https://www.youtube.com/watch?v=tBLFgX6gi10&t=3s
Hiện diện trong thánh lễ, tại khu vực bên phải bàn thờ, có hơn 150 phái đoàn từ các nơi trên thế giới, trong đó ở hàng ghế đầu có các vị Tổng thống và Thủ tướng Ý, Phó Tổng thống và Ngoại trưởng Mỹ, bà Tổng thống Peru, vì Đức Giáo hoàng Lêô XIV là công dân Mỹ và Peru.
Có các vị Quốc vương và Hoàng hậu của tám quốc gia, như Tây Ban Nha, Bỉ, Hoàng thân Monaco và cả Hoàng thân John Dunlap, Thủ lãnh Hội Hiệp sĩ Malta, Thái tử của ba nước và ông hoàng Edward, em của Vua Charles Anh quốc, hai mươi mốt vị tổng thống trong đó có Ucraina, Israel, Ba Lan, ba mươi thủ tướng và phó thủ tướng chính phủ, sáu tổ chức quốc tế, đông đảo các vị bộ trưởng và đại sứ.
Việt Nam cũng có hai đại diện là ông Dương Hải Hưng, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Ý, và ông bí thư thứ nhất Nguyễn Đăng Hải Hùng, phụ trách cộng đồng. Hai vị cũng đã hiện diện trong lễ an táng Đức Giáo hoàng Phanxicô, ngày 26 tháng Tư vừa qua.
Phía bên trái bàn thờ, đó hàng trăm hồng y và giám mục, trong phẩm phục màu trắng. Ngoài ra, có hơn hai ngàn linh mục đồng tế, ngồi ở khu vực rộng lớn bên trái của Quảng trường hướng về Đền thờ, cùng với hàng trăm phó tế đảm trách phần trao Mình Thánh Chúa.
Lúc 9 giờ, tức là một giờ trước khi bắt đầu thánh lễ, Đức Thánh cha Lêô XIV đã đứng trên xe popemobile, tiến qua các lối đi tại địa điểm hành lễ để chào thăm khoảng 250.000 tín hữu. Ngài đi tới tận cuối đường Hòa Giải để chào thăm mọi người.
Thị trưởng thành Roma, ông Roberto Gualtieri, cho biết về phương diện an ninh, 6.000 nhân viên công lực các ngành được huy động, cùng với 300 lính cứu hỏa, 1.100 người thuộc Tổng cục bảo vệ dân sự, 1.040 người phụ giúp, 1.100 binh sĩ, 1.000 nhân viên vệ sinh, và 1.000 cảnh sát địa phương Roma.
Chính quyền miền Lazio, nơi có thành Roma, chuẩn bị kế hoạch y tế cho những người tham dự thánh lễ này với 300 người thiện nguyện, 7 trạm y tế, 7 xe cứu thương, 80 toán cấp cứu đi bộ, một toán khử nhiễm không khí (Unidec).
Trước khi thánh lễ bắt đầu, Đức Thánh cha cùng với các vị Thượng phụ Công giáo đến cầu nguyện trước mộ thánh Phêrô và hai phó tế trân trọng cầm hai đĩa đựng dây Pallium và hộp nhẫn ngư phủ, đi rước cùng với các hồng y tiến ra bàn thờ bên ngoài trên thềm Đền thờ.
Sau khi công bố Tin mừng bằng tiếng Latinh và Hy Lạp, có nghi thức khai mạc sứ vụ Phêrô, gồm phần trao dây Pallium Giáo hoàng và trao nhẫn Ngư Phủ.
Dây Pallium được trao cho Đức Thánh cha là dây làm bằng lông chiên màu trắng, có sáu hình thánh giá màu đen, khi được đeo vào cổ, có một phần ở phía trước ngực và một phần ở sau lưng. Đây là biểu hiệu cổ kính nhất của Giám mục. Simeon thành Thessalonica viết: “Dây Pallium chỉ Chúa Cứu Thế khi gặp chúng ta như chiên lạc đàn, Ngài vác lên vai, và khi nhận lấy nhân tính con người trong cuộc nhập thể, Ngài thần hóa nhân tính ấy bằng cái chết của Ngài trên thánh giá, Ngài dâng chúng ta cho Chúa Cha, và qua cuộc phục sinh, Ngài nâng chúng ta lên cao”.
Đức Hồng y Dominique Mamberti, Trưởng đẳng Phó tế, đã đọc lời nguyện, rồi choàng dây Pallium vào cổ của Đức Thánh cha.
Đức Hồng y Fridolin Ambogo, Tổng giám mục Kinshasa bên Congo, đại diện các Hồng y đẳng Linh mục, đọc lời nguyện, xin Chúa nâng đỡ người kế nhiệm thánh Phêrô. Sau cùng, Đức Hồng y Antonio Luis Tagle, thuộc đẳng Giám mục, đã trao nhẫn Ngư Phủ cho Đức Thánh cha.
Tiếp đến là nghi thức tuân phục: bốn hồng y thuộc các châu lục khác nhau, hai giám mục, hai linh mục, hai tu sĩ, gồm một nữ Bề trên Tổng quyền, cha Arturo Sosa, Bề trên Tổng quyền Dòng Tên, và hai gia đình giáo dân đã tiến lên trước Đức Thánh cha để bày tỏ tâm tình này.
Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh cha đặc biệt nhấn mạnh đến sứ vụ ngài muốn chu toàn và cũng nhắm cổ võ toàn thể các tín hữu Kitô trong chiều hướng này, đó là Yêu thương và Hiệp nhất.
Trước tiên, ngài gợi lại bầu không khí trong những ngày qua sau khi Đức Giáo hoàng Phanxicô qua đời, “tâm hồn chúng buồn sầu, và trong những giờ khó khăn ấy, chúng ta cảm thấy đám đông dân chúng mà Tin mừng nói “họ như những chiên không mục tử” (Mt 9,36)....
Đức Thánh cha nói: “Trong tinh thần đức tin ấy, Hồng y đoàn nhóm họp để để chuẩn bị mật nghị: đến từ những lịch sử và con đường khác nhau, chúng tôi đã đặt trong tay Chúa ước muốn bầu một người kế nhiệm mới của thánh Phêrô, Giám mục Roma, một chủ chăn có khả năng bảo tồn gia sản phong phú của đức tin Kitô, và đồng thời nhìn xa, để đáp ứng những thắc mắc, những băn khoăn và thách đố ngày nay. Được lời cầu nguyện của anh chị em đồng hành, chúng tôi đã cảm thấy hoạt động của Chúa Thánh Linh, là Đấng đã biết làm cho các nhạc cụ khác nhau được hòa hợp, làm rung động những dây âm thanh khác nhau của tâm hồn chúng ta thành một âm điệu duy nhất”.
Đức Thánh cha nói tiếp: “Tôi đã được chọn mà chẳng có công phúc gì, và với lòng sợ hãi và run rẩy, tôi đến với anh chị em như một người anh em muốn trở nên người phục vụ đức tin và niềm vui của anh chị em, đồng hành với anh chị em trên con đường tình thương của Thiên Chúa, Đấng muốn tất cả mọi người được hiệp nhất trong một gia đình duy nhất”.
Yêu thương và hiệp nhất: đó là hai chiều kích của sứ vụ được Chúa Giêsu ủy thác cho thánh Phêrô.
Đức Thánh cha nhắc lại bài Tin mừng trong thánh lễ, trong đó Chúa Giêsu, bên bờ hồ Tibêria, đã bảo thánh Phêrô và các môn đệ khác hãy “đánh cá nhân loại để cứu vớt họ khỏi những nước của sự ác và sự chết. Và sau khi Chúa sống lại, các tông đồ có nhiệm vụ thi hành sứ vụ đó, luôn thả lưới để dìm niềm hy vọng của Tin mừng xuống dòng nước thế giới, vượt qua biển đời để mọi người có thể trở lại trong vòng tay của Thiên Chúa”.
