt động của thuật toán (algorithms), với sức mạnh của con tim, và qua đó, ngài muốn nhấn mạnh rằng trong khi thuật toán có thể được dùng để lèo lái và đánh lạc hướng, thì con tim, hiểu như nơi chứa đựng những tình cảm sâu sắc và chân thực nhất của chúng ta, không bao giờ có thể lừa dối (Xc Dilexit Nos, 24/10/2024, 14-20).
Trong sứ điệp, Đức Thánh cha viết: “Tôi cũng xin tất cả các tham dự viên Hội nghị Thượng đỉnh Paris này đừng quên rằng chỉ có tâm hồn con người mới có thể tỏ lộ ý nghĩa cuộc sống” (Xc Pascal, Pensées, Lafuma 418; Sellier 680) ...
“Tôi tin rằng Trí tuệ nhân tạo có thể trở thành một công cụ đắc lực trong tay các nhà khoa học và các chuyên gia, cộng tác vào việc tìm kiếm những giải pháp mới mẻ và sáng tạo để thăng tiến sinh thái của trái đất, căn nhà chung của chúng ta, đồng thời không coi nhẹ sự tiêu thụ năng lượng cao độ gắn liền với hoạt động của các cơ cấu hạ tầng của Trí tuệ nhân tạo”.
Sau cùng, Đức Thánh cha kêu gọi trong các cuộc thảo luận về trí tuệ nhân tạo cần để ý đến tiếng nói tất cả những thành phần liên hệ, kể cả những người nghèo, người yếu thế và những người khác, thường không được lắng nghe trong các tiến trình quyết định trên thế giới này, như ngài đã nhận xét trong Sứ điệp nhân Ngày Hòa bình Thế giới, mùng 01 tháng Giêng năm 2024, số 8...
Trong chiều hướng đó, Đức Thánh cha tin tưởng rằng Hội nghị Thượng đỉnh tại Paris này tạo nên một diễn đàn công cộng về Trí tuệ nhân tạo, trong đó mỗi quốc gia có thể tìm thấy nơi trí tuệ nhân tạo một công cụ giúp phát triển và chiến đấu chống nghèo đói, nhưng đồng thời cũng bảo vệ các nền văn hóa và ngôn ngữ địa phương”.
Trong thông điệp gửi tới các nhà lãnh đạo tham dự Hội nghị thượng đỉnh về Hành động Trí tuệ nhân tạo tại Paris diễn ra từ ngày 10–11 tháng 2, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc lại lập trường của mình rằng những đổi mới công nghệ cuối cùng phải phục vụ và bảo vệ nhân loại.
Đức Thánh Cha đã trích dẫn lời triết gia người Pháp Jacques Maritain trong thông điệp ngày 11 tháng 2 của mình rằng: “Tình yêu đáng giá hơn trí tuệ”, và đồng thời bày tỏ sự quan ngại rằng việc quá chú trọng vào dữ liệu và thuật toán có thể thao túng sự thật một cách nguy hiểm và làm suy yếu khả năng sáng tạo của con người.
Nghiên cứu tác động của AI đối với các mối quan hệ, thông tin và giáo dục
Trong sứ điệp, Đức Thánh Cha nhắc lại văn kiện gần đây “Antiqua et Nova. Văn kiện về mối quan hệ giữa trí tuệ nhân tạo và trí tuệ con người” và bày tỏ hy vọng rằng các hội nghị thượng đỉnh tiếp theo sẽ xem xét kỹ lưỡng hơn những tác động xã hội của trí tuệ nhân tạo đối với các mối quan hệ con người, thông tin và giáo dục. Một lần nữa, Ngài bày tỏ tầm nhìn toàn diện về sự phát triển mà ngài đã đúc kết trong giáo huấn của mình, và điều mà vị tiền nhiệm của ngài, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, cũng đã đề cập trong Thông điệp Redemptor Hominis:
“Vấn đề cơ bản vẫn và sẽ luôn là nhân học, nghĩa là: ‘liệu con người, với tư cách là con người’, trong bối cảnh tiến bộ công nghệ, có trở nên ‘thực sự tốt đẹp hơn, nghĩa là trưởng thành hơn về tinh thần, ý thức hơn về phẩm giá nhân loại của mình, có trách nhiệm hơn, cởi mở hơn với người khác, đặc biệt là với những người nghèo khổ và yếu đuối nhất.’ Thách thức cuối cùng của chúng ta là con người và sẽ luôn là con người; đừng bao giờ quên điều đó”.
Tạo ra một nền tảng chung cho cả những người ‘không có tiếng nói’
Đức Thánh Cha quan tâm đến việc không bỏ quên tiếng nói của người nghèo, những người không được lắng nghe, những người thường không được tham gia vào các quyết định. Hơn nữa, ngài đánh giá cao việc hội nghị thượng đỉnh tại Paris lần này đã cố gắng thu hút nhiều nhân vật và chuyên gia tham gia “vào một cuộc suy tư nhằm mang lại những kết quả cụ thể”. Và từ đó, ngài bày tỏ hy vọng dựa trên những gì ngài đã nói trong Sứ điệp Nhân Ngày Hòa bình Thế giới năm 2024:
“Tôi hy vọng rằng hội nghị thượng đỉnh tại Paris sẽ nỗ lực để tạo ra một nền tảng công cộng về trí tuệ nhân tạo; và để mỗi quốc gia, một mặt, có thể tìm thấy trong trí tuệ nhân tạo một công cụ phát triển và chống lại nghèo đói, và mặt khác, bảo vệ các nền văn hóa và ngôn ngữ địa phương. Chỉ như thế, tất cả các dân tộc trên trái đất mới có thể đóng góp vào việc tạo ra dữ liệu, sẽ được sử dụng bởi trí tuệ nhân tạo, đại diện cho sự đa dạng và phong phú thực sự vốn là đặc điểm của toàn thể nhân loại”.
Đổi mới phục vụ lợi ích chung
Như ngài đã khẳng định tại Hội nghị G7 ở Puglia, Đức Thánh Cha tin rằng, nếu thiếu sự kiểm soát thích hợp, trí tuệ nhân tạo, “dù là một công cụ ‘hấp dẫn’ mới, có thể bộc lộ khía cạnh ‘đáng sợ’ nhất của nó, trở thành mối đe dọa đối với phẩm giá con người”. Ngài nhấn mạnh rằng chính trị “lành mạnh” là chính trị đặt các đổi mới công nghệ trong một dự án lớn hơn nhằm tìm kiếm lợi ích chung, như Ngài đã nhiều lần nhắc lại trong Thông điệp Laudato Si’:
“Tôi tin chắc rằng trí tuệ nhân tạo có thể trở thành một công cụ mạnh mẽ cho các nhà khoa học và chuyên gia, những người cùng nhau tìm kiếm các giải pháp đổi mới và sáng tạo vì sự bền vững sinh thái của hành tinh chúng ta. Đừng quên rằng việc tiêu thụ năng lượng liên quan đến hoạt động của cơ sở hạ tầng trí tuệ nhân tạo tự nó đã rất cao”.
Hàn lâm viện Toà Thánh về Sự sống đóng góp vào cuộc thảo luận này thông qua “Lời kêu gọi Roma vì đạo đức trí tuệ nhân tạo” được ký kết vào ngày 28/2/2020 dưới bảo trợ bởi chính Hàn lâm viện và sự tham gia của nhiều tổ chức công và tư, bao gồm Microsoft, IBM, Tổ chức Lương Nông Thế giới (FAO) và Chính phủ Ý. Trong vòng năm năm, nhiều tổ chức khác đã tham gia ký kết, bao gồm 16 đại diện từ các tôn giáo khác nhau tại Hội nghị ở Hiroshima (Nhật Bản) vào ngày 10/7/2024, cũng như công ty Cisco ở California và Giáo hội Anh giáo vài tuần trước đó.
Các tôn giáo hình thành ý thức đạo đức cho AI
Mặc dù không thuộc về giáo huấn chính thức của Giáo hội như văn kiện Antiqua et Nova, “Lời kêu gọi Roma vì đạo đức trí tuệ nhân tạo” phản ánh ý chí của Tòa Thánh trong việc khẳng định vị trí trung tâm của con người trong lĩnh vực công nghệ mới này. Trong lĩnh vực này, các tôn giáo, cùng với các trường đại học và cộng đồng rộng lớn hơn, có thể góp phần phổ biến ý thức đạo đức về AI trong các doanh nghiệp lớn cũng như trong chính sách công.
Đức Tổng Giám mục Paglia kêu gọi thiết lập các quy tắc đạo đức và pháp lý thông qua các thỏa thuận quốc tế, đặc biệt là trong việc quản lý dữ liệu lớn. Ngài bày tỏ: “Tôi mơ ước một thỏa thuận tương tự như Hiệp định Paris năm 2015 về khí hậu, nhưng dành cho các công nghệ mới nổi và hội tụ, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo”, đồng thời ngài thời kêu gọi khối G20 và Liên Hiệp Quốc “nhận thức trách nhiệm của mình”.
Bảo vệ tính nhân văn của nhân học Kitô giáo
Tại Hội nghị G7 dưới sự chủ trì của Ý ở vùng Puglia vào tháng 6 năm ngoái, Đức Thánh Cha Phanxicô, ngồi giữa Thủ tướng Ý Giorgia Meloni và Tổng thống Pháp Emmanuel Macron, đã kêu gọi “một không gian kiểm soát đáng kể của con người” đối với AI.
Đức cha Paglia nhấn mạnh: “Nguy cơ thực sự là chúng ta đang công nghệ hóa con người thay vì nhân văn hóa công nghệ”. Ngài kêu gọi một sự thức tỉnh của chủ nghĩa nhân văn: “Tất cả các ngành khoa học sẽ hội tụ cùng nhau như thời Phục hưng. Người tin và người không tin, nhà thơ và nhà vật lý, triết gia và thần học gia, tất cả chúng ta cần tạo ra một liên minh giúp cứu lấy con người”.
Trách nhiệm của châu Âu
Theo Đức cha Paglia, châu Âu, dù thiếu về tài nguyên, cần phải trở nên có trách nhiệm hơn trong việc phát triển công nghệ và nghiên cứu khoa học, để đưa chúng vào lĩnh vực nhân học. Ngài lo ngại: “Chúng ta đang đứng trước nguy cơ tốc độ của công nghệ sẽ vượt qua sự chậm chạp của chủ nghĩa nhân văn, sự chậm chạp của các quy tắc”.
Đức cha Paglia kỳ vọng nhiều vào châu Âu, kêu gọi lục địa này thức tỉnh trong cuộc đua công nghệ: “Châu Âu có một sự nhạy cảm đặc biệt nhờ truyền thống nhân văn hai hoặc ba ngàn năm của mình. Cần phải đưa tinh thần đó vào thế giới công nghệ đang phát triển mạnh mẽ ở Trung Quốc và Hoa Kỳ”.
Như Cha Consolmagno chia sẻ trong phần giới thiệu, câu chuyện này bắt nguồn từ những ngày đầu tiên của Dòng Tên. Thánh Inhaxiô Loyola, vị sáng lập Dòng Tên, đã viết trong cuốn tự thuật của mình (được kể ở ngôi thứ ba số ít) rằng: “Có một sự an ủi lớn lao mà ông nhận được… là khi ngắm nhìn bầu trời và các vì sao. Ông thường dành rất nhiều thời gian để làm việc này”.
Câu chuyện tiếp tục với những nhân vật như Angelo Secchi, một tu sĩ Dòng Tên và nhà thiên văn học người Ý thế kỷ 19, là người mà Cha Consolmagno cho rằng “có thể là nhà khoa học vĩ đại nhất mà hầu hết mọi người chưa từng nghe đến” – và Gerard Manley Hopkins, một tu sĩ Dòng Tên nổi tiếng với tư cách là một nhà thơ và “một nhà thiên văn học nghiệp dư tài năng”.
Một Hướng dẫn của tu sĩ Dòng Tên về các vì sao cũng là một cuốn sách mang đậm tính cá nhân, chứa đựng những suy tư của chính Cha Consolmagno, thậm chí còn có một chương kể về cách ngài khám phá ra ơn gọi của mình khi gia nhập Dòng Tên. Xuất thân từ Detroit, cha Consolmagno đã tốt nghiệp từ Học viện Công nghệ Massachusetts (MIT) và Đại học Arizona, và từng giảng dạy vật lý ở bậc đại học trước khi gia nhập Dòng Tên vào năm 1989.
Cuốn sách cũng chứa đựng những suy tư sâu sắc về mối quan hệ giữa đức tin và khoa học. Chẳng hạn, cha Consolmagno cảnh báo chống lại “chủ nghĩa hòa hợp” (concordism), tức là nỗ lực tìm kiếm sự liên kết giữa các khám phá khoa học và giáo huấn của Kinh Thánh.
“Cả tôn giáo và khoa học đều phải bảo vệ tính tự chủ và sự khác biệt của mình”, Cha Consolmagno nhấn mạnh khi trích dẫn lời của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II. “Tôn giáo không được xây dựng trên nền tảng khoa học, cũng như khoa học không phải là sự mở rộng của tôn giáo”.
Sắc lệnh của Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích được ký bởi Đức Hồng Y Tổng Trưởng Arthur Roche và Đức Tổng Giám Mục Thư ký Vittorio Viola. Trong sắc lệnh, Đức Thánh Cha quy định rằng lễ nhớ tùy chọn của thánh nữ sẽ được cử hành vào ngày 5 tháng 9, ngày Mẹ qua đời năm 1997. Nói cách khác, từ nay, người ta có thể cử hành Thánh Lễ và đọc Kinh sáng, Kinh chiều và các giờ kinh khác trong Kinh Thần Vụ để nhớ Mẹ Têrêsa.
Các bản văn phụng vụ
Sắc lệnh quy định các bản văn phụng vụ bằng tiếng Latinh, được đi kèm với Sắc lệnh, “phải được dịch, được phê chuẩn” và sau khi được Bộ xác nhận, sẽ “được xuất bản” bởi các Hội đồng Giám mục. Các bản văn này bao gồm lời nguyện nhập lễ, các bài đọc, các bản văn liên quan đến Kinh Thần Vụ và bản văn trong Sách các thánh.
Cuộc đời Mẹ Têrêsa Calcuta
Mẹ Têrêsa sinh ngày 26/8/1910 tại Skopje, thuộc Nam Tư cũ. Năm 1929, Mẹ bắt đầu sứ mạng tại Calcutta, Ấn Độ, sau khi rời khỏi dòng Nữ tu Loreto. Năm 1950, Mẹ thành lập Dòng Thừa Sai Bác Ái, hiện nay có hơn sáu ngàn nữ tu trên khắp thế giới, hoạt động tại 130 quốc gia, bắt đầu từ những nước nghèo và kém phát triển nhất. Năm 1979, Mẹ được trao giải Nobel Hòa bình, và Mẹ đã yêu cầu dùng số tiền thưởng để giúp đỡ người nghèo ở Ấn Độ. Mẹ qua đời năm 1997 tại Calcutta.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, người có mối tương quan thân tình với Mẹ, đã tôn phong Mẹ lên hàng chân phước vào ngày 19/10/2003. Sau đó, ngày 4/9/2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã phong thánh cho Mẹ với Thánh lễ diễn ra tại Quảng trường Thánh Phêrô, trước sự hiện diện của các nữ tu, linh mục và giáo dân từ khắp năm châu. Cũng không phải ngẫu nhiên mà lễ phong thánh được tổ chức trong Năm Thánh Lòng Thương Xót. Như Đức Thánh Cha đã nói trong bài giảng lễ phong thánh, Mẹ Teresa, trong suốt cuộc đời, là “người phân phát quảng đại” lòng thương xót, “sẵn sàng đón nhận và bảo vệ sự sống con người, từ những thai nhi chưa chào đời đến những người bị bỏ rơi và loại trừ”, “cúi xuống trên những người kiệt sức, bị bỏ mặc chết bên lề đường, nhận ra phẩm giá mà Thiên Chúa đã ban cho họ”, và “lên tiếng trước những người quyền lực trên thế giới, để họ nhận ra tội lỗi của mình trước những tội ác của sự nghèo đói do chính họ tạo ra”.
Báo chí cho biết xứ đạo vừa nói là giáo xứ thánh Phaolô tông đồ muốn giúp các cặp đồng phái và các cặp sống chung mà không hôn thú đáp ứng tình trạng của họ.
Tòa giám mục Giáo phận Huelva cho biết sẽ đồng hành với các cặp tín hữu đồng phái và những người ly dị tái hôn theo một cách thức khác. Cụ thể là bằng cách tạo những không gian để lắng nghe, giáo dục và tăng trưởng trong đức tin, phù hợp với giáo huấn của Giáo hội.
Tuyên ngôn Fiducia supplicans, tín thác khẩn cầu, do Bộ Giáo lý đức tin công bố hồi tháng Mười Hai năm 2023 đã bị nhiều người phản đối và cả các Giáo hội Đông phương, Chính thống Byzantine và Chính thống Đông phương, đã tuyên bố đoạn giao với Công giáo khiến Đức Hồng y Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin Victor Manuel Fernandez phải đích thân đến gặp và giải thích cho các vị lãnh đạo các Giáo hội đó.
Tổng cộng, có 136 hiện vật, kể cả những nơi khảo cổ đã được cứu xét. Việc tu bổ các nơi này ước lượng sẽ tốn phí 261 triệu Euro và mất tám năm trời. Bộ trưởng Hani Al-Hayek của Palestine tố cáo Israel đã xóa bỏ một nền tảng căn tính Palestine, qua sự tàn phá như thế.
Tổ chức UNESCO về văn hóa của Liên Hiệp Quốc cũng đã công bố một thẩm định về những thiệt hại về tài sản văn hóa tại Gaza, vào đầu tháng Mười Hai năm ngoái, theo đó thiệt hại đã được chứng minh tại 75 địa điểm kể cuộc tấn công của Hamas chống Israel, từ ngày 07 tháng Mười năm 2023. Tuy nhiên, cuộc điều tra của Liên Hiệp Quốc chỉ dựa trên những phân tích từ xa.
Sáu chân nến đó, cao khoảng một mét, được chế tạo năm 1865 và trị giá tổng cộng là 30.000 Euro.
Sau vụ này, các nhân viên đã thụ lượm các chân nến, kiểm chứng tình trạng và đặt lại trên bàn thờ.
Thủ phạm bị cảnh sát Ý lấy lý lịch và kết tội phá hoại, rồi sau đó thả đương sự ra, và có thể đương sự bị cấm cư ngụ ở Roma. Người ta chưa rõ nguyên do hành động phá hoại trên đây của thủ phạm. Ông Matteo Bruni, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh nói rằng: “Đây là một vụ một người có triệu chứng xáo trộn về tâm lý. Ông ta đã bị hiến binh Vatican bắt giữ và giao cho cảnh sát Ý”.
Có vẻ như mọi người trên thế giới đều tin rằng họ có quyền có ý kiến về chính sách nhập cư của Hoa Kỳ, trong đó có Giáo hoàng Francis. Giáo hoàng đã bày tỏ rõ sự không hài lòng của mình với cách tiếp cận của Hoa Kỳ đối với vấn đề nhập cư trong một lá thư gửi đến các giám mục Công giáo Hoa Kỳ. Giáo hoàng rõ ràng đã chỉ trích những nỗ lực của chính quyền Trump nhằm trục xuất những người nhập cư là tội phạm hoặc đã phạm tội cũng như những người khác bị phán quyết là không hội đủ yêu cầu hợp lệ về tình trạng tị nạn.
Trái ngược với những gì bạn có thể nghe từ các giáo sĩ, những người từ lâu đã bán rẽ đức tin Công giáo của mình để đổi lấy nhiều tư tưởng khuynh tả khác nhau, để rồi cuối cùng ngay cả quyền “nhập cư bất hợp pháp” cũng được coi là một quyền trong giáo lý Công giáo. Bạn có bao giờ tự hỏi rồi đây cái quyền "xâm nhập gia cư bất hợp pháp" có ngày cũng sẽ trở thành một quyền trong giáo lý Công giáo chưa?
Bức thư của Giáo hoàng thực sự là hết sức thiếu thận trọng - một phần vì nó nêu bật thực tế rằng Francis có vấn đề lớn về tính nhất quán trong lĩnh vực quan hệ quốc tế.
Tại sao, người ta có thể hỏi, Đức Giáo hoàng không viết thư cho các giám mục Trung Quốc lên án cuộc đàn áp người Công giáo và các tín đồ khác ở quốc gia đó? Tại sao Tòa thánh lại ký kết một thỏa thuận đáng xấu hổ với một chế độ toàn trị đã biến phần lớn Giáo hội ở Trung Quốc thành một con rối của Bắc Kinh? Tại sao cái tên “Jimmy Lai” chưa bao giờ được Đức Giáo hoàng nhắc đến trước công chúng?
Nói về cánh Tả, có ai nhớ rằng Giáo hoàng đã từng viết thư cho các giám mục Hoa Kỳ để chỉ trích việc chính quyền Biden tích cực thúc đẩy phá thai và sự điên rồ chuyển giới chưa - chưa, vì điều nầy chưa bao giờ xảy ra-? Và có bao giờ Giáo hoàng gửi thư cho các giám mục Anh và xứ Wales, và các hội đồng giám mục khác trên thế giới để ủng hộ họ trong cuộc chiến chống lại những nỗ lực của các chính phủ trong việc ban hành những luật về an tử chưa? Bạn có bao giờ đã từng hỏi ý kiến của người Công giáo Ukraine về những bình luận kỳ lạ của giáo hoàng về lịch sử nước Nga chưa?
Đây chỉ là một vài trường hợp minh họa cho việc "bình luận có chọn lọc" của Giáo hoàng Francis về các vấn đề nội bộ của các quốc gia khác.
Cuối cùng, đối với những tín hữu Công giáo chính thống bình thường, Đức Giáo hoàng Phanxicô là Đức Giáo hoàng. Do đó, họ cầu nguyện cho ngài mỗi ngày. Họ cũng đọc với sự tôn trọng thích đáng những gì ngài nói và viết. Nhưng họ e rằng phần lớn những gì họ đọc được đã củng cố niềm tin của họ rằng quan điểm của Đức Phanxicô về tình trạng của thế giới hiện đại và ý nghĩa của điều này đối với Giáo hội là rất sai lầm và đã gây ra thiệt hại đáng kể cho khả năng của Giáo hội trong việc đưa mọi người đến với điều mà họ tin là sự trọn vẹn của Sự Thật, của Chân lý.
Theo nghĩa đó, lá thư của giáo hoàng Francis gửi cho các giám mục Hoa kỳ là dấu hiệu của một số thất bại sâu sắc hơn của vị giáo hoàng này, mà các hồng y bầu giáo hoàng tiếp theo phải nhận thức rõ ràng, và có trách nhiệm phải sửa chữa.
TỔNG THỐNG DONALD TRUMP CÓ VẺ GIỐNG CÔNG GIÁO HƠN CẢ GIÁO HOÀNG PHANXICÔ
https://www.ucanews.com/news/when-trump-sounds-more-catholic-than-the-pope/107759
Sắc lệnh hành pháp của ông về việc xác định giới tính khi thụ thai hoàn toàn phù hợp với giáo lý Công giáo
Vào ngày 20 tháng 1, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã ban hành lệnh hành pháp có tiêu đề "Bảo vệ phụ nữ khỏi chủ nghĩa cực đoan về tư tưởng giới và khôi phục sự thật sinh học cho Chính phủ liên bang".
Sắc lệnh mang tính đột phá này khẳng định lại chân lý khoa học cơ bản rằng chỉ có hai giới tính bất biến - nam và nữ - được xác định chặt chẽ bởi các đặc điểm sinh học khi thụ thai.
Sắc lệnh này bác bỏ quan điểm cho rằng "giới tính" có thể đồng nghĩa với "bản dạng giới" và yêu cầu tất cả các cơ quan liên bang áp dụng định nghĩa này trong các chính sách và chương trình của họ.
Quan trọng hơn, nó phù hợp với học thuyết Công giáo về nhân cách của thai nhi, cho rằng sự sống con người — và theo nghĩa rộng hơn là phẩm giá và bản sắc của con người — bắt đầu từ lúc thụ thai và duy trì trong suốt cuộc đời.
Đối với người Công giáo, chính sách này đại diện cho một chiến thắng quan trọng chống lại hệ tư tưởng giới tính cực đoan, một phong trào tìm cách nhồi nhét vào đầu trẻ em niềm tin rằng tình dục là thứ linh hoạt và có thể thay đổi.
Là thành viên của một hiệp hội hướng đạo sinh Công giáo ở Rome, nơi duy trì sự phân biệt giới tính nghiêm ngặt, chúng tôi tự nhiên tuân theo cấu trúc này.
"Giáo hoàng Francis đã lên tiếng nhiều hơn và phản ứng nhanh hơn về các vấn đề nhập cư"
Phụ nữ có squadriglie (đội quân) riêng của họ , và đàn ông có squadriglie của họ — non tertium datum (không có lựa chọn thứ ba nào được đưa ra). Điều đó đơn giản được coi là điều hiển nhiên.
Người ta mong đợi Đức Giáo hoàng Francis, với tư cách là người lãnh đạo Giáo hội Công giáo, sẽ công khai thừa nhận sự thống nhất giữa giáo lý của Giáo hội và chính sách của chính phủ.
Thay vào đó, Giáo hoàng Francis đã lên tiếng nhiều hơn và phản ứng nhanh hơn về các vấn đề nhập cư, đặc biệt là để đáp lại lập trường cứng rắn của Trump về việc hồi hương những người di cư bất hợp pháp.
Quan trọng hơn, có điều gì đó kỳ lạ - nếu không muốn nói là tiết lộ rất nhiều - về nơi ông chọn để đưa ra những nhận xét này.
Nếu bạn không phải người Ý, bạn có thể không nhận ra được tầm quan trọng này.
Trong khi các báo cáo chính thống chỉ ghi chú rằng Đức Giáo hoàng đã đưa ra những bình luận này trên một chương trình truyền hình, thì họ lại không nêu rõ rằng đây không phải là một chương trình bình thường.
Francis xuất hiện trên chương trình Che Tempo Che Fa , một chương trình truyền hình nổi tiếng của Ý do Fabio Fazio, một người dẫn chương trình thiên tả khét tiếng, làm người dẫn chương trình.
Trong chương trình trò chuyện dài tập của mình, Fazio thường xuyên tiếp đón các nhà trí thức, nghệ sĩ và chính trị gia có quan điểm tiến bộ và cánh tả. Ông đã công khai ủng hộ các vấn đề như quyền nhập cư, chủ nghĩa môi trường và quyền LGBTQ+, đồng thời đưa ra một số trò lừa bịp chống lại tổng thống Hoa Kỳ hiện tại.
"Giáo hội Công giáo luôn dạy rằng giới tính được Chúa quyết định và không thể thay đổi"
Đáng chú ý hơn, biên kịch của chương trình, Michele Serra, có lý lịch cánh tả được ghi chép rõ ràng, đặc biệt là từ những năm đầu làm nhà báo và nhà văn. Trong những năm 1970 và 1980, ông có mối quan hệ chặt chẽ với Đảng Cộng sản Ý (PCI), viết cho L'Unità , tờ báo chính thức của đảng.
Trong khi Giáo hoàng được tự do lựa chọn bất kỳ nền tảng nào để bày tỏ quan điểm của mình, việc hợp tác với một cơ quan truyền thông có tư tưởng cánh tả sâu sắc trong khi vẫn im lặng về sắc lệnh hành pháp của Trump gây ra những lo ngại chính đáng.
Sắc lệnh của Trump không chỉ thách thức hệ tư tưởng giới tính mà còn ủng hộ các nguyên tắc cơ bản của Công giáo liên quan đến thực tế sinh học và phẩm giá con người.
Giáo hội Công giáo luôn dạy rằng giới tính được Chúa quyết định và không thể thay đổi. Niềm tin này dựa trên cả Kinh thánh và luật tự nhiên.
Việc chính quyền Trump bác bỏ sự linh hoạt về giới tính củng cố trật tự thiêng liêng này, điều mà Đức Giáo hoàng nên ủng hộ thay vì phớt lờ.
Sắc lệnh hành pháp của Trump nêu rõ rằng giới tính được xác định từ lúc thụ thai, một khẳng định hoàn toàn phù hợp với giáo lý Công giáo.
Giáo hội dạy rằng sự sống của con người — và theo nghĩa mở rộng, nhân cách — bắt đầu từ lúc thụ thai. Niềm tin này là nền tảng của sự phản đối phá thai của Công giáo. Bằng cách củng cố ý tưởng rằng bản sắc được cố định khi thụ thai, chính sách của Trump củng cố sự bảo vệ lâu đời của Giáo hội đối với sự sống ngay từ những giai đoạn đầu tiên.
Hơn nữa, sắc lệnh hành pháp bảo vệ trẻ em khỏi hệ tư tưởng giới tính cực đoan đã ăn sâu vào nhiều xã hội phương Tây. Giáo lý Công giáo không nhấn mạnh đến việc bảo vệ sự ngây thơ của trẻ em sao?
Với động thái tích cực đưa tư tưởng giới vào trường học, sắc lệnh này đóng vai trò là cơ chế phòng thủ quan trọng chống lại nạn tham nhũng như vậy.
Francis thường tự coi mình là nhà lãnh đạo đạo đức về các vấn đề toàn cầu, tuy nhiên việc không thừa nhận ngay lập tức - như ông đã làm với vấn đề nhập cư - về hành động quyết đoán của Trump chống lại hệ tư tưởng giới tính là điều đáng lo ngại.
Người Công giáo trên toàn thế giới xứng đáng được làm rõ lập trường của nhà lãnh đạo tinh thần của họ về các vấn đề chân lý cơ bản. Sắc lệnh hành pháp của chính quyền Trump không chỉ là một tuyên bố chính trị, mà còn là sự bảo vệ thực tế do Chúa tạo ra.
Nếu Giáo hoàng Francis có thể công khai thảo luận với các phương tiện truyền thông cánh tả về vấn đề nhập cư, ông cũng nên sẵn sàng công nhận và ủng hộ các chính sách phù hợp với giáo lý Công giáo về giới tính và nhân cách.
Trong trường hợp này, sự im lặng không phải là trung lập, mà giống như một sự lựa chọn hơn. Và đối với nhiều người Công giáo đã và đang đấu tranh chống lại sự trỗi dậy của hệ tư tưởng giới tính cấp tiến, thì đó là một điều đáng thất vọng.
Lm. Anmai, CSsR lược dịch
Lá thư Đức Thánh cha gửi Hội đồng Giám mục Mỹ được Phòng Báo chí Tòa Thánh công bố hôm 11 tháng Hai vừa qua, trong đó có đoạn viết: “Tôi đã theo dõi sát cuộc khủng hoảng lớn đang xảy ra tại Mỹ, với việc bắt đầu một chương trình trục xuất hàng loạt. Lương tâm được huấn luyện đúng đắn không thể không đưa ra một phán đoán phê bình và bày tỏ sự bất đồng đối với bất kỳ biện pháp nào, minh nhiên hoặc mặc nhiên, đồng hóa tình trạng bất hợp pháp của một số người di cư với tội phạm. Đồng thời, người ta phải nhìn nhận quyền của mỗi quốc gia bảo vệ chính mình và gìn giữ các cộng đoàn được an toàn, chống những kẻ phạm các tội ác bạo lực hoặc nghiêm trọng, trong khi cư ngụ tại nước liên hệ hoặc trước khi đến nước đó.
Ngoài trường hợp đó, thư của Đức Thánh cha phê bình “việc trục xuất những người, trong nhiều trường hợp, đã rời bỏ quê hương của họ vì những lý do nghèo đói cùng cực, bất an, bị khai thác bóc lột, bị bách hại hoặc vì môi trường suy thoái trầm trọng làm thiệt hại phẩm giá của nhiều người nam nữ, và toàn bộ gia đình, đồng thời đặt họ trong tình trạng đặc biệt dễ bị tổn thương và vô phương thế tự vệ”. (n.4).
Đức Thánh cha viết thêm rằng: “Đây không phải là một vấn đề nhỏ: một chế độ pháp quyền chân thực được kiểm chứng theo cách thức đối xử xứng đáng mà mọi người đều đáng được, đặc biệt là những người nghèo và bị gạt ra ngoài lề nhiều nhất. Công ích chân thực được thăng tiến khi xã hội và chính quyền, với óc sáng tạo và nghiêm túc, tôn trọng các quyền của mọi người - như tôi đã nhiều lần khẳng định - chào đón, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập những người yếu đuối, - những người không được bảo vệ và dễ bị tổn thương nhất. Điều này không ngăn cản việc phát triển một chính sách điều hành việc di trú có trật tự và hợp pháp. Tuy nhiên, sự phát triển này không thể diễn ra qua đặc ân cho một số người và hy sinh những người khác. Điều gì được xây dựng trên căn bản võ lực mà không dựa trên sự thật về phẩm giá bình đẳng của mỗi người, thì nó khởi sự tồi tệ và cũng sẽ kết thúc tồi tệ” (n.5).
“Các tín hữu Kitô biết rất rõ rằng chỉ nhờ khẳng định phẩm giá vô biên của tất cả mọi người mà căn tính của chúng ta, trong tư cách là nhân vị cũng như là cộng đoàn, đạt tới mức trưởng thành. Tình yêu Kitô giáo không phải là sự nới rộng đồng tâm của các lợi ích và dần dần mở rộng tới những cá nhân và các nhóm khác. Nói cách khác, con người không phải chỉ là một cá nhân, tương đối rộng lớn, với vài tình cảm nhân đạo! Con người là một chủ thể có phẩm giá, nhờ các mối quan hệ cấu thành với tất cả mọi người, đặc biệt là với những người nghèo túng nhất, để có thể dần dần trưởng thành trong căn tính và ơn gọi của mình. Trật tự bác ái đích thực phải được thăng tiến chính là trật tự mà chúng ta khám phá nhờ liên tục suy niệm về dụ ngôn “người Samaritano nhân lành” (Xc Lc 10,25-37), nghĩa là nhờ suy niệm về tình yêu xây dựng một tình huynh đệ mở rộng với tất cả mọi người, không trừ ai”. (n.6)
“Những lo lắng về căn tính cá nhân, cộng đoàn và quốc gia, ngoài những cân nhắc đó, dễ du nhập một tiêu chuẩn ý thức hệ làm méo mó đời sống xã hội và áp đặt ý muốn của kẻ mạnh nhất, như thể đó là tiêu chuẩn sự thật” (n.7).
Phản đối từ các Giám mục Hoa Kỳ
Trước đó, Đức Hồng Y Blaise Cupich của Chicago đã lên tiếng phản đối mọi chương trình trục xuất hàng loạt người nhập cư, ngay cả trước khi Tổng thống mới đắc cử Donald Trump tuyên thệ nhậm chức. Tiếp theo, Đức Giám mục Mark Joseph Seitz của El Paso đã nhấn mạnh sự không khoan nhượng đối với mọi hình thức bất công. Cuối cùng, toàn thể Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đã bày tỏ sự kinh ngạc trước các biện pháp mà nhà lãnh đạo đảng Cộng hòa công bố, bao gồm việc hồi hương hàng triệu người nhập cư bất hợp pháp và quân sự hóa biên giới Hoa Kỳ-Mexico.
Giờ đây, chính Đức Thánh Cha đã lên tiếng về “cuộc khủng hoảng quan trọng đang diễn ra tại Hoa Kỳ do việc khởi động chương trình trục xuất hàng loạt” được chính quyền mới triển khai ngay sau khi Tổng thống nhậm chức. Đức Thánh Cha Phanxicô, đang theo dõi sát sao cuộc khủng hoảng này, đã gởi thư đến các Giám mục Hoa Kỳ để bày tỏ sự gần gũi và hỗ trợ trong những “thời điểm nhạy cảm” mà họ đang trải qua với tư cách là những mục tử đồng hành cùng dân Chúa, đồng thời lên án một số biện pháp làm tổn thương chính phẩm giá con người. Ngài cảnh báo: “Những gì được xây dựng dựa trên sức mạnh, chứ không phải trên sự thật về phẩm giá bình đẳng của mỗi con người, sẽ khởi đầu tồi tệ và kết thúc tồi tệ.”
Tổn thương phẩm giá con người
Trong bức thư được chia thành 10 điểm, Đức Thánh Cha viết: “Hành động trục xuất những người trong nhiều trường hợp đã rời bỏ quê hương vì nghèo đói cùng cực, bất an, bóc lột, bức hại hoặc môi trường sống bị suy thoái nghiêm trọng, làm tổn thương phẩm giá của nhiều người nam nữ, của cả gia đình, và đặt họ vào tình trạng đặc biệt dễ bị tổn thương và không được bảo vệ”. Bức thư được công bố bằng tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha, chỉ hơn hai tuần sau khi Nhà Trắng đăng tải trên tài khoản X những bức ảnh về một nhóm người di cư bị xích tay và dẫn lên máy bay quân sự để hồi hương.
Quyền bảo vệ cộng đồng
Trong thư, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “lương tâm ngay thẳng không thể không bày tỏ sự phán xét có phê bình và bày tỏ sự bất đồng với bất kỳ biện pháp nào, dù ngầm hiểu hay công khai, đồng nhất tình trạng bất hợp pháp của một số người di cư với tội phạm”. Tuy nhiên, ngài cũng nhắc lại sự cần thiết phải công nhận “quyền của một quốc gia trong việc bảo vệ chính mình và giữ an toàn cho cộng đồng khỏi những người đã phạm các tội ác bạo lực hoặc nghiêm trọng khi ở trong nước hoặc trước khi đến đó”. Nhưng hành động trục xuất vẫn là một vết thương đối với nhân phẩm, là phẩm giá “vô hạn và siêu việt” được ban tặng bởi “Thiên Chúa gần gũi, nhập thể, di cư và trốn chạy”. Đức Thánh Cha trích dẫn lời của Đức Giáo Hoàng Piô XII trong Tông hiến về việc trợ giúp người di cư, được coi là “Hiến chương Magna Carta về tư tưởng của Giáo hội đối với vấn đề di cư”: “Thánh Gia Nazareth trong cảnh lưu đày, Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse, di cư sang Ai Cập và tị nạn tại đó để trốn tránh cơn thịnh nộ của một vị vua bất chính, là mẫu gương, là niềm an ủi cho những người di cư và lữ hành thuộc mọi thời đại và quốc gia, cho mọi người tị nạn trong bất kỳ hoàn cảnh nào, những người bị bức hại hoặc vì hoàn cảnh khó khăn buộc phải rời bỏ quê hương, gia đình thân yêu và bạn bè để đến một vùng đất xa lạ”.
Đối xử xứng đáng với mọi người
Đức Thánh Cha khẳng định rằng đây không phải là vấn đề thứ yếu: “Một Nhà nước pháp quyền đích thực được thể hiện qua cách đối xử xứng phẩm giá mà mọi người, đặc biệt là những người nghèo nhất và bị gạt ra bên lề, đáng được hưởng”. Ngài viết: “Lợi ích chung đích thực được thúc đẩy khi xã hội và chính phủ, với sự sáng tạo và tôn trọng nghiêm ngặt quyền lợi của mọi người – như tôi đã nói trong nhiều dịp – đón nhận, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập những người yếu đuối, không được bảo vệ và dễ bị tổn thương nhất”. Điều này không ngăn cản việc thúc đẩy “một chính sách điều chỉnh việc di cư có trật tự và hợp pháp”, miễn là nó không được xây dựng “thông qua đặc quyền của một số người và sự hy sinh của những người khác”.
Nhìn nhận các quy định dưới ánh sáng nhân quyền
Đức Thánh Cha nhắc nhở các Giám mục rằng Chúa Giêsu Kitô dạy chúng ta về “sự nhận thức vĩnh viễn” về phẩm giá của mỗi con người: “Không ai bị loại trừ”. Do đó, Ngài nhấn mạnh, “tất cả các Kitô hữu và những người thiện chí được kêu gọi nhìn nhận tính hợp pháp của các quy định và chính sách công dưới ánh sáng của nhân phẩm và các quyền cơ bản của con người, chứ không phải ngược lại”. Hơn nữa, các Kitô hữu biết rõ rằng “chỉ bằng cách khẳng định phẩm giá vô hạn của mọi người, căn tính của chúng ta như những cá nhân và cộng đồng mới có thể trưởng thành”. “Con người không đơn thuần là một cá nhân, với một vài cảm xúc nhân đạo! Con người là một chủ thể có phẩm giá, thông qua mối quan hệ cấu thành với tất cả mọi người, đặc biệt là những người nghèo nhất, có thể dần dần trưởng thành trong căn tính và ơn gọi của mình”.
Ordo amoris
Trong thư, Đức Thánh Cha cũng đề cập đến nguyên tắc “ordo amoris” (trật tự của tình yêu) được phát triển trong thần học của Thánh Augustine, khẳng định rằng mọi người và mọi thứ nên được yêu thương theo cách thích hợp. Khái niệm này gần đây đã được Phó Tổng thống JD Vance nhắc đến để biện minh cho các biện pháp chống nhập cư bất hợp pháp tại Hoa Kỳ. Đức Thánh Cha viết: “Trật tự của tình yêu đích thực cần được thúc đẩy là trật tự mà chúng ta khám phá khi suy ngẫm liên tục dụ ngôn ‘Người Samaria nhân hậu’, tức là suy ngẫm về tình yêu xây dựng một tình huynh đệ mở ra cho tất cả mọi người, không loại trừ ai”. Đức Thánh Cha kết luận: “Quan tâm đến căn tính cá nhân, cộng đồng hoặc quốc gia mà bỏ qua những cân nhắc này sẽ dễ dẫn đến một tiêu chuẩn ý thức hệ làm méo mó đời sống xã hội và áp đặt ý chí của kẻ mạnh như một tiêu chuẩn của sự thật”.
Nói không với những câu chuyện phân biệt và gây đau khổ
Đức Thánh Cha bày tỏ sự gần gũi với các anh em Giám mục ở Hoa Kỳ, ghi nhận “những nỗ lực quý báu” của họ trong việc dấn thân “gần gũi” với người di cư và tị nạn, cũng như bảo vệ quyền con người. Ngài khẳng định: “Thiên Chúa sẽ ban thưởng dồi dào cho tất cả những gì anh làm để bảo vệ và che chở những người bị coi là ít giá trị, ít quan trọng hoặc ít phẩm giá hơn!” Trong phần cuối thư, Đức Thánh Cha kêu gọi tất cả tín hữu Công giáo và mọi người thiện chí “không nhượng bộ trước những câu chuyện phân biệt và gây đau khổ không cần thiết cho anh chị em di cư và tị nạn của chúng ta”. Ngài nói: “Với lòng bác ái và sự rõ ràng, tất cả chúng ta được kêu gọi sống trong tình liên đới và huynh đệ, xây dựng những cây cầu đưa chúng ta đến gần nhau hơn, tránh xa những bức tường ô nhục, và học cách hiến dâng cuộc đời mình như Chúa Giêsu Kitô đã hiến dâng, vì ơn cứu độ của tất cả mọi người”.
Lời cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Guadalupe
Cuối cùng, Đức Thánh Cha dâng lời cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Maria Guadalupe, Đấng bảo trợ Mexico, xin Mẹ “bảo vệ những người và gia đình đang sống trong sợ hãi hoặc đau khổ vì di cư và/hoặc trục xuất”. Ngài cầu nguyện rằng xin “Morenita” (tên gọi thân mật của Đức Mẹ Guadalupe) giúp mọi người “tiến thêm một bước trong việc xây dựng một xã hội huynh đệ hơn, bao dung hơn và tôn trọng phẩm giá của tất cả mọi người”.
Đức Hồng y Timothy Broglio, Tổng giám mục Giáo phận quân đội và là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Mỹ, cám ơn Đức Thánh cha vì sự hỗ trợ của ngài, đồng thời nhắc nhở rằng “tôn nhan của Chúa Kitô, ta có thể nhìn thấy nơi mỗi người di dân.”
Trong thông cáo, công bố hôm 11 tháng Hai vừa qua, Đức Hồng y Broglio kêu gọi các tín hữu cầu nguyện, xin Chúa ban sức mạnh để xây dựng một hệ thống di trú tốt đẹp và nhân đạo hơn, bảo đảm việc bảo vệ các cộng đồng và phẩm giá của tất cả mọi người. Ngài cho biết các giám mục tại Mỹ tiếp tục cố gắng săn sóc những người túng thiếu và cải tiến những điều kiện sống tại các nước nguyên quán của những người di dân. Đức Hồng y kêu gọi các tín hữu tham gia các cuộc lạc quyên từ thiện và những sáng kiến của Giáo hội để nâng đỡ những người đặc biệt bị tổn thương vì chính sách di trú hiện nay ở Mỹ.
Còn Đức Hồng y Blase Cupich, Tổng giám mục Giáo phận Chicago, mô tả sự can thiệp của Đức Thánh cha về vấn đề di trú ở Mỹ như “Một sự cảnh giác ngôn sứ”, và trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, Đức Hồng y nhấn mạnh sự cấp thiết phải bảo vệ phẩm giá của những người di dân trong tình trạng chính trị hiện nay ở Mỹ.
Tuần lễ trước đây, Phó Tổng thống Mỹ, ông James David Vance, một người Công giáo, đã phê bình Giáo hội Công giáo tại nước này vì dấn thân bênh vực người di dân và ông kêu gọi dân chúng hãy yêu thương gia đình của mình trước tiên, rồi đến những người láng giềng, và sau đó đến những người còn lại, vì đức bác ái có thứ tự. Đức Thánh cha chống lại lập luận như vậy, với dụ ngôn người Samaritano nhân lành, đồng thời nhắc nhở các tín hữu rằng sức mạnh của một xã hội được đo lường theo mức độ xã hội ấy đối xử với những thành phần dễ bị tổn thương nhất của mình như thế nào.
Đức Hồng y Cupich thì cám ơn Đức Thánh cha vị sự nâng đỡ của ngài và nhấn mạnh rằng các giám mục phải đoàn kết với nhau chống lại sự kỳ thị những người di dân và chính sách cô lập. Đức Hồng y nói: “Bảo vệ phẩm giá của những người di dân là công tác cấp thiết nhất trong thời đại chúng ta ngày nay”. Đức Hồng y ca ngợi lập trường rõ ràng của Đức Thánh cha và lời ngài kêu gọi các giám mục tích cực chống lại những đạo luật bất công và vô nhân đạo về vấn đề di trú.
Đức Hồng y Cupich nói thêm rằng những lời của Đức Thánh cha nhắc nhở về trách nhiệm đặc biệt của cộng đồng Công giáo, và ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của việc huấn luyện lương tâm đúng đắn, giúp các tín hữu Công giáo đưa ra những phán đoán về luân lý đạo đức và lên tiếng chống lại những biện pháp chính trị dựa trên bạo lực và thông tin xuyên tạc.
Bởi Monica Showalter
Can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác?
Chắc chắn rồi, nếu bạn là Vatican, hay cụ thể hơn là tổ chức phi chính phủ lớn nhất của Vatican được gọi là Caritas, với chi nhánh tại Hoa Kỳ bao gồm tổ chức từ thiện Công giáo và dịch vụ cứu trợ Công giáo.
Theo hãng thông tấn Associated Press:
THÀNH PHỐ VATICAN --
Tổ chức từ thiện của Vatican hôm thứ Hai cho biết kế hoạch cắt giảm USAID của Hoa Kỳ là "liều lĩnh" và có thể giết chết hàng triệu người, trong khi người phát ngôn của Giáo hoàng Francis về phát triển đã kêu gọi chính quyền Trump ghi nhớ các nguyên tắc của Cơ đốc giáo về việc quan tâm đến người khác.
Hồng y Michael Czerny, một tu sĩ dòng Tên người Canada gốc Séc, là một trong những hồng y có mối quan hệ chặt chẽ nhất với triều đại Giáo hoàng Francis và là người đứng đầu văn phòng Vatican phụ trách về người di cư, môi trường, tổ chức từ thiện Caritas Internationalis và phát triển của Giáo hội.
Hôm thứ Hai, Caritas đã cảnh báo rằng hàng triệu người có thể chết vì quyết định "tàn nhẫn" của Hoa Kỳ khi "liều lĩnh" ngừng tài trợ cho USAID, và hàng trăm triệu người khác sẽ phải chịu cảnh "nghèo đói vô nhân đạo".
Điều đó có vẻ gần giống với việc quản lý quá mức các quyết định chính sách của Hoa Kỳ và chỉ trích sự lựa chọn của cử tri về nhà lãnh đạo, Tổng thống Trump, người đã giành được đa số phiếu bầu của người Công giáo.
Và tuyên bố rằng việc đóng cửa các hoạt động của USAID khiến người nghèo đói là vô lý, vì hầu hết tiền của USAID đều được chuyển cho các hợp đồng tư vấn và các tổ chức phi chính phủ trả lương cho các giám đốc điều hành của họ lên tới sáu con số cho những thứ không phải của người nghèo như các bài học DEI cho gã khổng lồ Pepsico và truyện tranh chuyển giới sẽ được xuất bản ở Peru. USAID đã bị phát hiện đã trả tiền cho các nhóm khủng bố xung quanh Israel, phát động các cuộc cách mạng màu theo kiểu Soros và tài trợ cho Diễn đàn Kinh tế Thế giới rất xa hoa dành cho giới tinh hoa thế giới tại khu nghỉ dưỡng trượt tuyết Davos của Thụy Sĩ để họ có thể quảng bá việc ăn côn trùng.
Chắc chắn là nó tài trợ phần lớn cho tổ chức Catholic Charities, tổ chức này sử dụng tiền của mình để khuyến khích nhập cư bất hợp pháp cũng như dạy những người nhập cư bất hợp pháp cách chống lại luật nhập cư của Hoa Kỳ sau khi họ vào được, để cắt giảm được hàng rào nhập cư trước những người khác sẽ đến hợp pháp. Tổ chức này cũng từ chối mở sổ sách cho các nhà điều tra ở Texas.
