Thuyết tiến hóa, nói cho cùng, vẫn còn là một giả thuyết đang tranh cãi, tuy nhiên, ở nhiều nơi, nó vẫn đang được rao giảng như một chân lý, và học sinh không được phép đặt câu hỏi hay phản biện về nó. Tuy nhiên, nếu thực sự có thể phản biện, người ta sẽ thấy thuyết này có quá nhiều sơ hở.
Trang New Scientist đã đăng bài “Darwin đã sai” với 9 luận điểm chính – những sơ hở to lớn của học thuyết này, dưới đây là bản dịch của trang Huyền Học, được PVHg’s home biên tập.
Louis Pasteur (27 tháng 12, 1822 – 28 tháng 9, 1895), nhà khoa học nổi tiếng người Pháp, là người tiên phong trong lĩnh vực vi sinh vật học, tuyên bố: Sự sống phải bắt nguồn tự sự sống. Nói 1 cách đơn giản, con cái phải có bố mẹ sinh ra. Một sinh vật có ý thức dù là một tế bào nhỏ nhất, đơn giản nhất cũng không thể được tạo ra từ sự kết hợp ngẫu nhiên của những nguyên tử hóa học vô thức. Đây là một định luật đã được Pasteur chứng minh bằng thực nghiệm, được gọi là Định luật Tạo sinh (Biogenesis).
Đến nay câu hỏi nguồn gốc sự sống bắt nguồn như thế nào vẫn tiếp tục là một câu hỏi chưa có lời giải đáp đối với khoa học chính thống. Muốn cho Darwin đúng thì Định luật Tạo sinh – một trong những định luật nền tảng và vững chắc nhất của sinh học – phải sai. Sau thí nghiệm không thể tranh cãi, Pasteur tuyên bố dứt khoát:
“Học thuyết sự sống tự phát (spontaneous generation) sẽ không bao giờ có thể hồi phục lại được từ cú đấm như trời giáng của thí nghiệm đơn giản này. Không, không có một trường hợp nào được biết để có thể khẳng định rằng vi sinh vật có thể có mặt mà không có vi trùng, không có cha mẹ giống chúng.”
2. Tế bào nhân sơ không tiến hóa lên tế bào nhân chuẩn qua đột biến
Tế bào nhân sơ không tiến hóa lên tế bào nhân chuẩn qua đột biến, mà qua dị hợp cộng sinh (symbiosis). Sự kiện các vi khuẩn đơn bào tiến hóa thành những tế bào lớn hơn và phức tạp chúng gấp trăm lần là một câu chuyện bị bỏ trống hoàn toàn trong thuyết tiến hóa.
Tế bào nhân sơ thật ra có cấu trúc phức tạp hơn Darwin tưởng tượng rất nhiều.
“Đúng là tế bào nhân chuẩn là những tế bào phức tạp nhất mà chúng ta biết. Nhưng các dạng sống đơn giản nhất mà chúng ta biết, các tế bào nhân sơ, bản thân chúng cũng cực kì phức tạp. Nếu nhân chuẩn là một chiếp laptop thì nhân sơ cũng là một chiếc điện thoại di động. Không có bất cứ bằng chứng nào cho thấy có những dạng sống đơn giản hơn mà từ nó nhân sơ tiến hóa thành.” – Jonatthan Wells (nhà sinh học) và William Dembski (nhà toán học)
Đó là sự xuất hiện một cách đột ngột của hầu hết các nhánh ngành động vật chính cách đây khoảng 530 triệu năm như các lưu trữ hóa thạch đã chứng minh. Trước đó, hầu hết các sinh vật chỉ là những cá thể đơn giản. Chỉ trong vòng 70-80 triệu năm tốc độ tiến hóa đã gia tăng với một tốc độc ngạc nhiên đến bí ẩn. Chính Darwin đã ghi chú trong cuốn sách Nguồn Gốc Các Loài của ông rằng, sự xuất hiện đột ngột các động vật chân đốt trong các lưu trữ hóa thạch trong kỷ Cambri nêu lên một khúc mắc cho học thuyết tiến hóa. (Thuyết Darwin nói sự tiến hóa diễn ra từ từ từng tí một và trải qua thời gian vô cùng dài, nhưng sự bùng nổ sự sống trong kỷ Cambri trái ngược hoàn toàn với tưởng tượng của Darwin. PVHg)
“Số lượng các hình thái trung gian, đã phải từng tồn tại trên trái đất, phải là rất lớn. Vậy mà tại sao các nối kết trung gian này lại không thể được tìm thấy trong các lớp địa tầng? Đây có lẽ là sự phản đối rõ ràng và mạnh mẽ nhất có thể được nêu lên để chống lại giả thuyết của tôi.” – Charles Darwin, Nguồn Gốc Các Loài
“Mọi nhà cổ sinh vật học đều biết rằng các lưu trữ hóa thạch chứa đựng rất ít các dạng sinh vật trung gian; quá trình chuyển đổi giữa các nhóm chính có thể nói là xảy ra một cách đột ngột.” – Stephen J. Gould, giáo sư đại học Harvard.
5. Tính cố định, không thay đổi, của sinh vật.
“Thông tin là thông tin, thông tin không phải là vật chất hay năng lượng. Chủ nghĩa vật chất nào thất bại trong việc nhận thức điều này sẽ không sống sót nổi một ngày.” – Norbert Weiner (giáo sư toán học tại đại học MIT, được xem là cha đẻ của ngành điều khiển học, cybernetics)
Thông tin không phải là vật chất, nhưng nó có thể được chuyển tải thông qua vật chất. Chưa có một bằng chứng nào cho thấy thông tin có thể tiến hóa hay cải tiến thông qua đột biến.
Lỗi sao chép, còn gọi là đột biến điểm, xảy ra 1 lần trong 10 tỉ ký tự. Và mỗi chuỗi DNA con người chứa khoảng 3 tỉ ký tự di truyền.
“DNA cũng giống như một chương trình điện toán, nhưng cao cấp hơn nhiều, rất nhiều bất cứ một phần mềm nào đã từng được tạo ra.” – Bill Gates
“Số lượng thông tin có thể chứa trong DNA trên một đầu kim tương đương với một chồng sách bìa mỏng 500 lần độ dài từ trái đất đến mặt trời, với nội dung riêng biệt không lặp lại.” – Jonathan Sarfati, nhà vật lý học và hóa học.
Nói cách khác nếu chúng ta có một ổ cứng 40 GB, một đầu kim DNA có thể chứa một lượng thông tin lớn gấp 100 triệu lần ổ cứng đó.
Do đó không thể nào tin rằng có thể xẩy ra sự tiến hóa ngẫu nhiên và mù quáng.
“Kiến thức về DNA đã cho thấy, bởi độ phức tạp hầu như là không thể tin được về sự sắp xếp cần thiết để có thể sản sinh ra sự sống, rằng một ý thức thông minh phải có dính líu để có thể làm cho các nguyên tố cực kỳ đa dạng này vận hành được.” – Antony Flew, nhà vô thần nổi tiếng người Anh.
Các nhà khoa học tại Đại học Bristol cho rằng “không gian sinh sống” mới chính là động lực chính.
“Các nghiên cứu mới nêu ra rằng những thay đổi lớn trong tiến hóa xảy ra khi động vật di chuyển đến một không gian sinh sống mới, chưa bị chiếm cứ bởi những động vật khác.” – BBC News
“Một mô hình diễn tả sự liên kết giữa các giống loài đúng hơn nên là một bụi rậm không phải một cái cây. “Chúng ta không có bằng chứng nào chứng minh cái cây sự sống là một hiện thực.” – Eric Bapteste, nhà sinh vật học tại Đại Học Pierre and Marie Curie của Pháp.
Những thí nghiệm di truyền trên vi khuẩn, cây cối và động vật càng ngày càng tiết lộ rằng các loài khác nhau lai hợp nhiều hơn là chúng ta từng nghĩ. Có nghĩa là thay vì các giống loài chỉ đơn giản truyền thừa xuống giống nòi riêng rẽ của nó, nó còn trao đổi, lai tạp với những nhánh tiến hóa khác. Dẫn đến kết quả là một bụi rậm sự sống phức tạp hơn nhiều cái gọi là cây sự sống.
“Cây sự sống đang được chôn vùi một cách tế nhị. Điều ít được chấp nhận hơn là cái nhìn nền tảng về sinh học cần phải được thay đổi” – Michael Rose, nhà sinh học tại đại học UCI
Quan niệm cho rằng DNA của vượn giống DNA của người đến 99% không còn đúng nữa. Các nghiên cứu mới nhất cho thấy con số này chỉ còn 93%. Khác biệt lớn xảy ra ở cấu trúc cơ thể, não bộ, trí khôn, và hành vi….(“How Much DNA Do We Share With Chimps?” Softpedia, Nov. 20, 2006, p. 1)
Những khám phá về DNA chính là cái gót chân Achilles của thuyết tiến hóa, theo Tiến sĩ Stephen Meyer. Ông nhận xét: “Các nhà tiến hóa vẫn cố áp dụng tư duy của Darwin trong thế kỷ 19 vào hiện thực của thế kỷ 21, nhưng tư duy ấy không còn thích ứng được nữa… Tôi nghĩ cuộc cách mạng thông tin xảy ra trong sinh học đang gióng lên hồi chuông báo tử đối với học thuyết Darwin và các lý thuyết tiến hóa hóa học”.
Đó là một trích đoạn từ bài viết “DNA, mật mã nhỏ xíu đang lật đổ thuyết tiến hóa” của Mario Seiglie. Dưới đây là bản dịch của PVHg’s Home:
Năm 1953, James Watson và Francis Crick đạt được một thành tựu phi thường – khám phá ra cấu trúc di truyền nằm sâu bên trong hạt nhân tế bào. Vật liệu di truyền này được gọi là DNA, viết tắt của cụm từ deoxyribonucleic acid (tiếng Pháp là ADN).
Những khám phá mới về DNA mang lại cái nhìn sâu sắc đối lập với thuyết tiến hóa của Darwin – lý thuyết được dạy tại các trường học trên khắp thế giới, trong đó nói rằng mọi thực thể sống đã tiến hóa thông qua biến dị và chọn lọc tự nhiên.
1. DNA chứa đựng thông tin mã hóa khổng lồ
Khi các nhà khoa học bắt đầu giải mã phân tử DNA của người, họ tìm thấy một sự thật hết sức bất ngờ – một ngôn ngữ tinh tế bao gồm 3 tỷ chữ cái thuộc hệ di truyền. Tiến sĩ Stephen Meyer, giám đốc Trung tâm Khoa học và Văn hóa tại Viện Discovery ở Seattle, Washington, nói: “Một trong những khám phá phi thường nhất của thế kỷ 20 là: DNA quả thật có chứa đựng thông tin – những chỉ dẫn chi tiết để lắp ráp proteins – dưới dạng một mã số bốn chữ cái” [1].
Khó mà đo lường chính xác số lượng thông tin trong DNA của người, nhưng ước lượng nó tương đương với 12 bộ bách khoa toàn thư Britannica, gồm 384 cuốn sách dầy cộp lấp đầy 15m giá sách trong thư viện!
Nhưng kích thước thực tế của vật chất chứa đựng chúng lại nhỏ xíu – tất cả chỉ chứa trong 2 phần triệu milimét chiều dày – và theo nhà sinh học phân tử Michael Denton, một thìa cà phê DNA có thể chứa toàn bộ thông tin cần thiết để tạo ra protein của tất cả các loài sinh vật có mặt trên trái đất từ trước tới nay, và vẫn còn đủ chỗ để chứa toàn bộ thông tin trong mọi cuốn sách đã được viết.
