Hội nghị đã bắt đầu từ thứ Năm, ngày 13 tháng Sáu vừa qua và kéo dài đến ngày 15 tháng Sáu. Bà Meloni cho biết khi mời Đức Thánh cha, bà xác tín rằng sự hiện diện và phát biểu của ngài có thể góp phần quan trọng trong việc tìm ra một khuôn khổ luân lý đạo đức và văn hóa cho việc sử dụng trí tuệ nhân tạo đối với võ khí.
Đức Thánh cha rời Vatican lúc 11 giờ, và sau hơn một tiếng rưỡi bay, trực thăng của không quân Ý chở ngài đã đáp xuống sân thể thao ở Borgo Egnazia. Đức Thánh cha được bà Thủ tướng Meloni đón tiếp, rồi Đức Thánh cha dùng xe thể thao về nơi ở dành riêng.
Tại đây, trong một tiếng rưỡi đồng hồ, Đức Thánh cha lần lượt gặp gỡ và trao đổi song phương với bà Kristalina Georgieva, người Bulgaria, Tổng giám đốc Quỹ tiền tệ quốc tế, Tổng thống Ucraina, ông Volodymyr Zelensky, rồi Tổng thống Emmanuel Macron của Pháp, Thủ tướng Justin Trudeau của Canada.
Tiếp đến, lúc quá 14 giờ đã có lễ nghi bà Giorgia Meloni, chính thức đón tiếp Đức Thánh cha tại sân của Borgo Egnazia và chụp hình, trước khi Đức Thánh cha được hướng dẫn đến phòng Arena để tham dự phiên họp chung. Lần đầu tiên trong lịch sử 50 năm của G7, một vị Giáo hoàng tham dự và phát biểu tại một buổi họp của nhóm các cường quốc này.
Phát biểu của Đức Thánh cha
Phiên họp bắt đầu lúc 14 giờ 15. Và trong bài phát biểu, Đức Thánh cha nói đến những cơ may, những nguy hiểm và hậu quả của trí tuệ nhân tạo: ngài nhấn mạnh rằng nhân loại sẽ có một tương lai vô vọng, nếu người ta tước bỏ của con người khả năng quyết định về bản thân cũng như về đời sống của mình, kết án con người phải lệ thuộc những chọn lựa của máy móc.
Rất tiếc là nguy cơ ấy là điều có thực hơn bao giờ hết: trí tuệ nhân tạo là một dụng cụ có sức thu hút, nhưng đồng thời nó cũng là một dụng cụ kinh khủng, nhất là nó có thể mang lại bao nhiêu lợi ích, nhưng cũng có thể tạo nên những thiệt hại, như bao nhiêu vật dụng khác do con người tạo nên. Đề tài trí tuệ nhân tạo đã được Đức Thánh cha nói đến trong sứ điệp nhân ngày Thế giới Truyền thông Xã hội Lần thứ 58, cử hành ngày 12 tháng Năm vừa qua.
Nay trước những nhân vật nam nữ đang nắm giữ những trách nhiệm to lớn trên thế giới, Đức Thánh cha nêu rõ hơn những cơ may và rủi ro của trí tuệ nhân tạo đối với tương lai của nhân loại, nhất là trong bối cảnh cuộc chiến tranh “từng mảnh” ngày càng bị ráp lại với nhau.
Đức Thánh cha nhấn mạnh rằng: “Trong một thảm trạng như các cuộc xung đột võ trang, điều cấp thiết là xét lại sự phát triển và sử dụng các dụng cụ gọi là “võ khí tự động giết người” để nghiêm cấm sử dụng chúng, bắt đầu từ quyết tâm thực sự và cụ thể ngày càng du nhập sự kiểm soát chặt chẽ của con người.
Đừng bao giờ để những chiếc máy giết người đã tạo nên chúng. Đức Thánh cha khai triển ý tưởng này. Đây không phải là một thành kiến đối với những tiến bộ của khoa học và kỹ thuật, nhưng đúng hơn là sự trôi dạt, không thể thể kiểm soát nổi các dụng cụ ấy. Đức Thánh cha nói: Khoa học và kỹ thuật là những sản phẩm đặc biệt do tiềm năng sáng tạo của con người, và chính từ việc sử dụng tiềm năng sáng tạo mà Thiên Chúa ban cho chúng ta mà trí tuệ nhân tạo được chào đời. Đó là một phương tiện hết sức mạnh mẽ, được sử dụng trong rất nhiều lãnh vực hoạt động của con người, như: y khoa, lao động, văn hóa, truyền thông, giáo dục và chính trị. Người ta được phép cho rằng việc sử dụng trí tuệ nhân tạo ngày càng ảnh hưởng đến lối sống, tương quan xã hội và trong tương lai, nó sẽ ảnh hưởng tới cả quan niệm của chúng ta về căn tính con người”.
Đức Thánh cha nhấn mạnh rằng: “Vì những lý do đó, đứng trước những kỳ công của máy móc dường như biết chọn lựa một cách độc lập, chúng ta phải ý thức rõ rằng quyết định phải luôn luôn thuộc về con người”. Và Đức Thánh cha cảnh giác rằng: “Chúng ta sẽ kết án nhân loại phải chịu một tương lai không có hy vọng, nếu chúng ta tước đoạt khỏi con người khả năng quyết định về chính mình, bó buộc nó phải lệ thuộc những chọn lựa của máy móc. Chúng ta phải bảo vệ và đảm bảo một không gian kiểm soát quan trọng của con người đối với tiến trình chọn lựa các chương trình của trí tuệ nhân tạo. Điều này liên hệ tới chính phẩm giá con người”.
Sau bài phát biểu của Đức Thánh cha, nhiều tham dự viên khác cũng lên tiếng về vấn đề này. Tiếp đến, từ lúc 17 giờ 30, Đức Thánh cha còn có những cuộc gặp gỡ song phương với các vị Tổng thống của Kenya bên Phi châu, Thủ tướng Narendra Modi của Ấn Độ, Tổng thống Joe Biden của Mỹ, Tổng thống Brazil, Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ, sau cùng là Tổng thống nước Algeria, ông Abdelmadjid Tebboune.
Lúc gần 20 giờ, Đức Thánh cha mới đáp trực thăng bay trở về Vatican.
Tài liệu nghiên cứu này được đưa ra sau 29 năm thông điệp của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II về cam kết của Giáo hội Công giáo đối với sự hiệp nhất Kitô giáo, Ut Unum Sint (Để tất cả nên một), mời gọi các mục tử và các nhà thần học của các giáo hội Kitô giáo khác để “thấy— dĩ nhiên là cùng nhau - những hình thức” trong đó sứ vụ của Giám mục Rôma “có thể hoàn thành việc phục vụ yêu thương mà các bên đều nhìn nhận”.
Đức Giáo hoàng người Ba Lan đã đưa ra lời mời gọi khi nhận thức được quyền tối thượng của Giám mục Rôma đã và vẫn gây ra những trở ngại cho các giáo hội Kitô giáo khác trên hành trình hướng tới sự hiệp nhất như ý muốn của Chúa Kitô.
Tài liệu nghiên cứu mới này bối cảnh hóa lời mời gọi của Thánh Gioan Phaolô II. Nó nhắc lại rằng “sự hiểu biết và thực thi sứ vụ của Giám mục Rôma đã bước vào một giai đoạn mới với Công đồng Vatican II. Kể từ đó, chiều kích đại kết đã trở thành một khía cạnh thiết yếu của sứ vụ này, như các vị giáo hoàng kế nhiệm minh họa”. Tài liệu nghiên cứu cho biết lời mời gọi của Thánh Gioan Phaolô II trong Ut Unum Sint “đã đánh dấu một thời điểm mang tính lịch sử trong nhận thức đại kết này”, đồng thời nói thêm rằng “lời mời đó nhận được sự hỗ trợ đặc biệt” trong triều đại giáo hoàng của Đức Phanxicô, vốn đã nhấn mạnh đến chiều kích đồng nghị của sứ vụ giáo hoàng.
Tài liệu dài 147 trang mang tựa đề “Giám mục Rôma: Quyền tối thượng và tính hiệp hành trong các cuộc đối thoại đại kết và trong các câu trả lời cho thông điệp Ut Unum Sint”. Tài liệu đã được Đức Hồng y người Thụy Sĩ Kurt Koch, 74 tuổi người, Tổng trưởng Bộ Cổ võ Hiệp nhất các Kitô hữu, giới thiệu trong một cuộc họp báo ở Vatican ngày 13.6.2024 cùng với Đức Hồng y Grech, 67 tuổi, Tổng Thư ký Thượng Hội đồng.
Không giống như những tranh luận trong quá khứ, Đức Hồng y Koch nói, “vấn đề về quyền tối thượng không chỉ còn được coi đơn giản là một vấn đề nữa, mà còn là cơ hội để suy tư chung về bản chất của Giáo hội và sứ mệnh của Giáo hội trong thế giới”.
Tuy nhiên, Đức Hồng y Koch nhắc lại rằng trong tông huấn Evangelii Gaudium năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhận xét rằng “chúng ta đã đạt được rất ít tiến bộ” để đáp lại yêu cầu của Đức Gioan Phaolô II nhằm tìm ra “một cách thực thi quyền tối thượng sao cho nó hoàn toàn không từ bỏ những gì thiết yếu cho sứ mạng, nhưng vẫn cởi mở trước các tình hình mới”.
Đức Hồng y Koch nói rằng tài liệu nghiên cứu này là một bước tiến được Bộ thực hiện nhân kỷ niệm 25 năm thông điệp của Thánh Gioan Phaolô II; “[nó] đã nhìn thấy một cơ hội để tổng hợp những suy tư này và thu thập những thành quả chính,” như Đức Thánh Cha Phanxicô đã yêu cầu. Hơn nữa, “việc triệu tập Thượng Hội đồng về tính hiệp hành đã xác nhận sự liên quan của dự án này như một sự đóng góp cho chiều kích đại kết của tiến trình thượng hội đồng”.
Theo Đức Hồng y Koch, Đức Thánh Cha Phanxicô đã phê chuẩn việc phát hành, người nhấn mạnh rằng tài liệu này “không yêu cầu làm cạn kiệt chủ đề cũng như không tóm tắt toàn bộ huấn quyền Công giáo về chủ đề này. Mục đích của nó là đưa ra một tổng hợp khách quan về cuộc thảo luận đại kết chính thức và không chính thức về chủ đề này” phản ánh cả những hiểu biết sâu sắc và những hạn chế của nó.
Tài liệu nghiên cứu kết thúc “với một đề xuất ngắn gọn từ Phiên họp toàn thể của Bộ có tựa đề ‘Hướng tới việc thực thi quyền tối thượng trong thế kỷ 21’”, trong đó xác định những khuyến nghị quan trọng cho sứ vụ hiệp nhất của Giám mục Rôma.
Đức Hồng y Koch cho biết tài liệu “là thành quả của gần ba năm làm việc thực sự mang tính đại kết và hiệp hành”. Nó tóm tắt 30 câu trả lời cho “Ut Unum Sint” và 50 tài liệu đối thoại đại kết về chủ đề này. Đã có sự tham vấn không chỉ trong phiên họp toàn thể của Bộ mà còn với các cơ quan Giáo triều Rôma và Thượng Hội đồng Giám mục.
Đức Hồng y, người đứng đầu Bộ của Vatican này từ tháng 7 năm 2010, đã trình bày những ý tưởng chính của tài liệu. Ngài chỉ ra rằng “nhiều” tài liệu đối thoại và câu trả lời về Ut Unum Sint, bao gồm cả một số hợp tác với các giáo hội khác, đã góp phần suy tư về quyền tối thượng và tính hiệp hành. Ngài lưu ý rằng mặc dù một số người có những cách giải thích khác nhau về cách thức thực thi sứ vụ này, “tất cả các tài liệu đều nhất trí về sự cần thiết phải phục vụ sự hiệp nhất ở cấp độ phổ quát”.
Đức Hồng y Koch cho biết điều đặc biệt thú vị là “sứ vụ Phêrô của Giám mục Rôma là nội tại của tính năng động thượng hội đồng, cũng như khía cạnh cộng đồng bao gồm toàn thể Dân Thiên Chúa và chiều kích hiệp đoàn của sứ vụ giám mục”.
Nhìn về tương lai và những bước cần thực hiện trong các cuộc đối thoại thần học, Đức Hồng y Koch cho biết, tài liệu nghiên cứu gợi ý sự cần thiết phải có “một sự kết nối tốt hơn giữa các cuộc đối thoại – địa phương và quốc tế, chính thức và không chính thức, song phương và đa phương, Đông phương và Tây phương. —để làm phong phú cho nhau.” Nó cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải “cùng nhau giải quyết quyền tối thượng và tính hiệp hành” như “hai thực tế hỗ tương lẫn nhau”. Nó kêu gọi “làm rõ từ vựng” cho Dân Chúa và “thúc đẩy việc tiếp nhận kết quả của các cuộc đối thoại ở mọi cấp độ [trong các giáo hội]”.
Ngài kết luận bằng cách chỉ ra bốn gợi ý hoặc khuyến nghị thực tiễn cần được giải quyết trong Giáo hội Công giáo “để một sự hiểu biết mới và việc thực thi quyền tối thượng của Giáo hoàng có thể góp phần khôi phục sự hiệp nhất Kitô giáo”.
Khuyến nghị đầu tiên kêu gọi “việc ‘tiếp nhận lại’, ‘tái diễn giải’, ‘giải thích chính thức’, ‘cập nhật bình luận’ hoặc thậm chí là ‘tái diễn đạt’” các giáo huấn của Vatican I về giáo hoàng theo kiểu Công giáo. Nó cho biết, “một số cuộc đối thoại nhận thấy rằng những giáo huấn này đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi bối cảnh lịch sử của chúng, và gợi ý rằng Giáo hội Công giáo nên tìm kiếm những cách diễn đạt và từ vựng mới trung thành với ý định ban đầu nhưng được tích hợp vào nền giáo hội học cộng đồng và thích nghi với nền văn hóa và bối cảnh đại kết hiện nay.”
Khuyến nghị thứ hai kêu gọi “một sự phân biệt rõ ràng hơn giữa các trách nhiệm khác nhau của Giám mục Rôma, đặc biệt giữa sứ vụ tối thượng của ngài trong việc xây dựng sự hiệp nhất và hiệp thông giữa các giáo hội, cả Tây phương và Đông phương, có thể mở rộng ý tưởng này để xem xét làm thế nào các Giáo hội Tây phương khác có thể coi Giám mục Rôma là tối thượng trong khi bản thân Giám mục Rôma có quyền tự chủ nhất định”. Nó cho biết cũng cần phải phân biệt các trách nhiệm thượng phụ, tối thượng và chính trị của giáo hoàng.
Nó gợi ý rằng “việc nhấn mạnh hơn đến việc thực thi sứ vụ của Giáo hoàng trong Giáo hội đặc biệt của ngài, giáo phận Rôma, sẽ làm nổi bật sứ vụ giám mục mà ngài chia sẻ với các giám mục anh em của mình, và đổi mới hình ảnh của giáo hoàng”.
Khuyến nghị thứ ba đề xuất “sự phát triển tính hiệp hành trong Giáo hội Công giáo”, nhấn mạnh việc này cũng sẽ góp phần như thế nào vào cam kết đại kết của Giáo hội. Nó xác định các lĩnh vực cần có tính hiệp hành lớn hơn trong Giáo hội Công giáo, đặc biệt là liên quan đến “thẩm quyền của các hội đồng giám mục Công giáo quốc gia và khu vực, mối quan hệ của họ với Thượng Hội đồng Giám mục và với Giáo triều Rôma”. Nó kêu gọi sự tham gia sâu sắc hơn của “toàn thể dân Chúa vào tiến trình thượng hội đồng”.
Khuyến nghị thứ tư kêu gọi “thúc đẩy ‘hòa giải công đồng’” thông qua các cuộc gặp gỡ thường xuyên, cũng như hành động và chứng tá chung giữa các nhà lãnh đạo giáo hội trên khắp thế giới.
Trong cuộc họp báo ngày 13.6.2024, Đức Hồng y Mario Grech đã “hoan nghênh” tài liệu nghiên cứu này và nói rằng nó được đưa ra vào thời điểm thích hợp, vì vấn đề này nằm trong chương trình nghị sự của Thượng Hội đồng. Ngài nhắc lại rằng trong bài phát biểu nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng Hội đồng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh “sự cần thiết và cấp bách” đối với “một sự hoán cải triều đại giáo hoàng”. Ngài nhấn mạnh rằng “Giáo hoàng không...ở trên Giáo hội; nhưng trong đó với tư cách là một trong những người đã được rửa tội, và trong Giám mục đoàn với tư cách là Giám mục giữa các Giám mục, đồng thời được kêu gọi… lãnh đạo Giáo hội Rôma, là giáo hội chủ trì trong tình bác ái trên tất cả các Giáo hội.”
Trong bài phát biểu đó, Đức Phanxicô cũng lưu ý rằng “cam kết xây dựng một Giáo hội hiệp hành có ý nghĩa đại kết quan trọng” và rằng tính hiệp hành có thể chiếu sáng “một ánh sáng lớn hơn…về việc thực thi Quyền tối thượng của Phêrô”.
Đức Hồng y Grech trích dẫn báo cáo tổng hợp của Thượng Hội đồng, trong đó nói rằng “sứ vụ Phêrô của Giám mục Rôma là nội tại của năng động Thượng hội đồng, cũng như khía cạnh cộng đồng bao gồm toàn thể Dân Chúa và chiều kích tập thể của việc thực thi sứ vụ Giám mục. Do đó, tính hiệp hành, tính hiệp đoàn và quyền tối thượng liên quan đến nhau: quyền tối thượng bao hàm việc thực thi tính hiệp hành và tính hiệp đoàn, giống như cả hai đều bao hàm việc thực thi quyền tối thượng”.
Ngài cho biết Thượng Hội đồng nhấn mạnh rằng “ở đây cần có cái nhìn sâu sắc hơn về cách hiểu mới về hàng Giám mục trong một Giáo hội có tính hiệp hành ảnh hưởng đến sứ vụ của Giám mục Rôma và vai trò của Giáo triều Rôma như thế nào”.