Làm sao điều đó có thể nuôi sống và cung cấp quần áo cho bất cứ ai ở một quốc gia nghèo?
Thật là đáng ghét vì Czerny đã bỏ qua việc nhóm của Elon Musk, trong cuộc kiểm toán của mình, đã tìm thấy những ví dụ đáng kinh ngạc về sự lãng phí, tham nhũng và quản lý yếu kém -- tất cả những điều này cuối cùng đều gây thiệt hại cho người nghèo. Điều không nói đến là nếu cơ quan cồng kềnh và tham nhũng này bị xóa bỏ, những người nộp thuế tài trợ cho nó sẽ có nhiều tiền hơn để tài trợ cho các tổ chức từ thiện giúp đỡ người nghèo.
Trong cuộc phỏng vấn với Associated Press, Czerny không đến nỗi tệ, nhưng toàn bộ tiền đề của khiếu nại này lại có vấn đề.
Thậm chí người ta còn có thể thông cảm với ông ở một mức độ nào đó khi viện trợ bị cắt đột ngột như vậy.
Trong một cuộc phỏng vấn với The Associated Press, Czerny cho biết mọi chính phủ mới đều có quyền xem xét lại ngân sách viện trợ nước ngoài của mình, và thậm chí cải tổ một cơ quan như USAID. Nhưng ông cho biết việc giải thể một cơ quan sau khi đã cam kết tài trợ lại là một chuyện khác.
“Có những chương trình đang được tiến hành và kỳ vọng và chúng ta thậm chí có thể nói là cam kết, và việc phá vỡ cam kết là một điều nghiêm trọng,” Czerny cho biết vào Chủ Nhật. “Vì vậy, trong khi mọi chính phủ đều có đủ điều kiện để xem xét lại ngân sách của mình trong trường hợp viện trợ nước ngoài, thì sẽ tốt hơn nếu có một số cảnh báo vì cần có thời gian để tìm các nguồn tài trợ khác hoặc tìm cách khác để giải quyết các vấn đề mà chúng ta đang gặp phải.”
Một trong những tổ chức phi chính phủ nhận được tài trợ lớn nhất của USAID là Catholic Relief Services, cơ quan cứu trợ của Giáo hội Công giáo tại Hoa Kỳ, đã lên tiếng báo động về việc cắt giảm. Czerny cho biết các chương trình khác, bao gồm các chương trình quốc tế của Caritas ở cấp giáo phận và quốc gia, cũng đang bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp.
Trong một tuyên bố, Caritas đã yêu cầu các chính phủ khẩn trương kêu gọi chính quyền Hoa Kỳ đảo ngược hướng đi. "Việc dừng USAID sẽ gây nguy hiểm cho các dịch vụ thiết yếu cho hàng trăm triệu người, làm suy yếu nhiều thập kỷ tiến bộ trong viện trợ nhân đạo và phát triển, gây bất ổn cho các khu vực phụ thuộc vào sự hỗ trợ quan trọng này và đẩy hàng triệu người vào cảnh nghèo đói vô nhân đạo hoặc thậm chí là tử vong", tuyên bố cho biết.
Với các dịch vụ thiết yếu, ông ấy có ý nói đến thẻ xanh và luật sư miễn phí cho những người nhập cư bất hợp pháp đã có 12.000 đô la để trả cho các băng đảng nhập cư vào Hoa Kỳ không? Vận chuyển miễn phí đến địa điểm họ chọn, không cần ID? Nghỉ miễn phí tại các khách sạn năm sao? Những thứ miễn phí như thế này đóng vai trò là động lực khá lớn để họ đến.
Nhưng ngay cả khi những gì ông ấy nói chỉ là về thức ăn và nơi ở, điều mà ông ấy muốn độc giả nghĩ đến, thì điều đó cũng nhấn mạnh rằng họ đang nhận được quá nhiều tiền của chính phủ cho các hoạt động rộng lớn của mình, bao gồm nhiều giám đốc điều hành với mức lương sáu con số, kiếm bộn tiền và sống rất, rất tốt, tốt hơn nhiều so với những người nộp thuế mà họ lấy tiền.
Các tổ chức Công giáo như Catholic Charities do đó đã nhanh chóng phát triển thành một nhóm vận động hành lang chính trị và lợi ích đặc biệt, thay vì một tổ chức có bất kỳ mối quan hệ gần gũi nào với "bầy cừu" hoặc tín đồ Công giáo, những người chỉ là thứ yếu. Nghe có vẻ không giống một thiết lập Công giáo thực sự. Khi bạn lấy đồng xu của nhà vua, bạn sẽ làm theo lệnh của nhà vua.
Tôi sẽ không tuyên bố, như một số người vẫn làm, rằng Catholic Charities "hưởng lợi" từ nhập cư bất hợp pháp, vì tôi không nghĩ họ làm vậy. Nhưng giống như bất kỳ tổ chức phi chính phủ nào (chỉ cần xem khu phức hợp công nghiệp-vô gia cư ở San Francisco), họ có lợi ích trong việc tăng số lượng nhập cư bất hợp pháp, vì càng nhiều người nhập cư bất hợp pháp, ngân sách của họ càng lớn và tiền mặt từ chính phủ càng lớn. "Nhu cầu" càng lớn thì tiền mặt càng tốt -- để mở rộng nhân viên, tăng lương, xây dựng các tòa nhà mới và mở rộng ảnh hưởng vào đấu trường chính trị.
Nếu các tổ chức phi chính phủ Công giáo không có tiền riêng để chi trả cho mọi thứ họ muốn chi trả cho những người nhập cư bất hợp pháp, cho dù là thực phẩm và nơi ở thực sự, hay tất cả các phúc lợi kèm theo, họ cần tự hỏi tại sao các tín đồ Công giáo không quyên góp đủ và thu hẹp quy mô tổ chức của họ cho phù hợp.
Czerny nên biết rằng Thánh Katharine Drexel, một bề trên vĩ đại của thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, người từng là một thiếu nữ trẻ rất giàu có và quyến rũ của dòng chính Philadelphia nhưng đã từ bỏ để trở thành một nữ tu và hiến tặng toàn bộ tài sản thừa kế của mình để làm việc thiện cho người da đen và người Mỹ bản địa, biết tất cả về thế giới phi chính phủ và các tổ chức từ thiện và từ chối đầu tư tài sản của mình vào một trong những tổ chức đó.
Dưới đây là một đoạn trích từ Văn hóa Công giáo :
Sau khi Thánh Katharine Drexel thành lập dòng tu của mình, Dòng Nữ tu Bí tích Thánh thể, mọi người xung quanh đều thúc giục bà dành một phần thu nhập hàng năm của mình để lập một quỹ tài trợ cho các hoạt động của dòng sau khi bà qua đời. Bà có thể dễ dàng làm như vậy, và chắc chắn dòng tu sẽ không bao giờ thiếu nguồn lực trong một thời gian dài - vì Mẹ Katharine là một triệu phú, người đã chia sẻ với người chị gái còn sống của mình khoản thu nhập hàng năm khoảng 750.000 đô la từ di chúc của cha họ.
Tuy nhiên, Katharine đã từ chối, thay vào đó, bà chọn cách cung cấp cho các nhu cầu hiện tại – chi tiền để thành lập các trường học và cơ sở truyền giáo mới cho người Mỹ bản địa và người Mỹ gốc Phi, và thậm chí hỗ trợ các dòng tu khác ngoài dòng tu của bà trong việc thực hiện công việc tương tự. Trong một lá thư gửi cho một trong những cố vấn tài chính của bà, Cha Dominic Pantanella, bà đã viết:
Bây giờ, trong khi dành ra một khoản tiền như thế này [1.020.000 đô la], hãy nghĩ đến số lượng linh hồn trong số Người da màu và Người da đỏ có thể được phục vụ trong khi tích trữ số tiền này để làm lễ ban phước. Mỗi linh hồn mà chúng ta có thể đến để cứu có thể lần lượt cải đạo một linh hồn khác và nghĩ đến điều tốt đẹp hiện tại - những linh hồn có thể bị lạc lối trong khi chúng ta đang tích lũy một khoản tiền để hỗ trợ trong tương lai cho 4 Học viện có 507 trẻ em. Nếu bốn Học viện này của chúng ta tốt, Chúa sẽ cung cấp cho họ nếu về phần mình, chúng ta tiến lên sử dụng tất cả trí thông minh và phương tiện của mình để đưa Người da đỏ và Người da màu đến với Ngài, yêu thương và phục vụ Ngài bằng mọi cách trong khả năng của chúng ta trực tiếp hoặc gián tiếp. Tôi kiên quyết cho rằng chính những người trung thành nên đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì các công trình của Chúa. …
Vâng, điều đó nghe có vẻ không giống với quan điểm của Vatican, nơi thực sự có vẻ nghĩ rằng tiền thuế của người dân Hoa Kỳ là tiền của họ và Tổng thống Trump đã lấy mất tiền của họ.
Quan điểm của người đứng đầu Caritas là có chừng mực và ông dường như thừa nhận USAID có thể là một hố lãng phí và gian lận, nhưng kết hợp với tất cả các tuyên bố phẫn nộ khác đến từ cả Đức Giáo hoàng (đây là một tuyên bố mới ) và các giám mục Công giáo, thì thực tế là họ đang nói với Hoa Kỳ nên chi tiền như thế nào, trong khi nhà nước biết rằng 40 tỷ đô la đã được lấy đi.
Czerny thậm chí còn quy định mức độ nhập cư bất hợp pháp mà Hoa Kỳ nên chấp nhận, trái với luật pháp của chính nước này trong phần phỏng vấn này:
Đức Phanxicô cũng cho biết các chính phủ được kỳ vọng sẽ [tiếp nhận những người nhập cư bất hợp pháp] đến mức tối đa khả năng của họ.
"Và tôi không nghĩ rằng có bất kỳ quốc gia nào ngoại trừ có lẽ là Lebanon, và có thể là một hoặc hai trường hợp ngoại lệ khác, những quốc gia thực sự vượt quá giới hạn", Czerny nói. "Vì vậy, tôi nghĩ rằng trước hết chúng ta phải có trách nhiệm với tư cách là con người, là công dân, là tín đồ, và trong trường hợp của chúng ta, là những người theo đạo Thiên chúa".
Ông ấy tỏ ra hoàn toàn lạc lõng, xét đến sự gia tăng mạnh mẽ về tội phạm và chi phí do các băng đảng nhập cư bất hợp pháp kiếm lời lớn từ hoạt động buôn bán khủng khiếp này gây ra và sau đó lan truyền tội ác của chúng qua Mexico và vào Hoa Kỳ.
Đối với tuyên bố của ông rằng người di cư đang bị gửi trở lại những nơi khủng khiếp, điều đó có thể gây được tiếng vang hơn nếu Vatican đã nói điều gì đó về việc Nicolas Maduro và Hugo Chavez phá hủy nền dân chủ của đất nước họ khi từng nhóm từng nhóm sụp đổ trong hai mươi năm qua. Họ hoàn toàn im lặng và rất nhiều người đã nhận ra.
Nhưng họ cảm thấy rất tự tin và thoải mái khi nói với Hoa Kỳ cách điều hành công việc của mình khi Tổng thống Trump bắt đầu nhiệm vụ dọn dẹp của Augean sau thảm họa của đảng Dân chủ. Đối với Maduro, người tạo ra đói nghèo và đau khổ, không có ngón tay xương xẩu nào chỉ trích. Đối với Trump? Họ ném bồn rửa chén. Tiêu chuẩn kép đó, ít nhất là ... đáng chú ý.
Xin gửi Quý Vị thêm bài viết của PHẠM TÍN AN NINH để Quý Vị tiện tham khảo và thẩm định:
Với ngân sách hơn 40 tỷ Mỹ kim mỗi năm, cơ quan USAID tài trợ nhân đạo và phát triển tại hơn 120 quốc gia, trong đó có những nước nghèo nhất thế giới. Việc làm này thực là một xúc phạm vô nhân đạo đối với phẩm giá Chúa ban cho con người, tạo nên những đau khổ vô biên. Thiệt hại từ đó mà ra, đặc biệt đối với những người nghèo nhất, thực là thảm họa, đe dọa sự sống và phẩm giá của hàng triệu người”. Mỹ cung cấp khoảng 40% ngân sách viện trợ nhân đạo trên thế giới.
Caritas quốc tế qui tụ gần 200 Caritas quốc gia, trong đó có Việt Nam. Những ngày này, ông Dutton đang công tác tại Burkina Faso, bên Phi châu. Trả lời Đài Vatican qua điện thoại, ông lên án những hậu quả rất cụ thể do việc ngưng viện trợ, tạo nên một “Sự bấp bênh hoàn toàn đối với hệ thống nhân đạo trên thế giới. Có những con tàu chở các kiện đồ cứu trợ đến các cảng, nhưng chúng tôi không thể trả tiền phí tổn dỡ hàng và tồn kho, cũng như chuyên chở các phẩm vật đó cho dân chúng đang cần”. Ví dụ, tại miền Tây Phi, hơn sáu triệu người không nhận được thuốc men của họ. Cũng vậy, hơn 750.000 người đang bị đói ở Sudan hoặc những người tị nạn trong các trại ở Syria. “Khi người ta không thể cung cấp nước, không còn săn sóc các nhà vệ sinh trong các trại tị nạn ấy nữa, thì tình trạng sức khỏe trở nên nguy kịch ngay, khiến cho hàng triệu người bị thiệt mạng...
Những người cần được trợ giúp sẽ chịu đau khổ kinh khủng, nếu họ không chết ngay”.
Chính phủ của Tổng thống Donald Trump đã quyết định giảm các nhân viên hành chánh, và đã chọn giải pháp cắt viện trợ Mỹ cho hải ngoại. Từ thứ Bảy, ngày 08 tháng Hai vừa qua, tất cả các nhân viên của cơ quan USAID bị nghỉ việc hành chánh, và ngân quĩ bị cúp trong 90 ngày. Ngoại trưởng Mỹ, ông Marco Rubio, đã loan báo sự ngưng viện trợ này đi trước một sự thẩm định các chương trình.
Từ hơn 60 năm nay, cơ quan USAID là đối tác chủ yếu của Giáo hội Công giáo và Caritas. Đứng trước lỗ hổng tài chánh và nhân sự, cánh tay hoạt động của Caritas quốc tế đang đề ra các biện pháp. Trước tiên là thỉnh cầu chính phủ Mỹ xét lại quyết định này và “tái khẳng định dấn thân bênh vực lòng cảm thương và hòa bình bằng cách nâng đỡ những người dễ bị tổn thương nhất trên toàn thế giới”. Tiếp đến, Caritas quốc tế đã tăng cường các nỗ lực liên lạc với các Caritas quốc gia để chặn bớt những hậu quả do quyết định của Mỹ. Ngoài ra sẽ thu thập các thông tin để biết chính xác về những ảnh hưởng của quyết định Mỹ trên các chương trình nhân đạo và tiến đến một sự phối hợp tốt đẹp hơn giữa các cơ quan đối tác.
Hội nghị tập trung vào việc thúc đẩy đối thoại về các chủ đề như di chuyển của con người; đại kết và đối thoại liên tôn; cùng những bối cảnh thần học mới.
Hội nghị này là một phần trong nỗ lực của Mạng lưới nhằm đáp lại mong muốn của Đức Thánh Cha Phanxicô về việc tăng cường hợp tác giữa Bắc và Nam Mỹ. Theo trang web của tổ chức, đây là một mạng lưới “các nhà thần học Mỹ Latinh và ‘Latino’. Mạng lưới này muốn kết nối và thúc đẩy đối thoại giữa các nhà thần học trên khắp Châu Mỹ, để xây dựng một ‘Giáo hội tại Châu Mỹ’ đích thực”.
Sơ Liliana Franco, Chủ tịch Liên đoàn các Tu sĩ nam nữ Mỹ Latinh (CLAR), cho biết việc suy tư về các chủ đề của Hội nghị là cần thiết trong một thế giới “nơi có những ‘cơ cấu bóp nghẹt và cách thức hành xử chối bỏ con người’”. Sơ lên án rằng “sự thao túng ý thức hệ đang được thiết lập và quyền lực được sử dụng để kiểm soát và gán nhãn, để kỳ thị và loại trừ”. Sơ nhấn mạnh sự cần thiết để các nhà thần học thúc đẩy “một chọn lựa dành cho những người nghèo nhất, cho việc đấu tranh và lý tưởng của họ”, điều này đòi hỏi “đi sâu vào tận gốc rễ cấu trúc của nghèo đói và thúc đẩy những cơ hội thực sự cho sự phát triển toàn diện”.
Đức Hồng Y Leonardo Ulrich Steiner, OFM, Tổng Giám mục Manaus, Brazil, cho biết tính hiệp hành được thể hiện trong sứ mạng của Giáo hội, trong hoạt động truyền giáo của Giáo hội. Ngài nói rằng tiến trình hiệp hành chưa kết thúc, nhưng thay vào đó, các tín hữu được mời gọi “kiên trì và đào sâu cách thức hiệp hành này của Giáo hội”, với sự tham gia của tất cả mọi người, “lắng nghe những tiếng kêu dẫn đến thái độ ngôn sứ” với sự cởi mở đối thoại.
Trong số những người tham dự từ Vatican có Đức Hồng Y Michael Czerny, Tổng trưởng Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện. Khi nói về tình hình hiện tại của người di cư tại Hoa Kỳ, Đức Hồng Y cho biết, “Khi người ta bị hình sự hóa, Giáo hội không thể đầu hàng”. Ngài bày tỏ ưu tư về “những xu hướng đáng lo ngại trong khu vực nhằm hình sự hóa những người giúp đỡ người di cư, kể cả các tổ chức Công giáo”. Những xu hướng này, theo ngài, không thể khiến chúng ta “sợ hãi khi đồng hành với người di cư”. Ngài nhấn mạnh vai trò căn bản của Giáo hội trong việc kết hợp “ơn gọi mục vụ” của Người Samari nhân hậu với nhu cầu làm việc để chấm dứt những chính sách như vậy.
Trong khi đó, Bà Emilce Cuda, Thư ký Ủy ban Giáo hoàng về Châu Mỹ Latinh, kêu gọi “niềm hy vọng có tổ chức” trong các cộng đồng. Bà đề xuất đối thoại như một cách tiến về phía trước, dẫn đến việc xây dựng các chính sách bao dung, “đảm bảo cải thiện xã hội cho tất cả mọi người”.
Theo phúc trình của Bộ Nội vụ, năm ngoái (2024) đã giảm 10% các vụ hành hung, bạo hành chống các Kitô hữu, so với năm 2023 trước đó. Cụ thể là xảy ra 770 vụ. Tuy nhiên, các vụ đốt phá thánh đường, trộm cắp và làm thương tổn các nơi thờ phượng và nhà xứ gia tăng 30%. Năm ngoái, có gần 50 vụ thuộc loại này, so với 38 vụ trong năm 2023.
Từ năm 2023, cộng đoàn Do thái là nhóm tôn giáo bị tấn công nhiều nhất ở Pháp. Những vụ này chiếm 62% trong vụ tấn công tín hữu, 31% chống Kitô hữu và chỉ có 7% chống tín đồ Hồi giáo.
Những con số trên đây tính cả các lãnh thổ hải ngoại của Pháp như Nouvelle Calédonie.
Con số các vụ trộm cắp, năm ngoái tại Pháp có 288 vụ tức là tăng gần 10% với năm 2023.
Bộ trưởng Nội vụ Pháp hiện nay là ông Bruno Retailleau là một tín hữu Công giáo sùng đạo và đặc biệt quan tâm và dấn thân trong vấn đề này.
Đó là thánh đường được chọn để làm nhà thờ chính tòa của Giáo phận Mindat, mới được Đức Thánh cha Phanxico thiết lập hôm 25 tháng Giêng vừa qua, tách rời khỏi lãnh thổ Giáo phận Hakha.
Vùng Mindat, trong những tháng qua, là nơi xảy ra các cuộc giao tranh giữa quân đội chính quy Myanmar và Lực lượng Bảo vệ lãnh thổ Chin, gọi tắt là CDF. Lực lượng CDF này nảy sinh tại bang Chin để chống lại tập đoàn quân phiệt ở Myanmar. Sau nhiều tháng giao tranh, dân quân địa phương đã giành được quyền kiểm soát lãnh thổ và tuyên bố đó là vùng “đã được giải phóng”.
Nhà thờ chính tòa mới của Giáo phận Mindat bị trúng bom, ngày 06 tháng Hai vừa qua, nhưng nay mới được loan tin: thánh đường bị hư mái và các cửa kiếng và không thể sử dụng được nữa. Không có ai bị thương trong cuộc oanh kích này, vì các linh mục và giáo dân đã rời vùng này do tình trạng thiếu an ninh và vì những cuộc giao tranh diễn ra. Nhưng trong những ngày qua, các linh mục địa phương đã đến thám sát và thảo luận về việc tổ chức lễ tấn phong giám mục mới là Đức cha Augustine Thang Zawm Hung, cho đến nay là cha phó nhà thờ Thánh Tâm ở Mindad.
Vụ nhà thờ chính tòa bị oanh tạc hư hại làm cho các tín hữu địa phương ngỡ ngàng, nhưng họ không nản lòng và cố gắng sửa chữa mái nhà thờ cũng như tu bổ những phần bị hư hại, quét dọn những đống gạch vụn và cung thánh. Cha Paulinus ở địa phương nói: “Chúng tôi rất buồn vì nhà thờ của chúng tôi trúng bom. Đây là một vết thương trong tâm hồn chúng tôi, nhưng chúng tôi không để mình bị ngã gục, chúng tôi sẽ tái thiết. Chúng tôi chắc chắn rằng Chúa sẽ đổ ơn dồi dào và phúc lành của Ngài, để mang lại an bình và thịnh vượng cho chúng tôi”.
Giáo phận Mindat ở miền nam bang Chin và có khoảng 15.000 tín hữu Công giáo trên tổng số 360.000 dân cư, với đa số là Kitô hữu. Trong giáo phận có 23 giáo xứ, 48 linh mục giáo phận, 3 linh mục dòng và 21 nữ tu, 40 tiểu chủng sinh và 7 đại chủng sinh.
Phát biểu tại hai sự kiện ở Washington xung quanh Bữa Điểm tâm cầu nguyện quốc gia ngày thứ năm 6 tháng 2, Tổng thống Donald Trump cho biết ông muốn xóa bỏ “thành kiến phản kitô giáo” tại Hoa Kỳ và thành lập một lực lượng đặc nhiệm do Tổng chưởng lý Pam Bondi đứng đầu để điều tra “mục tiêu” của các tín hữu kitô. Ông sẽ chỉ đạo “ngay lập tức dừng mọi hình thức phân biệt đối xử chống tín hữu thiên chúa giáo trong chính quyền liên bang gồm Bộ Tư pháp, Sở Thuế vụ, Cục Điều tra Liên bang và các cơ quan khác”.
Tổng thống Trump cho biết Tổng Chưởng lý Bondi sẽ “truy tố tất cả hành vi bạo lực và phá hoại chống tín hữu kitô trong xã hội để bảo vệ quyền của tín hữu và các tôn giáo khác trên toàn quốc”.
Bình luận của Tổng thống được đưa ra sau khi ông dự Bữa Điểm tâm cầu nguyện quốc gia tại Điện Capitol, một truyền thống có từ 70 năm qua của Washington nhằm quy tụ một nhóm các nhà lập pháp lưỡng đảng để giao lưu, cho thấy mối quan hệ của ông với tôn giáo đã “thay đổi” sau vụ ám sát bất thành năm ngoái, ông kêu gọi người Mỹ “mang Chúa về lại” cuộc sống của họ.
Nhưng một giờ sau khi kêu gọi ”đoàn kết” ở Điện Capitol, ông đã có giọng điệu thiên vị hơn tại sự kiện thứ hai ở bên kia thị trấn, ông cho biết ngoài lực lượng đặc nhiệm, ông sẽ thành lập một ủy ban về quyền tự do tôn giáo, ông chỉ trích chính quyền Biden đã “bức hại” tín hữu vì truy tố những người chống phá thai.
Tổng thống Trump đã ăn mừng chiến thắng trước những nỗ lực trong nhiệm kỳ đầu nhằm bãi bỏ các chương trình đa dạng, công bằng và hòa nhập cũng như hạn chế sự tham gia của người chuyển giới vào các môn thể thao dành cho phụ nữ: “Tôi không biết quý vị có theo dõi không, nhưng hai tuần vừa qua chúng tôi đã loại bỏ ‘woke‘. Woke đã biến mất.”
Lực lượng đặc nhiệm mới của Trump đã bị Hiệp hội Tách rời Giáo hội và Nhà nước chỉ trích. Bà Rachel Laser, Chủ tịch kiêm giám đốc điều hành Hiệp hội cho biết “thay vì bảo vệ các tôn giáo, lực lượng đặc nhiệm này lợi dụng quyền tự do tôn giáo để biện minh cho sự cố chấp, phân biệt đối xử và phá hoại luật dân quyền của chúng ta”.
Phát biểu tại Điện Capitol, Tổng thống Trump cho rằng: “Người dân sẽ không hạnh phúc nếu không có tôn giáo, không có đức tin. Hãy đưa tôn giáo trở lại. Hãy đưa Chúa trở lại cuộc sống chúng ta.”
Năm 2023, Bữa Điểm tâm Cầu nguyện quốc gia chia thành hai sự kiện đấu tay đôi, một sự kiện ở Điện Capitol có sự tham dự của nhiều nhà lập pháp và quan chức chính phủ và một sự kiện riêng lớn hơn dành cho hàng ngàn người tại phòng khiêu vũ của khách sạn. Sự chia rẽ xảy ra khi các nhà lập pháp tìm cách tách họ khỏi nhóm tôn giáo tư nhân đã giám sát sự kiện trong nhiều thập kỷ, do những vấn đề về tổ chức của nhóm và cách thức tài trợ.
Ở cả hai địa điểm, Tổng thống Trump đã suy ngẫm về vụ viên đạn suýt làm ông thiệt mạng tại cuộc biểu tình ở Butler, Pennsylvania năm ngoái, ông nói với các nhà lập pháp và những người tham dự: “Một cái gì đó đã thay đổi trong tôi sau vụ này. Tôi tin vào Chúa, tôi cảm thấy mạnh mẽ hơn nhiều về điều này. Một điều gì đó đã xảy ra.” Phát biểu sau đó tại một bữa sáng cầu nguyện của một nhóm riêng tại một khách sạn được tài trợ, ông cho biết “chính Chúa đã cứu tôi”.
Ông đã làm cho mọi người bật cười tại sự kiện ở Điện Capitol khi ông biết ơn vì vụ này đã “không ảnh hưởng đến mái tóc của tôi”.
Tổng thống đảng Cộng hòa, người theo thiên chúa giáo phi giáo phái, ông cho rằng quyền tự do tôn giáo là “một phần trong nền tảng đời sống của người dân Mỹ” và xin mọi người tận tụy bảo vệ điều này.
Tổng thống Trump và chính quyền của ông đã xung đột với các nhà lãnh đạo tôn giáo, ông không đồng ý với bài giảng của nữ Mục sư Mariann Budde sau lễ nhậm chức của ông, bà kêu gọi có lòng thương xót với thành viên của cộng đồng LGBTQ+ và những người di cư đang ở bất hợp pháp trong nước.
Phó Tổng thống công giáo JD Vance đã tranh cãi với các nhà lãnh đạo cấp cao trong Giáo hội Hoa Kỳ về vấn đề nhập cư. Và nhiều giáo sĩ trên khắp đất nước lo ngại việc xóa tên các nhà thờ khỏi danh sách các khu vực nhạy cảm, cho phép các quan chức liên bang tiến hành các hành động nhập cư tại các địa điểm thờ phượng.
Tổng thống đã tạo tiếng vang tại bữa sáng cầu nguyện cuối cùng trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông. Năm đó, cuộc họp diễn ra sau khi Thượng viện tuyên bố ông trắng án trong phiên tòa luận tội đầu tiên.
Trong bài phát biểu, ông Trump đã chỉ trích không mấy tinh tế với Chủ tịch Hạ viện đảng Dân chủ lúc bấy giờ là Nancy Pelosi của California, người đã công khai nói rằng bà đã cầu nguyện cho ông Trump, và Thượng nghị sĩ Mitt Romney của Utah, người đã trích dẫn đức tin của mình trong quyết định bỏ phiếu kết tội ông Trump.
“Tôi không thích những người sử dụng đức tin của mình để biện minh cho việc làm của họ”, ông Trump đã nói trong bài phát biểu quanh co của ông, ông đưa ra hai tờ báo có tiêu đề giật gân về việc ông được tha bổng. Ông nói: “Tôi không thích những người nói rằng, ‘Tôi cầu nguyện cho bạn,’ khi họ biết điều đó không đúng.”
Tháng 2 năm 1953, Tổng thống Dwight D. Eisenhower là tổng thống đầu tiên dự bữa sáng cầu nguyện và kể từ đó các tổng thống đều đã phát biểu tại buổi họp mặt.
Thượng nghị sĩ Dân chủ Maggie Hassan của New Hampshire và Thượng nghị sĩ Cộng hòa Roger Marshall của Kansas là đồng chủ tịch danh dự bữa điểm tâm cầu nguyện năm nay.
Có một vài câu hỏi giúp chúng ta suy tư và cầu nguyện trong Chúa Nhật VII Thường Niên năm C nầy:
Lạy Chúa giàu lòng thương xót, Chúa ban phát tình yêu của Người cho tất cả, không phân biệt ai xứng đáng hay không. Chúa luôn tha thứ, luôn yêu thương, luôn mở rộng vòng tay. Xin giúp con biết mở lòng đón nhận ân sủng của Chúa, và xin cho con cũng biết trao ban tình yêu ấy cho mọi người, không trừ ai.
Ông nói: “Các cuộc xét nghiệm trong phòng thí nghiệm, chụp X-quang ở ngực và tình trạng lâm sàng của Đức Thánh cha tiếp tục cho thấy tình hình phức tạp. Sự nhiễm trùng đa vi khuẩn, phát sinh trong bối cảnh bệnh giãn phế quản và viêm phế quản hen suyễn, đòi phải sử dụng liệu pháp kháng sinh cortisone, khiến cho việc điều trị phức tạp hơn. Việc chụp cắt lớp vi tính (CT) ngực của Đức Thánh cha, chiều hôm 18 tháng Hai, theo quyết định của nhóm y tế Vatican và ban hữu trách Bệnh viện Gemelli cho thấy sự khởi phát bệnh viêm phổi ở cả hai bên, đòi phải tiếp tục điều trị bằng thuốc. Tuy nhiên, Đức Thánh cha vẫn có tâm trạng tốt. Sáng nay, ngài đã rước lễ và trong ngày, ngài nghỉ ngơi, cầu nguyện và đọc các văn bản. Ngài cám ơn vì sự gần gũi của nhiều người trong lúc này và với lòng biết ơn, Đức Thánh cha xin mọi người tiếp tục cầu nguyện cho ngài”.
Ông Bruni cho biết hàng trăm sứ điệp, kể cả những lá thư của các em bệnh nhân ung bướu ở khu vực cạnh căn hộ của Đức Thánh cha đã được gửi tới và cầu chúc ngài sớm bình phục. Các em cũng vẽ các hình để tặng ngài.
Hãng tin Ansa của Ý cho biết tim của Đức Thánh cha hoạt động rất tốt. Ngài không cần thêm dưỡng khí hoặc máy giúp thở. Đức Thánh cha cũng không tiếp khách đến thăm, ngoại trừ các cộng tác viên trực tiếp đến đệ trình ngài hồ sơ và tài liệu cần thiết.
Các xét nghiệm cận lâm sàng, chụp X-quang ngực và tình trạng lâm sàng của Đức Thánh Cha tiếp tục cho thấy một bệnh cảnh phức tạp.
Nhiễm trùng đa vi khuẩn xuất hiện trên nền giãn phế quản và viêm phế quản dạng hen, đòi hỏi phải sử dụng liệu pháp kháng sinh kết hợp cortisone, khiến việc điều trị trở nên phức tạp hơn.
Chiều nay, Đức Thánh Cha đã được chụp cắt lớp (CT) ngực theo chỉ định của đội ngũ y tế Vatican và các bác sĩ tại Bệnh viện Đa khoa Gemelli. Kết quả cho thấy sự khởi phát của bệnh viêm phổi hai bên, đòi hỏi phải áp dụng liệu pháp điều trị bằng thuốc tăng cường.
Tuy nhiên, Đức Thánh Cha Phanxicô vẫn có tinh thần tốt.
Sáng nay, ngài đã rước Mình Thánh Chúa và trong ngày, ngài xen kẽ thời gian nghỉ ngơi với cầu nguyện và đọc sách. Đức Thánh Cha cảm ơn về sự gần gũi mà ngài cảm nhận vào lúc này và xin mọi người tiếp tục cầu nguyện cho ngài.
Cập nhật điện tín lúc 8:12am sáng thứ Tư (19/2): Đức Thánh Cha trải qua một đêm an lành. Ngài thức dậy và dùng bữa sáng.
Thông cáo nói rằng “Tình trạng lâm sàng của Đức Thánh cha ổn định. Các cuộc xét nghiệm máu, theo thẩm định của nhóm bác sĩ, cho thấy có sự cải thiện nhẹ, đặc biệt là các chỉ số viêm nhiễm.
Sau khi dùng bữa sáng, Đức Thánh cha đọc vài tờ báo và dành thời giờ làm việc với các cộng sự viên thân cận nhất. Trước bữa trưa, Đức Thánh cha đã rước Mình Thánh Chúa. Ban chiều, Đức Thánh cha đã tiếp Thủ tướng Ý, bà Giorgia Meloni, và trao đổi trong vòng 20 phút”.
Phủ Thủ tướng Ý cho biết bà Meloni đã viếng thăm Đức Thánh cha từ lúc 3g10 đến 3g30, chiều thứ Tư vừa qua. Nhân danh chính phủ và cả nước Ý, bà cầu chúc Đức Thánh cha sớm bình phục. Bà nói: “Tôi rất hài lòng thấy Đức Thánh cha tỉnh táo và phản ứng nhanh. Chúng tôi vẫn nói đùa như thường lệ. Đức Thánh cha không mất đi khiếu hài hước đặc trưng của ngài”.
Những ngày này, ở khuôn viên Bệnh viện Gemelli, đặc biệt trước pho tượng thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II tại đây, nhiều tín hữu đã đến thắp nến và cầu nguyện cho Đức Thánh cha, và nhiều nơi khác trong Giáo hội, từ Philippines đến Trung Quốc, từ Bolivia, Argentina tới Ba Lan, nhiều nơi đã cầu nguyện cho sức khỏe của Đức Thánh cha. Tại Roma, Đức Hồng y Giám quản Baldissera Reina cũng xin các tín hữu dành một giờ chầu Mình Thánh trong thinh lặng trước thánh lễ để cầu cho vị Giám mục Giáo phận Roma.
Mặc dù thừa nhận rằng mối lo ngại về sức khỏe của Đức Thánh Cha Phanxicô là điều dễ hiểu, Đức Tổng Giám mục Vincenzo Paglia, chủ tịch Hàn lâm Viện Tòa Thánh về Sự sống, lên án những suy đoán về tình trạng sức khỏe nghiêm trọng của Đức Thánh Cha tạo nên bầu không khí “u ám”.
Phát biểu với ACI Prensa, Đức Tổng Giám mục Paglia nói rằng chúng ta “có quyền lo ngại” về sức khỏe của Đức Thánh Cha. Tuy nhiên, ngài chỉ ra rằng mối lo ngại này “phải được giữ trong giới hạn”, và ngài lấy làm tiếc rằng rất nhiều suy đoán về sức khỏe của Đức Thánh Cha đã tạo ra một “bầu không khí u ám”.
Ngài nói: “Tình hình chắc chắn là rất khó khăn và Đức Thánh Cha vẫn tiếp tục làm việc, thật không may, theo một góc độ nào đó”, và nhấn mạnh rằng Đức Thánh Cha “đang hồi phục và sẽ trở lại Vatican trong vài tuần nữa”.
Phòng Báo chí Tòa Thánh cập nhật hàng ngày về tình hình sức khỏe của Đức Thánh Cha. Những thông cáo mới nhất cho thấy tình trạng của ngài có tiến triển hơn.
Chủ tịch Hàn lâm viện Tòa Thánh về Sự sống cũng cho biết ngài vẫn tiếp tục cầu nguyện “để Đức Thánh Cha sớm có thể tiếp tục công việc của mình, điều này vô cùng có giá trị vào thời điểm như thế này. Tôi cho rằng điều đó gần như là không thể thiếu, xét đến tình hình thế giới phức tạp như thế nào và thiếu những viễn cảnh tích cực”.
Trong thông cáo sáng ngày 18 tháng Hai vừa qua, Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết buổi Tiếp kiến chung sáng thứ Tư, ngày 19 tháng Hai cũng như buổi Tiếp kiến Năm Thánh sáng thứ Bảy, ngày 22 tháng Hai sắp tới sẽ bị hủy bỏ. Còn thánh lễ lúc 9 sáng Chúa nhật, ngày 23 tháng Hai tới đây, theo chương trình đã định, lẽ ra Đức Thánh cha sẽ chủ sự, nhưng nay sẽ được Đức Tổng giám mục Rino Fisichella, Quyền Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin mừng, và là vị Đặc trách Năm Thánh 2025 hiện nay, sẽ chủ sự thay thế Đức Thánh cha.
Theo thông cáo y khoa, công bố hôm 17 tháng Hai, sau khi khám nghiệm sâu rộng, các bác sĩ thấy bệnh trạng của Đức Thánh cha phức tạp, bị nhiễm đa vi khuẩn ở phế quản, nên đã thay đổi các biện pháp trị liệu. Họ xin ngài nghỉ ngơi hoàn toàn và thời gian lưu lại bệnh viện cũng lâu dài hơn.
Đức Phanxicô bị viêm phổi, ngài ở bệnh viện Gemelli đã 6 ngày. Tình trạng sức khỏe của ngài đã là mối quan tâm của giáo dân và của tất cả những ai gắn bó với ngài. Một câu hỏi chính đáng được đặt ra: điều gì sẽ xảy ra nếu ngài không còn đủ năng lực để điều hành Giáo hội, chẳng hạn khi ngài bị hôn mê.
Theo tin tức hàng ngày của Vatican, ngài bị bệnh nhưng ngài luôn sáng suốt, ngài có thể điều hành Giáo hội. Giáo triều vẫn hoạt động bình thường. Vì thế hiện tại chưa có dấu hiệu nào cho thấy các Bộ trưởng của Vatican như Hồng y Pietro Parolin, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, các Bộ trưởng của các bộ khác không thể không gặp được ngài khi cần thiết.
Một điểm mờ hợp pháp
Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu sức khỏe của Đức Phanxicô ngày càng yếu và ngài không đủ khả năng đảm nhiệm sứ mệnh của ngài? Trong bài viết ngày 18 tháng 2 năm 2025, báo La Croix cho biết luật giáo luật không nêu rõ điều gì. Không có gì có thể “đổi mới” (điều 335) trong việc quản lý Giáo hội nếu ngai tòa bị “trống hoặc hoàn toàn bị cản trở”. Luật Giáo hội không nói gì thêm về những gì là “cản trở” cũng như các phương pháp cần có lúc đó.
Tuy nhiên, các biện pháp được quy định trong trường hợp “ngăn cản” của một giám mục giáo phận (điều 412), chẳng hạn như việc ủy quyền quản lý hàng ngày cho Giám mục tổng đại diện chẳng hạn. Báo La Croix cho biết, điều này không áp dụng cho Giám mục Giáo phận Rôma.
Nhưng trong trường hợp Giáo hoàng qua đời thì mọi chuyện trở nên rõ ràng hơn. Sau khi cái chết được Hồng y nhiếp chính xác nhận, một Hồng y được Giáo hoàng chỉ định (hiện nay là Hồng y Mỹ Kevin Farrell) phụ trách các vấn đề của Tòa Thánh lúc đó, trong khi các hồng y khác họp mật nghị để bầu người kế nhiệm.
Ngày 6 tháng 2 Đức Phanxicô đã gia hạn nhiệm kỳ Hồng y Ý Giovanni Battista Re (90 tuổi) là niên trưởng Hồng y đoàn. Do đó, Hồng y Re đóng vai trò trọng tâm trong các phiên họp chung trước mật nghị tương lai. Trong trường hợp có mật nghị, hồng y Quốc Vụ Khanh Pietro Parolin sẽ đảm nhận các chức vụ này.
Mỗi lần Đức Phanxicô cảm lạnh, tôi lo lắng. Khi ngài vào bệnh viện, tôi sợ. Tôi yêu Đức Phanxicô và hy vọng ngài có thể tiếp tục làm giáo hoàng lâu dài nhưng tôi biết tôi không thực tế. Tất cả chúng ta đều phải chết và những ai đã ngoài 80 thì không cần phải nhắc chuyện này với họ.
Không như cựu Tổng thống Joe Biden, ông cho thấy ông không đủ năng lực tinh thần cho công việc của ông trong những lần ông xuất hiện gần đây, Đức Phanxicô có đủ năng lực tinh thần cho công việc, nhưng ngài lại yếu về thể chất. Bất kỳ ai trong hoàn cảnh của ngài, đặc biệt là Giáo hoàng đều chuẩn bị cho điều không thể tránh khỏi.
Sau đây là ba điều ngài cần làm để chuẩn bị cho sự suy yếu và cái chết không thể tránh khỏi của ngài. Thành thật mà nói, tôi ước gì ngài đã làm những việc này rồi.
Trước hết, ngài cần các tài liệu công khai nói những việc cần làm nếu ngài mất khả năng hành động.
Giống như mọi người, ngài nên ký giấy ủy quyền chăm sóc sức khỏe trong trường hợp ngài mất khả năng và không thể tự đưa ra quyết định y tế cho mình. Ai cũng nên làm điều này, không chỉ riêng Giáo hoàng.
Không gì làm tan vỡ gia đình khi phải cãi nhau về cách chăm sóc cha mẹ đang hấp hối. Chúng ta không muốn Giáo hội tranh cãi về cách chăm sóc một Giáo hoàng đang suy yếu. Ngài cần chỉ định người ngài tin tưởng, viết di chúc rõ ràng ngài muốn được chăm sóc như thế nào khi hấp hối.
Và trong trường hợp bi quan nhất, chúng ta cần biết ai là người có thẩm quyền để ngăn Giáo hoàng dùng các biện pháp y tế nếu những biện pháp này không còn mang lại lợi ích gì.
Giáo hội cũng cần có các quy trình để ứng phó trong trường hợp Giáo hoàng bị chứng mất trí hoặc hôn mê. Hoa Kỳ có Tu chính án để giải quyết trường hợp Tổng thống không có khả năng thực hiện nhiệm vụ của mình. Giáo hội công giáo cần các thủ tục tương tự.
Có tin cho biết Đức Phanxicô có một tài liệu mật để giải quyết những tình huống bất ngờ như vậy, nhưng sự bí mật lại tạo suy đoán và đồn đoán. Bất kỳ tài liệu nào do một hồng y tại Vatican làm sau khi giáo hoàng bị bệnh hoặc suy yếu sẽ làm cho những người theo thuyết âm mưu vô cùng thích thú. Các luật lệ do một số ít người đề ra và chưa bao giờ được ban hành chính thức theo yêu cầu của giáo luật sẽ bị thách thức.
Ngoài ra, các tài liệu quan trọng này cần được các thần học gia và luật gia giáo luật xem xét để họ có thể đề xuất những cải tiến. Giáo hội cũng cần thì giờ để nghiên cứu và hiểu các tài liệu. Chúng ta không muốn mọi người tranh luận về ý nghĩa của các văn bản trong lúc khủng hoảng. Giáo hội cần có các văn bản công khai nêu rõ luật lệ và thủ tục để giải quyết những tình huống này.
Thứ hai, Giáo hoàng cần cải cách các cuộc họp của các hồng y diễn ra trước mật nghị bầu giáo hoàng.
Những cuộc họp này được gọi là “đại hội đồng” là dịp để các hồng y thảo luận về các vấn đề mà Giáo hội đang phải đối diện. Dù các hồng y dưới 80 tuổi mới được tham dự mật nghị nhưng tất cả hồng y đều có thể tham gia các cuộc họp chung này.
Hầu hết thời gian của các cuộc họp này đều dành cho việc các hồng y phát biểu. Tại hội đồng chung trước mật nghị các bài phát biểu được giới hạn trong bảy phút, nhưng hầu hết các hồng y đều vượt quá thời gian quy định. Với khoảng 250 hồng y hiện nay, gồm cả những vị trên 80 tuổi, thì thời gian dành cho các bài phát biểu là quá nhiều.
Thượng Hội đồng Giám mục gần đây đã chỉ ra cách tốt hơn để tiến hành các cuộc họp này. Tại Thượng hội đồng, “các cuộc đối thoại trong Thánh Thần” đã được tiến hành tại các bàn tròn gồm 10 người. Những bàn thảo này là giây phút cầu nguyện, lắng nghe và phân định, được các hồng y đánh giá cao. Một quá trình tương tự sẽ giúp họ chuẩn bị tốt hơn cho mật nghị thay vì một loạt các bài phát biểu nhàm chán. như thế sẽ giúp các hồng y, đặc biệt là các tân hồng y có thời gian làm quen nhau.
Ban Thư ký chung của Thượng Hội đồng nên được trao quyền để tạo điều kiện cho những cuộc thảo luận như vậy. Các cuộc thảo luận có thể kéo dài một tuần và tập trung vào ba chủ đề: tình hình thế giới, tình hình Giáo hội và những phẩm chất cần có ở Giáo hoàng tiếp theo.
Thứ ba, Giáo hoàng cần khôi phục lại các thủ tục bỏ phiếu truyền thống tại mật nghị.
Trong nhiều thế kỷ, trước thời Đức Gioan-Phaolô II, việc bầu giáo hoàng đòi hỏi phải có hai phần ba số phiếu hồng y, chủ ý khuyến khích sự đồng thuận thay vì nguyên tắc đa số, ngay cả khi điều này có nghĩa là phải tìm ra một ứng cử viên thỏa hiệp.
Đức Gioan-Phaolô II đã ra sắc lệnh mà không giải thích gì, Ngài quyết định rằng sau khoảng 30 lần bỏ phiếu, các hồng y có thể bầu giáo hoàng bằng số phiếu đa số. Một số người cho rằng ngài làm vậy để tránh mật nghị kéo dài, dù kể từ năm 1831, chưa có một mật nghị nào kéo dài hơn bốn ngày.
Trên thực tế, nó đã tạo tiền đề cho việc bầu Đức Bênêđíctô XVI. Khi nhận được đa số phiếu bầu, các hồng y biết có thể bầu theo các thủ tục mới nếu họ bỏ phiếu đủ số lần. Theo các thủ tục cũ, một phần ba cộng thêm một hồng y có thể ngăn chặn cuộc bầu cử và buộc phải thỏa hiệp. Theo thủ tục mới, không cần phải có hai phần ba số phiếu bầu, nhưng chỉ cần 30 vòng phiếu. Kết quả là nhóm thiểu số phản đối sẽ bỏ cuộc và bỏ phiếu cho ngài thay vì kéo dài điều không thể tránh khỏi.
Đức Bênêđíctô XVI lại thay đổi các thủ tục một lần nữa, theo đó thay vì bầu cử bằng đa số phiếu, các hồng y sẽ có vòng bầu cử thứ hai giữa hai ứng viên có số phiếu cao nhất. Ngài cũng yêu cầu ứng viên chiến thắng phải nhận được hai phần ba số phiếu bầu, như thế sẽ mở đường cho mật nghị trong trường hợp bế tắc vì không có ứng viên nào có được hai phần ba số phiếu cần thiết. Như thế sẽ là một thảm họa cho Giáo hội.
Cách bầu theo truyền thống bằng hai phần ba số phiếu tốt hơn các cách mới, khuyến khích việc bầu ra một ứng viên được đồng thuận thay vì chỉ bầu một ứng viên đại diện cho phe đa số. Như thế cho phép mật nghị bỏ phiếu cho các ứng viên khác nhau cho đến khi có một ứng viên nhận được hai phần ba số phiếu bầu.
Tôi yêu mến Đức Phanxicô vì ngài là Giáo hoàng mục vụ quan tâm đến người tị nạn, người di cư, người nghèo và môi trường. Nhưng ngài không phải là luật sư chuyên ngành giáo luật, nên những thay đổi mà tôi thúc đẩy không phải là ưu tiên của ngài. Có lẽ giải pháp tốt nhất là giao những chủ đề này cho một chuyên gia về giáo luật, chẳng hạn như Hồng y Gianfranco Ghirlanda, Hồng y có thể soạn thảo các đề xuất để thảo luận công khai trong Giáo hội.
Nếu may mắn, chúng ta có thể không phải đối diện với những vấn đề này trong tương lai gần, nhưng các thể chế không nên phụ thuộc vào may mắn.
Ông Kostas Mygdalis, cũng là cố vấn của Hội đồng liên nghị viện Chính thống giáo (IOA), nói rằng “Đã đến lúc phải đưa ra lời kêu gọi mạnh mẽ tới các Giáo hội để thống nhất ngày lễ Phục Sinh”. Ông nhấn mạnh rằng thông điệp chính phải là nhu cầu hiệp nhất trên thế giới: “Thế giới cần sự hiệp nhất. Một ngày chung cho lễ Phục Sinh là một bước tiến tới sự hiệp nhất này”.
Trong Công đồng chung đầu tiên được tổ chức tại Nixêa (ngày nay là Iznik, Thổ Nhĩ Kỳ), vào năm 325, Kitô giáo đã thiết lập cách tính ngày lễ Phục sinh. Tuy nhiên, qua nhiều thế kỷ, những thay đổi về lịch đã dẫn đến sự khác biệt giữa các Giáo hội Công giáo, Tin lành và Chính thống giáo. Trong khi Công giáo theo nghi lễ Latin theo lịch Grêgôriô, thì ở phương Đông, truyền thống tính ngày phụng vụ theo lịch Giulianô vẫn được duy trì.
