Cuộc sống quanh ta với biết bao là nét đẹp. Nét đẹp của hoa cỏ đồng nội. Nét đẹp của trăng sao, cá nước chim trời. Nét đẹp của những cánh đồng mênh mông bát ngát, hay nét đẹp của những dòng sông hiền hòa, trĩu nặng phù sa. Nét đẹp của thiên nhiên và nét đẹp của con người. Đó là nét đẹp của trí tuệ, nét đẹp về hình thể, nét đẹp của lòng nhân ái bao dung, nét đẹp trong những lời thơ, tiếng hát v.v… Thế nên, một nhạc sĩ đã từng viết: “Cuộc đời quanh ta có biết bao là nét đẹp.” Vậy những nét đẹp của đời linh mục là gì? Tại sao đời linh mục lại có những nét đẹp như thế?
Trong một bài viết đã lâu, linh mục Anthony Đào Quang Chính, OP, có đề cập đến 6 niềm vui sướng và 5 niềm khổ đau trong đời linh mục: “Cái sướng thứ nhất là được gọi bằng “cha”; thứ hai là được bài hát nào đó ca tụng rằng: Chúa chọn con lên hàng khanh tướng; thứ ba là nghe tội người khác; thứ tư là ngồi chỗ kính trọng; thứ năm là không bị lo lay-off, nghĩa là thất nghiệp; và thứ sáu là cha nói một tiếng bằng chúng con nói mười tiếng.” Suy cho cùng, những niềm vui sướng ấy chỉ dừng lại ở khía cạnh hình thức bên ngoài mà thôi. Những niềm vui sướng ấy không nói lên những nét đẹp nơi căn tính và sứ vụ của người linh mục. Căn tính sâu xa của đời linh mục đó chính là nét đẹp của tâm linh, nét đẹp của sẻ chia, nét đẹp của tha thứ, và nét đẹp của hy sinh.
Nét đẹp của tâm linh
Linh mục là con người của cầu nguyện, là thầy dạy về cầu nguyện. Là con người của cầu nguyện, linh mục nguyện gẫm, suy niệm Lời Chúa, giảng dạy Lời Chúa, viếng Chúa, Chầu Thánh Thể và dâng Thánh lễ mỗi ngày. Đó là những nét đẹp tâm linh trong đời linh mục.
Mỗi lần nguyện gẫm, linh mục có thời gian nhìn lại chính mình, nhìn lại mối tương quan giữa mình với Thiên Chúa, hay mối tương quan giữa mình với giáo dân. Mỗi lần suy niệm hay giảng dạy Lời Chúa, linh mục phải là người để Lời Chúa soi sáng, dẫn đường để rao giảng những lời của an ủi yêu thương, những lời của sự thật và sự sống. Mỗi lần viếng Chúa, chầu Thánh Thể, linh mục quỳ gối thinh lặng, cầu nguyện và chiêm ngắm Thánh Thể là bí tích của tình yêu, một tình yêu cao trọng, một tình yêu đến cùng mà Chúa Giêsu, vị linh mục thượng phẩm đời đời đã dành cho nhân loại. Mỗi lần dâng Thánh lễ là mỗi lần linh mục hiệp cùng hy tế của Chúa Giêsu trên thập giá, để dâng cả những suy nghĩ, dự định, ước muốn; dâng cả những lỗi lầm, bất xứng trong đời linh mục lên cho Thiên Chúa Cha, để cầu nguyện cho bản thân, nhất là cầu nguyện cho những đau khổ của đoàn chiên mà Chúa trao phó.