Tài liệu đề xuất việc “đọc một cách đổi mới” các bản văn nói về thừa tác vụ Phêrô, điều mà trong lịch sử đã trở thành một trở ngại cho sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu và chỉ ra rằng quyền tối thượng của Giám mục Roma vừa là một “thể chế về quyền thánh thiêng” vừa là quyền con người.
Tài liệu kết thúc với một đề xuất từ Bộ, xác định những đề xuất quan trọng nhất được đưa ra “cho việc thực hiện một cách đổi mới thừa tác vụ hiệp nhất của Giám mục Roma”, được tất cả các Kitô hữu thừa nhận.
Một cơ hội để suy tư và tranh luận
Giới thiệu tài liệu, Đức Hồng y Tổng trưởng Bộ Cổ võ Hiệp nhất các Kitô hữu, Kurt Koch, nhấn mạnh rằng tài liệu “là kết quả của gần ba năm làm việc đại kết và hiệp hành” và nó tóm tắt khoảng 30 câu trả lời cho thông điệp Ut unum sint và 50 tài liệu đối thoại đại kết. Không chỉ các thành viên của Bộ đã tham gia mà còn có “các chuyên gia Chính thống và Tin lành, phối hợp với Viện Nghiên cứu Đại kết”.
Kết luận quan trọng nhất, như Đức Hồng Y Koch nhấn mạnh, là “tất cả các tài liệu đều nhất trí về việc cần phải phục vụ sự hiệp nhất ở cấp độ phổ quát, mặc dù nền tảng của việc phục vụ này và cách thức thực hiện nó tùy thuộc vào những cách giải thích khác nhau”. Ngài nói: “Không giống như những tranh cãi trong quá khứ, vấn đề về quyền tối thượng không còn được coi là một vấn đề nữa mà còn là một cơ hội để suy tư và tranh luận”.
Cơ hội suy tư chung về bản chất của Giáo hội và sứ mạng của Giáo hội trên thế giới
Kết thúc tài liệu, Bộ Cổ võ sự hiệp nhất các Kitô hữu khẳng định rằng thừa tác vụ của Giám mục Roma, “không nên chỉ được coi là một vấn đề, mà còn là một cơ hội để suy tư chung về bản chất của Giáo hội và sứ mạng của Giáo hội trên thế giới”.
Để đạt được mục đích này, họ đề xuất một cách giải thích mới của Giáo hội Công giáo về những giáo huấn của Công đồng Vatican I và “sự phân biệt rõ ràng hơn giữa các trách nhiệm khác nhau của Giám mục Roma”. Họ cũng kêu gọi nhấn mạnh nhiều hơn đến việc thực thi thừa tác vụ của Giáo hoàng trong giáo phận Roma.
Những bước đi mới trong các cuộc đối thoại đại kết
Họ cũng bày tỏ rằng “đã đến lúc phải thực hiện những bước đi mới trong các cuộc đối thoại đại kết” và rằng “cần có sự kết nối tốt hơn giữa các cuộc đối thoại” để tránh sự lặp lại và làm phong phú lẫn nhau. Tương tự như vậy, văn bản nêu bật sự cần thiết phải “làm rõ từ vựng được sử dụng trong các cuộc đối thoại”, đồng thời thúc giục làm rõ ý nghĩa của cụm từ “Giáo hội hoàn vũ”.
Tài liệu cũng có nói rằng “chiều kích hiệp hành của Giáo hội Công giáo rất quan trọng đối với dấn thân đại kết của Giáo hội”, cũng như “việc cải cách giáo triều”, được thúc đẩy bởi tông hiến Praedicate Evangelium.
Điều răn “Chớ giết người” là nguyên tắc cơ bản hướng dẫn mọi người có lương tâm ngay thẳng
Trong tuyên bố, Hội đồng Giám mục Ba Lan nói: “Trước áp lực ngày càng tăng ở nơi công cộng và trước các hành động của chính phủ nhằm thay đổi sự bảo vệ hợp pháp đối với sự sống con người theo hướng hợp pháp hóa việc giết hại trẻ em trong bụng mẹ, các giám mục nhắc lại quan điểm rõ ràng và bất di bất dịch của Giáo hội về vấn đề này”.
Các ngài nói rõ rằng “bất kỳ hình thức cố ý nào hủy diệt sự sống con người, kể cả sự sống của một bào thai, đều không phù hợp với luật tự nhiên và đức tin Công giáo”. Theo nghĩa đó, các ngài khẳng định rằng điều răn “Chớ giết người” là “một nguyên tắc cơ bản của con người cần hướng dẫn mọi người có lương tâm ngay thẳng”.
Vì vậy, các Giám mục “đưa ra lời kêu gọi mạnh mẽ đến lương tâm không chỉ của các tín hữu, mà còn của tất cả những người có thiện chí, kiên quyết phản đối những nỗ lực hợp pháp hóa việc phá thai và hành động dứt khoát để thúc đẩy việc bảo vệ sự sống”.
Điều khoản lương tâm của các nhân viên y tế
Các ngài tái khẳng định: “Sự sống con người là một giá trị tối thượng. Vì vậy, không ai được nhân danh tự do cá nhân để có quyền quyết định về sự sống của người khác. Các bác sĩ, nhân viên y tế và dược sĩ cũng không nên bị buộc phải giết thai nhi, người già và người bệnh, vi phạm quyền giữ lại điều khoản lương tâm của họ”.
Sự quan tâm không ngừng đối với phúc lợi của trẻ em
Hội đồng Giám mục Ba Lan cảm ơn những người mẹ và người cha “đã phục vụ sự sống với tình yêu và bảo vệ con cái của họ ngay cả trong những tình huống khó khăn nhất khi họ làm chứng rằng niềm vui, vẻ đẹp và sự cao cả của tình mẫu tử và tình phụ tử là sự quan tâm không ngừng đối với phúc lợi của trẻ em, bất kể hoàn cảnh nào”.
Các Giám mục nhắc lại rằng “Giáo hội cung cấp mọi sự giúp đỡ và hỗ trợ có thể và áp dụng các hành động cụ thể để bảo vệ tất cả trẻ em khỏi mọi hình thức bạo lực”
Cuộc họp được tổ chức bởi Phái đoàn Thường trực của Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc và Quỹ “Caritas in Veritate” tập trung vào đề tài “Với giá nào? Hướng tới việc bãi bỏ mang thai hộ: ngăn chặn việc bóc lột và biến phụ nữ và trẻ em thành hàng hóa”.
Lên tiếng tại cuộc họp, bà Gambino cho rằng mang thai hộ thể hiện sự vi phạm nghiêm trọng phẩm giá và quyền của phụ nữ và trẻ em, cộng đồng quốc tế phải cảm thấy được kêu gọi suy nghĩ về tính cấp bách của việc đưa ra lệnh cấm tuyệt đối đối với thực hành này, như mong muốn của Đức Thánh Cha được thể hiện trong bài phát biểu đầu năm gửi tới ngoại giao đoàn cạnh Toà Thánh.
Bà giải thích mục đích của cuộc họp là để phản ánh tính cấp bách của phản ứng quốc tế đối với hiện tượng mang thai hộ. Mọi người nhận thức rằng, thực tế “du lịch sinh sản” là do thiếu hoà hợp các quy định của nhà nước liên quan đến việc mang thai hộ, và đó là nguyên nhân đưa đến việc bóc lột phụ nữ và trẻ em xuyên quốc gia. Đối với bà Gambino cần phải thúc đẩy một cam kết chung để đảm bảo bảo vệ toàn cầu phẩm giá và quyền con người của các chủ thể liên quan.
Trích dẫn Tuyên bố gần đây Dignitas Infinita của Bộ Giáo lý Đức tin, Phó Tổng Thư ký đã nhấn mạnh rằng mọi trẻ em đều có quyền “có nguồn gốc con người đầy đủ và đón nhận hồng ân sự sống thể hiện phẩm giá của người cho và người nhận”. Bà cũng nhắc lại không phải mọi phương pháp sinh đều hợp pháp và không được viện lý “quyền có con” để biện minh cho bất kỳ hoạt động sinh con.
Liên hiệp Tin lành Luther thế giới được thành lập cách đây 77 năm (1947) và hiện quy tụ 140 Giáo hội thành viên tại 78 nước, với tổng cộng 74 triệu tín hữu.
Phái đoàn do vị Chủ tịch mới của Liên hiệp làm trưởng đoàn, đó là Đức giám mục Henri Stubkjaer, người Đan Mạch làm trưởng đoàn, và vị tổng thư ký là nữ mục sư Anne Burghardt, người Đức.
Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, Đức Thánh cha nhắc đến dịp kỷ niệm 1.700 năm Công đồng chung Nicea, năm 325, mừng vào năm tới, công đồng này tạo nên một mối liên hệ đại kết với trung tâm là Chúa Kitô. Ngay từ trước khi kết thúc Công đồng chung Vatican II, hồi năm 1965, các tín hữu Công giáo và Luther tại Mỹ, trong cuộc gặp gỡ ở thành phố Baltimore, đã cùng nêu chứng tá chung và khẳng định rằng: “kinh Tin Kính tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Chúa Con, Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, tiếp tục cam đoan với chúng ta rằng chúng ta thực sự được cứu chuộc; vì chỉ có Đấng là Thiên Chúa mới có thể cứu chuộc chúng ta” (The Status of the Nicene Creed as Dogma of the Church, 7-7-1965).
Đức Thánh cha nhấn mạnh rằng: “Chúa Kitô là con tim của phong trào đại kết. Ngài là hiện thân lòng Chúa Thương Xót, và sứ mạng đại kết của chúng ta, là làm chứng về lòng thương xót ấy. Trong tuyên ngôn chung về đạo lý ơn công chính hóa, các tín hữu Luther và Công giáo biểu lộ đối tượng chung là “Tuyên xưng Chúa Kitô trong mọi sự, là Đấng duy nhất chúng ta đặt mọi tín thác, vì Ngài là Đấng Trung Gian duy nhất (Xc 1 Tm, 2.5-6). Qua Người, Thiên Chúa, trong Chúa Thánh Linh, ban chính thân mình và đổ tràn các hồng ân của Ngài để đổi mới mọi sự” (n.18).
Cụ thể rất ít người ở Hong Kong, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Việt Nam nói rằng tôn giáo “rất quan trọng” trong cuộc sống của họ hoặc cầu nguyện hàng ngày.
Cuộc khảo sát cũng cho thấy mặc dù không coi tôn giáo như một phần thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày, nhưng nhiều người vẫn tham gia và tin vào các hoạt động tôn giáo như thờ cúng tổ tiên.
Ở Đài Loan, 11% người trưởng thành nói tôn giáo rất quan trọng đối với họ, nhưng 87% tin vào nghiệp báo, 36% nói rằng họ đã từng được tổ tiên viếng thăm và 34% nói đã từng thực hành thiền.
Tại Nhật Bản, 70% số người được hỏi cho biết đã dâng thức ăn, nước uống để bày tỏ lòng tôn kính như một phần tín ngưỡng hoặc truyền thống của họ. Con số này ở Việt Nam là 86%.
Việc thờ kính tổ tiên truyền thống trong khu vực được diễn tả qua việc thăm viếng, thắp hương, cúng tại các nghĩa trang hoặc bàn thờ tổ tiên. 50% người trưởng thành không theo tôn giáo nào và đa số là Phật tử nói rằng trong năm qua, họ đã thắp hương cho tổ tiên.
Có ít Kitô hữu tham gia vào các hoạt động này hơn các nhóm còn lại tại các quốc gia được khảo sát, ngoại trừ Việt Nam. Tại Việt Nam, khoảng 86% Kitô hữu cho biết trong năm qua đã thắp hương và 81% đã cắm hoa hoặc thắp nến tưởng nhớ tổ tiên.
Cuộc khảo sát cũng phân tích việc thay đổi tôn giáo khác. Nhiều người Đông Á nói họ được nuôi dưỡng theo một tôn giáo trong thời thơ ấu và hiện không theo tôn giáo nào cả. Nhưng xu hướng này ít phổ biến ở Việt Nam. Ví dụ, 15% người trưởng thành ở Hong Kong nói họ được nuôi dạy theo Kitô giáo nhưng giờ đây không thực hành. Trong khi đó, 14% người trưởng thành ở Hàn Quốc và Nhật Bản cho biết họ được nuôi dưỡng theo Phật giáo nhưng hiện không theo tôn giáo nào.
Trung tâm Nghiên cứu Pew chỉ ra rằng tỷ lệ chuyển đổi tôn giáo ở Đông Á (từ 32% tại Nhật Bản đến 53% tại Hong Kong và Hàn Quốc) cao hơn so với nhiều nơi khác. Ví dụ, trong các cuộc khảo sát trước đây về tôn giáo trên khắp châu Á kể từ năm 2019, chỉ có tỷ lệ chuyển đổi tôn giáo của Singapore (35%) mới đạt mức tỷ lệ được thấy ở các xã hội Đông Á.
Trong số các tân linh mục vừa nói, hai phần ba thuộc các giáo phận và phần còn lại thuộc các dòng tu và các cộng đồng, phong trào của Giáo hội. Ví dụ, có chín tân linh mục thuộc Cộng đoàn thánh Martin. Trong số hơn 90 giáo phận ở Pháp, hai giáo phận có số tân linh mục đông nhất, là Paris và Fréjus-Toulon.
Trong cuộc họp báo, hôm 19 tháng Sáu vừa qua, Đức cha Bertrand Lacombe, Tổng giám mục Giáo phận Auch, thuộc Hội đồng các thừa tác viên thánh chức và Chủ tịch Hội đồng toàn quốc về phó tế, cho biết các giám mục Pháp đang suy tư và nghiên cứu về những sáng kiến trong các giáo phận để khơi dậy và cổ võ ơn gọi. Đức cha cũng nhắc nhở về sứ mạng thiết yếu của các linh mục trong Giáo hội và ý nghĩa sứ vụ này ngày nay, giữa lòng một xã hội Pháp ngày càng bị tục hóa.
Trong số 67 triệu dân cư ở Pháp, khoảng một nửa còn xưng mình là tín hữu Công giáo. Tuy nhiên, số tín hữu thực hành đạo, - theo báo chí - chỉ có 2%; số linh mục và tu sĩ giảm sút nhiều từ những thập niên qua.
Từ lâu, trong Giáo hội này có sự tranh chấp về nghi lễ thánh lễ, nhưng rồi Hội đồng của Giáo hội này, là cơ quan điều hành Giáo hội, đã quyết định dứt khoát về cách cử hành, theo đó trong phần đầu lễ và cuối lễ, linh mục quay xuống giáo dân, còn phần Phụng vụ Thánh Thể, với nghi thức truyền phép, linh mục quay lên bàn thờ.
34 giáo phận của Giáo hội Syro Malabar đã chấp nhận quyết định trên đây, ngoại trừ tại Tổng giáo phận Ernakulam-Angamaly, là giáo phận lớn nhất, thì còn vấn đề: hơn 300 linh mục chống đối, bất tuân lệnh của thẩm quyền Giáo hội. Trong gần ba năm qua, nhiều cố gắng hòa giải đều không thành công, kể cả những lời nhắn nhủ tha thiết của Đức Thánh cha qua một sứ điệp Video và trong buổi tiếp kiến ngày 13 tháng Năm năm 2024, dành cho phái đoàn do Đức tân Tổng giám mục Trưởng Raphael Thattil hướng dẫn, và gồm có sáu giám mục, một số linh mục, cùng với giáo dân từ Ấn Độ.
Mới đây, các vị lãnh đạo Giáo hội Công giáo Syro Malabar bên Ấn Độ ra lệnh tối hậu cho các linh mục bất tuân chỉ thị của Hội đồng Giáo hội về việc cử hành thánh lễ.
Trong thư chung, công bố hôm mùng 09 tháng Sáu vừa qua, và được đọc trong các nhà thờ giáo xứ ở địa phương, hôm Chúa nhật, ngày 16 tháng Sáu sau đó, Đức Tổng giám mục Trưởng và Đức cha Bosco Puthur, Giám quản Tông tòa Tổng giáo phận Ernakulam, khẳng định rằng sau ngày 03 tháng Bảy sắp tới, tín hữu Công giáo nào tham dự thánh lễ Syro Malabar, không theo cơ cấu đã được Hội đồng Giáo hội chấp thuận, thì không chu toàn giới răn dự lễ Chúa nhật. Và từ ngày 03 tháng Bảy, những linh mục nào không tuân hành kỷ luật phụng vụ trong thời gian đó sẽ bị cấm không được thi hành thừa tác vụ linh mục nữa và bị đối xử như những người rời bỏ tình hiệp thông của Giáo hội Công giáo. Những linh mục ấy không thể cử hành thánh lễ”.
Tuy có lệnh trên đây, nhưng hôm Chúa nhật, ngày 16 tháng Sáu vừa qua, tại 321 nhà thờ thuộc giáo phận, linh mục và giáo dân đã từ chối đọc thư của các vị giám mục hữu trách. Có những người thuộc nhóm nổi loạn đã xé thư chung, đốt hoặc quăng xuống nước hoặc ném vào thùng rác.
Giờ đây, người ta chờ đợi biện pháp kỷ luật của giáo quyền, sau hạn tối hậu ngày 03 tháng Bảy tới đây.
Hôm 20 tháng Sáu vừa qua, hãng tin Công giáo Á châu đưa tin: Giáo hội Công giáo Syro Malabar bên Ấn Độ đã tìm được một giải pháp dung hòa để giải quyết những tranh chấp về phụng vụ.
Từ lâu, trong Giáo hội này có sự tranh chấp về nghi lễ thánh lễ, nhưng Hội đồng của Giáo hội này, là cơ quan điều hành Giáo hội, đã quyết định dứt khoát về cách cử hành, theo đó trong phần đầu lễ và cuối lễ, linh mục quay xuống giáo dân, còn phần Phụng vụ Thánh Thể, với nghi thức truyền phép, linh mục quay lên bàn thờ.