Một điều thú vị là vào năm 2025, lễ Phục Sinh của các Giáo hội Đông phương và Tây phương đều trùng vào một ngày, ngày 20/4, do sự trùng hợp của lịch Giulianô và lịch Grêgôriô.
Sứ vụ hiệp nhất
Đối với ông Mygdalis, nỗ lực cùng nhau kỷ niệm sự phục sinh của Chúa Kitô phải là một phần của “cuộc hành hương hòa giải và hiệp nhất”, điều sẽ tiếp tục sau năm 2025. Ông nhấn mạnh rằng tầm quan trọng của Sự Phục sinh không chỉ mang tính thần học mà còn mang tính hiện sinh: “Nếu không có Sự Phục sinh, mọi đau khổ trên thế giới đều là vô lý”. Theo ông, việc cử hành lễ Phục Sinh vào một ngày chung không chỉ là cần thiết mà còn là “nhiệm vụ cho sự hiệp nhất được thiết lập bởi Công đồng Chung đầu tiên Nixêa, sự kiện mà năm nay chúng ta sẽ kỷ niệm 1.700 năm”.
Ông Mygdalis cho biết, “Thông qua sáng kiến ‘Pasqua Together 2025’, chúng tôi tìm cách yêu cầu các Giáo hội tuân thủ những gì đã được Công đồng Nixêa thiết lập: cùng nhau cử hành sự phục sinh của Chúa Kitô, trụ cột của đức tin Kitô giáo. Thật không thể chấp nhận được khi sự chia rẽ này tiếp diễn”.
Ngoài lễ Phục Sinh 2025, sáng kiến JC2033 cũng được đề cập, sáng kiến này đề xuất một hành trình đại kết hướng tới năm 2033, khi cử hành kỷ niệm 2.000 năm ngày Chúa Kitô phục sinh. Người ta cho rằng ngày lễ Phục sinh của Chính thống giáo và Công giáo trùng nhau vào năm 2025 có thể là bước đầu tiên hướng tới sự hiệp nhất lớn hơn nhân cử hành lịch sử này.
Trong thời đại dịch, tỷ lệ này đã giảm xuống còn 15% so với 24,4% trước khi bị phong tỏa từ tháng Ba năm 2020. Ông Mark Gray, Giám đốc trung tâm nghiên cứu CARA nói với trang mạng OSV của Công giáo ở Mỹ rằng “đó là một khuynh hướng chúng tôi đã nhận thấy từ ít lâu nay. Tỷ lệ người dự lễ cũng được xác nhận mới đây tại giáo phận Arlington và Virginia ở vùng thủ đô nước Mỹ. Từ lễ Giáng sinh năm ngoái, mọi sự trở lại mức độ bình thường. Số người dự lễ tiếp tục lên cao nhất vào những dịp lễ trọng, như Giáng sinh, Phục sinh và thứ Tư Lễ Tro. Mặc dù lễ này không phải là lễ buộc, nhưng theo truyền thống, vẫn thu hút số tín hữu đứng thứ ba sau hai lễ Giáng sinh và Phục sinh.
Trung tâm CARA cũng sử dụng kết quả cuộc thăm dò trên toàn quốc cũng như các dữ liệu của Google.
Tại Anh quốc, số người dự lễ Chúa nhật vẫn chưa đạt tới mức độ trước đại dịch, tuy có sự gia tăng. Thống kê về tình trạng này vẫn được công bố hằng năm và ngày 14 tháng Hai vừa qua, Anh quốc và miền Wales đã có số thống kê về vấn đề này.
Hội đồng Giám mục Anh quốc cho biết trong năm 2023 có 550.000 tín hữu tham dự đều đặn thánh lễ Chúa nhật, tức là tăng khoảng 50.000 so với năm 2022 trước đó. Tuy nhiên, vì không phải tất cả các giáo xứ đều báo cáo về số người dự lễ, nên con số thực sự có thể phần nào cao hơn.
Ông Stephen Bullivant, thuộc Đại học St. Mary ở Luân Đôn, coi đà tiến triển này với sự hy vọng dè dặt. Ông nói đến những dấu chỉ gia tăng trong một số lãnh vực của Giáo hội, kể cả số người dự lễ gia tăng vào dịp lễ Phục sinh, số người lớn xin rửa tội cũng tăng, và các cộng đồng Công giáo sinh động nơi những người nhập cư. Tuy nhiên, mức độ trung bình các tín hữu dự lễ Chúa nhật ở Anh, miền Wales và Ecosse hồi năm 2019 vẫn vào khoảng 829.000 người, so với 550.000 người dự lễ hiện nay.
Một nghiên cứu hồi năm ngoái (2024) cho thấy những xì căng đan trong Giáo hội Công giáo đã làm rúng động sự tín nhiệm của nhiều tín hữu. Một phần ba các tín hữu dự lễ cho biết họ giảm bớt việc dự lễ vì những tin tức liên quan đến những vụ lạm dụng tính dục. Tuy nhiên, ông Bullivan bác bỏ những lời tiên báo, theo đó Giáo hội Công giáo tại Anh quốc sẽ biến mất. Ông nói: “Những tin đồn nói rằng Giáo hội suy thoái trong vòng bốn thập niên tới đây thực là điều thái quá. Dầu sao con đường tiến tới sự thịnh vượng mới vẫn còn dài.”
Tại vùng Anh và xứ Wales, thống kê mới nhất do Đại học St. Mary ở Twickenham, có từ năm 2014, cho thấy có ba triệu 800.000 người lớn xưng mình là tín hữu Công giáo, tương đương với khoảng 8,3% dân số. Nếu chúng ta lấy con số này làm căn bản, thì tỷ lệ tín hữu Công giáo tham dự lễ Chúa nhật ở miền này là 14,6%.
Tuyên bố với Đài Vatican, cha Schöpf cho biết chín dự án của Dịch vụ do cha điều khiển tại nhiều nước, với kinh phí 18 triệu Mỹ kim bị thương tổn vì quyết định của Tổng thống Trump. Ông muốn tiết kiệm 40 tỷ Mỹ kim nhờ sự cắt giảm viện trợ nhân đạo. Ảnh hưởng nhiều nhất của quyết định này liên quan tới các cơ sở giáo dục và các chương trình trợ giúp những người bị chấn thương. Ví dụ, tại Irak, công việc trợ giúp các nạn nhân vụ diệt chủng đã đột ngột phải dừng lại.
Không những dịch vụ Dòng Tên trợ giúp người tị nạn bị thương tổn, nhưng cả Cao Ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc và các tổ chức khác nhận viện trợ của Mỹ cũng bị ảnh hưởng. Các nhu cầu gia tăng, nhưng phương tiện để đáp ứng không có.
Theo cha Schöpf, diễn biến như thế không phải chỉ là một cuộc khủng hoảng nhân đạo, nhưng còn là một khúc ngoặt về chính trị địa lý. “Viện trợ trong tương lai càng lệ thuộc hơn vào lợi ích của nước Mỹ”. Các đồng nghiệp của cha ở Washington gọi trật tự mới này như một sự đổi chác: ai không có gì để cống hiến, thì không được gì. “Vấn đề quan trọng cơ bản là: phẩm giá con người giữ vai trò gì trong trật tự mới này?” Vì những người tị nạn không thể cống hiến điều gì nên sứ điệp tiềm ẩn ở đây là: “Tôi đáng giá hơn bạn”: Ai không thể đóng góp gì phục vụ cho lợi ích riêng, thì không có giá trị gì”.
Cơ quan viện trợ Mỹ USAID là tổ chức trợ giúp phát triển lớn nhất, với 10.000 nhân viên và quản lý một ngân sách hơn 60 tỷ Euro mỗi năm. Sự trợ giúp của cơ quan này chiếm 40% ngân sách tổng số các hoạt động trợ giúp phát triển tại hơn 100 quốc gia, trong đó có cả những nhà thương dành cho phụ nữ tại Afghanistan, hoặc chiến dịch chích ngừa chống Virus Ebola ở Phi châu.
Đức Tổng giám mục đã viếng thăm các cộng đoàn Công giáo Ucraina Đông phương tại hai thành phố vừa nói, cùng với Baltimore gần Washington, chủ sự các thánh lễ và cầu nguyện cho hòa bình cũng như thuyết trình. Ngoài ra, Đức Tổng giám mục Trưởng cũng gặp gỡ các đại diện của chính phủ Mỹ.
Cuối tuần vừa qua, ngày 16 và 17 tháng Hai, Đức Tổng giám mục đã chủ sự thánh lễ tại nhà thờ chính tòa của Công giáo Ucraina tại Philadelphia, và cùng với Đức Tổng giám mục sở tại, Nelson Perez, ngài chủ sự một buổi cầu nguyện đại kết cho hòa bình, tại nhà thờ Chính tòa thánh Phêrô và Phaolô của Công giáo Latinh.
Trong dịp này, Đức Tổng giám mục Shevchuk cám ơn các tín hữu Công giáo Mỹ vì đã cầu nguyện, hỗ trợ và liên đới với Ucraina trong chiến tranh, đồng thời nói rằng: “Thiên Chúa luôn đứng về phía những người vô tội”. Ucraina cho đến nay đứng vững vì đã đoàn kết với nhau, chiến đấu và cầu nguyện. Hàng triệu người trên thế giới hỗ trợ Ucraina và cùng cầu nguyện cho Ucraina. Sự ác, gian dối và chết chóc không bao giờ có tiếng nói cuối cùng. Đức Tổng giám mục Trưởng nhấn mạnh thêm rằng: “Chúng tôi mong muốn hòa bình. Mỗi người Ucraina đều mong ước hòa bình, mong những đêm khuya không có những cuộc không kích, ban sáng không có những vụ nổ, không có chết chóc, và ban đêm không có lo âu”.
Tuy nhiên, Đức Tổng giám mục Shevchuk cảnh giác rằng một cuộc đình chiến mà thôi thì không mang lại hòa bình. Một cuộc đình chiến để cho dân Ucraina đau khổ dưới sự chiếm đóng là một sự chế giễu tàn ác. Không thể có hòa bình nếu không có công lý.
Trong buổi cầu nguyện đại kết cho hòa bình, Đức Tổng giám mục Perez của
Giáo phận Philadelphia cũng quả quyết rằng hòa bình không phải chỉ là vắng bóng chiến tranh: “Bất kỳ hòa bình tương lai nào đều phải bao gồm công lý để phá tan chấn thương đã gây ra cho Ucraina và đảm bảo sự tôn trọng các biên giới lịch sử”.
Thứ Ba, ngày 19 tháng Hai vừa qua, Đức Tổng giám mục Shevchuk đã thuyết trình tại Đại học Công giáo Hoa Kỳ ở thủ đô Washington. Ngài mô tả nguyên nhân chính của chiến tranh là vì những tham vọng tân đế quốc của Nga, được nuôi dưỡng bằng ý thức hệ “Thế giới Nga”, chủ trương bành trướng nước Nga, đặc biệt là bành trướng bằng quân sự.
Đức Tổng giám mục Shevchuk cũng xác quyết rằng những ai tin rằng nguyên nhân chính của chiến tranh Nga Ucraina là vì sự bành trướng của khối NATO thì họ theo lập luận và tuyên truyền của Nga. NATO không hiện hữu vào thời Nga bành trướng trong các thế kỷ trước đây, và cũng không phải vào thời kỳ chế độ Xô Viết kinh hoàng chống Ucraina, với tột đỉnh là biến cố Holodomor, nạn đói khủng khiếp mà Nga gây ra cho Ucraina khiến cho hàng triệu người chết trong thập niên 1930.
Trong cuộc viếng thăm tại Baltimore, Đức Tổng giám mục Shevchuk cũng là khách của Đức Tổng giám mục William Lori sở tại, Phó Chủ tịch Hội đồng Giám mục Mỹ. Đức cha đã cam đoan rằng hàng Giám mục Mỹ tiếp tục nâng đỡ và liên đới với Ucraina.
Một buổi cầu nguyện khác cho hòa bình đã diễn ra tại nhà thờ chính tòa Thánh Gia của Công giáo Ucraina ở thủ đô Washington.
Hiện nay, Tổng thống Mỹ Donald Trump và Tổng thống Ucraina Zelensky đang đụng độ lớn với nhau qua những lời phê bình chỉ trích mạnh mẽ, đồng thời Mỹ trực tiếp nói chuyện với Nga và coi như bỏ rơi Ucraina.
Đức Hồng y Tổng Giám mục của Tokyo kêu gọi sự thẩm định cẩn thận trong những thay đổi chính sách đột ngột, đặc biệt là khi chúng ảnh hưởng đến hàng triệu người trên khắp thế giới, cũng như cần quan tâm đến món quà quý giá của Chúa - phẩm giá con người.
Trong khi nói rằng việc đóng cửa cơ quan viện trợ phát triển quốc tế của Mỹ (USAID) có thể là một động thái nhằm khắc phục tình trạng tham nhũng có thể xảy ra trong hệ thống vì lợi ích của người dân, Đức Hồng y nói thêm: “Chúng tôi muốn tin tưởng và hy vọng rằng quyết định do chính phủ Hoa Kỳ hiện tại đưa ra cũng dựa trên ý định phục vụ tốt hơn cho người dân của mình”. Ngài kêu gọi chính quyền Hoa Kỳ ít nhất hãy tôn trọng các cam kết đã đưa ra “vì chúng là một phần của các kế hoạch và hoạt động dài hạn”.
Ảnh hưởng đến các tổ chức từ thiện
Các cơ quan Công giáo và các tổ chức Kitô giáo khác đã giúp nuôi sống hàng triệu người đói bị ảnh hưởng bởi nạn đói và chiến tranh và đã tái định cư những người tị nạn. Đức Hồng y Kikuchi lưu ý rằng phần lớn tiền của USAID đã được dùng để chống lại HIV và AIDS.
Các chuyên gia viện trợ của Hoa Kỳ lo ngại rằng các khoản cắt giảm sẽ đe dọa đến sự tồn tại của các tổ chức từ thiện. Tờ báo The Tablet đưa tin, Dịch vụ cứu trợ Công giáo (CRS) đã nhận được 64 phần trăm trong số gần 1,5 tỷ đô la tiền quỹ của tổ chức từ chính phủ vào năm 2022.
Kêu gọi sự hỗ trợ lẫn nhau
Trong khi đồng ý rằng nên giảm thiểu sự phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài và các quốc gia Nam bán cầu phải tự lực về tài trợ và quản lý hoạt động của mình, Đức Hồng y Kikuchi đã kêu gọi sự hỗ trợ quốc tế lẫn nhau trong bối cảnh hiện tại.
Trong một cuộc họp trực tuyến ngày 13/2/2025, hơn 100 thành viên của Caritas quốc tế đã tập trung để thảo luận về tình hình hiện tại. Đức Hồng y Kikuchi lưu ý: “Có vẻ như không ai biết chính xác điều gì sẽ xảy ra”, khi chỉ ra tình hình ảm đạm mà các tổ chức bác ái phải đối mặt do sự cắt giảm tài trợ.
Đức cha Thiệu Chúc Mẫn năm nay 61 tuổi, thụ phong giám mục năm 2011, do Tòa Thánh bổ nhiệm, nhưng không được Nhà nước Trung Quốc nhìn nhận, và ngài không gia nhập Hội Công giáo yêu nước. Đức cha được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám mục phó Giáo phận Ôn Châu và điều này có nghĩa là đương nhiên kế nhiệm Đức cha Vinh Sơn Chu Duy Phương (Zhu Wei Fang), qua đời năm 2016.
Vì không được Nhà nước nhìn nhận nên trong những năm qua, Đức cha Thiệu Chúc Mẫn liên tục bị công an bắt đi mất tích một thời gian để cấm cản ngài khỏi tiếp xúc và cử hành thánh lễ cho các tín hữu.
Gần đây, ngày 27 tháng Mười Hai năm ngoái, 2024, Đức cha đã cử hành thánh lễ Giáng sinh với sự tham dự của 200 tín hữu tại huyện Long Loan (Longwan). Do việc làm này, ngài đã bị nhà nước phạt 200.000 đồng Nguyên. Ngoài ra, một cơ quan khác của nhà nước ở Ôn Châu đã ra lệnh phá hủy ngôi nhà nơi Đức cha cư ngụ và đã làm lễ, về tội xây dựng không có phép. Nhà này có mặt bằng 200 mét vuông.
Hãng Asia News nhận định rằng đây là những biện pháp mới của nhà nước để chế tài Đức cha Thiệu Chúc Mẫn. Ngoài ra, cũng trong dịp lễ Giáng sinh năm vừa qua, Đức cha đã công bố thư mục tử mời gọi các tín hữu sống hiệp thông với Giáo hội hoàn vũ: cụ thể là mỗi giáo xứ tổ chức cuộc gặp gỡ để học hỏi Tông sắc của Đức Thánh cha Phanxicô về Năm Thánh, đọc kinh Năm Thánh sau mỗi thánh lễ. Ngài cũng chỉ định mỗi nhà thờ trong giáo phận như nơi để hành hương Năm Thánh. Thư của Đức cha có đoạn viết: “Tôi hy vọng Năm Thánh này có thể củng cố đức tin của chúng ta, kích thích niềm hy vọng và làm cho chúng ta tăng trưởng trong đức bác ái. Vì niềm hy vọng nảy sinh từ tình yêu và hy vọng không làm thất vọng” (Rm 5,5).
Những lời trên đây không thể chấp nhận được, nếu trước đó không trải qua sự kiểm soát nghiêm ngặt của Nhà nước.
Theo cảnh sát, đây là vụ phục kích giết người thứ tư xảy ra trong thời gian ngắn tại cùng một địa điểm.
Trên khắp Burkina Faso, bạo lực đã leo thang trong một thời gian, một phần cũng do sự hiện diện của nhiều nhóm thánh chiến chiến đấu với nhau để giành quyền kiểm soát lãnh thổ. Điều này cũng đã khiến cho khoảng hai triệu người phải di dời.
Đặc biệt, ngài thu hút sự chú ý đến hoàn cảnh khó khăn của các cộng đồng Kitô hữu, “một phần không thể thiếu và cốt yếu của lịch sử và văn hóa của khu vực trong nhiều thế kỷ”, hiện đang “đấu tranh để duy trì sự hiện diện liên tục lịch sử của họ tại quê hương”. Về vấn đề này, ngài cảnh báo rằng “mất đi” những cộng đồng này sẽ đồng nghĩa với “sự mất mát bi thảm không chỉ đối với Syria mà còn đối với sự ổn định của khu vực và thế giới”.
Kêu gọi cung cấp hỗ trợ nhân đạo, thúc đẩy hòa giải
Thay mặt cho các giám mục của Liên minh châu Âu, Đức Cha Crociata cũng kêu gọi thiết kế các chiến lược để cung cấp hỗ trợ nhân đạo và phục hồi kinh tế, thông qua việc “nới lỏng dần các lệnh trừng phạt của Liên minh Châu Âu và tạo ra một khuôn khổ cho phép các tổ chức tư nhân tham gia với các biện pháp bảo vệ phù hợp”.
Ngài cũng kêu gọi thúc đẩy “quyền công dân bình đẳng”, bao gồm các cộng đồng thiểu số trong quá trình lập hiến và các nỗ lực tái thiết, cũng như thúc đẩy đối thoại, “hòa giải và chữa lành”, tránh trả thù và thực hiện “khuôn khổ pháp lý cho công lý chuyển tiếp”. Ngài cũng kêu gọi thúc đẩy đối thoại để “chữa lành những chia rẽ xã hội”.
Cam kết của Giáo hội trong việc hỗ trợ người tị nạn Syria
Về vấn đề này, các Giám mục của Liên minh Châu Âu tái khẳng định cam kết của Giáo hội Công giáo trong việc hỗ trợ người tị nạn Syria và những người phải di dời, nhấn mạnh nhu cầu “nỗ lực tạo ra các điều kiện cho phép người tị nạn và gia đình họ trở về nhà một cách an toàn và tự nguyện”.
Các ngài cũng nhấn mạnh “vai trò quan trọng của các tác nhân tôn giáo trong nước, ủng hộ quá trình chuyển đổi hòa bình và thúc đẩy khả năng phục hồi lâu dài”.
Theo hãng tin Fides, ngài đã bị tấn công dã man và bị chém nhiều nhát. Cách thức tàn bạo của vụ ám sát khiến người ta nghĩ đến một cuộc tấn công có chủ đích, với động cơ vẫn đang được điều tra, cũng như danh tính của những kẻ sát nhân vẫn chưa được xác định – điều này sẽ không dễ dàng trong bối cảnh bạo lực lan tràn, khi các cuộc đụng độ giữa lực lượng dân quân phe đối lập và quân đội Myanmar đang diễn ra ác liệt.
Tin tức này đã gây chấn động và nỗi buồn sâu sắc trong cộng đồng địa phương. Các tín hữu đã tích cực tìm hiểu nguyên nhân vụ ám sát và danh tính của những kẻ giết người. Khu vực Sagaing, ở phía Bắc Myanmar, là một trong những nơi thường xuyên xảy ra các cuộc giao tranh và đụng độ giữa Lực lượng Phòng vệ Nhân dân và quân đội Myanmar.
Cha Donald Martin, 44 tuổi, đã được thụ phong linh mục vào năm 2018. Trong thời gian chiến tranh dân sự, ngài đã nhiệt thành, với đức tin và sự vâng phục, thực hiện sứ vụ mục tử của mình, ban các bí tích trong giáo xứ và cố gắng ở bên cạnh cộng đồng đang đau khổ. Ngoài ra, như nhiều linh mục khác, ngài cũng dấn thân vào công tác cứu trợ nhân đạo cho những người di tản khắp nơi trong vùng, mang đến cho họ sự an ủi thiêng liêng và hỗ trợ vật chất.
Hơn 5.000 người đã tham dự thánh lễ an táng vị linh mục do Đức Tổng giám mục Marco Tin Win chủ sự, tại nhà thờ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời. Trong thánh lễ, Đức cha đã đọc điện văn chia buồn của Tòa Sứ thần Tòa Thánh, cũng như của Hội đồng Giám mục Myanmar. Trong bài giảng, Đức Tổng giám mục mời gọi các tín hữu hãy tỉnh thức, vì bạo lực chỉ mang lại chết chóc và tàn phá, và luôn luôn là một thất bại. Ngài cũng tha thiết kêu gọi tất cả các nhóm võ trang và những người khác can dự cuộc xung đột, hãy từ bỏ khí giới và tiến theo con đường hòa bình và hoà giải.
Cộng đoàn địa phương đã yêu cầu được biết những nguyên do của vụ sát hại cha Donald, một linh mục tận tụy giúp đỡ tha nhân, tổ chức các lớp học cho các trẻ em trong giáo xứ Đức Mẹ Lộ Đức, nơi cha làm cha sở đầu tiên và có khoảng 40 gia đình Công giáo. Vì nội chiến tại nước này, và các cuộc tản cư, các trường học đóng cửa, không có giáo viên, nên chỉ có những lớp học không chính thức do các linh mục, tu sĩ và giáo lý viên tìm cách giúp đỡ các trẻ em và người trẻ học hành.
Vùng này cũng không có quân đội chính phủ và do Lực lượng Bảo vệ dân chúng (PDF) kiểm soát. Lực lượng này chiến đấu chống lại nhà nước quân phiệt của Myanmar.
Lực lượng Bảo vệ dân chúng được yêu cầu điều tra về các nhóm võ trang đã sát hại cha Donald và đã bắt giữ khoảng 10 người ở làng Gyi Taw, nơi cha bị giết.
Ngày hôm đó, nữ tu Margron có vẻ mệt mỏi. Nữ tu nói tránh: “Vì đây là mùa virus lây lan.” Nhưng những ai biết nữ tu thì biết, không phải chỉ vì đợt cảm lạnh mùa thu mới làm sơ mệt mỏi, da nhăn nheo mặt mày ủ rũ như vậy. Nữ tu công nhận: “Đúng vậy, tôi vừa bị đòn.” Sơ mặc áo len đỏ, quần nhung, ngồi thoải mái trên chiếc ghế dài xanh lá cây trong văn phòng của sơ. Kể từ giữa những năm 2010, không cân đong đo đếm, sơ cống hiến hết mình cho Giáo hội. Sơ chống bạo lực tình dục trong Giáo hội, sơ xin tôn trọng các nạn nhân. Hàng trăm người đến văn phòng sơ ở quận 15 Paris, cách Montparnasse không xa để kể cho sơ nghe những bí mật nặng nề khủng khiếp. Sơ nói: “Đó là cuộc sống của tôi, tôi chấp nhận.” Với sơ, những cuộc gặp này là những khoảnh khắc hiếm hoi thấm nhuần tính nhân văn: “Tất cả những người đến gặp tôi là những người tốt lành, những người thành công trong việc xây dựng cuộc sống, nhưng họ bị xáo động vì các kinh nghiệm tiêu cực. Nếu có một câu để diễn tả những việc này, thì đó là câu ”những chuyện chưa từng nghe thấy”.
Tháng 5 năm 2023, A. đến gõ cửa nhà sơ. A là nạn nhân của Abbé Pierre, bên ngoài vòng giới hạn của phong trào Ê-mau.
Sau khi nghe A. kể chuyện, sơ cảnh báo với người đứng đầu Trung tâm Ê-mau. Năm 2023 sơ tổ chức cuộc họp với Trung tâm. Phải mất nhiều tháng và theo yêu cầu của các nạn nhân, Trung tâm Ê-mau mới ra lệnh điều tra và cuối cùng công bố kết quả. Tháng 9, khi A. còn tránh báo chí, sơ đã trả lời các câu hỏi, trình bày trên Truyền hình bạo lực tình dục đã tàn phá cuộc sống và tâm hồn các nạn nhân như thế nào, họ đã khó khăn như thế nào để phá vỡ im lặng của xiềng xích, đặc biệt là khi liên quan đến một biểu tượng nặng ký như Abbé Pierre. Sức mạnh của nhà thần học là nghệ thuật ngôn từ, lối hùng biện không bao giờ đơn giản, khả năng đồng cảm. Nhà xã hội học Céline Béraud, chuyên gia về công giáo nói về sơ: “Véronique Margron là hiện thân của khuôn mặt trang nghiêm của Giáo hội Công giáo. Các nạn nhân của bạo lực tình dục sẽ đến với sơ khi họ cần liên hệ với tổ chức này.” Chân dung của quyển sách Trong một thế giới công giáo vẫn còn rất trọng nam (Dans un monde catholique encore très machiste), việc sơ xuất hiện trên các phương tiện truyền thông làm cho họ rất khó chịu. Lòng trắc ẩn của sơ đã tạo uy tín vượt lên những nhỏ nhen. Với các nạn nhân, chẳng có nhiều cánh cửa để gõ. Nhà báo Natalia Trouiller, người tố cáo các vụ lạm dụng ở giáo phận Lyon khẳng định: “Nếu Véronique Margron không ở đó, sẽ không có gì thay đổi. Với chức vụ của sơ, sơ có thể nói chuyện bình đẳng với các giám mục.” Năm 2016, khi vụ Preynat-Barbarin nổ ra, ngòi nổ cho cuộc khủng hoảng bạo lực tình dục trong Giáo hội công giáo Pháp, sơ làm Chủ tịch Hội đồng Tu sĩ nam nữ Pháp (Corref), các giáo đoàn và dòng tu Công giáo ở Pháp. Nhiệm vụ của sơ nặng nề và áp đặt. Năm 2018, khi tổ chức ngày càng lún sâu vào một khủng hoảng bất tận, sơ đã xin các Margron đã xin Giám mục thành lập một phái đoàn điều tra, Ủy ban Độc lập về Lạm dụng Tình dục trong Giáo hội (Ciase) do ông Jean-Marc Sauvé chủ trì. Ngày 5 tháng 10 năm 2021, khi nạp báo cáo Ciase, gần như rơi nước mắt, sơ nói: “Giáo hội đã tạo ra một dân tộc có cuộc sống tan vỡ.” Ngày hôm đó, sơ đau buồn cho số phận tan vỡ của 330.000 nạn nhân (con số được các nhà nghiên cứu Ciase ước tính), giữ kín nỗi đau của sơ: mẹ sơ vừa qua đời và tang lễ cử hành vài ngày sau đó.
Kín đáo, “Véro”, tên thân mật của sơ, hiếm khi chia sẻ tâm tình, gia đình sơ chỉ còn vài người đếm trên đầu ngón tay: “Ông bà, mẹ và người anh”, ông bà thuộc thế hệ xưa, rất nghiêm khắc.
Sơ sinh ngày 13 tháng 12 năm 1957 tại Dakar. 1980 vào Dòng Đa Minh ở Orléans. Năm 2007 Khoa trưởng khoa Thần học tại Angers.
Sinh cuối những năm 1950 khi mẹ làm ở trường Đại học, sơ không nhớ gì về cha, người cha nhanh chóng biến mất khỏi mái ấm gia đình. Một bí ẩn, một cái bóng. Sơ về Pháp vào đầu những năm 1960 khi phi thực dân hóa: “Anh tôi và tôi chưa bao giờ dám hỏi mẹ tôi chuyện gì đã xảy ra”.
Sơ không sinh trong gia đình công giáo sốt sắng nên sơ có một tự do khi làm việc. Sơ có cuộc sống cấp tiến, kết quả của những lần đi tĩnh tâm ở Tu viện Biển Đức Morvan, sr thấy các tu sĩ có cuộc sống nội tâm phong phú. Sơ gần Cộng đồng Nữ tu Đa Minh ở Orléans và cuối cùng sơ quyết định vào Dòng, sơ cho biết: “Họ là những phụ nữ sôi nổi và đầy nhiệt huyết.” Sơ cho biết sơ đã từng “yêu” nhưng đó là trước đây. Trong suốt quá trình của sơ, sơ nổi bật với tính điềm tĩnh, rất lắng nghe và chia sẻ các tổn thương của người khác. Sơ là nhà giáo đầu tiên bảo vệ tư pháp cho giới trẻ trước khi bước vào đời sống tu trì. Và sau đó là một nhà thần học, một chuyên gia về đạo đức. Sơ giải thích: “Chúng ta không thể tạo thần học kiểu này mà không lắng nghe những đau khổ cụ thể và những câu hỏi mà xã hội đặt ra.” Sống ở Paris, sơ đọc báo Libération mỗi ngày trong một thời gian dài vì mối quan hệ của sơ với những rạn nứt của thế giới. Trong 15 năm qua, sơ đảm nhận nhiều trách nhiệm, khoa trưởng Khoa thần học, đầu tiên ở Angers, Chủ tịch Hội đồng Tu sĩ Pháp.
Sơ là một trong những nhân vật lớn của Công giáo Pháp. Nhiều giám mục nễ sợ. Vatican cũng dè chừng với sơ vì sơ đấu tranh triệt để chống lạm dụng tình dục. Nhưng tại Vatican sơ cũng được ca ngợi vì khả năng quản lý các hồ sơ phức tạp và đau đớn của các Dòng lâu đời bây giờ phải đóng cửa. Sơ có rất nhiều kẻ thù là cánh tay phải của Chúa. Với sự nhạy bén về chính trị, sơ vượt qua được các cạm bẫy, không bao giờ đối đầu trực diện với đối thủ. Sơ nhận xét về cam kết của các cơ quan công quyền trong cuộc chiến chống bạo lực tình dục, đặc biệt với trẻ vị thành niên: “Nó chưa đúng tiêu chuẩn.” Cũng như nhiều người khác, sơ lo ngại về việc quay trở lại cách quản lý không đúng các vấn đề này trong Giáo hội. Dù bối cảnh ảm đạm xung quanh, dù còn bóng tối, sơ vẫn duy trì hy vọng bất chấp sóng gió và thủy triều, sơ nói: “Tôi tin vào con người.”
Sứ điệp được Phòng Báo chí Tòa Thánh công bố, qua đó Đức Thánh cha viết: “Trong Mùa chay này, được phong phú nhờ ơn Năm Thánh, tôi muốn cống hiến cho anh chị em vài suy tư về ý nghĩa của đồng hành trong hy vọng và khám phá những lời kêu gọi hoán cải mà lòng thương xót của Chúa gửi đến tất cả chúng ta, cá nhân cũng như cộng đoàn”.
Trước tiên là Tiến đi. Chủ đề của Năm Thánh là “Những người lữ hành hy vọng” làm cho chúng ta nghĩ đến hành trình dài của dân Israel tiến về Đất Hứa, được thuật lại trong sách Xuất hành: hành trình khó khăn từ nô lệ đến tự do, được Thiên Chúa yêu thương và hướng dẫn. Chúa yêu thương dân và luôn trung tín với họ. Nhưng chúng ta không thể nhắc đến của cuộc xuất hành trong Kinh thánh mà không nghĩ đến bao nhiêu anh chị em chúng ta ngày nay đang trốn chạy những tình trạng lầm than và bạo lực và họ đi tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn cho bản thân và những người thân yêu của mình. Từ đây, nảy sinh lời kêu gọi trước tiên hãy hoán cải, vì tất cả chúng ta là những người lữ hành trong cuộc sống. Nhưng mỗi người có thể tự hỏi: tôi có thực sự tiến bước hay là bị tê liệt, bất động, vì sợ hãi hay thiếu hy vọng, hoặc thoải mái trong cái vùng tiện nghi của tôi? Tôi có tìm kiếm những hành trình giải thoát khỏi những tình trạng tội lỗi và thiếu phẩm giá hay không? Thật là một sự tập luyện tốt trong Mùa chay, bằng cách đối chiếu bản thân với thực tại cụ thể của vài người di dân hoặc lữ hành, và để họ giúp chúng ta can dự, có thể khám phá thấy Chúa muốn yêu cầu chúng ta điều gì hầu trở thành những người lữ hành tốt đẹp hơn tiến về nhà Cha. Đây là một sự cứu xét tốt đối với người lữ hành”.
Tiếp đến, trong sứ điệp, Đức Thánh cha nhắc nhở các tín hữu hãy đồng hành, cùng tiến bước với nhau, vì đây là ơn gọi của Giáo hội. Tín hữu Kitô được kêu gọi cùng tiến hành với nhau, không bao giờ như những người du hành đơn độc. Chúa Thánh Linh thúc đẩy chúng ta hãy ra khỏi bản thân để đi đến Thiên Chúa và hướng về các anh chị em, và không bao giờ khép kín vào mình (3). Đồng hành với nhau có nghĩa là xây dựng hiệp nhất, đi từ phẩm giá chung của mọi con cái Thiên Chúa (Xc Gl 3,26-28); là tiến bước cạnh nhau, không chà đạp hoặc lấn át người khác, không đố kỵ hoặc giả hình, không để ai bị lùi lại đằng sau hoặc cảm thấy bị loại trừ. Chúng ta hãy đi theo cùng chiều hướng, về cùng một mục đích, lắng nghe nhau trong yêu thương và kiên nhẫn”.
Đức Thánh cha mời gọi các tín hữu hãy xét mình theo chiều hướng vừa nói trong Mùa chay sắp tới: “Chúng ta có khả năng cùng tiến bước với những người khác, lắng nghe, vượt thắng cám dỗ khư khư trong thái độ tự tham chiếu và chỉ chú ý đến các nhu cầu của mình. Chúng ta hãy tự hỏi trước Chúa xem chúng ta có khả năng làm việc chung trong tư cách là giám mục, linh mục, người thánh hiến và giáo dân. Khi phục vụ Nước Thiên Chúa, chúng ta có thái độ hiếu khách, với những cử chỉ cụ thể đối với những người đến gần chúng ta và cả những người ở xa nữa hay không?”
Và sau hết, Đức Thánh cha viết tiếp: Chúng ta cùng thực hiện hành trình trong niềm hy vọng vào một lời hứa. Ước gì niềm hy vọng không làm thất vọng (Xc Rm 5,5), sứ điệp nòng cốt của Năm Thánh, là một chân trời đối với chúng ta trong hành trình Mùa chay tiến về chiến thắng phục sinh...
Với ý tưởng chỉ đạo này, Đức Thánh cha mời gọi các tín hữu hãy tự hỏi: “Tôi có xác tín Thiên Chúa tha thứ các tội lỗi của tôi hay không, hay là tôi cư xử như thể mình có thể tự cứu thoát? Tôi có khao khát ơn cứu độ và khẩn cầu ơn phù trợ của Thiên Chúa để đón nhận ơn cứu độ hay không? Tôi có sống niềm hy vọng cụ thể, giúp tôi đọc các biến cố lịch sử và thúc đẩy tôi dấn thân cho công lý, tình huynh đệ, chăm sóc căn nhà chung, làm sao để không ai bị lùi lại đằng sau hay không?”
Anh chị em thân mến!
Với nghi thức sám hối xức tro trên đầu, chúng ta bắt đầu cuộc hành hương thường niên của Mùa Chay Thánh, trong đức tin và đức cậy. Giáo hội, là mẹ và là thầy, mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn và mở lòng đón nhận ân sủng của Thiên Chúa để có thể hân hoan cử hành chiến thắng phục sinh của Chúa Kitô trên tội lỗi và sự chết, như Thánh Phaolô đã thốt lên: "Tử thần đã bị chôn vùi. Đây giờ chiến thắng! Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi (1Cr 15,54-55). Thật vậy, Chúa Giêsu Kitô, đã chịu đóng đinh và sống lại, là trung tâm đức tin của chúng ta và là bảo đảm cho niềm hy vọng của chúng ta vào lời hứa trọng đại của Chúa Cha, lời hứa đã được thực hiện nơi Con yêu dấu của Người: sự sống đời đời (x. Ga 10,28; 17,3)[1].
Trong Mùa Chay này, khi chúng ta cùng nhau chia sẻ ân sủng của Năm Thánh, tôi muốn chia sẻ với anh chị em một số suy tư về ý nghĩa của việc cùng nhau bước đi trong hy vọng và khám phá lời kêu gọi hoán cải mà Thiên Chúa, với lòng thương xót của Người, dành cho tất cả chúng ta, như là những cá nhân và cộng đoàn.
Trước hết là bước đi. Khẩu hiệu của Năm Thánh, “Những người hành hương hy vọng”, gợi nhớ đến cuộc hành trình dài của dân Israel hướng về Đất Hứa, được thuật lại trong sách Xuất Hành: cuộc hành trình khó khăn từ tình trạng nô lệ đến tự do, được mong muốn và hướng dẫn bởi Đức Chúa, Đấng yêu thương dân Người và luôn trung thành với họ. Và chúng ta không thể nhắc đến cuộc xuất hành trong Kinh Thánh mà không nghĩ đến nhiều anh chị em ngày nay đang chạy trốn khỏi những tình cảnh nghèo đói và bạo lực để tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn cho bản thân và những người thân yêu của họ. Lời kêu gọi hoán cải đầu tiên xuất phát từ thực tế là tất cả chúng ta đều là những người hành hương trong cuộc sống; mỗi người được mời gọi dừng lại và tự hỏi cuộc sống của chúng ta phản ánh sự thật này như thế nào? Tôi có thực sự đang bước đi hay đang bị tê liệt, trì trệ, sợ hãi và tuyệt vọng, hoặc ngần ngại bước ra khỏi vùng an toàn của mình? Tôi có đang tìm những cách giải thoát bản thân khỏi những tình huống tội lỗi và hạ thấp phẩm giá của tôi không? Sẽ là một bài tập Mùa Chay tốt cho chúng ta khi so sánh cuộc sống hàng ngày của mình với cuộc sống của một người di cư hoặc người nước ngoài, để học cách đồng cảm với những trải nghiệm của họ và bằng cách này khám phá ra điều Thiên Chúa đang yêu cầu chúng ta để chúng ta có thể tiến triển tốt hơn trên hành trình về nhà Cha. Đây sẽ là một “cuộc xét mình” tốt cho tất cả chúng ta, những người lữ hành.
Điểm thứ hai, chúng ta hãy cùng nhau hành trình. Cùng nhau bước đi, hiệp hành, chính là ơn gọi của Giáo hội[2]. Các Kitô hữu được kêu gọi cùng nhau bước đi, chứ không phải như những lữ khách đơn độc. Chúa Thánh Thần thúc đẩy chúng ta ra khỏi chính mình để hướng về Thiên Chúa và anh chị em mình, và đừng bao giờ khép kín mình lại[3]. Bước đi cùng nhau có nghĩa là củng cố sự hiệp nhất được đặt nền trên phẩm giá chung của con cái Thiên Chúa (x. Gl 3,26-28); nghĩa là bước đi bên cạnh nhau, không chà đạp hay lấn át người khác, không đố kỵ hay giả tạo, không để ai bị bỏ lại phía sau hay cảm thấy bị loại trừ. Chúng ta hãy cùng đi về một hướng, hướng tới cùng một mục tiêu, quan tâm đến người khác bằng tình yêu thương và sự kiên nhẫn.
Trong Mùa Chay này, Thiên Chúa yêu cầu chúng ta kiểm chứng xem trong cuộc sống của chúng ta, trong gia đình, tại nơi làm việc, trong giáo xứ hay cộng đoàn tu trì, chúng ta có khả năng đồng hành với người khác, lắng nghe, vượt qua cám dỗ thu mình vào sự tự tham chiếu và chỉ quan tâm đến nhu cầu của riêng mình hay không. Chúng ta hãy tự hỏi trước Chúa xem, liệu chúng ta, với tư cách là các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân phục vụ Vương quốc Thiên Chúa, có thể cùng làm việc với nhau hay không. Liệu chúng ta có thái độ chào đón, bằng những cử chỉ cụ thể, những người đến gần chúng ta và những người ở xa chúng ta không. Liệu chúng ta có làm cho mọi người cảm thấy họ là một phần của cộng đồng hay để họ ở bên lề[4]. Đây là lời kêu gọi hoán cải thứ hai: hoán cải hiệp hành.
Điểm thứ ba là chúng ta cùng nhau thực hiện hành trình này trong hy vọng, bởi vì chúng ta được ban một lời hứa. Ước gì hy vọng không làm chúng ta thất vọng (x. Rm 5,5), sứ điệp trung tâm của Năm Thánh[5], trở thành điểm quy chiếu cho hành trình Mùa Chay của chúng ta hướng đến chiến thắng Phục Sinh. Như Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI đã dạy chúng ta trong Thông điệp Spe Salvi, “con người cần tình yêu vô điều kiện. Con người cần sự chắc chắn khiến họ phải nói: 'Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta' (Rm 8, 38-39)[6]. Chúa Giêsu, tình yêu và hy vọng của chúng ta, đã phục sinh[7]. Người đang sống và hiển trị trong vinh quang. Sự chết đã được biến đổi thành chiến thắng và đức tin cùng hy vọng lớn lao của người Kitô hữu đặt vào điều này: sự phục sinh của Chúa Kitô!
Và đây là lời kêu gọi hoán cải thứ ba: đó là lời kêu gọi hy vọng, tin tưởng vào Thiên Chúa và vào lời hứa vĩ đại của Người về sự sống vĩnh cửu. Chúng ta phải tự hỏi: Tôi có tin chắc rằng Thiên Chúa tha thứ tội lỗi của tôi không? Hay tôi hành động như thể tôi có thể tự cứu mình? Tôi có khao khát ơn cứu độ và cầu xin sự trợ giúp của Thiên Chúa để đón nhận ơn cứu độ không? Tôi có sống cụ thể niềm hy vọng giúp tôi diễn giải các sự kiện trong lịch sử và thúc đẩy tôi dấn thân thực hiện công lý, tình huynh đệ, chăm sóc ngôi nhà chung, và theo cách mà không ai bị bỏ lại phía sau không?
Thưa anh chị em, nhờ tình yêu của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô, chúng ta được nâng đỡ trong niềm hy vọng không làm chúng ta thất vọng (x. Rm 5,5). Hy vọng là “mỏ neo chắc chắn và kiên định của tâm hồn”[8]. Hy vọng thúc đẩy Giáo hội cầu nguyện cho "tất cả mọi người được cứu độ" (1 Tm 2,4) và chờ đợi để được hưởng vinh quang thiên đàng cùng với Chúa Kitô, Phu Quân của mình. Đây là lời cầu nguyện của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu: “Hãy hy vọng, linh hồn tôi ơi, hãy hy vọng. Bạn không biết ngày nào hay giờ nào. Hãy thật tỉnh thức, bởi vì mọi thứ trôi qua trong chớp mắt, mặc dù sự thiếu kiên nhẫn của bạn có thể khiến điều chắc chắn trở nên không chắc chắn, và khiến một thời gian rất ngắn trở nên thật dài" (Lời than thở của tâm hồn với Thiên Chúa, 15, 3)[9].
Xin Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Hy Vọng, chuyển cầu cho chúng ta và đồng hành cùng chúng ta trên hành trình Mùa Chay.
Roma, Đền thờ thánh Gioan Laterano, ngày 6 tháng 2 năm 2025,
lễ nhớ Thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo.
PHANXICÔ
[1] X. Tông thư Dilexit nos (24/10/2024), 220.
[2] X. Bài giảng Thánh lễ tuyên phong hai Chân phước Giovanni Battista Scalabrini e Artemide Zatti, 09/10/2022.
[3] X. Ibid.
[4] X. Ibid.
[5] X. Tông sắc Spes non confundit, 1.
[6] Tông thư Spe salvi (30/11/2007), 26.
[7] X. Ca tiếp liên Chúa Nhật Phục Sinh.
[8] X. Giáo lý Giáo hội Công giáo, 1820.
[9] Ivi, 1821.
Những ngày qua, Đức đương kim Giáo Hoàng Francis sống trong tình trạng sức khỏe suy kiệt vì tuổi già, Vietcatholic News cho chúng ta một cái nhìn tổng quan về các sự việc sẽ tiến hành khi một vị Giáo Hoàng qua đời.
Qua các sự kiện này, ta có thể thấy Quyền Lực Mềm trong Nền Quản Trị Giáo Quyền Vatican được rút tỉa từ Quyền Lực Mềm và Nền Quản Trị Công Quyền của Đế Quốc Rôma và sau này, từ thế kỷ 16-18 các Quốc Phụ Hoa Kỳ đã đem áp dụng để xây dựng Nền Cộng Hòa Pháp Trị cho 13 tiểu bang đầu tiên và cho Liên Bang Hoa Kỳ vào năm 1776.
Phiếu Đại Cử Tri, Đặt tay trên Kinh Thánh khi tuyên thệ, Slogan: One Nation Under God, In God We Trust là những điều cốt lõi chúng ta thường nghe và thấy chính là những cốt lõi được các quốc phụ Hoa Kỳ sử dụng làm Quyền Lực Mềm cho Hoa Kỳ tiếp nối những kỳ tích lịch sử của nền Văn Minh Kitô Giáo.
Khi Một Vị Giáo Hoàng Qua Đời
Những Nghi Lễ Đậm Nét Lịch Sử & Huyền Thoại
Đền Thánh Phêrô tại trung tâm Thành Quốc Vatican
https://www.youtube.com/watch?v=ALzPbCb-kDw
Tuyên bố về cái chết của một vị Giáo Hoàng
Theo truyền thống, công việc của Đức Hồng Y Nhiếp chính hay Camerlengo là xác nhận cái chết của một giáo hoàng. Hiện nay, vị trí đó do Hồng y Kevin Farrell, người Ireland nắm giữ.
Đức Hồng Y Nhiếp chính sẽ đến thăm thi thể của Đức Giáo hoàng trong nhà nguyện riêng của ngài và gọi tục danh của ngài ba lần để đánh thức ngài dậy. Trong trường hợp của Đức đương kim Giáo Hoàng, tục danh của ngài là Jorge Mario Bergoglio, còn danh xưng Đức Giáo hoàng Francis được gọi là regnal name hay tên giáo hoàng. Ngày nay, đây chủ yếu là một nghi lễ vì các bác sĩ sẽ xác nhận cái chết của Giáo Hoàng thông qua các phương tiện y tế tiêu chuẩn hơn.
Một huyền thoại thường được nhắc đi nhắc lại, như trong cuốn phim Conclave cho rằng Đức Hồng Y Nhiếp chính cũng nhẹ nhàng gõ vào đầu vị Giáo Hoàng bằng một chiếc búa bạc. Tuy nhiên, đó chỉ là huyền thoại mà Vatican từ lâu đã phủ nhận.
Cảnh gõ vào trán được chiếu trong cuốn phim Conclave lộ rõ sự bất kính và là chuyện hoang đường thêu dệt ra, không phải là thật. Khi Đức Giáo Hoàng không trả lời sau ba tiếng gọi của Đức Hồng Y Nhiếp chính, theo truyền thống, vị Hồng Y sẽ tháo chiếc nhẫn trên tay của Đức Giáo Hoàng, chiếc nhẫn đóng vai trò là con dấu cho các văn bản chính thức của ngài. Chiếc nhẫn ấy được gọi là nhẫn ngư phủ. Đức Hồng Y Nhiếp chính sẽ dùng chiếc búa bạc đập nát chiếc nhẫn ngư phủ để báo hiệu sự kết thúc triều đại của vị Giáo Hoàng, và nơi ở của Giáo Hoàng sẽ bị niêm phong. Sau đó, Đức Hồng Y Nhiếp chính sẽ chính thức thông báo cho Hồng Y Đoàn rằng vị Giáo Hoàng đã qua đời trước khi cái chết của ngài được công bố với thế giới trong một tuyên bố của Vatican với giới truyền thông.
Bắt đầu từ giờ phút đó, tất cả các vị đứng đầu các cơ quan trung ương Tòa Thánh bị mất chức, trừ ra vị Hồng Y Nhiếp Chính. Việc cai quản Giáo Hội từ lúc đó do Hồng Y Đoàn chịu trách nhiệm, mặc dù không có quyết định quan trọng nào có thể được đưa ra cho đến khi một Giáo Hoàng mới được bầu.