Nét đẹp của sẻ chia
Nhiều bổn đạo đau khổ, tuyệt vọng bởi những biến cố đau thương giữa đời thường. Họ tìm đến nhờ linh mục cho những lời khuyên, giúp lời cầu nguyện để vượt qua những khó khăn và thử thách. Đau khổ về tinh thần lẫn vật chất. Nhiều bà con vướng vào cảnh nợ nần, hoặc quá nghèo tìm đến với linh mục, nói thật những đau khổ ấy với linh mục, họ hy vọng được ngài sẻ chia. Có cha mẹ nào lại không thương những đứa con đang hoạn nạn, nghèo túng của mình. Vì vậy, người linh mục luôn đồng cảm với những nỗi thống khổ của nhiều bổn đạo trong giáo xứ mà ngài coi sóc. Cha giúp lời cầu nguyện. Cha thăm viếng động viên. Thậm chí cha giúp một chút tiền để họ vượt qua khủng hoảng và bế tắc. Vì vậy, linh mục là người “bị ăn”, là tấm bánh được bẻ ra để phân phát cho những ai đang đói khát.
Nhiều linh mục tổ chức mời đoàn bác sĩ ở thành phố về nhiều giáo xứ tỉnh lẻ ở thôn quê để khám bệnh, phát thuốc miễn phí cho bà con giáo dân. Nhiều linh mục tổ chức những đợt phát quà cho bà con giáo dân nghèo mỗi dịp Giáng sinh hay Tết đến. Nhiều linh mục tổ chức những đợt phát học bổng cho các em thiếu nhi có hoàn cảnh khó khăn nhưng chăm chỉ học hành. Gia đình nào có tang chế, linh mục đến hiệp dâng Thánh lễ, cầu nguyện và chia sẻ sự mất mát lớn lao. Đó là những nét đẹp của sẻ chia và yêu thương trong đời linh mục.
Nét đẹp của tha thứ
Theo gương Chúa Giêsu, người linh mục là con người của tha thứ. Ngài tha thứ cho những bổn đạo nói xấu, chỉ trích, lên án mình. Ngài tha thứ cho nhiều hối nhân nơi tòa giải tội. Ngài tha thứ cho những lầm lỗi, thiếu sót cho bà con đang làm việc trong các hội đoàn. Đó là nét đẹp của lòng bao dung. Vì yêu thương con cái nên cha mẹ sẵn sàng tha thứ, không chấp nhất những lỗi lầm, khuyết điểm của con. Vì yêu thương đoàn chiên nên người linh mục luôn đón nhận tất cả vào vòng tay nhân ái của người mục tử nhân lành.
Vì vậy, nơi nét đẹp của tha thứ, mỗi Kitô hữu chúng ta còn khám phá ra nơi khuôn mặt của mỗi linh mục sự hiền lành và phúc hậu. Nét đẹp ấy đã giúp nhiều hối nhân lấy lại niềm tin yêu và cậy trông vào Thiên Chúa. Cả thế giới vô cùng cảm kích trước nghĩa cử Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tới một nhà tù, thăm hỏi và tha thứ cho người thanh niên bắn những phát súng để ám sát ngài. Phải chăng đó là nghĩa cử xuất phát từ những gì Chúa Giêsu đã dạy và đã sống?
Nét đẹp của hy sinh
Làm linh mục đòi hỏi phải có sự hy sinh. Hy sinh thời gian, sức khỏe; hy sinh những phút thư giãn của bản thân để phục vụ nhu cầu tâm linh của nhiều bà con bổn đạo; hy sinh sống đời độc thân không có vợ con để dành trọn thời gian và công việc cho việc phục vụ Giáo hội và mọi người. Bởi vậy, nét đẹp của hy sinh được kết nên bởi những từ bỏ trong đời linh mục. Người linh mục đúng nghĩa phải là một con người của sự từ bỏ của cải vật chất, từ bỏ những quyến luyến của tình cảm, của đam mê xác thịt, hay từ bỏ những cám dỗ quyền lực, danh vọng để sống đơn sơ, thanh thoát và dấn thân cho sứ vụ mục tử.
