Trong một, hai năm đầu tiên thi hành sứ vụ thánh Phêrô, Đức Thánh cha Phanxicô cử hành thánh lễ tại Đền thờ thánh Gioan Laterano, nhưng ngài không dự cuộc rước kiệu và chỉ chủ sự nghi thức Chầu Mình Thánh Chúa kết thúc, tại Đền thờ Đức Bà Cả. Những năm sau đó, Đức Thánh cha cũng gặp vấn đề sức khỏe và đau đầu gối, rồi đến kỳ đại dịch Covid-19 nên cũng không cử hành. Năm 2018 và 2019, ngài bỏ truyền thống này và cử hành Lễ Mình Thánh Chúa ở ngoại ô Roma.
Trước đây, Đức Thánh cha Gioan Phaolô II (1978-2005) luôn giữ truyền thống cử hành thánh lễ, với cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa, từ khi được bầu chọn thi hành sứ vụ Giáo hoàng.
Tại Vatican và theo phụng vụ chính thức của Giáo hội, Lễ Mình Thánh Chúa được cử hành vào thứ Năm, ngày 30 tháng Năm tới đây, nhưng tại nhiều nơi, lễ này được dời vào Chúa nhật tiếp đó.
Bischof Dr. Felix Genn zelebrierte den Gottesdienst zur offiziellen Eröffnung der Renovabis-Pfingstaktion im St.-Paulus-Dom in Münster.
Chiến dịch năm nay có chủ đề là: “Để hòa bình tăng trưởng. Bạn tạo nên sự khác biệt”.
Thánh lễ do Đức cha Felix Genn, Giám mục Giáo phận sở tại, chủ sự, với các giám mục Đông âu đồng tế, trong đó có Đức cha Stanislas Szyrokoradiuk, Giám mục Giáo phận Odessa-Simferopol bên Ucraina.
Chiến dịch kéo dài hai tuần lễ, cho đến Lễ Hiện Xuống. Bắt đầu các giám mục khách từ Đông âu viếng thăm các trường học, nghị viện tiểu bang ở thành phố Dusseldorf và đền kỷ niệm Villa Ten Hompel ở Muenster. Tại đây, vào cuối tuần có chương trình văn hóa tôn giáo. Chiến dịch năm nay muốn nhấn mạnh rõ ràng lòng khao khát hòa bình nơi nhiều người.
Tổ chức Renovabis được thành lập cách đây ba mươi mốt năm để bày tỏ tình liên đới với các tín hữu Công giáo ở Đông và Trung Âu, trong đó có 29 nước cựu cộng sản. Từ năm 1993 đến nay, tổ chức này đã tài trợ hơn 877 triệu Euro cho hơn 26.000 dự án tái thiết Giáo hội, xã hội dân sự, trường học, nhà xứ. Từ khi có cuộc tấn công của Nga ở Ucraina, Renovabis cũng tiến hành các công tác cứu trợ khẩn cấp. Ngoài ra, năm nay cũng có các hoạt động tương trợ trước tình trạng bất an tại Bosnia Herzegovina, Kosovo và Cộng hòa Moldavia.
Đức Thánh Cha Phanxicô đang hướng đến Năm Thánh 2025 với tư cách là “người lữ hành hy vọng”. Trong Sứ điệp Ngày lễ Giáng sinh “Urbi et Orbi” (một bài diễn từ thường niên “gửi thành Rôma và thế giới”), ngài đã đề cập đến Năm Thánh và bày tỏ hy vọng rằng năm 2024 sẽ là “thời gian chuẩn bị cho Năm Thánh” và là “cơ hội để hoán cải những con tim, từ bỏ chiến tranh và đón nhận hòa bình, cũng như để hân hoan đáp lại tiếng Chúa mời gọi”.
Trong giờ Kinh Chiều cuối năm tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô vào ngày 31 tháng 12, Ngài lại nói về Năm Thánh, khiến người ta nghĩ rằng sự kiện đó có thể được coi như “ngôi sao dẫn đường” của ngài trong năm mới. Mặc dù Đức Phanxicô hiện đã 87 tuổi và là một trong những vị Giáo hoàng lãnh đạo Giáo hội Công giáo lớn tuổi nhất trong lịch sử, nhưng nhìn thoáng qua chương trình nghị sự của ngài cho năm 2024, người ta thấy rằng ngài không có ý định chậm lại hoặc giảm bớt các cam kết của mình. Ngược lại, ngài đã chia sẻ với quý thân hữu rằng “càng gần vạch cán đích thì càng phải đi nhanh hơn”. Về việc từ nhiệm, ngài nói trong một cuộc phỏng vấn gần đây rằng ngài chưa cân nhắc ý định này.
Sức khỏe của Đức Thánh Cha
Đức Phanxicô tiếp tục gặp vấn đề về khả năng vận động do các vấn đề ở hông và đầu gối bên phải đang được điều trị, nhưng không giống như năm ngoái, giờ đây ngài có thể đi bộ những đoạn ngắn. Theo bác sĩ Sergio Alfieri, bác sĩ phẫu thuật đã mổ cho ngài tại bệnh viện Gemelli ở Rôma vào tháng 7 năm 2021 và tháng 6 năm 2023, thì ở độ tuổi ấy, ngài là người có sức khỏe tốt. Bác sĩ cho báo chí biết sau ca phẫu thuật tháng 6, về phần tim, phổi và bụng, thì “Ngài không có bệnh gì”.
Tiến sĩ Alfieri nói thêm rằng khả năng trí tuệ của Đức Thánh Cha là khả năng “của một người đàn ông 60 tuổi”. Một số người đã gặp Đức Phanxicô sau khi ngài bị viêm phế quản vào cuối tháng 11 và trong những tuần gần đây đã nói với tạp chí America rằng Đức Giáo hoàng đã bình phục. Vì vậy, nếu không gặp rủi ro hoặc suy sụp, ngài dường như đã sẵn sàng cho một năm hoạt động trọn vẹn.
Khai mạc năm mới
Vị Giáo hoàng đầu tiên của châu Mỹ Latinh đã khai mạc năm mới bằng việc chủ sự Thánh lễ tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô nhân Ngày Hòa bình Thế giới vào ngày 1 tháng 1, lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, trước sự hiện diện của các đoàn ngoại giao cạnh Tòa Thánh và một cộng đoàn khoảng 7.000 người từ khắp nơi trên thế giới. Ngài đã xuất bản Sứ điệp cho Ngày Hòa bình Thế giới, trong đó ngài tập trung vào chủ đề quan trọng là “Trí tuệ nhân tạo và Hòa bình”.
“Mặc dù Đức Phanxicô hiện đã 87 tuổi và là một trong những vị Giáo hoàng lãnh đạo Giáo hội Công giáo lớn tuổi nhất trong lịch sử, nhưng nhìn thoáng qua chương trình nghị sự của ngài cho năm 2024, người ta thấy rằng ngài không có ý định chậm lại.” (tweet)
Vào ngày 6 tháng 1, Đức Phanxicô sẽ chủ sự Thánh lễ Hiển Linh, tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, và vào ngày 7 tháng 1, lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, ngài sẽ rửa tội cho trẻ em, chủ yếu là con của các nhân viên Vatican, trong Thánh lễ tại nhà nguyện Sistine.