Cái chết của Giáo Hoàng sẽ dẫn đến chín ngày Lễ Tang, được gọi là novendiale. Ban đầu, đây là một phong tục của người Roma cổ đại, và Ý cũng thường tuyên bố một thời gian quốc tang.
Thi hài của ngài sẽ được làm phép, mặc lễ phục của Giáo Hoàng và được trưng bày tại Đền thờ Thánh Phêrô để công chúng chiêm ngưỡng. Hàng trăm ngàn người sẽ xếp hàng để tỏ lòng thành kính, bao gồm cả các chức sắc nước ngoài và các nhà lãnh đạo thế giới.
Trước đây, thi hài của Giáo Hoàng được trưng bày trên một bệ cao gọi là catafalque. Tuy nhiên, Đức Thánh Cha Francisco đã bày tỏ ý muốn có một tang lễ giản lược. Do đó, trong trường hợp của Đức Thánh Cha Francisco, có lẽ người ta sẽ thấy Ngài nằm trong một chiếc quan tài mở mà không có nhiều nghi lễ và sự phô trương.
Theo truyền thống, các giáo hoàng thường được ướp xác, và một số vị còn cho phép lấy nội tạng trước khi chôn cất. Một nhà thờ gần đài phun nước Trevi ở Rome lưu giữ trái tim của hơn 20 giáo hoàng trong các bình đựng bằng đá cẩm thạch được bảo quản như thánh tích. Tuy nhiên, những tập tục này hiện không còn được ưa chuộng nữa.
Trong thời gian chín ngày Lễ Tang, các buổi cầu nguyện hàng ngày và thánh lễ cầu hồn sẽ được tổ chức tại Đền thờ Thánh Phêrô và trên khắp thế giới Công giáo. Trong khi đó, Vatican sẽ bước vào thời kỳ chuyển tiếp gọi là Sede Vacante, có nghĩa là “trống tòa”, trong thời gian đó quyền cai trị Giáo Hội tạm được trao lại cho Hồng Y Đoàn, mặc dù không có quyết định quan trọng nào có thể được đưa ra cho đến khi một Giáo Hoàng mới được bầu.
Theo Tông Hiến Universi Dominici Gregis, nghĩa là “Đoàn chiên phổ quát của Chúa”, do Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố ngày 22 tháng 2 năm 1996, tang lễ của một vị Giáo Hoàng phải diễn ra trong vòng từ bốn đến sáu ngày sau khi ngài qua đời. Lễ tang của các vị Giáo Hoàng thường được tổ chức tại Quảng trường Thánh Phêrô với những người đưa tang tập trung tại Vatican để tham dự buổi lễ. Buổi lễ sẽ do Niên trưởng Hồng Y Đoàn chủ sự. Hiện nay, Niên trưởng Hồng Y Đoàn là Đức Hồng Y Giovanni Battista, 91 tuổi, người Ý.
Theo truyền thống, vị Giáo Hoàng sau đó được chôn cất tại Vatican Grottoes, tức là các hầm mộ bên dưới Đền thờ Thánh Phêrô. Gần 100 vị Giáo Hoàng đã được chôn cất tại đây, bao gồm cả Đức Giáo Hoàng Benedict XVI, người tiền nhiệm của Đức Thánh Cha Francis. Tuy nhiên, Đức Thánh Cha Francis đã nói trong một cuộc phỏng vấn năm 2023 rằng ngài đã chọn Đền thờ Đức Bà Cả ở Roma – một trong những nhà thờ yêu thích và thường xuyên lui tới nhất của ngài – làm nơi an nghỉ cuối cùng của mình, khiến ngài trở thành Giáo Hoàng đầu tiên trong một thế kỷ được chôn cất bên ngoài Vatican.
Các Giáo Hoàng trước đây thường được chôn cất trong ba chiếc quan tài: một chiếc làm bằng gỗ bách, một chiếc làm bằng kẽm và một chiếc làm bằng gỗ du, xếp chồng vào nhau. Tuy nhiên, Đức Francisco đã ra lệnh chôn cất ngài trong một chiếc quan tài duy nhất làm bằng gỗ và kẽm. Khi Đức Benedicto XVI được chôn cất, quan tài của ngài cũng chứa những đồng tiền đúc trong thời gian trị vì của ngài, cũng như một ống kim loại bao quanh một cuộn giấy cuộn tròn được gọi là rogito – một tài liệu dài 1000 từ kể lại cuộc đời và triều đại của ngài. Đức Thánh Cha Francisco có thể sẽ được chôn cất cùng với rogito của riêng mình, mô tả chi tiết về triều đại giáo hoàng độc đáo của ngài.
Trước cơ mật viện, một Đại Hội Đồng diễn ra trong những ngày trước cơ mật viện trong đó tất cả các Hồng y đều được tự do tham gia. Các ngài thảo luận về thời điểm cơ mật viện bắt đầu và lắng nghe các Hồng y can thiệp về nhiều vấn đề khác nhau chẳng hạn như nhu cầu hiện tại của Giáo hội, tình hình của giáo triều và công việc của giáo triều, cải thiện giáo triều và mối quan hệ của Giáo hội với thế giới, v.v.
Niên trưởng Hồng y Đoàn là người chủ trì thông thường của các cuộc họp này, và ngài phải bảo đảm rằng mỗi Hồng Y sẽ đặt tay lên Phúc Âm và tuyên thệ trung thành với các quy tắc của cơ mật viện. Các Hồng y tuyên thệ sẽ duy trì bí mật nghiêm ngặt đối với mọi vấn đề liên quan đến cuộc bầu cử Giáo hoàng Roma hoặc những vấn đề mà theo bản chất của chúng, trong thời gian Tòa Thánh trống ngôi, đòi hỏi phải giữ bí mật tương tự.
Các cuộc họp cụ thể cũng diễn ra, chỉ bao gồm các Hồng y cử tri, trong đó Đức Hồng Y Nhiếp chính dẫn đầu các cuộc thảo luận và quyết định về các vấn đề nhỏ hơn. Vào ngày đầu tiên của cơ mật viện, các Hồng y cử tri tập trung tại Đền thờ Thánh Phêrô để cử hành Thánh lễ "Pro Eligendo Pontifice", nghĩa là để bầu Giáo hoàng. Năm 2005, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, với tư cách là Niên trưởng Hồng y Đoàn, đã giảng lễ trong Thánh lễ này, sử dụng cụm từ "chế độ độc tài của chủ nghĩa tương đối", sau đó đã trở nên nổi tiếng và được nhìn nhận là có tính tiên tri. Khi Đức Bênêđictô XVI thoái vị, chính Đức Hồng Y Sodano đã giảng lễ trước một Ngoại giao đoàn đông đảo trong một Thánh lễ bao gồm các ngôn ngữ Latinh, Ý, Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Đức, Swahili và Mã Lai.
Sau đó, vào cùng ngày đầu tiên đó, các Hồng y cử tri tiến đến nhà nguyện Paulin bên trong Vatican và cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến để hỗ trợ cho quá trình bầu cử của các ngài. Các vị Hồng Y cũng nghe một lời khuyên ngắn gọn từ một nhà thuyết giáo. Từ đó, cùng với âm nhạc, các ngài tiến đến nhà nguyện Sistina. Sau đó, các Hồng y cùng nhau tuyên thệ, một phần trong đó có đoạn:
"Chúng tôi hứa và thề sẽ hết lòng trung thành và với tất cả mọi người, giáo sĩ hay giáo dân, giữ bí mật về mọi điều liên quan đến cuộc bầu cử Giáo hoàng Roma và về những gì xảy ra tại nơi diễn ra cuộc bầu cử, trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến kết quả bỏ phiếu. Chúng tôi hứa và thề sẽ không tiết lộ bí mật này theo bất kỳ cách nào, trong hoặc sau cuộc bầu cử Giáo hoàng mới, trừ khi được Giáo hoàng đó cho phép rõ ràng, và không bao giờ hỗ trợ hoặc ưu ái cho bất kỳ sự can thiệp, phản đối hoặc bất kỳ hình thức can thiệp nào khác, theo đó các chính quyền thế tục ở bất kỳ cấp bậc và cấp độ nào hoặc bất kỳ nhóm người hay cá nhân nào muốn can thiệp vào cuộc bầu cử Giáo hoàng Roma."
Sau đó, mỗi người đặt tay lên sách Phúc Âm và tuyên thệ.
Các Hồng y cử tri phải tránh mọi tiếp xúc với thế giới bên ngoài trong suốt cuộc bầu cử: không trao đổi tin nhắn, không báo chí, không radio, không TV. Năm 2013, ngay trước khi từ chức, Đức Bênêđictô XVI đã đưa ra hình phạt vạ tuyệt thông tự động tiền kết đối với bất kỳ ai vi phạm chuẩn mực bảo mật này.
Một bài giảng khác được đưa ra, và cuộc bỏ phiếu bắt đầu. Trưởng nghi phụng vụ của Giáo triều Roma, một viên chức tổ chức các nghi lễ tôn giáo của Giáo hoàng trong nhiệm kỳ của ngài, hiện nay là Đức Tổng Giám mục Diego Ravelli, sau đó hô to "Extra omnes!" – tiếng Latinh có nghĩa là "Tất cả ra ngoài!" – mọi người trừ các Hồng y đều rời khỏi phòng, và cuộc bỏ phiếu có thể bắt đầu.
Quá trình này cực kỳ bí mật, các Hồng y có thể bị vạ tuyệt thông nếu họ tiết lộ thông tin. Các chuyên gia công nghệ thông tin phối hợp với Hiến binh Vatican quét sạch các thiết bị nghe lén trước và sau cơ mật viện.
Thông thường, cuộc bỏ phiếu đầu tiên chỉ mang tính nghi lễ, một cách để các vị Hồng y tôn vinh các thành viên nổi bật của Hồng y Đoàn – những người mặc dù nổi bật nhưng không được coi là "papabile" (ứng viên sáng giá cho Giáo hoàng). Từ thời điểm đó trở đi, cuộc bỏ phiếu được lên lịch là hai phiên một ngày, với hai vòng bỏ phiếu mỗi phiên, tổng cộng bốn vòng mỗi ngày.
Mỗi Hồng y viết lựa chọn của mình trên một tờ giấy có khắc dòng chữ tiếng Latin: "Tôi bầu làm Giáo hoàng tối cao..." Họ lần lượt tiến đến bàn thờ và nói:
"Tôi xin Chúa, Đấng sẽ phán xét tôi, làm chứng rằng phiếu bầu của tôi dành cho người mà trước mặt Chúa, tôi nghĩ rằng nên được bầu."
Người được đề cử là bất cứ người nam Công giáo nào đã được chịu phép rửa tội. Về nguyên tắc, có thể là bất cứ ai, không nhất thiết phải nằm trong Hồng y Đoàn. Tuy nhiên, trong thực tế, các Hồng y cử tri chỉ chọn trong số các Hồng y cử tri có mặt trong nhà nguyện.
Lá phiếu đã gấp được đặt trên một chiếc đĩa tròn và trượt vào một chiếc bình bạc vàng hình bầu dục. Sau đó, vị Hồng y đặt lá phiếu vào đúng hộp đựng, cúi chào bàn thờ và trở về chỗ của mình. Sau khi các lá phiếu đã được bỏ vào hộp đựng, chúng được trộn lẫn và sau đó đếm to. Nếu số phiếu không bằng số cử tri có mặt, các lá phiếu sẽ bị đốt. Nếu số phiếu chính xác, các lá phiếu sẽ được lấy ra riêng lẻ, được hai Hồng y ghi chú và sau đó được Hồng y thứ ba công bố bằng giọng to và rõ ràng.
Các Hồng y có thể ghi lại những chi tiết, thí dụ như ai được bầu bao nhiêu phiếu, trên một tờ giấy được cung cấp. Nhưng tờ giấy này phải được nộp lại để đốt sau khi kết thúc cuộc bỏ phiếu.
Sau đó, những người kiểm phiếu sẽ cộng tổng số phiếu và ghi kết quả vào một tờ giấy riêng, được lưu giữ tại kho lưu trữ của Đức Giáo hoàng. Khi người kiểm phiếu đọc tên từng người, ông dùng kim đâm vào từng lá phiếu qua chữ "Eligo", nghĩa là "Tôi chọn", rồi dùng chỉ buộc các lá phiếu lại và thắt nút.
Sau đó, các lá phiếu được để riêng và đốt trong bếp lò nhà nguyện cùng với một loại hóa chất để tạo ra khói trắng hoặc đen:
Chỉ có một cuộc bỏ phiếu được tổ chức vào ngày đầu tiên. Từ ngày thứ hai trở đi, tối đa bốn vòng bỏ phiếu được phép mỗi ngày.
Cho đến nay, Đức Thánh Cha Francis đã tấn phong cho 163 Hồng y từ 76 quốc gia, trong đó có 25 quốc gia chưa bao giờ có Hồng y. Sự phân tán như vậy có những lợi ích, nhưng liên quan đến việc bầu tân Giáo hoàng sẽ có trở ngại vì các Hồng y không biết nhau. Đức Thánh Cha Francis cũng chủ yếu dựa vào nhóm Hồng y cố vấn gồm chín vị, thành ra Hồng y Đoàn ít có dịp gặp gỡ nhau.
Việc công khai vận động tranh cử hoặc thậm chí thảo luận về người kế nhiệm Giáo hoàng khi ngài vẫn còn sống là điều bị nghiêm cấm đối với các Hồng y. Mặc dù các Hồng y có thể thảo luận riêng về các ứng cử viên trước Cơ Mật Viện, nhưng việc vận động tranh cử công khai bị phản đối. Thay vào đó, một số Hồng y có ước muốn trở thành Giáo hoàng sẽ vận động tranh cử một cách bí mật, thường là bằng cách đi thăm các Hồng y khác hoặc thuyết trình. Tất cả các phương thức ấy đều rất tốn kém và mất thời gian trong bối cảnh phân tán địa lý của Hồng y Đoàn.
Như đã đề cập trước đó, cần có đa số 2/3 để giành chiến thắng. Nếu ngày đầu tiên khai mạc Cơ Mật Viện mà đã có kết quả thì đó là một phép lạ lớn. Nếu không có ai được bầu sau 3 ngày, việc bỏ phiếu sẽ tạm dừng trong tối đa một ngày. Việc bỏ phiếu sau đó tiếp tục và nếu không có Giáo hoàng nào được bầu sau bảy lần bỏ phiếu nữa, sẽ có một lần tạm dừng nữa. Cứ như vậy, cho đến khi khoảng 12 ngày bỏ phiếu trôi qua.
Nếu không có ai được chọn sau 33 vòng, các Hồng y sẽ phải bước vào vòng loại trực tiếp của hai ứng cử viên hàng đầu, theo một quy tắc tương đối mới do Đức Giáo hoàng Benedict XVI đưa ra. Không giống như trước đây, hai ứng cử viên này không được bỏ phiếu.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã thay đổi các quy tắc vào năm 1996 để sau 33 hoặc 34 lần bỏ phiếu mà không đạt được đa số 2/3, một ứng cử viên có thể được bầu bằng đa số phiếu đơn giản. Nhưng Đức Benedict XVI đã khôi phục lại yêu cầu phải có đa số 2/3 để bầu một Giáo hoàng, đảo ngược sự thay đổi của Đức Gioan Phaolô II.
Tu chính án của Đức Benedict XVI nêu rõ rằng nếu tình trạng bế tắc vẫn tiếp diễn sau 13 ngày bỏ phiếu, hai ứng cử viên hàng đầu sẽ bước vào vòng bỏ phiếu thứ hai. Ngài làm vậy để ngăn chặn tình huống mà một khối đa số có thể đẩy một ứng cử viên qua bằng cách chỉ cần chờ đến vòng bỏ phiếu thứ 34, khi đó sẽ có đa số đơn giản.
Sự thay đổi này được cho là để bảo đảm sự đồng thuận lớn nhất có thể giữa các Hồng y, thay vì để một ứng cử viên giành chiến thắng chỉ với đa số đơn giản. Sự đảo ngược của Đức Benedict XVI là sự trở lại với chuẩn mực lịch sử.
Trong quá khứ, khi chưa có luật 33 vòng bỏ phiếu, các Cơ Mật Viện bầu Giáo hoàng thường kéo dài trong nhiều tháng. Cơ Mật Viện dài nhất được ghi nhận là cuộc bầu chọn Đức Giáo hoàng Gregorio X vào thế kỷ 13, kéo dài từ tháng 11 năm 1268 đến tháng 9 năm 1271 – gần 3 năm – do xung đột nội bộ và sự can thiệp từ bên ngoài.
Để ngăn chặn tình trạng hỗn loạn tương tự, khi được bầu, Đức Giáo hoàng Gregory X đã ban hành các quy tắc mới, cô lập các Hồng Y cử tri và nhốt họ lại. Từ đó xuất hiện thuật ngữ "Cơ Mật Viện."
Mặc dù có một số trường hợp ngoại lệ, chẳng hạn như Cơ Mật Viện năm 1740 kéo dài từ tháng 2 đến tháng 8, quá trình này hiện nay có xu hướng chỉ mất vài ngày hoặc đôi khi là vài tuần. Cơ Mật Viện trung bình trong thế kỷ 20 chỉ kéo dài 3 ngày.
Cơ Mật Viện bầu Đức Giáo hoàng Francis chỉ mất năm vòng bỏ phiếu, trong khi Cơ Mật Viện bầu Đức Benedict XVI chỉ mất bốn vòng bỏ phiếu.
Sau khi một Giáo hoàng được bầu, Trưởng Nghi phụng vụ của Giáo triều Roma sẽ trở về Nhà nguyện và vị Niên trưởng của Hồng y Đoàn – người điều hành Cơ Mật Viện, nếu ngài dưới 80 tuổi – sẽ hỏi người đắc cử:
"Ngài có chấp nhận cuộc bầu cử theo giáo luật của mình làm Giáo hoàng tối cao không?"
Giả sử vị Hồng y trả lời: "Tôi chấp nhận." Vị Niên trưởng sẽ hỏi:
"Ngài muốn được gọi bằng tên gì?"
Tên Giáo hoàng ban đầu có ý định Công giáo hóa tên khai sinh của người được chọn. Đức Giáo hoàng Gioan II, được bầu vào năm 533, là người đầu tiên làm như vậy, vì tên khai sinh của ngài là Mercurius, theo tên vị thần Mercury của La Mã. Hiện nay, tên Giáo hoàng thường được coi là sự tôn vinh các Giáo hoàng trước đó và là dấu hiệu cho thấy đường lối của Giáo hoàng mới.
Sau đó, Trưởng Nghi phụng vụ nhập thông tin vào một văn bản chính thức. Khói trắng bốc ra từ ống khói Nhà nguyện Sistine và tiếng chuông của Đền thờ Thánh Phêrô vang lên.
Sau đó, Đức Giáo hoàng mới thay áo chùng trắng và từng vị Hồng y mặc áo đỏ tiến đến tuyên thệ trung thành. Vị Tân Giáo hoàng sẽ dừng lại và cầu nguyện trong Nhà nguyện Paulin trong vài phút trước khi xuất hiện trên ban công nhìn ra Quảng trường Thánh Phêrô.
Đi trước ngài đến ban công là một Hồng y – thường là Hồng y trưởng Đẳng phó tế – người tuyên bố:
"Habemus Papam!" (Chúng ta có một Giáo hoàng!)
Sau đó, vị Hồng y giới thiệu Đức Tân Giáo hoàng với thế giới bằng tiếng Latinh.
Cuối cùng, Đức Giáo hoàng mới xuất hiện và có bài phát biểu đầu tiên trước công chúng với tư cách là Giáo hoàng.
Trên đây là nội dung thông cáo do Phòng Báo chí Tòa Thánh công bố, chiều tối thứ Năm, ngày 27 tháng Hai năm 2025. Thông cáo nói rằng:
“Tình trạng lâm sàng của Đức Thánh cha cũng được xác nhận là đang cải thiện. Hôm nay, ngày 27 tháng Hai, ngài đã xen kẽ liệu pháp oxy lưu lượng cao với mặt nạ thông khí. Xét vì sự phức tạp của tình trạng lâm sàng, cần thêm một số ngày nữa để ổn định lâm sàng hầu có thể tiên lượng về tình trạng của Đức Thánh cha”.
“Đức Thánh cha dành buổi sáng cho liệu pháp vật lý hô hấp, xen kẽ với nghỉ ngơi; còn buổi chiều, sau một buổi vật lý trị liệu khác, ngài cầu nguyện trong nhà nguyện riêng, trong căn hộ của ngài ở lầu 10, và chịu Mình Thánh Chúa; sau đó ngài tiếp tục làm việc như thường lệ”.
Vậy là đã hai tuần lễ Đức Thánh cha ở Bệnh viện Đa khoa Gemelli. Thông cáo của Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết buổi tiếp kiến Năm Thánh lẽ ra Đức Thánh cha cử hành sáng thứ Bảy, ngày 01 tháng Ba này, nay đã bị hủy bỏ.
Chúa nhật ngày 02 tháng Ba, văn bản huấn dụ trước Kinh Truyền tin của Đức Thánh cha sẽ được phổ biến, giống như hai lần trước đây. Ngoài ra, Đức Tổng giám mục Diego Ravelli, Trưởng ban Phụng vụ của Đức Thánh cha cho biết Thứ Tư Lễ tro, ngày 05 tháng Ba tới đây, Đức Hồng y Angelo De Donatis, Chánh tòa Ân giải tối cao, sẽ thay Đức Thánh cha chủ sự cuộc rước thống hối theo truyền thống, từ nhà thờ thánh Anselmo của Dòng Biển Đức đến Đền thờ thánh nữ Sabina của Dòng Đa Minh và tại đây, Đức Hồng y sẽ chủ sự thánh lễ với nghi thức xức tro.
Trong thông cáo vắn tắt, công số sáng thứ Sáu, ngày 28 tháng Hai năm 2025, Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết: “Cũng như những ngày trước, Đức Thánh cha đã qua đêm yên hàn, và giờ đây ngài nghỉ ngơi. Và sau khi thức dậy, ngài điểm tâm và đọc báo. Đức Thánh cha tiếp tục vật lý trị liệu hô hấp”.
Báo chí nhận xét rằng đây là lần thứ hai, thông cáo không nói về tình trạng nguy kịch của Đức Thánh cha nữa, nhưng chỉ nói về sự phức tạp của bối cảnh sức khỏe của ngài. Tình trạng này tiếp tục được cải tiến, nhưng các bác sĩ vẫn còn lo âu và người ta chưa biết chính xác bao giờ tình trạng dè dặt này sẽ kết thúc.
Vật lý trị liệu về hô hấp nói trong thông cáo bao gồm việc tập thở, thường là sự tập luyện các cơ hoành, để sử dụng các bắp cơ và các phần của phổi ít được sử dụng.
Trong khi đó, ở nhiều nơi trong Giáo hội, đã và đang có các buổi cầu nguyện cho sức khỏe của Đức Thánh cha. Tại Vatican, buổi đọc kinh Mân côi lúc 9 giờ tối thứ Năm, ngày 27 tháng Hai vừa qua do Đức Hồng y Baldassare Reina, Giám quản Giáo phận Roma, chủ sự với sự tham dự của các tín hữu và các hồng y hiện diện ở Vatican. Trước đó, Đức Hồng y đã cử hành thánh lễ tại nhà thờ thánh Marcello, ở đường Corso, trung tâm Roma, nơi có tượng thánh giá bằng gỗ được coi là tượng phép lạ và rất được các tín hữu Roma tôn kính. Cách đây 5 năm, thánh giá này đã được đưa tới Quảng trường thánh Phêrô trong buổi cầu nguyện “hoàn cầu” và Đức Thánh cha cầu nguyện riêng trước thánh giá này, ngày 27 tháng Ba năm 2020 để cầu xin cho đại dịch Covid-19 sớm chấm dứt.
Một vài cơ quan truyền thông ở Ý cũng thường phỏng vấn các bác sĩ chuyên môn, về những trường hợp bệnh như thông cáo y khoa về trường hợp của Đức Thánh cha để tìm hiểu thêm tình trạng của ngài.
Ví dụ, báo Công giáo “Tương Lai” (Avvenire), số ra ngày 25 tháng Hai vừa qua, đã phỏng vấn bác sĩ Niccolò Marchionni, giáo sư hưu trí về nội khoa và bệnh người cao tuổi, của Đại học Firenze, trung Ý. Ông cho biết bệnh viêm cả hai lá phổi là bệnh nặng đối với một người 88 tuổi như Đức Giáo hoàng, lại ở trong tình trạng yếu vì nặng quá ký và cần gậy chống để bước đi, chứng tỏ các bắp cơ của ngài yếu. Sự kiện Đức Thánh cha cần oxy ở độ cao, như trước đây người ta vẫn làm đối với các bệnh nhân Covid-19, có nghĩa là phổi của ngài phải làm việc nhiều. Ban đầu, người ta phải chữa trị phổi bị nhiễm trùng bằng cách dùng nhiều loại thuốc kháng sinh. Rồi dựa trên những kết quả xét nghiệm máu cũng như dịch tiết của phổi, liệu pháp kháng sinh, hoặc thuốc chống nấm, sẽ được xác định và thử nghiệm về độ nhạy cảm. Cơn ho suyễn ban đầu có thể là tình trạng co thắt phế quản do phản ứng đối với các tác nhân truyền nhiễm (cũng có thể là dị ứng).
Bác sĩ Marchionni cũng giải thích về việc truyền máu cho Đức Thánh cha vì thiếu hồng cầu (emoglobina) và thiếu tiểu cầu (piastrine), để tránh tình trạng thiếu oxy trong máu, và tiểu cầu bị giảm do hậu quả của thuộc kháng sinh.
Về vấn đề suy thận của Đức Thánh cha, bác sĩ Marchionni giải thích rằng bệnh này được chẩn đoán dựa trên sự gia tăng chất creatine. Ở người cao tuổi, creatine có xu hướng gia tăng, vì khi về già, số lượng nephron, tức là đơn vị chức năng của thận giảm đi. Sự suy giảm này diễn ra nhanh hơn, nếu bệnh nhân bị tăng huyết áp động mạch hoặc bị bệnh tiểu đường. Một bệnh nhân 88 tuổi bị viêm phổi dai dẳng, thiếu máu, và phải thở oxy lưu lượng cao, khiến thận của bệnh nhân dễ bị tổn thương nhanh hơn. Thận già, yếu, giảm khả năng vận động, thừa cân, có thể xác định suy thận nhẹ, được đo lường trên cơ sở thể tích mà thận có thể lọc được trong một phút. Nếu xảy ra nhiễm trùng cấp tính, thì suy thận có thể trở nên cấp tính. Hơn nữa, một số loại thuốc, trong đó có một số loại kháng sinh, ngoài việc gây độc cho thận, còn phải được đào thải qua thận.
Điều mà các bác sĩ đang giúp Đức Thánh cha chiến đấu là tránh sepsi, tức là sự nhiễm trùng huyết. Làm sao để vi khuẩn đang ở trong hai buồng phổi đừng nhiễm vào máu, xâm nhập hệ tuần hoàn và sẽ làm cho các cơ phận khác bị nhiễm trùng, tình trạng này gọi là sepsi. Nó có thể gây tổn thương cho các cơ phận khác của bệnh nhân, từ thận đến gan và tim.
Ông Bruni cũng cho biết thêm, "Giờ cầu nguyện hôm nay sẽ được hướng dẫn bởi Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh Pietro Parolin".
Các tín hữu sẽ có thể tham dự buổi đọc kinh được phát trực tuyến trên trang Vatican News và trên các kênh xã hội, cũng như trực tiếp Radio Vatican.
Trong những ngày qua, từ khắp nơi trên thế giới, các tín hữu đã không ngừng cầu nguyện cho Đức Thánh Cha được hồi phục. Trong sứ điệp Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật ngày 23/2/2025, Đức Thánh Cha đã cảm ơn mọi người vì những lời cầu nguyện cho ngài.
Với ba chiêu trò trên đây, ngày nay ma quỷ không xuất hiện với hình dạng đáng sợ như trong truyện kể dân gian, mà thường ẩn mình trong những cám dỗ tinh vi. Chẳng hạn:
Người Việt Nam mình có câu: “Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất đi một miếng lộn gan lên đầu.” Đây chính là cách ma quỷ lợi dụng sự ham muốn để khiến con người tranh đấu, hận thù và gây chiến.
Noi gương Chúa Giêsu, Người đã dùng Thánh Kinh để đáp trả ma quỷ, tôi cũng để tâm nương tựa vào Lời Chúa.
Ngoài ra, tôi cố gắng dành chút giờ để cầu nguyện. Lời cầu nguyện giúp tôi có sức mạnh để chống lại ma quỷ. Vì cầu nguyện là cách để gắn kết với Thiên Chúa.
Bên cạnh đó, khiêm tốn và sống đạo đức cũng là cách tốt để ma quỷ thoái lui. Ma quỷ lợi dụng sự kiêu ngạo của con người để lôi kéo họ vào con đường sai lầm. Khi biết sống khiêm tốn và trung tín với Thiên Chúa, chúng ta sẽ không dễ bị lừa dối.
Và sau cùng, sống yêu thương và bác ái là vũ khí tốt chống lại ma quỷ. Nó muốn con người ích kỷ, nhưng Chúa dạy chúng ta biết trao ban.
Satan không bao giờ ngủ. Ma quỷ không ngừng tìm cách cám dỗ con người, như nó đã làm với Đức Giêsu. Nhưng nếu chúng ta biết tỉnh thức, cầu nguyện và bám vào Lời Chúa, chúng ta sẽ có sức mạnh để chiến thắng. Ước gì mỗi người biết nhận diện và tránh xa cám dỗ. Nếu Ma quỷ không tránh xa ta, thì chúng ta hãy tránh xa ma quỷ. Xin đừng bắt tay với cám dỗ, nhưng hãy đến với Thiên Chúa vốn là Đấng luôn chiến thắng quỷ ma.
Trong quyển tự truyện mới nhất Hy vọng (Espère, nxb. Albin Michel), Đức Phanxicô viết: “Thiên Chúa đang tức giận” và một “tín hữu kitô buồn luôn là một tín hữu kitô buồn”. Các lời hay ý đẹp của Đức Phanxicô kể từ khi ngài được bầu chọn năm 2013.
Phương thuốc tequila
Trong một buổi tiếp kiến chung tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Phanxicô đi một vòng xe quanh Quảng trường, Một linh mục Mêxicô cùng với các bạn chào Đức Phanxicô và hỏi thăm đầu gối đau của ngài, ngài trả lời: “Các con biết cha cần gì cho đầu gối đau của cha không? Rượu Tequila!”
Với các bạn trẻ muốn đi tu Dòng Tên
Đức Phanxicô tiếp một nhân vật có trách nhiệm của Tỉnh Dòng Dòng Tên ở Trung Quốc, ngài trả lời một số câu hỏi rất nghiêm túc. Nhân vật này xin ngài lời khuyên cho một thanh niên muốn vào Dòng Tên. Ngay lập tức ngài trả lời: “Nói anh đó nên vào Dòng Đa Minh!”
Đức Phanxicô nói đùa khi vừa tỉnh dậy trên bàn mổ
Bị thoát vị ruột có nguy cơ nghẽn ruột, ngày 7 tháng 6 năm 2023 ngài phải mổ. Trong buổi họp báo, bác sĩ phẫu thuật Sergio Alfieri kể lại ca mổ: “Ngài phản ứng rất tốt với ca mổ. Mười phút sau khi tỉnh dậy ngài đã nói đùa, vì tôi đã mổ cho ngài hai lần, ngài hỏi: ‘khi nào bác sĩ mổ lần thứ ba đây?”
Giáo hoàng và một giám mục Đức
Tháng 9 năm ngoái, Đức Phanxicô đến thăm nhà thờ chính tòa Luxembourg, một số giám mục đến chào ngài, trong đó có Giám mục Jörg Michael Peters , Giám mục phụ tá giáo phận Trèves của nước Đức. Trong những năm gần đây, mối quan hệ giữa Tòa thánh và các Giám mục Đức bị căng thẳng. Giám mục Peters nói với Đức Phanxicô, các anh em Giám mục của mình gởi lời chào ngài. Ngài hóm hỉnh trả lời: “Họ có phải là người công giáo không?”
“Đường băng hạ cánh” của một nhà vatican học
Năm 2021 trên chuyến bay đưa ngài đi Slovakia, ngài chào các ký giả tháp tùng ngài. Ngài thấy nữ ký giả lớn tuổi Valentina Alazraki người Mêxicô không có mặt trên máy bay. Ngài rất vui khi biết nhà báo lão luyện Philip Pullella của hãng Reuters có mặt trên máy bay. Sau đó, ngài thấy ông: “À, đây rồi, tôi có thể thấy đường băng hạ cánh!” ngài muốn nói cái đầu hói của nhà báo người Mỹ.
Tiếng Hung, ngôn ngữ của Thiên đàng
Đại sứ Hung Eduard Habsburg kể, tại phi trường Budapest, Đức Phanxicô biết tiếng Hung rất khó học, ngài kể câu chuyện đùa ngài rất thích: “Các bạn biết vì sao trên thiên đàng người ta nói tiếng Hung không? Vì cần cả một đời sống vĩnh cửu mới học được tiếng này!”
“Xin anh chị em cầu nguyện cho tôi!”
Vào cuối buổi nói chuyện, khi nào ngài cũng nói câu: “Xin anh chị em cầu nguyện cho tôi!” Nhưng để thêm phần hài hước, ngài biết có những người không thích ngài, ngài nhìn các chủ nhà và nói: “Xin quý vị cầu nguyện cho tôi nhưng đừng chống tôi!”
Nhà phụng vụ và kẻ khủng bố
Trong quyển tiểu sử Hy vọng, Đức Phanxicô kể câu chuyện đùa của Tổng giám mục Canterbury Justin Welby kể cho ngài: “Ngài có biết sự khác biệt giữa một nhà phụng vụ và một kẻ khủng bố không? Với kẻ khủng bố, chúng ta có thể thương thuyết…”
Câu chuyện của một tu sĩ Dòng Tên “hơi huênh hoang”
Trong quyển tiểu sử, Đức Phanxicô kể câu chuyện của một tu sĩ Dòng Tên có chút huyênh hoang. Vì bị bệnh tim và phải vào bệnh viện. Trước khi vào phòng mổ, tu sĩ hỏi Chúa: “Lạy Chúa, con đã đến giờ chết chưa?” Chúa trả lời: “Không, con sẽ sống thêm bốn mươi năm nữa!” Khi mổ xong, tu sĩ đi cấy tóc, căng da mặt, hút mỡ, nâng mí mắt, làm răng giả… Tóm lại, tu sĩ là một người hoàn toàn mới. Nhưng sau đó tu sĩ bị xe tông chết. Khi đến gặp Chúa, tu sĩ hỏi Chúa: “Lạy Chúa, Chúa nói con sống thêm bốn mươi năm nữa!” Chúa trả lời: “Ồ, ta xin lỗi, ta không nhận ra con…!”
Câu chuyện Đức Phanxicô ở Mỹ
Đức Phanxicô kể một câu chuyện hài hước tưởng tượng khác trong quyển tiểu sử Hy vọng. Trong một chuyến tông du đến New York, khi xuống máy bay ngài thấy một chiếc xe limousine khổng lồ đang chờ ngài. Ngài hơi bối rối khi thấy chiếc xe sang trọng này, ngài nghĩ đã từ rất lâu mình không lái xe, bây giờ với chiếc xe sang trọng này cũng là một dịp tố. Ngài hỏi người tài xế: “Anh cho tôi lái xe đưa anh đi được không?” Người tài xế trả lời: “Lạy Chúa tôi, con không thể, con không thể, thủ tục, nghi thức…” Nhưng bạn biết không, khi ngài đã có một ý trong đầu… ngài khăng khăng, cho đến khi người kia phải nhượng bộ. Sau đó ngài ngồi vào tay lái, lái một trong những tuyến đường lớn của New York: 50, 80, 120 cây số/giờ… Cho đến khi nghe tiếng hòi cụ của cảnh sát. Xe dừng lại, một cảnh sát trẻ tiến đến, anh có chút e ngại, Giáo hoàng hạ kiếng xuống. Anh cảnh sát nói: “Xin lỗi… chờ tôi một chút”. Anh về xe của mình và gọi về Văn phòng: “Thưa sếp, tôi gặp vấn đề. – Vấn đề gì vậy? – Tôi dừng một chiếc xe chạy quá tốc độ… nhưng có một chuyện quan trọng. – Chuyện gì vậy, người lái xe là ông thị trưởng à? – Không thưa sếp, còn quan trọng hơn ông thị trưởng. Ai vậy, ông Thống đốc à? – Không, còn quan trọng hơn nữa… – Có phải là Tổng thống không? – Không – Ai có thể quan trọng hơn Tổng thống? – Thưa sếp, tôi không biết ai nhưng người lái xe cho người này là Giáo hoàng!
Thông cáo của Phòng Báo chí Tòa Thánh công bố chiều tối thứ Tư, ngày 05 tháng Ba vừa qua, nói rằng: “Hôm nay, tình trạng sức khỏe của Đức Thánh cha đứng yên, không bị cơn suy hô hấp. Theo chương trình, ban ngày ngài theo liệu pháp oxy lưu lượng cao và ban đêm thì tiếp tục dùng máy thở không xâm lấn. Đức Thánh cha đã tăng cường vật lý trị liệu hô hấp và liệu pháp vận động tích cực.
“Ban ngày, Đức Thánh cha ngồi trên ghế bành. Xét vì tình trạng bệnh lý của ngài còn phức tạp nên việc tiên lượng bệnh trạng của ngài vẫn còn dè dặt thận trọng.”
Thông cáo cũng cho biết hôm thứ Tư Lễ Tro, tại căn hộ riêng ở lầu 10, Đức Thánh cha đã tham dự nghi thức làm phép và xức tro, rồi rước Mình Thánh Chúa. Sau đó, ngài làm một số công việc. Ban sáng, Đức Thánh cha đã gọi điện cho linh mục Gabriel Romanelli, cha sở giáo xứ Thánh Gia ở Gaza. Ban chiều, ngài xen kẽ làm việc và nghỉ ngơi”.
Phòng Báo chí Toà Thánh cập nhật sức khoẻ của Đức Thánh Cha tối 6/3: Tình trạng lâm sàng của Đức Thánh Cha ổn định hơn so với những ngày trước. Hôm nay, ngài cũng không có các triệu chứng suy hô hấp.
Sức khoẻ của Đức Thánh Cha tiếp tục tiến triển nhờ vật lý trị liệu hô hấp và vận động. Các chỉ số huyết động và xét nghiệm máu vẫn ổn định. Ngài không bị sốt. Tuy nhiên, tiên lượng vẫn dè dặt.
Đức Thánh Cha đã dành thời gian cho một số công việc vào buổi sáng và buổi chiều, ngài xen kẽ giữa nghỉ ngơi và cầu nguyện. Trước bữa trưa, Đức Thánh Cha đã lãnh nhận Thánh Thể.
Bệnh viêm phổi của Đức Thánh cha diễn biến bình thường, theo loại bệnh này. Đức Thánh cha cộng tác với các biện pháp trị liệu, tâm trạng ngài vẫn tốt. Các bác sĩ nhấn mạnh rằng từ hai ngày nay, ngài không bị lên cơn suy hô hấp nào, nhưng cần có thời gian để lượng định thêm. Bệnh lý của ngài vẫn ổn định trong bối cảnh tình hình phức tạp.
Giáo sư bác sĩ Francesco Blasi, một chuyên gia về bệnh hô hấp thuộc Đại học Milano, kiêm Trưởng khu Nội thương và bệnh phổi thuộc Bệnh viện Đa khoa ở Milano, bắc Ý, nhận xét với hãng tin Ansa của Ý rằng: “Người ta có thể nói có sự cải tiến trong tình trạng sức khỏe của Đức Thánh cha, tuy rằng vẫn còn phức tạp và việc tiên lượng tiếp tục dè dặt. Lúc này hệ thống tim mạch của ngài dường như đã được kiểm soát và các biến chứng về thận đã thuyên giảm. Không có cơn suy hô hấp nào khác xảy ra, điều này thực là tích cực”.
Việc Đức Giáo hoàng sau đó phải thở máy trong thời gian dài bằng mặt nạ hoặc ống thông oxy lưu lượng cao chứng tỏ “lượng oxy trong máu không đủ, vì thế phải liên tục bổ sung”.
Theo bác sĩ Blasi, trong tình huống này “thời gian hồi phục của Đức Giáo hoàng sẽ lâu dài, vì bệnh viêm phổi hai bên, hay đúng hơn là bệnh lý cấp tính mà ngài mắc phải, đã gây ra sự tái phát những biến đổi kinh niên ở phế quản mà ngài đã mắc phải. Nơi một bệnh nhân 88 tuổi, với những vấn đề hô hấp mãn tính, viêm phổi ở cả hai bên có thể mất nhiều thời gian để khỏi hẳn, ngay cả khi thuốc kháng sinh có hiệu quả... Thực vậy, Đức Giáo hoàng đã bị cắt một phần phổi và mắc bệnh phế quản hen suyễn mãn tính và giãn phế quản, một bệnh lý gây ra tình trạng giãn nở không thể hồi phục một phần phế quản trong phổi”.
Ngoài ra, trong những ngày gần đây, “đã có những vụ phải hút dịch vị dạ dày của ngài, và điều này đã gây ra tình trạng viêm nặng hơn, gây tổn thương cho biểu mô phế quản (epitelio bronchiale). Tất cả những yếu tố đó hiển nhiên góp phần kéo dài thời gian phục hồi”.
Về vấn đề thở máy mà Đức Giáo hoàng đang phải chịu, giáo sư bác sĩ Blasi chuyên khoa phổi lưu ý rằng: “điều này cho thấy tình trạng suy hô hấp vẫn chưa được giải quyết và cần xem tình hình này sẽ diễn biến thế nào trong những ngày tới”. Dầu sao, hiện thời việc kéo dài thông khí là điều rất cần thiết. Lưu lượng cao, sử dụng ống thông ở lỗ mũi để bảo đảm cung cấp một lượng lớn không khí. Đó là không khí được làm nóng và làm ẩm và bạn có thể kiểm soát lượng oxy được cung cấp. Mục đích là giữ cho đường thở mở”. Việc sử dụng máy thở thông qua mặt nạ che mũi và miệng thường được ưu tiên vào ban đêm, vì “theo cách này, đường thở được mở, giúp các cơ được nghỉ ngơi, để bệnh nhân được nghỉ ngơi nhiều hơn”.
Các giờ kinh Mân côi tại Quảng trường thánh Phêrô
Buổi đọc kinh Mân côi lúc 9 giờ tối, ngày 05 tháng Ba để cầu nguyện cho Đức Thánh cha, tại Quảng trường thánh Phêrô, trước ảnh Đức Mẹ là Mẹ Giáo hội, vẫn tiếp tục với sự tham dự của các Hồng y, linh mục, nữ tu và giáo dân. Chủ sự buổi đọc kinh tối thứ Tư Lễ Tro vừa qua là Đức Hồng y Marcello Semeraro, Tổng trưởng Bộ Phong thánh. Trong lời dẫn nhập, Đức Hồng y nói: “Cùng với toàn thể Giáo hội, chúng ta cầu nguyện cho sức khỏe của Đức Thánh cha Phanxicô, xin Đức Mẹ là Phần rỗi, là Sức khỏe của dân Roma nâng đỡ ngài trong lúc này”.
Đức Tổng giám mục Edgar Peña Parra, Phụ tá Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, người đã cùng Đức Hồng y Quốc vụ khanh Pietro Parolin, đến Bệnh viện Gemelli mấy lần để gặp Đức Thánh cha, cho biết Đức Thánh cha được an ủi vì kinh nguyện của dân Chúa. Đức Tổng giám mục nói: “Tất cả chúng ta hiệp nhau, như anh chị em, để cầu nguyện cho vị chủ chăn của chúng ta.”
Ngày thứ hai 3 tháng 3, Đức Phanxicô bị hai cơn suy hô hấp cấp tính, ngài phải thở máy oxy. Bác sĩ Gérald Kierzek, chuyên khoa cấp cứu, giám đốc y khoa của Doctissimo giải thích.
Suy hô hấp cấp tính
Trong ngôn ngữ y khoa, suy hô hấp là tình trạng mất thăng bằng hô hấp, bệnh nhân có những cơn kịch phát do thiếu oxy (có khi vì mất bão hòa oxy), khi tốc độ oxy tăng đột ngột hoặc khi bệnh nhân không còn có thể thở bình thường và trở nên yếu (trường hợp co thắt phế quản hoặc lên cơn hen suyễn).
Để hỗ trợ hô hấp và cung cấp oxy cho bệnh nhân đang cơn nguy kịch, có một số giải pháp khả thi: Dùng mặt nạ oxy đơn giản hoặc kính oxy thấp thông qua đặt nội khí quản và thở máy, đồng thời cung cấp thông khí không xâm lấn và liệu pháp oxy cao.
Trong tình trạng của Đức Phanxicô phương pháp thở máy không xâm lấn đã được chọn. Trong hai lần làm nội soi phế quản, các bác sĩ đã rút một lượng lớn chất nhầy ở phổi. Theo Vatican, chất nhầy chỉ là phản ứng khi cơ thể bị viêm phổi, không phải do một nhiễm trùng mới. Xét nghiệm không cho thấy có vi khuẩn mới.
Không có thêm thông tin về thời gian Đức Phanxicô nằm bệnh viện
Đức Phanxicô vào bệnh viện ngày 14 tháng 2, từ đó ngài chưa xuất hiện trước công chúng. Không có tin tức nào cho biết ngài sẽ ở bệnh viện bao nhiêu ngày. Vatican thông tin mỗi ngày hai lần, sáng và chiều, ngài ngủ yên bình trong đêm và tiếp tục nghỉ ngơi. Ngài tỉnh táo, hợp tác với nhân viên y tế và làm việc. Tiên lượng luôn “cẩn thận” trong giai đoạn này.
Bác sĩ Francesco Blasi, Giám đốc khu nội thương và bệnh phổi thuộc bệnh viện Đa khoa ở Milano, bắc Ý, nhận xét rằng hai trường hợp chiều ngày 03 tháng Ba của Đức Thánh cha Phanxicô chứng tỏ bệnh vẫn còn tác động mạnh: hai cơn suy hô hấp cấp tính là một rủi ro nguy hiểm đối với một bệnh nhân ở bất kỳ tuổi nào”.
Bác sĩ Blasi nói thêm rằng việc dùng máy thở để giúp bệnh nhân tránh bị tích tụ các chất nhờn, có tác dụng để các bắp cơ được thư giãn, giúp bệnh nhân dễ chịu hơn khi mệt mỏi. Phương pháp thở máy mà Đức Giáo hoàng phải áp dụng rất có thể là thở máy áp lực dương liên tục (Continuous Positive Airway Pressure).
Kỹ thuật máy thở không xâm lấn, bao gồm một mặt nạ được nối với một thiết bị đưa không khí vào đường thở. Khác với phương pháp hỗ trợ hô hấp lưu lượng oxy cao, được áp dụng cho Đức Thánh cha cách đây vài ngày và dựa trên việc điều chỉnh mức oxy trong máu, mặt nạ úp vào mặt mũi bệnh nhân được nối kết với một thiết bị thông khí cung cấp áp suất liên tục, giúp đường thở mở và phần sâu của phổi có thể tiếp nhận không khí. Bác sĩ Blasi nhắc lại rằng hệ thống này được sử dụng khi bệnh nhân suy hô hấp. Nó cũng giúp loại bỏ dịch tiết.
Từ khi Đức Phanxicô vào bệnh viện Gemelli ngày 14 tháng 2, vì bị nhiễm trùng hô hấp nghiêm trọng ngài chưa xuất hiện trước công chúng và không có hình ảnh nào của ngài được công bố. Trong 20 ngày, rất hiếm người có thể vào thăm ngài. Theo nguồn tin Vatican, những người thân cận, đặc biệt là các nhân viên có liên quan và các thư ký riêng của ngài luôn ở bên cạnh ngài.
Ngài làm việc và nghỉ ngơi, đọc và ký tài liệu, ngài theo dõi e-mail. Các cuộc họp đã lên lịch đều bị hủy. Trong sự cô lập này, chỉ có bà Giorgia Meloni, Thủ tướng Ý Giorgia Meloni và Hồng y Quốc vụ khanh Pietro Parolin và Tổng giám mục Phụ Tá Quốc vụ khanh Edgar Pena Parra là đã vào thăm ngài.
Các nhân vật uy tín
Các nhân viên y tế ở bên cạnh ngài mỗi ngày, trong số này có ông Massimiliano Strappetti, y tá riêng của ngài từ năm 2022 và được ngài tin cậy. Ông đã thúc ngài mổ đại tràng tháng 7 năm 2021, ngài tuyên bố ông “đã cứu” ngài. Trong một phỏng vấn trên đài phát thanh Tây Ban Nha COPE của Tây Ban Nha, ngài tâm sự: ”Ông nói với tôi: ‘Cha phải mổ dù cha có thể uống trụ sinh.” Ông là y tá kinh nghiệm làm việc ở bệnh viện Gemelli đã 30 năm. Trước đây ông là y tá cho Đức Gioan-Phaolô II và Đức Bênêđíctô XVI, ông làm việc ở Khoa hồi sức ở bệnh viện Gemelli trước khi về làm ở Bệnh viện Vatican.
Kể từ ngày ngài nhập viện, bác sĩ Luigi Carbone của nhóm y tế Nhà Thánh Marta cùng làm việc với các bác sĩ ở bệnh viện Gemelli do bác sĩ giáo sư phẫu thuật Sergio Alfieri điều phối. Bác sĩ Alfieri đã mổ thoát vị ruột cho Đức Phanxicô tháng 6 năm 2023.