Tình yêu đòi hỏi phải có hy sinh. Hy sinh càng nhiều tình yêu càng có ý nghĩa và đúng nghĩa. Tuy nhiên, ngày nay, tâm lý tự nhiên ai cũng sợ hy sinh và từ bỏ. Người linh mục sợ hy sinh vì thấy lòng mình chưa thật sự từ bỏ dứt khoát những lôi cuốn của sự đời. Người linh mục sợ cô đơn vì động lực dấn thân vì lòng yêu mến Chúa, yêu mến Giáo hội chưa thật sự mạnh mẽ. Vì vậy, tận trong sâu thẳm cõi lòng, nhiều linh mục vẫn chân nhận rằng mình cảm thấy cô đơn và đấu tranh với những phân mảnh trái ngược nhau diễn ra trong tâm hồn như trong “Lời Kinh Chiều Chúa nhật”, Linh mục Michel Quoit đã viết: “Lạy Chúa, chiều nay chiều Chúa nhật, một mình con quỳ đây đối diện với ngọn đèn chầu, đối diện với Thánh Thể Chúa. Giờ này, nhiều gia đình đang sum họp ăn uống, cười nói vui vẻ bên nhau, còn con thì lặng lẽ âm thầm cầu nguyện với Chúa. Con bắt tay nhiều người nhưng không giữ lại một bàn tay nào cho riêng mình. Con tiếp xúc với nhiều trẻ con, nâng niu và vui đùa với chúng. Nhưng lạy Chúa, đó là những đứa trẻ của người khác chứ không phải là của con. Con giơ tay ban phép lành xá tội cho nhiều người, nhưng những tội đời của con thì chỉ có Chúa mới hiểu mà thôi… Lạy Chúa, làm linh mục có những phút giây cô đơn rất thật như thế, nhưng con tin rằng những phút giây ấy là cơ hội để con trắc nghiệm lại động lực ơn gọi dấn thân trong sứ vụ đời mình.”
Tóm lại, trong cuộc đời này cái gì cũng đều có hai mặt. Đời linh mục cũng vậy. Nhiều bậc cha mẹ muốn con đi tu làm linh mục cho sướng cái thân, ra đời lăn lộn kiếm tiền, vất vả khổ cực lắm! Nhưng họ đâu biết rằng, đằng sau những hào nhoáng, sung sướng bên ngoài ấy, người linh mục hằng ngày phải chiến đấu với bản thân, chiến đấu trong lời kinh, nguyện cầu. Làm linh mục có nhiều cái sướng nhưng khổ đau cũng không phải là ít, thậm chí khổ nhiều hơn sướng. Thế nhưng, nhờ những nét đẹp tâm linh, nét đẹp của sẻ chia, nét đẹp của tha thứ, hy sinh mà người linh mục có thêm động lực tình yêu để sống trọn vẹn trong ơn gọi. Những nét đẹp đời linh mục cho thấy Tin Mừng của Chúa Giêsu là Tin Mừng của niềm vui, của niềm tin yêu và hy vọng cho thế giới hôm nay.
Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J
Bế mạc cuộc gặp gỡ Địa Trung Hải
Đức Thánh Cha đến thành phố Marseille cổ nhất của Pháp có từ 600 năm trước công nguyên, và là thành phố đông dân nhất tại nước này sau thủ đô Paris, nhưng lý do chính thức của chuyến đi không phải là để viếng thăm nước Pháp, như chính ngài đã tuyên bố, nhưng là để bế mạc các cuộc Gặp gỡ Địa Trung Hải.
Các cuộc Gặp gỡ này do sáng kiến của Hội Đồng Giám Mục Ý đề ra và lần trước đây có sự hiện diện của Đức Thánh Cha trong buổi bế mạc là cuộc gặp gỡ tại thành phố cảng Bari nam Ý, hồi năm 2020. Cuộc gặp gỡ năm ngoái, 2022, tại thành phố Firenze, trung Ý, dự kiến có sự hiện diện của ngài, nhưng vào phút chót ngài không thực hiện được.