“Làm thế nào ông Phêrô có thể thi hành công tác này? Tin mừng nói với chúng ta rằng đó là điều khả thi vì ông Phêrô đã trải nghiệm trong chính cuộc sống của mình tình thương vô biên và vô điều kiện của Thiên Chúa, kể cả trong giờ thất bại và chối Chúa. Vì thế, khi Chúa Giêsu nói với ông Phêrô, Tin mừng dùng động từ Hy Lạp “agapao” nói về tình thương của Thiên Chúa đối với chúng ta, về sự hiến thân không chút dè dặt và không tính toán, khác với từ được dùng trong câu trả lời của ông Phêrô, từ này mô tả tình yêu bằng hữu, mà chúng ta trao đổi với nhau”.
Vì thế, khi Chúa Giêsu hỏi ông Phêrô: “Simon, con Gioan, con có mến Thầy không?” (Ga 21,16), Ngài nói về tình thương của Chúa Cha. Như thể Chúa Giêsu nói: chỉ khi nào con biết và cảm nghiệm tình thương này của Thiên Chúa, là tình thương không bao giờ thiếu, thì con mới có thể chăn dắt các chiên của Thầy; chỉ trong tình thương của Thiên Chúa Cha con mới có thể yêu mến các anh em con nhiều hơn nữa, nghĩa là hiến mạng vì các anh chị em”.
“Vì vậy, một nghĩa vụ yêu mến nhiều hơn nữa và hiến mạng sống vì đoàn chiên đã được ủy thác cho thánh Phêrô. Sứ vụ của thánh Phêrô được đánh dấu bằng tình yêu dâng hiến này, vì Giáo hội Roma chủ trì trong bác ái và quyền bính chân thực của Giáo hội này là tình thương của Chúa Kitô. Vấn đề ở đây là không bao giờ tóm bắt người khác bằng sự áp bức, bằng tuyên truyền tôn giáo hoặc bằng những phương thế quyền lực, nhưng luôn luôn và chỉ là yêu thương như Chúa Giêsu đã thương yêu”.
“Như chính thánh Phêrô đã quả quyết, Chúa Giêsu là viên đá góc bị những thợ xây nhà loại bỏ, Ngài đã trở thành viên đá góc” (Cv 4,11). Và nếu viên đá là Chúa Kitô, thì thánh Phêrô cũng phải chăn dắt đoàn chiên mà không bao giờ chiều theo cám dỗ làm người lãnh đạo đơn độc hoặc một thủ lãnh được đặt lên trên những người khác, trở thành chủ nhân của người được ủy thác cho mình (Xc 1Pr 5,3). Trái lại, thánh Phêrô được yêu cầu phục vụ niềm tin của anh chị em đồng hành với họ: thực vậy, tất cả chúng ta trở thành “những viên đá sống động” (1Pr 2,5), được kêu gọi, qua phép Rửa tội, xây dựng tòa nhà của Thiên Chúa trong tình hiệp thông huynh đệ, trong sự hòa hợp của Chúa Thánh Linh, trong sự sống chung giữa những khác biệt. Như thánh Augustinô đã quả quyết: “Giáo hội gồm tất cả những người ở trong sự hòa hợp với anh chị em và yêu thương tha nhân” (Discorso 359.9).
Đức Thánh cha nói thêm rằng: “Anh chị em thân mến, một điều tôi muốn trở thành mong ước mạnh mẽ đầu tiên của tôi, đó là một Giáo hội hiệp nhất, dấu chỉ sự hiệp nhất và hiệp thông, trở thành men cho một thế giới được hòa giải”.
“Trong thời đại ngày nay, chúng ta thấy còn quá nhiều bất thuận, quá nhiều vết thương do oán thù, bạo lực, thành kiến và sợ khác biệt, mô hình kinh tế bóc lột trái đất và gạt những người nghèo ra ngoài lề. Và chúng ta muốn là một chút men hiệp nhất, hiệp thông và huynh đệ trong đấu bột. Chúng ta muốn nói với thế giới, trong khiêm tốn và vui mừng, rằng: hãy nhìn Chúa Kitô! Hãy xích lại gần Chúa! Hãy lắng nghe đề nghị yêu thương để trở thành gia đình duy nhất của Chúa: trong Chúa Kitô duy nhất chúng ta là một. Và đây là con đường cần cùng nhau tiến bước, giữa chúng ta, nhưng cả với các Giáo hội Kitô anh em, với những người tiến bước trên những con đường tôn giáo khác, với người vun trồng băn khoăn tìm kiếm Thiên Chúa, với tất cả những người nam nữ thiện chí, để xây dựng một thế giới mới trong đó có hòa bình hiển trị”.
“Đó là tinh thần thừa sai phải linh hoạt chúng ta, không khép kín mình trong nhóm nhỏ và cũng chẳng cảm thấy mình là những người cao trọng trên thế giới; chúng ta được kêu gọi cống hiến cho tất cả mọi người tình thương của Thiên Chúa, để thực hiện sự hiệp nhất không xóa bỏ những khác biệt, nhưng đề cao giá trị lịch sử của mỗi người và nền văn hóa xã hội và tôn giáo của mỗi dân tộc”.
Và Đức Thánh cha kết luận rằng: “Anh chị em thân mến, đây là giờ của tình thương! Lòng bác ái của Thiên Chúa làm cho chúng ta trở thành anh chị em với nhau, chính là trọng tâm của Tin mừng...”; và cùng với vị tiền nhiệm Lêô XIII của tôi, hôm nay, chúng ta có thể tự hỏi: nếu tiêu chuẩn này “trổi vượt trên thế giới, thì mọi bất đồng trên thế giới có chấm dứt ngay hay không, và hòa bình sẽ hồi phục ngay hay không” (Rerim novaru, 21).
“Cùng nhau, trong tư cách là một dân tộc duy nhất, tất cả là anh chị em với nhau, chúng ta hãy đi gặp Thiên Chúa và yêu thương nhau”.
Cuối thánh lễ, Đức Thánh cha đã cảm ơn tất cả các tín hữu đã từ các châu lục đến dự lễ, cảm ơn các phái đoàn chính quyền và các Giáo hội Kitô và các tôn giáo. Ngài tái kêu gọi hòa bình cho nhân dân Gaza, đặc biệt là các trẻ em đang chịu đói khổ và chết chóc, cho Myanmar, cho Ucraina đau thương và cầu mong tiến trình thương thuyết dẫn đến hòa bình. Sau đó, Đức Thánh cha xướng kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng và ban phép lành cuối lễ cho mọi người tham dự.
Sau thánh lễ dài hơn hai giờ tiếng đồng hồ, Đức Thánh cha đã đứng bên trong Đền thờ Thánh Phêrô, trước bàn thờ chính để lần lượt chào thăm và cảm ơn các phái đoàn chính thức của chính phủ các dân nước đến chúc mừng ngài.
Theo dự đoán, có khoảng 250.000 người tham dự thánh lễ trọng đại này. Ngoài các hồng y, giám mục và linh mục đồng tế, còn có hơn 200 phái đoàn các quốc gia và các tổ chức quốc tế, cũng như các Giáo hội Kitô khác. Trong số tín hữu giáo dân, có hàng chục ngàn người thuộc các huynh đoàn đang tham dự ngày Năm Thánh trong những ngày này tại Roma.
Thánh lễ của Đức Giáo hoàng Lêô XIV là lễ khai mạc thứ ba của một vị tân Giáo hoàng trong vòng 20 năm qua. Tuy khác thời gian và số người tham dự, cũng như bài giảng của vị Giáo hoàng mới, nhưng nghi thức cốt yếu vẫn giống nhau.
Đức Biển Đức XVI đã khai mạc sứ vụ mục tử của toàn thể Giáo hội, trong thánh lễ trọng thể ngày 24 tháng Tư năm 2005, tức là 16 ngày sau đám tang vĩ đại của Đức Gioan Phaolô II, tại Quảng trường Thánh Phêrô, trước sự tham dự khoảng 250.000 tín hữu. Thềm Đền thờ Thánh Phêrô được trang hoàng với 15.000 bông hoa được đưa từ Sanremo, bắc Ý.