Các nhân vật hiếm hoi khác vào thăm ngài là ba thư ký đặc biệt của ngài: ông Daniel Pellizzon và Juan Cruz Villalón người Argentina, ông Fabio Salerno người Ý. Hai người đầu là hai linh mục ngài đã biết từ Buenos Aires: ngài phong chức cho linh mục Cruz Villalón năm 2011, và linh mục Pellizzon đã giúp Đức Phanxicô sắp thứ tự hồ sơ cá nhân năm 2011-2012.
Tại bệnh viện Gemelli, Đức Phanxicô được các đội an ninh bảo vệ: Lực lượng hiến binh (không có đội cận vệ Thụy Sĩ) kiểm soát chặt chẽ lối ra vào đơn vị y tế. Không có thông tin nào rò rỉ về các chuyến thăm riêng tư như chuyến thăm của linh mục Dòng Tên cháu của ngài José Luis Narvaja, linh mục dạy tại Giáo hoàng Học viện Kinh Thánh và thường về Rôma. Bà Carla Rabezzana, em họ của ngài đến từ Piedmont (Đức Phanxicô đã đến thăm bà năm 2022), bà cho biết bà rất lo cho sức khỏe của Đức Phanxicô.
Đây là sứ điệp thứ hai ngài gửi từ Bệnh viện Gemelli. Trong sứ điệp này, Đức Thánh cha khẳng định rằng “Đứng trước một cuộc khủng hoảng phức tạp và lan tràn tại nhiều nơi trên thế giới, chúng ta được kêu gọi đề cao giá trị của các phương thế chúng ta đang có trong tầm tay. Nhưng rất tiếc chúng ta phải nhận thức rằng có sự suy giảm dần dần tầm quan trọng của các tổ chức quốc tế, do những thái độ thiển cận, chỉ lo bảo vệ tư lợi và lợi ích quốc gia. Dầu vậy, chúng ta phải tiếp tục quyết tâm dấn thân để các tổ chức quốc tế này trở nên hữu hiệu hơn, có uy tín và thẩm quyền để đảm báo công ích của thế giới, xóa bỏ nghèo đói, lầm than và bảo vệ các quyền cơ bản của con người”.
Trong chiều hướng này, Đức Thánh cha cổ võ sự đa phương, không tùy thuộc những hoàn cảnh chính trị thay đổi hoặc lợi lộc của một thiểu số, nhưng có một hiệu năng bền vững. Đây là một nghĩa vụ khẩn cấp liên quan đến toàn thể nhân loại”.
Hôm 22 tháng Hai vừa qua, vị Tổng đại diện giáo phận này, do Đức Hồng y Timothy Dolan, làm Tổng giám mục, đã gửi thư cho các linh mục trong giáo phận để xin cầu nguyện cho Đức Thánh cha đang bị bệnh và đề nghị một số việc cần làm:
Luigi Bisignani, nhà văn, nhà vatican học dự đoán mật nghị sắp tới sẽ theo các quy tắc mới Đức Phanxicô đã đưa ra với sự hỗ trợ của Hồng y Dòng Tên người Ý Gianfranco Ghirlanda.
Theo nhà vatican học Luigi Bisignani, các quy định mới do Đức Phanxicô thành lập: các Hồng y trên 80 tuổi sẽ không họp trong các phiên họp đầu tiên trước mật nghị. Các hồng y cử tri sẽ tham dự vào các cuộc thảo luận sơ bộ. Tuy nhiên có một thay đổi mới về tỷ lệ cần thiết để được bầu: từ hai phần ba số phiếu chỉ còn đa số đơn giản. Người có hơn 50% số phiếu sẽ là Giáo hoàng.
Đức Phanxicô sẽ về lại Nhà Thánh Marta và dù ngài từ chức, ngài vẫn có một ảnh hưởng rất lớn trên các Hồng y để có đa số phiếu đơn giản, qua đó sẽ bầu một Giáo hoàng theo hình ảnh và chân dung của ngài.
Nhà báo Piero Schiavazzi trả lời trên chương trình truyền hình Quaeta Repubblica của ông Nicola Porro trong: “Từ khi được bầu, Đức Phanxicô đã làm việc cho việc kế nhiệm ngài. Các công nghị hồng y là gì nếu không phải là các công nghị chính để chuẩn bị cho mật nghị sắp tới? Trong hai năm, ngài đã thay đổi sâu sắc cơ cấu Hồng y đoàn. Việc bầu Đức Bergoglio cho thấy mật nghị không phản ứng theo các tính toán chính trị hay nhóm, với người tín hữu, đó là công việc của Chúa Thánh Thần.”
Tượng Đức Mẹ có đội triều thiên, trong đó có gắn viên đạn tên Ali Agca, người Thổ Nhĩ kỳ, đã bắn Đức Thánh cha Gioan Phaolô II.
Tượng sẽ hiện diện trong thánh lễ ngày 12 tháng Mười để bế mạc Ngày Năm Thánh về linh đạo Thánh Mẫu. Đức Tổng giám mục Rino Fisichella, Quyền Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin mừng, Đặc trách về Năm Thánh, cho biết cuộc thánh du của tượng Đức Mẹ sẽ giúp các tín hữu cảm nghiệm sự gần gũi với Mẹ Thiên Chúa một cách đặc biệt.
Đây là lần thứ tư, tượng Đức Mẹ Fatima được rước tới Roma. Lần đầu tiên hồi năm 1984, khi Đức Thánh cha Gioan Phaolô II chủ sự nghi thức thánh hiến thế giới cho Khiết tâm Đức Mẹ. Lần thứ hai trong Năm Thánh 2000 và lần thứ ba trong Năm Đức Tin 2013, đánh dấu 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican II.
Cha Carlos Cabecinas, Giám đốc Đền thánh Fatima, nhấn mạnh sự đặc biệt của biến cố này, vì tượng nguyên bản này chỉ rời Đền thánh theo lời yêu cầu của Đức Thánh cha. “Trong thời điểm Năm Thánh này, Đức Mẹ Maria là người Phụ Nữ niềm vui Phục sinh, kể cả trong thời đại đau thương thế giới đang trải qua. Một lần nữa, Đức Mẹ là Phụ Nữ mặc áo trắng” sẽ là người lữ hành hy vọng.
Tượng Đức Mẹ Fatima được tạc năm 1920 từ một thân cây tuyết trùng (Cedar) ở Brazil, do điêu khắc gia José Ferreira Thedim, người Bồ Đào Nha thực hiện. Tượng cao 104 cm, được tạc theo những mô tả của ba mục đồng được Đức Mẹ hiện ra hồi năm 1917. Tượng được long trọng đội triều thiên hồi năm 1946.
Đức Thánh cha Phanxicô đã kính viếng Đền thánh Fatima lần thứ hai hồi tháng Tám năm 2023, trong dịp Ngày Quốc tế Giới trẻ tại Lisboa, Bồ Đào Nha. Lần đầu tiên hồi năm 2017, ngài cử hành thánh lễ kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra với ba mục đồng ở Fatima.
Mặt khác, trong năm 2025 này, có 14 cuộc thánh du của tượng Đức Mẹ Fatima, như Ban giám đốc Đền thánh Đức Mẹ tại Bồ Đào Nha cho biết.
Thánh tượng Đức Mẹ sẽ được rước tới một số giáo phận tại Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha, cũng như các cộng đoàn Công giáo tại Nam Mỹ, như Brazil, Venezuela và Colombia.
Ban giám đốc Đền thánh Đức Mẹ Fatima giải thích rằng 13 bản sao tượng Đức Mẹ sẽ được rước đi trong năm nay, tiếp nối truyền thống đã được khởi xướng từ năm 1947. Năm ngoái, thánh tượng Đức Mẹ đã được rước đi trong 17 cuộc thánh du đến năm quốc gia, là Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý, Colombia và Brazil.
Năm 2025 này các Giáo hội Kitô kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nixêa, Công đồng chung đầu tiên trong lịch sử Giáo hội. Từ Công đồng này, Kinh Tin Kính Nixêa mà chúng ta tuyên xưng trong các Thánh lễ Chúa Nhật đã ra đời, một tuyên bố là nền tảng của đức tin chung Kitô giáo. Trong Năm Thánh 2025, kỷ niệm 1700 năm công đồng Nixêa là một cơ hội để các Giáo hội Kitô suy tư về hành trình hướng tới sự hiệp nhất trọn vẹn dựa trên nền tảng chung là Kinh Tin Kính Công đồng Nixêa.
Công đồng Nixêa được Hoàng đế Constantino triệu tập vào năm 325, với sự tham dự của khoảng 300 giám mục, bao gồm các sứ giả của Giáo hoàng và đại diện của Giáo hội Đông phương, lên án lạc giáo Ariô khi đó phủ nhận thiên tính của Chúa Giêsu Kitô và sự đồng bản tính của Người với Chúa Cha”.
Trong công đồng Nixêa, lần đầu tiên các nghị phụ sử dụng cụm từ “Chúng tôi tin”. Công đồng này vẫn còn là một lời mời gọi phù hợp cho đến ngày nay, được gửi đến tất cả các Giáo hội và cộng đồng giáo hội: hãy tiến bước trên con đường hướng tới sự hiệp nhất trọn vẹn.
Một hội nghị gồm hai giai đoạn
Trong tinh thần này, Đại học Giáo hoàng Gregoriana ở Roma tổ chức hội nghị có chủ đề “Kinh Tin Kính của Công đồng Nixêa: Lịch sử và Thần học”. Hội nghị có hai giai đoạn: trước hết là tại Đại học Giáo hoàng Gregoriana từ ngày 27/2 đến ngày 1/3 vừa qua, và sau đó tại Đại học Münster, Đức, từ ngày 15 đến ngày 17/10. Mục đích của hội nghị là thúc đẩy đối thoại giữa nghiên cứu lịch sử về Công đồng Nixêa và các vấn đề về thần học hệ thống liên quan đến ý nghĩa hiện tại của Kinh Tin Kính Nixêa.
Ngoài các sự kiện này, Đại học còn tổ chức một sự kiện khác: đó là triển lãm “Về Mọi điều hữu hình và vô hình”, mở cửa từ ngày 27/2 đến ngày 13/3, tại tiền sảnh của Đại học Gregoriana, nhằm mục đích nắm bắt ý nghĩa thần học của nghệ thuật liên quan đến Công đồng chung đầu tiên của Giáo hội. Những hình ảnh này đưa chúng ta đến thành phố cổ Nixêa, ngày nay được gọi là Iznik ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Hội nghị “Kinh Tin Kính của Công đồng Nixêa: Lịch sử và Thần học” được Cha Mark Lewis, Viện trưởng Đại học Giáo hoàng Gregoriana, khai mạc sáng ngày 27/2.
Giáo sư Michael Seewald thuộc Đại học Münster nhấn mạnh rằng ý tưởng tổ chức một hội nghị chung giữa Đại học Gregoriana và Đại học Công giáo Đức đã nảy sinh trong một hội nghị về Công đồng được tổ chức cách đây hai năm tại Roma. Ông giải thích rằng cả hai đại học đều có sự nhạy cảm mạnh mẽ về đại kết.
Mục đích của hội nghị là cùng nhau suy nghĩ về các chiều kích của lịch sử và thần học liên quan đến Công đồng Nixêa.
Hội nghị có sự tham dự của các đại diện của nhiều giáo phái Kitô giáo khác nhau. Khoa trưởng Khoa Thần học, Cha Philipp Renczes, nhấn mạnh rằng hội nghị cũng tập trung vào Kitô giáo Đông phương. Hội nghị sẽ được tổ chức thành hai phiên và tại nhiều địa điểm khác nhau, đồng thời cũng sẽ mang đến cơ hội phân tích Công đồng Nixêa từ nhiều góc độ khác nhau.
Sự ra đời của Công đồng và tính mới mẻ của Công đồng Nixêa
Giáo sư Emanuela Prinzivalli, thuộc Đại học “La Sapienza” ở Roma, nhắc lại rằng thuật ngữ tiếng Hy Lạp σύνοδος (synodos), có nghĩa là cuộc họp và từ tiếng Latinh tương đương là concilium. Bà giải thích rằng Thượng Hội đồng Kitô giáo là cuộc họp của các đại biểu từ các Giáo hội khác nhau nhằm giải quyết các vấn đề và tranh luận. Ví dụ, các cuộc họp được tổ chức vào thế kỷ thứ hai để giải quyết những bất đồng về ngày lễ Phục sinh có thể được xác định là các “synodos”. Bên cạnh các “synodos” còn có các loại “đại hội” (assembly) khác, trong đó một số chuyên gia được triệu tập để giải quyết tranh chấp. Những nhân vật chính trong trường hợp này là các chuyên gia, những bậc thầy.
Giáo sư Prinzivalli nhận xét rằng có nhiều yếu tố hình thành nên Công đồng Nixêa: trên hết, chúng ta cần lưu ý rằng lịch sử của Đế quốc Roma và lịch sử của Kitô giáo có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Lịch sử của Đế quốc Roma thời đó “đang hướng tới chế độ Kitô giáo” và Hoàng đế Constantino triệu tập Công đồng với tư cách là “Pontifex Maximus”. Trong suốt thời cổ đại, các Công đồng được coi là mang tính đại kết vì được triệu tập bởi hoàng đế.
Một yếu tố mới lạ nằm ở chỗ “các điều khoản của Công đồng có giá trị lập pháp”. Mặc dù nhiều chủ đề đã được thảo luận tại Nixêa, bao gồm cả ngày lễ Phục sinh, nhưng trọng tâm của cuộc họp là tranh luận về đạo lý liên quan đến lạc thuyết Ariô. Kinh Tin Kính Nixêa có mục đích suy tư về tính nội tại của Thiên Chúa” và đây là lần đầu tiên một Công đồng quyết định chấp nhận một Kinh Tin Kính. Bộ luật Nixêa cũng là một sự mới lạ trong đó nhiều chủ đề được đề cập, bao gồm các khía cạnh pháp lý và kỷ luật. Trong cuộc phỏng vấn dành cho Radio Vatican - Vatican News, Giáo sư Prinzivalli đã phác thảo Công đồng Nixêa từ góc độ lịch sử và thần học.
“Công đồng Nixêa ra đời do những vấn đề ở một số tòa giám mục chính của Đông phương, bao gồm cả Alexandria và Antiokia”. Các cuộc thảo luận đòi hỏi sự can thiệp nhiều hơn và, giáo sư Prinzivalli nhấn mạnh, “các truyền thống thần học chưa từng gặp nhau trước đây đã gặp nhau tại Nixêa”. Một sự kiện, xảy ra vào năm 325, dạy cho chúng ta biết về sự tương phản sáng tối của lịch sử. Từ Nixêa xuất hiện “một cuộc đối thoại giữa các lập trường khác nhau”. Sự đóng góp của Hoàng đế Constantino là quyết định. Với tư cách là Pontifex Maximus (vị thủ lãnh tôn giáo thời đế quốc Roma. Khi Kitô giáo trở thành quốc giáo trong đế quốc Roma, từ ngữ này chỉ Đức Giáo hoàng). Hoàng đế Constantino là “người bảo đảm tối cao cho sự ổn định của Đế quốc thông qua việc duy trì pax deorum (hòa bình của các vị thần), điều mà đối với ông giờ đây chính là pax dei christianorum (hòa bình của các Kitô hữu)”. Điều này không làm thay đổi bản chất: “trách nhiệm của ông là đảm bảo hòa bình tôn giáo”. Điều tích cực là việc tìm kiếm sự hiệp nhất: “Hoàng đế Constantino theo cách riêng của mình đã tìm kiếm sự hiệp nhất, một nền hòa bình tôn giáo, điều cũng có thể được đảm bảo cho người dân”. Cũng là sự hiệp nhất khi thấy rằng Công đồng Nixêa - ngày nay là Iznik, một thành phố hành hương - bằng cách nào đó có mối liên hệ với thời điểm Hy vọng này. “Sự hiệp nhất không bao giờ là điều được bảo đảm, chúng ta phải luôn tìm kiếm nó”.
Công đồng Nixêa và Kitô giáo Đông phương
Trong số các diễn giả tại hội nghị, giáo sư Daniel Galadza của Học viện Giáo hoàng về Đông Phương đã đề cập đến chủ đề về nghi thức tiếp nhận phụng vụ của Công đồng Nixêa. Trong cuộc phỏng vấn dành cho Radio Vatican - Vatican News, trước tiên ông nhắc lại tầm quan trọng của sự kiện lịch sử này đối với các Giáo hội Đông phương.
Đối với các Giáo hội Đông phương, giáo sư Daniel Galadza nhận xét, Nixêa “là Công đồng chung đầu tiên”. Sự kiện này “được kỷ niệm trong hầu hết mọi truyền thống của các Giáo hội Đông phương trong năm phụng vụ với một ngày lễ đặc biệt”. Ví dụ, trong nghi lễ Byzantine, lễ kỷ niệm này “diễn ra vào Chúa Nhật sau lễ Thăng Thiên”. Điều này phản ánh sự kiện lịch sử vì “Công đồng diễn ra trong thời gian đó”. Và nó cũng liên quan đến sự Nhập thể của Chúa Kitô, đến thực tế rằng “nhân tính đã được thiên tính hóa”. Công đồng Nixêa, theo quan điểm của thế giới phương Đông, “được tiếp nhận trong bối cảnh của các Công đồng khác”. Tuyên bố rằng “Chúa Kitô là người thật và là Thiên Chúa thật” đáp lại lạc giáo Ariô. Thành ngữ Filioque được Giáo hội Roma thêm vào Kinh Tin Kính Nixêa-Constantinopoli, nghĩa là Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con, có hàm ý chính xác: nhằm nhấn mạnh thiên tính của Chúa Con. Filioque là một trong những nguyên nhân gây ra sự bất đồng giữa Giáo hội Đông phương và Giáo hội Tây phương. Vào thế kỷ XX, sau các cuộc đối thoại đại kết giữa Công giáo và Chính thống giáo, người ta thấy rằng đây thực ra không phải là vấn đề gây chia rẽ. “Có lẽ Giáo hội Roma có thể suy tư và xem xét liệu có thể gỡ bỏ thành ngữ Filioque để trở lại hình thức cổ xưa hơn hay không”.
Ngày lễ Phục sinh
Tại Công đồng Nixêa, vấn đề về ngày cử hành lễ Phục sinh cũng đã được thảo luận. Giáo sư Daniel Galadza nhắc lại rằng mong muốn “cùng nhau mừng lễ Phục sinh” đã được thể hiện vào thế kỷ thứ tư: theo Eusebius xứ Caesarea, hoàng đế Constantino đã muốn các Kitô hữu cử hành lễ này vào một ngày duy nhất. Một trong những quyết định được đưa ra trong Công đồng Nixêa là không cử hành Lễ Phục Sinh cùng với lễ Vượt Qua của người Do Thái. Vào thế kỷ thứ mười hai, nhiều nhà giáo luật Byzantine cũng đã thêm vào rằng “lễ Phục sinh không nên được cử hành trước ngày người Do Thái cử hành lễ Vượt Qua”. Ngày nay theo lịch Gregorio, lễ Phục sinh có thể diễn ra trước lễ Vượt Qua của người Do Thái. Theo giáo sư Daniel Galadza, “Điều cần hiểu là tại sao điều khoản đó lại được đưa ra ở Nixêa: các học giả lập luận rằng điều đó không phải do chủ nghĩa bài Do Thái mà là do thực tế rằng, sau nhiều lần Giêrusalem bị phá hủy, chính người Do Thái đã mất đi cách tính ngày Lễ Phục sinh một cách đáng tin cậy. Bây giờ, vào dịp kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nixêa, chúng ta có thể xem xét lại vấn đề về cách thức cử hành lễ Phục sinh và thời điểm cử hành lễ này”. Ông kết luận, điều hy vọng là chúng ta có thể đạt được “một ngày lễ Phục sinh duy nhất”.
Các bài suy niệm sẽ do cha Roberto Parolini, người Ý, thuộc Dòng Capuchino, Giảng thuyết viên tại Phủ Giáo hoàng, đảm trách và có chủ đề là: “Hy vọng đời sống vĩnh cửu”.
Trong tuần tĩnh tâm, mỗi ngày có Kinh Giờ Ba, lúc 9 giờ, và ban chiều có Kinh Chiều, lúc 17 giờ.
Sáng thứ Sáu, ngày 14 tháng Ba có Kinh Giờ Ba lúc 9 giờ. Và trưa hôm đó, tuần tĩnh tâm sẽ kết thúc.
Tham dự kỳ tĩnh tâm này, có các Hồng y, Tổng giám mục và Giám mục, các thành viên Gia đình Phủ Giáo hoàng, gồm các giáo sĩ và giáo dân, các nhân viên Giáo triều Roma và Phủ Thống đốc thành Vatican.
Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết các bài suy niệm Mùa Chay năm 2025, về chủ đề “Niềm hy vọng về sự sống vĩnh cửu”, sẽ do Cha Roberto Pasolini, giảng thuyết viên Phủ Giáo hoàng, phụ trách, và diễn ra tại Hội trường Phaolô VI ở nội thành Vatican.
Sự sống lại, hy vọng, niềm an ủi
Trong thông cáo mời tham dự tuần tĩnh tâm, Phủ Giáo hoàng nhấn mạnh rằng sự phục sinh của Chúa Kitô, lời hứa về sự sống vĩnh cửu cho tất cả mọi người, là “hy vọng, bản chất và đỉnh cao của đức tin Kitô giáo được Công đồng Nixêa công bố”. Niềm tin này “trong nhiều thế kỷ đã là nguồn an ủi và hướng dẫn cho nhân loại, soi sáng ý nghĩa cùng đích của cuộc sống”. Tuy nhiên, theo thời gian, “một loại bụi đã bao phủ lời hứa này, với một bức màn che khuất ý nghĩa sâu xa hơn của nó”.
Thông cáo nhấn mạnh: Trong “Mùa Chay đặc biệt này, được cử hành trong Năm Thánh, chúng ta muốn chiêm niệm về sự sống vĩnh cửu không phải là điều gì đó sẽ xảy ra một ngày nào đó, mà là một ân sủng đã soi sáng cuộc sống của chúng ta”. Thông cáo kết luận rằng những thử thách và đau khổ “tiếp tục đánh dấu hành trình của nhân loại” chỉ là “bóng tối của vinh quang đang chờ được mặc khải nơi chúng ta: lời hứa về sự vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta ngay từ đầu”.
Vatican mời các Hồng y, Giám mục, các thành viên của Phủ Giáo hoàng, các linh mục và giáo dân làm việc tại Vatican tham dự tuần tĩnh tâm.
Tuần tĩnh tâm sẽ bắt đầu với Kinh Chiều vào Chúa Nhật ngày 9/3/2025. Mỗi ngày, từ thứ Hai đến thứ Năm, sẽ có hai bài suy niệm. Tuần tĩnh tâm sẽ kết thúc với bài suy tư cuối cùng vào sáng thứ Sáu.
Các tuần tĩnh tâm hàng năm của Giáo hoàng
Các tuần tĩnh tâm hàng năm của Giáo hoàng tại Vatican bắt đầu từ thời Đức Giáo hoàng Pio XI. Ban đầu các tuần tĩnh tâm được tổ chức vào Mùa Vọng, nhưng vào năm 1964, Thánh Phaolô VI đã đổi tuần tĩnh tâm sang Mùa Chay.
Bắt đầu từ Mùa Chay năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chọn tổ chức các tuần tĩnh tâm Mùa Chay tại trung tâm tĩnh tâm ở thị trấn Ariccia, cách Roma khoảng 35km về phía đông nam. Trong tuần tĩnh tâm, Đức Thánh Cha cũng như các Hồng y đứng đầu các bộ thuộc Giáo triều Roma ngưng các hoạt động làm việc để tham gia tĩnh tâm.
Năm nay là lần đầu tiên sau 4 năm ngắt quãng, các Hồng y và Giáo triều Roma sẽ tham tuần tĩnh tâm Mùa Chay chung với nhau. Trong hai năm 2021 và 2022, do đại dịch COVID-19, Đức Thánh Cha và các viên chức giáo triều tĩnh tâm riêng. Trong năm 2023 và 2024, các ngài cũng tiếp tục tĩnh tâm riêng.
Đối với Đức Thánh Cha, đây sẽ là lần thứ sáu ngài không tĩnh tâm chung với Giáo triều Roma. Vào năm 2020, Văn phòng Báo chí Tòa thánh thông báo rằng Đức Thánh Cha bị cảm lạnh kéo dài và không tham dự tuần tĩnh tâm. Sau đó, từ năm 2021 đến năm 2024, Đức Thánh Cha và Giáo triều Roma đã tĩnh tâm cá nhân.
Bắt đầu sứ điệp, Đức Hồng Y cho rằng, thời gian ăn chay, cầu nguyện và chia sẻ này là cơ hội đặc biệt để gần gũi hơn với Thượng đế và được đổi mới trong các giá trị cơ bản của tôn giáo, lòng trắc ẩn và tình liên đới.
Ngài nhận xét, năm nay tháng Ramadan trùng với Mùa Chay, đối với các Kitô hữu là thời gian chay tịnh, cầu nguyện và trở về với Chúa Kitô. Sự gần gũi tinh thần này mang đến cho các Kitô hữu và tín đồ Hồi giáo cơ hội đặc biệt để cùng nhau bước đi trong một quá trình thanh tẩy, cầu nguyện và bác ái.
Tổng trưởng Bộ Đối thoại Liên tôn viết: “Đối với chúng tôi, những người Công giáo, là niềm vui khi được chia sẻ thời gian này với quý vị, vì nhắc nhở chúng tôi rằng tất cả chúng ta đều là những người hành hương trên trái đất này, và tất cả chúng ta đều đang tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn”.
Đức Hồng Y mời gọi các tín đồ Hồi giáo suy tư không chỉ về những gì cả hai tôn giáo có thể cùng nhau thực hiện để sống tốt hơn, nhưng trên hết là về những gì cả hai bên đều muốn cùng nhau trở thành, trong một thế giới đang tìm kiếm niềm hy vọng.
Đề cập đến những điểm giống nhau trong thực hành chay tịnh của các Kitô hữu và tín đồ Hồi giáo, Đức Hồng Y nhấn mạnh trong một thế giới bị đánh dấu bởi xung đột, bất công và bất ổn về tương lai, ơn gọi chung của hai tôn giáo không chỉ dừng lại ở những thực hành tâm linh tương tự. Thế giới đang khao khát tình huynh đệ và đối thoại chân thành, cùng nhau, người Hồi giáo và Kitô hữu có thể làm chứng cho niềm hy vọng này, với xác tín rằng tình bạn là điều có thể, dù gánh nặng lịch sử và ý thức hệ thúc đẩy sự loại trừ.
Theo Đức Hồng Y Tổng trưởng, trong bối cảnh thế giới đầy rào cản và chia rẽ, thử thách của chúng ta là xây dựng tương lai chung dựa trên tình huynh đệ và đối thoại. Chúng ta không chỉ muốn cùng tồn tại mà còn sống với nhau trong sự quý trọng chân thành, lấy công lý, lòng trắc ẩn và sự tôn trọng làm kim chỉ nam để kết nối thay vì chia rẽ, bảo vệ thay vì phá hủy.
Sứ điệp kết thúc với hy vọng rằng những lời cầu nguyện và hành động liên đới của các tín đồ Hồi giáo và các Kitô hữu trở thành dấu chỉ của tình bạn chân thành, mang lại bình an, hy vọng, tình huynh đệ và niềm vui cho tất cả chúng ta.
Di cư cưỡng bức không phải là cách thế đúng đắn
Trả lời câu hỏi về đề xuất của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump về việc tái định cư người Palestine đang ở Dải Gaza đến nơi khác, Đức Tổng giám mục Gallagher cho biết, “Tòa Thánh luôn duy trì lập trường liên quan đến vấn đề di cư cưỡng bức. Chúng tôi không tin rằng đây là con đường đúng đắn để theo đuổi trong việc giải quyết bất kỳ loại vấn đề nào, dù là chiến tranh hay xung đột hay bất cứ điều gì”. Ngài nhắc lại rằng “nhiều người Palestine ngày nay hoặc tổ tiên gần nhất của họ đã buộc phải rời bỏ tài sản của họ khỏi các vùng khác của Thánh Địa”.
Theo ngài, bất chấp sự tàn phá và “những đống đổ nát”, Gaza “là quê hương” của những người Palestine, những người mà trong “nhiều thế hệ... đã sinh ra và sống ở đó... những người muốn ở lại đó và muốn xây dựng lại cuộc sống của họ ở đó”.
Đức Tổng giám mục Gallagher cũng nhấn mạnh: “Nói họ là vấn đề là không đúng. Họ là con người. Họ là những con người, và chúng ta phải cố gắng hành động theo cách tôn trọng họ, tôn trọng phẩm giá của họ như những con người, và hiểu được nỗi đau khổ to lớn mà họ đã trải qua và những gì họ đang trải qua ngày này qua ngày khác”.
Giải pháp hai nhà nước: Israel và Palestine
Ngoại trưởng Tòa Thánh nhắc lại rằng Tòa Thánh tiếp tục kêu gọi giải pháp hai nhà nước: một nhà nước Israel và một nhà nước Palestine. Trong một thời gian dài, và do đó thậm chí trước cả “cuộc xung đột gần đây và khủng khiếp nhất này, sau các sự kiện tàn khốc ngày 7/10 [2023]”, Tòa Thánh đã ủng hộ nguyên tắc này trong cộng đồng quốc tế và đã làm như vậy ngay cả khi nhiều người khác “loại bỏ” nó.
Nhưng ngài cũng lưu ý rằng nhìn vào hiện tại, chúng ta thấy rõ rằng khả năng thực hiện điều này đang bị nghi ngờ vì tình hình ở Bờ Tây cũng cực kỳ nghiêm trọng. Ngài nói thêm, “nếu Israel sáp nhập Bờ Tây, thì rất khó để thấy có hy vọng nào trong tương lai gần về việc đưa ra giải pháp hai nhà nước”.
Đức Tổng Giám mục Gallagher cho biết Tòa Thánh tiếp tục ủng hộ “một lệnh ngừng bắn hoàn toàn... trả tự do cho tất cả các con tin... bảo vệ thường dân và tôn trọng hoàn toàn luật pháp quốc tế... tái thiết Gaza... ổn định tình hình ở Bờ Tây và tôn trọng người dân Palestine ở đó”.
Theo thông tin của Vatican, tình trạng sức khỏe của Đức Phanxicô vẫn còn mong manh và nếu ngài không lành hẳn thì thời gian dưỡng bệnh của ngài sẽ kéo dài, công việc sẽ phải nhẹ bớt: đây có phải là điều Vatican dự trù không? Liệu chúng ta có thể hình dung tình trạng này sẽ giống tình trạng của Đức Gioan-Phaolô II trước khi ngài qua đời không?
Trong các tình huống này, Vatican phụ thuộc vào sức khỏe của Giáo hoàng và vào thiện chí của ngài. Trên thực tế, đây chính là trường hợp của Đức Phanxicô, ngài có nghĩ đến việc liệu mình có thể hoàn thành nghĩa vụ không? Ngài đã nói, ngài sẽ từ nhiệm nếu ngài cảm thấy không có khả năng để chu toàn chức vụ. Ngay từ những tháng đầu tiên ngài đã viết về việc này. Nhưng khi tôi nói với quý vị về chuyện này, ngài có vẻ đã khả quan hơn…
Ngược lại, chúng ta có thể hình dung một vụ từ nhiệm không?
Về mặt pháp lý, một Giáo hoàng không từ nhiệm, ngài không bỏ chức vụ của ngài. Chữ “từ nhiệm” là một chữ đúng trong nghĩa này. Vậy chúng ta có thể hình dung Đức Phanxicô quyết định từ bỏ trách nhiệm của ngài – như Đức Bênêđíctô XVI đã làm. Khi quyết định từ bỏ chức vụ của mình, Đức Bênêđíctô XVI là người đầu tiên cho rằng, tiêu chuẩn thể lý là yếu tố quyết định trong việc thực thi quyền lực. Vì thế tình huống của thời Đức Gioan-Phaolô II là cách mạng: có báo cáo cho rằng những năm cuối cùng của ngài, sự vắng mặt của ngài không giúp gì cho việc điều hành Giáo hội. Đây chính là tình huống mà Đức Bênêđíctô XVI muốn tránh và rõ ràng Đức Phanxicô cũng muốn tránh.
Đây có phải là viễn cảnh mà Vatican phải đối diện không?
Đúng, tôi nghĩ các Hồng y đã sẵn sàng về Rôma. Đây là dấu hiệu không thể lầm. Hiện nay có ba mươi Hồng y ở Rôma. Các Hồng y khác sẽ xác nhận dấu hiệu này.
Tháng 12 năm ngoái, Đức Phanxicô đã làm nhẹ thể thức chôn cất ngài, khi ngài qua đời thì tang lễ sẽ tổ chức như thế nào. Liệu đây có phải là nghi thức chỉ dành cho ngài hay sẽ là một thay đổi mang tính quyết định?
Chúng tôi không thể nói được. Chúng tôi hiểu với những gì ngài tuyên bố, đó là để làm nhẹ bớt sự trang trọng của buổi lễ. Có quàn thi thể cho giáo dân đến viếng không? Tang lễ sẽ tổ chức như thế nào? Không ai biết… Mỗi Giáo hoàng sẽ quyết định theo cách của mình. Tôi nghĩ về vấn đề này Giáo hoàng sắp tới sẽ không buộc phải làm như vậy.
Cho đến bây giờ, Đức Phanxicô đã phong rất nhiều Hồng y cử tri, như thế sẽ có người kế nhiệm theo đường lối của ngài.
Trong chừng mực nào ngài đã chuẩn bị cho việc kế thừa ngài? Đức Phanxicô đã phong 110 Hồng y trong số 138 Hồng y hiện nay. Người kế nhiệm ngài có buộc phải theo đường hướng của ngài không?
Đúng, Đức Phanxicô đã phong rất nhiều Hồng y theo đường hướng của ngài. Theo quan điểm của tôi, đây lại là một vấn đề vì toàn bộ sự nhạy cảm của Giáo hội thể hiện qua Hồng y đoàn. Bây giờ không còn như thế.
Như thế Giáo hoàng tiếp theo sẽ là Phanxicô II, là Giáo hoàng theo đường lối của Giáo hoàng Argentina?
Không có gì chắc chắn. Mật nghị luôn có những bất ngờ. Năm 2013, mọi người nghĩ Giáo hoàng tiếp theo sẽ là Giáo hoàng theo đường lối “ratzingueur”, có nghĩa là theo đường hướng của Đức Bênêđíctô XVI. Nhưng không phải!
Những mật nghị trước diễn ra rất nhanh, mật nghị này có thể kéo dài hơn không? Nếu có, vì sao?
Các mật nghị diễn ra theo các phiên họp, nhưng một cách không chính thức. Mật nghị lần cuối diễn ra rất nhanh, vì việc bầu Hồng y Bergoglio thực sự đã diễn ra trước khi các Hồng y vào Nhà nguyện Sixtine. Một mật nghị với bảy hoặc tám vòng bầu, nhưng quý vị thấy, hiểu biết mật nghị là cả một hiểu biết! Việc dự đoán trong vấn đề này là cả một cá độ! Câu hỏi được đặt ra, liệu một mật nghị có được nổi bật và được một nhóm Hồng y theo hay không.
Làm sao định dạng các chiều hướng khác nhau của Giáo hội, các chiều hướng này sẽ “chạm trán” như thế nào trong tiến trình bầu cử?
Đặc điểm của các Hồng y trong mật nghị: họ ở xa Rôma. Nói cách khác, họ là những người không biết nhau, nếu có thì rất ít. Như thế những người bầu Giáo hoàng sẽ đóng một vai trò quan trọng, nhưng đây là “điểm yếu” vì như thế sẽ làm đảo lộn cuộc bầu cử. Số lượng ở đây rất quan trọng vì sẽ xa truyền thống phân chia người cấp tiến và người truyền thống.
Sau hai triều giáo hoàng tương đối ngắn, nếu chọn Giáo hoàng trẻ có phải là điều tối quan trọng cho chức vị Giáo hoàng không?
Kể từ thế kỷ 19, thời gian trung bình của một giáo hoàng trong thời hiện đại là 15 năm. Với Đức Bênêđíctô XVI và Đức Phanxicô chúng ta ở dưới mức trung bình này. Tôi không thấy các Hồng y chọn người trẻ. Tuổi già là một đảm bảo.
Theo ông, chân dung các Hồng y có thể làm Giáo hoàng như thế nào?
Tôi nghĩ các Hồng y sẽ bầu một Giáo hoàng ít tạo chia rẽ hơn, nhất là có khả năng điều khiển Giáo triều. Vấn đề triều của Đức Phanxicô là ngài đã đào một hố sâu giữa chính quyền của ngài và Giáo triều. Đó là lý do vì sao tôi nói nên bầu một người Ý vì trong bối cảnh hiện nay, chỉ có người Ý mới đặt Giáo triều lên đường ray sau nhiều năm Giáo triều bị mất uy tín.
Christophe Dickès là sử gia, chuyên gia về quan hệ quốc tế, Công giáo đương đại và Tòa thánh.
Ngày thứ hai 3 tháng 3, Đức Phanxicô, đã 88 tuổi, bị suy hô hấp hai lần, ngài vào bệnh viện Gemelli ngày 14 tháng 2 vì bị viêm phổi. Bốn Hồng y có nhiều khả năng kế nhiệm ngài.
Ngày 3 tháng 3, ngài bị hai đợt suy hô hấp, vì thế các câu hỏi về người kế nhiệm ngài được đặt ra cấp bách hơn bao giờ hết. Nhưng ai sẽ là người có thể thay thế ngài? Với tình trạng sức khỏe suy yếu của Đức Phanxicô hiện nay, tương lai ngày càng bất định với ngài.
Hồng y Quốc vụ khanh Pietro Parolin
Hồng y Pietro Parolin, nhân vật thứ hai của Vatican là một trong các Hồng y thân cận với Giáo hoàng, ngài là một trong các nhân vật có khả năng nhiều nhất để làm Giáo hoàng. Trong hoạt động ngoại giao của ngài, ngài đã đi nhiều nơi trên thế giới và am tường các Giáo hội địa phương.
Các đối thủ chỉ trích ngài về tính hiện đại, về tầm nhìn toàn cầu, về chính sách hòa giải với Trung Quốc và về sự xóa mờ của ngài dưới bóng Đức Phanxicô. Nhưng mọi người đều công nhận ngài là người tìm kiếm hòa bình, hiệp nhất và dè chừng với các đảng phái, điều này làm cho ngài là nghệ nhân của thỏa thuận.
Hồng y Anders Arborelius
Bên ngoài nước Ý có nhiều ứng viên, trong số này có Tổng giám mục Thụy Điển Anders Arborelius, giáo phận Stockholm. Ngài ở một Quốc gia chủ yếu theo đạo tin lành, ngài trở lại đạo công giáo và ủng hộ chủ nghĩa đại kết, như việc thống nhất các nhà thờ Thiên chúa giáo.
Ngài có một đường hướng thiêng liêng , tránh các xung đột ý thức hệ, điều này làm cho ngài được cả giới bảo thủ lẫn giới cấp tiến yêu thích. Ngài thúc đẩy việc bảo vệ môi trường, ngài nói thạo tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Đức và Hà Lan. Kể từ năm 2020, ngài ở trong Hội đồng Kinh tế của Giáo hội, ngài không hiểu rõ các ngõ ngách của Vatican nên ngài tránh xa.
Hồng y Jean-Marc Aveline
Hồng y là Tổng giám mục của giáo phận Marseille nước Pháp, là người thân cận với Tòa Thánh nhất. Ngài ở vị trí kế nhiệm thứ mười ba, nhưng ngài được Giáo hoàng gần gũi và mến chuộng sau chuyến đi Marseille mùa hè năm 2023. Xuất thân từ một gia đình Pháp ở Algeria, ngài nhạy cảm với vấn đề di cư và liên tôn.
Tốt nghiệp khoa ngôn ngữ Hy Lạp, Do Thái và Thần học. Giáo dục và nghiên cứu là hai lãnh vực ngài yêu thích. Ngài thành lập Viện Khoa học và Thần học Tôn giáo để thúc đẩy chủ nghĩa đa văn hóa và tôn giáo “đón nhận và đối thoại”. Ngài được biết đến nhiều trong nhóm tiến bộ của Giáo hội.
Hồng y Luis Antonio Gokim Tagle
Tuy ngài ít được mong chờ nhưng không phải là không thể, Giáo hoàng tiếp theo có thể là một Giáo hoàng Á châu, tên tuổi của ngài thường được nhắc đến. Ngài là cựu Tổng giám mục Manila, Phi Luật Tân, là Phó tổng trưởng Bộ Truyền giáo, phụ trách các vấn đề truyền bá Kitô giáo. Ngài theo chủ nghĩa tiến bộ, thân cận với Đức Phanxicô có thể hiện thân cho sự tiếp nối triều Đức Phanxicô.
Là nhà thương thuyết kiên trì, ngài ủng hộ nhiều mục tiêu phổ biến như sinh thái, công lý xã hội, trong quá khứ ngài chống phá thai và an tử. Tiếng Tagalog là tiếng mẹ đẻ của ngài, ngài biết tiếng Anh, Ý và nói được một ít tiếng Pháp, tiếng Hàn, tiếng Quan Thoại và tiếng Latinh.
Hiện diện và đồng tế trong thánh lễ, có một số giám mục và đông đảo các linh mục. Bắt đầu là cuộc rước với các lá cờ của các nước có thành viên Hội Thừa sai Hàn Quốc đang hoạt động, như Papua New Guinea, Đài Loan, Trung Quốc, Kampuchia, Mozambique, Philippines, Mêhicô và Mỹ.
Buổi lễ trùng vào dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Thừa sai Hàn Quốc, ngày 26 tháng Hai năm 1975, nhờ trực giác của Đức cha Gioan Thôi Tại Thiện (Choi Jae-seon), nguyên Giám mục Giáo phận Phật Sơn (Busan) và với sự phê chuẩn của Hội đồng Giám mục nước này. Hiện nay, Hội có 87 thành viên, gồm các linh mục và thừa sai giáo dân. Về phương diện giáo luật, Hội được coi như một tu đoàn tông đồ thuộc quyền giáo phận, dưới trách nhiệm của Đức Tổng giám mục Giáo phận Hán Thành.
Hiện nay, hàng chục thừa sai Hàn Quốc thuộc Hội này đang hoạt động tại chín quốc gia, trong đó có Papua New Guinea, Đài Loan, Hong Kong và cả một số nước Phi châu và Mỹ châu. Hai trong số ba linh mục thừa sai được gửi đi lần này tới Đài Loan, và vị thứ ba được gửi tới Nam Mỹ.
Trong thánh lễ, Đức Tổng giám mục Giáo phận Hán Thành đã trao thánh giá truyền giáo bằng gỗ cho ba linh mục, tượng trưng sự dấn thân trong hành trình loan báo Tin mừng. Còn Đức Tổng giám mục Giovanni Gasparri, Sứ thần Tòa Thánh, đã đọc sứ điệp của Đức Thánh cha, do Đức Hồng y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, ký tên, trong đó Đức Thánh cha mời gọi các thừa sai Hàn Quốc hãy nhìn biến cố quan trọng kỷ niệm 50 năm thành lập Hội thừa sai, không phải như một đích điểm, nhưng như một “nguồn hứng khởi để tiếp tục tận tụy loan báo Tin mừng, vượt thắng sự dửng dưng đối với tôn giáo đang lan tràn trong xã hội ngày nay, để loan báo Tin mừng một cách hiệu quả trong những tình trạng khó khăn”.
Trong bài giảng, Đức Tổng giám mục Trịnh Thuần Trạch bày tỏ lòng biết ơn đối với những hy sinh và hoạt động mà Hội Thừa sai Hàn Quốc đang thực hiện và nhắc nhớ rằng “truyền giáo chính là bản chất và là lý do hiện hữu của Giáo hội, vì các tín hữu Kitô, đã đích thân gặp gỡ Thiên Chúa, chúng ta không giữ kín tình thương của Thiên Chúa trong lòng chúng ta”.
Một tôi tớ tận tụy của Thiên Chúa
Tuyên bố của Giáo phận Kafanchan nói rằng “Cha Sylvester là một tôi tớ tận tụy của Thiên Chúa, người đã làm việc quên mình trong vườn nho của Chúa, truyền bá thông điệp hòa bình, tình yêu và hy vọng. Ngài luôn luôn sẵn sàng và thân thiện với giáo dân của mình. Sự ra đi đột ngột của cha đã để lại một khoảng trống không thể xóa nhòa trong gia đình giáo phận của chúng tôi và chúng tôi chia sẻ nỗi đau này với gia đình, bạn bè và tất cả những người biết đến và yêu mến cha”.
Giáo phận mời gọi mọi người hiệp nhất như một gia đình cầu nguyện cho linh hồn cha được an nghỉ, kêu mời tất cả các linh mục, tu sĩ và giáo dân dâng Thánh lễ, lần hạt Mân Côi và cầu nguyện cho sự an nghỉ vĩnh hằng của Cha Sylvester, người đã hy sinh mạng sống để phục vụ Thiên Chúa và nhân loại.
Đồng thời, linh mục chưởng ấn của giáo phận cũng chia sẻ: “Chúng tôi muốn mời gọi những người trẻ và cộng đoàn hãy giữ bình tĩnh và kiên định trong lời cầu nguyện”.
Tình trạng bắt cóc đe dọa các linh mục tu sĩ ở Nigeria
Chỉ trước đó hai ngày, Cha Philip Ekeli và chủng sinh Peter Andrew đã bị những tay súng bắt giữ sau vụ tấn công vào đêm Chúa Nhật, ngày 2/3/2025, tại Nhà thờ Thánh Phêrô ở cộng đồng Iviukwa, khu vực chính quyền địa phương Etsako East, bang Edo (miền Nam Nigeria). Bất chấp sự can thiệp của đội bảo vệ, vị linh mục và chủng sinh đã bị bắt và lôi vào bụi rậm.
Trong khi đó, Cha Abraham Saummam của giáo phận Jalingo, bị bắt cóc vào ngày 22/2/2025, vẫn còn trong tay những kẻ bắt cóc.
Theo Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ, việc bắt cóc để tống tiền đã trở thành một hoạt động kinh doanh ở Nigeria và các linh mục thường xuyên trở thành mục tiêu
Thông cáo của Phòng Báo chí Tòa Thánh công bố, chiều tối thứ Tư, ngày 12 tháng Ba vừa qua, nói rằng: “Tình trạng bệnh lý của Đức Thánh cha vẫn không thay đổi, trong khuôn khổ tình trạng sức khỏe phức tạp của ngài. Chụp X-quang phần ngực thực hiện hôm 11 tháng Ba xác nhận sự cải tiến trong những ngày trước đó.
Đức Thánh cha tiếp tục oxy trị liệu, với lưu lượng cao vào ban ngày, và dùng máy trợ thở vào ban đêm, khi ngài nghỉ ngơi.
Sáng ngày 12 tháng Ba, sau khi tham dự cuộc tĩnh tâm trực tuyến của Giáo triều Roma, được nối với Đại thính đường Phaolô VI, Đức Thánh cha đã chịu Mình Thánh Chúa và dành thời giờ để cầu nguyện, sau đó ngài được vật lý trị liệu về hô hấp và vận động.
Ban chiều, sau khi tham dự cuộc tĩnh tâm với Giáo triều Roma, Đức Thánh cha tiếp tục cầu nguyện, nghỉ ngơi và thực hành vật lý trị liệu về hô hấp”.
Phòng Báo chí Tòa Thánh cũng nhắc đến tin tức báo chí về việc Đức Thánh cha sẽ viếng thăm thành Nicea, bên Thổ Nhĩ Kỳ vào tháng Năm năm nay, nhân dịp kỷ niệm 1.700 năm Công đồng chung đầu tiên của Giáo hội tại đây, và minh xác rằng cuộc viếng thăm này đang còn ở trong vòng nghiên cứu và chưa hề được loan báo.
Sau cùng, Phòng Báo chí cho biết rất có thể ngày thứ Năm, 13 tháng Ba sẽ không có thông cáo y khoa về sức khỏe của Đức Thánh cha, nhưng một số tin tức tổng quát sẽ được thông báo cho các ký giả.
Từ một tuần nay tình trạng sức khỏe của Đức Phanxicô đã được cải thiện. Ngày thứ hai 10 tháng 3, các bác sĩ công bố tiên lượng “dè dặt”, như thế nhiễm trùng đường hô hấp của ngài không còn nguy hiểm.
Chưa biết khi nào ngài sẽ xuất viện, như thế các tình huống nào có thể xảy ra? Giáo hoàng đã khỏe, các bản tin y tế khả quan nhưng ngài có thể bị tái phát. Vài tuần gần đây tình trạng sức khỏe của ngài vẫn chưa chắc chắn. Một nguồn tin Vatican cho biết: “Vẫn còn các khía cạnh quan trọng tiềm ẩn khác, ngài đã 88 tuổi và hồ sơ bệnh lý của ngài phức tạp.”
Các nhà vatican học cho biết hai bản tin y tế cảnh báo giới truyền thông nhưng không báo trước. Ngày 22 tháng 2, Vatican cho biết Đức Phanxicô bị suy hô hấp kéo dài, ngài cần truyền máu để điều trị thiếu máu và giảm tiểu cầu. Ngày 28 tháng 2, tình trạng của ngài đáng lo, ngài bị các cơn co thắt phế quản và nôn mửa, ngài cần tiếp tục điều trị, Ban Y tế chưa cho biết khi nào ngài sẽ xuất viện.
Tình trạng ít nặng hơn?
Khi ngài có thể về lại Vatican, nhiều bối cảnh có thể có. Trước hết ngài tiếp tục điều hành Giáo hội. Trong quá khứ, ngài đã hồi phục mạnh mẽ. Tháng 4 năm 2023, ngài dự Ngày Thế Giới Trẻ Lisbon sau hai tháng phẫu thuật ruột.