Vậy ai hoặc cái gì có thể làm cái công việc vĩ đại là thu nhỏ kích thước của vật chất chứa đựng khối lượng thông tin khổng lồ như thế, rồi đặt số lượng khổng lồ các “chữ cái” đó vào trong một chuỗi thích hợp của chúng như một cẩm nang chỉ dẫn di truyền? Liệu sự tiến hóa liên tục dần dần từng tí một như Darwin nói có thể tạo ra một hệ thống kỳ diệu như thế không?
Trước hết hãy xem xét một số đặc điểm của “ngôn ngữ” di truyền. Để một hệ thống tín hiệu được gọi là một ngôn ngữ, nó phải thỏa mãn các điều kiện sau đây: có một hệ chữ cái hoặc mã + có một cách đánh vần chính xác + có một ngữ pháp (một cách sắp xếp thích hợp của từ ngữ) + có ý nghĩa (ngữ nghĩa) + và có mục đích, có dụng ý.
Các nhà khoa học đã khám phá ra rằng mã di truyền có tất cả các điều kiện trên. Tiến sĩ Stephen Meyer giải thích: “Khu vực mã hóa của DNA có những tính chất thích đáng giống y như mã hoặc ngôn ngữ computer”.
Ngoài mã của DNA, chỉ có duy nhất một loại mã khác được coi là ngôn ngữ thực sự, đó là ngôn ngữ của con người. Mặc dù loài chó biết sủa khi chúng nhận thấy nguy hiểm, loài ong vo ve để báo cho nhau biết một nguồn thức ăn, loài cá voi phát ra âm thanh… đó là vài thí dụ về sự thông tin liên lạc của các loài khác, nhưng không có loài nào có đủ điều kiện của một ngôn ngữ thực sự. Những thông tin ấy chỉ được xem như những tín hiệu liên lạc bậc thấp.
Những dạng thông tin liên lạc bậc cao chỉ bao gồm ngôn ngữ của con người + ngôn ngữ nhân tạo (ngôn ngữ computer, tín hiệu Morse…) + và mã di truyền.
“DNA giống như một chương trình phần mềm, chỉ khác là nó vô cùng phức tạp hơn rất nhiều so với bất kỳ phần mềm nào do con người tạo ra từ trước tới nay”– Bill Gates, nhà sáng lập Microsoft
Vậy, bất kể thời gian kéo dài chừng nào, bất kể bao nhiêu biến dị và chọn lọc tự nhiên diễn ra đi nữa, một thứ phức tạp như DNA có thể nào được chế tạo ra một cách ngẫu nhiên thông qua tiến hóa không?
Những nghiên cứu hiện nay trong lý thuyết thông tin đã đi đến một số kết luận làm ngỡ ngàng, rằng thông tin không thể xem như một dạng vật chất hoặc năng lượng. Vật chất và năng lượng chuyển tải thông tin, nhưng chúng không phải là bản thân thông tin.
Chẳng hạn cuốn sách Iliad của Homer chứa đựng thông tin, nhưng phải chăng nó chính là thông tin mà nó chứa đựng? Không, vật chất làm nên quyển sách (giấy + mực + keo dính) chứa đựng nội dung của quyển sách, nhưng chúng chỉ là những phương tiện chuyển tải nội dung đó.
Nhà sinh học George Williams giải thích: “Gene là một gói thông tin, thay vì một vật thể. Một mô hình của những cặp ba-zơ trong một phân tử DNA chỉ rõ một gene. Còn phân tử DNA chỉ là môi trường chuyên chở chứ không phải là bản thông điệp”.
4. Thông tin trong DNA phải được tạo ra bởi một nguồn trí tuệ thông minh
Dạng thông tin bậc cao trong DNA chỉ có thể bắt nguồn từ một nguồn trí tuệ thông minh.
Như nhà nghiên cứu biện giải Lee Strobel giải thích: “Dữ liệu tại phần cốt lõi của sự sống không hỗn độn, mà được sắp xếp trật tự ngăn nắp như những tinh thể muối, nhưng mức độ phức tạp của nó và thông tin nó chứa đựng cho phép nó có thể hoàn tất một nhiệm vụ phi thường – xây dựng những cỗ máy sinh học vượt xa khả năng công nghệ của con người”.
Chú thích ảnh: Khoa học vừa khám phá ra một mã thứ hai ẩn bên trong DNA đóng vai trò chỉ dẫn các tế bào kiểm tra các gene. Lâu nay hệ mã này bị che đậy vì một ngôn ngữ này được viết đè lên ngôn ngữ kia. Khoa học biết rằng mã di truyền sử dụng một bảng chữ cái có 64 chữ cái được gọi là các codon (mỗi codon là một bộ ba nucleotide liên tiếp trên gene). Một số codon có thể mang hai ý nghĩa – ý nghĩa thứ nhất liên quan đến việc lắp ráp protein, ý nghĩa thứ hai liên quan đến việc kiểm tra gene.
Qua đó có thể thấy mã DNA được thiết kế bởi một nhà thiết kế siêu thông minh, rất hiếm có biến dị, và nếu biến dị thì tế bào chế tạo ra sẽ hỏng, bệnh hoạn, chứ không phải là một tế bào mới cao cấp hơn. Nói cách khác, không có sự tiến hóa thông qua biến dị và chọn lọc tự nhiên. Thuyết tiến hóa là sai lầm, vì nó không biết gì về DNA.
Ngôn ngữ di truyền này có độ chính xác rất cao – lỗi trung bình chỉ ở mức 1 phần 10 tỷ chữ cái. Nếu một lỗi xảy ra trong một trong những phần quan trọng nhất của mã nằm trong các gene, thì nó sẽ gây ra một căn bệnh chẳng hạn như bệnh anemia (giảm hemoglobin trong hồng cầu)… Trong khi đó, những thợ đánh máy thông minh và giỏi nhất thế giới cũng không thể đạt được trình độ chỉ mắc một lỗi trong 10 tỷ chữ cái – còn xa con người mới đạt tới độ chính xác như thế.
Vì thế niềm tin cho rằng mã di truyền có thể tiến hóa dần dần từng tí một theo kiểu của Darwin là không phù hợp với các quy luật tự nhiên đã biết về vật chất và năng lượng. Thật vậy, khoa học không hề tìm thấy bất kỳ một thí dụ nào về một hệ thông tin bên trong tế bào tiến hóa dần dần từng tí một để trở thành một hệ thông tin khác.
Chúng ta có trong mã di truyền một cẩm nang hướng dẫn vô cùng phức tạp đã được thiết kế một cách tinh vi bởi một nguồn trí tuệ thông minh cao hơn con người rất nhiều.
Ngay cả một trong những người khám phá ra mã di truyền vừa mới qua đời là Francis Crick, sau nhiều thập kỷ làm việc giải mã, đã thừa nhận rằng:
Bất chấp những nỗ lực của tất cả các phòng thí nghiệm trên khắp thế giới trong nhiều thập kỷ qua, khoa học vẫn không sao chế tạo ra được một sợi tóc của con người. Và sẽ còn khó khăn đến thế nào nếu muốn chế tạo ra toàn bộ một con người gồm khoảng 100 ngàn tỷ tế bào.
Đến nay, các nhà tiến hóa theo Darwin cố gắng chống lại những người phê phán họ bằng những nỗ lực giải thích tính phức tạp của sự sống. Nhưng hiện nay họ phải đối mặt với tình trạng tiến thoái lưỡng nan: Làm thế nào mà biến dị ngẫu nhiên và chọn lọc tự nhiên có thể tao ra những thông tin chính xác và giàu ý nghĩa? Cả hai cơ chế này (biến dị ngẫu nhiên và chọn lọc tự nhiên) đều không chứa đựng cơ chế thông minh, một đòi hỏi tất yếu phải có để tạo ra thông tin phức tạp như đã tìm thấy trong mã di truyền.
Thuyết tiến hóa nói rằng thông qua những biến di ngẫu nhiên và chọn lọc tự nhiên, sinh vật tiến hóa. Tuy nhiên tiến hóa có nghĩa là biến đổi dần dần từng tí một những đặc tính xác định của sinh vật đến khi nó trở thành một loài khác, nhưng điều này chỉ có thể thực hiện được bằng cách biến đổi thông tin di truyền.
Vậy chúng ta thấy điều gì về mã di truyền? Dù là một con vi khuẩn tầm thường hay một cái cây hay một con người, chất lượng cơ bản của thông tin di truyền đều có độ chính xác như nhau. Mã di truyền của vi khuẩn ngắn hơn, nhưng chất lượng thông tin di truyền của nó cũng chính xác và tinh tế như của con người. Thông tin di truyền của vi khuẩn hay tảo hay con người trước hết đều phải đạt được yêu cầu của một ngôn ngữ bậc cao – có hệ chữ cái, ngữ pháp và ngữ nghĩa.
Vậy làm sao mà thông tin di truyền của vi khuẩn có thể tiến hóa dần dần từng tí một để biến thành thông tin của một loài khác, trong khi chỉ cần một hoặc một vài lỗi nhỏ trong hàng triệu chữ cái trong DNA của vi khuẩn là đủ để có thể giết chết nó?
Trờ lại thời Darwin, khi cuốn “Về nguồn gốc các loài” của ông được công bố năm 1859, cuộc sống xã hội có vẻ đơn giản hơn nhiều. Nhìn qua những kính hiển vi thô sơ thời đó, tế bào có vẻ như chỉ là một giọt dinh dưỡng hay một chất nguyên sinh không có gì phức tạp. Bây giờ, hơn 150 năm sau, sự quan sát đó đã thay đổi tận gốc khi khoa học khám phá ra một vũ trụ thực sự nằm bên trong tế bào.
Giáo sư Behe viết: “Trước đây người ta từng trông mong rằng cơ sở của sự sống là hết sức đơn giản. Nhưng sự trông mong này đã bị đổ vỡ. Sự nhìn, sự chuyển động, và các hoạt động sinh học khác đã chứng minh là chúng không kém tinh vi so với những máy quay truyền hình hoặc máy móc xe cộ. Khoa học đã đạt được những tiến bộ khổng lồ trong sự hiểu biết về hóa học của sự sống hoạt động thế nào, nhưng sự tinh vi và phức tạp của các hệ sinh học ở cấp độ phân tử đã làm tê liệt tham vọng của khoa học muốn giải thích nguồn gốc sự sống”.
Tiến sĩ Meyer coi những khám phá về DNA như cái gót Achilles của thuyết tiến hóa. Ông nhận xét: “Các nhà tiến hóa vẫn cố áp dụng tư duy của Darwin trong thế kỷ 19 vào hiện thực của thế kỷ 21, nhưng tư duy ấy không còn thích ứng được nữa… Tôi nghĩ cuộc cách mạng thông tin xảy ra trong sinh học đang vang lên hồi chuông báo tử đối với học thuyết Darwin và những lý thuyết tiến hóa hóa học”.
https://www.youtube.com/watch?time_continue=1&v=_rdQ2Wyqdgk
Tiến sĩ Meyer kết luận: “Tôi tin rằng lời chứng của khoa học xác nhận tư tưởng hữu thần. Trong khi luôn luôn sẽ có những điểm căng thăng hoặc xung đột chưa ngã ngũ, sự phát triển chủ yếu trong khoa học trong năm thập kỷ qua đã và đang hướng mạnh về phía hữu thần”.
Dean Kenyon, một giáo sư sinh học, phát biểu: “Lĩnh vực mới mẻ này về di truyền phân tử là nơi chúng ta thấy phần lớn bằng chứng ép buộc phải tin rằng có sự thiết kế trên Trái Đất”.
Nguồn tham khảo:
[1] The Case for a Creator, Lee Strobel, 2004
[2] Evolution: A Theory in Crisis , Michael Denton, 1996
[3] Defeating Darwinism by Opening Minds, Phillip Johnson, 1997
[4] Darwin’s Black Box, Michael Behe,1996
[5] Life Itself: Its Origin and Nature, Francis Crick, 1981
[6] God: The Evidence: The Reconciliation of Faith and Reason in a Postsecular World, Patrick Glynn, 1999
[7] In the Beginning Was Information, Werner Gitt, 2006
[8] “Leading Atheist Now Believes in God”, Richard Ostling, Associated Press report, 09/12/2004.