Quan tâm của Đức Thánh cha
Tuy nhiên, mối quan tâm của Đức Thánh Cha đối với miền Địa Trung Hải đã có từ lâu, như Đức Hồng Y Jean-Marc Aveline, Tổng Giám Mục Marseille, đã tuyên bố với đài Vatican hôm 14/9/2023 rằng:
"Khi đến Marseille, Đức Giáo Hoàng Phanxicô tiếp tục cuộc lữ hành Địa Trung Hải. Chúng tôi cử hành 10 năm cuộc tông du đầu tiên của ngài tại đảo Lampedusa, cực nam nước Ý, hồi tháng 7/2013, chỉ vài tháng sau khi được bầu làm Giáo Hoàng. Từ sau đó, ngài cũng đã tới Tirana, bên Albani, Sarajevo ở Bosni, đảo Lesbos bên Hy Lạp, Cairo Ai Cập, Giêrusalem, đảo Síp, Rabat bên Marốc, Napoli, Malta, v.v. Trong tư cách là Mục tử Giáo Hội hoàn vũ, cũng như là Giám Mục Roma, qua các cuộc viếng thăm đó, Đức Giáo Hoàng muốn biểu lộ quan tâm đặc biệt đối với các dân tộc Địa Trung Hải. Vì thế, ngài đến Marseille không phải để thu hút cái nhìn về bản thân ngài, nhưng đúng hơn để cùng với ngài, chúng ta nhìn về Địa Trung Hải, những thách đố vùng này đang gặp phải, những tài nguyên của nó và sứ mạng của các Kitô hữu thuộc miền này”
Cuộc gặp gỡ tại Marseille
Tham dự các cuộc gặp gỡ tại Marseille sẽ có 120 bạn trẻ thuộc mọi hệ phái Kitô và tôn giáo, cùng với khoảng 70 Giám mục đến từ 30 nước ven Địa Trung Hải. Đây cũng là một lễ hội văn hóa Địa Trung Hải được mở cho tất cả mọi người và là "một ngôi làng” của các cộng đoàn ven biển này, các hiệp hội liên đới hoặc văn hóa, các phong trào dấn thân trong lãnh vực sinh thái và đối thoại.
Các cuộc gặp gỡ sẽ bắt đầu từ ngày 17/9 và kéo dài tới Chúa Nhật 24/9. Các sinh hoạt này ví như một bức tranh khảm các dân tộc, văn hóa, tôn giáo cấu thành Địa Trung Hải, kiến tạo và chia sẻ cùng một niềm hy vọng.
Nhìn lại cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Bari
Để hiểu rõ quan tâm của Đức Thánh Cha khi đến bế mạc các cuộc gỡ, cũng nên nhìn lại lần ngài đến thành phố cảng Bari sáng Chúa Nhật 23/2/2020 để kết thúc cuộc gặp gỡ Địa Trung Hải do Hội Đồng Giám mục Ý tổ chức với chủ đề "Địa Trung Hải, biên cương hòa bình”. Dịp đó có 58 Giám mục từ 20 nước tham dự. Các vị đã suy tư và trao đổi về ơn gọi và vận mệnh của Địa Trung Hải, về việc thông truyền đức tin và thăng tiến hòa bình.
Hoạt động đầu tiên của Đức Thánh Cha khi đến Bari là gặp gỡ các Giám mục Địa Trung Hải tại Vương Cung thánh đường thánh Nicola lúc 8 giờ sáng. Sau lời chào mừng của Đức Hồng Y Gualtiero Bassetti, Chủ tịch Hội Đồng Giám mục Ý, đã có bài tham luận của Đức Hông Y Vinko Puljic, Tổng Giám mục Sarajevo, Chủ tịch Hội Đồng Giám mục Bosni Erzegovine, và Đức Tổng Giám mục Pierbattista Pizzaballa, Giám quản Tông Tòa Tòa Thượng Phụ Công Giáo Latinh Giêrusalem.