Ngày hôm sau, 8 tháng 01, Đức Phanxicô sẽ tiếp kiến các đại sứ từ 184 quốc gia có quan hệ ngoại giao đầy đủ với Tòa Thánh và gửi lời chúc mừng Năm Mới tới họ cũng như các chính phủ mà họ đại diện. Nhân dịp đó, ngài sẽ có bài diễn từ về tình hình thế giới nhìn từ góc độ của Tòa thánh. Dự kiến, ngài sẽ lặp lại lời kêu gọi chấm dứt các cuộc chiến tranh hiện đang diễn ra, đặc biệt là cuộc chiến của Nga chống Ukraine và cuộc chiến giữa Israel và Hamas, cũng như các cuộc xung đột nội bộ ở Sudan, Nam Sudan, Cộng hòa Dân chủ Congo, Myanmar và các quốc gia khác.
Vị thánh nữ đầu tiên của Argentina
Vào ngày 11 tháng 02, Đức Phanxicô sẽ tuyên thánh cho thánh nữ đầu tiên của Argentina, María Antonia de Paz y Figueroa, thường được gọi là “Mẹ Antula” và được coi là “mẹ của dân tộc”. Sinh ra ở Santiago del Estero ở miền bắc Argentina vào năm 1730, bà đã gặp và bắt đầu làm việc với các tu sĩ Dòng Tên ngay từ khi còn nhỏ. Sau khi dòng này bị trục xuất khỏi Tây Ban Nha và các thuộc địa ở châu Mỹ vào năm 1767, bà đã duy trì linh đạo I-nhã sống động trên khắp đất nước, khi đi bộ 3.000 dặm đến thủ đô Buenos Aires, nơi bà thành lập các chương trình bác ái dành cho phụ nữ và trẻ em và một ngôi nhà linh thao trước khi qua đời năm 1799. Bà cũng thúc đẩy ý tưởng về một nước Argentina độc lập, xuất hiện vào năm 1816.
“Mẹ Antula được coi là mẹ của đất nước,” Đức Giám mục Santiago Olivera của Argentina, người chịu trách nhiệm về án tuyên thánh của bà, nói với hãng tin OSV. “Bà là một người phụ nữ mạnh mẽ, can cảm và có niềm tin vào Argentina. Bà đã tận tâm phục vụ đất nước này và tin rằng việc biết Chúa Kitô sẽ biến đổi xã hội.”
Một số người dự đoán tân Tổng thống Argentina, Javier Milei, có thể sẽ tham dự lễ tuyên thánh ở Rôma và có cuộc gặp đầu tiên với Đức Thánh Cha Phanxicô. Các ngài đã nói chuyện qua điện thoại ngay sau khi ông nhậm chức, và Tổng thống sau đó đã chính thức mời Đức Phanxicô về thăm quê hương.
Tông du nước ngoài
Đức Phanxicô đã viếng thăm 61 quốc gia trong 44 chuyến hành trình bên ngoài nước Ý kể từ khi trở thành Giáo hoàng. Trong cuộc phỏng vấn với Telam, một hãng thông tấn của Argentina, vào ngày 16/10 và đài truyền hình N+ của Mexico vào ngày 12/12, ngài cho biết dự định tiếp tục các chuyến tông du nước ngoài vào năm 2024 và tiết lộ mong muốn được đến thăm Bỉ, Argentina và Papua New Guinea.
Ngài dự định đến Bỉ, đất nước mà ngài đã đến thăm khi còn là tu sĩ Dòng Tên, để kỷ niệm 600 năm thành lập Đại học Công giáo Louvain. Trong khi Vatican vẫn chưa công bố ngày cụ thể, một nguồn thông tin nói với tạp chí America rằng có thể là vào cuối tháng 7.
Tạp chí America cũng được biết rằng các kế hoạch cũng đang được tiến hành cho chuyến thăm 10 ngày vào cuối tháng 8 tới bốn quốc gia ở châu Á — Indonesia, Singapore, Timor Leste và Papua New Guinea nói trên. Đức Phanxicô đã lên kế hoạch cho chuyến tông du châu Á vào năm 2020 nhưng phải hoãn lại do đại dịch Covid-19. Timor Leste là quốc gia có nhiều người Công giáo nhất ở châu Á — 97% trong số 1,4 triệu dân của nước này là người Công giáo — trong khi 26% trong số 10 triệu dân của Papua New Guinea là người Công giáo. Đức Phanxicô từ lâu đã muốn đến thăm cả hai quốc gia này ở vùng ngoại biên của thế giới. Mặt khác, Indonesia là quốc gia có dân số Hồi giáo lớn nhất thế giới và Singapore cũng đang rất nỗ lực xin một chuyến thăm.
Người ta đã mong đợi Đức Phanxicô cuối cùng sẽ về thăm Argentina, quê hương của ngài trong năm nay, nhưng tình hình kinh tế và chính trị phức tạp trong nước dưới thời tân Tổng thống đã khiến chuyến đi đó còn bỏ ngỏ.
Cũng có khả năng Đức Phanxicô đến thăm Việt Nam trong năm nay, vì mối quan hệ giữa Tòa thánh và Việt Nam đã có tiến triển đầy ý nghĩa. Lần đầu tiên kể từ khi kết thúc Chiến tranh Việt Nam, năm ngoái chính phủ Việt Nam đã cho phép Tòa thánh mở một văn phòng và có vị Đại diện thường trú tại nước này. Chủ tịch nước Việt Nam đã đến thăm Đức Thánh Cha vào tháng 7 năm ngoái và vào tháng 12 có thông báo rằng ông đã chính thức gửi thư mời Đức Giáo hoàng Phanxicô đến thăm đất nước này
Các nguồn tin cho biết Đức Phanxicô muốn nhận lời mời của vị Chủ tịch nước, nhưng Vatican còn muốn chuyến thăm của Đức Thánh Cha được diễn ra sau khi quan hệ ngoại giao được thiết lập đầy đủ. Một nguồn tin cấp cao của Vatican nói với tạp chí America rằng quan hệ ngoại giao có thể diễn ra nhanh chóng nếu chính phủ Việt Nam mong muốn như vậy, như đã xảy ra với Myanmar, nơi những mối quan hệ như vậy được thiết lập vài tháng trước khi Đức Phanxicô đến thăm quốc gia đó.
Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã mời Đức Phanxicô đến Paris để dự lễ mở cửa Nhà thờ Đức Bà nổi tiếng trở lại vào ngày 8 tháng 12 năm 2024, nhưng Đức Thánh Cha vẫn chưa đưa ra bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy ngài sẽ nhận lời mời này.