Sự xuống cấp về đạo đức của con người giống như một dòng sông chảy xiết từ chỗ cao xuống chỗ thấp, triền miên theo dòng lịch sử. Dường như nó đang dồn tới một con thác, nước đổ ầm ầm từ trên cao xuống vực, đe dọa nhấn chìm mọi con thuyền đi qua đó, giống như cơn bão trên Thái Bình Dương đã nhấn chìm con tầu Tsimtsum trong câu chuyện “Cuộc đời của Pi”. Hãy đọc “Cuộc đời của Pi” để hiểu con tầu Tsimtsum là cái gì, tại sao nhân loại trên con tầu ấy chết hết, chỉ còn Pi sống sót. Trong câu chuyện hôm nay chúng ta cũng thấy dòng chảy đạo đức đang lao xuống vực, nhưng nhiều người không biết nó bắt nguồn từ đâu. Vì không xác định được nguồn nên André Bourguignon, một nhà nhân loại học người Pháp, trong khi nghiên cứu lịch sử tự nhiên của con người, đã chua chát nhận xét con người là một lũ điên rồ! Ông không sao giải thích được cái gọi là “tiến hóa”, vì tiến hóa kiểu gì mà con người còn tồi tệ hơn cả động vật, như ông tuyên bố: “Con người đã tự hạ thấp mình xuống dưới động ật khi nó tự hủy hoại giống loài của mình”.
Chẳng lẽ Bourguignon không biết Darwin coi hành vi tàn sát đồng loại như một lẽ tất yếu của quá trình tiến hóa hay sao? Đây, Darwin tuyên bố: “Vào một giai đoạn nào đó không xa lắm, có thể tính bằng số thế kỷ, các chủng tộc văn minh của loài người hầu như chắc chắn sẽ hủy diệt và thay thế các chủng tộc man rợ trên khắp thế giới” (trích Nuồn gốc loài người, Charles Darwin, 1871). Tuyên bố ấy vẫn chưa đủ để thấy thuyết tiến hóa đáng sợ hay sao? Phải đợi Hitler biến tiên đoán của Darwin thành sự thật mới đủ để hiểu tác hại của thuyết tiến hóa hay sao? Phải chăng nhiều người thấy rõ tác hại đó, nhưng đều né tránh kết tội trực tiếp cho Darwin? Chẳng hạn, Rabindranath Tagore kết tội ai khi ông nói: “Con người còn tồi tệ hơn súc vật khi tự coi mình là động vật?”.
Phải chăng con người trước khi có học thuyết Darwin đã tự coi mình là động vật? KHÔNG! Việc coi con người là động vật chỉ bắt đầu từ học thuyết Darwin.
Người Tây phương trước đây vẫn tin vào Kinh Thánh, rằng mọi con người ngày nay đều là con cháu của Adam và Eva, hai người đầu tiên do Chúa tạo ra.
Nhưng Charles Darwin đã làm một cuộc cách mạng, khẳng định rằng người là hậu duệ của vượn, và vượn lại là hậu duệ của các loài động vật bậc thấp hơn. Tóm lại, người là con cháu của động vật, tức là một động vật!
Nếu coi con người là động vật thì ta khó có thể nhận ra bản chất thiêng liêng trong nó, nhưng dễ thấy những khía cạnh thấp hèn của nó, như Sigmund Freud đã mô tả. Ông nói: “Homo homini lupus” (người với người là lang sói). Freud không tin vào sức mạnh của ý thức, mà chỉ thấy những bản năng vô thức chi phối con người, bao gồm Eros (dục tính) và Thanatos (hoại tính). Vì thế ông rất bi quan về tương lai của nền văn minh. Freud đáng được thông cảm, bởi ông đã chứng kiến cuộc Thế Chiến I ─ cuộc chiến tàn khốc và vô lý đến mức được nhiều người xem như dấu hiệu khởi đầu của Ngày Sau Rốt mà Kinh Thánh đã tiên báo. Cách nhìn của Freud phản ánh sự bế tắc của triết học thế kỷ 20. Nói cách khác, Freud là sản phẩm của thế kỷ 20, ông không nhìn thấy ánh sáng của Thượng Đế trong con người, bởi con người đã chối bỏ Thượng Đế.
Sự chối bỏ ấy đã được đại văn hào Leo Tolstoy trình bày rất rõ trong tác phẩm “Tự thú” (Confession), trong đó chúng ta được biết vì sao Tolstoy và những người cùng thời đã sống một cuộc sống đốn mạt và vô nghĩa đến như thế. Sự kiện làm cho Tolstoy thay đổi, như ông tự thú, xảy ra vào năm 1838, lúc ông mới 11 tuổi ─ một người bạn ở trường bên hối hả chạy tới loan báo một tin động trời: “Không có Thượng Đế!”,
Xã hội hiện đại coi việc vắng mặt Thượng Đế là chuyện bình thường, bởi nhà trường và xã hội đều nói như vậy. Nhưng vào thời điểm 1838, đó là một tin làm rung chuyển tâm não con người. Năm 1838 trở thành cột mốc vô cùng quan trọng, đánh dấu một cuộc thay đổi mang tính chất quyết định làm thay đổi tận gốc bộ mặt của nền văn minh: trước 1838 là nền văn minh có Thượng Đế, và sau đó là không .
Dòng chảy đạo đức kể từ năm 1838 về sau ngày càng đục. Nó không chỉ chảy qua quê hương của Tolstoy, mà chảy qua mọi miền trên thế giới. Nó cũng không dừng lại ở thế kỷ 19, mà chảy qua thế kỷ 20 cho tới tận hôm nay. Tất cả những gì chúng ta đang thấy trên toàn thế giới, những sự kiện đảo điên làm cho chúng ta thấy vô cùng thất vọng và bất an, thực ra chỉ là hệ quả không thể tránh khỏi của một thế giới trong đó “Thượng Đế đã chết!”, như tuyên bố của gã điên trong tác phẩm “Gã điên” của Friedrich Nietzsche năm 1882.
Đó chính là bối cảnh ra đời của Thuyết tiến hóa. Nó được các nhà khoa học và học giả vô thần chào đón nhiệt liệt. Đến lượt nó, nó lại góp phần tích cực vào việc làm cho dòng chảy đạo đức đục ngầu hơn nữa, bằng cách phá hủy tận gốc nền tảng đạo đức Thiên Chúa giáo ở Tây phương ─ một nền đạo đức lấy Kinh Thánh làm lề luật, dựa trên niềm tin cơ bản là sự sáng tạo của Thượng Đế.
Thuyết tiến hóa phá hủy đạo đức Thiên Chúa giáo trong xã hội Tây phương
Nền tảng đạo đức của xã hội Tây phương trong hai ngàn năm qua là gì, nếu không phải những lời dạy trong Kinh Thánh (Cựu ước và Tân ước)? Toàn bộ lời dạy ấy xây dựng trên niềm tin vào Đấng sáng tạo, đấng tạo ra trời và đất, ngày và đêm, muôn vàn sinh vật và cuối cùng là con người. Trong nền giáo dục kinh điển ở Tây phương trước đây, Kinh Sáng thế là kinh bắt buộc phải thấm nhuần đối với tất cả những người được coi là có giáo dục. Truyền thống này bị xói mòn dần dần và biến mất hẳn trong nền giáo dục từ khi con người đánh mất đức tin vào Đấng Sáng tạo. Quá trình này diễn ra chủ yếu từ thế kỷ 19 tới nay, trong đó thuyết tiến hóa đóng một trong những vai trò quyết định.
Trong một bài báo nhan đề “ The Evils of Evolution ” (Tai họa của thuyết tiến hóa), tác giả Ken Ham phân tích:
Sự chấp nhận thuyết tiến hóa vô thần làm cho nhiều người từ bỏ Đấng Sáng tạo. Trong một thời gian dài, nhiều người đã sử dụng thuyết tiến hóa để biện minh cho những hành vi tội lỗi của mình.
Nếu bạn chấp nhận Chúa như Đấng Sáng tạo, bạn sẽ chấp nhận những đạo luật do Chúa ban hành. Luật của Chúa là sự phản ánh những đặc tính thiêng liêng của Ngài. Ngài là thẩm quyền tuyệt đối, và chúng ta hoàn toàn chịu ơn Ngài. Lề luật của Chúa không phụ thuộc vào ý kiến của chúng ta, mà là những quy tắc được ban hành bởi Đấng Một, người có quyền áp đặt những quy tắc đó lên chúng ta, vì lợi ích của chúng ta và vì vinh quang của Ngài. Ngài ban cho chúng ta những nguyên lý như một cơ sở để chúng ta xây dựng nên tư duy của chúng ta trong mọi lĩnh vực.
Nếu bạn chấp nhận Chúa như Đấng Sáng tạo, bạn sẽ nhận ra ý nghĩa của cuộc sống. Chúng ta biết rằng Chúa là Đấng ban sự sống, rằng sự sống có ý nghĩa và mục đích, và rằng mọi con người đều được tạo ra theo hình tượng của Chúa, và do đó, có một giá trị và ý nghĩa to lớn . Chúa tạo ra chúng ta sao cho Ngài có thể liên hệ với chúng ta, đổ tràn ơn phúc lên chúng ta, và ngược lại để cho chúng ta cũng yêu kính Ngài.
Ngược lại, nếu bạn chối bỏ Chúa và thay Ngài bằng một niềm tin khác ─ một niềm tin đặt các quá trình may rủi và ngẫu nhiên vào vị trí của Chúa ─ thì khi đó sẽ không có cơ sở để phân biệt cái gì là đúng và cái gì là sai. Luật lệ trở thành bất kể cái gì mà bạn muốn vẽ ra nó. Không còn CÁI TUYỆT ĐỐI nữa, không có những nguyên lý bắt buộc về đạo lý để bạn phải tuân thủ nữa. Con người sẽ tự viết ra những lề luật của mình.
Cần phải nhận thức rằng niềm tin của bạn về nguồn gốc và số phận của bạn sẽ quyết định thế giới quan của bạn!
Khi nền tảng của tư tưởng Thượng Đế sáng tạo ra thế giới bị vứt bỏ thì những thiết chế thiêng liêng cũng sụp đổ. Ngược lại, khi nền tảng về tiến hóa được củng cố vững chắc thì những cấu trúc được xây dựng trên nền tảng đó, như tính vô luật lệ, giải phóng tình dục, tình dục đồng giới, phá nạo thai, v.v. cũng tăng lên một cách logic. Chúng ta cần phải thấy rõ mối liên kết đó.
Nhiều người Thiên Chúa giáo nhận ra sự thoái hóa đạo đức đã và đang diễn ra trong xã hội. Họ trông thấy sự sụp đổ trong hệ thống đạo đức Thiên Chúa giáo và sự tăng trưởng của các triết lý chống lại Chúa. Họ cũng thấy tình trạng khủng hoảng tội ác, khủng hoảng đạo đức, tình trạng vô luật lệ, tình dục đồng giới, văn hóa phẩm đồi trụy, và phá nạo thai và nhiều sản phẩm tồi tệ khác nữa của triết lý sống ngày nay, nhưng họ không hiểu tại sao những hiện tượng như thế đã và đang xảy ra . Họ rơi vào tình thế ngã ba đường, không biết đâu là sự thật, không hiểu bản chất nền tảng của cuộc xung đột về thế giới quan hiện nay, đó là cuộc đấu tranh giữa hai quan điểm đối chọi: quan điểm sáng tạo và quan điểm tiến hóa.
Tất nhiên là những triết lý phản đạo đức và chống lại Chúa đã tồn tại từ trước khi có thuyết tiến hóa Darwin. Tuy nhiên từ khi con người thay đổi niềm tin vào nguồn gốc của mình thì thế giới quan của họ cũng thay đổi. Khi con người chối bỏ sự sáng tạo của Chúa thì quan điểm của họ về thế giới và về con người cũng thay đổi.