Trước thánh lễ, Đức Thánh cha đã cùng với các vị Thượng phụ Giáo chủ Công giáo nghi lễ Đông phương xuống mộ thánh Phêrô, bên dưới bàn thờ chính trong Đền thờ, để cầu nguyện và xông hương trên mộ Thánh Tông Đồ trưởng. Rồi ngài cùng với 150 hồng y đồng tế, trong phẩm phục màu trắng vàng, đi rước tiến ra lễ đài ở thềm Đền thờ, trong khi ca đoàn Sistina của Tòa Thánh hát Kinh cầu các thánh xin các vị phù giúp Đức tân Giáo hoàng trong sứ vụ mới.
Bên trái bàn thờ là 400 giám mục và phái đoàn của các Giáo hội Kitô khác, cùng với 320 linh mục đảm trách phần cho trao Mình Thánh Chúa. Một khu vực bên dưới dành cho 4.000 linh mục. Bên phải bàn thờ là chỗ dành cho các phái đoàn chính thức của 140 quốc gia.
Sau bài Tin mừng bằng tiếng Latinh và Hy Lạp là nghi thức khai mạc sứ vụ của Đức Thánh cha, với việc trao dây Pallium và nhẫn Ngư Phủ.
Đức Hồng y Trưởng đẳng Phó tế tiến lên đeo dây Pallium vào cổ Đức tân Giáo hoàng, Sau đó là nghi thức trao nhẫn Ngư Phủ.
Tiếp đến là nghi thức tuân phục: 12 người đại diện cho toàn thể cộng đoàn dân Chúa trong Giáo hội tiến lên cử hành nghi thức tuân phục Đức Thánh cha, trong khi ca đoàn hát bài “Hỡi Phêrô, con là đá”.
Bài giảng bằng tiếng Ý của Đức Thánh cha Biển Đức XVI dài 40 phút, bị ngắt quãng 36 lần vì các tràng pháo tay, qua đó, ngài đề ra hướng đi của triều đại Giáo hoàng, dựa trên sự giải thích hai biểu tượng trong buổi lễ: Dây Pallium và Nhẫn Ngư Phủ.
Đức Thánh cha Phanxicô đã cử hành thánh lễ nhận sứ vụ Phêrô vào sáng ngày 18 tháng Ba năm 2013, trước sự hiện diện của khoảng 200.000 tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô.
Đức Thánh cha bắt đầu lúc 8 giờ 45 bằng cách đi trên chiếc xe Jeep màu trắng, tiến qua giữa các lối trong Quảng trường thánh Phêrô để chào thăm các tín hữu.
Đồng tế với Đức Thánh cha khi ấy, có 180 hồng y và giám mục cùng đông đảo linh mục. Theo lời mời của chính Đức Thánh cha, việc giúp lễ được dành do 15 tu sĩ Phanxicô thuộc Đền thánh La Verna ở miền trung Italia, nơi thánh Phanxicô Assisi nhận Năm Dấu thánh.
Hiện diện tại buổi lễ, còn có 200 giám mục và 33 phái đoàn của các Giáo hội Kitô anh em, đứng đầu là Đức Thượng phụ Bartolomaios I, Giáo chủ Chính thống Constantinople, bên Thổ Nhĩ Kỳ, và cũng được coi là vị thủ lãnh danh dự chung của toàn Chính thống giáo. Các vị lãnh đạo các Giáo hội Tin lành, Hội đồng đại kết các Giáo hội Kitô, và cả thầy Alois Loeser, Tu viện trưởng Tu viện Đại kết Taizé bên Pháp. Ngoài ra, có các phái đoàn của các tôn giáo bạn, Do thái giáo, Phật giáo, Hồi giáo, đạo Sikh, Jaina và Ấn giáo.
Về phía chính quyền các nước, có 132 phái đoàn do 6 vị vua, 32 vị Tổng thống, 3 thái tử, phần còn lại là các Thủ tướng chính phủ, phu nhân Tổng thống, hoặc Phó tổng thống, trong đó có ông Joseph Biden của Mỹ.
Trong bài giảng đơn sơ nhưng không kém phần sâu sắc, Đức tân Giáo hoàng giải thích bài Tin mừng của ngày lễ thánh Giuse và nêu bật gương mẫu của thánh nhân cho các tín hữu noi theo.
Hiện nay, Đức Giáo hoàng Lêô vẫn còn cư ngụ trong căn hộ của ngài ở tòa nhà thuộc Bộ Giáo lý đức tin, nơi ngài sống từ hai năm nay, sau khi được bổ nhiệm làm Tổng trưởng Bộ Giám mục.
Từ nhiều thế kỷ, căn hộ này vốn là nơi cư ngụ của các vị Giáo hoàng, nhưng trong 12 năm qua, sau khi Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI từ nhiệm, nơi này đã bị bỏ trống. Sau thời gian dài không có người ở nên căn hộ này bị ẩm mốc và mái nhà bị thấm nước. Căn hộ này có 10 phòng, và các phòng phụ cận ở lầu ba Dinh Tông tòa có trần cao nhiều mét, nên vấn đề sưởi không phải là dễ dàng. Tiếp đến cũng cần kiểm tra, bảo trì các ống dẫn nước và các đường dây điện, cũng như hệ thống an ninh.
Từ khi được thành lập, căn hộ này luôn được chỉnh trang lại theo nhu cầu riêng của mỗi vị Giáo hoàng, cũng như theo đà tiến của kỹ thuật. Người ta không biết Đức Giáo hoàng Lêô muốn một màu mới cho các bức tường hoặc muốn các giường mới hay không.
Trong căn hộ, Đức Giáo hoàng không ở một mình, vì luôn có các nhân viên và những người cộng tác giúp ngài, cách riêng là những người thân cận. Căn phòng nổi tiếng nhất là Thư viện riêng của ngài, nơi các vị Giáo hoàng vẫn dùng để tiếp quan khách, như các vị quốc trưởng, thủ tướng, các giám mục hoặc những người mà Đức Giáo hoàng muốn. Ngoài ra, cửa sổ phòng làm việc của ngài vẫn là nơi các vị Giáo hoàng chủ sự kinh Truyền tin vào trưa những ngày Chúa nhật hoặc đại lễ.
Trong căn hộ của Đức Giáo hoàng cũng có một nhà nguyện. Dưới thời các vị Giáo hoàng trước đây cũng có một phòng y tá, trang bị những gì cần cho những trường hợp cấp thiết. Phòng này đã được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II (1978-2005) sử dụng khi ngài đau ốm.
Căn hộ Giáo hoàng thuộc Dinh Tông tòa, dinh này rộng tổng cộng 55.000 mét vuông, và có tất cả 1.000 phòng, được dùng làm văn phòng của Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh, và có những phòng được dùng cho các buổi tiếp kiến long trọng và một phần của Bảo tàng viện Vatican, kể cả Nhà nguyện Sistine, nơi du khách có thể thăm viếng.
Những lời của Đức Thánh Cha Lêô XIV được Cha Moral Antón thuật lại trong một cuộc phỏng vấn với trang tin SIR của Hội đồng Giám mục Ý.
Mối liên kết với dòng và linh đạo của dòng
Tuyên bố của Đức Thánh Cha cho thấy mối liên hệ sâu sắc của ngài với linh đạo Augustinô, đã trưởng thành trong hơn bốn mươi năm là tu sĩ của dòng và được củng cố trong những năm ngài làm Bề trên Tổng quyền của Dòng, từ năm 2001 đến năm 2013.
Cha Antons giải thích: "Có lẽ vì ngài là Bề trên Tổng quyền, nhưng bạn có thể thấy rằng ngài mang trong mình cảm giác thuộc về này".
Cha Bề trên Tổng quyền Dòng Augustinô cũng kể lại chuyến viếng thăm mới đây của Đức tân Giáo hoàng Lêô XIV đến trụ sở Tổng quyền của dòng: “Chúng tôi đã cùng ăn trưa, như chúng tôi đã làm khi ngài còn là Hồng y. Đó là khoảnh khắc gia đình, huynh đệ. Ngài đích thân chào hỏi tất cả các anh em. Bạn có thể cảm thấy rằng ngài vẫn cảm thấy như một trong số chúng tôi”.