Tháng 9 ngài có chuyến đi 11 ngày đến Châu Á và Đại Dương khi ngài 87 tuổi và khả năng vận động đã bị yếu. Sức đề kháng của ngài làm mọi người ngạc nhiên. Gần đây Tổng giám mục Bari Giuseppe Satriano nói với báo chí: “Ngài là một chiến binh, ngài sẽ chiến thắng trong trận chiến này.”
Tòa Thánh hiện rất kín tiếng về tình trạng hiện tại của ngài, kể từ ngày như vậy 14 tháng 2, ngài chưa xuất hiện trước công chúng. Thời gian hồi phục của ngài có thể kéo dài và đòi hỏi phải hạn chế làm việc một thời gian. Giống như những năm cuối của Đức Gioan-Phaolô II, Đức Phanxicô có thể hạn chế các cuộc họp và nhờ các cộng sự của ngài thay thế. Gần đây ngài đã nhờ các Hồng y cử hành các thánh lễ theo lẽ ngài phải chủ trì.
Ngài có khả năng từ nhiệm không?
Đức Phanxicô xem chức giáo hoàng là chức suốt đời ad vitam, dù ngài không loại trừ khả năng từ nhiệm trong trường hợp bất khả kháng. Vấn đề này càng được đặt ra hơn trong Năm Thánh 2025. Ngài đã có chương trình làm việc: đảm trách các buổi tiếp kiến, chủ sự các buổi lễ. Sự vắng mặt của ngài vì lý do sức khỏe có thể làm giáo dân thất vọng đôi chút.
Trong bối cảnh này, khi có thông báo từ bệnh viện về việc triệu tập một công nghị để phong các thánh – hiện chưa có ngày cụ thể – đã đặt ra nhiều câu hỏi. Dù sao Đức Phanxicô đã để cho ngài một cánh cửa: trong dịp này ngài có thể từ nhiệm như Đức Bênêđíctô XVI đã từ nhiệm năm 2013 trong công nghị.
Nhưng với một số người thì khả năng này khó có thể xảy ra, vì nếu ngài muốn từ nhiệm, ngài sẽ không thông báo việc này trước các hồng y. Một nhà vatican học cho rằng: “Ngài sẽ đứng trước giáo dân trong giờ Kinh Truyền Tin hay trong một buổi tiếp kiến chung để loan báo.”
Vẫn còn những điều chưa chắc chắn trong các diễn biến sắp tới. Nhiều quan sát viên cho rằng với Đức Phanxicô họ khó đoán trước những gì sẽ xảy ra.
Tin báo chí cho biết có thể ngài sẽ được chụp cắt lớp vi tính (CT) một lần nữa để rõ hơn về bệnh trạng của ngài.
Giáo sư bác sĩ Dario Leosco, Chủ tịch hiệp hội các bác sĩ lão khoa, cho rằng quyết định để Đức Thánh cha xuất viện sẽ được đưa ra trong vài ngày tới đây. Trong cuộc phỏng vấn dành cho báo La Repubblica, Cộng hòa, số ra ngày 11 tháng Ba ở Ý, ông nói: “Bệnh nhân cao tuổi ở lâu trong bệnh viện là điều không tốt, tuy rằng sự theo dõi và săn sóc bệnh nhân ở đó tốt hơn. Theo tôi, việc mau lẹ để Đức Thánh cha trở về Vatican là điều nên làm”.
Sáng thứ Tư, ngày 12 tháng Ba, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết Đức Thánh cha đã qua đêm bình an. Ngài tiếp tục được giúp tăng cường oxy để thở ban ngày, và ban tối thì dùng máy trợ thở. Đức Thánh cha vẫn dự tuần tĩnh tâm của Giáo triều qua Video.
Ngày thứ Năm, ngày 13 tháng Ba là kỷ niệm đúng 12 năm Đức Thánh cha được bầu làm Giáo hoàng thứ 266 của Giáo hội Công giáo.
Cuối cùng Đức Phanxicô ra khỏi tình trạng nguy hiểm sau gần một tháng nằm bệnh viện, trong tương lai gần ngài có thể về lại Vatican.
Theo một nguồn tin Vatican, ngài đã có một đêm yên bình, ngài theo dõi video cầu nguyện và các suy niệm Mùa Chay tổ chức ở Hội trường Phaolô VI. Ngài cầu nguyện ở nhà nguyện nhỏ ở tầng 10 của Bệnh viện Gemelli và tập vật lý trị liệu hô hấp để có thể thở được dễ dàng.
Theo bản tin sức khỏe mới nhất, tình trạng sức khỏe của ngài được cải thiện, xét nghiệm thử máu tốt, ngài đáp ứng tốt với điều trị. Các bác sĩ cho biết ngài sẽ ở lại bệnh viện thêm vài ngày nữa. Sự thận trọng cho thấy ngài có thể nhanh chóng về lại Vatican. Như thế ngài sẽ về Vatican trước Chúa nhật Phục sinh 20 tháng 4, ngày lễ quan trọng nhất trong lịch phụng vụ công giáo.
Sau thời gian dài vắng bóng, sự hiện diện của ngài trong lễ Phục sinh sẽ là biểu tượng mạnh mẽ cho 1,4 tỷ người công giáo dù chúng ta không chắc ngài có thể dự các buổi lễ.
Tin đồn
Chẩn đoán tình trạng sức khỏe của ngài là tốt nhưng các bác sĩ cho biết, ngài cần ở lại bệnh viện thêm vài ngày. Vatican phủ nhận tin đồn Nhà Thánh Marta đang sửa chữa để chuẩn bị ngài về, một dấu hiệu cho thấy ngày về của ngài chưa ngay lập tức.
Bà Simonetta Maronge, nhân viên làm việc ở Nhà Thánh Marta trả lời trên đài truyền hình AFP, bà cho biết bà sốt ruột chờ ngài về: “Chúng tôi vô cùng yêu mến ngài, không có ngài, Nhà Thánh Marta vắng lạnh,” cũng như nhiều tu sĩ và giáo dân, bà đến đây để tỏ lòng quý mến ngài và để cầu nguyện cho ngài.
Ông Mimmo Laudando, một người hưu trí Ý, ông rất yêu mến Đức Phanxicô: “Khi ngài được bầu, tôi mơ được làm tài xế cho ngài. Bây giờ tôi đến đây với xe của tôi, trong mong muốn nếu ngài cần, tôi sẽ đưa ngài về.”
Tối thứ hai, một nguồn tin Vatican cho biết “ngài có những dấu hiệu tích cực trong quá trình tiến triển, nhưng vẫn phải hết sức thận trọng và cảnh giác, vì bệnh viêm phổi chưa kết thúc (…) dù không còn nguy hiểm nào”. Ngày 14 tháng 2, ngài vào bệnh viện, mới đầu ngài bị viêm một lá phổi, sau đó cả hai lá phổi đều bị viêm, giáo sư bác sĩ Sergio Alfieri đã lo ngại cho tính mạng của ngài, bây giờ ngài ở ngoài mọi nguy hiểm.
Vào bệnh viện lần này là lần lâu nhất kể từ khi ngài làm giáo hoàng, trong những năm gần đây ngài bị nhiều vấn đề: thừa cân, đau lưng, bị mổ nhiều lần: phẫu thuật đại tràng và bụng, nhiễm trùng đường hô hấp tái phát. Các vấn đề về sức khỏe đã đặt ra câu hỏi về khả năng ngài tiếp tục đảm trách chức vụ của ngài được hay không.
Gần gũi trong tinh thần với Đức Thánh Cha
Đức Tổng Giám mục Pezzi giải thích: “Tin tức về bệnh tình của Đức Thánh Cha cũng đã loan đến thành phố của chúng tôi. Do đó, không có cơ hội gặp Đức Thánh Cha, chúng tôi quyết định hành hương đến Gemelli, nơi Đức Thánh Cha nằm viện một thời gian, để bày tỏ tình cảm của chúng tôi với ngài theo cách này. Các tín hữu Nga, không chỉ người Công giáo, đã phản ứng rất quảng đại. Thực tế là tôi đã nhận được nhiều biểu hiện tình cảm dành cho Đức Thánh Cha và nhiều báo cáo về các sáng kiến cầu nguyện cho ngài”.
Đôi vợ chồng trẻ Elizaveta và Andrei chia sẻ: “Hành trình Năm Thánh của chúng tôi bắt đầu bằng việc bước qua Cửa Thánh. Ngay sau đó, Đức cha Pezzi đã chủ sự giờ cầu nguyện tại mộ Thánh Phêrô và có bài giáo lý giúp chúng tôi suy tư. Buổi tối, chúng tôi đã cử hành thánh lễ tại nhà thờ Đức Mẹ Guadalupe trên đường Via Aurelia”.
Mối liên kết chặt chẽ giữa Đức Thánh Cha và các tín hữu Nga
Đức Cha Nikolaj Dubinin, dòng Phanxicô, giám mục phụ tá giáo phận Mẹ Thiên Chúa tại Moscow, là giám mục Công giáo đầu tiên mang quốc tịch Nga được bổ nhiệm kể từ khi các tổ chức tôn giáo được tái lập sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản. Ngài chia sẻ: “Chúng tôi đã lên kế hoạch cho cuộc gặp với Đức Thánh Cha, chúng tôi biết rằng ngài cũng rất mong muốn điều đó. Chúng tôi hiểu rằng chúng tôi không thể nhìn thấy ngài bằng mắt thường, tuy nhiên chúng tôi đã cố gắng gặp ngài cách thiêng liêng, để tăng cường mối liên kết thiêng liêng với ngài. Mỗi người hành hương đều trải nghiệm khoảnh khắc này một cách sâu sắc, cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha được mong đợi từ lâu, nhưng chúng tôi cảm thấy rất gần gũi với ngài”.
Đức Cha Dubinin khẳng định: “Có một mối liên kết chặt chẽ, chúng tôi biết rằng ngài cầu nguyện cho Giáo hội của chúng tôi. Chúng tôi biết ơn ngài và cố gắng sống hiệp nhất. Chúng tôi cũng nhớ cuộc họp trực tuyến với những người trẻ của chúng tôi và một số khoảnh khắc mà ngài bày tỏ nỗi đau khổ, theo tinh thần Phúc Âm, vì hòa bình bị chà đạp”.
Việc không có một bức hình nào của Đức Phanxicô kể từ khi ngài vào bệnh viện Gemelli ngày 14 tháng 2 đã làm dấy lên nhiều câu hỏi. Không chỉ là sự thiêng liêng hóa hình ảnh giáo hoàng nhưng dường như đáp ứng một logic đơn giản của quyền lực và sự thận trọng trong y khoa.
“Mọi người đều có tự do lựa chọn cách thức và thời điểm để nhìn”: câu trả lời ngắn gọn được các nguồn tin của Vatican đưa ra trong tuần này để trả lời cho câu hỏi của các nhà báo về việc này cho thấy Đức Phanxicô là bậc thầy về truyền thông và về hình ảnh của ngài. Những hình ảnh do trí tuệ nhân tạo làm được lưu hành khi ngài mới vào bệnh viện cho thấy sự thiếu quản lý các công cụ này, làm một số người dùng mạng xã hội bị lầm.
Vấn đề quyền đối với hình ảnh là vấn đề trọng tâm kể từ khi báo chí đại chúng phát triển. Một trong những xúc phạm nghiêm trọng hình ảnh giáo hoàng nhất bắt nguồn từ lần Đức Piô XII hấp hối tháng 10 năm 1958. Bác sĩ riêng của ngài Riccardo Galeazzi-Lisi, người có liên quan đến các mạng lưới lừa đảo và mafia, đã dám chụp hình Đức Piô XII khi ngài hấp hối. Là người giữ danh hiệu tổng giám mục của giáo hoàng và là người đứng đầu nhóm y tế, ông đã lợi dụng quyền của mình cho đến những giờ cuối cùng của Giáo hoàng ở Dinh nghỉ hè Castel Gandolfo của các giáo hoàng, bán thông tin và hình ảnh cho các phương tiện truyền thông vô đạo đức. Nhà báo bác sĩ người Argentina Nelson Castro viết trong quyển Sức khỏe của các giáo hoàng (La Santé des papes, nxb. Payot, 2023): “Do tính đồi trụy không thể cứu chữa của mình, ông Galeazzi-Lisi lợi dụng tình huống bi thảm này để lẻn vào phòng bệnh. Ông giấu máy ảnh Polaroid trong áo vét. Ông bán các ảnh này cho báo Paris Match và đã gây tai tiếng trên toàn thế giới. Bác sĩ Galeazzi-Lisi đã làm cho tình trạng của Giáo hoàng nặng thêm khi ông dùng kỹ thuật thử nghiệm: ướp xác Đức Piô XII bằng các loại thảo mộc để giữ thi thể của ngài, làm quá trình phân hủy diễn ra nhanh hơn… đến mức thi thể của ngài sắp phát nổ tung khi chuyển từ Dinh Castel Gandolfo về Rôma. Được biết đến với biệt danh “người làm nổ giáo hoàng hoặc tổng giám mục tham nhũng”, bác sĩ Galeazzi-Lisi bị cấm vĩnh viễn khỏi Vatican và bị ra khỏi Hiệp hội Bác sĩ Ý.
Đức Gioan-Phaolô II, hình ảnh được kiểm soát
Những ký ức siêu hiện thực và đau thương của năm 1958 đã làm cho các Giáo hoàng kế nhiệm Đức Piô XII kiểm soát sức khỏe và hình ảnh của mình tốt hơn. Năm 1996, trong Hiến chế Tông đồ của Đại học Dominica theo Lịch Gregorian, Đức Gioan Phaolô II đã ban hành một quy tắc rõ ràng: “Không ai có quyền dùng hình ảnh, bất kỳ bằng phương tiện nào để chụp các hình ảnh Giáo hoàng nằm liệt giường, bệnh hay qua đời, không được thu âm các lời nói của ngài để đăng sau đó.” Các luật lệ này cũng áp dụng cho các bức ảnh chụp sau khi Giáo hoàng qua đời, Đức Phanxicô nêu rõ nguyên tắc: “Nếu bất kỳ ai, sau khi Giáo hoàng qua đời, muốn giữ lại những bức ảnh làm bằng chứng tài liệu, họ phải xin phép Hồng y Nhiếp chính, ngài sẽ không cho phép họ chụp hình nếu Giáo hoàng không mặc phẩm phục giáo hoàng.”
Trong lần Đức Gioan-Phaolô II nằm bệnh viện năm 2005, các bức ảnh ngài mặc áo phụng vụ dự thánh lễ ở nhà nguyện của bệnh viện Gemelli cùng với Tổng giám mục thư ký Stanislaw Dziwisz của ngài được loan truyền. Một bức ảnh khác chụp ngài với ban y tế trước khi rời bệnh viện ngày 13 tháng 3 năm 2005 cũng được loan truyền. Nhưng không có hình ảnh nào trong những ngày cuối cùng của ngài ở Dinh Tông tòa: những hình ảnh cuối là hình ảnh ngài suy yếu đau đớn trong những ngày 20, 27 và 30 tháng 3 năm 2005, lúc này ngài đã phải phẫu thuật mở khí quản nên không thể nói. Đức Gioan-Phaolô II không che giấu nỗi đau của ngài, ngài đưa vào giáo huấn nhưng ngài cũng không để các bức hình “bị đánh cắp” lan truyền. Những hình ảnh về vụ ngài bị ám sát hụt ngày 13 tháng 5 năm 1981 đã lan truyền khắp thế giới, được đưa vào trong các bài tường thuật, minh chứng ngài phải đối diện với cơn đau thể xác theo tinh thần của Chúa Kitô.
Sự thận trọng của Đức Phanxicô
Trong những lần nhập viện năm 2021 và 2023, hình ảnh Đức Phanxicô bị phát tán khi ngài đang làm việc, kể cả bức ảnh ngài rửa tội cho một em bé. Nhưng với tính cương nghị của ngài, ngài không muốn tự đề cao, ngài không muốn bị chụp hình khi nằm trên giường bệnh.
Bên cạnh những ghi chép lịch sử liên quan đến lịch sử của giáo hoàng, câu hỏi trung tâm vẫn là quyền “riêng tư” của người đã 88 tuổi, họ không bị buộc phải cho công chúng thấy mình trong tình trạng suy yếu khi phải dùng máy trợ hô hấp. Trong lần họp báo ngày 21 tháng 2, các bác sĩ bệnh viện Gemelli trả lời các nhà báo: “Quý vị có muốn người mẹ chín mươi tuổi của mình bị đưa ra trước công chúng trong bộ đồ ngủ không?”
Tối thứ năm, Đức Phanxicô phát sóng thông điệp thu thanh, với giọng nói khàn khàn đau đớn, ngài cám ơn giáo dân đến Quảng trường Thánh Phêrô cầu nguyện cho ngài. Giáo dân hiểu được khó khăn của ngài. Chúng ta cần thận trọng trong thời gian này để tránh cho ngài những mệt mỏi không cần thiết.
1. Ngừng dùng thuốc tạm thời
Các vấn đề về hô hấp phức tạp, khiến Ngài phải nhập viện với nhiều cơn cấp tính đe dọa tính mạng, phần nào do việc điều trị viêm phế quản mãn tính bằng liều cortisone cao – một liệu pháp không thể kéo dài mà không làm suy yếu hệ miễn dịch và tăng nguy cơ nhiễm trùng. Để kéo dài cuộc sống, Giáo hoàng sẽ cần sự chăm sóc y tế chuyên nghiệp ngay tại Vatican, thay vì chỉ dựa vào đội ngũ bác sĩ chuyên gia của Gemelli khi tình hình đã quá trầm trọng.
2. Cải thiện điều kiện sống
Truyền thông Ý gần đây đã nhiều lần bàn tán về việc cải tạo căn hộ của Giáo hoàng tại nhà khách Santa Marta, nhằm phù hợp với nhu cầu của một người cao tuổi dễ bị nhiễm trùng và mắc các bệnh về hô hấp. Trong khi đó, căn hộ tại Cung điện Tông đồ – dù dễ được trang bị công nghệ y tế hiện đại – có thể không đáp ứng được mong muốn “ở giữa mọi người” của Ngài.
3. Chấm dứt những chuyến đi dài mỏi mòn
Chuyến hành trình gian khổ đến Indonesia, Đông Timor, Papua New Guinea và Singapore vào tháng 9 năm ngoái có thể sẽ là lần cuối cùng Giáo hoàng đảm nhận một chuyến đi quá dài. Việc điều chỉnh thời gian bay và thích ứng với khí hậu, múi giờ khác biệt sẽ càng khó khăn hơn, làm hạn chế khả năng tham gia các chuyến đi xa. Trong trường hợp tốt nhất, những chuyến đi ngắn như chuyến đi đến Nicaea nhân dịp Công đồng vẫn có thể được duy trì.
4. Giảm bớt số lượng sự kiện công khai và bài phát biểu
Ngay trước khi nhập viện, Giáo hoàng đã từng rút ngắn các bài phát biểu dài, thỉnh thoảng nhường một phần lời nói cho nhân viên phụ đọc. Hình thức này có khả năng được duy trì sau khi Ngài trở về Vatican, đồng nghĩa với việc số lượng các cuộc gặp gỡ trực tiếp và các bài phát biểu chính thức sẽ giảm đi đáng kể – mặc dù sức hấp dẫn cá nhân của Ngài vẫn không thể thay thế hoàn toàn.
5. Giữ vững quyền lực cá nhân
Khác với giai đoạn cuối triều đại của Giáo hoàng John Paul II, trong ba tuần đầu tại phòng khám, không có dấu hiệu cho thấy Giáo hoàng Francis sẽ chuyển giao quyền quản lý hoặc chia sẻ vai trò quyết định với các nhân viên chủ chốt. Ngài vẫn tự chủ trong các quyết định về nhân sự và cải cách, không trao quyền tự do tương tự như các vị giáo hoàng tiền nhiệm.
6. Biến đổi nhân sự và cơ cấu quản lý
Ngay từ những tuần đầu nhập viện, rõ ràng rằng kinh nghiệm của Giáo hoàng trong các quyết định nhân sự và dự án cải cách vẫn còn nguyên giá trị. Đặc biệt, đối với Thành phố Vatican và Giáo triều La Mã – dù đã có cải cách hiến pháp "Praedicate evangelium" từ tháng 3 năm 2022 – vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Gánh nặng tài chính buộc Ngài phải thành lập ủy ban gây quỹ ngay khi đang nằm viện, trong khi việc cải tổ ban lãnh đạo tại giáo phận Rome dần cho thấy kết quả khả quan.
7. Thượng Hội Đồng Thế Giới chưa chấm dứt nhiệm kỳ
Các dự án cải tổ về kỷ luật, giáo luật và giáo điều vẫn còn đang được Thượng hội đồng Thế giới triển khai. Những nhân vật chủ chốt như Hồng y Gianfranco Ghirlanda, Tổng giám mục Filippo Iannone và đặc biệt là Tổng Giám mục Fernandez – người có mối quan hệ mật thiết với Giáo hoàng – đang đóng vai trò quan trọng trong công cuộc đưa ra những thay đổi cần thiết. Đồng thời, Hồng y Mario Grech và Hồng y Jean-Claude Hollerich cũng sẽ tiếp tục thúc đẩy chương trình “chuyển đổi theo hướng công đồng” của Giáo hội.
8. Nâng tầm vai trò của Parolin và các cộng sự quốc tế
Nếu Giáo hoàng ngày càng hạn chế các chuyến đi quốc tế và giảm bớt cuộc gặp gỡ với các nguyên thủ quốc gia, thì Hồng y Quốc vụ khanh Pietro Parolin và Bộ trưởng Ngoại giao Paul Gallagher sẽ trở thành những nhân vật chủ chốt của Vatican trên trường quốc tế. Các chuyến thăm cấp nhà nước và hội nghị quốc tế đã nhiều lần chứng tỏ vai trò của họ, đặc biệt khi Parolin vừa được ghi nhận đã “tiếp kiến” Tổng thống Litva Gitanas Nauseda trong tuần thứ ba Giáo hoàng nhập viện.
9. Hội đồng Hồng y ngày càng được lắng nghe
Trong bối cảnh sự hiện diện của Giáo hoàng giảm dần, các hồng y – những người luôn mặc chiếc mũ đỏ đặc trưng – sẽ có cơ hội thể hiện vai trò của mình nhiều hơn. Họ không chỉ đảm nhận việc đọc các bài phát biểu do Giáo hoàng duyệt mà còn dẫn dắt các sự kiện quan trọng như buổi cầu nguyện Mân Côi hàng đêm tại Quảng trường Thánh Peter.
Thông điệp thu thanh của Đức Phanxicô đã làm giáo dân xúc động và làm khuấy lên nhiều suy đoán về sức khỏe và cái chết của ngài.
Nếu đây không phải là giọng nói yếu ớt đau đớn của ngài tại Bệnh viện Gemelli thì đó như giọng nói của một người nói từ dưới nấm mồ. Hơi thở ngắn, nhưng lời nói của ngài rất rõ ràng. Ngài nói bằng tiếng mẹ đẻ Tây Ban Nha của ngài. Bản ghi âm có chất lượng kém được phát tối thứ năm ở Quảng trường Thánh Phêrô khi giáo dân lần hạt Mân Côi cầu nguyện cho ngài: “Tôi chân thành cám ơn anh chị em đã cầu nguyện cho sức khỏe của tôi. Tôi sẽ tháp tùng với anh chị em. Xin Chúa chúc lành cho anh chị em và xin Đức Mẹ bảo vệ anh chị em. Tôi xin cám ơn.”
Những lời thì thầm của một giọng nói nhẹ nhàng đã làm cả thế giới xúc động. Một số người còn nhớ Đức Gioan-Phaolô II, ngài gần như câm, ngài không còn nói được khi ngài ở ban-công để ban phép lành cho giáo dân, ba ngày trước khi ngài qua đời ngày 30 tháng 3 năm 2005. Nhưng lời ban phép lành này đã dấy lên làn sóng câu hỏi về tình trạng sức khỏe thực sự của ngài.
Đức Phanxicô xen kẽ giữa “làm việc, cầu nguyện và nghỉ ngơi”
Bản tin y tế hàng ngày của Vatican đã trấn an mọi người, dù tiên lượng vẫn còn “dè dặt”. Tình trạng lâm sàng của ngài ổn định, ngài không bị sốt, không có các cơn suy hô hấp, thử nghiệm máu không thay đổi. Ngài xen kẽ giữa làm việc, cầu nguyện và nghỉ ngơi, ngài tập vật lý trị liệu hô hấp và vận động.
Nhưng giọng nói xúc động của ngài ở tuổi 88 đã làm nhiều người đặt câu hỏi, vì sao Vatican làm việc này, ngược với các bản tin y tế. Sáng thứ sáu, những người thân cận với ngài cho biết “chính ngài muốn cám ơn những ai cầu nguyện cho ngài. Dù sao đây cũng là một cách để chống các tin giả loan tin ngài sắp chết”. Có hai câu hỏi được đặt ra: liệu ngài có đủ khả năng điều hành Giáo hội không và ngài có nên từ nhiệm không?
Với Vatican, việc điều hành được kiểm soát. Ở Vatican ngài bị cho là người thực thi quyền lực một cách độc đoán đến từng chi tiết, nhưng ngài không phải là người chịu trách nhiệm duy nhất điều hành ngôi nhà rộng lớn này. Để làm công việc này, ngài có trong tay Giáo triều gồm các Bộ, tập hợp tất cả quyền lực trong tổ chức tôn giáo toàn cầu.
Các cuộc họp ngắn nhất và tập trung vào những điểm thiết yếu
Trụ cột chính của công việc quản trị là Phủ Quốc vụ khanh với Bộ trưởng là Hồng y Pietro Parolin và Tổng Giám mục Phụ Tá Quốc vụ khanh Edgar Pena Parra. Ngoài ra còn có Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Paul Richard Gallagher phụ trách 184 quốc gia. 120 sứ thần trên thế giới có vai trò trung gian giữa Rôma và 3.030 giáo phận trên toàn thế giới.
Hồng y Parolin và Tổng giám mục Parra chính thức vào bệnh viện thăm Đức Phanxicô hai lần, hai ngài là nhân vật số 2 và 3 của Tòa Thánh. Tổng giám mục Parra là người chủ chốt của hệ thống. Túi xách của họ chứa các quyết định mà chỉ có Giáo hoàng đưa ra: đề cử giám mục hoặc những người có trách nhiệm, các vụ phong thánh, các tài liệu tài chính và các văn bản khác, các bài giảng cần xác thực, công văn chính thức cần ký. Các tài liệu thường được công bố trong vòng một tuần, không có gì bí mật ở giai đoạn này. Sau đó là những quyết định nội bộ hoặc riêng tư, những quyết định này sẽ không bao giờ được đưa ra nhưng phải được Giáo hoàng chứng thực.
Trên thực tế, các cuộc họp với hai nhân vật cao cấp này là các cuộc họp diễn ra hàng tuần. Tuy nhiên, nếu cần thiết, Tổng giám mục Parra sẽ là người trực tiếp quản trị guồng máy. Việc nhập viện không làm thay đổi căn bản công việc này, dù các cuộc họp có thể ngắn hơn và tập trung vào những điểm thiết yếu. Nhưng một vấn đề khác là Đức Phanxicô ngưng hoàn toàn các buổi tiếp kiến với các nhân vật, các nhóm bên ngoài, cũng như các bộ trưởng, các người đứng đầu các bộ của ngài.
“Tôi nghĩ chức giáo hoàng là chức suốt đời”
Tình trạng khủng hoảng này có thể kéo dài. Vatican đã trải qua tình huống tương tự dưới thời Đức Gioan-Phaolô II từ năm 2001 đến năm 2005. Với một điểm khác biệt rõ rệt: người đứng đầu tổ chức khi đó là người trung thành và là thư ký riêng duy nhất, sau này là Hồng y Stanislas Dziwisz. Còn Đức Phanxicô dè chừng với các thư ký riêng của ngài, ngài thường xuyên thay đổi để không lệ thuộc một ai.
Nhưng nếu ngài hồi phục, ngài có thể đảm đương trách vụ này không? Ngài sẽ từ nhiệm như Đức Bênêđíctô XVI đã từ nhiệm không? Thật kỳ lạ, sự kiện này lại không hề giống tình trạng tuần này ở Vatican. Ý tưởng về việc từ nhiệm bị những người chung quanh Giáo hoàng đồng loạt và mạnh mẽ loại ra.
Đức Phanxicô đã nói và viết ngài sẽ từ nhiệm nếu ngài không còn đủ khả năng cai quản Giáo hội. Nhưng chúng ta còn nhớ lời ngài nói ngày 2 tháng 2 năm 2023 với các tu sĩ Dòng Tên tại Kinshasa, Cộng hòa Dân chủ Công-gô: “Tôi nghĩ chức vụ Giáo hoàng là suốt đời, ad vitam, tôi không thấy có lý do nào để như vậy.” Ngài còn nói thêm, ngài không xem “từ nhiệm là cái mốt, một chuyện bình thường” trong Giáo hội. Ngài cũng cho biết ngài đã viết một thư từ nhiệm năm 2013, ngài sẽ từ nhiệm nếu không còn khả năng điều hành Giáo hội. Một tài liệu rất khó diễn giải vì giáo luật (điều 332-2) quy định Giáo hoàng phải là thẩm phán duy nhất trong việc này, phải hoàn toàn tự do hành động, không bị bó buộc: “Nếu Giáo hoàng từ bỏ chức vụ của mình, thì việc từ bỏ này phải được thực hiện một cách tự do và phải được nói lên một cách hợp lệ, nhưng không nhất thiết phải được bất kỳ ai chấp nhận.”
Mùa Chay là thời gian đặc biệt để xét lại đời sống, để cắt tỉa những gì không sinh hoa trái và làm cho tâm hồn mình trở nên phong phú hơn. Thiên Chúa đang chờ đợi chúng ta. Chúa Giêsu chính là người làm vườn tận tụy, đã làm mọi sự để giúp chúng ta sinh hoa trái: Ngài vun xới tâm hồn chúng ta, nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và tưới gội bằng các Bí tích... Câu hỏi đặt ra là: Chúng ta có cộng tác với Ngài không? Chúng ta có để cho đời sống mình sinh hoa trái như lòng Chúa mong ước không?
Đừng chỉ hài lòng với một ít hoa trái, nhưng hãy tận dụng mọi ơn lành Chúa ban để làm phong phú đời sống thiêng liêng. Thiên Chúa rộng ban cho chúng ta nhiều cơ hội để thăng tiến trong đời sống đức tin. Nếu chúng ta biết đón nhận và sử dụng cách xứng hợp, hoa trái tốt lành sẽ trổ sinh dồi dào trong cuộc đời chúng ta.
Dụ ngôn này cũng nhắc nhở chúng ta rằng thời gian để hoán cải không kéo dài vô tận. Người làm vườn chỉ xin ông chủ: “Cứ để nó lại một năm nữa” – điều đó nhấn mạnh tính cấp bách của sự hoán cải. Cơ hội không phải lúc nào cũng sẵn có, và chúng ta không thể mãi chần chừ!
Đừng đợi đến một ngày nào đó trong tương lai. Hãy bắt đầu ngay hôm nay! Mùa Chay là thời gian để hành động. Đây không chỉ là thời gian suy nghĩ về sự hoán cải, mà còn là lúc để dấn thân thay đổi thực sự trong cách suy nghĩ, cách sống và cách đối xử với tha nhân. Dụ ngôn cây vả hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại chính mình:
Đây là thời điểm thích hợp để canh tân tâm hồn, để quyết tâm trở nên một cây vả trổ sinh hoa trái dồi dào, thay vì chỉ đứng đó chiếm chỗ mà không sinh lợi ích gì.
Trong tuần thứ ba của Mùa Chay, hãy dành thời gian để suy ngẫm sâu xa hơn. Tôi là cây vả, còn Chúa Giêsu là người làm vườn tận tụy. Ngài không ngừng chăm sóc, vun xới tâm hồn tôi qua Lời Chúa và các bí tích. Ngài kiên nhẫn, nhưng tôi không thể mãi chần chừ. Nếu tôi biết cộng tác với ân sủng của Ngài để cho Ngài cắt tỉa những gì cản trở sự phát triển, thì chắc chắn cuộc đời tôi sẽ sinh nhiều hoa trái tốt lành, mang lại niềm vui cho Chúa và ích lợi cho tha nhân.
Tôi cần làm gì để Mùa Chay này thực sự trở thành một mùa đổi mới cho tôi?
Ban đêm, Đức Thánh cha không cần dùng máy trợ thở nữa. Tình trạng của ngài tiếp tục ổn định và người ta ghi nhận có một ít tiến bộ về vận động và hô hấp. Các bác sĩ đã dần dần bỏ dùng máy giúp thở ban đêm và giảm số lượng oxy cao ban ngày, qua các ống thông vào mũi. Tuy nhiên, cần thận trọng vì điều này không có nghĩa là trong những ngày tới đây, Đức Thánh cha sẽ hoàn toàn không cần các biện pháp này nữa. Đây là một sự giảm bớt chứ không phải là tháo gỡ luôn.
Về hoạt động trong ngày, Đức Thánh cha vẫn được trị liệu bằng thuốc, làm vật lý trị liệu vận động và hô hấp cũng như dùng thực phẩm theo quy định của bác sĩ, kể cả đồ ăn cứng hơn.
Bối cảnh bệnh lý của Đức Thánh cha tiếp tục phức tạp, trong một tình trạng ổn định.
Bản tin sức khỏe ngắn gọn của Vatican công bố đêm thứ tư 19 tháng 3 cho biết tình trạng sức khỏe của Đức Phanxicô được ổn định, các liệu pháp tiến triển tốt. Ngài không bị sốt, không còn dùng máy thông khí và việc cung cấp oxy đã giảm, đây là một yếu tố tích cực.
Văn phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết do tình trạng của ngài đã ổn định nên sẽ không có bản tin hàng ngày như thường lệ. Bản tin sắp tới sẽ công bố ngày thứ hai 24 tháng 3.
Một nguồn tin Vatican cho biết, việc ngài rời bệnh viện chưa phải bây giờ, lịch Tuần Thánh cũng chưa được thông báo.
Điều này cũng giải thích tại sao hình chụp lúc Đức Thánh cha đồng tế thánh lễ Chúa nhật ngày 16 tháng Ba, tại nhà nguyện trong căn hộ của Bệnh viện, ngài không đeo các ống thở oxy. Ngoài ra, Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết trong hình đó của Đức Giáo hoàng người ta thấy bàn tay của ngài hơi bị phù, đó là do sự ít vận động, nhưng ngày 17 tháng Ba, tình trạng ấy đã tốt hơn.
Tòa thánh đã công bố bức ảnh đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô kể từ khi ngài vào Bệnh viện Gemelli ở Rôma vào ngày 14 tháng 2.
“Sáng nay, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đồng tế Thánh lễ tại nhà nguyện của căn phòng ở tầng mười tại Bệnh viện đa khoa Gemelli,” theo thông cáo từ Văn phòng Báo chí Vatican.
Trong bức ảnh, Đức Thánh Cha đang ngồi trước bàn thờ của nhà nguyện nơi ngài đồng tế Thánh Thể, đây là hình ảnh đầu tiên của Đức Giáo Hoàng kể từ khi ngài vào bệnh viện, lúc đầu bị viêm phế quản và sau đó là viêm phổi.
Tòa thánh cũng đưa tin rằng “tình trạng của Đức Giáo Hoàng vẫn ổn định” và sau khi đồng tế Thánh lễ Chúa Nhật, “ngài vẫn đang tiếp tục các liệu pháp được kê đơn”, bao gồm liệu pháp hô hấp và vật lý trị liệu.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô không tiếp bất kỳ vị khách nào vào Chúa Nhật, thay vào đó ngài dành cả ngày để “cầu nguyện, nghỉ ngơi và làm việc”.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Ngày 18 tháng 3 – 2025, Điện Buckingham xác nhận Đức Phanxicô sẽ tiếp Vua Charles và Hoàng hậu Camilla ngày 8 tháng 4. Đức Phanxicô đã nằm bệnh viện Gemelli từ một tháng nay, tin này cho thấy sức khỏe của ngài đã cải thiện, được hiểu là ngài sẽ tiếp tục có các buổi tiếp kiến.
Tin được công bố trên trang web của nước Anh: “Ngày thứ ba 8 tháng 4, Vua và Hoàng hậu sẽ đi Vatican để dự Năm thánh 2025.” Chuyến đi này đã được công bố ngày 1 tháng 2, nhưng ngày tháng chưa được tiết lộ.
Ngoài buổi tiếp kiến với Đức Phanxicô, Vua và Hoàng hậu sẽ tham dự một buổi lễ tại Nhà nguyện Sixtine với chủ đề “Bảo vệ tạo vật”, sự kiện này phản ánh “cam kết lâu dài với thiên nhiên của Đức Phanxicô và Đức Vua”.
Lần đầu tiên, Vua Charles đến thăm Vương cung thánh đường Thánh Phaolô Ngoại thành, thánh đường này có mối liên hệ đặc biệt với phong trào Cải cách. Nhà Vua phát biểu ở Điện Buckingham: “Vương cung nằm ở phía nam Rôma được công nhận là vương cung thánh đường của Giáo hoàng, nơi tôn vinh hòa giải, đại kết và các mối quan hệ trong suốt kỷ nguyên kitô giáo”.
Vua Charles III sẽ đến dự buổi tiếp tân với các chủng sinh Khối Thịnh vượng chung và các thành viên của cộng đồng Anh ở Vatican. Có thể Tổng giám mục Paul Richard Gallagher, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao sẽ tham dự. Nhà Vua sẽ gặp các nữ tu của Liên hiệp các Nữ Bề trên Tổng quyền Quốc tế, các nữ tu làm việc trên khắp thế giới để hỗ trợ phụ nữ qua các chương trình giáo dục, chăm sóc sức khỏe, hành động vì khí hậu, phòng ngừa bạo lực tình dục và nhân quyền.
Đức Phanxicô tiếp tục các buổi tiếp kiến
Chuyến đi Rôma của Vua Charles III là chuyến đi đầu tiên của ông ở địa vị Nhà Vua, khi còn là Hoàng tử, nhà Vua đã đến Vatican năm lần. Chuyến đi này là chuyến đi 20 năm sau khi Nhà Vua dự lễ tang của Đức Gioan-Phaolô II. Sự kiện này đã dời ngày cưới của Nhà Vua vào ngày hôm sau. Tháng 4 năm 2017, Hoàng tử Charles được Đức Phanxicô tiếp. Tháng 10 năm 2019 ông trở lại Vatican để dự lễ phong thánh Hồng y John Henry Newman.
Ngoài cuộc gặp chính thức giữa hai nguyên thủ quốc gia, chuyến đi còn mang tinh thần đại kết vì Nhà Vua là người đứng đầu tối cao Giáo hội Anh giáo. Nhà Vua sẽ là người bổ nhiệm Tân Giáo chủ Anh giáo trong những tháng tới, sau khi Tổng giám mục Justin Welby từ nhiệm ngày 6 tháng 1.
Nhà Vua và Hoàng hậu có chuyến thăm cấp nhà nước tới Ý và tham dự một số sự kiện ở Rôma và Ravenna để tăng cường quan hệ song phương giữa Vương quốc Anh và Ý.
Năm nay ngài đã 88 tuổi, suốt năm chúa nhật liên tiếp, ngài chưa xuất hiện ở cửa sổ Dinh Tông Tòa để đọc kinh Truyền Tin, ngài đang trong giai đoạn hồi phục ở bệnh viện Gemelli sau khi bị viêm hai lá phổi. Bốn tuần nay, ngài đọc Kinh Truyền Tin ở bệnh viện Gemelli.
Như thường lệ, ngài mở đầu Kinh bằng lời chào, sau đó ngài suy niệm đoạn Tin Mừng chúa nhật thứ hai Mùa Chay: “Hôm nay, Tin Mừng tường thuật Chúa Giêsu Biến hình trên núi Tabo trước mặt ông Phêrô, Giacôbê và Gioan, Ngài suy niệm và diện mạo Ngài bừng sáng. Ngài tỏ lộ cho các môn đệ thấy điều ẩn giấu trong hành động của Ngài ở trần thế: ánh sáng của tình yêu vô hạn” (Lc 9, 28-36).
Hôm nay là ngày thứ 31 ngài nằm viện. Báo America cho biết sức khỏe của ngài được ổn định và dần hồi phục, nhưng cần thêm thời gian để điều trị. Dù bị bệnh nhưng ngài cảm nhận ánh sáng giữa bóng tối của bệnh tật và đau khổ. Ngài thấy được sự hiện diện của Chúa trong từng cử chỉ yêu thương, nơi từng bàn tay chăm sóc dịu dàng: “Có biết bao ánh sáng đang chiếu rọi ở đây! Những cử chỉ yêu thương đã làm bừng sáng từng căn phòng, từng hành lang, từng phòng khám… Những hành động nhỏ bé nhưng chất chứa tình người. Hôm nay, tôi muốn mời gọi anh chị em cùng tôi ngợi khen Chúa, Đấng không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Khi chúng ta yếu đuối nhất, Ngài đặt bên cạnh chúng ta những con người phản chiếu ánh sáng tình yêu của Ngài.”
Kể từ ngày ngài nhập viện vì bị nhiễm trùng hô hấp nặng, một làn sóng cầu nguyện dâng lên khắp thế giới. Không chỉ người công giáo mà cả những người ở các tín ngưỡng khác nhau hoặc không có tín ngưỡng đều hướng về ngài để cầu nguyện. Cũng như các lần trước, mở đầu Kinh Truyền Tin, ngài nói lên lời cám ơn chân thành với giáo dân, với các bác sĩ và nhân viên y tế chăm sóc ngài: “Tôi xin cám ơn anh chị em đã cầu nguyện, đã tận tâm chăm sóc tôi.”
Như thường lệ trong Kinh Truyền Tin, ngài tha thiết xin giáo dân cầu nguyện cho hòa bình thế giới, đặc biệt ở các quốc gia đang có chiến tranh: Ukraine, Palestine, Israel, Lebanon, Myanmar, Sudan và Cộng hòa Dân chủ Congo.
Bốn tháng trước, tháng 10 năm 2024 ngài đã chủ trì lễ bế mạc giai đoạn thứ hai của Thượng Hội đồng hiệp hành. Từ giường bệnh, ngày 11 tháng 3, ngài phê duyệt kế hoạch triển khai giai đoạn thứ ba: thực hiện Tài liệu cuối cùng của Thượng Hội đồng ở cấp Giáo hội địa phương, quốc gia và quốc tế trong ba năm tới. Quá trình này sẽ ở cao điểm vào tháng 10 năm 2028 tại Đại hội Giáo hội đầu tiên ở Vatican. Hôm nay, ngài mời gọi mọi người cùng ngài cầu nguyện cho sự kiện này: “Chúng ta xin Chúa giúp Giáo hội trung thành với phân định mà phiên họp vừa thực hiện, biến chúng thành những hành động cụ thể.” Ngài cám ơn Ban Thư ký Thượng hội đồng đồng hành cùng các giáo hội địa phương trong ba năm tới.
Kết thúc thông điệp, ngài có lời cầu nguyện với Đức Mẹ: “Xin Đức Trinh Nữ Maria gìn giữ và giúp đỡ anh chị em, để giống như Mẹ, anh chị em trở thành người mang ánh sáng và bình an của Chúa Kitô.”
Nếu hôm nay ngài có mặt tại Vatican, ngài sẽ chào đón và ban phép lành cho 30.000 vận động viên tham gia Giải chạy Marathon Rôma khi họ đi ngang qua Quảng trường Thánh Phêrô. Dù ngài vắng mặt, họ tưởng nhớ ngài bằng một cử chỉ đầy ý nghĩa: dành 42 giây tĩnh lặng trước khi xuất phát. Mỗi giây là một cây số của cuộc đua, như lời cầu chúc cho sự bình phục của ngài.
Thông tín viên John Allen của tờ Crux, thường trú tại Rôma, có bài tường trình nhan đề “Pope from hospital backs disarmament while key aide rejects resignation speculation”, nghĩa là “Đức Giáo Hoàng từ bệnh viện ủng hộ giải trừ quân bị trong khi trợ lý chủ chốt bác bỏ suy đoán từ chức”
Để xác nhận thêm về quá trình hồi phục của mình, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết thư cho tờ báo hàng đầu của Ý từ phòng bệnh để kêu gọi “giải trừ vũ khí trên trái đất” trong bối cảnh các cuộc chiến tranh khác nhau hiện đang diễn ra, bao gồm cả Ukraine và Gaza.Tại buổi gặp gỡ một nhóm hành hương của Hiệp hội Đức của Thánh Địa, ngày 12/3, Đức Thượng Phụ nói: “Tất nhiên, các vấn đề đã chồng chất trong hơn một ngàn năm, nhưng chúng tôi tràn đầy hy vọng. Chúng sẽ được giải quyết trong một vài năm nữa”.
Khả năng cho một bước đột phá lịch sử trong quan hệ đại kết đã được hình thành từ lâu. Trong thư gửi Đức Thánh Cha nhân lễ trọng kính hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô vào ngày 29/6/2024, Đức Thượng Phụ tái bày tỏ mong muốn hiệp thông trọn vẹn giữa hai Giáo hội Chính Thống và Công giáo. Ngài khẳng định “sự hiệp nhất Kitô giáo vừa là một ân sủng khôn tả vừa là một nhiệm vụ thường xuyên”. Ngài cũng bày tỏ sự nóng lòng chờ đợi với niềm hân hoan thiêng liêng “về lễ kỷ niệm chung của chúng ta, vào năm 2025, kỷ niệm 1700 năm Công đồng Đại kết đầu tiên tại Nicea”.
Vào tháng 01, trong giờ Kinh chiều kết thúc Tuần lễ Cầu nguyện cho Sự Hiệp nhất Kitô giáo, Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh sự “quan phòng” của lễ Phục Sinh năm nay rơi trùng ngày theo cả lịch Gregoriano và lịch Giuliano. Dịp đó ngài kêu gọi: “Hãy cùng nhau tái khám phá cội nguồn chung của đức tin. Hãy gìn giữ sự hiệp nhất!”
Cũng vào chiều hôm đó, trước khi kết thúc buổi cử hành, Đức Hồng Y Kurt Koch, Tổng trưởng Bộ Cổ võ sự Hiệp nhất các Kitô hữu, nhấn mạnh rằng dịp kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nicea là lời nhắc nhở rằng sự hiệp nhất chỉ có thể đạt được khi các Kitô hữu chia sẻ một đức tin chung và mạnh mẽ tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô.
Hôm nay, 13 tháng 3, năm 2025 Đức Phanxicô kỷ niệm 12 năm ngài được bầu làm người đứng đầu Giáo hội công giáo, nhưng ngài mừng ngày này trong bệnh viện Gemelli.
Sức khỏe của ngài được cải thiện sau thời gian dài ở bệnh viện
Sau hơn ba tuần nằm bệnh viện, tình trạng sức khỏe của ngài đã có các biến chuyển tích cực. Hiện ngài vẫn còn ở bệnh viện để điều trị bệnh viêm phổi. Theo các báo cáo mới nhất của Vatican, dù đã ổn định và không còn trong tình trạng nguy kịch, nhưng chưa rõ khi nào ngài sẽ xuất viện.
Được bầu làm Giáo hoàng ngày 13 tháng 3 năm 2013, năm nay ngài 88 tuổi với một hành trình dài với nhiều thăng trầm. Việc ngài phải nằm bệnh viện trong ngày kỷ niệm này đã làm giáo dân lo lắng và xúc động.
Hồng y Michael Czerny, cộng sự thân cận của ngài gọi sự kiện này là một lý do để tạ ơn, Hồng y nói trên Reuters: “Chính năm nay, căn bệnh của ngài đã làm chúng ta cảm nhận sâu sắc hơn ngày kỷ niệm này, tạ ơn Chúa nhiều hơn và thêm lời cầu nguyện để ngài chóng bình phục.”
12 năm và 900 thánh mới
Ngài được bầu làm Giáo hoàng khi ngài 76 tuổi, ngay lập tức ngài đã thực hiện nhiều cải tổ. Trong 12 năm qua, ngài tái cấu trúc bộ máy hành chánh của Vatican, ban hành bốn tài liệu giáo huấn quan trọng, thực hiện 47 chuyến tông du trên hơn 65 quốc gia và phong thánh cho 900 thánh.
Ngài được xem là người không ngừng mở rộng cánh cửa Giáo Hội ra với thế giới hiện đại. Ngài có những quyết định táo bạo, cho phép linh mục chúc lành các cặp đồng giới theo từng trường hợp cụ thể và lần đầu tiên trong Giáo hội, ngài bổ nhiệm phụ nữ vào những vị trí quan trọng.
Ngoài ra ngài đã triệu tập Hội nghị Thượng đỉnh với sự tham gia của các Giám mục trên thế giới để thảo luận về những vấn đề nhạy cảm như chức nữ phó tế và sự thay đổi trong giáo huấn về luân lý tính dục.
“Một Giáo hoàng không thể thay thế”
Nhà nghiên cứu người Mỹ David Gibson, người theo sát triều Đức Phanxicô khẳng định: “Dưới mắt giáo dân, ngài là Giáo hoàng không thể thay thế. Ngài thực sự đã định hình hình ảnh của một Giáo hoàng: một mục tử luôn dang rộng vòng tay đón nhận mọi người, không xét đoán ai miễn là họ có thiện chí.”
Nhưng quyết định của ngài đôi khi gây tranh cãi. Một số giáo dân và Hồng y bảo thủ cho rằng ngài làm lu mờ giáo huấn truyền thống của Giáo hội về hôn nhân đồng giới và ly hôn, đồng thời ngài quan tâm nhiều đến các vấn đề chính trị như biến đổi khí hậu.