Quan hệ với Trung Quốc
Một câu hỏi quan trọng mà Đức Phanxicô phải quyết định trước tháng 10 năm 2024, liên quan đến thỏa thuận tạm thời Trung Quốc - Vatican đã được ký kết tại Bắc Kinh vào ngày 22 tháng 9 năm 2018, liên quan đến việc bổ nhiệm các Giám mục ở Trung Quốc đại lục. Tòa Thánh và Trung Quốc đã tái lập thỏa thuận này vào năm 2020 và 2022. Năm nay, hai bên sẽ phải quyết định xem có nên làm mới lại thỏa thuận thêm hai năm nữa hay không, để nâng lên mức bền vững lâu dài hay đưa ra những điều chỉnh.
Trong cuộc phỏng vấn với tạp chí America vào ngày 22 tháng 11 năm 2022, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Đối thoại là con đường ngoại giao tốt nhất. Với Trung Quốc, tôi đã chọn con đường đối thoại. Nó chậm, có những thất bại, có những thành công, nhưng tôi không thể tìm ra cách nào khác.” Ngài nói thêm rằng “người ta đối thoại đến chừng nào còn có thể”.
Thượng Hội đồng về hiệp hành
Trong thời điểm đỉnh cao của 10 năm nỗ lực cải cách và lãnh đạo Giáo hội Công giáo với 1,3 tỷ thành viên trên con đường truyền giáo mới, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ chủ trì phiên họp thứ hai và cũng là cuối cùng của Thượng Hội đồng về Hiệp hành vào tháng 10 năm 2024. Trong khi phiên họp đầu tiên vào tháng 10 năm 2023 kéo dài gần bốn tuần, một số người ở Rôma kỳ vọng phiên họp thứ hai này sẽ ngắn hơn. Tuy nhiên, tạp chí America được biết vẫn chưa có quyết định nào được đưa ra về độ dài của Thượng hội đồng.
Các bổ nhiệm ở Vatican và các Giám mục mới
Trong 12 tháng tới, Đức Phanxicô dự kiến sẽ thực hiện một số thay đổi quan trọng về nhân sự trong Giáo triều Rôma và các giáo phận trên toàn thế giới, kể cả ở Hoa Kỳ. Những thay đổi ở cấp cao của Giáo triều Rôma bao gồm việc bổ nhiệm vị Trưởng Tòa Ân giải Tối cao để kế vị Đức Hồng Y người Ý Mauro Piacenza, người sẽ tròn 80 tuổi vào ngày 15 tháng 9, và ngày 15 tháng 10, và một vị Tổng trưởng mới của Bộ Đời sống Thánh hiến và các Hiệp hội Đời sống Tông đồ để thay thế Đức Hồng Y người Brazil João Braz de Aviz, người sẽ bước sang tuổi 77 vào ngày 24 tháng 4. Vị Hồng Y người Brazil này gần như sẽ được kế vị bởi Đức Hồng Y người Tây Ban Nha Ángel Fernández Artime, S.D.B., Bề trên Tổng quyền đương nhiệm của Dòng Salêdiêng. Những thay đổi khác cũng được mong đợi ở một số vị trí cấp trung trong Giáo triều, bao gồm cả trong Ủy ban Bảo vệ Trẻ vị thành niên.
Đức Phanxicô cũng sẽ bổ nhiệm các Giám mục cho nhiều giáo phận trên toàn thế giới, bao gồm một số Tổng Giáo phận quan trọng, bao gồm Boston, nơi Đức Hồng Y Seán O'Malley tròn 80 tuổi vào ngày 29 tháng 6, và Bombay (Mumbai), Ấn Độ, nơi Đức Hồng Y Oswald Gracias tròn 80 tuổi vào ngày 24 tháng 12. Cả hai vị đều là thành viên của Hội đồng Hồng Y Cố vấn của Đức Thánh Cha kể từ khi ngài thành lập cơ quan này ngay sau khi được bầu. Dự kiến, ngài sẽ bổ nhiệm hai Hồng Y mới vào Hội đồng gồm chín thành viên này.
Đức Giáo Hoàng Dòng Tên cũng sẽ bổ nhiệm các sứ thần - các đại sứ của ngài - đến các cơ quan đại diện ngoại giao của Tòa Thánh tại ít nhất 10 quốc gia trong năm tới.
Một công nghị khác
Đức Phanxicô đã triệu tập các Công nghị để phong Hồng Y mới, diễn ra gần như mỗi năm kể từ khi ngài được bầu, và ngài có thể quyết định triệu tập công nghị lần thứ 10 trước cuối năm 2024, có lẽ vào khoảng thời gian diễn ra Thượng Hội đồng tháng 10 hoặc dịp khai mạc Năm Thánh. Tổng số Hồng Y dưới 80 tuổi, có quyền bỏ phiếu trong mật nghị bầu Giáo hoàng tiếp theo, sẽ giảm xuống ít nhất còn 119 vị vào tháng 12 năm 2024, ngay dưới mức trần 120 vị do Đức Giáo hoàng Phaolô VI thiết lập cho mật nghị. Vì 13 vị cử tri sẽ bước sang tuổi 80 vào năm 2025, nên Đức Thánh Cha có thể bổ nhiệm số cử tri đó hoặc nhiều hơn nếu ngài muốn trong năm nay.
Năm Thánh
Đức Phanxicô dự kiếnsẽ bắt đầu Năm Thánh 2025 ngay trước lễ Giáng Sinh bằng việc mở Cửa Thánh của Vương cung thánh đường Thánh Phêrô trong một nghi thức có từ năm 1500. Ngày mở cửa chính xác vẫn chưa được công bố. Đây sẽ là đại lễ Năm Thánh thứ hai của ngài; Đầu tiên là Năm Thánh Lòng Thương Xót ngoại thường, được ngài khai mạc tại Bangui, thủ đô của Cộng hòa Trung Phi đang bị chiến tranh tàn phá, vào ngày 29 tháng 11 năm 2015. Các nhà tổ chức Năm Thánh 2025 của Vatican kỳ vọng sẽ thu hút khoảng 30 triệu khách hành hương đến thành phố vĩnh cửu để tham gia sự kiện này và để chuẩn bị chào đón họ, nhiều công việc đang được thực hiện ở thành Rôma.
Bệnh viện này cũng sẽ mang tên “Gesù Bambino”, Chúa Hài Đồng Giêsu, và được sự cộng tác chặt chẽ nhiều mặt của bệnh viện tại Roma, thuộc quyền sở hữu của Tòa Thánh.
Báo Công giáo Avvenire, Tương lai, số ra ngày 06 tháng Năm ở Roma, cho biết dự án này được sự bảo trợ của Ủy ban cấp cao “Tình huynh đệ nhân loại”, vốn được thành lập sau cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha Phanxicô tại Abu Dhabi, tháng Hai năm 2019 và ký với Đại Imam Ahmed al-Tayyeb, của Đền thờ Hồi giáo này ở Cairo “Tuyên ngôn về tình huynh đệ nhân loại”. Chính ủy ban này sẽ đẩy mạnh việc tiến hành Bệnh viện Chúa Hài Đồng Giêsu.