Diễn từ của Đức Thánh Cha
Lên tiếng trong dịp này, sau khi nhắc lại tầm quan trọng của miền Địa Trung Hải ngày nay về nhiều phương diện, Đức Thánh Cha nhận xét rằng "cũng như xưa kia, Chúa Giêsu đã hoạt động trong một bối cảnh đa tạp về văn hóa và tín ngưỡng, ngày nay chúng ta cũng ở trong một bối cảnh đa diện và nhiều hình thái, bị xâu xé vì những chia rẽ và chênh lệch, làm gia tăng sự bất ổn. Chính trong bối cảnh đó, chúng ta được kêu gọi làm chứng về hiệp nhất và hòa bình. Chúng ta thi hành sứ mạng này, đi từ niềm tin và với tư cách là thành phần Giáo Hội. Chúng ta tự hỏi, như những môn đệ của Chúa, chúng ta có thể đóng góp gì cho tất cả mọi người nam nữ vùng Địa Trung Hải”.
Đức Thánh Cha nhắc đến những gia sản phong phú mà các cộng đồng Kitô tại miền này sở hữu, về phương diện tín ngưỡng, cũng như gia sản nghệ thuật, văn hóa, đồng thời ngài nhắc đến bối cảnh của miền Địa Trung Hải ngày nay đang bị vây bủa vì bao nhiêu cái lò bất an và chiến tranh, ở Trung Đông cũng như tại các nước Bắc Phi, giữa các nhóm chủng tộc và văn hóa khác nhau, không kể cuộc xung đột chưa được giải quyết giữa người Israel và Palestine.
Lên án chiến tranh
Trong bối cảnh này, Đức Thánh Cha đặc biệt lên án chiến tranh đang hút mất bao nhiêu tài nguyên lẽ ra phải được sử dụng để nâng đỡ gia đình, đáp ứng các nhu cầu y tế và giáo dục. Ngài nói: "Thật là một sự điên rồ, vì chiến tranh tàn phá nhà cửa, cầu cống, công xưởng, nhà thương, giết hại bao nhiêu người, tiêu diệt các nguồn tài nguyên, thay vì kiến tạo những tương quan nhân bản và kinh tế. Nhưng chúng ta không thể cam chịu sự điên rồ ấy. Không có con đường nào khác ngoài việc xây dựng hòa bình...”
Điều kiện tiên quyết: công lý
"Việc xây dựng hòa bình mà Giáo Hội và mọi tổ chức dân sự đều luôn phải cảm thấy như một ưu tiên có một điều kiện tiên quyết không thể thiếu được, đó là công lý. Công lý bị chà đạp tại nơi mà những nhu cầu của con người bị cố tình không biết đến, và khi những lợi lộc kinh tế phe phái trổi vượt trên các quyền lợi của cá nhân và cộng đoàn. Ngoài ra, công lý bị cản trở vì thứ văn hóa gạt bỏ, coi con người như đồ vật, tạo nên và gia tăng sự chênh lệch...”
Quan tâm đến người nghèo và yếu thế
Đức Thánh Cha cũng nêu câu hỏi: "Một xã hội ngày càng đạt được những thành quả mới về kỹ thuật có ích gì nếu người ta ngày càng thiếu liên đới đối với những người túng thiếu? Qua việc loan báo Tin Mừng, chúng ta thông truyền tiêu chuẩn hành động mới, theo đó không có những người rốt cùng và chúng ta cố gắng để Giáo Hội là dấu chỉ mối quan tâm ưu tiên dành cho những người bé nhỏ, nghèo khó, vì "những chi thể dường như yếu nhất, là cần thiết nhất” (1 Cr 12,22), và "nếu một chi thể đau, thì toàn thể các chi thể cùng chịu đau” (1 Cr 12,26).
Người di dân và tị nạn
Đức Thánh Cha đặc biệt mời gọi quan tâm đến những người di dân và tị nạn ở vùng Địa Trung Hải, trốn chạy chiến tranh hoặc bỏ quê hương để tìm kiếm một cuộc sống xứng đáng với con người... Số người này gia tăng vì sự gia tăng các cuộc xung đột và những điều kiện khí hậu, môi trường bi thảm hơn tại nhiều vùng rộng lớn hơn”... Ngài cảnh giác chống lại thái độ dửng dưng, và thậm chí phủ nhận đối với những người di dân và tị nạn, thái độ này đã bị lên án trong nhiều dụ ngôn của Tin Mừng, thái độ của những người khép kín trong sự giàu sang và tự mãn của mình, không nhận thấy những người đang kêu cầu được giúp đỡ trong tình trạng túng thiếu của họ”.