Mối liên kết với Dòng, cha Antón nhấn mạnh, “không mang tính hình thức, nhưng có gốc rễ sâu xa”. Cha đã thưa với Đức Thánh Cha: “Ngài là giám mục dòng Augustinô gắn bó nhất với Dòng!”. Ngài đã đáp lại câu nói này với một nụ cười như đồng ý về điều này.
Cha Antón nói thêm: “Tất nhiên các Giám mục khác cũng rất gần gũi với chúng tôi, nhưng ở ngài, bạn cảm thấy điều gì đó đặc biệt”. Sự gần gũi mà ngày nay, với tư cách là Giáo hoàng, mang một ý nghĩa sâu sắc hơn đối với toàn thể gia đình Augustinô.
Trách nhiệm của tu sĩ Augustinô ngày nay
Nói về tác động của việc Đức Hồng y Robert Prevost, tu sĩ dòng Augustinô, được bầu làm Giáo hoàng, Bề trên Tổng quyền Dòng Augustinô cho biết là một tu sĩ Augustinô, ngài cũng cảm thấy mình có trách nhiệm đặc biệt trong những ngày này, đúng hơn như một động lực. Ngài cho biết chỉ trong một tuần, dòng đã nhận được hơn 150 yêu cầu cung cấp thông tin về đặc sủng của dòng. Ngài nói: "Đây là thời điểm có thể mang lại kết quả tích cực cho tất cả mọi người, không chỉ riêng chúng tôi".
Trong bài phát biểu khai mạc hội thảo, trình bày văn kiện “Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế, Kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nixêa”, nhắc đến thành phố Tiểu Á, nơi đã tổ chức Công đồng chung đầu tiên trong lịch sử, bắt đầu từ ngày 20/5/325, Đức Hồng Y Victor Manuel Fernandez, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin và Chủ tịch Ủy ban Thần học Quốc tế đã nói: “Nixêa là một công đồng đại kết theo nghĩa gốc của thuật ngữ này, nghĩa là có sự tham gia của các Giám mục từ khắp nơi trên thế giới. Việc lựa chọn thành phố này có ý nghĩa về mặt địa lý, nghĩa là dễ dàng tiếp cận. Do đó, Nixêa trở thành lời mời gọi hiệp thông nội tâm, để sự hiệp nhất trong những điều cốt yếu mang lại cho chúng ta niềm vui và củng cố chúng ta".
Cuộc thảo luận mở
Một số chuyên gia và nhà thần học quốc tế đã thảo luận về Văn kiện đã được Ủy ban Thần học Quốc tế biên soạn sau nhiều năm làm việc. Văn kiện này không chỉ để kỷ niệm 1700 năm sự kiện đặc biệt nhưng còn để làm nổi bật những giá trị mà Kinh Tin Kính, được ra đời trong chính bối cảnh này, tuyên xưng, gìn giữ và tái khởi động kể từ đó cho đến nay.
Ngoài Đức Hồng Y Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin và Đức ông Piero Coda, Tổng thư ký Ủy ban Thần học Quốc tế, còn có các học giả và thần học gia tham gia với các bài thuyết trình tập trung vào nội dung chính của văn kiện.
Chiều kích đại kết
Lặp lại một số nhận định mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đưa ra với Đức Hồng Y Fernández liên quan đến văn kiện này, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin đã nhắc lại rằng lý do đầu tiên thúc đẩy Đức Giáo Hoàng "muốn thực hiện chuyến viếng thăm đến Nixêa nhân dịp kỷ niệm này, đó là vì Nixêa đại diện cho một khoảnh khắc đại kết mạnh mẽ, một dấu chỉ của sự hiệp nhất đối với các Kitô hữu thuộc nhiều hệ phái khác nhau, một di sản chung, được thể hiện vào mỗi Chúa Nhật khi lời tuyên xưng đức tin hợp nhất tất cả các Kitô hữu được công bố. Chúng ta biết Đức Thánh Cha Lêô XIV cũng rất quan tâm đến dấu chỉ của sự hiệp thông này, và đã xác nhận chuyến tông du đến Nixêa".
** Cùng một Giáo Hội
Đức Hồng Y Fernández muốn nhấn mạnh rằng năm nay, ngoài kỷ niệm Công đồng Nixêa, chúng ta cũng cử hành 30 năm ban hành thông điệp đại kết đầu tiên có tựa đề Ut unum sint – Xin cho họ nên một: “Và khi trở lại vấn đề này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói rằng, mặc dù chúng ta không thể nói rằng với tất cả các Kitô hữu, chúng ta hình thành nên cùng một Giáo hội, vì tôn trọng họ, trong mọi trường hợp, chúng ta có thể tái khám phá chính mình như là "Cộng đoàn duy nhất của các môn đệ của Chúa Kitô".
Trong sự tự nhận thức của Giáo hội Công giáo có niềm xác tín rằng mình là Giáo hội nguyên thủy do Chúa Kitô thiết lập, và niềm tin này tồn tại trong Giáo hội. Nhưng niềm xác tín này không loại trừ ý tưởng rằng, từ một góc nhìn khác, chúng ta có thể nói về một ‘Cộng đoàn duy nhất của các môn đệ của Chúa Kitô’ mà chúng ta tạo nên cùng với tất cả những ai đón nhận và yêu mến Người như người thật và như Người Con đồng bản tính của Chúa Cha”.
Ân sủng và ánh sáng
Trong bài phát biểu, Đức ông Piero Coda, Tổng thư ký Ủy ban Thần học Quốc tế, giải thích, việc kỷ niệm Công đồng Nixêa trong một bối cảnh phức tạp nơi mà nhiều cuộc khủng hoảng đang thử thách toàn thế giới, vốn thường có vẻ như đang đi theo con đường không thể quay lại, là một ân sủng và lời kêu gọi đối với Giáo hội.
Ngài nói: “Công đồng này ngày càng được khẳng định một cách toàn diện, khi chúng ta tập trung sự chú ý vào đó để nghiên cứu kỹ ý nghĩa và tầm quan trọng của công đồng, như là kairós (thời gian ân sủng) của một tiếng gọi: làm chứng và trân trọng với lòng trung thành sáng tạo, với tầm nhìn ngôn sứ, với chiều sâu mang tính lịch sử ở mọi cấp độ - bắt đầu từ việc ‘suy nghĩ’ về thực tại để đảm nhận vai trò gìn giữ công đồng -, của Ánh sáng ở Nixêa đã thắp sáng "con mắt rất thánh của toàn thể nhân loại" như Thánh Gregorio đã viết trong cử hành Công đồng Nixêa đầu tiên và trong tiến trình đầy khó khăn để đón nhận Tín biểu của công đồng”.
Đóng góp cụ thể
Và văn kiện do Ủy ban Thần học Quốc tế soạn thảo đã đưa ra một đóng góp đầy xác tín theo hướng này, Đức ông Piero Coda nói thêm, đồng thời nhấn mạnh rằng văn kiện đề xuất "bắt đầu từ thẩm quyền cụ thể của mình và làm nổi bật những 'nguồn lực' đặc biệt và không thể bỏ qua được tập trung trong Tín Biểu tuyên xưng đức tin Nixêa-Constantinople, một định hướng chính xác để trả lời nhiều hối thúc mà nền thần học hiện nay đang được đặt ra từ nhiều phía, liên quan đến những thực tại mà nhân loại hiện đang trải qua. Đây là những yêu cầu mà, xét cho cùng, có thể được tóm tắt trong 'mong muốn' mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã bày tỏ với các tham dự viên Đại hội quốc tế về Tương lai của Thần học, diễn ra vào ngày 9/12 năm ngoái, theo sáng kiến của Bộ Văn hóa và Giáo dục: đó là thần học giúp tái suy nghĩ về tư tưởng”.
Mối tương quan sâu sắc
Công việc của ngày nghiên cứu sôi nổi, được bắt đầu vào buổi sáng với lời chào ngắn gọn của Giáo sư Vincenzo Bonomo, Viện trưởng Đại học Giáo hoàng Urbaniana, đã diễn ra thông qua nhiều thuyết trình về các chủ đề tạo nên sự suy tư sâu sắc.