Cho đến nay, một sáng kiến từ Tuyên ngôn vừa nói đã được thực hiện ở Cairo, đó là “Ốc đảo Tình thương”, một Viện cô nhi được khánh thành hôm Chúa nhật, ngày 05 tháng Năm vừa qua, chuyên đón nhận và săn sóc các trẻ em bị bỏ rơi, từ 6 đến 12 tuổi. Hiện diện tại buổi lễ, có Đức ông Yoannis Lahzi Gaid, cựu thư ký riêng của Đức Thánh cha Phanxicô và hiện là Chủ tịch Hội “Chúa Hài Đồng Giêsu” ở Cairo và cũng là thành viên “Ngân quỹ Tình Huynh đệ nhân loại”. Ngoài ra, có Sheikh Abdullah Bin Zayed Al Nahyan, thuộc Hoàng gia ở Dhabi. Trung tâm này đã được mở ra hồi năm 2022.
Trí tuệ nhân tạo (AI) gây nguy hiểm gì cho sự an toàn của trẻ em trong môi trường kỹ thuật số? Đây là ý tưởng trung tâm của hội nghị có chủ đề “Phẩm giá của trẻ em trong thế giới kỹ thuật số”, được tổ chức bởi Quỹ S.O.S Il Telefono Azzurro và Đại sứ quán Ý cạnh Tòa Thánh, trong khuôn khổ Ngày Quốc gia chống lại nạn ấu dâm và khiêu dâm trẻ em. Ngày này được tổ chức tại Ý vào ngày 5/5 hàng năm.
Hội nghị đưa ra số liệu thống kê đáng lo ngại: vào năm 2023 có hơn 275.000 trang web có nội dung khiêu dâm trẻ em trên Internet, với khoảng 11.000 bức ảnh do Trí tuệ nhân tạo tạo ra, chỉ trong một tháng. Tuy nhiên, những con số này có thể còn cao hơn.
Những nguy hiểm và cơ hội của Trí tuệ nhân tạo
Ông Ernesto Caffo, chủ tịch của Telefono Azzurro, nhận định rằng trẻ em và thanh thiếu niên ngày càng tiếp xúc với các nền tảng chứa các công cụ “có thể dẫn đến hành vi gặp nguy hiểm”. Đây là một thách thức mới và quan trọng vì nó làm lung lay tất cả các cơ chế kiểm soát đã được thực hiện trong những năm gần đây. Ông chỉ ra rằng mặc dù các công nghệ mới có thể là những công cụ tuyệt vời, nhưng bất kỳ sự mong manh nào cũng có thể “là nguồn gây ra rủi ro ngày càng tăng cho các thế hệ mới”. Theo ông, tình trạng nghiêm trọng này phải được giải quyết ở cấp độ quốc tế cao nhất, chẳng hạn như hội nghị thượng đỉnh G7 tiếp theo, để đưa ra các đề xuất về vấn đề này.
Sự cân bằng giữa tiến bộ công nghệ và giá trị của con người
Trong bài phát biểu, Đức Hồng Y Seán O'Malley, Tổng Giám mục Boston (Hoa Kỳ) và là chủ tịch Ủy ban Giáo hoàng về Bảo vệ Trẻ vị thành niên, đã nhắc lại rằng tiến bộ công nghệ đòi hỏi và yêu cầu “sự cân bằng giữa tiến bộ công nghệ và giá trị con người”. Ngài nhấn mạnh lời kêu gọi của Đức Thánh Cha, người đã nhiều lần tuyên bố rằng “công nghệ phải phục vụ để cải thiện cuộc sống con người chứ không phải ngược lại”. Đức Hồng y cho biết “Sự dấn thân của Giáo hội đối với các công nghệ mới, đặc biệt là AI, bắt nguồn từ sứ mạng bảo vệ con người, phù hợp với Tin Mừng”.
Tạo "căn cước kỹ thuật số" để trẻ em truy cập internet
Bà Carla Garlatti, Cơ quan Giám sát Trẻ em và Thanh thiếu niên, nói rằng có thể phát triển các sáng kiến và công cụ để kiểm soát quyền truy cập của trẻ em và thanh thiếu niên vào các nền tảng có nội dung không phù hợp. Tuy nhiên, luật gia Guido Scorza cho rằng việc kiểm soát là “khó áp dụng vào thời điểm này” vì giới trẻ có xu hướng sử dụng nội dung được thiết kế cho lứa tuổi lớn hơn.
Hiệp ước quốc tế về Trí tuệ nhân tạo
Cuối cùng, Cha Hans Zollner, trưởng khoa Nhân chủng học tại Đại học Giáo hoàng Gregoriana, đã cảnh báo về mối nguy hiểm của điện thoại thông minh, thứ “khiến chúng ta [tin rằng] chúng ta có mọi thứ trong tầm kiểm soát, nhưng thực tế không đúng như vậy”. Cha nhắc lại lời của Đức Thánh Cha Phanxicô, cần “thiết lập và thông qua một hiệp ước quốc tế về Trí tuệ nhân tạo”, một vấn đề quan trọng đối với con người trong tương lai.
Đức Hồng Y Parolin gọi cuộc bỏ phiếu phá thai ở Liên Hiệp Âu Châu là một cuộc tấn công triệt để vào sự sống
Trong một cuộc phỏng vấn trên phạm vi rộng, nhà ngoại giao hàng đầu của Đức Thánh Cha Phanxicô cho biết một cuộc bỏ phiếu gần đây của Nghị viện Âu Châu coi việc phá thai là một quyền cơ bản đã cấu thành một “cuộc tấn công triệt để” vào sự sống con người.
Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ khanh Vatican cho biết: “Khi cuộc sống bị tấn công một cách triệt để như vậy, bạn thực sự phải hỏi chúng ta muốn xây dựng loại tương lai nào”
Các bình luận được đưa ra trước cuộc bầu cử vào tháng 6 cho Nghị viện Âu Châu, khi quyền phá thai được cho là một trong những vấn đề bỏ phiếu.
Về các mặt trận khác, Đức Hồng Y Parolin cho biết đang có “những chuyển động lớn” hướng tới việc trao đổi tù nhân giữa Nga và Ukraine, đồng thời xác nhận Vatican sẵn sàng đóng vai trò trung gian hòa giải trong cuộc chiến đó, ở Trung Đông và bất cứ nơi nào xung đột đang diễn ra.
Đức Hồng Y Parolin, 69 tuổi, phát biểu trong một cuộc phỏng vấn với Avvenire, tờ báo chính thức của Hội Đồng Giám Mục Ý; khi đang ở Rimini để tham dự hội nghị quốc gia về Canh tân trong Thánh Linh, là phong trào đặc sủng Công Giáo hàng đầu của Ý.
Hướng tới cuộc bầu cử ở Âu Châu, Đức Hồng Y Parolin đã được hỏi về cuộc bỏ phiếu ngày 11 tháng 4 của quốc hội để đưa việc phá thai vào một trong những quyền cơ bản được Hiến chương Liên Hiệp Âu Châu công nhận.