Chống bách hại tôn giáo
Sau cùng, Đức Thánh Cha mời gọi các vị lãnh đạo tôn giáo lên tiếng thỉnh cầu các chính phủ bảo vệ các nhóm dân thiểu số và bênh vực tự do tôn giáo. Ngài nói: "Sự bách hại mà nhiều cộng đoàn Kitô và những người khác phải chịu là một vết thương xâu xé tâm hồn chúng ta và không thể để cho chúng ta dửng dưng”.
Sau cuộc gặp gỡ đó, Đức Thánh Cha đã cử hành Thánh lễ cho 40 ngàn hữu hữu.
Viếng thăm tại Marseille
Chưa biết Đức Thánh Cha sẽ đề cập đến những vấn đề gì trong diễn văn của ngài khi kết thúc cuộc gặp gỡ Địa Trung Hải sắp tới tại Marseille, nhưng hồi cuối tháng 7 năm nay, Phòng báo chí Tòa Thánh đã công bố một số chi tiết của ngài trong cuộc viếng thăm, được kéo dài hơn so với dự án ban đầu.
Đức Thánh Cha sẽ rời Roma lúc quá 2 giờ rưỡi chiều thứ Sáu 22/9 và đến Marseille 1 giờ 45 phút sau đó. Ngài sẽ được Tổng thống Pháp đón tiếp và 1 giờ sau đó, ngài sẽ chủ sự buổi cầu nguyện kính Đức Mẹ với hàng giáo sĩ địa phương, tại Vương cung thánh đường "Đức Mẹ Canh Giữ”.
Lúc 6 giờ chiều, Đức Thánh Cha gặp gỡ các vị lãnh đạo tôn giáo tại Đài kỷ niệm các thủy thủ và di dân mất tích trong biển cả.
- Sáng thứ Bảy 23/9, lúc gần 9 giờ, tại tòa Tổng Giám mục Marseille, ngài sẽ gặp riêng một vài người túng thiếu, trước khi tham dự khóa họp kết thúc "Các cuộc gặp gỡ Địa Trung Hải” tại dinh ”Hải Đăng” vào lúc 10 giờ.
Sau đó lúc 11 giờ rưỡi, Đức Thánh Cha sẽ gặp Tổng thống Pháp Emmanuel Macron cũng tại dinh thự này.
Lúc 4 giờ 15 phút chiều, Đức Thánh Cha sẽ cử hành Thánh lễ cho các tín hữu tại Sân Bóng đá Vélodrome. Sau Thánh lễ, ngài sẽ giã từ Marseille lúc 7 giờ 15 phút chiều để bay trở về Roma, dự kiến sẽ đến nơi lúc gần 9 giờ tối.
Thánh lễ
Tuy cuộc gặp gỡ Địa Trung Hải là lý do chính của chuyến viếng thăm, nhưng điều thu hút quan tâm nhiều nhất của các tín hữu là Thánh lễ ngài sẽ cử hành. Thực vậy, chỉ trong vài ngày, khi tòa Tổng Giám mục Marseille bắt đầu cho đăng ký dự lễ, hàng chục ngàn người đã xin vé tham dự Thánh lễ với Đức Thánh Cha tại sân Vận động có 67 ngàn chỗ.
Sự phấn khởi đối với Thánh lễ do Đức Thánh Cha chủ sự cũng đề ra một thách thức đối với tổng giáo phận Marseille vì giáo phận này cũng muốn dành một số chỗ cho các giáo phận lân cận. Một hệ thống đăng ký đã được thiết lập tại các giáo xứ. Tuy nhiên, có nhiều người tỏ ra thất vọng vì họ bị xếp vào danh sách những người chờ đợi. Đối với những người không được vé dự lễ tại Sân Velodrome, họ có thể tham dự qua màn hình khổng lồ đặt tại các khu vực khác trong thành phố Marseille.