34 giáo phận của Giáo hội Syro Malabar đã chấp nhận quyết định trên đây, ngoại trừ tại Tổng giáo phận Ernakulam-Angamaly, là giáo phận lớn nhất, hàng trăm linh mục không chấp nhận.
Trong thư chung, công bố hôm mùng 09 tháng Sáu vừa qua, và được đọc trong các nhà thờ giáo xứ ở địa phương, hôm Chúa nhật 16 tháng Sáu vừa rồi, Đức Tổng giám mục Trưởng và Đức cha Bosco Puthur, Giám quản Tông tòa Tổng giáo phận Ernakulam, khẳng định rằng sau ngày 03 tháng Bảy sắp tới, tín hữu Công giáo nào tham dự thánh lễ Syro Malabar, không theo cơ cấu đã được Hội đồng Giáo hội chấp thuận, thì không chu toàn giới răn dự lễ Chúa nhật. Và cũng từ ngày 03 tháng Bảy, những linh mục nào không tuân hành kỷ luật phụng vụ trong thời gian đó, sẽ bị cấm không được thi hành thừa tác vụ linh mục nữa và bị đối xử như những người rời bỏ tình hiệp thông của Giáo hội Công giáo. Những linh mục ấy không thể cử hành thánh lễ nữa”.
Tuy có lệnh trên đây, trong một cuộc họp, khoảng 300 linh mục tuyên bố sẽ tiếp tục cử hành thánh lễ, quay xuống giáo dân, sau ngày 03 tháng Bảy.
Nay, hãng tin Ucan cho biết, có hy vọng giải quyết tranh chấp này, theo đó vào những ngày thường, các linh mục có thể cử hành thánh lễ theo nghi thức cũ, nhưng thánh lễ Chúa nhật trong các giáo xứ, thì phải cử hành theo nghi thức đã được Hội đồng của Giáo hội chấp thuận. Linh mục nào đi ngược với quy định này sẽ bị phạt theo giáo luật.
Một lãnh tụ nhóm linh mục chống đối tuyên bố rằng lời thỉnh cầu của chúng tôi đã được chấp nhận.
Theo Ucan, quyết định trên đây đang chờ sự chấp thuận của Tòa Thánh.
Sáng ngày 21 tháng Sáu, Đức Thánh cha Phanxicô đã tiếp kiến Đức Tổng giám mục Leopoldo Girelli, Sứ thần Tòa Thánh tại Ấn Độ và Népal. Có thể buổi tiếp kiến này có liên hệ tới vấn đề của Giáo hội Công giáo Syro Malabar.
Tiểu bang Louisiana của Mỹ áp đặt “Mười điều răn” trong các trường học
Ngày thứ tư 19 tháng 6, tiểu bang Louisiana đã đặt “Mười điều răn” vào trong các lớp học, khơi dậy cuộc tranh luận về sự tách biệt giữa Giáo hội và Nhà nước. Louisiana là bang bảo thủ ở miền nam Hoa Kỳ.
Louisiana là tiểu bang đầu tiên đặt “Mười Điều Răn” vào trong các lớp học.
Ông Jeff Landry, thống đốc đảng Cộng hòa của Louisiana đã ký thành luật một dự luật quy định việc đặt Mười điều răn trong các trường do tiểu bang tài trợ từ mẫu giáo đến đại học bắt đầu từ năm tới. Ông nói trong lễ ký kết: “Nếu chúng ta muốn tôn trọng pháp quyền thì chúng ta phải bắt đầu từ luật gốc, luật của ông Môsê.”
Hiển thị trên áp phích hoặc trong khung
Luật quy định Mười điều răn phải được hiển thị trên các áp phích hoặc trong một “khung đủ lớn và có phông chữ phù hợp để có thể đọc được”.
Ngay lập tức, Tổ chức bảo vệ các quyền tự do ACLU nói họ sẽ đưa vấn đề này ra tòa: “Luật này vi phạm sự tách biệt giữa nhà thờ và nhà nước và rõ ràng là vi hiến.”
Lần đầu tiên ở Hoa Kỳ
Tu chính án thứ nhất của Hiến pháp Hoa Kỳ cấm việc thành lập một tôn giáo quốc gia hoặc cấm ưu tiên tôn giáo này hơn tôn giáo khác.
Các bang bảo thủ khác trong “khuôn viên Kinh thánh” ở miền nam Hoa Kỳ đã cố gắng áp dụng các biện pháp tương tự, nhưng đây là lần đầu tiên một bang đưa ra thành luật.
Giáo phận San Diego phải đối diện với khoảng 450 vụ kiện cáo buộc lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên của các linh mục, tu sĩ và giáo dân trong giáo phận, hôm nay hồng y McElroy thông báo giáo phận sẽ nạp đơn xin phá sản lần thứ hai.
Thông báo này đưa ra 16 tháng sau khi hồng y cho biết giáo phận đang xem xét công việc này. Trong thư ngày 13 tháng 6, hồng y viết: “Trong năm qua, giáo phận đã tổ chức các cuộc nói chuyện với các luật sư đại diện cho các nạn nhân bị lạm dụng, tôi phối hợp với ban lãnh đạo Giáo phận đã đi đến kết luận, đây là thời điểm chính thức đi vào giai đoạn phá sản và tiếp tục bàn thảo quá trình phá sản.”
Ngài giải thích việc phá sản mang lại con đường tốt nhất cho giáo phận: “Vừa bồi thường công bằng cho nạn nhân bị lạm dụng tình dục, vừa tiếp tục sứ mệnh giáo dục, phục vụ mục vụ và đến với người nghèo, với những người bị gạt ra ngoài lề xã hội của giáo hội. Việc nạp đơn xin phá sản là để có được sự công bằng giữa các yêu cầu bồi thường khác nhau của các nạn nhân, thành lập một quỹ để bồi thường cho nạn nhân bị lạm dụng tình dục trong quá khứ, giải quyết việc phá sản, chịu trách nhiệm pháp lý với họ và hướng làm việc trong tương lai.”
Bất chấp những thách thức, hồng y McElroy nói rõ: “Giáo hội phải chịu trách nhiệm. Khi chúng ta vượt qua quá trình khó khăn này trong năm tới, điều quan trọng là tất cả chúng ta phải nhớ đó là sự thất bại về mặt đạo đức của những người trực tiếp lạm dụng trẻ em và thanh thiếu niên, cũng như sự thất bại về mặt đạo đức to lớn không kém của những người đã phân công, đã không cảnh giác dẫn đến những vết thương tâm lý và tinh thần vẫn còn làm tan nát trái tim và tâm hồn của rất nhiều người trong chúng ta.”
Ngài nói thêm: “Những bước tiến to lớn mà chúng ta đã thực hiện trong 20 năm qua để bảo vệ trẻ vị thành niên trong Giáo hội và hơn thế nữa không thể bắt đầu với việc giảm nhẹ trách nhiệm đạo đức to lớn mà tôi, với tư cách là giám mục của anh chị em, và toàn bộ cộng đồng công giáo tiếp tục gánh chịu.”
Phía các luật sư của các nạn nhân cho rằng việc nạp đơn xin phá sản là để tránh việc bồi thường công bằng cho các nạn nhân lạm dụng tình dục trẻ em. Luật sư Irwin Zalkin của Công ty Luật Zalkin cho biết: “Sau gần một năm hòa giải, chúng tôi hy vọng các trẻ em nạn nhân sống sót sau vụ lạm dụng tình dục, giáo phận và công ty bảo hiểm của giáo phận sẽ có thể có được thỏa thuận giải quyết và đồng ý lập kế hoạch bồi thường qua vụ phá sản không thể tránh khỏi của giáo phận đã công bố khoảng một năm trước. Rõ ràng các giáo phận công giáo và các công ty bảo hiểm đã áp dụng chiến lược sử dụng các vụ phá sản để giải quyết các vụ lạm dụng tình dục trẻ em, giảm tiền bồi thường trả cho người sống sót và tước bỏ quyền xét xử của họ. Những nỗ lực này là lạm dụng hệ thống phá sản.”
Khoảng 450 vụ kiện chống lại giáo phận San Diego bắt nguồn từ luật AB 218 của California năm 2019 loại bỏ thời hiệu với bất kỳ khiếu nại nào về lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên trong ba năm, kể từ ngày 1 tháng 12 năm 2020 đến ngày 31 tháng 12 năm 2022.
Sau khi nộp đơn xin phá sản năm 2007, giáo phận đã phải trả 198 triệu đô la để giải quyết 144 khiếu nại về lạm dụng, trước đó hồng y McElroy đã nói vụ này đã làm cạn kiệt phần lớn tài sản của giáo phận. Những tuyên bố này được thúc đẩy bởi việc dỡ bỏ thời hiệu của bang California. Nếu những con số trong các vụ kiện hiện tại tương tự như những con số của năm 2007, thì khoản chi trả của giáo phận cho những người sống sót có thể vào khoảng 500-600 triệu đô la.
Trong thư ngày 13 tháng 6, hồng y McElroy cho biết, dù chỉ có giáo phận nạp đơn xin phá sản nhưng các giáo xứ của giáo phận và các trường trung học sẽ phải “đóng góp đáng kể vào việc giải quyết để có giải pháp cuối cùng cho trách nhiệm pháp lý mà họ phải đối diện”.
Giáo phận San Diego là giáo phận thứ sáu ở California nạp đơn xin phá sản.
Gần đây nhất là giáo phận Fresno đã nạp đơn xin phá sản tháng trước khi phải đối diện với 154 vụ kiện lạm dụng tình dục trẻ em. Bốn giáo phận khác ở California đã xin phá sản là tổng giáo phận San Francisco, và các giáo phận Sacramento và Oakland.
The Roman Catholic Diocese of San Diego Pastoral Center
Đó là giáo phận San Diego, giáo phận thứ bảy tại bang California, nại đến biện pháp này, sau khi nghị viện tiểu bang mở cửa trong vòng ba năm, để nạn nhân các vụ lạm dụng xảy ra trong quá khứ và hết thời hiệu, để tố giác các vụ đó, nay cũng có thể nạp đơn kiện.
Hồi tháng Hai năm nay, Đức Hồng y Robert McElroy, giám mục sở tại đã thông báo rằng giáo phận đang cứu xét biện pháp đăng ký phá sản, đứng trước những phí tổn pháp luật để đáp lại 400 vụ kiện mới tại bang này, sau khi Nghị viện tiểu bang mở cửa trong vòng ba năm, để nạn nhân các vụ lạm dụng xảy ra trong quá khứ và hết thời hiệu hầu tố giác các vụ đó, nay cũng có thể nạp đơn kiện. Đức Hồng y cũng nói rằng các vị hữu trách của Giáo phận San Diego đã dành mười sáu tháng qua để duyệt lại những vụ kiện lạm dụng và đi đến kết luận rằng đây là lúc nạp đơn chính thức để khai phá sản. Việc đăng ký này là cần thiết để Giáo hội có thể tiếp tục sứ vụ giáo dục, mục vụ và tìm đến với những người nghèo, những người bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Đức Hồng y McElroy nhắc lại rằng giáo phận đã phải trả những món tiền lớn cho những vụ kiện lạm dụng tính dục, từ sau vụ khai phá sản hồi năm 2007.
Hồi đầu tháng Sáu này, Giáo phận Fresno, cũng thuộc bang California đã khai phá sản và trên toàn bang này, có khoảng 3.000 vụ kiện chống các tổ chức Công giáo.
Sau khi cứu xét và chấp nhận đơn khai phá sản, Tòa án đặc biệt sẽ quản lý tài sản của giáo phận, và sau khi chi cho các nhu cầu chính đáng của giáo phận, số tiền còn lại mới được chia cho các nạn nhân các vụ lạm dụng.
San Diego là giáo phận Công giáo thứ 40 ở Mỹ khai phá sản. Cho đến nay, đã có 24 trường hợp kết thúc. Trên toàn nước Mỹ có 198 giáo phận.
Đức Tổng Giám Mục Carlo Maria Viganò đã bị buộc tội ly giáo và được triệu tập để xét xử tại Bộ Giáo lý Đức tin. Để đáp lại cáo buộc nghiêm trọng đó, ngài đã đưa ra một phản ứng kích động – gọi Vatican II là một “bệnh ung thư”, “Bergoglio” là bất hợp pháp – và từ chối trả lời lệnh triệu tập. Vatican đã cho ngài thời hạn đến Thứ Sáu, 28 Tháng Sáu, để trả lời, bằng văn bản hoặc đích thân đến Tòa Thánh, nếu không ngài “sẽ bị xét xử vắng mặt”.
Dưới đây là năm cân nhắc về các vấn đề phức tạp đang diễn ra.
“Chúng tôi cũng kêu cầu những nước tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh, Thụy Sĩ và Ucraina, hãy làm sáng tỏ điều này là: dưới hình thức nào đã coi Tòa Thượng phụ là người đã ký tên vào tuyên ngôn. Thêm vào đó, chúng tôi nhấn mạnh rằng chính sách của nhà nước Thổ Nhĩ Kỳ về quy chế của Tòa Thượng phụ chung không thay đổi.
Trong tuần qua, theo lời thỉnh cầu của Ucraina, Thụy Sĩ đã tổ chức Hội nghị về hòa bình. Trong số những vị đến tham dự, có Tổng thống Pháp và Ucraina, Phó Tổng thống Mỹ, Thủ tướng Đức, Chủ tịch Ủy ban hành pháp của Liên hiệp Âu châu, Thủ tướng Áo, v.v. Ngoài Đức Thượng phụ Bartolomaios, cũng có Đức Hồng y Quốc vụ khanh Pietro Parolin, nhân vật thứ hai tại Vatican.
Trong số những điều được khẳng định trong tuyên ngôn chung kết của Hội nghị, có vấn đề an ninh của các trung tâm năng lượng hạt nhân ở Ucraina, bảo vệ các tàu hàng và các cảng dân sự chống lại các cuộc tấn công, việc trao đổi tù binh chiến tranh và hồi hương các trẻ em Ucraina bị bắt đưa sang Nga... Có 83 nước đã ký vào tuyên ngôn chung. Đức Thượng phụ Bartolomaios và Đức Hồng y Parolin, tuy ca ngợi Tuyên ngôn nhưng không ký vào văn kiện này. Đức Hồng y Parolin chỉ tham dự chính thức với tư cách là quan sát viên.
Tuy nhiên, sau đó, ngày 18 tháng Sáu, Đức Thượng phụ Chính thống đã ký tuyên ngôn chung. Ngay từ đầu, ban tổ chức đã minh định rằng không phải chỉ có các quốc gia, nhưng cả các tổ chức khác cũng có thể ký vào Tuyên ngôn ấy.
Hãng tin Công giáo Áo nhận định rằng phản ứng của Bộ Ngoại giao Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy rõ vai trò tế nhị của Tòa Thượng phụ Chính thống chung trong các vấn đề quốc tế. Theo quan điểm pháp lý của Thổ Nhĩ Kỳ, Đức Thượng phụ ở Istanbul chỉ là thủ lãnh tinh thần của các tín hữu Chính thống còn lại ở Istanbul, tức là khoảng 4.500 người, chứ không phải là Thượng phụ chung có một tầm quan trọng và qui chế rộng lớn trên thế giới.
Trong thực tế, Đức Thượng phụ Bartolomaios được coi là Giáo chủ danh dự của toàn Chính thống giáo, đồng thời có quyền tài phán trên các cộng đoàn Chính thống thuộc quyền của ngài tại nhiều quốc gia. Nhà nước Thổ bắt buộc vị Thượng phụ Chính thống tại đây phải là người có quốc tịch Thổ Nhĩ Kỳ.
Theo Đức Phanxicô, trí tuệ nhân tạo sẽ đóng một vai trò lớn trong vận mệnh nhân loại: “Sự phát triển hoàn toàn của trí tuệ nhân tạo có thể đồng nghĩa với sự kết thúc loài người.” Trong buổi tiếp kiến ngày 22 tháng 6 năm 2024, với những thành viên dự hội nghị về trí tuệ nhân tạo, ngài trích dẫn lời của nhà vật lý Stephen Hawking (1942-2018) về trí tuệ nhân tạo trong một phỏng vấn cũ của BBC với nhà vật lý Stephen Hawking (1942-2018).
Hội nghị mang tên “Trí tuệ nhân tạo và mô hình kỹ trị: làm thế nào để thúc đẩy hạnh phúc nhân loại, chăm sóc thiên nhiên và một thế giới hòa bình” được Quỹ Centesimus Annus Pro Pontifice tổ chức. Những người tham dự tranh luận tại học viện giáo phụ Augustinianum từ ngày 20 tháng 6.
Trong hội nghị, Đức Phanxicô nhắc trí tuệ nhân tạo là chủ đề trọng tâm vì nó “làm gián đoạn nền kinh tế và xã hội và có thể có những tác động tiêu cực đến chất lượng cuộc sống, mối quan hệ giữa con người và giữa các quốc gia, sự ổn định quốc tế và ngôi nhà chung”.
Với các thuật toán đạo đức
Phù hợp với Thông điệp hòa bình ngày 1 tháng 1 và sự can thiệp gần đây của ngài tại Hội nghị G7 ngày 14 tháng 6. Một lần nữa ngài tố cáo nguy cơ hy sinh quyền tự do con người cho “quyền của kỹ trị”: “Chúng ta có chắc chắn muốn tiếp tục gọi cái không phải là trí thông minh là ‘trí thông minh’ không?”, ngài tố cáo việc dùng từ ngữ không đúng mức. Đặc biệt ngài nhắc lại tầm quan trọng của “sự phát triển đạo đức của các thuật toán”, trí tuệ nhân tạo vẫn phải là “công cụ trong tay con người”, không thoát khỏi sự kiểm soát của con người.
Xác định giới hạn của sự đổi mới
Ngài xin các nhà khoa học, luật sư, những người ra quyết định chính trị và kinh tế cùng làm việc với nhau để cùng nhau xác định các giới hạn đặt ra cho sự đổi mới nếu nó đi ngược lại nhân loại. Đặc biệt ngài kêu gọi “các quy định hiệu quả, vừa kích thích đổi mới đạo đức hữu ích cho sự tiến bộ nhân loại, vừa ngăn cấm hoặc hạn chế những tác động không mong muốn”.