Đây phần lớn được coi là một kết quả mang tính biểu tượng, vì việc sửa đổi hiến chương sẽ cần có sự đồng ý của tất cả 27 quốc gia thành viên và cả Ba Lan và Malta đều đã cho biết rằng họ sẽ không chấp thuận thay đổi này. Tuy nhiên, kết quả khá áp đảo, với 336 phiếu ủng hộ, 163 phiếu chống và 39 phiếu trắng, với sự ủng hộ của Tổng thống Pháp Emmanuel Macron.
Đức Hồng Y Parolin bày tỏ sự cay đắng trước động thái này.
“Khi cuộc sống bị tấn công một cách triệt để như vậy, bạn thực sự phải hỏi chúng ta muốn xây dựng loại tương lai nào. Tôi cảm thấy một nỗi buồn lớn lao trong sâu thẳm trái tim mình và tôi thậm chí không có lời nào để diễn tả nó một cách thỏa đáng”.
“Tôi nhắc lại, tôi cảm thấy vô cùng buồn khi phải đối mặt với tình huống này. Làm sao chúng ta có thể nghĩ rằng phá thai là một quyền? Rằng nó có thể bảo đảm một tương lai cho xã hội của chúng ta?”
Liên quan đến Nga và Ukraine, Đức Thánh Cha Phanxicô đã sử dụng bài phát biểu Phục sinh Urbi et Orbi của mình để kêu gọi trao đổi tù nhân toàn diện. Đức Hồng Y Parolin cho biết ngài tin rằng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha đã có hiệu quả.
“Tôi không có thông tin chính xác, nhưng từ những gì tôi nghe được thì thấy có rất nhiều chuyển động theo hướng này,” Parolin nói. “Vì vậy, lời kêu gọi của Đức Thánh Cha đã được lắng nghe và tuân theo.”
“Chúng tôi coi đó là một dấu hiệu tích cực, bởi vì chúng tôi tin rằng dự án do Đức Hồng Y Matteo Zuppi thực hiện vào năm ngoái trong quá trình thực hiện sứ mệnh do Đức Thánh Cha giao cho ngài có giá trị rất lớn”.
Đức Hồng Y Parolin đã đề cập đến các chuyến đi năm ngoái tới Kyiv, Mạc Tư Khoa, Washington và Bắc Kinh của Đức Hồng Y Matteo Zuppi của tổng giáo phận Bologna, chủ tịch hội đồng giám mục Ý, theo lệnh của Đức Thánh Cha, trong nỗ lực mở ra các kênh đối thoại.
“Đương nhiên, chúng tôi nghĩ rằng việc tập trung vào các khía cạnh nhân đạo – liên quan đến cả tù nhân và cả trẻ em – có thể tạo điều kiện để đi đến các cuộc đàm phán, chúng tôi hy vọng, có thể kết thúc chiến tranh,” Đức Hồng Y Parolin nói.
Ngài cũng chỉ ra rằng nhiệm vụ của Zuppi có thể chưa kết thúc.
“Tôi không tin rằng mọi chuyện đã kết thúc, theo nghĩa là ngài đã giúp đưa ra một cơ chế hồi hương trẻ em,” Parolin nói. “Sứ mệnh về cơ bản tập trung vào khía cạnh này, nhưng nó vẫn mở cho bất kỳ sự phát triển nào có thể xảy ra.”
Về cuộc chiến ở Gaza, Đức Hồng Y Parolin tái khẳng định sự ủng hộ lâu dài của Vatican đối với giải pháp hai nhà nước cho cuộc xung đột Israel/Palestine.
“Tòa Thánh có các mối liên hệ ở nhiều cấp độ khác nhau. Chúng tôi đang chuyển sang cấp độ ngoại giao để cố gắng tìm ra chiến lược hòa bình. Chắc chắn, tình hình vô cùng phức tạp”, ông nói.
“Nhưng đối với tôi, trên thực tế, có thể có những giải pháp. Khi chúng tôi nghĩ về công thức hai nhà nước, sẽ có một đề xuất cụ thể mà chúng tôi nên hướng tới”, Đức Parolin nói. “Có lẽ điều này có thể giúp tìm ra một giải pháp dứt khoát. Chắc chắn, điều đầu tiên là chấm dứt chiến sự và bảo đảm ít nhất một thỏa thuận ngừng bắn”.
Đức Hồng Y Parolin cũng nhắc lại sự sẵn sàng của Vatican đóng vai trò trung gian hòa giải nếu được yêu cầu giúp đỡ.
Ngài nói: “Chúng tôi luôn nói, trong mọi tình huống có thể xảy ra, rằng ở đâu các bên tin rằng Tòa thánh có thể hữu ích, thì sự hiện diện của Giáo Hội sẽ được hoan nghênh, lúc đó chúng tôi sẽ luôn sẵn sàng”.
“Phong thánh ngay, Santo Subito!” Ngày 8 tháng 4 năm 2005, hồng y Ratzinger, niên trưởng Hồng y đoàn, người bảo vệ giáo lý cử hành thánh lễ an táng Đức Gioan-Phaolô II, một tiếng hô vang đã xé tung bầu trời Quảng trường Thánh Phêrô. Chưa đầy một tuần sau khi giáo hoàng Gioan-Phaolô II qua đời, giáo dân đòi “phong thánh” ngay cho ngài.
Không phải là không thành công! Chưa đầy 10 năm sau, ngày 27 tháng 4 năm 2014, Đức Phanxicô đã phong thánh cho Đức Gioan-Phaolô II (triều giáo hoàng từ 1978 đến 2005), một thời gian kỷ lục cùng lúc với Đức Gioan XXIII (từ 1858 đến 1963).
Theo cách nói của Vatican, đây được gọi là “ticket” (vé). Phương pháp tập hợp hai giáo hoàng để không bị thiên vị, nhạy cảm này hơn nhạy cảm kia, Đức Gioan XXIII được đánh giá là “nhà cải cách” vì đã mở Công đồng Vatican II (1962-1965) và Đức Gioan-Phaolô II bị cho là “bảo thủ” vì đã tìm cách sửa chữa “những lỗi diễn giải”. Việc phong thánh cho một giáo hoàng luôn có chiều hướng cụ thể và qua “các giáo hoàng thánh thiện”, Giáo hội gởi thông điệp chính trị-thiêng liêng vượt xa ý nghĩa của việc phong thánh thông thường. Điều này đã bắt đầu từ nguồn gốc.
Trong sáu thế kỷ đầu tiên có 73 giáo hoàng được phong thánh
Với bốn giáo hoàng “thánh” từ giữa thế kỷ 20 (Piô X, Phaolô VI, Gioan XXIII, Gioan-Phaolô II) và một chân phước (Gioan-Phaolô I), đôi khi chúng ta có ấn tượng đây là một hiện tượng gần đây. Thật ra việc công nhận sự thánh thiện của các giáo hoàng đã có từ xưa. Trong 2000 năm, gần một phần ba giám mục của Rôma (83 trên 266) được phong thánh. Các vụ phong thánh này ít được biết đến vì đại đa số các giáo hoàng được phong thánh, 73 trong số 83, sống trong sáu thế kỷ đầu tiên, cho đến Đức Gregory I Cả.