Những chủ đề này bao gồm nghiên cứu sâu sắc các thư do Eusebio thành Nicomedia gửi cho Ariô liên quan đến các vấn đề về tính hiệp hành trong bối cảnh Công đồng Nixêa, về tính hợp thời của thần học Origène trong Kitô học của Nixêa, và về việc bảo vệ việc Thiên Chúa mặc khải chính mình trong sự "tự hạ" của Chúa Giêsu Kitô trong việc bảo vệ đức tin của những người nhỏ bé, vv.
Tổng hợp quý giá
Như Ủy ban Thần học Quốc tế gần đây đã có dịp tái xác nhận, văn kiện trình bày trong ngày nghiên cứu này "chắc chắn không muốn trở thành một văn bản thần học hàn lâm đơn thuần, nhưng được đề xuất như một bản tổng hợp quý giá và hợp thời, có thể hỗ trợ hữu ích cho việc đào sâu đức tin và chứng tá của đức tin trong đời sống cộng đoàn Kitô giáo".
Đức Lêô XIV, người điềm tĩnh, nhà cải cách thận trọng đang tìm một Giáo hội hiệp nhất trong một thế giới chia rẽ.
Sau bốn vòng bỏ phiếu, ngày thứ năm 8 tháng 5, các Hồng y đã bầu Tu sĩ Dòng Âugustinô, Hồng y Robert Francis Prevost làm Giáo hoàng. Mật nghị đã chọn người bén rễ trên ba châu lục, có khả năng hiện thân cho sự hiệp nhất của Giáo hội và tiếp nối các triều giáo hoàng trước đó.
Gương mặt ngài không che giấu được xúc động đang dâng trào. Khi ngài xuất hiện ở ban-công Đền thờ Thánh Phêrô, tiếng reo hò của giáo dân như làn sóng mạnh ập về ngài. Chỉ trong ba phút đầu tiên đối diện với thế giới, dường như đột nhiên ngài cảm nhận tầm mức quy mô choáng ngợp của sứ mạng được giao, sức nặng hy vọng của hơn một tỷ giáo dân đặt nơi ngài.
Nhưng khi ngài cất tiếng nói trước đám đông ở Quảng trường, với áo choàng đỏ và dây các phép trên vai, giọng nói dịu dàng của ngài – còn hơn cả choáng ngợp – cho thấy một quyết tâm bình thản. Rất nhanh chóng, ngài bước vào sứ vụ Giáo hoàng một cách giản dị tự nhiên.
Khi chọn cựu Giám mục của Chiclayo, một trong những thành phố lớn nhất Peru, các hồng y như đã thấy “mục tử” họ đã phác họa trong các cuộc họp tiền mật nghị. Trong thế giới bị xáo trộn vì các cuộc xung đột vũ trang, ngài đưa ra lời kêu gọi định hình phần nào âm hưởng triều của ngài. Với giọng dứt khoát ngài tuyên bố: “Tôi xin gởi đến anh chị em ở bất cứ nơi đâu, đến mọi dân tộc, đến khắp toàn cầu lời chúc bình an của Chúa ở cùng anh chị em. Đó là bình an của Đức Kitô phục sinh: một bình an không vũ khí, khiêm tốn và kiên định. Bình an của Chúa, của Thiên Chúa yêu thương tất cả chúng ta không điều kiện.”
Cây cầu giữa Bắc và Nam
Chúng ta khó xếp loại ngài. Ngài là Giáo hoàng đầu tiên người Mỹ trong lịch sử; ngài cũng là người Peru đầu tiên kế vị Thánh Phêrô. Trong số các Hồng y Mỹ, ngài là người “ít Mỹ nhất” do tính cách kín đáo và dè dặt, do hành trình cuộc đời: ngài chỉ sống một phần ba cuộc đời ở Hoa Kỳ. Hành trình của ngài mang dấu ấn sâu đậm những năm ngài là nhà truyền giáo và giám mục ở Peru – đến mức ngài được cho là người “Mỹ la-tinh” nhất trong số người Mỹ. Ngài có quốc tịch Peru, ngài là chiếc cầu nối giữa nhiều thực tại giáo hội khác nhau. Và là điểm liên kết giữa Bắc và Nam, trên một lục địa bị chia rẽ. Trong những năm sống ở Peru, ngài lấy việc đón tiếp người nghèo và người di cư làm tâm điểm sứ vụ của ngài. Hồng y đồng hương Joseph Tobin mô tả ngài là “người không lùi bước nếu đó là lý do chính đáng”.
Ngài sẽ có lập trường ra sao với Tổng thống Donald Trump và Phó tổng thống J. D. Vance? Những bài viết ngài chia sẻ trong những tháng gần đây trên Twitter khi ngài còn giữ chức Bộ trưởng Bộ Giám mục cho thấy ngài không đồng ý với chính sách di dân của họ, ngài cho thấy sự nhạy cảm của một người trong Giáo hội quan tâm đến sự tổn thương của người di dân, theo đúng chiều hướng của vị tiền nhiệm. Tuy nhiên, liệu ngài có đối đầu trực tiếp với hai nhà lãnh đạo Mỹ này không? Hồng y Mỹ Timothy Dolan phát biểu trong cuộc họp báo ở New York sau mật nghị: “Ngài là người muốn xây dựng những cây cầu với các quốc gia. Tôi không nghĩ các anh em Hồng y của tôi muốn chọn một người đối nghịch với chính quyền. Ngài là Giáo hoàng quy tụ trong một Giáo hội công giáo đang bị cuốn theo những làn gió trái chiều.”
Nếu năm 2013, các Hồng y đã bầu một Giáo hoàng “từ tận cùng thế giới”, thì khi bầu Đức Lêô làm Giáo hoàng, họ đã chọn người có gốc rễ ở ba châu lục: nguồn gốc đa văn hóa của ngài không thể xem ngài là Giáo hoàng của một quốc gia nào. Ngài nói tiếng Anh, Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha và Pháp, sinh ra tại Chicago, bang Illinois, một giáo phận có truyền thống lâu đời ở Hoa Kỳ, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của làn sóng nhập cư Ý và Ba Lan. Mẹ ngài là bà Mildred Agnes Martinez, thủ thư, có tổ tiên gốc Tây Ban Nha, Creole Louisiana và Haiti; cha của ngài là ông Louis Marius Prevost, hiệu trưởng, trung úy hải quân Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ hai, có cha người Ý, mẹ người Pháp sinh tại Le Havre năm 1894.
Một nhà cải cách thận trọng
Trước khi qua đời, Đức Phanxicô đã đưa ra chương trình Thượng Hội đồng về Tính đồng nghị kéo dài đến năm 2028, Đức Lêô XIV xuất hiện như người thừa kế công trình lớn lao này – được khởi xướng để giáo dân có thể tham gia nhiều hơn trong việc điều hành Giáo hội. Không còn việc ủng hộ mang tính hình thức, Đức Lêô dấn thân quyết liệt để thực hiện tính đồng nghị, điều mà ngài xem là phương thuốc chữa trị những chia rẽ trong Giáo hội. Ngay từ tối đầu tiên sau khi được bầu chọn, từ ban-công Đền thờ Thánh Phêrô, ngài kêu gọi một “Giáo hội đồng nghị” cho thấy tầm nhìn của ngài từ năm trước, ngài nói trên Vatican News: “Giám mục không phải là một tiểu vương ngồi trên ngai vàng, nhưng là người khiêm tốn, gần gũi với những người ngài phục vụ, cùng bước đi, cùng chịu đau khổ với họ để sống Tin Mừng với dân của mình.”
Về vấn đề vai trò phụ nữ, ngài đã bổ nhiệm một số phụ nữ vào các vị trí có trách nhiệm trong giáo phận Peru – ngài ủng hộ cuộc “cách mạng nhỏ” Đức Phanxicô khởi xướng nhằm mở rộng cánh cửa quản trị Giáo hội cho phụ nữ. Tiêu biểu là việc bổ nhiệm ba phụ nữ vào Bộ có nhiệm vụ chọn các Giám mục tương lai. Nhưng ngài phản đối việc truyền chức cho phụ nữ – dù là linh mục hay phó tế. Theo ngài, khi cho phép họ được truyền chức, như thế cuối cùng là “giáo sĩ hóa” họ. Điều này phản ánh một cách sâu sắc quan điểm của ngài về vai trò của giáo dân: họ cần sống trọn vẹn ơn gọi bí tích rửa tội thay vì tìm cách đảm nhận vai trò của hàng giáo sĩ.