Ngài cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của những thách thức đạo đức của trí tuệ nhân tạo trong lãnh vực giáo dục, triết học và luật pháp, đồng thời kêu gọi suy ngẫm về hậu quả của AI đối với công việc và chi tiêu năng lượng trên thế giới. Ngài nhấn mạnh: “Chính nhờ sự đổi mới công nghệ mà tương lai của nền kinh tế, văn minh, của chính nhân loại sẽ được định hình”.
Theo Tự sắc, công bố hôm 25 tháng Sáu vừa qua, mang tựa đề “Fratello Sole”, Anh mặt trời, hệ thống sản xuất năng lượng mặt trời sẽ được thiết lập ở khu đất Santa Maria di Galeria, rộng 440.000 hécta, gấp 10 lần quốc gia thành Vatican, và cách Vatican khoảng 20 cây số, vốn là nơi đặt các ăngten phát thanh của đài Vatican.
Tự sắc này nhắm thực hiện cụ thể điều đã được Đức Thánh cha nói đến trong thông điệp Laudato sì, về việc bảo vệ trái đất như căn nhà chung của nhân loại. Thông điệp này phản ánh những lời báo động về sự hâm nóng trái đất, trong đó một trong những nguyên nhân là sự sử dụng các nhiên liệu phiến thạch. Quyết định trên đây của Đức Thánh cha sẽ góp phần vào nỗ lực của mọi quốc gia, theo khả năng của mỗi nước, mang lại một câu trả lời thích hợp cho các thách đố đang được đề ra cho nhân loại và căn nhà chung, do sự thay đổi khí hậu”.
Trong tự sắc, Đức Thánh cha ủy thác cho Đức Hồng y Fernando Vérgez Alzaga, Thống đốc Quốc gia thành Vatican, cùng với Đức Tổng giám mục Giordano Piccinoti, Chủ tịch cơ quan quản trị tài sản của Tòa Thánh, gọi tắt là APSA, việc kiến thiết trung tâm năng lượng mặt trời ở Santa Maria di Galeria. Đức Thánh cha cũng yêu cầu Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh làm sao để không gì bị mất mát trên lãnh thổ vừa nói, điều đã được đặt cho Tòa Thánh sử dụng cho đến nay”.
Trong số các tân linh mục vừa nói, hai phần ba thuộc các giáo phận và phần còn lại thuộc các dòng tu và các cộng đồng, phong trào của Giáo hội. Ví dụ, có chín tân linh mục thuộc Cộng đoàn thánh Martin. Trong số hơn 90 giáo phận ở Pháp, hai giáo phận có số tân linh mục đông nhất, là Paris và Fréjus-Toulon.
Trong cuộc họp báo, hôm 19 tháng Sáu vừa qua, Đức cha Bertrand Lacombe, Tổng giám mục Giáo phận Auch, thuộc Hội đồng các thừa tác viên thánh chức và Chủ tịch Hội đồng toàn quốc về phó tế, cho biết các giám mục Pháp đang suy tư và nghiên cứu về những sáng kiến trong các giáo phận để khơi dậy và cổ võ ơn gọi. Đức cha cũng nhắc nhở về sứ mạng thiết yếu của các linh mục trong Giáo hội và ý nghĩa sứ vụ này ngày nay, giữa lòng một xã hội Pháp ngày càng bị tục hóa.
Trong số 67 triệu dân cư ở Pháp, khoảng một nửa còn xưng mình là tín hữu Công giáo. Tuy nhiên, số tín hữu thực hành đạo, - theo báo chí - chỉ có 2%; số linh mục và tu sĩ giảm sút nhiều từ những thập niên qua.
Năm 2024, hơn một trăm chủng sinh trẻ sẽ được chịu chức, tăng 20% so với năm 2023. Tin vui chỉ trong một thời gian ngắn, nhưng thật đáng chú ý: năm 2024 sẽ có 105 linh mục được chịu chức ở Pháp. Năm 2023 chỉ có 88, năm 2022 có 114; năm 2021 có 99, năm 2020 có 81. Trong khoảng mười năm, số lượng linh mục chịu chức xê xích từ 80 đến 100 linh mục mỗi năm.
Ngày thứ tư 19 tháng 6, tổng giám mục Bertrand Lacombe giáo phận Auch, cựu giám mục phụ tá giáo phận Bordeaux phụ trách phong chức cho các tân linh mục bình luận về sự gia tăng, ngài tránh nói đây là một chiến thắng: “Chúng tôi rất vui khi vượt qua con số 100, nhưng đây không phải là điều quan trọng, điều quan trọng nhất là giới trẻ đã dự phần.”
Vì không có gì là hiển nhiên. Với thời gian, số thanh niên trẻ quyết định vào chủng viện đang liên tục giảm, đến mức tin tức đã không tiết lộ số liệu của năm 2023 mà theo một số giám mục cho là “đáng lo ngại”. Năm 2020 có 815 chủng sinh, năm 2022 có 709 chủng sinh. Hội đồng giám mục nhận thấy sự gia tăng số linh mục chịu chức năm nay tương ứng với sự gia tăng được thấy trong những năm 2017 và 2018.
Một gia tăng không kéo dài. Từ hai mươi năm nay, số linh mục chịu chức đã giảm 50%. Năm 2019, hai chủng viện quan trọng là Lille và Bordeaux đã phải đóng cửa. Ngay cả giáo phận Paris nơi từ lâu có nhiều ơn gọi nhờ hồng y Lustiger, nhưng năm nay chỉ có 6 linh mục chịu chức ngày 29 tháng 6, trong số này có hai linh mục thuộc cộng đoàn Emmanuel và Canh tân đặc sủng.
Giáo phận nhỏ Meaux (Seine-et-Marne), dưới sự lãnh đạo của giám mục Jean-Yves Nahmias sẽ phong chức cho ba tân linh mục, trong đó có chủng sinh Jason Nioka, người Pháp gốc Phi, cựu vô địch judo quốc gia, anh nói về ngày chịu chức 23 tháng 6: “Đây là sự kiện giáo phận đã không thấy từ 10 năm nay. Không có công thức kỳ diệu nào để có thêm linh mục, ngoại trừ lời cầu nguyện của giáo dân.”
Tân linh mục Jason Nioka đặc biệt nhớ ơn thân mẫu: “Lúc tôi 14 tuổi, bà đã nhét quyển Kinh Thánh vào hành lý của tôi, lúc đó tôi đi học thể thao xa nhà. Một bài đọc luôn giúp tôi trong các lần thi đấu để có bình an nội tâm sâu đậm. Tôi cảm nhận bình an này trong chuyến hành hương Lộ Đức với gia đình, một cảm nhận mà niềm vui thể thao chưa bao giờ có thể cho tôi. Vào một buổi sáng buồn bã sau một trận thua, mẹ dứt khoát nói với tôi: Jason, judo sẽ không đem con lên thiên đàng!”
Từ từ và mãnh liệt, Jason đã chín chắn trong quyết định của anh: “Chúa sẽ chiếm vị trí đầu tiên trong cuộc đời tôi.” Sẽ không bao giờ có linh mục nếu không có tấm gương của các linh mục trên con đường của anh: “Tôi xin cám ơn sự dấn thân của các linh mục! Nếu không có họ, tôi sẽ không thể chọn con đường này!”
Tổng giám mục Lacombe nói: “Thế giới cần các linh mục, với bất kỳ phát triển quan trọng nào của Giáo hội, không thể hình dung Giáo hội không có linh mục. Chúng ta cần các linh mục! Cái gì hiếm thì đắt và các phong chức này mang lại giá trị lớn lao cho Giáo hội.”
Tổng giám mục Lacombe được đào tạo về quản lý nhân sự, lẽ ra ngài sẽ làm việc trong ngành này nhưng bây giờ ngài đứng đầu một giáo phận nông thôn, nơi một nửa trong số 40 linh mục đã trên 75 tuổi. Ngài nói: “Vấn đề cơ bản là số lượng các gia đình công giáo và tín hữu kitô, vì ơn gọi liên quan trực tiếp đến số lượng này. Đó là một tỷ lệ, và tỷ lệ tín hữu kitô và ơn gọi không thay đổi. Không có tín hữu kitô thì không có linh mục.”
Ngài nhận ra khó khăn mà các giám mục gặp phải khi kêu gọi giới trẻ dấn thân: “Chúng tôi có thể dám kêu gọi các ông đã lập gia đình làm phó tế vĩnh viễn bằng cách đến gặp họ, nhưng chúng tôi ngần ngại hơn với công việc bạn trẻ (…) vì chúng tôi cảm thấy rụt rè, cảm thấy có một mong manh nào đó của tuổi trẻ.”
Vẫn còn một hỏi khó có câu trả lời: “Vì sao cộng đồng này lại có nhiều ơn gọi hơn các cộng đồng khác!”
Bức tranh khảm của Marko Rupnik ở Nhà nguyện Redemptoris Mater, Dinh tông tòa Vatican.
Câu trả lời được đưa ra tại một hội nghị ở Atlanta, khi bộ trưởng Bộ Truyền thông Paolo Ruffini đến tham dự hội nghị của Liên đoàn Truyền thông Công giáo tổ chức ngày thứ sáu 21 tháng 6, được hỏi về việc vẫn còn các bức tranh khảm của Marko Rupnik tại các nơi chính thức của Vatican. Linh mục Marko Rupnik người Slovenia nổi tiếng đã bị loại khỏi Dòng Tên tháng 7 năm 2023, ông bị hàng chục phụ nữ tố cáo ông hiếp dâm, đụng chạm và khống chế trong các sinh hoạt tâm linh.
Bộ trưởng Ruffini nói trên trang America: “Loại bỏ, xóa đi, phá hủy nghệ thuật không bao giờ là một lựa chọn tốt.” Ông chờ phán quyết của bộ Giáo lý Đức tin vào cuối phiên tòa đang diễn ra để đưa ra quyết định: “Chúng ta đang nói về những vấn đề mà chúng ta không biết. Tôi là ai để có thể đánh giá về chuyện này của linh mục Rupnik? Tôi nghĩ với tư cách là tín hữu kitô, chúng ta hiểu sự gần gũi với các nạn nhân là điều quan trọng, nhưng tôi không biết liệu việc xóa các tác phẩm nghệ thuật của Rupnik có phải là một cách để đến gần họ hơn hay không.”
Những bình luận này được đưa ra khi ở Pháp, thánh đường Lộ Đức phải sớm đưa ra quyết định về các bức tranh của Marko Rupnik trang trí cho vương cung thánh đường Đức Mẹ Mân Côi. Nhưng một cách rộng hơn, việc này cũng tiết lộ một trạng thái tư duy của người la-mã, vì tại Rôma, các bức tranh này có mặt khắp nơi. Rôma có không dưới 43 nhà nguyện hoặc nhà thờ trang trí với các tranh của linh mục do xưởng Aletti của ông sản xuất. Đó là 1/5 trong số 231 tác phẩm của Rupnik trên khắp thế giới.
Ở trung tâm của Vatican
Các bức tranh khảm được trưng bày trong nhà nguyện Redemptoris Mater, dinh tông tòa, khánh thành năm 1999 dưới thời Đức Gioan-Phaolô II, lúc đó các tranh này được mô tả là “công trình vĩ đại” giao thoa giữa truyền thống phương Đông và phương Tây. Đây là hành lang dành cho khách được giáo hoàng tiếp kiến đi qua để đến gặp ngài, các bức tường vẽ các cảnh trong Kinh Thánh. Nhà nguyện của thánh bộ Phụng thờ Thiên Chúa và Các kỷ luật bí tích cũng được trang trí với các bức tranh khảm nổi tiếng từ năm 2005.
Những nơi khác ở Rôma cũng trưng bày không kém phần quan trọng các tác phẩm này, đó là nhà nguyện của đại chủng viện giáo hoàng ở Rôma. Kể từ năm 2021, nơi cầu nguyện chính của các linh mục tương lai ở Rôma được trang hoàng với các bức tranh này. Vào dịp này, các bức khảm cũ được chính Đức Phaolô VI khánh thành năm 1965 đã biến mất, bây giờ bị ẩn giấu đằng sau một vách ngăn được dựng lên để nhường chỗ cho những bức tranh của Rupnik. Bao phủ toàn bộ các bức tường, từ sàn đến trần, các bức vẽ này trải rộng trên diện tích 1.700 mét vuông với các cảnh trong Cựu Ước và Tân Ước, với các màu chính là đỏ, cam và vàng.
Tại Chủng viện Pháp
Nhiều cơ quan trong giáo triều, nhiều nhà dòng trên thế giới đã nhờ linh mục Rupnik trang trí như Dòng Tên, Dòng Thánh Mẫu hay dòng các nữ tu Thánh Tâm Chúa Giêsu. Các chủng sinh Pháp đang học ở Rôma ngắm các tranh này trong nhà nguyện, trong phòng ăn của họ. Các Giáo hoàng Học viện, các phòng khám đa khoa, các giáo xứ cũng có các bức tranh này và danh sách còn dài.
Một hồng y của giáo triều bực mình: “Chúng tôi sẽ không loại bỏ các tác phẩm này, không có lý do gì để làm như vậy. Quý vị tưởng tượng nếu chúng tôi làm việc này với các tranh của Michelangelo không?” Một lập luận chúng ta thường thấy với các tác phẩm của danh họa Caravaggio, bị buộc tội là kẻ giết người và bị một số người buộc tội ông là kẻ ấu dâm. Hai tài liệu tham khảo được bộ trưởng Ruffini nhắc đến ở Atlanta.
Lộ Đức sẽ sớm đưa ra quyết định
Trong dịp kỷ niệm 150 năm Đức Mẹ hiện ra, mặt tiền thánh đường Đức Mẹ Mân Côi trang trí bằng các bức tranh khảm khổng lồ về các mầu nhiệm của Kinh Mân Côi được đặt hàng từ xưởng của Marko Rupnik.
Mùa xuân năm 2023, các bức khảm này là chủ đề của việc bàn luận nên giữ nguyên vị trí, loại bỏ hoặc che giấu vì Lộ Đức được cho là nơi an ủi cho các nạn nhân của bạo lực tình dục trong Giáo hội. Các giám mục, các viện trưởng, nạn nhân, chuyên gia về nghệ thuật thiêng liêng và nhà trị liệu tâm lý đã thành lập ủy ban nghiên cứu. Quyết định này dự kiến sẽ sớm được công bố. Giám mục Jean-Marc Micas đã gặp Đức Phanxicô ngày 21 tháng 6 tại Rôma nhưng không biết vấn đề này có được đem ra thảo luận hay không.
Hôm 24 tháng Sáu vừa qua, Hãng tin Công giáo Đức KNA cho biết trong một thư chung gửi Thủ tướng Israel Netanyahu, nhiều vị lãnh đạo Kitô tố giác “một cuộc tấn công có phối hợp chống lại sự hiện diện của Kitô giáo tại Thánh địa. Chiến dịch này đạt tới mức độ chưa từng có.”
Trong số các vị ký tên vào thư chung đó, có Đức Thượng phụ Pierbattista Pizzaballa, Đức Thượng phụ Theophilos III, Giáo chủ Chính thống Hy Lạp ở Jerusalem. Các vị khẳng định quyền về mặt lịch sử và pháp lý cũng như những thỏa thuận hiện hữu. Chính quyền các thành phố ở Israel đã vi phạm quy luật gọi là “Status quo” đã có từ lâu, điều hành sự hiện hữu và hoạt động của các Giáo hội Kitô tại Thánh địa, theo đó các tài sản của Giáo hội được miễn các thuế thành phố từ thời Ottoman cũng như miễn thuế cho các dịch vụ xã hội do các Giáo hội cung cấp. Giáo hội đầu tư vào các tổ chức, như vườn trẻ, trường học, các nhà dưỡng lão và nhà thương để mưu ích cho xã hội nói chung, vì thế Giáo hội bổ túc cho các công việc của nhà nước.
Đức Hồng y Thượng phụ Pizzaballa và các vị lãnh đạo Kitô khác mô tả thời điểm tăng thuế của các chính quyền thành phố là điều gây sốc. Các Giáo hội đang ở trong thời kỳ kinh tế khó khăn, tám tháng rồi không có các tín hữu hành hương và đang sống trong tình trạng bấp bênh. “Thay vì kiên nhẫn, cảm thông, hiệp nhất trong việc cầu nguyện và hy vọng, thì các biện pháp tăng thuế được đưa ra với những đe dọa.
Thư của các vị lãnh đạo Kitô cũng nhắc đến vụ leo thang tranh chấp hồi năm 2018, khi các Giáo hội đóng cửa Đền thờ Thánh Mộ ba ngày để phản đối yêu cầu của Israel và hành động tương tự như thế đã xảy kể từ khi lập quốc Israel, hồi năm 1948. Một ủy ban đã được thiết lập hồi đó để giải quyết trong việc đối thoại với các Giáo hội. Nay các Giáo hội cũng hy vọng vấn đề này được giải quyết, chính quyền thành Jerusalem thu hồi quyết định đánh thuế và duy trì Qui chế Status quo, để tránh cuộc khủng hoảng đáng tiếc với các Giáo hội.
Trọng tâm của Giáo hội Công giáo tập trung vào phần mộ Thánh Phêrô, nơi ngay sau khi vị Tông đồ cả qua đời đã thu hút khách hành hương và tín hữu. Theo thời gian, ký ức về Thánh nhân đã trở thành trọng tâm thu hút của Đền thờ, nơi với cuộc nghiên cứu khảo cổ do Đức Giáo Hoàng Piô XII và sau đó là Thánh Giáo hoàng Phaolô VI mong muốn, đã trở thành một sự hiển nhiên cụ thể.
Qua Vatican News, Giáo sư Viện Khảo cổ Kitô của Toà Thánh Vincenzo Fiocchi Nicolai ôn lại những sự kiện của những khám phá này, một trong những sự kiện nổi bật nhất trong lịch sử khảo cổ học. Nhân vật chính của cuộc khám phá này là bà Marguerita Guarducci, giáo sư khảo cổ chuyên đọc các chữ vạch trên tường.