Đặc biệt tại các quốc gia Tây phương, nơi Thiên Chúa giáo từng đóng vai trò nền tảng đạo đức của từng cá nhân và của toàn xã hội, thuyết tiến hóa của Darwin đã cung cấp một sự biện minh cho rất nhiều người không tin Chúa, để họ có thể tự tin và thoải mái thực hiện những hành vi mà người Thiên Chúa giáo coi là tội lỗi. Một nhà khoa học không theo Thiên Chúa giáo đã phát biểu trong một cuộc phỏng vấn trên TV, rằng “Thuyết tiến hóa Darwin làm cho những người vô thần được kính trọng”.
Tác giả Ken Ham kể rằng, tại một lớp học ở Úc, một cô giáo nói với học trò rằng cô không tin chuyện vượn tiến hóa thành người, bởi nếu đó là sự thật thì tại sao hiện tượng đó không hề diễn ra ở bất cứ nơi nào trên thế giới ngày nay. Một học trò đứng lên thưa với cô rằng thưa cô, hiện tương đó đang diễn ra đấy, người aborigines (thổ dân Úc) chính là loài vượn đang tiến hóa lên thành người đấy (!).
Ken Ham thốt lên lời chua xót, rằng người ta đã và đang nhồi vào sọ trẻ em những kiểu tư duy sai lầm như vậy, rồi ông chất vấn: Tại sao xã hội ngày nay tuyên bố chống phân biệt chủng tộc nhưng lại dạy trẻ em những lý thuyết chứa đựng mầm mống phân biệt chủng tộc?
Mầm mống ấy là gì? Đó là thuyết tiến hóa!
Thuyết tiến hóa phá hủy đạo đức Đông phương
Khi chủ nghĩa thực dân tiến sang Đông phương, nó cũng mang theo thuyết tiến hóa, và thuyết tiến hóa cũng làm công việc của nó ở Đông phương ─ lật đổ đức tin vào Ông Trời!
Ông Trời chính là Thượng Đế. Người Á Đông vốn rất kính sợ Trời.
Thật vậy, Lệ thần Trần trọng Kim viết trong cuốn NHO GIÁO: “Trời là bản nguyên của muôn vật”, “Vậy nên người bao giờ cũng phải kính sợ Trời và sợ Trời là cơ bản đạo đức của người…”. “Đó là cái lòng tín ngưỡng của dân tộc nào lúc đầu cũng thế”.
Vậy xem ra nền tảng đạo đức của Á Đông và Tây phương xưa kia rất giống nhau, đó là đức tin vào Thượng Đế, vào Ông Trời. Vì thế, nếu thuyết tiến hóa phá hủy nền tảng đạo đức Thiên Chúa giáo thì cũng sẽ phá hủy nền tảng đạo đức Á Đông.
Bài báo sau đây của Thanh Nguyên trên Minh Huệ net đã nói rõ cho chúng ta biết điều đó:
Hiện nay mọi người khi nói về Thuyết tiến hóa, thì luôn cho nó là một phạm trù Sinh vật học. Trên thực tế Thuyết tiến hóa đối với loài người vượt quá xa phạm trù của Sinh vật học. Chúng ta có thể nói rằng, một môn học thuật đề cao hoặc duy hộ đạo đức cơ bản của xã hội, đối với con người mà xét, thì có thể gọi là học thuyết chân chính, còn loại học thuyết phá hoại đạo đức loài người, đả kích bản tính lương thiện của loài người, thì thứ học thuyết đó chính là Tà ác. Bài này thử theo ảnh hưởng của Thuyết tiến hóa đối với đạo đức nhân loại mà trình bày và phân tích, mong mọi người chú ý đến vấn đề này.
Con người sở dĩ là người chứ không phải là động vật, chính là nhờ ở ràng buộc về luân lý đạo đức. Thế nhưng sự phá hoại của Thuyết tiến hóa đối với đạo đức nhân loại chủ yếu biểu hiện ở việc: nó phá hủy quan niệm đạo đức cơ bản của loài người vốn được truyền thừa suốt mấy ngàn năm qua, nó khuyến khích tính ích kỷ cá nhân tà ác của con người.
Quá khứ mấy ngàn năm trước, người phương Tây đối với việc “Thượng Đế tạo ra con người” rất tin tưởng không nghi ngờ, họ tin vào việc Thần đối với nhân loại là có sự quản chế ràng buộc. Tại phương Đông, mọi người tôn thờ đạo lý “Nhân chi sơ, tính bản thiện”, “Trên đầu 3 thước có Thần linh”. Học thuyết nhà nho của Trung Quốc đều là xoay quanh “Con người tu thân trọng Đức như thế nào” mà giảng, trong sách “Đạo đức kinh” có mấy ngàn chữ, thực ra đều là xoay quanh “Đạo, Đức” mà giảng. Mọi người có thể đã được nghe đến mức quen tai câu chuyện xưa “Vi biên tam tuyệt” (Ba lần đứt lề sách), kỳ thực cũng nói về chuyện Khổng Tử cẩn thận nghiên cứu Chu Dịch, đề cao việc tu dưỡng đạo đức cá nhân. Nói cách khác, trăm ngàn năm qua mọi người đều tin tưởng rằng Thiện là mặt chủ đạo của nhân tính, những kẻ mang ma tính ích kỷ thì không xứng đáng làm người, và tính ích kỷ là thứ mà con người cần cố gắng trừ bỏ đi. “Tu thân trị quốc bình thiên hạ” chính là để ức chế tính ích kỷ cá nhân, tu thành người nho nhã lễ độ. Những người “Quân tử” có đạo đức cao thượng, hiếu thuận với cha mẹ, tận trung vì nước là những gương mẫu mà cộng đồng xã hội tôn sùng. Được ràng buộc bởi đạo đức cơ bản, con người không dễ dàng bị ma tính khống chế, bản tính lương thiện chiếm địa vị chủ đạo, xã hội phát triển một cách bình thường khỏe mạnh, nền văn minh có thể được tiếp tục duy trì.
Nhưng Thuyết tiến hóa gây tác hại đối với loài người không chỉ dừng lại ở đó. Tư tưởng nòng cốt của nó là “Thích giả sinh tồn” (“Kẻ thích nghi được thì tồn tại”) khiến con người hiện đại tìm được căn cứ, tìm thấy chỗ dựa cho những thứ quan niệm đã bại hoại của họ, tìm được cái cớ để lường gạt lương tâm của chính mình. Trong quan niệm “Thích giả sinh tồn” của Thuyết tiến hóa, “Sinh tồn” dường như là ý nghĩa duy nhất của sự tồn tại của sinh mệnh: chỉ cần ngươi có thể sống sót trong đời sống tàn khốc (của tự nhiên), thì ngươi là kẻ thắng cuộc (không quan tâm ngươi dùng thủ đoạn gì). Những thứ quan niệm “Con chim dậy sớm thì có côn trùng mà ăn”, “Không cố gắng sẽ bị đào thải”, “Ngươi không đánh gục hắn, hắn sẽ đánh gục ngươi”, “Người không vì mình, trời tru đất diệt”, vv… thể hiện rõ rằng ma tính ích kỷ đã thay thế phần rất lớn những quan niệm đạo đức chính thống cơ bản của con người. Trong xã hội một người nào còn tốt, một sinh mệnh còn tốt đẹp nếu không thể “Thích ứng với sự biến hóa của hoàn cảnh” thì sẽ bị đào thải, bất kể người ấy lương thiện như thế nào. Những người làm điều thiện cho khắp cộng đồng, lặng lẽ âm thầm phụng sự cho xã hội, những người chăm lo nâng cao tiêu chuẩn đạo đức cá nhân trong xã hội thường không được ủng hộ, mà bị bài trừ, chèn ép, thậm chí bị bài xích đến mất cả không gian sống cơ bản của mình. Mọi người không hề tin tưởng truyền thống đạo đức về lòng lương thiện, khoan dung, nhường nhịn …, “Khinh kẻ nghèo chứ không khinh kỹ nữ”, ngay cả những thứ Đại ca xã hội đen thậm chí lại trở thành đối tượng mà nhiều người sùng bái. Kỳ thực chúng ta chỉ cần tĩnh tâm lại và suy nghĩ, nếu chỉ có Con chim dậy sớm mới có côn trùng để ăn, như thế chẳng phải những con chim dậy muộn hơn đều phải bị chết đói ư? Nhưng trong hoàn cảnh thực tế tự nhiên lại là như thế này: “Con chim dậy sớm ăn côn trùng dậy sớm, con chim dậy muộn ăn côn trùng dậy muộn”. Trong cuộc sống thực tế, những kẻ liều mạng cố gắng vì ích lợi cá nhân, những kẻ không từ một thủ đoạn nào đều nhất định có thể đạt được mục đích cá nhân sao?
Xã hội hiện nay mọi người đều đã thực sự bị Thuyết tiến hóa lôi kéo và đang phải chịu hậu quả là sự băng hoại đạo đức toàn nhân loại. Các bạn hãy xem người ta bây giờ nói chuyện thì chủ đề được quan tâm nhiều nhất có lẽ là “Cạnh tranh”, đề cập làm thế nào để dùng “Sức cạnh tranh” của mình. Khi người ta phát hiện ra rằng những người lương thiện thành thật dễ dàng bị kẻ khác làm tổn hại, mọi người liền thúc giục chính mình trở nên gian trá và giảo hoạt. Để đuổi cho kịp cái gọi là “Trào lưu của thời đại” không ngừng biến hóa, mỗi cá nhân đều bị khuất phục và xuôi theo các quan niệm giá trị càng ngày càng bại hoại, rất ít người dám tự hỏi lại xem chỉnh thể thế giới quan về giá trị liệu có chính xác hay không. Nếu có người thực sự như thế, người khác sẽ bảo họ “Theo không kịp thời đại, mất trí, không hiểu biết”. Bị cái chỉnh thể môi trường như thế này lôi kéo, mỗi phụ huynh đều tính toán làm thế nào để con cái của mình có thể thích ứng được với cái “Xã hội cạnh tranh” này… Giáo dục ở các trường học không lấy đạo đức của học sinh làm tiêu chuẩn cân nhắc, mà lấy điểm số và thành tích làm tiêu chuẩn, cho nên học sinh bây giờ học tập cả ngày cả đêm. “Đáng thương thay cho cái tâm của các bậc cha mẹ trong thiên hạ” nhìn thấy đau xót trong lòng nhưng cũng không thể tránh được. Mỗi người đều căm ghét loại phương hướng giáo dục như thế này, bức thiết hy vọng giảm bớt được gánh nặng cho học sinh, nhưng hoàn toàn không nhận thức ra rằng, đứa con bé bỏng mà mình thương yêu phải chịu nhận tất cả những điều đó chính là do cái tâm “Hy vọng con cái trở thành rồng” của chính cha mẹ chúng tạo thành.