Ẩn sau vẻ dè dặt tự nhiên là hình ảnh của một người với những xác tín rõ ràng, ngài bày tỏ dè dặt nhưng minh bạch về các chủ đề gây tranh cãi nhất trong Giáo hội. Về vấn đề chúc lành cho các cặp đồng tính, ngài thận trọng khi cho rằng – bên lề Thượng Hội đồng tháng 10 năm 2024 – cần để các Hội đồng Giám mục quốc gia toàn quyền quyết định có áp dụng hay không, tùy từng bối cảnh địa phương. Qua đó, ngài kêu gọi một hình thức phân quyền mang tính đồng nghị trong quyền lực của Giáo triều Rôma, được điều chỉnh theo thực tế từng nơi.
Vị trí của phụ nữ, các cặp đồng tính… Đức Lêô đã nói gì?
Một lập trường trung dung, có lẽ phản ánh tầm nhìn của ngài về một Giáo hội phổ quát nhưng không đồng nhất, có khả năng giữ thăng bằng giữa các nguyên tắc tín lý chung và việc áp dụng mục vụ thích nghi với từng địa phương. Một định hướng có thể định hình toàn bộ phương pháp tiếp cận của ngài trước các căng thẳng địa lý và ý thức hệ đang chia rẽ Giáo hội công giáo.
Một Giáo hoàng Dòng Âugustinô quy tụ những điều đối lập
Các Hồng y một lần nữa chọn Giáo hoàng trong hàng ngũ các tu sĩ, một lựa chọn không phải ngẫu nhiên. Sau Đức Phanxicô Dòng Tên, bây giờ là Đức Lêô Dòng Âugustinô. Ngài gắn bó với Dòng, ngài vào Dòng năm 1977, linh đạo của Dòng nhấn mạnh đến việc đi tìm hiệp nhất – một điểm quan trọng trong châm ngôn giám mục của ngài, “In Illo uno unum” – “Trong Đấng là một, chúng ta nên một.”
Trên hết, khả năng lãnh đạo và quản lý của Đức Lêô XIV đã được minh chứng, ngài đảm nhiệm nhiều chức vụ cao cấp trước khi đứng đầu Bộ Giám mục, ngài là bề trên Tỉnh Dòng Augustinô 12 năm (2001–2013). Hồng y cử tri Jean-Paul Vesco tóm lược: “Ngài là người làm việc với nhóm nhưng biết đưa ra quyết định.”
Sau Triều Đức Phanxicô, nhiều cộng sự của ngài đánh giá là gây chia rẽ và đôi lúc cứng rắn, việc một người được cho là quân bình, tiết độ và có khả năng hòa giải những điều đối lập rõ ràng đáp lại nguyện vọng của một tinh thần hiệp hành đích thực mà các Hồng y đã bày tỏ trước mật nghị. Hồng y Timothy Dolan nhấn mạnh: “Chúng tôi đã bầu một Giáo hoàng điềm tĩnh.”
Trong những giờ và ngày sau khi ngài được bầu, nhiều Hồng y cử tri đã nhấn mạnh đến kinh nghiệm thành công của ngài trong chức vụ Bộ trưởng một Thánh bộ chiến lược, trong một Giáo triều thường bị kích động vì kiểu điều hành từ trên xuống của vị tiền nhiệm. Một dấu hiệu tiết lộ khả năng thay đổi trong việc điều hành Giáo hội: trong một trao đổi riêng ngày thứ bảy 10 tháng 5, Đức Lêô mong muốn có “một hình thức chia sẻ với Hồng y đoàn”, để các vị lãnh đạo của Giáo hội có thể đưa ra các lời khuyên và đề xuất cho ngài.
Hồng y Prevost đã cảnh báo về sự phân cực: “Khi một ý thức hệ làm chủ cuộc đời, tôi không còn có thể đối thoại.”
Đức Lêô XIV là con người cầu nguyện, sâu sắc thiêng liêng. Linh mục Joseph Farrell, tổng quyền tỉnh dòng mô tả Đức Lêô là người “rất khiêm tốn, thông thái, người luôn suy nghĩ trước khi hành động, lắng nghe trước khi lên tiếng, luôn cầu nguyện trước khi bắt đầu ngày mới. Linh mục Farrell kể, trước khi đến Bộ Giám mục làm việc, khi nào Hồng y Prevost cũng đến nhà tổng quyền của Dòng để đọc kinh sáng và dự thánh lễ: “Khi chúng tôi đến nhà nguyện, chúng tôi đã thấy ngài ngồi đó, cầu nguyện trong thinh lặng.”
Các mốc thời gian chính của một mục tử quen với trách nhiệm
Sinh ngày 4 tháng 9 năm 1955 tại Chicago (Illinois).
1977: Vào nhà tập Dòng Augustinô; khấn trọn ngày 29 tháng 8 năm 1981.
19 tháng 6 năm 1982: Chịu chức linh mục. Tổng Giám mục Jean Jadot phong.
1985 – 1986 và 1988 -1998: Đi truyền giáo ở miền Bắc Peru.
1999: Giám tỉnh vùng Trung Tây và trở lại Chicago.
2001 – 2013: Làm Bề trên Tổng quyền dòng Thánh Augustinô.
2014: Đức Phanxicô bổ nhiệm làm Giám quản Tông tòa, làm Giám mục Chiclayo (Peru).
2018: Phó Chủ tịch Hội đồng Giám mục Peru.
2023: Bộ trưởng Bộ Giám mục. Được phong Hồng y vào tháng 9. Hai năm sau, Đức Phanxicô nâng lên hàng Hồng y Giám mục.
8 tháng 5 năm 2025: Được Hồng y đoàn bầu làm Giáo hoàng, lấy tông hiệu là Lêô XIV.
Trong thông cáo công bố hôm 20 tháng Năm vừa qua, Đức cha Meier nói rằng các tín hữu Kitô tại Trung Quốc gặp nhiều khó khăn trong việc sống đức tin một cách công khai, ngoài khuôn khổ thánh đường. Đời sống Kitô bị giới hạn trong khuôn khổ nhà thờ được nhà nước công nhận. Đặc biệt nhà nước cấm không được giáo dục tôn giáo cho trẻ em và người trẻ.
Đức cha Meier bày tỏ lập trường trên đây, nhân dịp Ngày Thế giới cầu nguyện cho các tín hữu Kitô tại Trung Quốc, cử hành vào thứ Bảy, ngày 24 tháng Năm này, trùng vào lễ Đức Mẹ Phù hộ các tín hữu, cũng là lễ kính Đức Mẹ Xà Sơn, gần Thượng Hải, nơi các tín hữu thường đến hành hương. Sáng kiến ngày cầu nguyện này do Đức Cố Giáo hoàng Biển Đức XVI đề xướng.
Theo một số thống kê, tại Trung Quốc hiện có khoảng mười triệu tín hữu Công giáo và bốn mươi triệu tín hữu Tin lành thuộc các hệ phái.
Trong tuyên ngôn, Đức cha Meier nói về lòng can đảm đáng ca ngợi và chân thành của các tín hữu Kitô ở Trung Quốc, mở ra được những môi trường tự do hành đạo và giúp những người khác tiếp xúc với sứ điệp Tin mừng, mặc dù có sự canh chừng mọi nơi và những hạn chế gia tăng. Nhưng thỉnh thoảng vẫn có những xách nhiễu và trừng phạt nặng nề, kể cả những vụ bắt bớ.