Từ đỉnh mái vòm của Michelangelo, một sợi dây vô hình đi thẳng xuống và xuyên qua ánh sáng, chìm trong bóng tối dưới lòng đất, bao trùm hàng thế kỷ lịch sử và các giai đoạn xây dựng. Ở phía dưới, trên nền đất trống là nơi có hài cốt Thánh Phêrô, cách không xa nơi Thánh nhân chịu tử đạo trong khu vực giải trí của Nero. Thánh Phêrô được chôn cất tại nghĩa trang Ager Vaticanus giữa nhiều người vô danh và nghèo khổ như ngài. Không có dấu hiệu nào được lưu giữ trong kho lưu trữ của Đế quốc La Mã liên quan đến tội nhân người Galilê tầm thường này. Tuy nhiên, ký ức thì mạnh mẽ hơn, các Kitô hữu đã giữ dấu vết của địa điểm cực kỳ linh thiêng này, một địa điểm hành hương từ gần hai thiên niên kỷ qua.
Qua nhiều thế kỷ, xung quanh phần mộ, một ngôi thánh đường được hình thành. Đây là trường hợp duy nhất trong thế giới Kitô giáo: thánh đường được xây dựng trực tiếp trên mộ của vị tử đạo, và trong trường hợp này là Thánh Phêrô, Giám mục tiên khởi của Giáo hội Roma.
Ngôi mộ Thánh Phêrô là một câu chuyện phức tạp. Theo thời gian, ký ức trở thành niềm xác tín, cho đến năm 1939, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã quyết định tiến hành các cuộc khảo cổ, mặc dù điều kiện khách quan không thuận tiện.
Tìm được mộ phần của Thánh Phêrô
Trong sứ điệp phát thanh ngày 23/12/1950, dịp bế mạc Năm Thánh, khi công bố mộ Thánh Phêrô đã được tìm thấy, Đức Giáo Hoàng Piô XII nói: “Nhưng câu hỏi thiết yếu là: Mộ của Thánh Phêrô có thực sự được tìm thấy không? Kết luận cuối cùng của công việc và nghiên cứu trả lời câu hỏi này rất rõ ràng là ‘Có’. Mộ của Hoàng tử các Tông đồ đã được tìm thấy”.
Giáo sư Vincenzo Fiocchi Nicolai cho biết về sự kiện quan trọng này: “Sự hiện diện của mộ Thánh Phêrô được chứng minh dựa trên nhiều yếu tố. Bởi vì ngay bên dưới bàn thờ của cuối thế kỷ XVI, người ta đã tìm thấy: ngoài một bàn thờ thời trung cổ, có quan tài bằng cẩm thạch rất đẹp do Constantine thực hiện để chỉ ra rằng có một ngôi mộ được tìm thấy bên dưới. Ngôi mộ này giống với những ngôi mộ khác có niên đại từ những thập kỷ cuối của thế kỷ I và bắt đầu thế kỷ thứ II sau Công Nguyên. Trên cơ sở này và những yếu tố khác, như những nét vẽ trên tường chứng thực đây là mộ phần của vị Tông đồ”.
Khám thờ của Gaio
Trong hoạt động khai quật này, giáo sư Fiocchi Nicolai cũng đề cập đến một khám thờ của Gaio. Đó là một công trình kiến trúc nhỏ dưới hình thức một nhà nguyện nhỏ, với các hàng cột, trong đó chứa hài cốt của Thánh Phêrô. Theo giáo sư, những khám thờ này là những yếu tố mang tính khải hoàn và chiến thắng đánh dấu ngôi mộ vị Tông đồ tử đạo. Vì thế có thể xác định niên đại của công trình này dựa trên đoạn văn của Eusebio đặt Gaio vào thời của Giáo hoàng Zefirino, khoảng thời gian từ năm 198 đến 217. Trên cơ sở khảo cổ học, toà nhà này đã hiện diện trong thời điểm đó, và có thể xác định niên đại của nó vào khoảng những năm 60 của thế kỷ thứ II. Chắc chắn đây chính là nơi đánh dấu ngôi mộ.
Những nét vẽ trên tường xác thực “Phêrô ở đây”
Cũng trong sứ điệp phát thanh ngày 23/12/1950, sau khi công bố mộ Thánh Phêrô đã được tìm thấy, Đức Giáo Hoàng Piô XII tiếp tục giải thích rằng không thể khẳng định các xương được tìm thấy cùng với nhiều xương khác ở nghĩa địa của thế kỷ thứ nhất này thuộc về Thánh Phêrô.
Từ đó bắt đầu một trong những sự kiện thu hút mọi người nhất trong lịch sử khảo cổ học và nhân vật chính là một phụ nữ, sinh vào đầu thế kỷ XX, một nhà khảo cổ học Margherita Guarducci.
Là một chuyên gia về các dòng chữ do bàn tay con người tạo ra, bà Margherita Guarducci đã nghiên cứu nhiều câu khắc được tìm thấy trên các bức tường của khám thờ Gaio Khải hoàn, có niên đại từ năm 160. Theo bà, những nét vẽ trên tường rất quan trọng vì chúng thể hiện lòng mộ đạo của các tín hữu tiên khởi khi đến đây để tôn vinh ký ức về vị Giáo hoàng tiên khởi.
Giáo sư Guarducci giải thích trên những hình vẽ trên tường màu đỏ có thể thấy những mảnh với các câu khắc khác nhau, trong số đó có “Petros eni”, trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “Phêrô ở đây” hoặc “Phêrô yên nghỉ”.
Tìm được hài cốt của Thánh Phêrô
Trong quá trình khai quật, gần dòng chữ này các chuyên gia tìm được một chiếc hộp bằng đá porphyry được trang trí quý giá, được đặt vào một cái lỗ đào trên bức tường của khám thờ Gaio, nhưng bên trong không có gì.
Bà Margherita Guarducci tiến hành một cuộc điều tra bí mật và đã thu hồi được những mảnh xương qua lời khai của một trong những người đã tham gia vào cuộc khai quật trong những năm đầu tiên khám phá. Người này cho biết trong quá trình dọn dẹp, có một hộp gỗ trong đó có những mảnh xương đã được lấy đi nhưng những nhà khảo cổ không biết. Những mảnh xương này được xác định là của một người đàn ông có độ tuổi từ 60 đến 70, sống và làm việc ngoài trời nhiều, với chứng bệnh khớp.
Công bố tin vui
Trong buổi tiếp kiến chung ngày 26/6/1968, Thánh Giáo hoàng Phaolô VI nhắc lại các cuộc thẩm tra và nghiên cứu trước đó đồng thời nhấn mạnh rằng “Việc nghiên cứu, xác minh và thảo luận sẽ không kết thúc với điều này”, đã công bố “tin vui”: “Chúng ta càng phải vui mừng hơn vì chúng ta có lý do để tin rằng chúng ta đã tìm thấy tung tích phàm trần nhỏ bé nhưng rất thánh của Hoàng tử các Tông đồ, của Simon con ông Giôna, của người đánh cá được Chúa Kitô gọi là Phêrô, của người đã được Chúa Chúa Kitô chọn là nền móng của Giáo hội, người được Chúa giao phó chìa khóa vương quốc Người, với sứ vụ chăn dắt và hiệp nhất đàn chiên Người, nhân loại được cứu chuộc, cho đến ngày Người trở lại vinh hiển”.
Từ các thánh tích được đặt trong phần mộ dưới Đền thờ Thánh Phêrô, Thánh Giáo hoàng Phaolô VI đã lấy 9 mảnh để đặt trong nhà nguyện trong căn hộ Giáo hoàng ở dinh Tông tòa. Trong Thánh lễ bế mạc Năm Đức Tin vào ngày 24/11/2013, theo ý muốn của Đức Thánh Cha Phanxicô, tại sân Đền thờ Thánh Phêrô hộp thánh tích này được mở ra và đặt bên cạnh bàn thờ.
Thánh tích được trao tặng, một biểu tượng hiệp nhất
Ngày 29/6/2019, khi phái đoàn của Toà Thượng Phụ Bartolomaios của Giáo hội Chính thống Constantinople đến thăm Vatican, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tặng các mảnh xương Thánh Phêrô cho Đức Thượng Phụ. Trong thư gửi đến vị lãnh đạo Giáo hội Chính thống này, Đức Thánh Cha viết: “Các xương được tìm thấy dưới đền thờ Vatican được xem là xương của thánh Phêrô”. Tôi muốn tặng cho ngài và cho Giáo hội Constantinople mà ngài tận tâm lãnh đạo, chính cái hộp có chứa 9 mảnh xương của thánh Tông đồ này”.
Giải thích cho cử chỉ này, Đức Thánh Cha nói khi ngài suy tư về quyết định chung tiến tới sự hiệp thông trọn vẹn của Giáo hội, ngài nhớ đến món quà mà Đức Thượng Phụ Athenagoras đã tặng cho Thánh Phaolô VI. Đó là bức vẽ hai Thánh Phêrô và Anrê đang ôm nhau, liên kết trong đức tin và tình yêu của Chúa của các ngài. Đức Thánh Cha cảm thấy thật là ý nghĩa khi vài mảnh thánh tích của Thánh Phêrô được đặt bên cạnh thánh tích của thánh Anrê, thánh bổn mạng của Giáo hội Chính thống Constantinople.
Cử chỉ được Chúa Thánh Thần soi sáng, được Đức Thánh Cha xem như là lời khẳng định về hành trình mà các Giáo hội cùng đi với nhau, trong một phúc lành, trong cầu nguyện chung, để tiến đến gần nhau hơn, để phục vụ cho một gia đình nhân loại mà ngày nay đang muốn xây dựng một tương lai không có Thiên Chúa.
Một sợi chỉ không bị đứt đoạn
Khảo cổ học là một ngành khoa học dựa trên những bằng chứng rõ ràng, nhưng chính những suy luận thường có khả năng tái tạo lịch sử. Trong trường hợp của phần mộ và xương của Thánh Phêrô, những yếu tố hội tụ xung quanh khu vực bàn thờ tuyên xưng đức tin tái khôi phục một bức tranh sự thật, bởi vì ngoài những dấu vết xác định được, điều quyết định là đức tin. Đức tin được phân tầng qua nhiều thế kỷ của hàng ngàn tín hữu hành hương, các Giáo hoàng và các thánh, những người đã cùng nhau dệt nên sợi dây ký ức và không bị đứt đoạn.
Kể từ những năm 1980, mọi người đã có thể tiếp cận các cuộc khai quật của Đền thờ Thánh Phêrô, mang đến cho các tín hữu một cuộc hành hương thực sự ngày càng gần với thời tiên khởi của Giáo hội.
Hôm 27 tháng Sáu vừa qua, Hội đồng Giám mục Đức công bố thống kê cho biết con số trên đây, tính đến ngày 31 tháng Mười Hai năm ngoái. Con số này thấp hơn năm trước đó. Năm 2022, có gần 523.000 người Công giáo rời bỏ Giáo hội, một con số kỷ lục trong lịch sử Giáo hội tại nước này. Nếu tính cả con số những tín hữu qua đời, và gia nhập Giáo hội, thì trong năm qua, Giáo hội Công giáo Đức suy giảm gần 592.000 tín hữu, và tổng số tín hữu Công giáo tại nước này là 20 triệu 345.000 tín hữu. Nếu tính từ năm 2019, là năm bắt đầu Con đường Công nghị của Công giáo Đức, thì đã có một triệu 800.000 tín hữu xin ra khỏi Giáo hội.
Giáo hội Công giáo Đức trong năm ngoái, có 11.702 linh mục, tức là giảm 285 linh mục so với năm 2022 trước đó. Trong năm ngoái, có 38 tân linh mục, gồm 34 linh mục triều và 4 linh mục dòng. Tỷ lệ giáo dân tham dự các buổi lễ ở nhà thờ có phần gia tăng so với năm trước đó, tức là 6,2%, so với 5,7%.
Về phía Tin lành: năm ngoái có 380.000 tín hữu rời bỏ Giáo hội, và số người qua đời là 340.000 người. Tỷ lệ Tin lành xin ra khỏi Giáo hội năm ngoái tăng gần 2% so với năm 2022. Như vậy, tính đến cuối năm ngoái, tại Đức, có 18 triệu 600.000 tín hữu thuộc 20 Giáo hội tiểu bang.
Đứng trước những con số của Giáo hội Công giáo, Đức cha Georg Bätzing báo động và nói rằng: “Những dữ kiện đó cho thấy Giáo hội lâm vào trong một cuộc khủng hoảng sâu rộng. Tuy nhiên, cam chịu, co cụm hoặc lo lắng không phải là câu trả lời cho tình trạng đó. Dù trở nên nhỏ bé hơn, Giáo hội vẫn có sứ mạng loan báo Tin mừng, loan báo Thiên Chúa yêu thương, sáng tạo và giải thoát. Giáo hội cần cấp thiết cải tổ để phục hồi sự tin tưởng của các tín hữu nơi khả năng thay đổi của Giáo hội. Nguyên các cuộc cải tổ mà thôi, vẫn không đủ đề loại bỏ tình trạng khủng hoảng của Giáo hội, nhưng những cuộc khủng hoảng sẽ trở nên trầm trọng hơn, nếu Giáo hội không cải tổ. Vì thế, cần cấp thiết thay đổi. Các nghiên cứu cho thấy rằng dân ở Đức trước sau vẫn đặt nhiều mong đợi nơi Giáo hội, trong lãnh vực xã hội hoặc giáo dục. Chúng ta phải để ý đến những mong đợi và để ý đến các lãnh vực, khi chúng ta tự hỏi đâu là những ưu tiên chúng ta cần thực hiện, một khi các tài nguyên trở nên ít ỏi hơn”.
Đức cha Bätzing cổ võ nghiên cứu những lãnh vực tương lai, đưa Giáo hội đến gần hơn cuộc sống cụ thể của con người và các gia đình.
Như một phần của cuộc giằng co đang diễn ra với các Giám mục Đức về con đường cải cách gây tranh cãi của đất nước, Vatican đã yêu cầu thực hiện một số thay đổi đối với cơ quan Giáo hội quốc gia mới mà các quan chức Giáo triều cho rằng không có nền tảng trong Giáo luật.
Trong một tuyên bố vào ngày 28 tháng 6 sau một ngày làm việc kéo dài với các đại diện của Hội đồng Giám mục Đức (DBK), Vatican cho biết cuộc thảo luận kéo dài cả ngày và “một lần nữa được đặc trưng bởi một bầu khí tích cực, cởi mở và mang tính xây dựng”.
Cuộc thảo luận diễn ra sau một cuộc họp tương tự được tổ chức vào ngày 22 tháng 3, là một phần của cuộc đối thoại sâu rộng hơn bắt đầu vào năm 2022 trong bối cảnh của một cuộc tham vấn quốc gia của các tín hữu Công giáo Đức được gọi là “Con đường Công nghị”, và sau khi các quan chức trong DBK phớt lờ những cảnh báo của Vatican về việc ngừng và hủy bỏ một số dự án nhất định.
Trong cuộc họp vào tháng 3, Vatican đã vạch ra một đường lối cứng rắn, yêu cầu các Giám mục Đức cam kết tôn trọng Giáo luật và trao cho Tòa Thánh tiếng nói cuối cùng về bất kỳ cải cách nào được đề xuất.
Vatican cho biết lời hứa này là nền tảng của cuộc gặp gỡ trong ngày.
Cụ thể, tuyên bố cho biết rằng họ đã thảo luận về “các hình thức cụ thể của việc thực thi tính công nghị trong Giáo hội ở Đức, phù hợp với Giáo hội học của Công đồng Vatican II, các quy định của Giáo luật, và thành quả của Thượng Hội đồng của Giáo hội hoàn vũ, để được trình lên Tòa Thánh phê chuẩn”.
Trong cuộc thảo luận hôm thứ Sáu, các Giám mục đã cung cấp cho các quan chức Vatican thông tin cập nhật về cuộc họp gần đây nhất của Ủy ban Thượng hội đồng, một cơ quan gây tranh cãi có nhiệm vụ thành lập một Hội đồng Thượng Hội đồng đang được bàn cãi, được coi là cơ quan quản lý mới của Giáo hội ở Đức bao gồm cả giáo dân lẫn Giám mục.
Về điểm này, “các nền tảng thần học và khả năng hiện thực hóa pháp lý của một cơ quan quốc gia đã được thảo luận”, tuyên bố cho biết.
Cuộc họp hôm thứ Sáu, tuyên bố cho biết, “tập trung vào mối quan hệ giữa việc thực thi thừa tác vụ Giám mục và việc thúc đẩy tính đồng trách nhiệm của mọi tín hữu, và đặc biệt, về các khía cạnh của Giáo luật đối với việc thiết lập một hình thức đồng nghị cụ thể trong Giáo Hội ở Đức”.
“Mong muốn và cam kết tăng cường tính đồng nghị trong đời sống của Giáo hội, nhằm hướng tới việc truyền giáo hiệu quả hơn, được chia sẻ”, tuyên bố cho biết.
Là một phần của cuộc đối thoại đang diễn ra giữa các Giám mục Đức và Vatican, theo tuyên bố, một ủy ban mới sẽ được thành lập bởi Ủy ban Thượng Hội đồng để giải quyết cụ thể “các câu hỏi liên quan đến tính đồng nghị và cơ cấu của một cơ quan đồng nghị”.
Ủy ban này, tuyên bố cho biết, sẽ hợp tác chặt chẽ với một ủy ban tương tự về phía Vatican bao gồm các đại diện từ các văn phòng Giáo triều có thẩm quyền, để đề xuất một dự thảo về chủ đề này.
Theo tuyên bố, hôm thứ Sáu, các quan chức Giáo triều đã yêu cầu các Giám mục Đức “thay đổi tên và trong một số khía cạnh của đề xuất đã được đưa ra trước đó về một cơ quan đồng nghị quốc gia có thể có”.
“Về quan điểm của cơ quan này, có sự nhất trí rằng trên thực tế là nó không ở trên cũng như không ngang hàng với Hội đồng Giám mục quốc gia”, tuyên bố cho biết, đồng thời làm rõ rằng dù cơ quan này nắm giữ bản chất nào đi nữa, nó sẽ không thể bãi bỏ Hội đồng Giám mục.