Đức Phanxicô tiếp tổng thống Pháp lần thứ ba vào ngày thứ hai, 24 tháng 10 – 2022. Với thời gian, hai người đã đã dệt mối dây gần gũi, nhưng mối quan hệ này mơ hồ hơn người ta tưởng.
Chuyến thăm mới này của tổng thống Pháp không phải không được chú ý. Từ khi có tin ông sẽ đến Vatican, các hành lang của Giáo triều la-mã đã xì xào, một nguồn tin cho biết: “Không phải nguyên thủ quốc gia nào cũng gây chú ý.” Buổi gặp ngày thứ hai 24 tháng 10 là lần gặp thứ ba, sau lần đầu ngày 26 tháng 6 năm 2018 và lần thứ nhì ngày 26 tháng 11 năm 2021, chưa đầy một năm sau lần gặp cuối, vậy vì sao tổng thống Macron lại trở lại?
Trước hết là có hội nghị quốc tế về hòa bình được cộng đồng Sant’Egidio tổ chức ngày chúa nhật 23 tháng 10 để biện minh cho việc tổng thống trở lại Rôma. Sau đó là sở thích trao đổi trực tiếp của hai người, ngoài các chương trình nghị sự được chuẩn bị tỉ mỉ. Vì họ rất hợp nhau. Ở Điện Élysées người ta giải thích: “Mối quan hệ của hai người do sự quý trọng và tôn trọng nhau. Tổng thống ngưỡng mộ người của Giáo hội và người của Quốc gia. Ông không dửng dưng với các vấn đề tôn giáo, ông thích đối thoại với tôn giáo.” Tổng thống Macron đến Vatican với một phái đoàn có thành phần dường như để chứng minh sở thích đối thoại này.
Một người thân cận tổng thống ghi nhận: “Nền tảng Dòng Tên là điểm chung của họ. Xưng hô thân tình không phải được phép hay tự do, nhưng chứng tỏ sự gần gũi.” Xưng hô thân tình trong lần gặp ngày 26 tháng 11 năm 2021 đã làm cho dinh tông tòa ngạc nhiên. Một nguồn tin ở Giáo triều cho biết: “Ông là người duy nhất hôn giáo hoàng, biểu lộ một tình cảm với ngài”, còn người khác thì cho là giáo hoàng ấn tượng về tổng thống 44 tuổi này.
Ông Dominique de Legg, thượng nghị sĩ và là chủ tịch nhóm thân hữu Pháp-Tòa Thánh của Thượng viện ghi nhận: “Một tương hợp và thu hút về trí tuệ.” Một nhà ngoại giao nói: “Người này có thể là con của người kia do chênh lệch tuổi tác, nhưng họ có điểm chung là phóng điện. Cả hai đều không tin tưởng vào chính quyền của mình và thúc bách nó. Và cả hai đều tập trung quyền lực.”
Tuy nhiên, mối quan hệ này có thể mơ hồ hơn người ta tưởng. Vì thế một nhà quan sát thân cận ghi nhận “lòng nhân từ bao la” của Đức Phanxicô với tổng thống Emmanuel Macron: “Đã hai lần ngài đồng ý gặp ông khi ông không phải là nhân vật của chuyến thăm.”
Người này tin rằng “tổng thống tận dụng sự gần gũi này cho quan điểm của ông – để thấy mình được giáo hoàng của cánh tả công giáo mến – và một phần của dư luận quốc tế”. Nhưng nhà quan sát cũng nhận thấy những nỗ lực không ngừng của Đức Phanxicô: “Giáo hoàng tinh tế hơn thế. Nếu tổng thống muốn quảng bá truyền thông thì giáo hoàng có quan điểm chính trị sâu sắc và cố gắng để chương trình của mình tiến tới cấp bách hơn. Ngài cố gắng đưa tổng thống trở lại những gì ông chưa làm. Hướng tới các đối tượng trọng tâm trong chính sách của Vatican. Ngầm hiểu: ngài không thể hài lòng với chính sách của tổng thống Pháp với người di cư và việc mở tranh luận về giai đoạn cuối đời.” Người quan sát, một người rất am tường Giáo hội nói: “Tôi xem đây thực sự là một thách thức chính trị. Tôi không nghĩ là chuyện thơ mộng, dù một giây.”