Đức cha Meier cũng tố giác rằng Hàng giáo sĩ Công giáo Trung Quốc bị bó buộc phải đưa ra những tuyên ngôn trung thành với đảng và nhà nước và làm sao cho các xác tín tôn giáo của mình phải hòa hợp với chính sách do nhà nước áp đặt. “Những biện pháp này không những chỉ nhắm kiểm soát, nhưng xét cho cùng, là để làm suy giảm việc thực hành đạo một cách độc lập tại Trung Quốc. Tôn giáo vẫn bị coi là một yếu tố có thể làm xáo trộn đối với sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Và theo Đức cha Meier, với sự hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo, nhà nước Trung Quốc có thể kiểm soát các cộng đồng tôn giáo một cách hữu hiệu hơn trước”.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng thông tấn APNews.com, truyền đi ngày 13 tháng Năm vừa qua, Đức Hồng y Müller nói: “Chúng ta không thể tránh tất cả các xung đột, nhưng chúng ta phải tránh những xung đột không cần thiết”.
Theo Đức Hồng y Müller, sự hạn chế thánh lễ bằng tiếng Latinh theo Sách Lễ năm 1962 tiền Công đồng là “một chia rẽ không cần thiết mà Đức Lêô XIV biết phải chữa lành: chúng ta không thể tuyệt đối kết án hoặc cấm đoán quy luật và hình thức hợp pháp của phụng vụ Latinh. Theo tính tình của Đức tân Giáo hoàng, tôi nghĩ rằng ngài có thể nói với mọi người và tìm ra một giải pháp tốt nhất cho tất cả mọi người”.
Về mật nghị Hồng y bầu Giáo hoàng, Đức Hồng y Müller cho biết Đức Hồng y Prevost đã gây một ấn tượng tốt trên tất cả mọi người, “không có tranh luận nào, không có chia rẽ nào”.
Khi ký giả hỏi xem Đức Hồng y Müller có bỏ phiếu cho Đức Hồng y Prevost hay không, ngài đáp: “Tôi không thể nói được. Nhưng tôi hài lòng”.
Theo báo Corriere della sera, Người đưa tin chiều, là nhật báo có ấn bản lớn nhất tại Ý, số ra ngày 12 tháng Năm vừa qua, Tòa Thánh đang bị lỗ hổng tài chính hai tỷ Euro, một công tác không dễ dàng mà Đức Giáo hoàng Lêô XIV cần giải quyết.
Ngân khoản thiếu hụt này đặc biệt đe dọa quỹ hưu bổng của khoảng năm ngàn nhân viên tại Vatican. Báo này cũng nói rằng trong mười hai năm tại nhiệm, Đức Giáo hoàng Phanxicô không chữa lành được tình trạng thiếu hụt ngân sách của quốc gia thành Vatican. Một số nguồn tin khác nói rằng Tòa Thánh bị thiếu hụt mỗi năm 70 triệu Euro và trong hơn hai năm gần đây Tòa Thánh không công bố ngân sách nữa.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho báo 'Nam Đức” (Sueddeutsche Zeitung), số ra ngày 16 tháng Năm vừa qua, Đức Hồng y Marx, nguyên là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức, nói rằng tình trạng tài chính của Vatican không “khủng khiếp” như vậy, nhưng “cần phải mau lẹ làm một cái gì đó. Trong mọi sự, chúng tôi phải giảm bớt phí tốn”.
Đức Hồng y Marx cũng tiết lộ rằng trong các cuộc họp của Hồng y đoàn trước mật nghị bầu Giáo hoàng, những lời phê bình Đức Giáo hoàng Phanxicô “rất thỉnh thoảng”. 150 Hồng y lên tiếng phát biểu, đại đa số cho rằng triều đại Giáo hoàng của Đức Phanxicô là quan trọng. Tuyệt đối không có ai yêu cầu trở lại thời kỳ trước đó. Dĩ nhiên, không có ai muốn vị Giáo hoàng mới là 'bản sao’ của Đức Phanxicô”. Đức Hồng y cũng cảm thấy một sự mạnh mẽ kêu gọi hiệp nhất.
Theo ý Đức Hồng y Marx, Giáo hội không bị chia rẽ. Ngài nói: “Dĩ nhiên có những xu hướng khác nhau trong Giáo hội, và có lẽ một vài nhóm địa phương muốn trở lại thời trước kia. Nhưng nếu nhìn toàn thể Dân Chúa, các tín hữu tham dự các thánh lễ Chúa nhật và họp thành cộng đoàn, họ không chia rẽ”. Và Đức Hồng y cho biết thời kỳ ba tuần lễ cho đến khi bầu Đức Giáo hoàng Lêô XIN khiến ngài cảm động. Ngài nói: “Ba tuần đó là một thời điểm ân phúc cho tất cả chúng ta, khi thấy Giáo hội có ý nghĩa nào đối với thế giới. Nhưng chính vì những thời điểm này chúng ta càng cảm thấy cần hiệp nhất.”
Được hỏi về Con đường Công nghị tại Đức, chủ trương cải tổ sâu rộng Giáo hội tại Đức theo chiều hướng cấp tiến, Đức Hồng y Marx cho biết không có ý thúc giục điều gì với Đức tân Giáo hoàng. Đức Hồng y nói: “Tôi chỉ muốn nói rằng khi làm giám mục, Đức cha Prevost cũng đã đưa ra một số yếu tố công nghị trong giáo phận của ngài ở Peru... Con đường công nghị này vẫn cần thiết!”
Đức Hồng y Marx nhìn nhận rằng: “Thỉnh thoảng Đức Giáo hoàng Phanxicô tỏ ra lo âu về Con đường Công nghị tại Đức. Tôi tìm cách trấn an ngài”. Tuy nhiên, điều quan trọng là thiết lập cơ cấu tham gia trong Giáo hội mà không biến Giáo hội thành một nền dân chủ đại nghị. “Đức Giáo hoàng Lêô XIV hiểu điều đó; ngài cũng là một nhà giáo luật”.
Cũng trong cuộc phỏng vấn, Đức Hồng y Marx bày tỏ hy vọng sẽ có tiến bộ về các phó tế phụ nữ. Ngài nói đây là một trong những vấn đề trọng tâm của tương lai. Tuy nhiên, ngài cũng nhận rằng Giáo hội hoàn vũ tiến bước theo những tốc độ khác nhau về vấn đề này. “Và chúng ta không thể nói, 'Nếu không có gì xảy ra trong 5 năm, thì tôi sẽ từ chức. Tôi nghĩ điều quan trọng là tìm được ai như Đức Giáo hoàng giữ cho vấn đề này được mở và không lùi lại đằng sau”
Phép lạ xảy ra tại nhà thờ Chúa Kitô Vua ở làng Vilakkannur: thứ Sáu ngày 15 tháng Mười Một năm 2013, khuôn mặt Chúa Giêsu được in trên tấm bánh thánh lớn, do cha Thomas Pathickal đang cầm trong lúc đọc lời truyền phép trong thánh lễ ban sáng. Khi ấy, cha nhận thấy có một vết trên bánh thánh vừa thánh hiến trở nên rộng lớn hơn và sáng ngời, rồi xuất hiện một khuôn mặt. Cha tiếp tục thánh lễ và sau đó quyết định giữ phần bánh thánh ấy trong nhà tạm.
Sau thánh lễ, cha cho ông từ coi nhà thờ xem, và ông nói đó là khuôn mặt Chúa Giêsu. Cha đặt Mình Thánh Chúa ấy trong mặt nhật và đặt trên bàn thờ, để các tín hữu thờ lạy. Vào khoảng 11 giờ cùng ngày hôm đó, cha đặt lại Mình Thánh vào nhà tạm, theo lời Đức Tổng giám mục sở tại bấy giờ là George Valiamattam.
Khi tin này được loan ra, hàng ngàn tín hữu đã tuốn đến làng Vilakkannur. xe và người đông đảo làm cho đường dẫn tới Baithamluan nơi du lịch bị kẹt nên các giới chức cảnh sát cấp cao phải can thiệp.
Tòa Tổng giám mục giữ Mình Thánh Chúa và mở cuộc điều tra về phương diện khoa học và thần học. Từ tháng Chín năm 2018 đến tháng Giêng năm 2020, phần Mình Thánh Chúa được trả lại cho nhà thờ Chúa Kitô Vua ở Vilakkannur và cho phép công khai thờ lạy. Rồi được trình lên Đức Tổng giám mục Giambattista Di Quattro, Sứ thần Tòa Thánh.