Mỗi cá nhân đều trong cạnh tranh mà đánh mất bản thân, mỗi người đều bị cái gọi là cạnh tranh thúc đẩy, bận rộn tầm thường, bôn ba khắp nơi. Dù là người chiếm được ưu thế và địa vị trong cạnh tranh, họ cũng không có được một ngày bình an, bởi anh ta cần phải đề phòng mọi lúc mọi nơi các đối thủ cạnh tranh càng ngày càng nhiều thêm! Mỗi cá nhân đều thấm thía nỗi khổ cực, mỗi người đều thấy đau buồn, mọi người chịu ảnh hưởng của những thứ quan niệm gọi là “Cạnh tranh” và “Thích giả sinh tồn” mà có thể “hợp pháp” chém giết lẫn nhau. Bởi cái chỉnh thể giá trị quan như thế đã bắt rễ sâu vào trong xã hội bại hoại rồi, nên người với người làm hại nhau, để đạt được thắng lợi trong cạnh tranh họ không từ bất cứ việc xấu ác nào. Vấn nạn của xã hội liên tục xuất hiện, sự băng hoại của đạo đức nhân loại đã đến mức đáng sợ, môi trường tự nhiên và môi trường sống của con người cũng lâm vào tình cảnh bị hủy hoại và tàn phá đến mức chưa từng có…
Bởi vậy, hoàn toàn vứt bỏ ảnh hưởng của Thuyết tiến hóa đối với xã hội chúng ta, phục hưng đạo đức của nhân loại đã là trách nhiệm xã hội không thể trốn tránh của mỗi một con người có lương tri. Bởi vì nó quan hệ đến bạn, đến tôi, đến mọi người, đến việc con cháu chúng ta có thể tiếp tục sinh tồn một cách tốt đẹp hay không!
Ai ứng dụng thuyết tiến hóa triệt để nhất?
Năm 2004, một đòn chết người đã giáng lên đầu thuyết tiến hóa, đó là sự ra mắt cuốn sách “ From Darwin to Hitler: Evolutionary Ethics, Eugenics, and Racism in Germany ” (Từ Darwin tới Hitler: Đạo đức theo thuyết tiến hóa, Thuyết Ưu sinh, và Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở Đức), của Richard Weikart, Giáo sư khoa học lịch sử Đại học Tiểu bang California, do Palgrave Macmillan, một nhà xuất bản nổi tiếng về khoa học lịch sử, xuất bản tại New York, Mỹ.
Trong công trình nghiên cứu rất tỉ mỉ và công phu này, Richard Weikart đã cho chúng ta thấy rõ tác động vô cùng tai hại của thuyết tiến hóa Darwin đối với nhận thức của con người trong thế kỷ 20 ─ thuyết tiến hóa đóng vai trò quyết định trong việc làm cho con người từ bỏ các giá trị truyền thống để bắt đầu một quá trình suy đồi về luân lý và đạo đức nói chung.
Ông chứng minh rằng nhiều nhà sinh học tiến hóa hàng đầu và những nhà tư tưởng xã hội ở Đức thời đó thừa nhận học thuyết Darwin đã lật đổ nền tảng đạo đức Do thái giáo – Kitô giáo truyền thống, lật đổ những tư tưởng về quyền con người trong Thế kỷ Ánh sáng, đặc biệt là những tư tưởng liên quan đến những giá trị thiêng liêng trong đời sống con người. Theo truyền thống, Chúa là thiêng liêng và phải tôn kính, con người có linh hồn, và linh hồn do Chúa thổi vào, nhưng với thuyết tiến hóa, con người đơn giản chỉ là xác thịt, là tập hợp của các vật chất thô thiển, là hậu duệ của các loài động vật. Con người không có gì cao quý và đặc biệt hơn động vật.
Weikart tố cáo nhiều người trong số các nhà tư tưởng Đức đầu thế kỷ 20 đã cổ xúy cho “chủ nghĩa tương đối về đạo đức” (moral relativism), bác bỏ đạo đức tuyệt đối mà các tôn giáo Tây phương truyền thống từng giáo huấn ─ sự thờ kính Chúa và các chuẩn mực đạo đức như Kinh Thánh đã dạy. Họ đề cao sự “thích nghi” về tiến hóa (đặc biệt là tiến hóa về trí tuệ và sức khỏe) mới là tiêu chuẩn đạo đức cao nhất.
Weikart kết luận rằng học thuyết Darwin không chỉ đóng vai trò quan trọng trong sự trỗi dậy của thuyết ưu sinh (eugenics), một học thuyết cực kỳ vô nhân đạo chủ trương loại bỏ những người ốm yếu bệnh tật và những người bị coi là thấp kém trong xã hội, mà còn là lý do biện minh cho nhiều hành vi vô luân khác như làm cho bệnh nhân chết “êm dịu” (euthanasia), giết trẻ sơ sinh (infanticide), phá nạo thai (abortion), và… diệt chủng (extermination). Tất cả những hành động vô đạo này cuối cùng đã được chủ nghĩa quốc xã Đức tiếp thu một cách nồng nhiệt và hiện thực hóa bằng hàng loạt hành động tàn bạo trong thực tế những năm 1933-1945.
Weikart nêu lên những lập luận thuyết phục khi ông nêu đích danh Hitler đã xây dựng quan điểm của hắn về đạo đức dựa trên các nguyên lý của học thuyết Darwin như thế nào. Tóm lại, “Từ Darwin đến Hitler” là một tài liệu nghiêm túc, đúng mực, trích dẫn những sự thật không thể chối cãi về sự gắn bó tư tưởng của Hitler đối với học thuyết Darwin. Đây là một tài liệu rất quý, kích thích bất kỳ ai muốn khám phá sự thật về ảnh hưởng sâu sắc của thuyết tiến hóa Darwin đối với các tiến trình lịch sử trong thế kỷ 20, qua đó nổi bật lên những cuộc tàn sát đẫm máu chưa từng có trong hai cuộc Thế Chiến và quá trình suy đồi đạo đức ngày càng tăng từ đó đến nay. Nếu không chỉ rõ mối liên hệ giữa Hiler với tư tưởng của thuyết tiến hóa Darwin, trong đó thuyết tiến hóa đóng vai trò kẻ lát đường hoặc tạo cở sở lý luận cho Hitler, chúng ta sẽ không thể nào hiểu nổi tại sao Hitler có thể có những quan điểm quái gở và vô đạo đến như thế.
Tất nhiên một mình Hitler không thể xoay ngược lịch sử như thế. Đó là cả một trào lưu lịch sử đã bắt đầu trỗi dạy trên khắp Châu Âu từ khoảng những năm 1830 về sau. Đó là sự trỗi dậy của chủ nghĩa vô thần. Cần phải có nhiều luận án tiến sĩ về khoa học lịch sử, về xã hội học, về nhân loại học, về triết học lịch sử, triết học khoa học, triết học về bản chất con người… để giải thích nguyên nhân và điều kiện xã hội của hiện tượng bước ngoặt này ─ hiện tượng lên ngôi của chủ nghĩa vô thần. Tuy nhiên, cuốn “Tự thú” (Confession) của Leo Tolstoy đã đánh dấu một cột mốc lịch sử của hiện tượng đó, khi ông xác nhận rằng năm ông 11 tuổi, tức năm 1838, một thông tin quan trọng đã lan truyền khắp nơi, rằng “Không có Thượng Đế!”. Hãy đọc “Tự thú” của Leo Tolstoy để hiểu sự vắng mặt của Thượng Đế trong tâm hồn con người dẫn đến thảm họa như thế nào. Nếu không chúng ta sẽ mãi mãi mờ mịt không hiểu tại sao học thuyết Darwin, mặc dù chỉ là một giả thuyết vô bằng chứng, bị các nhà khoa học xuất sắc nhất thế kỷ 19 như Louis Pasteur, Gregor Mendel, Lord Kelvin,… bác bỏ, vậy mà nó vẫn ngoi lên để thống trị trong thế giới sinh học. Rõ ràng nó phải được một số đông ủng hộ, và số đông ấy chính là chủ nghĩa vô thần mới nổi lên và lớn mạnh dần, tới mức thống trị nhận thức của loài người.
Tóm lại, học thuyết Darwin là con đẻ của chủ nghĩa vô thần và đến lượt nó, nó lại trở thành một công cụ đắc lực của chủ nghĩa vô thần. Đó là lý do để Hitler ôm lấy nó, mặc dù trên miệng lưỡi hắn cũng nói đến Chúa, thậm chí nhân danh Chúa để tiến hành những hành vi phản Chúa.
Khi thấy học thuyết Darwin bị kết tội như kẻ lát đường cho chủ nghĩa quốc xã Đức trong thế kỷ 20 tiến hành những cuộc thanh lọc chủng tộc, có người dẫy nẩy lên phản ứng: kết tội như thế có khác gì kết tội Einstein phải chịu trách nhiệm về thảm họa bom nguyên tử?
Nhưng hình như không ai kết tội Einstein, trong khi rất nhiều học giả, nhà sử học, nhà đạo đức học kết tội học thuyết Darwin tạo ra cơ sở lý luận cho hệ tư tưởng của chủ nghĩa quốc xã Đức, góp phần tích cực phá hủy nền tảng đạo đức của xã hội Tây Phương,…Khi thấy học thuyết Darwin bị kết tội như kẻ lát đường cho chủ nghĩa quốc xã Đức trong thế kỷ 20 tiến hành những cuộc thanh lọc chủng tộc, có người dẫy nẩy lên phản ứng: kết tội như thế có khác gì kết tội Einstein phải chịu trách nhiệm về thảm họa bom nguyên tử?
Mỉa mai thay, trong sự kết tội ấy thuyết TIẾN HÓA trở thành một động lực thúc đẩy sự THOÁI HÓA, góp phần chứng minh Quy luật Tàn úa (The Law of Entropy), tức Định luật 2 của Nhiệt Động lực học do Lord Kelvin khám phá, dường như cũng đúng trong xã hội loài người. Quá trình thoái hóa và tàn úa này đã được Richard Weikart, giáo sư khoa học lịch sử tại Đại học Tiểu bang California, trình bày trong tác phẩm nổi tiếng: “ From Darwin to Hitler ” (Từ Darwin tới Hitler). Giới tiến hóa không thể che giấu cuốn sách này, vì nó quá nổi tiếng. Vì thế họ buộc lòng phải giới thiệu nó kèm theo những lời phê phán nó, bóp méo nó. Đó là cách xử thế của những con đà điểu rúc đầu xuống cát.
Trong câu chuyện hôm nay, xin giới thiệu một luận văn khác của Richard Weikart: “ The Role of Darwinism in Nazi Racial Thought ” (Vai trò của học thuyết Darwin trong hệ tư tưởng về chủng tộc của chủ nghĩa quốc xã). Sau đây là tóm lược những ý kiến quan trọng nhất trong luận văn.
Vai trò của học thuyết Darwin trong hệ tư tưởng chủng tộc của Nazi
Tóm tắt
Thông qua việc nghiên cứu hệ tư tưởng của Hitler, nền giáo dục sinh học chính thống trong chế độ quốc xã, những luận văn của các nhà nhân chủng học Nazi và các tạp chí định kỳ của Nazi, chúng ta sẽ thấy các nhà lý thuyết về chủng tộc của Nazi bám lấy học thuyết của Darwin về nguồn gốc loài người, tức học thuyết về sự tiến hóa của con người và của các chủng tộc như thế nào.
Họ không chỉ dạy con người tiến hóa từ vượn, mà còn tin rằng chủng tộc Aryan, hoặc còn gọi là chủng tộc Phương Bắc (Nordic), đã tiến hóa lên cấp cao hơn các chủng tộc khác, vì những điều kiện khí hậu khắc nghiệt đã ảnh hưởng đến sự chọn lọc tự nhiên. Họ cũng quả quyết rằng học thuyết Darwin đã củng cố vững chắc thêm cho những yếu tố đặc trưng của hệ tư tưởng về chủng tộc của Nazi, bao gồm tính không ngang bằng (tính bất bình đẳng) về chủng tộc, sự cần thiết của cuộc đấu tranh sinh tồn về mặt chủng tộc, và chủ nghĩa tập thể.