Ngoài ra, một số nạn nhân bị lạm dụng trong Giáo hội cho rằng ngài vẫn chưa làm đủ để bảo vệ trẻ em. Dù ngài đã thành lập Ủy ban Giáo hoàng đầu tiên về vấn đề này, các nhóm nạn nhân vẫn đặt câu hỏi về hiệu quả của Ủy ban này, họ kêu gọi “không khoan nhượng” với kẻ phạm tội.
Tin đồn về khả năng từ nhiệm
Đức Phanxicô luôn tận tâm với sứ vụ của ngài, dù nằm bệnh viện, ngài vẫn tiếp tục làm việc. Khi bước sang năm thứ 13 triều của ngài, nhiều người đặt câu hỏi liệu ngài có thể duy trì nhịp làm việc như trước hay không.
Một số bác sĩ (không phải bác sĩ điều trị của ngài) cho rằng, với tuổi tác và các vấn đề sức khỏe khác ảnh hưởng đến khả năng di chuyển, ngài sẽ phải đối diện với tiến trình hồi phục lâu dài và không dễ dàng.
Việc ngài vắng mặt một thời gian dài đã dấy lên tin đồn về khả năng ngài sẽ từ nhiệm như Đức Bênêđíctô XVI đã từ nhiệm, nhưng những người thân cận cho rằng ngài chưa từng có ý định này.
32 triệu giáo dân hành hương sẽ về Rôma năm 2025
Năm 2025 phần lớn hoạt động của ngài tập trung vào Năm Thánh, một sự kiện quan trọng của Giáo Hội. Vatican dự đoán sẽ có khoảng 32 triệu giáo dân về Rôma năm nay.
Ngoài ra, ngài mong thực hiện ít nhất một chuyến tông du quốc tế, ngài dự định đến Thổ Nhĩ Kỳ để dự lễ kỷ niệm 1.700 năm Công đồng Nicée ở thành phố Iznik. Các giám chức Vatican nghĩ rằng ngài sẽ đi chuyến đi này.
“Ngài chính là người thế giới đang cần”
Giáo dân hy vọng ngài sẽ tiếp tục lên tiếng về các vấn đề thời sự quan trọng như quyền lợi của người di cư hay các cuộc xung đột trên thế giới. Ba ngày trước khi nhập viện, ngài đã mạnh mẽ chỉ trích chính sách nhập cư của Tổng Thống Mỹ Donald Trump trong một thư ngài gởi cho các Giám mục Hoa Kỳ.
Bà Marie Denis, cố vấn Vatican và cựu giám đốc một Tổ chức Công giáo quốc tế về hòa bình, nhận định: “Đức Phanxicô mang đến cho thế giới một tầm nhìn, một hướng dẫn. Ngài chính là điều mà thế giới đầy thương tổn, bạo lực và hoang mang của chúng ta bây giờ đang cần.”
Văn kiện Chung kết đã được các thành viên Thượng Hội đồng bỏ phiếu thông qua và được Đức Thánh cha chấp nhận và cho công bố như một văn kiện giáo huấn thông thường của ngài.
Năm tháng sau khi kết thúc khóa họp đó, nay Đức Thánh cha đã chấp thuận và cho Đức Hồng y Tổng thư ký Mario Grech, người Malta, công bố lịch trình áp dụng, tiến hành trong ba năm, để dẫn tới một Đại hội của Hội Thánh vào mùa thu năm 2028.
Thư công bố lịch trình này được Đức Hồng y Grech gửi đến các vị thủ lãnh các Giáo hội Công giáo Đông phương và Latinh. Đức Hồng y cho biết Đức Thánh cha nhắc nhở rằng trong giai đoạn này, cần chú ý đặc biệt để tính đồng hành hay hiệp hành ngày càng được hiểu và sống trong đời sống hằng ngày của các Giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ”.
Việc áp dụng tài liệu chung kết đối với các Giáo hội địa phương không phải chỉ là áp dụng như đường hướng đến từ trên xuống, nhưng như một tiến trình đón nhận làm sao thích ứng với văn hóa và các nhu cầu của cộng đoàn. Trong việc này, cần để ý đến sự trao đổi và đối thoại giữa các Giáo hội địa phương và Giáo hội như một toàn thể, các Giáo tỉnh và Liên Hội đồng Giám mục miền.
Trong khuôn khổ ba năm, giai đoạn trước tiên cho đến năm 2026, cần tìm ra những con đường mới, ví dụ để các giáo dân tham gia nhiều hơn và để xác định mới hơn về sứ vụ giám mục và linh mục.
Đức Hồng y Grech thông báo vào tháng Năm sắp tới, sẽ công bố một văn kiện đồng hành với những đường hướng chỉ dẫn cho giai đoạn này. Việc áp dụng trong các Giáo hội địa phương và liên hiệp các Giáo hội này sẽ tiến hành từ tháng Sáu đến tháng Mười Hai năm 2026. Hội khóa họp thẩm định dự kiến sẽ diễn ra vào bán niên đầu của năm 2027 trong các giáo phận, rồi trong bán niên thứ hai, trong các Hội đồng Giám mục quốc gia và Liên Hội đồng Giám mục các châu lục. Sau cùng, trong bán niên đầu của năm 2028 sẽ áp dụng ở cấp đại lục. Tháng Sáu năm 2028 sẽ công bố tài liệu làm việc, chỉ nam của Đại hội Giáo hội vào tháng Mười năm 2028.
Bà Maria Antonietta Calabrò, chuyên gia người Ý chuyên về Vatican đã phát biểu khi Đức Phanxicô kỷ niệm 12 năm ngày ngài nhậm chức 13 tháng 3 năm 2025. Bà nhắc lại các “kháng cự mạnh mẽ” với chương trình cải cách của ngài.
Bà Maria Antonietta Calabro, nhà báo kỳ cựu về Vatican chia sẻ nhân dịp kỷ niệm 12 năm triều Đức Phanxicô ngày 13 tháng 3 năm 2025. Bà nhấn mạnh chương trình cải cách của Ngài không tránh khỏi những phản kháng mạnh mẽ: “Các cải cách ngài thực hiện trong những năm qua thực sự sâu rộng và đầy quyết tâm, nhưng không tránh khỏi những phản kháng mạnh mẽ.”
Trong quyển sách Ngai Giáo hoàng và bàn thờ, một câu chuyện chưa được kể (Il trono e l’altare. Guerra in Vaticano: una storia inedita, nxb. Cantagalli, 2024), tác giả phác họa một bức tranh chân thực về những tranh đấu quyền lực, các vụ bê bối tài chính và những hoạt động gián điệp mà Đức Phanxicô đã phải đối diện.
Mười hai năm sau ngày ngài được các Hồng y tín nhiệm giao phó sứ mạng cải tổ Giáo triều, ngài đã đi được bao xa trên con đường khôi phục uy tín của Giáo hội, đặc biệt trong lãnh vực tài chính và kinh tế?
Bà Maria Antonietta Calabro: Có thể nói, ngài đã đạt được những bước tiến quan trọng, dù hành trình này vẫn chưa hoàn tất. Trong chương sách có tựa đề “Lạc đà sẽ chui qua lỗ kim”, tôi liệt kê hàng loạt cải cách tài chính quy mô mà ngài đã thực hiện trong những năm qua. Chỉ mới đây, ngày 14 tháng 2, ba ngày trước khi vào bệnh viện, ngài đã ký sắc lệnh thành lập một Ủy ban mới nhằm giám sát các số tiền được quyên góp.
Ủy ban này có nhiệm vụ giải quyết tình trạng thâm hụt ngân sách vì nguồn đóng góp giảm, đồng thời đặt ra các quy tắc minh bạch hơn cho việc nhận tiền trong tương lai. Đây cũng chính là một trong những vấn đề quan trọng mà Moneyval – Ủy ban Châu Âu về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố đã đề cập trong báo cáo năm 2021. Không thể phủ nhận ngài đã làm các cải cách có tầm vóc lớn lao.
“Không còn những vali tiền mặt bí ẩn qua cổng Thánh Annà”
Dù vậy, tình trạng thâm hụt ngân sách vẫn là một thách thức. Để giải quyết triệt để, Vatican cần tinh giản bộ máy và cắt giảm các khoản chi không cần thiết. Một số biện pháp vẫn chưa được thực hiện, nhưng điều này chính lại là dấu hiệu rõ ràng cho thấy một cải cách thực sự đang diễn ra. Vì trước đây, dòng tiền đôi khi có nguồn gốc không minh bạch đã vào Vatican mà không có một kiểm soát nào.
Ngày nay, điều đó không còn tiếp diễn. Không ai có thể mang những vali đầy tiền mặt đi qua cổng Thánh Annà (một trong các cổng vào Vatican) để vào Vatican. Bây giờ việc mở tài khoản ở Ngân hàng IOR (Ngân Hàng Vatican) đòi hỏi phải có danh tính rõ ràng, nguồn gốc tài sản minh bạch. Ngài cũng đã ban hành lệnh cấm mọi giao dịch với các thương gia bị nghi ngờ có hành vi không trong sạch.
Tuy nhiên, có một thực tế: công chúng vẫn chưa thấy hết được tầm quan trọng của những cải cách này. Đồng thời, các nỗ lực đổi mới của Đức Phanxicô cũng vấp phải chống đối không ít của nội bộ Vatican.
Trong quyển sách này, bà nghiên cứu vụ xét xử “tòa nhà London” – một tai tiếng tài chính lớn bà theo dõi và mô tả từng chi tiết. Vì sao bà cho rằng vụ này phản ánh sự kháng cự với cải cách của Đức Phanxicô?
Câu chuyện này bắt đầu trước khi ngài được bầu chọn, cụ thể là tháng 10 năm 2012 khi quyết định từ nhiệm của Đức Bênêđíctô XVI đã được đưa ra nhưng vẫn còn được giữ kín. Khi đó việc sửa tu viện Mẹ Giáo hội (Mater Ecclesiae) ngài sẽ ở khi từ nhiệm đã được khởi công từ tháng 6 năm 2012.
Chính thời điểm đó, các nỗ lực chuyển tài sản của Phủ Quốc vụ khanh ra khỏi Vatican đã bắt đầu. Đây là “chuyện bí mật” không có trong các báo cáo tài chính chính thức của Vatican, mãi sau này mới được Hồng y người Úc George Pell phát hiện.
“Ngay từ khi Đức Phanxicô bắt đầu sứ vụ, tiến trình cải cách đã bị trì hoãn”
Trong phiên tòa xét xử vụ “tòa nhà London”, Phó công tố viên Vatican Gianluca Perone đã trình bày chi tiết về cách hoạt động, ông kể tháng 10 năm 2012, ông Enrico Crasso cố vấn tài chính của Quốc vụ khanh được giao nhiệm vụ thiết lập các công cụ tài chính để chuyển tiền ra khỏi Vatican.
Mục tiêu của họ chưa rõ ràng vào thời điểm đó, nhưng điều quan trọng nhất là phải đưa tài sản này ra khỏi mọi cơ chế giám sát để phòng trường hợp Giáo hoàng kế nhiệm sẽ có những chính sách tài chính chặt chẽ hơn.
Sự việc lên đến cao trào ngày 4 tháng 10 năm 2013, khi Đức Phanxicô đến thăm Assisi. Bên trong Vatican, bắt đầu dấy lên nỗi lo sợ ngài sẽ quyết định “từ bỏ tài sản của Giáo hội” như Thánh Phanxicô đã làm ngày xưa.
Lúc đó những bài báo nói lên mối lo ngại này lan rộng trong nội bộ Vatican. Và đúng ngày hôm đó, khoản tiền đầu tiên đã được bí mật chuyển đi…
Đúng vậy, nhiều người nghĩ rằng Thượng Hội đồng đã kết thúc với phiên họp thứ hai của Đại hội, vào tháng 10 năm ngoái. Thực tế, Tông hiến Episcopalis Communio đã “biến đổi” Thượng Hội đồng từ một sự kiện thành một tiến trình được chia thành ba giai đoạn: chuẩn bị, cử hành và thực hiện (EC, điều 4). Bước này đòi hỏi một sự “hoán cải” thực sự và đúng đắn, một sự thay đổi tâm thức cần thời gian để bén rễ trong thực hành của Giáo hội. Nhưng sự tiến hành này là nền tảng: việc công bố một “tài liệu” là không đủ để những gì đã xuất hiện trong hai giai đoạn của tiến trình Thượng Hội đồng được thực hiện trong đời sống Giáo hội. “Văn kiện” đó phải được “đón nhận" như là kết quả của sự phân định Giáo hội và chân trời hoán cải. Và điều đó đã xảy ra: Đức Thánh Cha, là nguyên lý hiệp nhất Giáo hội và là người bảo đảm cho tiến trình Thượng Hội đồng, đã trao phó cho các Giáo hội địa phương và các cơ cấu liên kết sứ mạng cụ thể hóa những khuyến nghị của Đại hội vào bối cảnh riêng của họ, như ngài đã nhấn mạnh trong “Ghi chú kèm theo” của Tài liệu Chung kết. Và nhiều Giáo hội địa phương đã đáp lại một cách quảng đại và đã bắt đầu thực hiện: vì vậy, trong thực tế, công việc chưa bao giờ dừng lại sau khi kết thúc Đại hội.
Điều gì sẽ xảy ra từ nay đến năm 2028?
Những gì được công bố hiện nay thực chất là một tiến trình đồng hành và đánh giá giai đoạn áp dụng đã được tiến hành: một quyết định mà Đức Thánh Cha đã hoàn thiện cùng với sự đóng góp của Hội đồng Thường kỳ của Uỷ ban Thư ký Thượng Hội đồng, bao gồm phần lớn các thành viên được bầu trong Đại hội. Và tiến trình này không làm tổn hại đến vai trò chủ đạo của mỗi Giáo hội trong việc tiếp nhận và áp dụng hoa trái Thượng Hội đồng: với tiến trình này, Đức Thánh Cha thúc đẩy toàn thể Giáo hội thực hiện trách nhiệm, bởi vì chính bằng cách đánh giá cao các Giáo hội địa phương, ngài đồng thời liên kết toàn thể Giám mục đoàn trong việc thực hiện thừa tác vụ của mình.
Vậy mục đích chính xác hơn của hành trình này là gì?
Đó là một quá trình nhằm khuyến khích thảo luận giữa các Giáo hội về những hiểu biết đạt được trong giai đoạn áp dụng. Sau một thời gian dành riêng cho công việc của mỗi thực thể địa phương (cho đến năm 2026), chúng tôi mong muốn, theo phong cách Thượng Hội đồng, tạo ra không gian đối thoại và trao đổi ân ban giữa các Giáo hội. Đây là một trong những khía cạnh quý giá nhất xuất hiện trong tiến trình Thượng Hội đồng cho đến nay. Mục đích là việc thực hiện không diễn ra riêng lẻ, như thể mỗi giáo phận là một thực thể riêng biệt, nhưng sự liên kết giữa các Giáo hội ở cấp quốc gia, khu vực và lục địa phải được tăng cường. Đồng thời, thời gian thảo luận sẽ tạo điều kiện cho việc “cùng nhau bước đi” đích thực, mang đến cơ hội đánh giá, theo tinh thần đồng trách nhiệm, những lựa chọn đã đưa ra. Do đó, các cuộc họp dự kiến vào năm 2027 và đầu năm 2028 sẽ đồng hành cùng với hành trình hướng tới Đại hội Giáo hội vào tháng 10/2028. Đại hội bế mạc này sẽ có thể cung cấp cho Đức Thánh Cha những yếu tố quý giá, hoa trái của một kinh nghiệm thực sự về Giáo hội, để sự phân định của ngài với tư cách là Người Kế vị Thánh Phêrô, với những quan điểm được đề xuất cho toàn thể Giáo hội. Việc thực hiện và đánh giá phải tiến hành cùng nhau, đan xen trong một quá trình năng động chung: đây chính xác là văn hóa trách nhiệm giải trình được gợi lên bởi Tài liệu Chung kết.
Năm 2026 sẽ là một năm hoàn toàn dành riêng cho công việc của các giáo phận. Đức Hồng Y mong đợi điều gì?
Điều cần thiết là phải bắt đầu lại từ công việc đã thực hiện trong giai đoạn lắng nghe, nhưng điều quan trọng không kém là không lặp lại theo cùng một cách. Trong giai đoạn này, vấn đề không còn chỉ là lắng nghe và thu thập ý kiến Dân Chúa, nhưng cho phép các vị lãnh đạo các Giáo hội và các nhóm Thượng Hội đồng tiến hành một cuộc đối thoại với phần còn lại của Dân Chúa về toàn bộ nội dung xuất hiện từ hành trình Thượng Hội đồng, để con đường này được điều chỉnh cho phù hợp với văn hóa và truyền thống của mỗi nơi. Đây cũng là một cơ hội khác để kêu gọi toàn thể Dân Chúa như những người chia sẻ chức năng ngôn sứ của Chúa Kitô (LG 12) và là chủ thể của cảm thức đức tin. Tôi hy vọng nguyên tắc tuần hoàn trong và giữa các Giáo hội sẽ được áp dụng trong thực hành thông thường của Giáo hội.
Các Giáo hội địa phương phải hoạt động như thế nào?
Chúng ta được mời gọi không chỉ lặp lại mà còn bảo đảm rằng tất cả các thành viên Dân Chúa là những chủ thể tích cực của đời sống Giáo hội và hoạch định con đường cho mỗi Giáo hội trên cơ sở khả năng được công nhận này, vốn phải được hỗ trợ và hình thành. Năm rưỡi đầu tiên này cũng sẽ là cơ hội để thu hút sự tham gia của những người trước đây ít tham gia. Để sống những kinh nghiệm hiệp hành, để trải nghiệm cuộc trò chuyện trong Thánh Thần đã làm cho các cộng đoàn của chúng ta phát triển rất nhiều. Bây giờ bức tranh đã rõ ràng hơn và chúng ta đã có một sự hiểu biết chung nhiều hơn về hiệp hành, cùng nhau – không ai bị loại trừ– chúng ta có thể tìm thấy các công cụ để tiếp tục hành trình với năng lượng mới.
Làm thế nào chúng ta có thể thu hút Dân Thiên Chúa nhiều hơn, tránh nguy cơ con đường Thượng Hội đồng vẫn chỉ giới hạn trong các đề tài dành cho “các chuyên gia”, cho những người đã tham gia vào các cơ cấu Giáo hội? Làm thế nào chúng ta có thể đảm bảo rằng bước đi mới này không được trải nghiệm như một nhiệm vụ của bộ máy hành chính được thêm vào những nhiệm vụ khác?
Văn kiện chuẩn bị, khởi xướng toàn bộ tiến trình Thượng Hội đồng, bắt đầu với lời khẳng định này: “Giáo hội của Chúa được triệu tập trong Thượng Hội Đồng”. Không có điều gì có thể liên quan đến toàn thể Giáo hội và mọi người trong Giáo hội hơn là tiến trình Thượng Hội đồng. Điều này đã được nhìn thấy trong giai đoạn đầu, với việc lắng nghe Dân Chúa trong các Giáo hội địa phương. Giờ đây, con đường phía trước vẫn giống như vậy. Quá trình thực hiện này đòi hỏi nhiều cố gắng không phải vì yêu cầu bổ sung các hoạt động khác cho “các nhân viên mục vụ”, đặc biệt cho các thừa tác viên chức thánh. Dấn thân là sống hành trình Giáo hội của mỗi Giáo hội với một tâm thức hiệp hành, trong một chân trời hiệp hành, hình thành một phong cách hiệp hành tạo nền tảng cho một hình thức Giáo hội hiệp hành… Ý nghĩa của con đường mà Ban Thư ký Thượng Hội đồng đang đề xuất cho các Giáo hội địa phương không phải là thêm việc để đáp ứng các yêu cầu đến từ bên ngoài hoặc từ bên trên, nhưng để giúp các Giáo hội bước đi theo phong cách hiệp hành. Tóm lại, để trở thành Giáo hội thực sự, nơi Dân Chúa được giao phó cho Giám mục với sự giúp đỡ của linh mục đoàn và các thừa tác viên thực sự là một Giáo hội của các chủ thể có sự liên hệ, những người hiện thân cho Tin Mừng ở nơi họ hiện diện.
Đức Hồng Y có thể giải thích Đại hội Giáo hội 2028 là gì không? Bức thư nói rõ rằng đó sẽ không phải là một Thượng Hội đồng mới...
Thượng Hội đồng 2021-2024 là “lần đầu tiên” cho nhiều điều. Đây là lần đầu tiên các quy định của tông hiến Episcopalis Communio được áp dụng đầy đủ; lần đầu tiên toàn thể Giáo hội và mọi người trong Giáo hội có cơ hội tham gia vào tiến trình Thượng Hội đồng; lần đầu tiên các thành viên không phải Giám mục tham gia vào Đại hội; lần đầu tiên một Tài liệu Chung kết được Đức Thánh Cha thông qua ngay lập tức, do đó tham gia vào Huấn Quyền thông thường của ngài. Bây giờ - trong giai đoạn thứ ba của tiến trình Thượng Hội đồng - lần đầu tiên một Đại hội Giáo hội được tổ chức. Vì đây là lần đầu tiên một Đại hội Giáo hội ở cấp toàn thể Giáo hội, nên vẫn còn nhiều điều cần phải được làm rõ, ngay cả khi chúng ta có thể dựa vào kinh nghiệm của các Đại hội ở cấp Lục địa, tất cả đều là Đại hội Giáo hội.
Đại hội 2028 sẽ có những đặc điểm gì? Sẽ khác như thế nào với hai phiên họp của Đại hội Thượng Hội đồng mà chúng ta đã trải qua vào năm 2023 và 2024?
Mục tiêu của Đại hội Giáo hội, vốn là sự kiện cuối cùng của tiến trình, không gì khác hơn là mục tiêu được chỉ ra trong Tài liệu Chung kết cho giai đoạn thứ ba, nghĩa là, cụ thể hoá viễn cảnh trao đổi các ân huệ giữa các Giáo hội và trong toàn thể Giáo hội (các số 120-121). Nếu trong các bước của giai đoạn thứ ba, có thể thực hiện việc trao đổi ân huệ ở các cấp khác nhau của các nhóm Giáo hội qua việc chia sẻ các tiến trình được khởi xướng trong các Giáo hội địa phương, thì Đại hội Giáo hội sẽ là một cơ hội để quy tụ ở cấp độ tất cả thành quả đã đạt được. Khả năng của Đại hội Giáo hội này đã được nêu rõ trong lời chào của Đức Thánh Cha khi kết thúc Đại hội lần thứ hai của Thượng Hội đồng. Ngài nói rõ “về một số khía cạnh của đời sống Giáo hội được nêu trong Văn kiện, cũng như về các chủ đề được giao phó cho mười ‘Nhóm Nghiên cứu’, vốn phải làm việc một cách tự do, để đưa ra cho tôi các đề xuất, cần có thời gian để đi đến những lựa chọn liên quan đến toàn thể Giáo hội. Tôi sẽ tiếp tục lắng nghe các Giám mục và các Giáo hội được giao phó cho các vị”. Giai đoạn thứ ba tương ứng với thời gian lắng nghe các Văn kiện Chung kết hoạt động như thế nào trong đời sống của các Giáo hội, và Đại hội chung kết tạo thành thời điểm tổng hợp, có khả năng thu thập những thành quả của việc lắng nghe này. Vì lý do này, Đại hội là Giáo hội, tương đương với việc nhấn mạnh bản chất và chức năng của Đại hội Thượng Hội đồng mà chúng ta đã cử hành, về cơ bản là và vẫn là một Hội nghị các Giám mục. Thành quả của Đại hội là Tài liệu Chung kết, như chúng ta đã nói, tham gia vào Huấn Quyền thông thường của Người Kế vị Phêrô. Dưới ánh sáng của tài liệu đó, toàn thể Giáo hội được yêu cầu sống giai đoạn thứ ba, sẽ kết thúc tại Đại hội Giáo hội. Đại hội này phải là biểu hiện hữu hình của chân lý đã mở ra Văn kiện Chuẩn bị: “Giáo hội của Thiên Chúa được triệu tập trong Thượng Hội đồng” để làm chứng cho những thành quả của hành trình Thượng Hội đồng của Giáo hội.
Nghi lễ nhận huân chương tại nhà thờ chính tòa Buenos Aires đã diễn ra vào ngày 13/3/2025, kỷ niệm 12 năm ngày bầu chọn Giáo hoàng Phanxicô, trong Thánh lễ tạ ơn triều Giáo hoàng của ngài.
Huân chương Tự do là danh dự cao nhất của quốc gia được Hoa Kỳ trao cho một công dân, vinh danh những cá nhân có những đóng góp mẫu mực cho sự thịnh vượng, các giá trị hoặc an ninh của Hoa Kỳ, hoà bình thế giới hoặc các nỗ lực có ý nghĩa khác của xã hội, cộng đồng hoặc cá nhân” và mới chỉ được trao 55 lần.
Tuyên bố chính thức của Nhà Trắng về việc trao Huân chương cho Đức Thánh Cha có viết “Trong nhiều thập kỷ, ngài đã phục vụ những người không có tiếng nói và dễ bị tổn thương trên khắp Argentina. Khi là Giáo hoàng Phanxicô, sứ mạng phục vụ người nghèo của ngài chưa bao giờ dừng lại... Là một nhà giáo đầy cảm hứng, ngài yêu cầu cho chúng ta đấu tranh vì hòa bình và bảo vệ hành tinh. Là một nhà lãnh đạo nồng nhiệt, ngài tiếp cận với nhiều tín ngưỡng khác nhau...”.
Đức Thánh Cha đã can đảm rao giảng công lý, hòa bình và sự thật
Khi nhận giải thưởng, Cha Alejandro Russo, cha sở của nhà thờ chính tòa Buenos Aires, nói rằng Đức Thánh Cha lãnh đạo Giáo hội và đoàn chiên của Chúa Kitô, nhưng cũng có vai trò là sự hiện diện của Chúa Kitô ở trần gian, rao giảng Tin Mừng, mang công lý, hòa bình và chân lý đến mọi lĩnh vực của cuộc sống để đem Vương quốc Thiên Chúa đến trần gian.
Cha nhấn mạnh: “Muốn tước bỏ sứ mạng này khỏi Giáo hội, muốn tước bỏ sứ mạng rao giảng công lý và chân lý này, là muốn tách Giáo hội khỏi sứ mạng mà chính Chúa Giêsu đã trao cho Giáo hội. Muốn Giáo hoàng chỉ có mặt bên trong Đền thờ Thánh Phêrô, chỉ để ban hành các quy tắc và điều chỉnh đời sống nội bộ của Giáo hội, là muốn che khuất hình ảnh của người mục tử, hình ảnh của người đại diện của Chúa Giêsu mà chính Chúa Kitô muốn”.
Cha nói tiếp: “Và vì vậy, chúng ta tạ ơn vào lễ kỷ niệm 12 năm này, khi nhận được huân chương này. Nhưng chúng ta tạ ơn vì Đức Thánh Cha Phanxicô đã can đảm rao giảng công lý, rao giảng sự thật, có mặt trong các cuộc xung đột vũ trang để cố gắng giúp giải quyết chúng; tạ ơn Chúa vì Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã can đảm biến vấn đề chăm sóc sinh thái cho ngôi nhà chung của chúng ta thành một vấn đề trên toàn thế giới; vì Đức Thánh Cha đã can đảm đưa việc rao giảng Phúc âm vào thế giới”.
Cha Russo cũng mời gọi các tín hữu cầu nguyện cho Đức Thánh Cha và cầu xin cho ngài được chữa lành.
Trước đó, ngày 26/02, nhà ở của linh mục, tòa nhà ba tầng, nơi đặt văn phòng giáo phận và trường trung học cũng đã bị đốt phá.
Giáo phận Banmaw được thiết lập vào năm 2006 và được cai quản bởi Đức cha Raymond Sumlut Gam. Giáo hội địa phương này giáp Trung Quốc ở phía đông và bao phủ một khu vực phần lớn là núi với diện tích 10.741 km2. Trong vùng đất xung đột này hiện có hơn 407 ngàn người sinh sống, trong đó có hơn 27 ngàn người là tín hữu Công giáo, thuộc nhiều nhóm dân tộc khác nhau.
Ngoài khu vực trên, vào ngày hôm sau, tại Mandalay quân đội còn ném bom vào một ngôi làng làm ít nhất 27 người chết trong đó có một số trẻ em.
Không chỉ phá huỷ, quân đội còn áp dụng lệnh nghĩa vụ quân sự đối với thành phố Mogok ở vùng Mandalay để thành lập lực lượng dân quân địa phương nhằm duy trì an ninh, yêu cầu mỗi gia đình phải có một thành viên từ 18 đến 45 tuổi tham gia. Bị người dân phản đối, quân đội đã bắt giữ những thanh niên đi trên đường phố. Tình hình ngày càng trở nên căng thẳng với những cuộc biểu tình phản đối của người dân không chỉ về an ninh nhưng cả về quản lý đất đai.
Đức Tổng giám mục tuyên bố như trên trong thánh lễ Chúa nhật, ngày 09 tháng Ba vừa qua, tại Nhà thờ chính tòa thánh Têrêsa ở thủ đô Juba của Nam Sudan.
Nam Sudan có hơn 60 nhóm bộ tộc chính khác nhau, được độc lập khỏi nước Sudan ở miền bắc, ngày 09 tháng Mười Một năm 2011, tiếp theo một hiệp định năm 2005 chấm dứt cuộc nội chiến dành nhất ở Phi châu.
Nhưng chỉ hai năm sau đó, 2013, quốc gia trẻ trung này lại lâm vào tình trạng nội chiến, sau khi Tổng thống Salva Kiir tố cáo cựu Phó Tổng thống là Riek Machar âm mưu lật đổ ông.
Mặc dù nhiều toan tính đạt tới hòa ước và ngưng bắn vào những năm 2015, 2017, 2018, bạo lực chính trị và tình trạng bất an vẫn kéo dài giữa các lực lượng của chính phủ và các phe đối lập ở Nam Sudan.
Ngày 02 tháng Ba năm 2023, Đức Thánh cha Phanxicô đã cùng với Đức Giáo chủ Liên hiệp Anh giáo Justin Welby đến viếng thăm Nam Sudan, để đánh dấu cuộc hòa giải giữa các phe tại nước này. Nhưng trong thời gian gây đây, bạo lực và xung đột lại tái diễn. Hôm thứ Tư, ngày 12 tháng Ba vừa qua, ít nhất 10 người đã bị giết và 23 người khác bị thương trong cuộc pháo kích vào thành phố El Fasher, thủ phủ miền Bắc Darfur do Lực lượng hỗ trợ nhanh (Rapid Support Forces - RSP) thực hiện.
Trong bài giảng vừa nói tại Nhà thờ chính tòa thủ đô, Đức Tổng giám mục Sứ thần Horgan nói rằng: “Đức Thánh cha Phanxicô tiếp tục theo dõi các biến cố tại Nam Sudan và cầu nguyện cho đất nước này. Nay chúng ta có thể tái dâng những kinh nguyện ấy để cầu cho đất nước Nam Sudan được phục hồi, cầu nguyện cho sự chữa lành. Đất nước này đang đối đầu với một mùa đổ máu mới, và thật là một thảm kịch vì Mùa chay bắt đầu bằng những biến cố như thế”.
Đức Tổng giám mục nhấn mạnh rằng Mùa Chay là mùa hoán cải cá nhân và quốc gia, đồng thời kêu gọi xa tránh bạo lực và đón nhận yêu thương, như Chúa Kitô đã dạy. Ngài nói: “Chúng ta phải bắt đầu bằng sự hoán cải, từ bỏ bạo lực có thể phá hủy chúng ta. Các tín hữu Kitô không thể dấn thân trong các cuộc chiến như vậy. Mùa chay kêu mời chúng ta cấp thiết hoán cải như vậy trong năm nay”.
Cha John Gbemboyo, Giám đốc truyền thông xã hội thuộc Hội đồng Giám mục Sudan và Nam Sudan, nói với trang mạng Crux ở Mỹ rằng tình trạng Nam Sudan thật gay go nguy hiểm, tạo nên cuộc khủng hoảng trầm trọng về nhân đạo, và khiến cho đông đảo dân chúng phải di tản.
Nam Sudan là một trong những nước nghèo nhất thế giới, mặc dù có nhiều mỏ dầu hỏa và đất đai phì nhiêu, 90% đất đai thích hợp cho việc canh tác. Gần 11 triệu dân Nam Sudan đang đương đầu với các cuộc khủng hoảng nhân đạo trầm trọng, xung đột, nghèo đói và nạn phải tản cư.
Đức Sứ thần Tòa Thánh cũng nói rằng: “Nay là lúc lật qua một trang khác. Nay là lúc dấn thân để đạt được một sự biến đổi khẩn cấp và rất cần thiết. Tiến trình hòa bình và hòa giải cần một sự bắt đầu mới. Ngoài các cuộc xung đột, Nam Sudan cũng cần được phục hồi từ sự thay đổi khí hậu”.
Đức cha Cristiano Carlassare, thừa sai người Ý, Giám mục Giáo phận Bentiu, giải thích rằng Nam Sudan đang phải chịu những thời kỳ mưa lũ và hạn hán. “Trong bốn năm qua đã có những vụ lụt lội lớn làm cho hàng triệu người phải di tản hàng năm, kết quả là canh nông bị đe dọa và lương thực trở nên khan hiếm hơn”.
Linh mục và chủng sinh vừa nói đã bị bắt cóc lúc 9 giờ 30, tối ngày 03 tháng Ba, tại nhà xứ của nhà thờ thánh Phêrô ở Ivivu Khua-Agenebode, thuộc huyện Etsuko Đông, vẫn thuộc bang Edo. Một nhóm người võ trang đã tấn công nhà xứ cũng như nhà thờ. Linh mục và chủng sinh bị dẫn vào rừng gần đó. Giáo phận đã xin các lực lượng an ninh bảo vệ dân chúng ở bang Edo chống lại nạn bắt cóc.
Đức cha Gabriel Dunia, Giám mục Giáo phận Auchi, đã ngỏ lời cảm ơn tất cả mọi người, vì đã cầu nguyện và nâng đỡ tinh thần cho cha Ekweli và chủng sinh trong thời gian bị giam cầm. Đức cha cũng kêu gọi chính quyền các cấp và các cơ quan an ninh chặn đứng tình trạng suy thoái an ninh ở bang Edo: “Các nhóm bất lương manh động mà không bị luật pháp trừng phạt, trong khi dân chúng cảm thấy bất lực và bị bỏ rơi.”
Tòa giám mục cũng nói rằng: “Người dân không được an ninh trên đường, nơi các nông trại và thậm chí tại gia cư họ cũng không được an ninh. Thật là một điều không thể chấp nhận được, khi có những đại diện dân cử với nhiệm vụ bảo vệ dân, mà không chu toàn sứ mạng.”
Đức giám mục cám ơn chính quyền bang Edo vì những cố gắng chân thành để phục hồi những người bị bắt cóc. Nhưng Đức cha bất mãn vì câu trả lời của cảnh sát, đặc biệt trong những cố gắng giải thoát những người bị bắt cóc, đồng thời kêu gọi họ thực hiện những biện pháp tốt hơn để giải thoát các nạn nhân, thay vì để những cố gắng này hoàn toàn trong tay người thân của các nạn nhân, bạn hữu hoặc những người quen biết của họ.
Cha Egielewa thuộc Tòa giám mục Auchi nhắc lại rằng trong 10 năm gần đây, giáo phận có ba linh mục bị bắt cóc và tra tấn, trước khi được trả tự do, ba linh mục khác bị tấn công nhưng đã chạy thoát được, trong khi một linh mục khác, là cha Christopher Odio bị sát hại dã man, và nay đến lượt đại chủng sinh Andrew Peter.
Cho đến nay, hàng trăm tín hữu Kitô Ấn Độ đã bị xách nhiễu và bắt giam thường là do những lời buộc tội vu khống, cáo gian.
Cuộc biểu tình vĩ đại này do Diễn đàn Đại kết Kitô ở Arunachal tổ chức. Ông Mir Stephen Tarh, Chủ tịch diễn đàn này nói với trang mạng National Catholic Register, truyền đi ngày 12 tháng Ba vừa qua rằng: “Nếu chính quyền không thu hồi đạo luật chống cải đạo ở bang này từ nay đến cuối tháng Ba, chúng tôi buộc lòng phải tổ chức một cuộc mít tinh trưng cầu dân ý về vấn đề này”.
Các tín hữu đã biểu tình mặc dù chính quyền địa phương không cho phép tổ chức biểu tình bên ngoài Nghị viện của tiểu bang. Đây là lần đầu tiên có cuộc biểu tình rộng lớn như vậy.
Tham dự cuộc biểu tình, có các tín hữu Kitô thuộc mọi hệ phái. Họ mang y phục truyền thống và trương những biểu ngữ, với những câu như: “Hãy bảo vệ quyền tự do tôn giáo của chúng tôi”, “Hãy tôn trọng tín ngưỡng của chúng tôi”, “Hiệp nhau, chúng ta bảo vệ sự hòa hợp tôn giáo”.
Đức cha Benney Varghese, Giám mục Giáo phận Itanagar ở địa phương, nói với báo Register rằng “Cuộc tuần hành phản đối này là một sự biểu dương tình hiệp nhất và liên đới chống lại đe dọa tự do và hòa hợp tôn giáo trong tiểu bang”.
Trước đó, ngày 01 tháng Ba, các thành phần quốc gia Ấn giáo ở Bang Arunachal Pradesh đã tổ chức cuộc mít tinh yêu cầu chính quyền áp dụng luật cấm cải đạo một cách nghiêm ngặt. Luật được mang tên hoa mỹ là “Luật tự do tôn giáo” có từ năm 1978. Chỉ có vài trăm người tham gia cuộc biểu tình này mặc dù có sự hiện diện ông Mohan Bhagwat, thủ lãnh những người Quốc gia Ấn giáo tại bang này.
Sự kiện này đã được công bố như là một “thành công lâm sàng rõ ràng”. Sự kiện nóng bỏng này đã được đài truyền hình quốc gia - The Australian Broadcasting Corporation (ABC channel) của nước Úc thông báo vào tối hôm Thứ 4, ngày 12 tháng 3 năm 2025, sau khi người đàn ông ở độ tuổi 40, người được chọn giấu tên, đã sống sót đủ lâu với thiết bị trái tim nhân tạo.
Người đàn ông này là một bệnh nhân tại bệnh viện St Vincent’s ở Darlinghurst, Sydney, đang bị suy tim nặng và sẽ không thể sống sót nếu không được cấy ghép.
Đây là lần đầu tiên việc cấy ghép tim nhân tạo do Bác sĩ Daniel Timms (với học vị Tiến sĩ), người Úc, quê quán tại Tiểu Bang Queensland đã nghĩ ra cách thức và phương pháp tạo nên trái tim nhân tạo cách đây khoảng 20 năm và đã được công ty y tế BiVacor chế tạo[1] và đã được sử dụng để cấy ghép cho một bệnh nhân ở Úc. Trong ca phẫu thuật kéo dài 6 giờ ở Sydney vào tháng 11 năm ngoái (2024), các bác sĩ tại bệnh viện St Vincent’s ở Darlinghurst, Sydney đã cấy ghép tim nhân tạo toàn diện BiVACOR, một máy bơm máu cơ học làm từ titan, cho một người đàn ông đang bị suy tim nặng.
Các bác sĩ thực hiện ca phẫu thuật kéo dài sáu giờ để cấy ghép trái tim nhân tạo có thể thấy ở đây đang bơm. (Ảnh được cung cấp bởi Bệnh viện St Vincent tại Tp. Sydney, Úc).
Ca cấy ghép tim nhân tạo đầu tiên tại thành phố Sydney, nước Úc (Australia) đã được ca ngợi là thành công sau khi người nhận trở thành người đầu tiên trên thế giới được xuất viện nhờ thiết bị công nghệ cao này.
Trong ca phẫu thuật kéo dài 6 giờ ở Sydney vào tháng 11 năm ngoái (2024), các bác sĩ tại bệnh viện St Vincent’s ở Darlinghurst, Tp. Sydney đã cấy ghép Tim nhân tạo toàn diện BiVACOR, một máy bơm máu cơ học làm từ titan, cho một người đàn ông đang bị suy tim nặng.
BiVACOR TAH (BiVACOR Total Artificial Heart) đại diện cho sự thay đổi mô hình trong thiết kế tim nhân tạo. Các công nghệ TAH (Total Artificial Heart)[2] – hiện tại sử dụng thiết kế bơm thể tích với màng polyme linh hoạt để bơm máu. Ngược lại, BiVACOR TAH là máy bơm máu quay cơ điện.[3] Cải tiến thiết kế chính ở BiVACOR TAH là cấu trúc đơn giản, với một động cơ và một mô-tơ (motor) duy nhất được nâng lên bằng từ tính, đồng thời bơm máu đến cả cơ thể và phổi.
Ảnh do Công ty BiVACOR cung cấp - https://bivacor.com/ (Truy cập, ngày 14/03/2025).
Người đàn ông nhận được thiết bị cấy ghép tim nhân tạo như một biện pháp tạm thời cho đến khi có trái tim hiến tặng, nhưng BiVACOR được thiết kế để một ngày nào đó sẽ thay thế vĩnh viễn cho trái tim bị suy yếu.
Các bác sĩ hy vọng nó cuối cùng có thể loại bỏ hoàn toàn nhu cầu về người hiến tim.
Tim nhân tạo sử dụng công nghệ từ tính để “hút” máu đi khắp cơ thể thay vì bơm máu. Ảnh do Công ty BiVACOR cung cấp - https://bivacor.com/ (Truy cập, ngày 14/03/2025)
Bác sĩ phẫu thuật tim mạch và cấy ghép nổi tiếng Paul Jansz đã thực hiện ca phẫu thuật tại Bệnh viện St Vincent’s ở Darlinghurst và cho biết nó khiến ông "nổi da gà".
Bác sĩ Jansz nói: “Chắc chắn là tôi rất lo lắng, đặc biệt là khi Daniel Timms, người đã phát minh ra BiVACOR bật công tắc và bật trái tim nhân tạo lên”.
Ông mô tả phát minh này được ví như thể là "The Holy Grail - Chén Thánh"[4], vì về mặt kỹ thuật, nó không thể bị hỏng hoặc bị cơ thể từ chối.
Bộ phận của trái tim nhân tạo bơm máu đi khắp cơ thể bằng cách sử dụng một động cơ có cơ chế đặc biệt giúp tránh mọi hao mòn cơ học giữa các bộ phận của nó. Nó sử dụng nam châm để treo motor của động cơ, nghĩa là các bộ phận không bị cọ xát hoặc mài mòn theo thời gian.
Thiết bị này được thiết kế bởi nhà phát minh Daniel Timms, có quê quán thuộc Tiểu Bang Queensland (nước Úc), người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc phát minh ra nó.
Tiến sĩ Timms cho biết niềm đam mê của ông đối với ý tưởng này, lần đầu tiên đã nảy sinh từ thời thơ ấu, khi ông thường dành vô số thời gian cùng với người cha là thợ sửa ống nước để mày mò máy bơm nước.
Anh cho biết việc phát triển phát minh của mình bao gồm rất nhiều chuyến đi đến Bunnings,[5] nơi anh cùng bố đến thăm vào mỗi cuối tuần.
Bố của Tiến sĩ Timms sau đó qua đời vì bệnh suy tim, điều này càng làm tăng thêm niềm đam mê hoàn thiện trái tim nhân tạo của ông.
Daniel Timms được truyền cảm hứng để tạo ra thiết bị này sau khi cha anh qua đời vì bệnh suy tim. (Ảnh cung cấp do BiVACOR)
Ông luôn quyết tâm đảm bảo rằng người Úc sẽ sớm được hưởng lợi từ nó.
Ông nói: “Có rất nhiều phát minh ở Úc và đôi khi chúng tôi cảm thấy chúng bị thất lạc ở nước ngoài”.
Phát minh về tim của Úc đang được thử nghiệm ở Mỹ
BiVACOR® là công ty thiết bị y tế đã đi tiên phong trong việc phát triển liệu pháp lâu dài cho bệnh nhân suy tim hai tâm thất. Dưới sự chỉ đạo chuyên môn của người sáng lập và nhà phát minh TAH (Total Artificial Heart),[6] là Tiến sĩ Daniel Timms (người Úc), và dưới sự hướng dẫn của hai chuyên gia nổi tiếng trong lĩnh vực phẫu thuật tim mạch, William E. Cohn, MD và O.H. (Bud) Frazier, MD, BiVACOR TAH hiện đang trải qua các cuộc nghiên cứu sớm mang tính khả thi đầu tiên trên người (EFS) được FDA phê duyệt.[7] Có trụ sở chính tại Huntington Beach, California, với các văn phòng lâm sàng ở Houston, Texas và các văn phòng quốc tế tại Gold Coast, Australia, BiVACOR cam kết giải quyết nhu cầu chưa được đáp ứng trên toàn cầu của những bệnh nhân bị suy tim giai đoạn cuối đang chờ ghép tạng bằng cách cung cấp các giải pháp kéo dài sự sống thế hệ tiếp theo.
Tiến sĩ Timms cho biết ông rất biết ơn bệnh nhân, một người đàn ông khoảng 40 tuổi đến từ Tiểu Bang New South Wales (Úc), người đã tình nguyện nhận thiết bị tim nhân tạo cho việc cấy ghép trong khi chờ đợi tim được hiến tặng để cấy ghép. Ca phẫu thuật cấy ghép tim của anh ấy cũng thành công và anh ấy đang hồi phục tốt.
Người đàn ông này đã sống với trái tim nhân tạo hơn 100 ngày cho đến khi tìm thấy trái tim người phù hợp vào tuần trước. Đây là thời gian lâu nhất so với bất kỳ người nhận cấy ghép tim nhân tạo nào cho đến nay.
Tiến sĩ Timms cho biết người bệnh nhân không hề có cảm giác là ông ta đang mang trong lồng ngực của mình một thiết kế bằng trái tim nhân tạo, và anh ta vẫn có thể đi bộ xuống phố và đi mua sắm một tháng trước khi anh ta nhận được trái tim hiến tặng.
"Một phần tư số người chờ cấy ghép tim đã chết - giờ đây điều đó đã thay đổi với những thiết bị như thế này," Bác sĩ Jansz cho biết.
Tiến sĩ Timms cho biết ông hy vọng trong vòng 2 đến 3 năm nữa, trái tim nhân tạo của ông sẽ bớt khác lạ hơn và sẽ được cấy ghép cho ngày càng nhiều người.
“Chúng tôi chỉ cần sản xuất nhiều thiết bị hơn, đó là hạn chế duy nhất hiện nay… chúng tôi đang tăng cường sản xuất để chúng sẵn sàng nằm trên kệ và chờ đợi.”
Ảnh Tiến sĩ Daniel Timms, người đã có công phát minh ra Trái tim nhân tạo (BiVACOR). (Image: Australian of the Year Awards - Ảnh: Dr. Daniel Timms nhận Giải thưởng của Chính phủ Úc trao tặng được tổ chức hằng năm).
Bốn thiết bị nữa sẽ được cấy ghép trong năm nay thông qua Chương trình “Trái tim nhân tạo” do Đại học Monash tại thành phố Melbourne chủ trì.
Các bác sĩ tại Bệnh viện Alfred ở Melbourne đang được đào tạo và hy vọng sẽ thực hiện ca cấy ghép tim nhân tạo (BiVACOR) đầu tiên vào khoảng giữa năm 2025.
Suy tim giết chết khoảng 5.000 người Úc mỗi năm và xảy ra khi tim bơm máu đi khắp cơ thể kém hiệu quả hơn. Nó có thể xuất hiện đột ngột nhưng thường phát triển chậm khi tim trở nên yếu hơn.
Bác sĩ tim mạch Chris Hayward của Bệnh viện St Vincent's Sydney cho biết trái tim nhân tạo BiVACOR sẽ trở thành giải pháp thay thế cho những bệnh nhân không thể chờ đợi trái tim của người hiến tặng hoặc khi đơn giản là không có trái tim của người hiến tặng.
Australia đang rất cần thêm người hiến tạng khi tổng số người được cấy ghép giảm 5% trong năm ngoái, trong khi số ca ghép tim giảm 19%.
Nguồn bài viết bằng tiếng Anh:
1. Australian becomes first in world discharged with durable artificial heart.” By national health reporter Elise Worthington and the Specialist Reporting Team's Paige Cockburn. Published on Wednesday, 12 March 2025
https://www.abc.net.au/news/2025-03-12/sydney-hospital-artificial-heart-implant-operation-success/105036154 (Accessed on Friday, 14 March 2025)
2. ‘Complete game changer’: Man leaves Sydney hospital with artificial heart in world first(By Angus Thomson, Sydney Morning Herald). (Accessed on Friday, 14 March 2025).
3. Replacing Hearts - Restoring Lives. https://bivacor.com/ (Accessed on Friday, 14 March 2025).
4. Man leaves St Vincent’s hospital with artificial heart in world first. CathNews, Thursday 13 March 2025 (Accessed on Friday, 14 March 2025).
_______
[1] . Công ty BiVacor có trụ sở tại Huntington Beach, California, với các văn phòng lâm sàng ở Houston, Texas và các văn phòng quốc tế tại Gold Coast, Australia.
[2] . Toàn bộ là tim nhân tạo.
[3] . BiVACOR TAH đề cập đến Tim nhân tạo tổng thể BiVACOR, một thiết bị cơ học cấy ghép mang tính cách mạng do Úc sản xuất, được thiết kế để thay thế toàn bộ chức năng của trái tim con người đang suy yếu, sử dụng công nghệ bay lên từ trường để hút máu và chuyển đi cho cơ thể thay vì phải bơm bằng nhịp tim đập. Tim nhân tạo tổng thể BiVACOR (TAH) kết hợp công nghệ bơm quay ly tâm và bơm từ trường (MAGLEV) để tạo ra máy bơm máu cho hai tâm thất với một motor bơm đơn giúp bơm máu vào hệ thống tuần hoàn và phổi để thay thế cả hai tâm thất của một trái tim bị suy.