Trang mạng Matters India cho biết thông báo của Tòa Thánh nhìn nhận phép lạ này đã được gửi đến Đức Tổng giám mục Pamplany, ngày 09 tháng Năm vừa qua, trong một lễ nghi tại cùng nhà thờ Chúa Kitô Vua. Thông báo này do Đức Tổng giám mục Leopoldo Girelli, Sứ thần Tòa Thánh tại Ấn Độ, chuyển tới. Chính Đức Sứ thần sẽ chủ sự thánh lễ ngày 31 tháng Năm tới đây để long trọng công bố sự nhìn nhận phép lạ Thánh Thể này.
Báo Catholic Vote cho biết Đức Tổng giám mục Pamplany nói rằng đối với Tòa Thánh, phép lạ này góp phần gia tăng niềm tin nơi sự hiện diện thực của Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Thực vậy, ngay từ đầu, đã có những hoa trái thiêng liêng lớn. Đồng thời, Đức Tổng giám mục nhắc nhớ rằng sự hiện diện thực của Chúa chính là điều đạo lý Công giáo vẫn tuyên dạy, dù có phép lạ hay không. Đó là một tín điều dựa trên chính lời của Chúa; và sự biến thể (transustanziazione): bánh biến thành Thịt và rượu trở thành Máu Chúa Giêsu đã là một phép lạ, cho dù giác quan chúng ta không cảm thấy, như Công đồng Trentô đã dạy và được khẳng định trong sách Giáo lý Công giáo (CCC, n.1374).
Điều xảy ra tại Vilakkannur thêm vào danh sách dài các phép lạ Thánh Thể cho đến ngày nay.
Để đi tới sự nhìn nhận phép lạ như những hiện tượng siêu nhiên, Giáo hội Công giáo dựa trên một tiến trình nghiêm túc, khoa học và thần học, với Quy luật gần đây nhất do Bộ Giáo lý đức tin ban hành, ngày 17 tháng Năm năm ngoái, 2024.
Trong thông điệp Laudato Si' được công bố ngày 24/5/2015, nhấn mạnh về vấn đề môi trường, kêu gọi Chăm sóc Ngôi nhà chung của chúng ta, Đức cố Giáo hoàng Phanxicô thúc giục thực hiện các bước để chống lại "nền văn hóa vứt bỏ đang ảnh hưởng đến toàn bộ hành tinh".
Thư chung gửi đến những người trẻ mang chữ ký của Đức Tổng giám mục Borys Gudziak, Chủ tịch Ủy ban Công lý trong nước và Phát triển con người, và Giám mục A. Elias Zaidan, Chủ tịch Ủy ban Công lý và Hòa bình Quốc tế của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ.
Trong thư, các Giám mục Mỹ khuyến khích những người trẻ đối mặt với những thách thức về môi trường bằng đức tin và sự dấn thân: “Hy vọng giúp chúng ta nhận ra rằng luôn có một lối thoát”, và mời gọi họ kiên định trong hy vọng vào Chúa và vào nhau.
Các ngài lên án hậu quả của cuộc khủng hoảng khí hậu, đặc biệt là đối với những người nghèo nhất, người dân bản địa và cộng đồng dễ bị tổn thương. “Khi chúng ta không bảo vệ những món quà của Đấng Tạo Hóa, chúng ta tỏ cho thấy sự mù quáng của mình trước sự kết nối gắn kết tất cả chúng ta”.
Các giám mục ca ngợi sự cam kết của nhiều người trẻ đang tích cực tham gia các cuộc hành trình hoán cải sinh thái, ví dụ như 300 người hành hương California đã cầu nguyện và đi bộ vì tương lai của hành tinh.
Cuối cùng, các ngài khẳng định: “Chúng tôi ở bên các bạn, trong sự căng thẳng giữa tầm nhìn của Chúa cho công trình sáng tạo và thực tế hiện tại. Lòng nhiệt thành của các bạn có thể truyền cảm hứng cho toàn thể Giáo hội”.
Trước khi vào chủng viện, ngài đã đậu cao học về kỹ sư không gian tại Đại học bang San Diego; sau đó ngài gia nhập Đại chủng viện thánh Patrick ở Menlo Park, rồi đậu cử nhân về Truyền giáo học tại Chủng viện Thánh Tâm ở Detroit. Ngài được thụ phong linh mục cho giáo phận San Diego vào năm 1999, khi 32 tuổi.
Trong thời gian làm linh mục ngài đã đảm nhiệm các chức vụ cha phó, cha sở và giám đốc ơn gọi của giáo phận.
Ngày 6/6/2023 ngài được Đức cố Giáo hoàng Phanxicô bổ nhiệm làm Giám mục phụ tá giáo phận San Diego và được tấn phong Giám mục ngày 28/9 cùng năm 2023.
Sau khi Đức Hồng y Robert W. McElroy được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Thủ đô Washington, vào ngày 17/3/2025, Đức Cha Micae được Hội đồng Tư vấn của giáo phận San Diego bầu chọn làm Giám quản của giáo phận.
Theo niên giám Tòa Thánh năm 2025, Giáo phận San Diego hiện có 1.381.968 tín hữu, với 182 linh mục chăm sóc mục vụ.
Sơ Tiziana Merletti nguyên là Bề trên Tổng quyền của Dòng Nữ tu Phan Sinh Người nghèo, được bổ nhiệm làm Tổng Thư ký Bộ Tu sĩ, thay thế Sơ Simona Brambilla, người đã đảm nhiệm chức vụ này từ năm 2023 đến năm 2025 và được Đức cố Giáo hoàng Phanxicô bổ nhiệm làm Tổng trưởng của cùng Thánh Bộ này vào tháng 1/2025.
Đồng Tổng trưởng của Bộ Tu sĩ hiện nay là Đức Hồng y Ángel Fernández Artime.
Sơ Tiziana Merletti sinh ngày 30 tháng 9 năm 1959 tại Pineto, miền trung nước Ý, và tuyên khấn lần đầu trong Dòng Nữ tu Phan Sinh Người nghèo vào năm 1984. Sơ đậu bằng Luật năm 1984 và đậu Tiến sĩ Giáo luật tại Đại học Giáo hoàng Laterano ở Roma vào năm 1992.
Từ năm 2004 đến năm 2013, sơ giữ chức Bề trên Tổng quyền của Dòng Nữ tu Phan Sinh Người nghèo. Sơ hiện là Giáo sư tại Khoa Giáo luật tại Đại học Giáo hoàng Antonianum ở Roma và làm luật sư giáo luật tại Liên hiệp Quốc tế các Bề trên Tổng quyền.
Video giả có tiêu đề “Đức Thánh Cha XIV trả lời Đại úy Ibrahim Traoré - Một thông điệp về Sự thật, Công lý và Hòa giải”, với hình ảnh và giọng nói của Đức Thánh Cha được bắt đầu như sau: “Kính gửi ngài Tổng thống Ibrahim Traoré, Tổng thống của quốc gia có chủ quyền Burkina Faso, người con của vùng đất châu Phi, người bảo vệ dân mình, cầu mong ân sủng và sự bình an đổ tràn trên ngài, qua sự khôn ngoan, lòng can đảm và sự thật…”.
Những người xem video giả này bị dẫn dắt để tin rằng Đức tân Giáo Hoàng đã có bài phát biểu công khai trước Tổng thống Burkina Faso Ibrahim Traoré, nhằm trả lời một lá thư trước đó của ông.
Trong video giả được thực hiện bởi trí tuệ nhân tạo, Đức Thánh Cha Lêô XIV nói: “Tôi đã đọc những lời của ngài không chỉ một lần mà là nhiều lần, và mỗi lần đọc lại sâu sắc hơn lần trước, bởi vì trong giọng nói của ngài, tôi không chỉ nghe thấy sự tức giận của một tổng thống, mà còn là tiếng kêu chính đáng của một lục địa đã bị tổn thương từ lâu bởi sự bỏ rơi và bóc lột".