Trong tiểu luận này tôi xem xét những bằng chứng sau đây để chứng minh một cách áp đảo rằng các nhà tư tưởng về chủng tộc của Nazi đã đi theo học thuyết về sự tiến hóa của con người và của các chủng tộc như thế nào:
1) Hitler tin vào học thuyết về sự tiến hóa của con người;
2) Nền giáo dục chính quy ở nhà trường dưới thời Nazi đặc biệt đề cao môn tiến hóa sinh học, bao gồm học thuyết về sự tiến hóa của con người;
3) Các nhà nhân chủng học về sắc tộc của Nazi, bao gồm các nhà nhân chủng học của cơ quan SS, nhất quán xác nhận học thuyết về sự tiến hóa của con người và đã tích hợp học thuyết này vào trong hệ tư tưởng về chủng tộc của họ;
4) Các tạp chí định kỳ của Nazi, bao gồm các tạp chí về hệ tư tưởng chủng tộc, bám chặt lấy học thuyết về sự tiến hóa của con người;
5) Những tài liệu của Nazi được thiết kế nhằm khắc sâu thế giới quan của Nazi vào trong tư tưởng của các sĩ quan quân đội và SS đã nâng học thuyết về sự tiến hóa của con người lên thành một bộ phận không thể thiếu trong thế giới quan của Nazi.
Trong khi xem xét những bằng chứng này, tôi sẽ nhấn mạnh những cách thức mà tư tưởng chủng tộc của Nazi đã được định hình bởi học thuyết Darwin (học thuyết được định nghĩa như sự tiến hóa sinh học thông qua quá trình chọn lọc tự nhiên).
Đầu tiên, hầu hết mọi nhà lý thuyết về chủng tộc của Nazi đều tin rằng con người đã tiến hóa từ vượn.
Thứ hai, họ đưa ra những giải thích về sự tiến hóa của những chủng tộc người khác nhau, bao gồm chủng tộc Phương Bắc hoặc Aryan (hai thuật ngữ này được sử dụng đồng nghĩa). Đặc biệt, họ tin rằng chủng tộc Aryan đã trở nên vượt trội (superior) vì những điều kiện khí hậu khắc nghiệt tại khu vực bắc-trung Âu trong giai đoạn Kỷ Băng giá (Ice Ages) đã tôi luyện họ trong cuộc đấu tranh sinh tồn, làm cho kẻ yếu bị diệt vong và chỉ để lại những người mạnh mẽ nhất.
Thứ ba, họ tin rằng trình độ tiến hóa chênh lệch giữa các chủng tộc là bằng chứng khoa học cho sự không ngang bằng (bất bình đẳng) tất yếu giữa các chủng tộc.
Thứ tư, họ có ý nghĩ cho rằng các chủng tộc khác nhau và không ngang bằng về tiến hóa tất yếu bị lôi cuốn vào cuộc đấu tranh sinh tồn không thể tránh khỏi.
Thứ năm, họ nghĩ rằng phương cách để chủng tộc của họ chiến thắng trong cuộc đấu tranh sinh tồn là sinh đẻ nhiều hơn các chủng tộc cạnh tranh với họ và giành được nhiều “không gian sinh tồn” (Lebensraum) hơn để sinh sôi bành trướng trong đó.
Thứ sáu, nhiều người lý luận rằng học thuyết Darwin đề cao một lý tưởng tập thể.
Sáu điểm này ─ rút ra từ quan điểm cho rằng loài người và các chủng tộc người đã và đang tiến hóa thông qua cơ chế Darwin về chọn lọc tự nhiên ─ tác động một cách sâu sắc đến chính sách của Nazi. Chúng tạo thành cơ sở của thuyết ưu sinh (eugenics), biện minh cho cuộc tàn sát những kẻ yếu vì đòi hỏi có “không gian sinh sống”, và biện minh cho chính sách diệt chủng.
Hitler và học thuyết Darwin
Trong những bài viết và diễn văn của mình, Hitler thường xuyên viện dẫn các khái niệm của học thuyết Darwin, như khái niệm “tiến hóa” (Entwicklung), “tiến hóa cao hơn” (Höherentwicklung), “đấu tranh sinh tồn” (Existenzkampf or Daseinskampf), “đấu tranh vì sự sống” (Lebenskampf), và “chọn lọc” (Auslese). Trong một diễn văn năm 1937 ông ta không chỉ thể hiện niềm tin vào học thuyết về sự tiến hóa của con người, mà còn tán thành lý thuyết của Haeckel cho rằng mỗi sinh vật trong giai đoạn phát triển trong bào thai đều lặp lại các bước tiến hóa trước đây trong lịch sử tiến hóa…
Trong cuốn “Main Kampf” (Cuộc đấu tranh của tôi) của Hitler, thuyết tiến hóa đóng một vai trò trung tâm trong chương “Quốc gia và chủng tộc” (Nation and Race). Đó là chương duy nhất được công bố như một cuốn sách mỏng, được lưu hành rộng rãi để đề cao hệ tư tưởng của Nazi. Trong chương này Hitler giải thích tại sao ông ta cho rằng sự pha trộn chủng tộc là vi phạm các nguyên lý của thuyết tiến hóa. Ông ta viết:
“ Bất kỳ sự pha trộn nào giữa hai người không có cùng cấp độ tiến hóa về chủng tộc sẽ tạo ra một người con ở cấp độ trung gian về tiến hóa giữa cha và mẹ. Điều này có nghĩa là đứa con sẽ tiến hóa cao hơn về chủng tộc so với người cha hoặc người mẹ thuộc chủng tộc thấp hơn, nhưng lại tiến hóa thấp hơn về chủng tộc so với người cha hoặc người mẹ thuộc chủng tộc cao hơn. Kết quả là đứa con sẽ thua trong cuộc đấu tranh sau này chống lại những chủng tộc ở cấp cao hơn. Sự phối ngẫu như thế là trái với mong muốn của Tự Nhiên ─ mong muốn gây giống cao hơn trong mọi sự sống.
Điều kiện tiên quyết để đạt được mong muốn này không phải là sự phối ngẫu chủng tộc cao hơn với chủng tộc thấp hơn, mà là sự chiến thắng hoàn toàn của chủng tộc cao hơn. Kẻ mạnh hơn phải thống trị và không trộn lẫn với kẻ yếu hơn, vì trộn lẫn như thế thì kẻ mạnh đã từ bỏ cái vĩ đại của chính mình. Chỉ có những kẻ sinh ra yếu hèn mới có thể xem điều này là tàn ác, nhưng hắn rốt cuộc cũng chỉ là một con người yếu hèn và kém cỏi; vì nếu quy luật này không chiếm ưu thế thì chúng ta không làm thế nào mà hình dung được bất kỳ một sự tiến hóa nào cao hơn có thể hiểu được của những thực thể sống hữu cơ. ”
Vài dòng sau ông ta lại tiếp tục:
“ Trong cuộc đấu tranh giành miếng ăn hàng ngày, những kẻ ốm yếu hoặc kém kiên quyết sẽ thua, trong khi cuộc đấu tranh của đàn ông giành phụ nữ chỉ ban phát quyền hạn hoặc cơ hội phát triển giống nòi cho kẻ khỏe mạnh nhất. Và cuộc đấu tranh luôn luôn là một phương tiện cải thiện sức khỏe và khả năng chịu đựng của một loài, và do đó, dẫn tới sự tiến hóa cao hơn của loài đó ”.
Đó là lý do Hitler chống đối phối ngẫu di chủng (miscegenation), vì kiểu phối ngẫu này cản trở quá trình tiến hóa ─ cái Hitler coi là lợi ích cao nhất. Toàn bộ ý kiến nói trên của Hitler là nhằm áp dụng các nguyên lý về tiến hóa vào các quan hệ chủng tộc của con người, nên điều không thể chối cãi được là Hitler tin rằng loài người đã và đang tiến hóa. Và chính sách chủng tộc của Hitler nhắm vào mục tiêu nâng cao sự tiến hóa của con người (!)
Hitler suy nghĩ một cách rõ ràng rằng chủng tộc Phương Bắc đã tiến hóa cao, như ông ta đã giải thích trong một diễn văn năm 1920 nhan đề “Tại sao chúng ta bài Do Thái” (Why We are Anti-Semites). Hitler quả quyết chủng tộc Phương Bắc đã phát triển các đặc tính chủ yếu của nó, đặc biệt là xu hướng thích nghi với những công việc khó khăn và tinh thần phân biệt phải trái, cũng như năng lực thể chất, do khí hậu khắc nghiệt ở phương bắc.
Ông ta không lập luận rằng khi hậu trực tiếp gây ra một biến đổi trong những đặc tính sinh học (vì ông ta tin vào di truyền). Nhưng ông ta nghĩ rằng trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt thì chỉ những cá nhân có tinh thần hợp tác nhất, mạnh mẽ nhất, lao động chăm chỉ nhất mới có thể sống sót và chuyển giao những đặc tính di truyền của họ cho các thế hệ sau. Kẻ ốm yếu cũng như những kẻ lười biếng sẽ bị diệt vong trong cuộc đấu tranh sinh tồn.
Cuộc đấu tranh này làm cho chủng tộc Phương Bắc mạnh mẽ và vượt trội so với các chủng tộc khác, những chủng tộc tiến hóa trong những vùng khí hậu dễ chịu hơn. Qua đó có thể thấy rõ ràng là Hitler không tin vào Thuyết Sáng tạo ─ không tin rằng các chủng tộc Phương Bắc đã tồn tại từ trước đến nay vẫn thế, hoặc được sáng tạo ra ngay từ đầu đến giờ vẫn như thế.
Học thuyết Darwin và Chương trình Giáo dục Sinh học trong chế độ Nazi
Môn sinh học tiến hóa đã được đưa vào chương trình giáo dục sinh học ở Đức từ lâu trước khi đảng quốc xã của Hitler lên cầm quyền năm 1933 (vì thế nó đã có ảnh hưởng lớn đến các nhà tư tưởng của Nazi). Sự giải thích của học thuyết Darwin về quá trình tiến hóa được giảng dạy nổi bật tại nhà trường ở Đức, mặc dù không phải là không gây nên tranh cãi. Chương trình giáo dục sinh học dưới chế độ Nazi tiếp tục nhấn mạnh đến thuyết tiến hóa, bao gồm học thuyết về sự tiến hóa của con người và của các chủng tộc. Nền giáo dục và sách giáo khoa tiếp thu học thuyết Darwin và bãi bỏ học thuyết Lamarck, vì học thuyết Darwin phù hợp với tư tưởng của Nazi trong ý đồ nhấn mạnh đến tính di truyền các đặc tính được chọn lọc.
Năm 1938 Bộ Giáo dục Đức công bố một cuốn sổ tay trong chương trình giáo dục chính quy cho nhà trường. Cuốn sổ tay này dạy thuyết tiến hóa, bao gồm học thuyết về sự tiến hóa của các chủng tộc người, thông qua “sự chọn lọc và đào thải” (selection and elimination). Cuốn sách quy định “ Học sinh phải chấp nhận định luật này như một cái gì đó hiển nhiên” . Đó là định luật về sự loại trừ (cái không phù hợp) cùng với sự tiến hóa và sự sinh sản, được xem như một định luật tự nhiên chủ yếu nhất và quan trọng nhất.
Ở lớp 5, giáo viên được hướng dẫn giảng dạy về “ sự hình thành của chủng người nguyên thủy trong mối liên hệ với sự tiến hóa của động vật ”. Ở lớp 8, học sinh được dạy thuyết tiến hóa nâng cao, bao gồm những bài học về “Học thuyết Lamarck và học thuyết Darwin, thế giới quan và những hàm ý chính trị của những học thuyết đó”. Đồng thời học sinh cũng được dạy về “nguồn gốc và sự tiến hóa của loài người và của các chủng tộc của nó”, bao gồm những phần về “loài người tiền sử và các chủng tộc người tiền sử” và “các chủng tộc người hiện đại theo quan điểm của lịch sử tiến hóa”.
Sách giáo khoa sinh học của Jakob Graf năm 1942 có toàn bộ một chương nhan đề “Thuyết tiến hóa và tầm quan trọng của nó đối với thế giới quan”. Trong đó Graf đả phá học thuyết Lamarck và đề cao thuyết tiến hóa của Darwin thông qua chọn lọc tự nhiên. Ông ta tuyên bố rằng việc hiểu biết về sự tiến hóa của con người là rất quan trọng, vì nó chứng tỏ con người không có gì đặc biệt trong thế giới sinh vật .