[4] . The Holy Grail - Chén thánh là chiếc ly được cho là đã được Chúa Giê-su sử dụng trong bữa tiệc ly trước khi ngài qua đời.
[5] . Bunnings ở nước Úc là tiệm bán rất nhiều các loại vật dụng về xây dụng và máy móc. Hầu như cái gì cũng có bán tại nơi đây với giá phải chăng.
[6] . In the context of medical procedures, "TAH" stands for Total Abdominal Hysterectomy, which is a surgery to remove the uterus and cervix through an abdominal incision. Trong bối cảnh các thủ tục y tế, "TAH" là viết tắt của Cắt tử cung toàn phần bằng bụng, là một phẫu thuật cắt bỏ tử cung và cổ tử cung thông qua một vết mổ ở bụng.
[7] . The FDA, or the United States Food and Drug Administration, is a federal agency responsible for protecting and promoting public health by regulating and supervising food safety, tobacco products, dietary supplements, medications, vaccines, medical devices, and cosmetics. FDA, hay Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ, là cơ quan liên bang chịu trách nhiệm bảo vệ và tăng cường sức khỏe cộng đồng bằng cách quản lý và giám sát an toàn thực phẩm, sản phẩm thuốc lá, thực phẩm bổ sung, thuốc, vắc xin, thiết bị y tế và mỹ phẩm.
Tối thứ sáu 21 tháng 3, Vatican thông báo “dù tình trạng của ngài đã được ổn định” nhưng các bác sĩ chưa cho biết khi nào ngài xuất viện.” Trong cuộc họp báo ngày thứ bảy 22 tháng 3, bác sĩ Alfieri cho biết trong hơn một tháng ở bệnh viện, đã hai lần tính mạng của ngài suýt bị nguy hiểm, nhưng hiện nay sức khỏe của ngài đã dần dần hồi phục.
Sáng thứ bảy, Vatican thông báo ngài sẽ ban phép lành và đọc Kinh Truyền Tin từ cửa sổ phòng øbệnh viện Gemelli. Nhưng tối thứ bảy, Ban Y tế thông báo ngài sẽ rời bệnh viện để về Nhà Thánh Marta. Bác sĩ Sergio Alfieri, giám đốc khoa phẩu thuật của Bệnh viện cho biết ngài sẽ phải tĩnh dưỡng hai tháng, tiếp tục tập vật lý trị liệu vận động và hô hấp vì dù ngài đã lành viêm phổi nhưng phổi vẫn còn vi khuẩn vì thế phải mất nhiều tháng mới loại bỏ được hoàn toàn.
Sự thay đổi đột ngột trong các thông báo của Vatican có lẽ không nằm trong kế hoạch của các nhân viên, nhưng không ai ngạc nhiên vì Đức Phanxicô nổi tiếng có ý chí sắt đá, dù đã 88 tuổi, ngài vẫn thấy mình còn nhiều việc phải làm.
Trong cuộc họp báo, chiều tối thứ Bảy, ngày 22 tháng Ba vừa qua, giáo sư bác sĩ Sergio Alfieri, trưởng nhóm điều trị cho Đức Thánh cha và ông Luigi Carbone, Phó Giám đốc bệnh viện, đã thông báo quyết định xuất viện của Đức Thánh cha. Cuộc điều trị dài vì ngài bị viêm phổi hai bên và sau hai vụ lên cơn nguy hiểm đến tính mạng. Tuy được trở về nhà trọ Santa Marta ở Vatican, Đức Thánh cha cần một cuộc dưỡng bệnh dài, ít là hai tháng, tiếp tục làm vật lý trị liệu về cử động và hô hấp, như đã làm trong những ngày ở nhà thương. Đồng thời, Đức Thánh cha tiếp tục được điều trị bằng thuốc.
Ông Carbone cho biết Đức Thánh cha tiếp tục cần thêm oxy cho đến khi bình thường. Những nhu cầu này, sở y tế Vatican có thể đáp ứng tại nhà Santa Marta, với một dịch vụ 24 giờ mỗi ngày.
Trả lời câu hỏi của báo chí về vấn đề Đức Thánh cha cần học nói lại và phục hồi tiếng nói, giáo sư Alfieri cho biết “khi một người bị viêm phổi hai bên, thì phổi bị thương tổn và các bắp cơ hô hấp cũng gặp khó khăn. Một trong những điều đầu tiên xảy ra là bệnh nhân mất một chút tiếng nói, giống như trường hợp một người, vì lý do nào đó, dùng tiếng nói quá cao. Và giống như tất cả các bệnh nhân già, trẻ, đặc biệt là người già, cần có thời gian để giọng nói trở lại như trước. So với 10 ngày trước đây, người ta ghi nhận có những tiến bộ quan trọng, kể cả về phương diện này. Về phương diện phục hồi tiếng nói, thì khó có thể nói, nhưng chúng tôi hy vọng sẽ diễn ra trong thời gian ngắn”.
Về vấn đề hoạt động trở lại của Đức Thánh cha, hai chuyên gia của Bệnh viện Gemelli giải thích rằng trong những ngày điều trị tại đây, Đức Giáo hoàng vẫn luôn tiếp tục và sẽ tiếp tục khi trở về Vatican. Nhưng ngài không thể làm việc lại ngay: chúng tôi đề nghị dành thời kỳ thích hợp để nghỉ ngơi và dưỡng bệnh. Vì thế, chúng tôi khuyên ngài đừng tiếp những nhóm người hoặc những người riêng rẽ, hay thi hành những việc quan trọng. Chắc chắn Đức Giáo hoàng Phanxicô sẽ làm điều đó, sau khi ngài kết thúc giai đoạn dưỡng bệnh cần thiết đã được quy định và bệnh lý của ngài có thể có những cải tiến như mong đợi”.
Cho đến nay, chưa có tin tức gì về các nghi thức Tuần Thánh sắp tới, hoặc về cuộc viếng thăm của Vua Charles của Anh quốc, ngày 08 tháng Tư, hay chuyến viếng thăm tại Nicea, bên Thổ Nhĩ Kỳ, nhân kỷ niệm 1.700 năm Công đồng chung đầu tiên của Giáo hội tại đây. Những điều đó sẽ được xác định sau.
Dân chúng tụ đã họp tại đây từ ban sáng, nhiều người mang cờ quốc gia của mình, từ Ba Lan, Tây Ban Nha, Israel và Ucraina. Họ reo họ chào mừng ngài. Trong số những người hiện diện, cũng có ông Thị trưởng Roberto Gualtieri của thành Roma.
Đức Thánh cha giơ ngón tay cái ngụ ý nói: tốt lắm! và ngài nói thêm: “Tôi thấy bà kia cầm hoa màu vàng, tốt lắm”.
Tại Quảng trường thánh Phêrô, các tín hữu đông đảo hơn thường lệ. Họ dồn tới trước hai màn hình lớn để theo dõi trực tiếp sự xuất hiện của Đức Thánh cha tại Bệnh viện Gemelli.
Sau giây phút xuất hiện ngắn ngủi, Đức Thánh cha được chở về Đền thờ Đức Bà Cả để kính viếng và cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ là phần rỗi của dân Roma, để cảm tạ Mẹ Thiên Chúa, trước khi trở về Nhà trọ Santa Marta ở nội thành Vatican.
Nhiều người nói với giới báo chí: “Tôi hài lòng vì được thấy Đức Thánh cha. Chúng tôi đã sợ sự chẳng lành nguy hiểm có thể xảy ra cho ngài”.
Trưa Chúa Nhật ngày 23/3/2025, trong khi màn hình lớn tại Quảng trường Thánh Phêrô chiếu những hình ảnh của Đức Thánh Cha Phanxicô, nhiều giáo dân và linh mục đã chia sẻ cảm xúc của họ khi biết Đức Thánh Cha xuất viện và trở về Vatican. Họ vui mừng "găp" lại ngài.
Khi màn hình bắt đầu phát sóng những gì đang diễn ra tại quảng trường Bệnh viện Gemelli, các tín hữu từ từ tiến lại gần màn hình để có thể nhìn thấy và cảm nhận Đức Thánh Cha ở gần hơn. Nhiều người vẫn hy vọng cho đến phút cuối rằng, thay vì từ một ban công nhỏ của bệnh viện, Đức Thánh Cha sẽ nhìn ra từ cửa sổ tầng ba Dinh Tông tòa.
Lời cầu nguyện đã được Chúa nhậm lời
Cha Natale Centineo đến từ tỉnh Palermo chia sẻ: “Hôm nay, một ước nguyện mà chúng tôi ấp ủ trong lòng từ lâu đã trở thành sự thật. Chúng tôi đã lo sợ rất nhiều cho sức khỏe của Đức Thánh Cha, đã cầu nguyện không ngừng, tổ chức các buổi canh thức, cử hành Thánh lễ và những giờ chầu Thánh Thể. Chúa thực sự đã lắng nghe tiếng kêu của Giáo hội hoàn vũ, nơi đã hiệp nhất từ mọi miền trên thế giới để cùng nhau cầu xin Người chữa lành”. Và giờ đây, Chúa Nhật này được sống với “niềm vui vô bờ trong lòng”, làm cho ngày của Chúa trở nên “đặc biệt hơn, với sự mong đợi cuối cùng đã thành hiện thực”.
“Chúng tôi cảm thấy nhớ Đức Thánh Cha"
Francesco Pozzuoli, một trưởng nhóm hướng đạo 46 tuổi, đi cùng một nhóm rất đông thiếu niên đến từ Caserta cũng chia sẻ: “Chúng tôi cảm thấy nhớ Đức Thánh Cha khi ngài xuất hiện ở cửa sổ, nhưng chúng tôi tràn ngập niềm vui khi biết rằng hôm nay cuối cùng ngài cũng được xuất viện. Đức Thánh Cha Phanxicô là người duy nhất và không thể lặp lại. Chúng tôi rất vui và chúng tôi chờ đợi với trái tim tràn đầy hy vọng để ngài trở về nhà và xuất hiện giữa chúng ta một lần nữa”.
Mong ngài tiếp tục hướng dẫn chúng ta bằng sức mạnh và sự khiêm nhường
Bà Orestina Gerbotto, trong chuyến hành hương giáo phận từ Cuneo, đang chờ đợi “một thông điệp mang lại sức mạnh”: “Nếu Đức Thánh Cha ở trước mặt tôi,” bà nói, “tôi sẽ cảm ơn ngài vì mọi điều ngài đã làm, bởi vì có lẽ ngài là người duy nhất thực sự tin vào hòa bình. Chúng tôi cầu chúc ngài sức khỏe và mong ngài tiếp tục hướng dẫn chúng ta bằng sức mạnh và sự khiêm nhường”.
Một bất ngờ lớn
Silvia Labarile, người đã ở Roma trong vài ngày với nhóm trẻ Salêdiêng tại Geneva, không ngờ “một bất ngờ lớn đến vậy”: 150 thiếu niên, giáo viên và linh mục, tất cả đều đeo khăn tay màu vàng, nằm trong số những người đầu tiên nhảy lên và chạy đến màn hình khổng lồ gần nhất khi tin tức lan truyền khắp quảng trường rằng Đức Thánh Cha sắp xuất hiện từ Gemelli. Silvia nhấn mạnh rằng đây là “cách tốt nhất để kết thúc chuyến hành hương của chúng tôi”.
Mỗi ngày ngài thúc đẩy chúng tôi sống với nhiều tình yêu thương và dấn thân hơn
Sơ Annalisa Colli thuộc Dòng Phanxicô Minime Thánh Tâm nói về một “ngày đặc biệt”. Các nữ tu của dòng từ khắp nơi trên thế giới đều xúc động trước Đức Thánh Cha: “Chúng tôi đồng hành với ngài bằng lời cầu nguyện, cũng như phần lớn Kitô hữu trên thế giới. Đó là một cảm xúc sâu sắc, một niềm vui vô bờ bến và cũng là một sự ngạc nhiên. Chúa Thánh Thần luôn biết cách ban cho chúng ta những điều kỳ diệu này, và hình ảnh hôm nay sẽ mãi in sâu trong trái tim chúng tôi”. Sơ Annalisa cảm ơn ngài “vì giáo huấn của ngài luôn tràn đầy ánh sáng. Mỗi ngày ngài thúc đẩy chúng tôi sống với nhiều tình yêu thương và dấn thân hơn, nhờ mọi điều ngài truyền đạt cho chúng tôi bằng lời nói và tấm gương của ngài”.
Đức Thánh Cha quá quan trọng đối với tất cả chúng ta
Angela Celozzi từ Torino thì nói rằng “thật tuyệt vời khi thấy Đức Thánh Cha Phanxicô sống” và hứa sẽ “tiếp tục cầu nguyện cho sức khỏe của ngài, vì chúng ta không thể mất Đức Thánh Cha Phanxicô. Không, chúng ta không thể. Ngài quá quan trọng đối với tất cả chúng ta”.
Những "người hàng xóm" chào đón Đức Thánh Cha
Rời bệnh viện Gemelli, sau khi viếng Đền thờ Đức Bà Cả, Đức Thánh Cha đã xuất hiện trong chiếc Fiat 500 màu trắng ở lối vào Perugino của Vatican, ngài ngồi ở ghế trước. Khi chiếc xe dừng lại giữa đường Via della Stazione Vaticana, một số cư dân của các tòa nhà đối diện đã ra đường để chào mừng Đức Thánh Cha “trở lại”.
Stefania, dắt theo chú chó trắng của mình, và cô đảm bảo rằng Đức Thánh Cha biết chú chó này. Cô nói rằng: “Đó là điều tối thiểu chúng tôi có thể làm, chúng tôi rất nhớ ngài trong những ngày này. Thế giới thực sự cần một Đức Giáo hoàng như thế này. Ngài là một người đặc biệt”. Bây giờ ngài đã được lên lịch để dưỡng bệnh tại Santa Marta, “người hàng xóm” Stefania hy vọng rằng “mọi người sẽ tiếp tục cầu nguyện để ngài hồi phục tốt nhất có thể, càng sớm càng tốt”.
Bà Thủ tướng Georgia Melini là người đầu tiên viết trên mạng xã hội rằng: “Tôi vui mừng được biết Đức Giáo hoàng Phanxicô đã trở về Vatican. Tôi nghĩ đến và chúc mừng ngài với lòng quí mến và biết ơn vì sự dấn thân không biết mệt mỏi và sự lãnh đạo khôn ngoan của ngài”.
Bà Meloni là vị đại diện chính phủ duy nhất của Ý được viếng thăm Đức Thánh cha, khi ngài ở nhà thương.
Thị trưởng thành Roma, ông Roberto Gualtieri, cũng bày tỏ tâm tình tương tự và ông cũng thuộc số 3.000 người hiện diện ở khuôn viên Bệnh viện Gemelli, trưa Chúa nhật vừa qua để chào mừng Đức Thánh cha, khi ngài xuất hiện ở ban-công bệnh viện để chào thăm và chúc lành cho các tín hữu.
Cũng vậy, hai vị Chủ tịch Thượng viện Ignazio Russa và Hạ viện Lorenzo Fontana của Ý đã bày tỏ vui mừng vì tin Đức Thánh cha được xuất viện. Tiếp đến là Phó Thủ tướng Matteo Salvini chào mừng Đức Thánh cha xuất viện, sau năm tuần lễ ở nhà thương.
Trong thời gian Đức Thánh cha ở nhà thương, báo chí Ý thường đưa tin về ngài lên hàng đầu.
Phục hồi với sự theo dõi y tế chặt chẽ
Ngài tiếp tục điều trị theo đúng phác đồ mà các bác sĩ đã đề ra: dùng thuốc đường uống trong thời gian dài và thực hiện đầy đủ các liệu pháp vật lý trị liệu vận động và hô hấp, giống như khi còn nằm viện. Các bác sĩ khuyến nghị hạn chế các cuộc gặp gỡ, kể cả cá nhân lẫn theo nhóm. Một đội ngũ y tế luôn túc trực 24/24 để bảo đảm nhu cầu chăm sóc, đặc biệt là hỗ trợ dưỡng khí, cũng như can thiệp ngay khi cần thiết.
Việc cung cấp dưỡng khí vẫn tiếp tục theo phương thức đã được áp dụng trong những ngày cuối ở bệnh viện: ban đêm sử dụng ống thông mũi để hỗ trợ hô hấp với lưu lượng cao, ban ngày giảm dần cường độ.
Dâng lễ và tiếp tục công việc
Tại Nhà Thánh Marta, Đức Thánh Cha tiếp tục cử hành Thánh Lễ đồng tế tại nhà nguyện nhỏ ở tầng hai, tương tự như khi còn ở bệnh viện. Ngài cũng tiếp tục một số công việc thường nhật, phù hợp với tình trạng sức khoẻ hiện tại.
Hiện vẫn chưa có quyết định cụ thể về chương trình hoạt động trong những ngày tới, cũng như lịch trình liên quan đến các cử hành Năm Thánh và Tuần Thánh. Việc đưa ra quyết định sẽ tuỳ thuộc vào tiến trình hồi phục của Đức Thánh Cha.
Đức Thánh cha dùng thuốc, được hỗ trợ bằng lượng oxy cao, làm vật lý trị liệu về hô hấp và vận động, đặc biệt để phục hồi tiếng nói. Về mặt thiêng liêng, ngài đồng tế thánh lễ trong nhà nguyện riêng ở lầu hai của nhà trọ, và cầu nguyện.
Trong việc trị liệu này, Đức Thánh cha có một bác sĩ là ông Luigi Carbone, Phó giám đốc Sở y tế Vatican, và hai nam y tá: ông Massimiliano Strappetti, người luôn theo sát Đức Thánh cha từ sau khi ngài bị mổ đại tràng hồi năm 2021; tiếp đến là ông Andrea Rinaldi, một cách nào đó thay thế ông Sandro Mariotti được coi như người “quản gia” của Đức Giáo hoàng và thường đẩy xe lăn cho ngài.
Khi ở Bệnh viện Gemelli, chỉ có rất ít người được gặp Đức Thánh cha. Tại Nhà trọ thánh Marta cũng sẽ như vậy, ít là trong giai đoạn đầu. Đức Thánh cha giảm bớt tối đa các tiếp xúc để tránh bị lây nhiễm, ít là trong giai đoạn đầu.
Đức Thánh cha có một thư ký riêng, là cha Juan Cruz Villalón người Argentina mà ngài đã truyền chức linh mục hồi năm 2011, khi còn làm Tổng giám mục Giáo phận Buenos Aires. Một thư ký đặc biệt khác là cha Daniel Pellizon, bắt đầu phục vụ cạnh Đức Thánh cha từ năm 2023. Họ làm trung gian với Hồng y đoàn để bảo đảm quyền quản lý trong giai đoạn này.
Ngoài ra ngài còn có Nhóm ”C9” đảm trách công việc Giáo triều. Nhóm có sáu Hồng y: Hồng y Quốc vụ khanh Pietro Parolin; Hồng y Fridolin Ambongo Besungu, Tổng giám mục Kinshasa; Hồng y Juan José Omella, Tổng Giám mục Barcelona; Hồng y Gérald Cyprien Lacroix, Tổng Giám mục Québec, Canada; Hồng y Jean-Claude Hollerich, Tổng giám mục Luxembourg; và Hồng y Sergio da Rocha, Tổng Giám mục Salvador, Bahia. Trong số này có ba Hồng y trên 80 tuổi, tuổi nghỉ hưu.
Ví dụ, bác sĩ Massimo Andreoni, Chủ tịch Hội đồng các giáo sư về bệnh truyền nhiễm thuộc các đại học ở Ý, tỏ ra lạc quan về tình trạng của Đức Thánh cha và nói rằng: “Qua các thông cáo y khoa, người ta thấy Đức Thánh cha tiến triển trong sự biến chuyển căn bệnh của ngài, dần dần giảm bớt sự hỗ trợ oxy”.
Khi Đức Thánh cha rời nhà thương Gemelli và ngồi trong xe về Vatican, người ta thấy mũi ngài còn có hai ống trợ thở oxy cho việc hô hấp.
Giáo sư Andreoni cũng mời gọi dư luận bình tĩnh, vì cần thời gian trước khi có những tin tức thực sự tích cực. Ông nói: “Thời gian dưỡng bệnh của Đức Giáo hoàng sẽ còn dài, việc phục hồi các hoạt động của ngài sẽ chậm rãi và từ từ. Chúng ta đừng quên ngài là một bệnh nhân đã 88 tuổi, với bệnh viêm phổi hai bên nặng. Việc nằm bệnh viện kéo dài có thể khiến bệnh nhân thuộc loại này dễ gặp các biến chứng hơn nữa, nhưng quá trình hồi phục sức khỏe cũng rất cần thiết và kéo dài. Nhưng tôi tin rằng, sau khi giai đoạn mong manh và nguy cấp này qua đi, ngài có thể trở lại với các chức năng của mình, tuy sẽ diễn ra rất chậm chạp”.
Báo chí Ý xuất bản sáng ngày 25 tháng Ba năm 2025, đã đăng tải cuộc phỏng vấn giáo sư bác sĩ Sergio Alfieri, trưởng nhóm y tế tại Bệnh viện Đa khoa Gemelli chữa trị cho Đức Thánh cha Phanxicô, kể lại hai lần Đức Thánh cha suýt tử vong, và đó cũng là những lúc khó khăn nhất trong 38 ngày tại bệnh viện.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho báo “Người đưa tin chiều”, Corriere della sera, bác sĩ Alfieri nói: “Lần đầu tiên tôi thấy nước mắt nơi một số người đứng cạnh Đức Giáo hoàng. Đó là buổi chiều ngày thứ Sáu, 28 tháng Hai, [hai tuần sau khi Đức Thánh cha nhập viện], khi ngài lên cơn co thắt phế quản (broncospasmo), khiến cho cả các bác sĩ lẫn nhân viên giúp ngài lo lắng. Trước tình trạng đó, “chúng tôi phải quyết định hoặc là ngưng, hay là tiếp tục chiến đấu và dùng mọi thuốc men và các biện pháp trị liệu có thể, với nguy cơ là làm cho các cơ phận khác, như thận và tủy sống bị thương tổn thêm.
Quả thực lúc ấy, Đức Thánh cha có nguy cơ “ra đi”, nhưng, qua người y tá chuyên chăm sóc cho Đức Thánh cha, là ông Massimiliano Strappetti, biểu lộ ý muốn của Đức Thánh cha, rằng ngài muốn nói với chúng tôi: “Hãy thử mọi cách, đừng bỏ cuộc!” Đức Giáo hoàng hiểu rằng ngài có nguy cơ tử vong, vì ngài luôn tỉnh táo. Cả khi tình trạng của ngài trở nên trầm trọng, Đức Thánh cha vẫn luôn ý thức. Chiều tối hôm đó thực là kinh khủng, cũng như chúng tôi, Đức Thánh cha biết là không thể vượt qua đêm đó. Chúng tôi đã thấy ngài đau khổ. Nhưng ngay từ đầu, ngài đã xin chúng tôi nói sự thật với ngài và muốn chúng tôi kể sự thật về tình trạng của ngài”.
Và trong thời gian đó, nguy hiểm nhất dường như đã qua đi, thì “trong lúc đang ăn, Đức Giáo hoàng Phanxicô bị nôn mửa. Đó thực là lúc nguy cấp thứ hai, vì trong trường hợp này nếu không được cấp cứu kịp thời thì bệnh nhân có thể bị chết đột ngột cùng với các biến chứng ở phổi, vốn là cơ quan đã bị tổn thương nhiều nhất”. Thật là kinh khủng, chúng tôi đã nghĩ thực sự sẽ không thành công”. Đức Giáo hoàng ý thức ngài có thể chết, nhưng tôi biết rằng ý thức của ngài cũng là động lực giữ cho ngài còn sống”.
Một buổi sáng, giáo sư Alfieri chào Đức Thánh cha: “Kính chào Đức Thánh cha”. Ngài đáp: “Mến chào Đức Thánh con”. “Điều đó đã xảy ra, tính hài hước của Đức Thánh cha vẫn như thế, nhưng nhất là điều đó chứng tỏ tâm hồn của ngài. Đức Thánh cha thường nói: “Tôi vẫn còn sống” và nói thêm ngay: “Đừng quên sống và giữ tinh thần hài hước”. Sức khỏe thể lý của Đức Thánh cha suy yếu, nhưng tâm trí của ngài vẫn còn là tâm trí của một người 50 tuổi. Ngài đã chứng tỏ điều đó trong tuần lễ chót ở nhà thương.”
Bác sĩ Alfieri cũng kể Đức Thánh cha rất muốn hiện diện với các bệnh nhân khác tại bệnh viện, mặc dù ngài còn rất yếu sức. “Vừa khi cảm thấy khỏe khoắn hơn, Đức Thánh cha yêu cầu được đi một vòng trong khu vực, nơi ngài được điều trị ở trong nhà thương. Chúng tôi đã hỏi xem ngài có muốn cửa các phòng bệnh nhân khác đóng lại không, nhưng Đức Thánh cha không đồng ý, ngài muốn tìm những cái nhìn của các bệnh nhân”.
Khi tình trạng sức khỏe của Đức Thánh cha tiếp tục được cải tiến, “tôi hiểu rằng ngài đã quyết định trở về nhà trọ thánh Marta. Một buổi sáng, Đức Thánh cha hỏi tôi: “Tôi vẫn còn sống, khi nào chúng ta trở về nhà?”. Ngày hôm sau Đức Thánh cha xuất hiện ở cửa sổ bệnh viện và qua micro, ngài ngỏ lời với bà cụ già có bó hoa màu vàng, đang đứng ở dưới khuôn viên bệnh viện. Tôi thấy đó là một dấu hiệu rõ ràng để nói rằng ‘tôi trở về và tôi có thể sử dụng tất cả cơ năng của tôi’.
Bác sĩ chính của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thời gian nằm bệnh viện đã nói rằng chính Đức Giáo Hoàng đã quyết định tiếp tục thử nhiều liệu pháp khác nhau khi tính mạng của ngài gặp nguy hiểm nhất và cho rằng sự phục hồi “kỳ diệu” của Đức Giáo Hoàng một phần là nhờ vào lời cầu nguyện.
Trong bài giảng thánh lễ, Đức Tổng giám mục Ngoại trưởng nhấn mạnh rằng Đức Thánh cha Phanxicô “biết ơn về sự gần gũi và những lời cầu nguyện, cách riêng khi ngài nằm viện, vang lên tới thiên quốc để cầu nguyện cho sức khỏe của ngài”. Đồng thời, Đức Tổng giám mục khẳng định tình yêu Thiên Chúa, tình yêu từ Trái Tim bị đâm thâu của Chúa Giêsu, hằng tuôn đổ không ngừng trên nhân loại, một tình yêu gặp gỡ những khổ đau, tội lỗi của con người, một tình yêu đong đầy lòng thương xót. Mùa chay là thời gian thuận tiện để chúng ta đào sâu tình yêu này hầu được Thiên Chúa yêu thương, vươn tới sự tái sinh thiêng liêng, mở ra cho chúng ta “những không gian và chân trời mới của hy vọng, tự do và hòa bình”.
Mặt khác, Đức Tổng giám mục Gallagher lưu ý rằng “chúng ta đang đối diện với mối nguy hiểm khi người ta để ý đến sự chết hơn là sự sống. Thời đại chúng ta đang chứng kiến mối đe dọa của sự dữ dần trở nên thường xuyên hơn, đôi khi bóng tối lấn lướt trên ánh sáng. Thật tiếc là chúng ta đang chứng kiến những điều ấy tại Ucraina, Palestine, Israel, Liban, Myanmar, Sudan, Cộng hòa Dân chủ Congo và nhiều nơi có xung đột khác”! Biết rằng luôn có đó những trở ngại, nhưng Đức Tổng giám mục Ngoại trưởng Tòa Thánh luôn tin tưởng hành trình tái sinh thiêng liêng sẽ dẫn đến những cuộc gặp gỡ, đối thoại chân thành. Ngài nói: “Thật tiếc là luôn có những người luôn nuôi dưỡng một nền văn hóa của sự chết bằng việc chấp nhận những logic oán ghét, thống trị và thế là chiến tranh, xung đột diễn ra ở mọi cấp độ. Thế giới vì vậy trở thành sân khấu của những xung đột giữa các chủng tộc, các nền văn minh, văn hóa và tôn giáo.
Đức Tổng giám mục Gallagher khẳng định: “Ngược lại, các tín hữu Kitô được mời gọi lan tỏa các giá trị của tình yêu, công lý và hòa bình. Phúc cho những nơi chốn nào mà người ta có thể ngồi lại với nhau, tin tưởng nơi lẽ phải và lương tâm hầu đạt đến phạm vi hiểu biết về giá trị không thể nào diễn tả được của phẩm giá con người. Thế giới chúng ta cần một nền ngoại giao thoát khỏi những lợi ích riêng nhằm hoạt động cách tự do cho công ích, cùng nhau hợp tác với nhau để hướng đến những thiện ích cao thượng của công lý và hòa bình”.
Đức Tổng giám mục Gallagher cũng nhắc lại rằng Đức Thánh cha không ngừng khích lệ mọi người đón nhận cái logic của gặp gỡ, vì con người được tạo dựng để tận hưởng những mối tương quan vị tha. Ngài cũng lưu ý, quan niệm lấy mình làm trung tâm trở thành cái “cũi” ngăn cản chúng ta trở thành “một phúc lành” cho người khác. Có một sự khác biệt to lớn giữa những người dấn thân cho tha nhân, vươn cánh tay để cứu vớt, giúp đỡ và những người luôn mang đến chết chóc, lấy đi khỏi người khác những giúp đỡ cần thiết để sống sót.
Sau hết, Đức Tổng giám mục Ngoại trưởng Tòa Thánh nhắn nhủ các Đại sứ cạnh Tòa Thánh rằng nhân loại cần một thứ “ánh sáng trổi vượt hơn” để hướng dẫn những chọn lựa của chúng ta và giúp chúng ta thực hiện những chọn lựa đó. Đức Tổng giám mục nói: “Chỉ trong cầu nguyện và trong thinh lặng, chúng ta mới học cách lắng nghe tiếng của lương tâm, không phải là độc đoán, tùy tiện, mà là tiếng của Chúa vang vọng trong tâm trí chúng ta. Những người chiếu đấu cho phẩm giá con người, đấu tranh chống lại sự chuyên chế độc tài và bất công, cho dù họ không chia sẻ niềm tin Kitô hoặc niềm tin tôn giáo, mà họ thực thi theo tiếng lương tâm của mình, nhận ra rằng có một tiếng nói trổi vượt hơn hướng dẫn họ theo con đường ngay chính”.
Đức Tổng giám mục Gallagher kết thúc bài giảng bằng việc mời gọi các nhà ngoại giao tận dụng Mùa chay này để đi vào trong sự thinh lặng và tiến vào bên trong sự thánh thiêng của nội tâm để gặp gỡ Chúa, đồng thời với sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ của thinh lặng, hầu phó thác cho Chúa sức khỏe của Đức Thánh cha và nền hòa bình trên thế giới.
Đức Thánh Cha Phanxicô điều hành Giáo Hội ra sao trong 38 ngày nằm bệnh viện?
Mặc dù không khỏe, Đức Giáo Hoàng Phanxicô vẫn tiếp tục điều hành Giáo hội và đấu tranh cho hòa bình, giống như những gì ngài đã làm trong đại dịch Covid-19. Từ giường bệnh, ngài đã thực hiện hơn 40 cuộc bổ nhiệm quan trọng, khởi xướng các kế hoạch cho Đại hội đồng Giám mục năm 2028 và đưa ra nhiều lời kêu gọi hòa bình.
Giống như năm năm trước đây, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đứng một mình tại Quảng trường Thánh Phêrô không một bóng người, xung quanh chỉ toàn đèn điện và tiếng còi báo động, khi thế giới bị phong tỏa vì đại dịch Covid-19. "Tất cả chúng ta đều ở trên cùng một con thuyền", ngài nói. Ngày nay, Đức Giáo Hoàng Phanxicô thấy mình cũng ở trong hoàn cảnh tương tự - đang dưỡng bệnh tại nhà sau một ca viêm phổi nghiêm trọng khiến ngài phải nằm bệnh viện 38 ngày. Mặc dù cuộc khủng hoảng đã chuyển từ đại dịch toàn cầu sang chiến tranh, tái vũ trang và nghèo đói gia tăng, nhưng thông điệp vẫn như vậy, đó là tất cả chúng ta đều cùng chung số phận.
Điều hành Giáo hội từ bệnh viện
Ngay cả khi đang hồi phục, Đức Phanxicô vẫn tiếp tục dẫn dắt Giáo hội vượt qua những thách đố. Trong thời gian nằm bệnh viện, ngài vẫn theo dõi chặt chẽ các cuộc xung đột trên thế giới, nêu ra sự phi lý của chiến tranh trong những suy tư của mình trong Kinh Truyền tin. Ngài liên tục kêu gọi hòa bình cho Ukraine, Israel, Palestine, Trung Đông, Myanmar, DRC và Sudan. Ngài cũng lên án cuộc khủng hoảng nhân đạo ở Gaza, kêu gọi ngừng bắn ngay lập tức và thúc giục cộng đồng quốc tế hành động.
Trong thông điệp gửi đến cho tờ báo Ý Corriere della Sera, được viết từ căn phòng bệnh viện, Đức Giáo Hoàng đã chỉ ra sức mạnh của lời nói, cảnh báo rằng chúng có thể đoàn kết hoặc chia rẽ. "Chúng ta phải giải trừ lời nói để giải trừ tâm trí và giải trừ Trái đất", ngài thúc giục, chỉ trích tình trạng quân sự hóa ngày càng gia tăng ở châu Âu và củng cố nhu cầu đổi mới ngoại giao.
Các cuộc hẹn
Mặc dù bị suy yếu về thể chất, Đức Phanxicô vẫn tích cực tham gia vào việc quản lý Giáo hội. Trong 38 ngày nằm viện, ngài đã bổ nhiệm 44 giám mục, sứ thần và quan chức Vatican mới. Ngài cũng đã ký các văn bản quan trọng, chẳng hạn như thành lập một ủy ban nhằm thúc đẩy các khoản quyên góp cho Tòa thánh, được thiết kế để hỗ trợ các dự án và sáng kiến của Vatican.
Về tương lai rộng lớn hơn của Giáo hội, Đức Phanxicô đã khởi xướng một quá trình chuẩn bị kéo dài ba năm cho Đại hội Giám mục năm 2028. Bước đi này, một phần trong cam kết cải cách liên tục của ngài, nhằm mục đích xây dựng trên những tiến bộ đã đạt được mà không cần một Thượng hội đồng mới.
Một sự hiện diện vững chắc
Giữa bệnh tật cá nhân và tình hình hỗn loạn toàn cầu, Đức Giáo Hoàng Phanxicô vẫn là một nhân vật kiên vững và dẫn dắt Giáo hội. Ngay cả khi xa cách về mặt thể chất, sự lãnh đạo của ngài không bao giờ giao động. Ngài tiếp tục cho thấy rằng, ngay cả khi bị cô lập, Đức Giáo Hoàng không bao giờ thực sự vắng mặt, ngài luôn hiện diện trong tinh thần và hành động.
Sau 38 ngày nằm bệnh viện, sáng chúa nhật 23 tháng 3 Đức Phanxicô về Nhà Thánh Marta trên chiếc xe Fiat 500 trắng. Trên đường về ngài ghé Đền thờ Đức Bà Cả để cầu nguyện và tạ ơn Đức Mẹ. Giáo dân tụ tập trước bệnh viện Gemelli để chào ngài. Ngài đứng trên ban-công chào, giọng nói của ngài truyền cảm nhưng sắc diện mệt mỏi, ngài khó khăn khi đưa tay chào, ngài không muốn che giấu sức khỏe suy yếu của ngài. Ở tuổi 88, ngài bước vào một giai đoạn khác của triều Giáo hoàng, ngài buộc phải giảm bớt các sinh hoạt, ít nhất trong hai tháng để phục hồi sức khỏe.
Thật đáng buồn khi Giáo hội chứng kiến giai đoạn này của ngài. Một giai đoạn với những mâu thuẫn, khi thế giới phải chứng kiến chủ nghĩa độc đoán của các nhà lãnh đạo như Donald Trump của Mỹ, Javier Milei của Argentina và Vladimir Putin của Nga. Giữa cuộc khủng hoảng khi người công giáo trên thế giới đang chuẩn bị lễ Phục sinh, thông điệp của ngài rất rõ ràng: Giáo hội chấp nhận các thất bại và các điểm yếu của mình. Khi chào giáo dân với giọng nói và cử chỉ yếu ớt, ngài đưa ra lời kêu gọi mạnh mẽ để thả các tù nhân Israel ở Gaza, ngài nhắc lại một mô hình quyền lực khác: lắng nghe các tù nhân mong manh nhất trong các thảm kịch của thế giới này.
Sau hơn năm tuần điều trị ở bệnh viện, ngày chúa nhật 23 tháng 3 Đức Phanxicô về lại Vatican, ngài tiếp tục uống thuốc, trị liệu chức năng để có thể thở bình thường, khôi phục lại giọng nói, tiếp tục các công việc hàng ngày của ngài. Trong hai ngày vừa qua ngài không tiếp khách, ngài chỉ tiếp các cộng sự thân cận của ngài. Ngài đã đồng tế thánh lễ.
ền nam nước Pháp nói rằng nguyên sự hiện diện của cộng đoàn đan tu đã là một sự loan báo Tin mừng cho họ.
Tại Pháp, hiện có 150 Đan viện chiêm niệm, nam cũng như nữ. Tại nhiều Đan viện, có thể đăng ký trên mạng để xin đến tĩnh tâm. Năm 2022, có 16.000 người sử dụng phương thức này; một năm sau đó, con số tăng vọt lên 50.000 người, và năm ngoái là 75.000 người. Augustin Marbacher, Giám đốc chương trình mạng tĩnh tâm này, ghi nhận rằng những cống hiến của liên mạng được ổn định từ năm 2023-2024, phục vụ 150 Đan viện. Sự gia tăng số người đăng ký là do sự gia tăng quan tâm của các tín hữu đến đời sống đan tu.
Các tín hữu thực hiện các cuộc tĩnh tâm như thế vì nhiều lý do khác nhau: hoặc để chuẩn bị kết hôn, thay đổi nghề nghiệp, phân định, hoặc vì đang trải qua một cuộc khủng hoảng nào đó. Ví dụ, cô Tiphanie, 22 tuổi, nói với tuần báo Famille Chrétienne, Gia đình Kitô, rằng: “Tôi đến nữ đan viện Biển Đức để tổng kết đời sinh viên; tôi muốn nhìn lại cuộc sống cho đến nay trước khi bước vào thế giới nghề nghiệp”. Cô cũng cho biết toàn thể chương trình tĩnh tâm được tổ chức quanh kinh nguyện của cộng đồng đan viện. Điều này khác với đời sống thường nhật khi chúng ta phải dành thời gian cho việc cầu nguyện.
Thầy Lucien, thuộc Đan viện Citeaux nhận xét rằng nhiều người đến tĩnh tâm để tránh sự huyên náo và nhộn nhịp của thế giới. “Họ cảm thấy ngày càng tệ hơn, nên tìm kiếm an bình và yên tĩnh để tránh cuộc sống ồn ào”. Tại đan viện, họ tham dự các buổi cầu nguyện, có thể trao đổi với các đan sĩ, và họ cũng có thể làm việc trong xưởng chế tạo phó-mát của đan viện.
Thầy Marie, thuộc đan viện Lérins nói trên, nhấn mạnh rằng với số đông người đến tĩnh tâm, cần đảm bảo việc duy trì bầu không khí thích hợp với các đan viện. Đan viện ấn định những hình thức hạn chế với những quy luật cần tuân giữ, như phải thinh lặng và đúng giờ. Thầy nói: “Người ta thường sợ im lặng. Nhưng sợ hãi này sẽ mau lẹ tan biến, vì cơ cấu của chúng tôi thân thiện, chúng tôi cống hiến an bình cho những người tĩnh tâm và chính thời khóa biểu cũng có tác dụng mang lại sự bình tâm và yên hàn cho họ”.
Khóa học về tòa trong lần thứ 35 được Tòa Ân giải Tối cao tổ chức tại Roma từ ngày 24 đến ngày 28/3, với sự tham dự của hơn 900 linh mục và các ứng viên chức linh mục.
Bí tích Hòa giải giúp cảm nghiệm chiều sâu của ơn tha thứ
Với bài huấn dụ có tựa đề “Năm Thánh: một hành trình thương xót, hy vọng và hoán cải dành cho tất cả”, Đức Hồng y nhấn mạnh vẻ đẹp của bí tích Hòa giải, là bí tích chữa lành và ban niềm vui, giúp cảm nghiệm chiều sâu của ơn tha thứ.
Chia sẻ với truyền thông Vatican, Đức Hồng y Donatis nói rằng, khóa học là một truyền thống được tổ chức hàng năm, nhưng trong bối cảnh Năm Thánh, khóa học có ý nghĩa sâu sắc hơn, đẹp hơn, bởi vì dành cho các linh mục, các ứng viên thánh chức và tất cả những người đồng hành thiêng liêng. Do đó, trong bối cảnh Năm Thánh, khóa học có cơ hội quý giá cung cấp công cụ hiệu quả cho những người phục vụ tòa trong. Vì thế, khóa học đặc biệt có thể giúp cho các linh mục nhiều hơn. Khóa học cũng là thời điểm để tái khám phá, để không chối bỏ bí tích hòa giải, để khám phá lại toàn bộ vẻ đẹp của bí tích có khả năng chữa lành, mang lại niềm vui, giúp chúng ta cảm nghiệm được chiều sâu của sự tha thứ. Đây chính là lý do vì sao đây thực sự là một bí tích có sức mạnh.
Khóa học được mong đợi
Theo Đức Hồng y Chánh Tòa Ân giải Tối cao, khóa học là sự chuẩn bị rất quan trọng và không bao giờ được bỏ qua. Luôn luôn có điều gì đó để suy ngẫm và khám phá sâu hơn. Ngài nói rằng số đông người tham gia khóa học hàng năm khẳng định nó rất được mong đợi. Mọi suy tư đều nhằm mục đích đào sâu cách sống bí tích hòa giải và cách làm cho bí tích này sống động đối với những người lãnh nhận. Vì vậy, rõ ràng là đối tượng của khóa học trước hết là các hối nhân và các cha giải tội. Do đó, ngài nhấn mạnh, chúng ta cần phải liên tục cung cấp chương trình đào tạo về chủ đề này.
Theo trang web tin tức của Tổng Giáo Phận, ngày 08 và 09/3, ít nhất 842 người dự tòng, và 165 ứng viên đã tham dự Nghi thức Tuyển chọn và Kêu gọi Tiếp tục Hoán cải, một nghi lễ chấp nhận sự sẵn sàng lãnh Bí tích Rửa tội, do Đức Hồng Y William Goh, Tổng Giám Mục Singapore chủ sự.
Nghi thức này thường được cử hành vào Chúa nhật I Mùa Chay, đánh dấu tiến trình ý nghĩa trong việc chuẩn bị đức tin của người dự tòng, người trưởng thành đã qua quá trình đào tạo để lãnh nhận các Bí tích Khai tâm Kitô giáo.
Trong nghi thức, các dự tòng ghi tên và ký vào một cuốn sổ, trong đó có danh sách những người đã được Tổng Giáo Phận chấp nhận lãnh nhận các bí tích khai tâm.
Ứng viên cũng là những người đã được rửa tội trong một hệ phái Kitô giáo khác nhưng muốn hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội Công giáo.
Đức Hồng Y Goh mời gọi những người tham dự: “Kinh Tin Kính của Giáo Hội Công giáo, gồm các tín điều cộng đoàn tin, phải trở thành niềm xác tín cá nhân của anh chị em”.
Với dân số khoảng 5,9 triệu, ước tính người Công giáo có khoảng 395,000 người.
Một Kitô hữu trẻ Pakistan bị tấn công dã man vì từ chối theo Hồi giáo
Tổ chức bác ái Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ cho biết vào ngày 22/3/2025, một Kitô hữu 22 tuổi người Pakistan đã bị cấp trên “tấn công dã man” sau khi anh từ chối cải sang đạo Hồi. Đây là một ví dụ nữa về “sự bất khoan dung tôn giáo kéo dài ở phần lớn xã hội Pakistan”.
Trong số 208 triệu dân Pakistan, 96,47% là người Hồi giáo trong khi chỉ có 1,9% là Kitô hữu. Các cuộc tấn công nhắm vào các Kitô hữu ở Pakistan trở nên dữ dội hơn vào tháng 8/2023, sau khi người Hồi giáo cướp bóc và đốt cháy hơn 25 nhà thờ và ít nhất 85 ngôi nhà ở Jaranwala. Giáo hội địa phương tuyên bố rằng cộng đồng đang sống “trong sợ hãi và tuyệt vọng”.
Bị vu cáo và bị tấn công vì từ chối theo Hồi giáo
Cuối tuần qua, tại Nhà máy giấy Subhan ở Punjab, Kitô hữu trẻ Waqas Masih đã “bị thương nặng ở cổ” sau khi người quản lý của anh cáo buộc anh đã xúc phạm Kinh Quran sau khi tìm thấy một số trang trong thùng rác. Kẻ tấn công đã bị cảnh sát bắt giữ và bị buộc tội cố ý giết người.
Lazar Aslam, một tu sĩ dòng Phanxicô Capuchino đã đến thăm Masih tại bệnh viện, nói với tổ chức bác ái: “Tôi cầu nguyện cho anh ấy mau chóng bình phục và cho toàn thể gia đình anh ấy được an lành. Vụ tấn công Waqas Masih là lời nhắc nhở nghiêm khắc về những thách thức mà các nhóm tôn giáo thiểu số ở Pakistan phải đối mặt và nhu cầu cấp thiết về thay đổi xã hội để thúc đẩy lòng khoan dung và bảo vệ quyền của mọi công dân”.
Nâng cao ý thức cộng đồng quốc tế về tình cảnh của Kitô hữu Pakistan
Ông nói thêm: “Chúng tôi khiêm tốn kêu gọi cộng đồng quốc tế cầu nguyện cho các nạn nhân và gia đình họ, cũng như nâng cao nhận thức về hoàn cảnh khốn khổ của các cộng đồng thiểu số ở Pakistan, đảm bảo rằng tiếng nói của họ được lắng nghe và quyền của họ được bảo vệ”.
Hơn nữa, tại Pakistan, có nhiều báo cáo liên tục về việc các Kitô hữu bị kết án tù, thậm chí tử hình, vì bị cáo buộc chia sẻ thông điệp chống Hồi giáo trên mạng xã hội. Liên quan đến thực tế này, Cha Aslam nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết của chính quyền địa phương trong việc nỗ lực bảo vệ những người dễ bị tổn thương nhất.
Vu cáo tội xúc phạm Hồi giáo
Cha cho biết rằng việc đưa ra những lời buộc tội sai trái các cộng đồng thiểu số dễ bị tổn thương về tội báng bổ đã trở thành một xu hướng đáng lo ngại ở Pakistan. Cha kêu gọi các tổ chức nhà nước và những người chịu trách nhiệm thực hiện các bước cụ thể để ngăn chặn những sự cố như vậy và đảm bảo bảo vệ quyền của các nhóm thiểu số.
Bất chấp sự ngược đãi và đau khổ, tín hữu Công giáo Pakistan vẫn theo gương của Tôi tớ Chúa Akash Bashir, một thanh niên mà mọi người đều coi là một vị tử đạo vì vào năm 2015, anh đã hy sinh mạng sống để ngăn chặn một cuộc tấn công khủng bố vào giáo xứ của mình.
3 Người cải đạo sang Kitô giáo ở Iran bị kết án hơn 40 năm tù
Hôm 21 tháng Ba vừa qua, hãng tin Fides của Bộ Loan báo Tin mừng, cho biết vụ tấn công đã xảy ra trong đêm 18 rạng ngày 19 tháng Ba vừa qua, khi những kẻ cầm dao rựa cùng với những người Kuluna nhập cư từ Angola, tấn công nhà của các nữ tu. Chúng phá hàng rào để vào. Trước tiên, chúng đe dọa các nữ tu rồi cướp tiền bạc, điện thoại, máy vi tính và các đồ giá trị khác.
Lên tiếng sau vụ này, cha Chưởng ấn Tòa Tổng giám mục Kinshasa, tuyên bố rằng: “Chúng tôi muốn bày tỏ sự phẫn nộ của Đức Hồng y Fridolin Ambongo về vụ tấn công cộng đoàn các nữ tu Dòng Santo Domingo. Đức Hồng y bày tỏ sự gần gũi với các nữ tu nạn nhân của những hành động man rợ này và khích lệ các chị kháng cự và để cho mình được ánh sáng hy vọng hướng dẫn. Đức Hồng y cũng nhân dịp này mời gọi các dòng tu hãy gia tăng cảnh giác, nhưng không chiều theo kinh hãi hoặc lo sợ”.
Vị đại diện tư pháp của Tổng giáo phận đã nạp đơn với cảnh sát để tố cáo những kẻ vô danh, đồng thời đến nơi xảy ra vụ tấn công, để thị sát. Vụ này một lần nữa, thu hút sự chú ý về tình trạng bất an ở thủ đô Congo, nơi thường có những băng đảng hoạt động đều đặn, nhắm vào các thường dân và các tổ chức tôn giáo.
Các khu ngoại ô của Kinshasa khét tiếng vì bất an do các băng đảng tội phạm, đến độ cảnh sát không dám lui tới. Từ đây, chúng lan tới các quận ở trung tâm, chiêu mộ thêm các thành viên mới, kể cả con cái của các nhân viên cảnh sát và công chức.
Để chống lại hiện tượng này, chính phủ Congo tổ chức các cuộc hành quân rộng lớn, càn quét và bắt hàng trăm kẻ tội phạm, nhiều người đã bị kết án tử hình, sau khi chính phủ nước này tái du nhập án tử hình.