Hôm thứ Sáu, thành phần tương lai của phái đoàn DBK tham gia vào cuộc đối thoại đang diễn ra với Vatican cũng đã được thảo luận.
Các đại diện của Giáo triều Rôma bao gồm các Đức Hồng y Victor Manuel Fernandéz, Tổng Trưởng Bộ Giáo lý Đức tin; Đức Hồng y Kurt Koch, Tổng Trưởng Thánh Bộ Cổ võ sự Hiệp nhất Kitô giáo; Đức Hồng y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Vatican; Đức Hồng y Robert Prevost, Tổng Trưởng Bộ Giám mục; Đức Hồng y Arthur Roche, Tổng Trưởng Bộ Phụng tự; và Đức Tổng Giám mục Filippo Iannone, Tổng Trưởng Bộ các Văn bản Luật.
Về phía Đức, các tham dự viên bao gồm các Đức Giám mục Georg Bätzing Địa phận Limburg; Đức Giám mục Stephan Ackermann Địa phận Trier; Đức Giám mục Bertram Meier Địa phận Augsburg; và Đức Giám mục Franz-Josef Overbeck Địa phận Essen, những người lần lượt giữ các chức vụ là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức, và Chủ tịch các Ủy ban Giám mục về Phụng vụ, về Giáo hội Hoàn vũ và về Đức tin.
Tổng thư ký Hội đồng Giám mục Đức, bà Beate Gilles; và phát ngôn viên của Hội đồng Giám mục Đức, ông Matthias Kopp, cũng có mặt.
Cuộc họp hôm thứ Sáu diễn ra sau khi Vatican hồi đầu năm nay đưa ra chỉ thị cho các Giám mục Đức tạm dừng cuộc bỏ phiếu về các quy chế của Ủy ban Thượng Hội đồng và đe dọa hành động Giáo luật nếu họ không tuân thủ.
Là một phần của Đại hội đồng từ ngày 19-22 tháng 2 tại Augsburg, khoảng 60 thành viên của DBK tham dự đã được lên kế hoạch để xem xét kết quả của quá trình cải cách “Con đường Công nghị” đã kết thúc gần đây của họ và bỏ phiếu về các quy chế của “Ủy ban Thượng Hội đồng” vốn có nhiệm vụ thành lập một “Hội đồng Thượng Hội đồng” quốc gia mới.
Tuy nhiên, các Giám mục đã ngưng tổ chức bỏ phiếu sau khi nhận được lá thư từ Vatican đe dọa sẽ có các biện pháp trừng phạt nếu họ tiếp tục tiến hành.
Ý tưởng thành lập Hội đồng Thượng Hội đồng, một cơ quan điều hành bao gồm cả các Giám mục lẫn giáo dân sẽ giám sát lâu dài Giáo hội ở Đức, đã được thông qua trong phiên họp toàn thể lần thứ tư của “Con đường Công nghị” của Đức vào tháng 9 năm 2022, với mục đích đưa ra “các quyết định cơ bản có tầm quan trọng cấp Giáo phận”.
Hội nghị đó cũng đã phê chuẩn một “Ủy ban Thượng Hội đồng”, do Đức Giám mục Georg Bätzing Địa phận Limburg, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức, đồng chủ trì, và một giáo dân, có nhiệm vụ cụ thể là thành lập Hội đồng Thượng Hội đồng để hoạt động vào năm 2026.
Vào tháng 1 năm ngoái, những người đứng đầu một số cơ quan chính của Vatican đã viết một lá thư cho các Giám mục Đức phủ quyết Hội đồng Thượng Hội đồng với lý do rằng nó tạo thành một hình thức thẩm quyền Giáo hội mới không được công nhận về mặt Giáo luật, và về cơ bản sẽ tiếm quyền của Hội đồng Giám mục quốc gia.
Vào thời điểm đó, các Giám mục Đức đã phớt lờ những lời cảnh báo của Vatican, đồng thời tuyên bố trong hội nghị mùa xuân vào tháng 3 năm 2023 rằng kế hoạch thành lập Ủy ban Thượng Hội đồng vẫn đang được xúc tiến.
Đức Thánh Cha Phanxicô và một số người đứng đầu Thánh Bộ trong Giáo triều Rôma đã nhiều lần can thiệp vào tiến trình Công nghị của các Giám mục Đức, được khởi động với mục đích cải tổ các cơ cấu Giáo hội để ứng phó tốt hơn với các vụ giáo sĩ bê bối lạm dụng trong nước.
Quá trình này nhanh chóng trở thành điểm thu hút các đề xuất chấm dứt tình trạng độc thân Linh mục, cho phép truyền chức Linh mục cho phụ nữ, chấp thuận rộng rãi các phép lành cho các cặp đồng giới, và trao quyền cho phụ nữ cử hành Bí tích rửa tội.
Vào năm 2019, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết một lá thư gửi các Giám mục Đức cảnh báo rằng quá trình cải cách của họ có nguy cơ làm rạn nứt sự hiệp nhất của giáo hội, và sau đó ngài đã chỉ trích các đề xuất của cả Ủy ban Thượng Hội đồng lẫn Hội đồng Thượng Hội đồng trong một lá thư vào tháng 11 năm 2023 gửi các nhà thần học Đức chỉ trích tiến trình cải cách quốc gia, đồng thời cho biết rằng những cơ quan này “không thể hòa hợp với cơ cấu mang tính Bí tích của Giáo hội”.
Một trong những mối bận tâm chính đối với Hội đồng Thượng Hội đồng là nó sẽ tạo thành một cơ quan quản lý mới của Giáo hội không được Giáo luật công nhận và về cơ bản sẽ tiếm quyền của Hội đồng Giám mục quốc gia.
Một phần quyền hạn của Ủy ban Thượng Hội đồng cho phép họ thông qua các nghị quyết với đa số đơn thuần là 2/3. Chỉ với 23 Giám mục thành viên trong ủy ban, sau khi 4 người từ chối tham gia, hơn một nửa trong số 70 thành viên của cơ quan là giáo dân, có nghĩa là về mặt lý thuyết, các nghị quyết có thể được thông qua mà không cần sự chấp thuận của bất kỳ Giám mục nào trong nước.
Khi các Giám mục Đức đến thăm Vatican trong chuyến viếng thăm Ad limina thường kỳ vào tháng 11 năm 2022, các thành viên của Giáo triều Rôma đã đề xuất một lệnh tạm dừng tiến trình này, tuy nhiên thay vào đó họ đã đồng ý rằng một cuộc đối thoại đang diễn ra sẽ được thiết lập với các cuộc họp thường kỳ.
Cuộc họp đầu tiên diễn ra tại Vatican vào ngày 26 tháng 7 năm 2023 và cuộc thảo luận sâu hơn về các chủ đề cải cách quan trọng đã diễn ra trong phiên họp đầu tiên vào tháng 10 năm 2023 của Thượng Hội đồng Giám mục về Hiệp hành, với phiên họp thứ hai và cuối cùng sẽ diễn ra trong năm nay.
Trong cuộc họp gần đây của họ vào tháng 3, các quan chức Vatican đã vạch ra một đường lối cứng rắn, yêu cầu các Giám mục Đức cam kết rằng bất kỳ cuộc cải cách Giáo hội quốc gia nào cũng sẽ không vi phạm Giáo luật, và sẽ không có biện pháp mới nào được thông qua nếu không có sự chấp thuận trước của Tòa Thánh.
Cuộc gặp gỡ tiếp theo giữa các đại diện của Giáo triều Rôma và các Giám mục Đức sẽ diễn ra sau khi kết thúc phiên họp thứ hai và cuối cùng tại Rôma của Thượng Hội đồng Giám mục về Hiệp hành, dự kiến kéo dài trong suốt tháng 10.
Đức Hồng y Rainer Maria Woelki
Đức Hồng y Woelki đưa ra lời kêu gọi trên đây, trong sứ điệp Video đăng trên trang mạng Tổng giáo phận của ngài, hôm 29 tháng Sáu vừa qua. Đức Hồng y nhắc lại lá thư dài mười chín trang Đức Thánh cha Phanxicô đã dành một tháng trời, trong những giờ rảnh rỗi, để tự tay viết lấy cách đây đúng năm năm. Nhưng hơn một lần Đức Thánh cha đã than phiền rằng lá thư của ngài không được các tín hữu Công giáo Đức để ý, dù ngài đã lặp đi lặp lại rằng lá thư này là điều ngài xác tín là quan trọng.
Đức Hồng y Woelki nói: “Chúng ta hãy thành thực: ai đã thực sự đọc lá thư này của Đức Giáo hoàng?”
Ngày 29 tháng Sáu năm 2019, Đức Thánh cha đã gửi lá thư “cho dân Chúa lữ hành ở Đức”, trong đó ngài nói đến tiến trình cải tổ mà Con đường Công nghị của Công giáo Đức đề ra, lúc ấy Con đường này còn ở trong giai đoạn hoạch định và nay tiến trình đó kết thúc, và tìm cách thi hành. Một đàng, Đức Thánh cha ca ngợi sự dấn thân và nỗ lực cải tổ của Công giáo Đức, nhưng đồng thời ngài kêu gọi hãy hiệp nhất với Giáo hội hoàn vũ. Thư này đã tạo nên một sự ngạc nhiên trong nội bộ Giáo hội, cả những người chống đối lẫn ủng hộ Con đường Công nghị đều cảm thấy được khích lệ nhờ lá thư, trong đó có Đức Hồng y Woelki.
Những đề nghị do Con đường Công nghị đưa ra cho đến nay đang tạo nên sự tranh chấp giữa các tín hữu Công giáo Đức và Đức Giáo hoàng Phanxicô, như người ta thấy trong cuộc đối thoại vòng ba, hôm thứ Sáu vừa qua, ngày 27 tháng Sáu, giữa các giám mục Đức và các hồng y liên hệ tại Tòa Thánh.
Trong Video mới, Đức Hồng y Woelki nhận định rằng với lá thư cách đây năm năm, Đức Thánh cha mời gọi dấn thân loan báo Tin mừng là sứ mạng cốt yếu của Giáo hội. Đức Hồng y nói: “tôi thiết nghĩ: chúng ta phải lắng nghe và cấp thiết thực thi ước muốn của Đức Thánh cha, quanh chúng ta cũng như trong Giáo hội Công giáo Đức. Chỉ như thế, Giáo hội tại nước này mới có tương lai”.
Cùng hiện diện tại bàn chủ tọa cuộc họp báo, còn có Đức Hồng y Jean-Claude Hollerich, Dòng Tên, Tường trình viên của Thượng Hội đồng Giám mục, đồng thời có hai vị Tổng thư ký đặc biệt của Thượng Hội đồng Giám mục lần này.
Cộng tác vào việc soạn Tài liệu Làm việc này, có hai mươi nhà thần học nam nữ, từ nhiều nơi trên thế giới, hoạt động từ ngày 04 tháng Sáu vừa qua, dựa trên những suy tư nảy sinh từ bản tường trình đúc kết khóa họp thứ nhất, hồi tháng Mười năm ngoái (2023). Tất cả những tài liệu và phúc trình của các Giáo hội địa phương được gửi về Roma, cả những chứng từ về tính đồng hành, hay hiệp hành, và việc thực thi tinh thần này. Giáo hội đồng hành không còn là một giấc mơ cần thực hiện, nhưng đang là một thực tại sinh động, tạo nên những sáng tạo và những kiểu mẫu tương quan mới giữa lòng Giáo hội địa phương hoặc các nhóm Giáo hội khác nhau.
Mở đầu thư Đức Thượng phụ Bartolomeo viết: “Giữa những biến động và khó khăn của thời đại chúng ta, Thiên Chúa đã ban cho chúng tôi một lần nữa cơ hội để bày tỏ những lời chào huynh đệ của chúng tôi tới Đức Thánh Cha nhân dịp Lễ trọng hai Tông đồ Phêrô và Phaolô, lễ Bổn Mạng của Giáo hội Rôma...”. “Hàng năm, vào ngày này, chúng tôi cảm nhận được sự củng cố của mối dây bác ái đầy phúc lành giữa chúng ta, một mối dây thúc đẩy và truyền cảm hứng cho chúng ta trên con đường hướng tới sự hiệp nhất trọn vẹn”.
Gương mẫu hiệp nhất của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô
Theo Đức Thượng phụ, sự hiệp nhất trong lý trí và con tim của hai thánh Tông đồ “là mẫu mực và kiểu mẫu tuyệt vời về sự hiệp nhất cho tất cả chúng ta”, và mục tiêu của chúng ta phải là chia sẻ đầy đủ “sự hiệp nhất của Thánh Thần trong mối liên kết hòa bình” thông qua việc tái lập sự hiệp thông Thánh Thể.
Hiệp hành
Đức Thượng phụ nhắc đến những nỗ lực của Đức Thánh Cha nhằm củng cố và đào sâu sự hiểu biết thần học và thực tiễn về tính hiệp hành trong đời sống của Giáo hội. Đây cũng là điều Giáo hội Chính Thống Constantinople đã khẳng định trong Thánh Hội đồng được tổ chức tại Crete vào năm 2016.
Đối thoại thần học trong tự do và cởi mở
Ngài cũng nhắc đến kết quả công việc của Ủy ban Quốc tế về Đối thoại Thần học giữa hai Giáo hội, việc khởi đầu quá trình soạn thảo hai tài liệu liên quan đến các vấn đề lịch sử và thần học liên quan đến mệnh đề Filioque (và bởi Chúa Con) trong Kinh Tin Kính và “tính bất khả ngộ của Đức Giáo Hoàng”. Theo ngài, “điều này đánh dấu một bước quan trọng trong Đối thoại, nơi chúng ta có thể tự do và cởi mở tiếp cận các vấn đề đã chia rẽ chúng ta từ lâu, mà bây giờ không cần dùng đến những cuộc bút chiến vô căn cứ và mang tính phá hoại, nhưng cùng nhau tìm kiếm, với lòng khiêm tốn và tình yêu, con đường dẫn đến sự chữa lành và sự thật”.
Chứng tá đối thoại, hòa bình và hòa giải của Đức Thánh Cha
Đức Thượng phụ cũng cảm ơn chứng tá của Đức Thánh Cha như một công cụ đối thoại, hòa bình và hòa giải trên toàn thế giới. Ngài viết: “Trong thời điểm chiến tranh và đau thương này, đặc biệt là ở Ucraina và Trung Đông, Đức Thánh Cha đã tỏa sáng như một người ủng hộ không mệt mỏi cho việc chấm dứt xung đột”. “Đức Thánh Cha là một gương mẫu quý giá của việc rao giảng nhiệt thành về hòa bình ở đây và bây giờ trên toàn thế giới”.
Hướng đến lễ kỷ niệm chung: kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nixêa
Cuối thư, Đức Thượng phụ Bartolomeo tái khẳng định sự dấn thân để tái lập “mối hiệp thông giữa chúng ta”. Ngài cho biết cũng nóng lòng chờ đợi với niềm hân hoan thiêng liêng “về lễ kỷ niệm chung của chúng ta, vào năm 2025, kỷ niệm 1700 năm Công đồng Đại kết đầu tiên được tổ chức tại Nixêa”.
Trong năm 2023, “Đồng tiền thánh Phêrô” quyên góp được là 52 triệu Euro, trong khi số chi là 109 triệu 400.000 Euro, tức là quá gấp đôi. Mức lạc quyên này đã trở lại mức độ gần bằng 54 triệu Euro trước thời đại dịch Covid-19, và tăng thêm 8,5 triệu Euro so với năm 2022.
Số thu cho đồng tiền này đến từ ba cách thức khác nhau: trước tiên là các cuộc lạc quyên tại tất cả các nhà thờ trên thế giới, nhân lễ kính hai thánh tông đồ và được chuyển về Tòa Thánh, qua các Tòa Sứ thần và Khâm sứ Tòa Thánh. Trong năm qua, các giáo phận đã góp phần vào “Đồng tiền thánh Phêrô” là 31,2%, số tiền dâng cúng của các ân nhân riêng là 2,1%, các ngân quỹ giúp Đức Thánh cha là 13,9%, các dòng tu đóng góp 1,2%.
Ba quốc gia đóng góp nhiều nhất là Mỹ, 13,6%, Ý 3,1% và Brazil 1,9%.
Trong năm ngoái, Quỹ “Đồng tiền thánh Phêrô” đã giúp 103 triệu Euro, trong đó có 90 triệu dành cho các hoạt động của Tòa Thánh, 13 triệu để hỗ trợ các dự án trợ giúp trực tiếp cho người nghèo. Những đóng góp đó đến từ số tiền dâng cúng nhận được là 48,4 triệu Euro đến từ các hoạt động kinh tài, từ gia sản của Tòa Thánh, với 3,6 triệu Euro, trong khi phần còn lại 51 triệu Euro lấy từ gia sản “Đồng tiền thánh Phêrô”. Có 80 triệu dành để giúp Ucraina, qua các sáng kiến mục vụ và xã hội, hỗ trợ dân chúng nạn nhân chiến tranh. Trong số các dự án xã hội có “Các bệnh viện mở” ở Syria.
Đức Thánh cha, qua các bộ liên hệ, đã dành khoảng 32 triệu Euro, trong đó có 8 triệu từ “Đồng tiền thánh Phêrô”, cho các hoạt động từ thiện bác ái, cùng với 13 triệu Euro để tài trợ 236 dự án, tổng cộng là 45 triệu Euro cho các hoạt động từ thiện.
Để giữ lịch sự tại nơi cung kính, nhân viên làm việc tại Đền thờ Thánh Phêrô sẽ không được xăm hình hoặc đeo khuyên.
Các quy định mới được công bố vào cuối tuần áp dụng cho khoảng 170 nhân viên giáo dân của Fabbrica di San Pietro, văn phòng phụ trách vương cung thánh đường.
Ngày thứ hai 1 tháng 7, linh mục Enzo Fortunato, giám đốc truyền thông của Đền thờ Thánh Phêrô trả lời hãng tin Reuters, ngài cho biết quy định này đã hệ thống hóa các quy tắc “đã có trong quá khứ dưới một hình thức khác”, ngài cũng phủ nhận tin trên báo chí Ý cho rằng giáo dân chưa lập gia đình sẽ bị cấm làm việc tại đây, đây chỉ là “tin đồn”.