Đúng là các giáo hoàng kế vị Thánh Phêrô đều được xem là thánh. Sử gia Roberto Rusconi, tác giả quyển sách tiếng Ý Đức Thánh Cha: sự thánh thiện từ Thánh Phêrô đến Thánh Gioan-Phaolô II (Santo Padre: La santità del papa da san Pietro a Giovanni Paolo II) viết: “Trong ba thế kỷ đầu tiên của kỷ nguyên kitô giáo, các giáo hoàng tử đạo dưới bàn tay của chính quyền la-mã là điều hiển nhiên, dù trên thực tế chỉ có một số trường hợp có thể gọi là tử đạo thực sự và có một độ tin cậy hợp lý.”
Các giáo hoàng đầu tiên được đưa ra để tôn kính là từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12, một thời kỳ quan trọng với Giáo hội Rôma, sử gia Rusconi viết, “đấu tranh để khẳng định quyền tự chủ của mình trong mối quan hệ với các cường quốc khác, và tính ưu việt của họ với Đế chế Đức”. Tóm lại các giáo hoàng đã đối đầu với các hoàng đế của Đế chế la-mã để biết ai là người đại diện thực sự của Chúa trên trái đất, việc phong thánh cho những người tiền nhiệm của họ bị các hoàng đế la-mã đàn áp là một cách để bảo vệ tự do và quyền tự chủ của Giáo hội.
Ý tưởng về mối liên hệ giữa thánh thiện và chức vụ giáo hoàng
Vì vậy, dần dần trong bối cảnh các cựu giám mục Rôma tử đạo, ý tưởng chung về mối liên hệ giữa sự thánh thiện và thừa tác vụ của giáo hoàng đã được phát triển. Trong thời kỳ cải cách Gregorian này, Giáo hội khẳng định vai trò của giáo hoàng, áp đặt chế độ độc thân của các linh mục – đồng thời với sự độc lập của hàng giáo sĩ cho đến lúc đó vẫn còn phụ thuộc vào quyền lực của “đại giáo dân” giàu có, những người làm mưa làm gió trong các bổ nhiệm – việc xưng “giáo hoàng thánh” là một vấn đề của sự uy tín.
Và đó là bước ngoặt quan trọng mỗi lần có chỉ trích Giáo hội công giáo: chúng ta đã nhìn lại lịch sử các giám mục tử đạo ở Rôma trong những thế kỷ đầu tiên, khuyến khích việc sùng bái các “thánh giáo hoàng”để bảo đảm cho sự vững chắc của thể chế. Tại Công đồng Trent (1545-1563), tập hợp để phản đối cuộc Cải cách Tin lành, lòng sùng kính này đã được khuyến khích. Khi Giáo triều được tổ chức lại, một bộ phong thánh được thành lập, có nhiệm vụ đặc biệt là kiểm tra một số trường hợp của các giáo hoàng.
Trong số các “vụ phong thánh” này chỉ có vụ phong thánh Đức Piô V dòng Đa Minh được ca ngợi vì vai trò của ngài trong Trận Lepanto của hạm đội kitô giáo chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ đã thực hiện năm 1712. Tác giả Rusconi lưu ý: “Việc mở ra các thủ tục khác có lợi cho các giáo hoàng, vào thời điểm mà những căng thẳng nghiêm trọng đầu tiên đang xuất hiện giữa các tổ chức giáo hội và xã hội hiện đại.” Chúng ta đang ở thế kỷ 18, và Cách mạng Pháp làm sống lại mô típ giáo hoàng bị đàn áp. Câu chuyện Đức Piô VI bị lưu đày ở tuổi 81 năm 1798 sau chiến dịch Ý của Bonaparte, ngài xin được chết ở Rôma nhưng vô vọng làm mọi người đau lòng rơi nước mắt, cũng như chuyện Đức Piô VII bị hoàng đế Pháp bắt làm tù binh.
Thiêng liêng hóa vai trò của giáo hoàng ở thế kỷ 19
Tác giả Rusconi lưu ý: “Những thử thách cá nhân của họ đã đặt nền móng cho uy tín của các giáo hoàng tử đạo gắn liền với con người của các giáo hoàng, điều này không chuyển qua thờ phượng và sùng kính một cách cụ thể, đặc biệt vì những người kế vị họ chỉ quan tâm đến mục tiêu trước mắt là khôi phục quyền lực tạm thời của các giáo hoàng. Nhưng các sự kiện này cũng tạo điều kiện cho người công giáo có một cái nhìn mới về nhân vật giáo hoàng, khi có một cuộc bách hại mới với Giáo hội.”
Cuộc đàn áp mới này đã dẫn đến sự sụp đổ các Quốc gia giáo hoàng năm 1870, sau phong trào Risorgimento, một phong trào dẫn tới sự thống nhất nước Ý và tuyên bố thành lập nền cộng hòa.
Đức Piô IX đã cố gắng chống cự đến cùng, ngài sợ với các lãnh thổ của mình, Giáo hội sẽ mất quyền tự chủ, thấy mình bị giam cầm ở Vatican. Đặc quyền của Giáo hội chỉ còn ở các lãnh vực thiêng liêng và đạo đức. Nhưng số phận của “vị vua” bại trận đã khơi dậy một làn sóng thương xót vô bờ bến trong thế giới công giáo. Hình ảnh của ngài đã đi vào các gia đình.
Sự hội nhập của chiều kích thánh thiện cá nhân
Cho đến lúc đó giáo hoàng chỉ là một nhân vật xa xôi, một chức năng, nhưng giờ đây chúng ta quan tâm đến con người của ngài, sự thánh thiện của giáo hoàng mang chiều kích cá nhân hơn. Nhiều chứng từ cho rằng ngài đã làm phép lành, đến mức sau khi ngài qua đời năm 1878, một số muốn phong thánh cho ngài ngay lập tức. Không thể được, vì vết thương vẫn còn hở giữa nền cộng hòa non trẻ và Giáo hội. Nó chỉ bắt đầu lành khi Hiệp định Lateran được ký kết năm 1929.
Giáo hoàng không còn thực thi quyền lực chính trị của ngài trên lãnh thổ nhưng ngài lại có đôi tay tự do hơn để khẳng định ảnh hưởng ngoại giao mới, không liên quan đến lợi ích quốc gia trước mắt. Trên hết, uy quyền đạo đức và thiêng liêng của ngài được củng cố. Việc thiêng liêng hóa vai trò này bị ép buộc và sau đó được chấp nhận trong giai đoạn căng thẳng mới với quyền lực chính trị và rộng hơn là với tính hiện đại, chuẩn bị cho việc phong thánh các giáo hoàng thánh thiện vào hậu bán thế kỷ 20.