Ông ta cũng lập luận rằng thuyết tiến hóa chứng minh tính không ngang bằng (bất bình đẳng) của con người . Trong chương tiếp theo nhan đề “Khoa học về chủng tộc” (Racial Science) Graf dành 15 trang để thảo luận về sự tiến hóa của con người và khăng khăng nói rằng con người và vượn có tổ tiên chung. Tương tự như vậy, Erich Meyer và Karl Zimmermann cũng thảo luận về sự tiến hóa của con người trong sách giáo khoa của họ. Họ nói:
“Con người đã có mặt trong thời kỳ khắc nghiệt này [Kỷ Băng giá]. Trong cuộc chống chọi với tự nhiên con người đã ngày càng cải thiện về thể chất và trí tuệ. Con người ngày càng tiến hóa. Đầu tiên nó xuất hiện như một loài nửa động vật trước khi có con người (half-animal prehuman) , rồi đến một loài người nguyên thủy sống trong hang động biết sử dụng lửa và tạo ra những dụng cụ bằng đá và vũ khí săn bắn”.
Qua những thí dụ nói trên có thể thấy học thuyết về sựu tiến hóa của con người là tiêu chuẩn cơ bản trong sách giáo khoa sinh học thời Nazi. Một cuốn giáo khoa sinh học năm 1942 của Hermann Wiehle và Marie Harm đã khuyến khích học sinh đi tham quan vườn thú để quan sát loài vượn, trong đó viết: “Vì trong chương trình giáo dục chúng ta đã được học nhiều về thuyết tiến hóa và nguồn gốc của loài người, vì thế khi đi thăm vườn thú, các loài vượn sẽ đặc biệt hấp dẫn chúng ta”. Cuốn giáo khoa này và những hoạt động ngoại khóa cho thấy rõ ràng là trẻ em ở Đức dưới Đế Chế thứ III (thời Nazi) đã được khuyến khích coi vượn là họ hàng tiến hóa của các em.
Tầm quan trọng của thuyết tiến hóa trong việc tuyên truyền chính sách chủng tộc của Nazi
“ Nếu Tự Nhiên không muốn kẻ yếu phối ngẫu với kẻ mạnh, nó càng không mong muốn một người thượng đẳng hòa lẫn với một kẻ thấp kém; bởi vì trong trường hợp đó bao nhiêu cố gắng của tự nhiên qua hàng trăm ngàn năm để thiết lập nên một tầng lớp người tiến hóa cao hơn, vì thế mà có thể trở thành vô ích ” (Adolf Hitler, Mein Kampf, trang 223)
Để chứng minh vai trò quan trọng của học thuyết Darwin trong việc tuyên truyền chính sách chủng tộc của Nazi, tôi khảo sát thêm 3 nguồn tài liệu quan trọng:
1/ Cuốn sách nhỏ của SS nhan đề “Rassenpolitik” (Chính sách chủng tộc);
2/ Chương trình giáo dục của SS về huấn luyện thế giới quan;
3/ Một cuốn sách nhỏ về tuyên truyền được viết cho quân đội Đức trong thời gian Thế Chiến II, “Wofür kämpfen wir?” (Chúng ta đang chiến đấu với cái gì?).
Tất cả các tài liệu này đều dứt khoát tán thưởng thuyết tiến hóa của Darwin, đặc biệt bao gồm học thuyết về sự tiến hóa của con người. Hơn nữa, những tài liệu này không ngẫu nhiên để cập đến học thuyết Darwin, mà chủ ý gắn nó vào một vị trí nổi bật trong hệ tư tưởng về chủng tộc của Nazi.
Học thuyết Darwin đóng một vai trò trung tâm trong cuốn sách mỏng “Chính sách chủng tộc”. Như đã được giới thiệu ở trang cuối, cuốn sách này được sử dụng để đào tạo hệ tư tưởng Nazi. Những trang mở đầu giải thích rằng những khái niệm trung tâm làm nền tảng cho hệ tư tưởng chủng tộc của Nazi là sự di truyền rõ ràng không thể chỗi cãi được và tình không ngang bằng về chủng tộc.
Tiếp theo nó khẳng định rằng tính không ngang bằng về chủng tộc đã xảy ra vì sự tiến hóa tiến lên nhờ đấu tranh. Các chúng tộc khác nhau đơn giản là không tiến hóa ở cùng một bước, mà ở những cấp độ khác nhau. Các tác giả khẳng định rằng ba chủng tộc chủ yếu của loài người ─ người Âu, người Mongoloid và người da đen ─ là những chủng phân nhánh từ một tổ tiên chung từ khoảng 100.000 năm trước đây.
Họ lập luận rằng các chủng tộc tiến hóa thông qua sự chọn lọc và đào thải, và chủng tộc Phương Bắc trở nên vượt trội vì nó đã phải đấu tranh sinh tồn trong những điều kiện cực kỳ khắc nghiệt. Trong suốt toàn bộ cuốn sách này, các thuật ngữ như “higher evolution” (tiến hóa cao hơn), “struggle for existence” (đấu tranh sinh tồn) và “selection” (chọn lọc) là những khái niệm cốt lõi được nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
Họ cũng đề cập đến những đột biến như một nguồn đổi mới trong quá trình tiến hóa. Trong cuốn sách này có một phần nhan đề “Mục đích cuộc sống” (The Purpose of Life), trong đó giải thích, “ Bảo toàn và nhân giống bản thân mình là mục đích sâu xa nhất của cuộc sống. .. Tuy nhiên, sự bảo tồn và nhân giống chứa đựng xu thế cải thiện để đạt được sự tiến hóa cao hơn và hoàn hảo hơn, xu thế này tồn tại bên trong mọi sự sống.”..
Một cuốn sách nhỏ quan trọng khác nhằm mục đích nhồi sọ hệ tư tưởng Nazi là cuốn “Chúng ta đang chiến đấu với cái gì?”, một công trình do quân đội Đức xuất bản năm 1944. Hitler đã đích thân viết một lá thư phê chuẩn cuốn sách này, yêu cầu các sĩ quan không chỉ đọc nó, mà hãy dùng nó trong việc huấn luyện tư tưởng cho binh sĩ của mình. Cuốn sách này nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại tầm quan trọng của cuộc đấu tranh sinh tồn về mặt chủng tộc và của sự chọn lọc để bảo tồn và cải thiện giống người.
Cam kết của Nazi phấn đấu cho một “cấp độ tiến hóa cao hơn” của con người là nội dung chủ yếu của cuốn sách. Các tác giả lập luận rằng chủng tộc Phương Bắc đã là một chủng tộc tiến hóa cao nhất, nhưng họ nhắm tới mục tiêu cải thiện loài người hơn thế nữa. Họ quả quyết “Phương tiện để tạo ra kiểu con người mới này là những hướng dẫn được huấn luyện theo tinh thần thế giới quan của Nazi. Điều kiện tiên quyết của mục tiêu đó là duy trì sự thuần chủng về dòng máu và nâng cao trình độ tiến hóa của dòng máu của chúng ta thông qua sinh sản”. Bất kể tác giả cuốn sách này là ai thì người ấy đã nhấn mạnh hết mức đến tầm quan trọng của học thuyết về sự tiến hóa của con người đối với hệ tư tưởng về chủng tộc của Nazi.
Kết luận
Bằng chứng lịch sử không thể chối cãi được cho thấy học thuyết về sự tiến hóa của con người, tức học thuyết của Darwin về nguồn gốc loài người, là một bộ phận không thể thiếu của hệ tư tưởng chủng tộc của chủ nghĩa quốc xã. Học thuyết về sự tiến hóa của con người chiếm một vị trí nổi bật trong chương trình giáo dục ở nhà trường dưới chế độ Nazi và trong các chương trình đào tạo thế giới quan của Nazi.
Các sĩ quan Nazi và các nhà nhân chủng học SS nhất trí cho rằng con người, bao gồm chủng tộc Phương Bắc, đã tiến hóa từ vượn. Họ tin rằng chủng tộc Phương Bắc đã tiến hóa tới cấp độ cao hơn về trí tuệ, về năng lực thể chất, và về tinh thần đoàn kết xã hội so với các chủng tộc khác, phần lớn bởi vì họ phải đối mặt với cái mà các nhà sinh học ngày nay cọi là “áp lực chọn lọc” (selective pressure) lớn hơn. Áp lực chọn lọc này là kết quả của Kỷ Băng giá, giai đoạn khí hậu khắc nghiệt này đã loại bỏ những kẻ ốm yếu và bệnh tật, chỉ để lại những kẻ thông minh nhất và hoàn hảo nhất để nhân rộng ra trong chủng tộc Phương Bắc. Họ coi thuyết ưu sinh và chính sách chủng tộc như một phương tiện giúp cho chủng tộc Phương Bắc tiến hóa tới mức cao hơn nữa.
Nhìn toàn cục, những tư tưởng này không chỉ là tư tưởng của đảng quốc xã, mà đồng thời còn là tư tưởng của nhiều nhà sinh học và nhân chủng học hàng đầu ở Đức trước khi đảng quốc xã lên cầm quyền. Hệ tư tưởng chủng tộc của Nazi và nhiều chính sách dựa trên đó đã được định hình một cách sâu sắc bởi sự hiểu biết của học thuyết Darwin về con người. Tất nhiên có những yếu tố không liên quan tới học thuyết Darwin đã được kết hợp với học thuyết Darwin, như: tính vượt trội của chủng tộc Aryan, quan điểm chống phối ngẫu dị chủng, chủ nghĩa bài Do Thái, và nhiều thứ khác nữa…
Tuy nhiên, hệ tư tưởng chủng tộc của Nazi đã tích hợp tất cả những yếu tố này vào trong một thế giới quan nhấn mạnh vào sự biến đồi chuyển tiếp giữa các loài, sự hình thành các chủng tộc người theo kiểu tiến hóa, nhu cầu nâng cao cấp độ tiến hóa của con người, tính tất yếu của cuộc đấu tranh sinh tồn trong loài người, và nhu cầu giành giật “không gian sinh sống” để thắng lợi trong cuộc đấu tranh tiến hóa.
Nhà sinh học Reche, tác giả cuốn “Di truyền học của sự hình thành nòi giống” (Die Genetik der Rassenbildung), kết luận: “Tất cả những sự kiện đã đề cập đến trong vấn đề nguồn gốc con người và sự phát triển các chủng tộc của nó đều có thể giải thích được bằng di truyền. Nếu không có sự xuất hiện khác biệt về di truyền, không có sự chọn lọc và đào thải, sẽ không bao giờ hình thành những chủng tộc tiến hóa cao, các bô lạc sẽ không bao giờ có thể hoàn tất nhiệm vụ cao nhất, và con người sẽ không bao giờ đạt tới một nền văn hóa cao hơn.
Sự hiểu biết này bắt buộc chúng ta phải đảm đương nhiệm vụ chọn lọc có ý thức để có được những chủng tộc thích hợp, khỏe mạnh theo di truyền, những con người sáng tạo văn hóa trong tương lai và do đó mới nâng đời sống của con người lên cao hơn đời sống của động vật”. Quan điểm của Reche rất phù hợp với tư tưởng của Nazi, một tư tưởng nhắm tới mục tiêu cuối cùng là cải thiện giống loài con người về mặt sinh học, nghĩa là nâng cấp tiến hóa của con người
Bức tranh này có gì không ổn? Một cách hiển nhiên, nó ủng hộ nạn phân biệt chủng tộc trong cái gọi là “quá trình tiến hoá”. Bạn có nhận ra rằng hình mẫu thứ 2 từ bên phải sang trông giống hệt như người châu Phi ngày nay? (tuy có chút thô thiển hơn), còn đỉnh cao của các bước tiến hoá lại trông giống như một người châu Âu “da trắng”? Tại sao một người da trắng lại đại biểu cho con người hiện đại, trong khi phần lớn dân số thế giới có da ngăm-vàng? Thông điệp ẩn giấu trong bức tranh này, đó là: da sáng hơn nghĩa là tiến hoá cao hơn.