Văn phòng đưa ra các quy định: nhân viên phải có “hành vi tôn giáo và đạo đức mẫu mực, kể cả trong đời sống riêng tư và gia đình, phù hợp với giáo lý của Giáo hội”. Giáo hội dạy quan hệ tình dục giữa các cặp chưa kết hôn là tội và cả những cặp đã đính hôn cũng phải giữ đức khiết tịnh. Đức Phanxicô đã làm cho một số người bảo thủ không bằng lòng khi ngài liên tục nói Giáo hội nên tập trung vào lòng thương xót và tha thứ thay vì thực thi nghiêm ngặt các quy tắc.
Ngày 29 tháng 6, Văn phòng Vatican đã xuất bản Bản lưu ý của Đức Phanxicô về Quy chế và Quy định của Tu nghị Đền thờ Thánh Phêrô.
Tất cả nhân viên phải tuân thủ “sampietrini”, những người chịu trách nhiệm tiếp tân, giám sát, dọn dẹp và bảo trì đền thờ phải chăm sóc bề ngoài để phù hợp với nhu cầu và phong tục của môi trường làm việc. Vì vậy họ phải mặc y phục lịch sự phù hợp với hoạt động, cấm xăm hình lộ rõ trên da và xỏ khuyên.
Ngoài ra, họ phải tuyên xưng đức tin công giáo, sống theo các nguyên tắc của đức tin, phải có giấy chứng nhận kết hôn theo giáo luật, giấy chứng nhận Rửa tội và Thêm sức, và chứng minh họ không mắc tội phạm hình sự. Ngoài ra, họ có nghĩa vụ phải tuân thủ nghiêm ngặt tính bảo mật và bí mật giáo hoàng; và nếu không có sự cho phép trước của cấp trên, họ không được trả lời các phỏng vấn.
Thông cáo của Bộ Giáo lý Đức tin cho biết, quyết định được đưa ra tại Đại hội của Bộ, ngày 04/7/2024, kết luận về thủ tục hình sự ngoài tư pháp được đề cập trong Bộ Giáo luật điều 1720, và dựa theo điều 751 và điều 1364 của Bộ Giáo luật, cựu Sứ thần Tòa Thánh bị vạ tuyệt thông vì ly giáo.
Thông cáo tiếp tục: “Những tuyên bố công khai của Tổng Giám Mục Viganò thể hiện việc ngài từ chối công nhận và phục tùng Đức Giáo Hoàng, từ chối hiệp thông với các thành viên của Giáo hội, cũng như tính hợp pháp và huấn quyền của Công đồng Vatican II”.
Thông cáo báo chí lưu ý, quyết định do Bộ Giáo lý Đức tin đưa ra, dựa theo giáo luật khoản 1, điều 1364, vì thế trong trường hợp này việc tha hình phạt chỉ dành riêng cho Tòa Thánh.
Cuối cùng, tuyên bố cho biết: “Quyết định này đã được thông báo tới Tổng Giám Mục Viganò vào ngày 05/7/2024”.
Trong những năm gần đây, nhiều lần cựu Sứ thần Toà Thánh tại Hoa Kỳ đã tuyên bố không công nhận tính hợp pháp của Đức Thánh Cha Phanxicô cũng như của Công đồng Vatican II.
Theo Bộ Giáo luật (điều 1331, khoản 1), cấm người bị vạ tuyệt thông: tham dự cử hành Hiến Tế Thánh Thể và bất cứ nghi lễ phụng vụ nào khác bằng bất cứ cách nào với tư cách là thừa tác viên; cử hành các bí tích hay các á bí tích, và lãnh nhận các bí tích; thi hành các giáo vụ, các thừa tác vụ hay bất cứ nhiệm vụ nào, hoặc thực hiện những công việc lãnh đạo.
Khoản hai của điều 1331 liệt kê những hậu quả xảy ra sau khi việc dứt phép thông công tiền kết được chính thức tuyên bố.
Dứt phép thông công được coi là một hình phạt như “thuốc chữa lành” nhằm kêu gọi người phạm tội ăn năn sám hối. Như vậy, Giáo hội luôn hy vọng người bị vạ tuyệt thông sẽ trở lại với sự hiệp thông.
Archbishop Jean-Claude Hollerich S.J.
Đức Hồng y Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục đã cho biết như trên, hôm mùng 09 tháng Bảy vừa qua, trong cuộc họp báo để công bố Tài liệu Làm việc của khóa II Thượng Hội đồng Giám mục thế giới, sẽ nhóm vào tháng Mười năm nay, tại Roma.
Văn kiện mới sẽ làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về giáo luật và thần học về một số giáo vụ. Điều này cũng bao gồm cả vấn đề sự tham gia cần thiết của phụ nữ vào đời sống và sự lãnh đạo trong Giáo hội. Bộ Giáo lý đức tin sẽ đối thoại với Văn phòng Thượng Hội đồng Giám mục, trong việc soạn thảo văn kiện này.
Sự loan báo này có phần mới mẻ vì người ta nói nhiều về sự tham gia của
phụ nữ vào đời sống Giáo hội, nhưng nay cũng nói về sự tham gia vào việc lãnh đạo Giáo hội. Tiếp đến, chưa bao giờ Bộ Giáo lý đức tin cộng tác với Văn phòng Thượng Hội đồng Giám mục để soạn một văn kiện chung.
Theo Tài liệu làm việc, trong khóa họp của Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới không có bàn đến việc truyền chức linh mục hay phó tế cho phụ nữ, như một số người ở Đức hy vọng.
Đức Hồng y Jean Claude Hollerich, Tổng tường trình viên của Thượng Hội đồng Giám mục, giải thích rằng Đức Thánh cha đã quyết định đưa vấn đề phó tế phụ nữ ra khỏi khóa họp của Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới và để cho một trong mười nhóm nghiên cứu đào sâu vấn đề này, một vấn đề không được nhiều Giáo hội trên thế giới muốn đề cập đến.
Vấn đề phó tế phụ nữ trong Giáo hội sơ khai đã được Đức Thánh cha Phanxicô yêu cầu hai ủy ban chuyên gia, nhưng cho đến nay chưa thấy có kết luận nào được công bố.
Đức Hồng y Hollerich nhấn mạnh rằng Giáo hội không phải là một Giáo hội giáo sĩ, nhưng là Giáo hội của những tín hữu đã được chịu phép rửa, người nam cũng như người nữ, được Thiên Chúa kêu gọi loan báo Tin mừng và cùng nhau họp thành Giáo hội. Vì thế, có sự cộng tác và đồng trách nhiệm của mọi người. Điều này không có nghĩa là từ bỏ thừa tác vụ của các giám mục và linh mục. Các chức vụ này tìm được trong một Giáo hội đồng hành hay hiệp hành ý nghĩa trọn vẹn của nó.
Đức Hồng y Hollerich thuộc Dòng Tên, người Luxemburg. Ngài giải thích thêm rằng về sự tham gia và đồng trách nhiệm, không có sự phân biệt giữa người nam và người nữ. “Chúng ta đã thấy điều đó khi Đức Giáo hoàng mở thừa tác vụ giúp lễ và đọc sách cho phụ nữ."
Dự luật về vấn đề này đã được Hạ viện Ý thông qua hồi năm ngoái và trong những ngày qua, dự luật đã được Ủy ban tư pháp của Thượng viện thông qua, trước khi đưa ra bàn thảo tại Thượng viện để bỏ phiếu.
Bà Eugenia Roccella, Bộ trưởng về Gia đình của Ý, tuyên bố rằng với luật này, nước Ý đi tiên phong trong việc bài trừ những hình thức mới khai thác phụ nữ và trẻ em.
Dự luật dự trù phạt tới hai năm tù và phạt tiền một triệu Euro những ai tổ chức hoặc quảng cáo việc mang thai mướn dưới bất kỳ hình thức nào, kể cả bên ngoài nước Ý. Trong trường hợp những trẻ em sinh ra ở nước ngoài, các tòa lãnh sự Ý và văn phòng hộ tịch buộc phải điều tra xem trẻ em ấy có sinh ra do mang thai mướn hay không.
Bà Thượng nghị sĩ Campione, người trình bày dự luật tại thượng viện Ý, nhấn mạnh rằng dự luật muốn bảo vệ phụ nữ để họ khỏi trở thành những máy sinh sản, cũng như quyền của các con cái có căn tính được biết mình là con ai. Bà ghi nhận rằng nếu dự luật được thông qua, thì Ý sẽ là nước đầu tiên trên thế giới hoàn toàn cấm mang thai mướn. Theo ông Jacop Coghe, phát ngôn viên của tổ chức “Phò sự sống và gia đình”, tiền lệ do Ý mở ra có thể mở đường cho việc đạt tới một sự ngưng nạn mang thai mướn quốc tế.
Dự luật được chính phủ Ý, đang chiếm đa số tại quốc hội mạnh mẽ ủng hộ. Thượng nghị sĩ Antonio De Poli, Chủ tịch Liên minh đảng trung hữu của Ý (Unione di Centro), hậu thân của Đảng Dân Chủ Thiên Chúa giáo, tuyên bố rằng “chúng tôi tôn trọng quan điểm của mỗi người, nhưng theo ý chúng tôi, quyền của một trẻ em là có một gia đình, gồm một cha và một mẹ. Giá trị này thuộc về lịch sử và căn tính chính trị của chúng tôi. Coi trẻ em như thể chúng là sản phẩm để mua bán thì thật là điên rồ”.
Hiện nay, “Mạng lưới cầu nguyện toàn cầu của Đức Giáo Hoàng” thuộc về Toà Thánh được Đức Thánh Cha uỷ thác cho Dòng Tên. Với quy chế mới, tổ chức này vẫn tiếp tục được uỷ thác cho Dòng Tên, nhưng mở ra một chiều kích phổ quát, phục vụ mọi Giáo hội cụ thể trên thế giới, để điều phối ở cấp độ hoàn vũ, nơi các quốc gia và Giáo phận nhận việc cầu nguyện như một hình thức tông đồ, đặc biệt là nhận các ý cầu nguyện hằng tháng được Đức Thánh Cha đề xuất cho Giáo hội như là chủ đề hay chất liệu cho cầu nguyện cá nhân hay nhóm.
Mạng lưới cầu nguyện toàn cầu của Đức Giáo Hoàng mở ra cho tất cả các tín hữu Công giáo muốn tỉnh thức, canh tân và sống đặc tính truyền giáo bắt nguồn từ Bí tích Rửa tội.
Nền tảng của Mạng lưới cầu nguyện là linh đạo Thánh Tâm Chúa Giêsu, trao cho người môn đệ Chúa Giêsu một con đường để có cùng cảm thức và hành động hợp với trái tim Chúa Kitô, trong sứ mạng thương cảm với thế giới.
Về quản trị, tổ chức này trực tiếp thuộc thẩm quyền của Đức Thánh Cha và ngài điều hành thông qua Phủ Quốc vụ khanh, trong khi tôn trọng sự ủy thác lịch sử cho Dòng Tên kể từ khi bắt đầu Tông đồ Cầu nguyện.
Về việc quản lý tài sản, tổ chức này có năng lực pháp lý trên các tài sản tạm thời theo giáo luật và thuộc Quốc gia Thành Vatican, nhưng không có năng lực pháp lý cũng như không có quyền giám sát đối với hoạt động hành chính của các văn phòng quốc gia.
Quy chế mới này có hiệu lực ngay từ ngày ký và quy chế cũ được ký ngày 17/11/2020 hết hiệu lực.
Văn kiện này dài 36 trang, chia làm 112 đoạn, ngoài phần dẫn nhập và các nền tảng, và kết luận, còn được chia làm ba phần về những tương quan (I), những hành trình (II) và các nơi (III).
Văn kiện tiếp nối toàn thể tiến trình công nghị đã khởi sự từ năm 2021 và đưa ra những đề nghị để Giáo hội ngày càng gần gũi dân chúng và trong đó, tất cả các tín hữu đã chịu phép rửa, tham gia vào đời sống Giáo hội. Trong số những điểm suy tư, có sự đề cao vai trò nữ giới và những đòi hỏi của sự minh bạch và trách nhiệm.
“Rome Call for AI Ethics. Lời kêu gọi Roma cho Đạo đức trí tuệ nhân tạo” đã được Đức Tổng Giám Mục Vincenzo Paglia, Chủ tịch Hàn Lâm viện Toà Thánh về Sự sống, đại diện các công ty Microsoft, IBM, tổ chức Lương nông Quốc tế FAO, trước sự hiện diện của ông Chủ tịch Nghị viện Âu châu, cùng ký vào năm 2020, tại trụ sở Hàn Lâm viện Tòa Thánh về sự sống ở Vatican.
Sau đó, vào năm 2023, Lời kêu gọi Roma đã được các vị lãnh đạo ba tôn giáo độc thần Abraham: Kitô giáo, Hồi giáo và Do thái giáo, ký kết nhân danh sự sống chung. Như thế, Hội nghị này nhằm củng cố quan điểm, theo đó một lối tiếp cận đa tôn giáo đối với những vấn đề quan trọng, như luân lý đạo đức về Trí tuệ nhân tạo, là con đường phải theo.
Theo ban tổ chức, việc Hội nghị diễn ra tại Hiroshima cũng là điều rất ý nghĩa: thành phố này như một chứng tá mạnh mẽ về những hậu quả của kỹ thuật tàn phá và về ước muốn liên lỉ về hòa bình.
Trong bài phát biểu khai mạc, vào sáng thứ Ba, Đức Tổng Giám Mục Vincenzo Paglia, đã nhắc lại vai trò quan trọng mà các tôn giáo được kêu gọi đóng góp để đảm bảo rằng sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, “một công cụ tuyệt vời với khả năng ứng dụng không giới hạn”, tiến hành song song với việc bảo vệ phẩm giá của mọi người và bảo vệ ngôi nhà chung của chúng ta. Ngài nhận xét: “Đây là trách nhiệm chung của chúng ta, và trong nỗ lực chung này, chúng ta có thể tái khám phá tình huynh đệ thực sự”.
Chủ tịch Hàn lâm viện Toà Thánh về Sự sống nhấn mạnh: “Tại Hiroshima, một địa điểm mang tính biểu tượng cao, chúng ta mạnh mẽ kêu gọi hòa bình và chúng ta yêu cầu công nghệ phải là động lực thúc đẩy hòa bình và hòa giải giữa các dân tộc. Chúng ta đứng đây, cùng nhau, để nói lớn rằng việc ở bên nhau và cùng hành động là giải pháp khả thi duy nhất”.
Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây, trong sứ điệp gửi các tham dự viên Hội nghị Liên tôn về luân lý đạo đức Trí tuệ nhân tạo, tiến hành trong hai ngày 09 và 10 tháng Bảy vừa qua, tại thành phố Hiroshima, Nhật Bản, với chủ đề: “Luân lý đạo đức Trí tuệ nhân tạo phục vụ hòa bình: Các tôn giáo thế giới dấn thân thi hành Lời Kêu gọi tại Roma”. Tham dự Hội nghị, có hơn 150 người đến từ mười ba quốc gia và mười một tôn giáo.
Hội nghị được tổ chức với sự cộng tác của Cơ quan “Các tôn giáo ủng hộ hòa bình” ở Nhật Bản, Diễn đàn Abu Dhabi về hòa bình và Tòa Rabbi Trưởng của Israel. Ba vị lãnh đạo ba cơ quan này, cùng với Đức Tổng giám mục Vincenzo Paglia, người đã đọc diễn văn khai mạc Hội nghị. Tiếp theo đó là các bài thuyết trình của các chuyên gia trong ba khóa họp
Trong sứ điệp, Đức Thánh cha nhắc lại diễn văn ngài đã phát biểu trong Hội nghị thượng đỉnh của khối G7, ở miền nam Ý, đồng thời nhận định rằng: “Sự kiện các bạn tụ họp tại Hiroshima để nói về trí tuệ nhân tạo và hòa bình là một biểu tượng rất quan trọng. Trong số những xung đột hiện đang làm rúng động thế giới, đáng tiếc là ngoài sự oán ghét trong chiến tranh, người ta càng nghe thấy nói về kỹ thuật mới này. Vì thế, tôi thấy thật là rất quan trọng hội nghị ở Hiroshima này. Điều cơ bản là, khi liên kết với nhau như anh chị em, chúng ta có thể nhắc nhớ cho thế giới rằng: “Trong một thảm kịch, như các cuộc xung đột võ trang, điều cấp thiết là xét lại sự phát triển và sử dụng các thiết bị, như “các võ khí tự động giết người” để cấm sử dụng chúng, bắt đầu từ một quyết tâm thực sự và cụ thể để du nhập một sự kiểm soát ngày càng lớn và nhiều hơn của con người. Không máy móc nào có thể chọn lựa tước bỏ sự sống của con người” (G7, 14-6-2024).
Và Đức Thánh cha kết luận rằng: “Nếu chúng ta để ý đến sự phức tạp của các vấn đề chúng ta đang có trước mặt, thì việc du nhập những phong phú về văn hóa của các dân tộc và các tôn giáo là một chìa khóa chiến lược để thành công trong cố gắng của các bạn nhắm đạt tới một sự quản trị khôn ngoan việc canh tân kỹ thuật”.
Cuối hội nghị, các vị đại diện tôn giáo và tổ chức đã ký vào Lời Kêu gọi Hiroshima, trong đó ngoài việc tái khẳng định cần sử dụng trí tuệ nhân tạo chỉ với mục đích mưu ích cho nhân loại và trái đất, nhưng còn kêu gọi cộng đồng quốc tế dùng những phương thế hòa bình để giải quyết các tranh chấp, làm sao để ngưng tức khắc mọi cuộc xung đột võ trang.
Ngày thứ năm 4 tháng 7, Đài thiên văn Vatican công bố kính thiên văn Công nghệ tân tiến của Vatican (VATT) đặt tại Arizona hiện được trang bị hệ thống điều khiển tự động mới, để có thể điều khiển từ Rôma.