Đức Piô X tập trung vào phụng vụ – thánh lễ la-tinh, đấu tranh chống chủ nghĩa hiện đại, bảo vệ người bản địa Nam Mỹ, được Đức Piô XII phong thánh năm 1954. Một cách tượng trưng, đây là một trong những hành động của ngài, bỏ độc quyền đã từng dành cho các nước Áo, Pháp và Tây Ban Nha để có thể chận một hồng y được bầu lên ngai Thánh Phêrô, tàn tích của cuộc đấu tranh kéo dài hàng thế kỷ của Giáo hội và Đế quốc…
Có nguy cơ đi quá nhanh…
Nhưng trong hậu bán thế kỷ 20, khi một lần nữa, Giáo hội bị rung chuyển bởi sự toàn cầu hóa và hiện đại hóa, thì chính Đức Gioan Phaolô II, thấm nhuần lòng mộ đạo bình dân của người Ba Lan, ngài mang hào quang lại trong việc phong thánh với danh hiệu “người phong thánh nhiều nhất” (1341 chân phước, 482 thánh). Năm 2000, ngài phong chân phước cho Đức Piô IX, cha đẻ của tín điều bất khả ngộ của giáo hoàng tại Công đồng Vatican I (1869-1870), cùng lúc với Đức Gioan XXIII, cha đẻ của Công đồng Vatican II.
Một “ticket” khác rất chính trị. Như tác giả Rusconi viết, 14 năm sau, việc phong thánh cho Đức Gioan Phaolô II đánh dấu “sự kết thúc của một hành trình đã bắt đầu gần một ngàn năm trước và không chỉ dẫn đến việc thánh hóa chức giáo hoàng trong Giáo hội và trong lịch sử, mà còn với sự thánh thiện cá nhân của giáo hoàng trong việc thực hiện và vì sứ vụ giáo hoàng của ngài là một trùng hợp hoàn toàn.”
Có nguy cơ hành động quá nhanh, được thấy qua những tranh cãi nảy sinh vài năm sau khi phong thánh cho ngài, ngài bị nghi ngờ trong việc quản lý các linh mục lạm dụng ở Ba Lan khi ngài là tổng giám mục Krakow. Đức Phanxicô luôn nhận mình là “người phạm tội nặng” và không muốn gọi ngài là “Đức Thánh Cha”, ngài đã vượt Đức Gioan Phaolô II về việc phong thánh (1522 chân phước, 912 thánh), tiến tới con số kỷ lục là ba lần phong thánh (phong thánh Đức Phaolô VI năm 2018) và một lần phong chân phước cho các giáo hoàng. Một nghịch lý thực sự, dấu hiệu của những nghi ngờ xuyên suốt một thể chế ý thức mình đã đạt đến một bước ngoặt trong mối quan hệ với thế giới và phương thức hoạt động của nó.
Rôma, nước Ý ngày 8 tháng 4 năm 2005; Quảng trường Thánh Phêrô trong tang lễ của Đức Gioan-Phaolô II.
Giáo dân giương biểu ngữ “Santo subito“, phong thánh ngay lập tức để làm vui lòng mọi người giữa rừng cờ Ba Lan (trắng và đỏ).
“Phong thánh ngay lập tức!” Chúng ta nhớ đến tiếng dân đã làm cho Đức Bênêđíctô XVI, trong một thời gian kỷ lục đã phong chân phước cho Đức Gioan-Phaolô II, người tiền nhiệm và cũng là bạn của ngài. Vì vậy, không ai đặt vấn đề với giáo hoàng Ba Lan nổi tiếng này là một vị thánh. Câu hỏi nảy sinh mười lăm năm sau, khi vụ lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên trong Giáo hội nổ ra và mọi người tự hỏi một cách hợp pháp về thái độ của Đức Gioan Phaolô II trong vấn đề này – đặc biệt là thái độ đồng tình của ngài với linh mục Maciel Degollado, người sáng lập Binh đoàn Chúa Kitô.
Chúng ta có thể bình tĩnh xem xét hậu trường của một triều giáo hoàng khi người nắm giữ chức vụ này được tuyên bố là “thánh” không? Vấn đề được đặt một cách rộng hơn khi một giáo hoàng phong thánh cho một giáo hoàng khác có xúc phạm đến ký ức về Thánh Gioan Phaolô II không? Một lần nữa câu hỏi lại đặt ra cho Đức Phanxicô khi ngài phong chân phước cho Đức Gioan-Phaolô I đầy thiện cảm và có triều giáo hoàng ngắn ngủi này. Ở đây một lần nữa, không có vấn đề gì khi buông bất cứ lời chỉ trích nào với triều giáo hoàng ngắn ngủi của Albino Luciani, nhưng chúng ta có thể hỏi một cách khách quan, điều gì thúc đẩy sự vinh danh đặc biệt và đặc cách này.
Được bầu lên ngai Thánh Phêrô để lãnh đạo Giáo hội công giáo có phải là một vinh dự ghê gớm được các đồng hữu của mình, trong một mật nghị long trọng bầu mình lên một phẩm chức tối cao đó sao? Có phải là quá dư và không biện minh được khi muốn nâng cao “trên bàn thờ” một giáo hoàng, người đứng đầu Giáo hội hoàn vũ và người kế vị Thánh Phêrô khi ký ức của người này vẫn còn, dù cái gì xảy ra, trong ký ức của loài người đó không?
Trước đây, chưa từng có người Ả Rập, Kitô hữu hay phụ nữ nào từng giữ chức viện trưởng tại Đại học Haifa. Do đó, trong cuộc phỏng vấn của trang tin CNA, bà Maroun nhận định: “việc bầu chọn tôi là một thông điệp quan trọng rằng mọi thứ đều có thể xảy ra trong giới học thuật Israel. Đó là một thông điệp dành cho thiểu số Kitô giáo rằng chúng ta đã đâm rễ ở đây, rằng chúng ta có thể thành công ở đây; và đó cũng là một thông điệp dành cho các thế hệ trẻ Ả Rập: Nếu bạn có ước mơ, bạn có thể thực sự hiện thực hóa nó trong xã hội Israel và đặc biệt là trong các trường đại học”.
Giáo dục đại học giúp hòa nhập
Giáo sư Maroun là con cháu của một gia đình gốc Libăng di cư đến Israel vào đầu thế kỷ XX. Cha mẹ bà mù chữ nhưng tin rằng học vấn cao sẽ giúp 4 con gái của họ có thể thành công và hòa nhập vào xã hội Israel. Bà Maroun cũng tin như thế. Bà nói: “Tôi luôn tin rằng việc giải phóng người thiểu số Ả Rập ở Israel là thông qua giáo dục đại học. Tôi không tin vào chính trị; tôi tin vào giáo dục đại học”.