Điều bất ngờ là, bức tranh này không phải từ một nhóm nhỏ cho rằng người da trắng là thượng đẳng, mà là ảnh minh hoạ cho 1 bài viết trên website uy tín smithsonian.com. Và không ai nhận ra sự phân biệt chủng tộc hiển nhiên ở đây. Tại sao vậy?
Trong bộ phim tài liệu Hành trình chấn động thế giới, Peter Bowler – nhà sử học về tiến hoá từ đại học Cambridge có phát biểu về Darwin:
“Khi ông ấy viết cuốn “The Descent of Man” (Nguồn gốc loài người) năm 1871, ông thể hiện khá rõ rằng mình có cùng mối nghi ngờ hay kết luận của nhiều người châu Âu: những chủng người không-phải-da-trắng đơn giản là không thể tiến lên những bậc thang văn minh cao hơn, vì năng lực trí tuệ và đạo đức có hạn. Và rằng họ bị mắc kẹt trong những giai đoạn đầu trong thang tiến hoá sinh học của loài người.”
Nhiều người sẽ cảm thấy khó chịu khi đọc những thông tin này, vì ở nhiều nơi trên thế giới, trước nay Darwin vẫn được xem là một nhà khoa học lỗi lạc và được ngợi ca. Vậy thì tại sao ít ai nhắc tới những nhận định mang tính chất kỳ thị chủng tộc như thế này? Có lẽ vì nhiều người chỉ biết tới Darwin qua sách giáo khoa, chứ không đọc trực tiếp những tác phẩm của ông. Các đệ tử của Darwin đủ thông minh để nhận ra bản chất phân biệt chủng tộc trong học thuyết của ông, và đủ khôn ngoan để che đậy và thanh lọc những “hạt sạn” đó trước khi truyền giảng cho người đời.
Đi ra từ thuyết tiến hoá, quan điểm rằng những chủng người này ít tiến hoá hơn các chủng khác, ở cái thời nó còn thịnh hành, đã mang đến hậu quả thảm khốc cho người da đen và da màu trên khắp thế giới. Những người ủng hộ Darwin thời kỳ đầu cho rằng người Aborigine ở Úc có thể là mắt xích còn thiếu trong chuỗi tiến hoá, vì vậy nhiều người thổ dân đã bị giết để đem trưng bày trong các bảo tàng khắp thế giới.
Charles Kingsley, bạn thân và là người ủng hộ của Darwin, còn đề xuất rằng:
“Người da đen ở Úc, chính cùng chủng tộc với người châu Phi, không thể tiếp thu sách phúc âm… Tất cả nỗ lực để mang đến cho chúng những tri thức của Chúa đều thất bại cho đến nay… Những kẻ man rợ tội nghiệp trong hình dáng con người… chúng phải biến mất khỏi mặt đất như những loài thú.” (The Bulletin, 12/12/1991, pp. 30-38)
Nhà nghiên cứu David Monaghan đã dành 18 tháng để ghi lại cuộc thảm sát nhân danh khoa học, ông đã tập hợp thành một tài liệu mang tên “Những kẻ cắp thi thể của Darwin.”
Trong thang bậc chủng tộc của Đức Quốc xã, người da đen là một trong những những chủng tộc thấp hơn. Sau khi Jesse Owens thắng 4 huy chương vàng tại Olympic Berlin năm 1936, Hitler đã lên án người Mỹ vì dám cho phép người da đen tham gia vào thế vận hội. Kiến trúc sư trưởng của Hitler, Alber Speer, đã phát biểu:
Mỗi chiến thắng của người Đức, và với số lượng nhiều bất ngờ, đều làm cho Hitler vui, nhưng ngài cực kì khó chịu bởi chiến thắng hàng loạt của vận động viên điền kinh người Mỹ, Jesse Owens. Những người có tổ tiên sống trong rừng còn khá nguyên thuỷ, Hitler vừa nói vừa nhún vai; thể chất của họ khoẻ hơn những người da trắng văn minh và vì vậy nên bị loại khỏi các cuộc thi thể thao trong tương lai.
Ở Mỹ đầu thế kỷ 20, một người lùn pích-mê châu Phi tên là Ota Benga đã bị nhốt chung chuồng với đười ươi và trưng bày ở vườn thú Bronx như một chủng loài ít tiến hoá hơn.
Đối với các mục sư da đen, trò trình diễn đã phát đi một thông điệp rõ ràng: Người Phi Châu bị xem như một sinh vật nằm ở bậc thang tiến hóa trong khoảng giữa loài khỉ với đám đông người da trắng, đám đông này coi Ota Benga như một trò giải trí.
“Một trăm năm sau, tình tiết trong vụ Ota Benga vẫn còn là một minh họa điển hình của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc lan tràn khắp New York vào thời đó”. Đó là một nhận định, một kết luận trong bài báo “Vụ bê bối ở vườn thú”của Mitch Keller trên tờ New York Times ngày 06 Tháng 08 năm 2006.
Nhiều người ủng hộ thuyết tiến hoả cảm thấy tức giận khi đứng trước những cáo buộc trách nhiệm của học thuyết này, gây ra đau thương cho vô số người trong lịch sử. Ngày nay, những người theo thuyết tiến hoá đã không còn tư tưởng phân biệt chủng tộc, nhờ vào những khám phá mới trong di truyền học cho thấy các chủng người có mối quan hệ gần với nhau như thế nào. Nhưng khoảng một thế kỉ trước, họ đã khăng khăng rằng khoa học về “tiến hoá” mới là đúng, và được giảng dạy ở hầu hết các trường ở phương Tây.
Ngoài những trường hợp trên, không thể không nhắc đến Hitler và cuộc thảm sát người Do Thái.
Trong cuốn “Nguồn gốc các loài”, Chương VI, Darwin đã viết:
“Vào một giai đoạn nào đó không xa lắm có thể tính bằng số thế kỷ, các chủng tộc văn minh của loài người hầu như chắc chắn sẽ hủy diệt và thay thế các chủng tộc man rợ trên khắp thế giới. Đồng thời không nghi ngờ gì nữa những loài vượn có hình thù giống người… sẽ bị hủy diệt. Do đó sự chênh lệch giữa con người với những loài gần nó nhất sẽ lớn hơn, vì khi con người đạt tới trình độ văn minh mà ta hy vọng thậm chí còn cao hơn chủng tộc Caucasian (người da trắng), thì khoảng cách giữa người so với những giống khỉ bậc thấp như khỉ đầu chó sẽ càng lớn, thay vì chỉ chênh lệch ở mức như hiện nay giữa người da đen hoặc người thổ dân Úc so với loài vượn gorilla.”
Tư tưởng này trong thuyết tiến hóa chính là điều mà Hitler cần để rao giảng cho người Đức – vốn đang bức bối tìm lối thoát sau thất bại trong Thế chiến thứ nhất. Hitler tuyên bố trong cuốn sách “Mein Kampf” (Cuộc đấu tranh của tôi) như sau:
“Kẻ mạnh hơn phải thống trị và không được pha trộn với kẻ yếu, vì như thế là đánh mất sự vĩ đại của chính mình. Chỉ có những kẻ sinh ra yếu kém mới có thể coi điều này là độc ác, nhưng rốt cuộc thì anh ta vẫn chỉ là một kẻ yếu với năng lực hạn chế; vì nếu quy luật này không thắng thế thì khó mà hình dung được một sự phát triển cao hơn của các sinh vật sống có tổ chức”.
Những lãnh đạo của Đức Quốc xã, và các nhà sinh học Đức đầu thế kì 20, lưu lại nhiều văn bản cho thấy lý thuyết của Darwin có ảnh hưởng lớn tới chính sách chủng tộc của họ. Hitler tin rằng nguồn gene người có thể được cải thiện bằng cách lai giống chọn lọc, tương tự như cách nông dân lai các giống gia súc ưu thế. Khi thiết lập chính sách chủng tộc, chính phủ của Hitler đã áp dụng mạnh mẽ học thuyết của Darwin, đặc biệt là các minh hoạ của Spencer và Haeckel. Kết quả là, chính sách trung tâm của Hitler tập trung việc phát triển và bảo vệ ‘chủng tộc thượng đẳng’. Điều này đòi hỏi phải ngăn cản các ‘chủng tộc hạ đẳng’ trộn lẫn vào, để tránh làm lai tạp nguồn gene. Niềm tin ‘chủng tộc thượng đẳng’ này là dựa trên lý thuyết về sự không cân bằng trong mỗi loài – một giả định và tiền đề cốt yếu trong thuyết ‘chọn lọc tự nhiên’ của Darwin. Những điều này dẫn đến ‘giải pháp cuối cùng’ – loại bỏ khoảng 6 triệu người Do Thái và 4 triệu những chủng người khác mà các nhà khoa học Đức cho là ‘hạ đẳng’.
“Nước Đức đã ôm lấy cái khái niệm phi khoa học về chủng tộc Đức như là bộ phận tinh tuý nhất trong chủng tộc Aryan, trong số những người cùng nói thứ ngôn ngữ Ấn-Âu, và rằng họ có trách nhiệm với tiến bộ của nhân loại (trang 60), … Chủ nghĩa quốc xã khẳng định rằng thế giới được chia thành một hệ thống nhiều thang bậc chủng tộc: Người Aryan, trong đó người Đức là đại diện thuần chủng nhất, là chủng tộc thượng đẳng về văn hoá, trong khi người Do Thái là thấp kém nhất. Điều đó cũng có nghĩa là người Do Thái sẽ bị người Aryan tiêu diệt loại bỏ khỏi thế giới …(trang 661)” (Từ điển Lịch sử thế giới (Dictionary of World History) do Chambers của Anh xuất bản năm 1994)
Nhiều người chỉ nhìn thấy bức ảnh vô hại trên về quá trình tiến hoá trong lý thuyết, mà khó nhận ra tác hại khi chấp nhận và vô thức áp dụng học thuyết đấu tranh “kẻ mạnh sinh tồn” này trong cuộc sống. Hợp tác hoà bình hay đấu tranh một mất một còn? Hai bên cùng thắng (win-win) hay mạnh được yếu thua? Con người sống mà không có tình thương, sự giúp đỡ và bao dung thì thật đáng sợ. Do đó, khi xem xét dưới góc độ đạo đức và luân lý, chúng ta cần có sự lựa chọn tỉnh táo cho bản thân mình.
Các phát minh quan trọng nhất thế giới từ nửa cuối thế kỷ 19 (cùng hoặc sau thời Darwin)
Còn đây là danh sách (không đầy đủ) các ông tổ của các ngành khoa học từ cổ chí kim. Tất cả đều là những người có tín ngưỡng tâm linh:
Albert Einstein cũng là nhà khoa học hữu thần, ông tin phải có một đấng Tạo Hóa hiện hữu và đứng đằng sau mọi quy luật vật lý, nếu không vũ trụ sẽ hỗn loạn và không thể tồn tại được.
Vợ chồng nhà Curie thì đều tin vào thế giới tâm linh, thậm chí còn nhiều lần tham gia vào các hoạt động tâm linh huyền bí…
Có thể thấy rất rõ, những nhân vật phản đối thuyết tiến hóa hoặc đặt niềm tin vào đấng Tạo Hóa, từ xưa tới nay không hề ít mà cũng không tầm thường chút nào. Trái lại họ đều là những người khổng lồ của giới khoa học. Ấy vậy mà nhiều “nhà tiến hóa” có thể phát ngôn rằng ai không đi theo niềm tin của họ đều là đồ thất học hoặc là bị tâm thần! Rất ngược đời...