Hiện nay hệ thống đang trong giai đoạn thử nghiệm và có thể hoạt động theo hai cách. Phương thức “truyền thống” được đơn giản hóa: các nhà thiên văn không còn cần di chuyển để bật và tắt các hệ thống con của kính theo cách thủ công nữa; việc tập trung quang học VATT nhanh hơn.
Thêm vào đó là phương thức “từ xa” sẽ cho phép 15 nhà thiên văn Dòng Tên của Đài thiên văn, kể cả các nhà khoa học có trụ sở tại Rôma, điều khiển và làm việc với kính thiên văn mà không cần phải đến tại chỗ.
Đài thiên văn Vatican có hệ thống robot hóa mới cho kính thiên văn do công ty ProjectSoft HK của Séc sản xuất và có tên là “Don” để vinh danh Donald Martin Alstadt (1921-2007), cựu chủ tịch của Công ty đa quốc gia Lord. Bà góa phụ Alstadt đã quyên góp cho dự án này.
“Don” sẽ cho phép điều khiển trạm thời tiết, vòm kính thiên văn và cửa chớp khe vòm, hệ thống dầu cho ổ trục thủy lực của giá đỡ và hệ thống làm mát của gương chính. Vì thế kính viễn vọng của các giáo hoàng có một tương lai robot “đầy hứa hẹn”.
Các khó khăn trong quá trình cài đặt
Gương của kính viễn vọng VATT có đường kính 1,8 mét, đây là chiếc gương đầu tiên được sản xuất bằng công nghệ đúc quay mang tính cách mạng, được sử dụng để sản xuất kính thiên văn lớn nhất thế giới, đã được thành lập cách đây hơn 30 năm. Kính viễn vọng ở trong khu phức hợp vật lý thiên văn Thomas J. Bannan, Arizona, nơi Vatican mở trung tâm nghiên cứu thứ hai năm 1981, sau Castel Gandolfo, để thoát khỏi ô nhiễm ánh sáng ở châu Âu.
VATT được cải tiến với công nghệ “Don”, cho phép hướng kính thiên văn với độ chính xác 3 giây cung – tương ứng với kích thước của một viên bi đặt trong một sân vận động lớn – và theo dõi các thiên thể trong 20 phút mà không cần hướng dẫn. Đài quan sát cho biết, việc khai triển hệ thống mới không phải là không có khó khăn, các kỹ thuật viên đã phải đối diện với những cơn bão tuyết trái mùa vào tháng 3 và tháng 4.
Kế thừa lịch sử lâu dài của thiên văn học, Đài thiên văn Vatican có từ thế kỷ 16 và tiếp tục thích ứng với tiến bộ khoa học.
Số thu nhập này do tiền thuế các tín hữu Công giáo đóng cho Giáo hội, theo hiến định. Tại hai bang Bavaria và Baden-Wuertemberg ở miền nam Đức, số tiền thuế mỗi tín hữu phải đóng cho Giáo hội của mình tương đương với 8% tiền thuế lợi tức họ đóng cho nhà nước. Tại các bang khác, tiền thuế Giáo hội là 9%. Nhà nước thu tiền thuế này và chuyển cho những Giáo hội được chính quyền công nhận.
Năm 2022, số tiền thuế Giáo hội Công giáo nhận được là sáu tỷ 840 triệu Euro, một con số kỷ lục, nhưng trong năm 2023, tiền thuế 27 giáo phận Công giáo tại Đức thu được là sáu tỷ 510 triệu Euro.
Tuy giảm sút, nhưng tiền thuế Giáo hội Công giáo nhận được vẫn cao hơn Tin lành: trong năm ngoái (2023), 20 Giáo hội Tin lành Đức đã nhận được năm tỷ 900 triệu Euro, tức là giảm 5,3% so với năm 2022 trước đó.
Trong những năm gần đây, đại diện của các Giáo hội Kitô vẫn nói rằng thuế Giáo hội sẽ giảm sút về lâu về dài, vì số tín hữu giảm sút, do có nhiều người làm đơn xin ra khỏi Giáo hội. Tuy nhiên, thu nhập thuế Giáo hội cũng tùy thuộc mức thu nhập của nhà nước. Sở dĩ thu nhập của các Giáo hội có thể đạt tới những mức kỷ lục trong những năm gần đây, là vì kinh tế của Đức tốt đẹp, số người dân có công ăn việc làm gia tăng, và tiền thuế của họ đóng cho nhà nước cũng tăng, kéo theo sự gia tăng thu nhập của các Giáo hội.
Trong một bài góp ý đăng trên trang mạng của Hội đồng Giám mục Đức, ký giả Steffen Zimmermann cho rằng sự giảm sút thu nhập của Giáo hội Công giáo Đức không phải hoàn toàn là tiêu cực, vì nó có thể thúc đẩy các giáo phận cộng tác với nhau nhiều hơn trong lãnh vực truyền thông, hoặc những dự án liên giáo phận.
Dữ liệu phản ánh tư cách thành viên của hai Giáo hội Kitô giáo chính với tư cách là các đoàn thể công, theo ghi nhận của văn phòng đăng ký cư dân. Trong khi đó, số lượng người Hồi giáo ở Đức không được ghi nhận trong các cơ quan đăng ký vì Hồi giáo không phải là một đoàn thể công. Tuy nhiên, người ta ước tính có 4 đến 5 triệu người Hồi giáo ở Đức. Tổng dân số ở Đức khoảng 83 triệu người, hiện là quốc gia đông dân nhất châu Âu.
Theo phân tích của giáo sư xã hội học Michael Hermann tại Đại học Sư phạm Weingarten (Đức), có hai lý do giải thích tỷ lệ tín hữu của hai Giáo hội chính so với tổng dân số vốn đang giảm: thứ nhất, tỷ lệ sinh giảm và thứ hai, việc tín hữu rời bỏ các Giáo hội. Trên thực tế, ở Đức, các tín hữu có thể tuyên bố rời khỏi Giáo hội trước chính quyền nhà nước.
Theo dữ liệu của Giáo hội, trong năm ngoái 2023, 402.000 người Công giáo và 387.000 người Tin lành đã thực hiện bước này. Vào năm 2022, con số thậm chí còn lớn hơn. Nhìn chung, có nhiều người rời bỏ hoặc chết hơn là con số gia nhập Giáo hội. Cho đến nay, lý do phổ biến nhất được đưa ra bởi những người rời đi là cuộc khủng hoảng lạm dụng trong các Giáo hội. Trong khi đó, một lần nữa theo các cuộc điều tra, cái gọi là thuế tôn giáo, tức là phí thành viên mà Nhà nước thu thay mặt cho các Giáo hội, chỉ là lý do rất yếu để rời bỏ. Ở Đức, thuế tôn giáo lên tới 8% thuế thu nhập cá nhân của các thành viên.
Tuy nhiên, xã hội học tôn giáo ở Đức cũng cho thấy rằng xu hướng tôn giáo của người dân không giảm sút ở mức độ tương tự. Nhiều người rời bỏ Giáo hội vẫn tiếp tục xưng mình là Kitô hữu và thực hành đức tin của mình. Nhìn chung, người ta đang chứng kiến ở Đức sự đa dạng hóa bức tranh toàn cảnh tôn giáo, điều này cũng được thể hiện qua việc ngày càng có nhiều cộng đồng Kitô giáo tự do, không liên kết với hai Giáo hội lớn.
Theo những kết quả này, sự thế tục hóa, đa nguyên hóa và cá nhân hóa sẽ tiếp tục phát triển ở Đức. Thách thức đối với các Giáo hội Công giáo và Tin lành ở Đức sẽ là làm thế nào để tài trợ cho các hoạt động mục vụ và từ thiện của họ trong những điều kiện này. Trong trung và dài hạn, nhiều giáo phận ở Đức sẽ phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt ngân sách. Điều này cũng sẽ có tác động đến diện mạo của Giáo hội Công giáo. Ngay từ năm 1969, Joseph Ratzinger, người sau này là Đức Giáo hoàng Bênêđíctô XVI, đã nói trong bối cảnh này về một “Giáo hội của những người bé mọn” được nội tâm hoá và một “Giáo hội của đức tin”, nghĩa là một Giáo hội được hợp thành từ một số ít của những người dấn thân đặc biệt.
Hãng tin Asia News, truyền đi hôm mùng 08 tháng vừa qua, cho biết Trường Công giáo Thánh Gia do Tòa Thượng phụ Công giáo Latinh ở Jerusalem thành lập năm 1974, được coi là một trong những trường tốt nhất trong vùng, có khả năng cung cấp một nền giáo dục chất lượng cao, hỗ trợ các cuộc trao đổi văn hóa và cống hiến một môi trường thích hợp và an toàn cho mọi học sinh.
Trong thời gian gần đây, vì chiến tranh ở Gaza nên trường không còn hoạt động như cơ sở giáo dục, nhưng được dùng làm nơi tạm trú cho hàng trăm thường dân tị nạn, không có tu sĩ nào cư ngụ tại trường.
Trong thông cáo, Tòa Thượng phụ mạnh mẽ phản đối và nghiêm khắc lên án những cuộc tấn công các thường dân, đồng thời khẳng định rằng: “Chúng tôi tiếp tục cầu xin lòng thương xót của Chúa và hy vọng các phe đạt tới một thỏa thuận chấm dứt ngay cuộc những vụ đổ máu kinh khủng và thảm họa này về nhân đạo ở trong vùng”.
Theo nguồn tin của đài truyền hình Arập al-Jazeera, hôm mùng 06 tháng Bảy vừa qua, các tên lửa của Israel cũng phóng vào trường al-Jawni ở Nuseirat, do tổ chức Unrwa của Liên Hiệp Quốc quản trị, trong đó có nhiều người Palestine tị nạn trú ngụ trong trường, khiến cho 16 người chết. Cuộc tấn công này của Israel cũng nhắm vào trại tị nạn, và tạo nên sự hỗn độn tại nhà thương “Các vị tử đạo al-Aqsa” ở Deir el-Balah. Bệnh viện này có khả năng đón nhận 200 bệnh nhân tại bệnh viện và chữa trị hơn 600 bệnh nhân. Giới chỉ huy quân đội Israel nói rằng trong cuộc tấn công vào nhà thương, mục đích là những “tên khủng bố” đang hoạt động trong vùng. Tuy nhiên, hãng tin Wafa của Palestine cho biết cho biết tòa nhà được dùng làm nơi tạm trú cho những người tị nạn, với hàng trăm phụ nữ và trẻ em. Phía Hamas cũng phủ nhận lập luận của Israel và nói là không có chiến binh nào của mình tại những nơi đó.
Từ khi Israel tấn công vào Gaza, sau cuộc khủng bố ngày 07 tháng Mười năm ngoái của các lực lượng khủng bố Hamas, giết hại 1.195 người Israel, phần lớn là thường dân và bắt cóc 251 người, trong đó 116 người còn bị giam giữ, cho đến nay đã có 38.153 người Palestine bị quân đội Israel giết chết, đại đa số là thường dân, phụ nữ và trẻ em.
Theo Đức Tổng giám mục Shevchuk, “Giáo hội Công giáo Ucraina nghi lễ Đông phương vẫn hiện hữu tại các vùng bị chiếm đóng, mặc dù có lệnh cấm, vì các tín hữu của chúng tôi đang sống tại đó, nhưng họ không được săn sóc về tinh thần. Cũng vậy, tại những lãnh thổ bị Nga chiếm đóng và cai trị, chế độ thời Stalin đang trở lại, hàng giáo sĩ bị đàn áp”.
Đức Tổng giám mục cho biết một số giáo sĩ của Công giáo Ucraina đã được Nga trả tự do, trong đó có hai cha Dòng Chúa Cứu Thế, từ miền Berdiansk, là cha Ivan Letitsky và cha Bohdan Heleta, được trả tự do ngày 28 tháng Sáu vừa qua, sau một năm rưỡi bị giam cầm.
Trong cuộc phỏng vấn, Đức Tổng giám mục Shevchuk cũng nói về số phận các thánh đường ở những vùng bị chiếm: “Tại một số thành thị như Mariupol, Maryinka, Volnovakha, v.v. các nhà thờ của chúng tôi hoàn toàn bị phá hủy, trong khi tại thành phố Melitopol và Berdyansk, thì nhà thờ bị đóng cửa. Chúng tôi mới nhận được tin nhà thờ chính tòa của chúng tôi ở Donetsk bị chiếm đóng. Khi các linh mục chúng tôi bị trục xuất khỏi đó, các tín hữu vẫn họp nhau cầu nguyện và nhà cầm quyền không hài lòng. Một hôm, khi các tín hữu đến nhà thờ thì thấy các chìa khóa của thánh đường đã bị thay đổi, và điều này có nghĩa là các tín hữu bị trục xuất khỏi nhà thờ.
“Chúng tôi cũng mới nhận được tin tình trạng tương tự như vậy ở thành phố Luhansk, và tại các làng ở vùng Kherson, Giáo hội Chính thống Nga đã tiếp thu nhà thờ của chúng tôi, gọi là để thực hiện một lễ nghi “thánh hiến” trước lễ Phục Sinh.”
Đức cha nói với Tổ chức “Trợ giúp các Giáo hội đau khổ”, nhân dịp viếng thăm trụ sở trung ương của cơ quan bác ái này ở thành phố Koenigstein im Taunus, bên Đức. Ngài nói: “Có nhiều người tự tử vì họ không biết tình thế sẽ như thế nào trong tương lai. Báo động phòng không ở vùng Charkiv hầu như luôn báo động 24 trên 24 giờ đồng hồ”.
Charkiv chỉ cách biên giới Nga 30 cây số. Các tên lửa bắn từ Nga chỉ cần không đầy một phút là rơi xuống Charkiv. Hôm mùng 08 tháng Bảy vừa qua, tổ chức Trợ giúp các Giáo hội đau khổ kể rằng Đức cha cho biết thời gian ngắn ngủi như thế không đủ để báo động tại thành phố lớn thứ hai này của Ucraina. Các trường học và vườn trẻ tại đây đã đóng cửa. Các lớp học nhiều khi được thực hiện trong các trạm xe điện ngầm của thành phố.
Đức cha cho biết diện tích giáo phận của ngài (170.000 Km2) là một trong những giáo phận lớn nhất tại Âu châu, gấp quá hai lần nước Áo. Tại những vùng thiếu an ninh, không thể gửi các linh mục đến, nhưng sự hiện diện của các linh mục có một ý nghĩa lớn đối với dân chúng. Họ lý luận rằng “Nếu một linh mục ở đó được thì tôi cũng có thể ở lại. Sự cô đơn rất khó chịu nổi, nhất là khi người ta mất một người thân yêu”.
Vì thế, Đức cha Hontscharuk nhận xét rằng ngoài viện trợ nhân đạo, cả sự trợ giúp về tâm lý cũng rất cần thiết đối với dân chúng. Nhiều người không tin tưởng nơi các nhà tâm ý và cũng có ít các chuyên gia trong lãnh vực này. Đức cha nói: “Chúng tôi chỉ có một ít chuyên gia và đó là vấn đề. Hiện nay, tổ chức Trợ giúp các Giáo hội đau khổ tài trợ việc huấn luyện cho các linh mục, tu sĩ và những nhân viên cứu trợ khác. Theo Đức cha, đó là điều quan trọng và chúng tôi rất biết ơn!”
Ngoài trợ giúp vừa nói, trong những tháng qua, cơ quan bác ái Công giáo quốc tế này cũng giúp cung cấp các lò sưởi để sưởi các nhà xứ và tu viện trong mùa đông, nơi mà nhiều người chạy đến tá túc. Các linh mục và nữ tu hoạt động ở tiền tuyến, cũng được huấn luyện về các phương pháp cấp cứu.
Tuy nguy hiểm đến tính mạng, nhưng cũng có 46 linh mục tuyên úy quân đội, nhiều khi các vị là những người duy nhất để các binh sĩ tiền tuyến chia sẻ các vấn đề tâm linh. Đức cha nói: “Điều mà những người lính ấy sống trong nội tâm là một ác mộng. Vì thế, vị tuyên úy quân đội là quan trọng. Linh mục lắng nghe những gì xảy đến trong tâm trí con người”.
Quyết định trên đây được Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nicaragua, bà María Amelia Coronel Kinlock, ký và công bố trên báo La Gaceta của chính phủ, hôm mùng 09 tháng Bảy vừa qua.
Thông cáo của Bộ Nội vụ Nicaragua nói rằng các tổ chức này đã không báo cáo chi tiết tài chánh của mình trong khoảng thời gian từ hai đến hai mươi sáu năm qua.
Hãng tin Công giáo CNA, bằng tiếng Tây Ban Nha, cho biết đã tham khảo nguồn tin của mình ở Nicaragua, và được biết cũng chính nhà nước này, qua Bộ Nội vụ, đã quyết định từ chối không nhận các báo cáo tài chánh, khi các tổ chức này nộp, và nay lại nại lý do đó để đóng cửa.
Thông cáo trên báo La Gaceta nói thêm rằng tất cả các tài sản của các tổ chức bị đóng cửa sẽ được chuyển giao cho chính phủ Nicaragua.
Ngày 11 tháng Tư năm nay, Radio Maria ở Nicaragua đã thông báo tài khoản của mình tại Banco de la Producción, Ngân hàng Sản xuất, đã bị nhà nước đóng băng. Qua tài khoản này, Đài phát thanh vẫn nhận tiền hỗ trợ của các ân nhân bằng đôla, và tiền córdobas của Nicaragua.
Trong một bài đăng trên mạng xã hội X (trước đây là Twitter), ông Arturo Mcfields Yescas, cựu đại sứ Nicaragua cạnh tổ chức các nước Mỹ châu, đã tố cáo những hành động bách hại vừa nói của chế độ độc tài Daniel Ortega ở Nicaragua.
Trong thời gian trước đây, nhiều linh mục, và cả giám mục, nữ tu đã bị chế độ này cầm tù hoặc trục xuất, trong đó có cả các nữ tu Thừa sai bác ái của Mẹ Têrêsa Calcutta. Cả Đại học Trung Mỹ của Dòng Tên tại đây cũng bị đóng cửa.