Hiện nay, giáo sư Maroun, 54 tuổi, là nhà thần kinh học và chuyên gia nổi tiếng về rối loạn căng thẳng sau chấn thương. Bà đã là giảng viên của trường đại học trong hơn 20 năm và từng là chủ tịch Khoa Sinh học thần kinh và là thành viên của hội đồng học thuật, cùng với các chức vụ khác. Bà sẽ chính thức đảm nhận vai trò viện trưởng trong 4 năm bắt đầu từ tháng 10 năm nay.
Tìm kiếm con đường đối thoại và hòa giải
Đại học Haifa là một trong những trường đại học đa dạng và hòa nhập nhất ở Israel: 45% trong số 17.000 sinh viên đến từ xã hội Ả Rập và 50% tổng số sinh viên là sinh viên thế hệ đầu tiên được giáo dục đại học.
Sinh viên xếp theo các nhóm dân tộc bao gồm người Do Thái, người Hồi giáo, người Druze và Kitô hữu (tổng cộng 15-20 giáo phái tôn giáo khác nhau). Bản thân bà Maroun tự hào về niềm tin tôn giáo của mình và đeo một cây Thánh giá bằng vàng ở cổ.
Giáo sư Maroun nói: “Chúng tôi có cái gọi là phòng thực nghiệm tự nhiên, nơi tất cả các tôn giáo cùng tồn tại và chung sống mà không có căng thẳng. Ngoài ra, Phòng thực nghiệm Nghiên cứu Tôn giáo là một phần của Đại học Haifa, tập trung vào đối thoại liên tôn. Theo bà, trở thành viện trưởng người Ả Rập của một trường đại học Israel sau ngày 7/10/2023 [ngày Hamas tấn công Israel] là một nhiệm vụ đầy thử thách.
Bà Maroun giải thích rằng chuyên môn của bà về chấn thương và não bộ cũng như nền tảng Kitô giáo đã giúp bà phát triển sự nhạy cảm đặc biệt đối với người khác và tìm kiếm con đường đối thoại và hòa giải. Bà nói: “Điều này sẽ đặc biệt quan trọng trong những ngày tháng sắp tới ở Israel”.
Đó là nhà thờ Chúa Cứu Thế ở Chora, ở phía đông bắc của trung tâm cổ thành Constantinople, nay là Istanbul. Thánh đường này trước kia là một Đan viện Kitô có từ thế kỷ thứ VI và sau được nới rộng với nhà thờ. Sau khi đế quốc Ottoman chiếm thành Constantinople năm 1453, thánh đường bị biến thành đền thờ Hồi giáo cho đến năm 1511. Các bức bích họa diễn tả Chúa Kitô nhập thể làm người như Đấng Cứu Thế bị lấy vôi trát lên trên, nhưng không bị phá hủy.
Sau Thế chiến thứ II, thánh đường được các chuyên gia người Mỹ tu bổ quy mô và từ năm 1945 bị nhà nước Thổ Nhĩ Kỳ dùng làm bảo tàng viện. Tuy nhiên, quyết định này bị ngưng từ bốn năm nay.
Trang mạng “Chính thống Thời báo” (Orthodox Times) đưa tin: Tổng thống Erdogan đã muốn biến bảo tàng viện này, sau 79 năm sử dụng, thành “đền thờ Hồi giáo Kariye”. Tuy nhiên, các bích họa trong thánh đường không bị quét vôi hoặc vật liệu khác đè lên trên, nhưng sẽ được che phủ bằng một tấm thảm màu đỏ.
Hồi tháng Tám năm 2020, chính phủ của Tổng thống Erdogan tuyên bố hợp đồng năm 1958 về việc sử dụng thánh đường nổi tiếng Hagia Sophia như bảo tàng viện là vô hiệu lực, đồng thời biến thành đền thờ Hồi giáo. Đức Thượng phụ Bartolomaios, Giáo chủ Chính thống Constantinople, mạnh mẽ phản đối.
Tuy hiến pháp Thổ Nhĩ Kỳ, có từ khi Kemal Ataturk lập quốc, chính thức tuyên bố là trung lập về tôn giáo, nhưng các tôn giáo thiểu số, ngoại trừ Hồi giáo Sunnit, luôn bị kỳ thị. Ví dụ, họ không được nhà chức trách tôn giáo của chính phủ tài trợ.
Rabbi Goldschmidt được trao tặng giải thưởng nổi tiếng Charlemagne, ngày 09 tháng Năm vừa qua, tại thành phố Aachen bên Đức, cùng với các cộng đồng Do thái Âu châu.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Công giáo Đức KNA, hôm mùng 07 tháng Năm vừa qua, Rabbi Goldschmidt nhận định rằng hậu quả cuộc tấn công ngày 07 tháng Mười năm ngoái của Hamas, khuyến khích nhiều người bài Do thái tổ chức các cuộc bố ráp mới chống người Do thái, vì họ nghĩ rằng người Do thái không hùng cường. Theo Rabbi, tương lai của người Do thái tại Âu châu phần lớn tùy thuộc chính Âu châu. Và Rabbi Goldschmidt nhìn nhận rằng các chính phủ thuộc Liên hiệp Âu châu đã phản ứng tốt đối với biến cố ngày 07 tháng Mười năm 2023, qua việc bảo vệ các cộng đoàn Do thái, trong tư cách là người bảo đảm một Âu châu đa nguyên, dân chủ. Tuy nhiên, thật là điều gây phiền toái vì trào lưu bài Do thái gia tăng, “càng ngày người ta càng có thái độ thù nghịch của tả phái cực đoạn đối với Israel và ngày càng có những người Hồi giáo công khai bài Do thái”.
Trong cuộc phỏng vấn, Rabbi Goldschmidt than phiền vì sự thiếu ủng hộ của xã hội và các tổ chức tôn giáo, và ông kêu gọi tiếp tục đối thoại liên tôn. Theo Rabbi, sự trao đổi và tình liên đới thực là quan trọng trong lúc này, và Rabbi coi giải thưởng Charlemagne “là một dấu hiệu ủng hộ quan trọng và liên đới đối với các cộng đồng Do thái” và nhìn nhận công việc đã làm.
Hội đồng các Rabbi Do thái do Rabbi Goldschmidt làm Chủ tịch hiện qui tụ khoảng 800 Rabbi chính thống tại Âu châu và có trụ sở tại Munich, nam Đức. Rabbi Goldschmidt năm nay 61 tuổi (1963), sinh tại Zurich, Thụy Sĩ, làm Chủ tịch Hội đồng này từ 13 năm nay (2011). Ông nguyên là Rabbi trưởng tại Mascơva bên Nga. Sau khi Nga xâm lăng Ucraina, ông di cư sang Israel.
Giải thưởng Charlemagne được thành lập năm 1950 và được trao tặng cho những nhân vật và tổ chức nổi bật trong việc đóng góp cho sự thống nhất Âu châu. Giải thưởng mang tên Hoàng đế Charlemagne (742-814) là người đầu tiên cổ võ một Âu châu thống nhất và đã chọn thành Aachen, là kinh đô ưu tiên của ông. Năm ngoái, giải này được tặng cho Tổng thống Zelensky của Ucraina.