Ông không nghĩ là ông đã nói đúng. Vài ngày trước chuyến đi của tổng thống Macron tới Vatican, giáo hoàng đã đưa ra một thông điệp cương quyết, trước các dân biểu của giáo phận Cambrai ngày thứ sáu, ngày 21 tháng 10, ngài nhắc lại quan điểm của Giáo hội công giáo về an tử: “Tôi dám hy vọng về các vấn đề thiết yếu, cuộc tranh luận có thể làm thành sự thật để tháp tùng đời sống cho đến khi kết thúc tự nhiên. Nếu chúng ta biện minh khi giết người thì càng ngày chúng ta càng giết nhiều hơn.” Liệu tổng thống Macron và Đức Phanxicô có đề cập đến vấn đề này trong cuộc gặp của họ không?” Điện Élysée trả lời: “Có lẽ điểm này sẽ được nêu ra. Đây không phải là điểm trọng tâm trong trao đổi giữa tổng thống và giáo hoàng.”
Ngoài các tranh luận về các vấn đề xã hội và người di cư ở Pháp, các vấn đề quốc tế – cuộc chiến ở Ukraine, châu Phi, Nam Mỹ, chuyển đổi nhân khẩu học và phương pháp giải quyết xung đột phải là các đề tài thiết yếu trong cuộc thảo luận. Dân biểu Jean-Louis Bourlanges của MoDem, chủ tịch Ủy ban đối ngoại của Quốc hội phân tích: “Tổng thống Macron rất nhạy cảm với các phát biểu của giáo hoàng, một người đến từ lục địa khác, một người không thuộc châu Âu ở châu Âu. Giáo hoàng cũng rất lo âu, ngài tránh quan điểm của Pháp quá tập trung vào châu Âu”.
Tổng thống Macron muốn tìm kiếm điều gì khi ông đến cộng đồng Sant’Egidio và Vatican? Điện Élysée nhấn mạnh: “Đối thoại liên tôn và chủ nghĩa đa phương.” Trong lần họp ở Liên Hiệp Quốc ngày 20 tháng 9, tổng thống hy vọng một con đường dẫn đến hòa bình, ông cảnh báo chống các lập trường trung lập và kêu gọi xây dựng một hợp đồng mới giữa Bắc và Nam, một liên minh hành động cụ thể.
Ông Jean-Louis Bourlanges nói: “Điều mà Emmanuel Macron muốn là nhận được nhiều ủng hộ hơn từ các quốc gia không liên kết. Giáo hoàng có vị trí tốt để giúp phi-phương Tây hóa chiến tranh Ukraine. Cộng đồng quốc tế không phải là phương Tây, không phải phương Đông; đó là thế giới, là nhân loại”, ông lưu ý Đức Phanxicô đã thay đổi quan điểm của ngài về Ukraine sau khi tỏ ra trung lập đáng lo ngại ngay từ đầu.
Ngoài vấn đề thời sự, trong mỗi lần gặp Đức Phanxicô, tổng thống Pháp đều mời giáo hoàng đến Pháp. Còn hơn chúng ta nghĩ, đây là thách thức giữa hai người. Một chuyên gia phân tích: “Giáo hoàng mạnh hơn tổng thống, ngài sẽ chỉ đi Pháp khi tổng thống cam kết với ngài về vấn đề người di cư, về an tử. Nếu giáo hoàng đi, tổng thống là người thắng – chẳng hạn ông có thể mời ngài đến khánh thành Nhà thờ Đức Bà, nhưng đó sẽ là hành động đổi chác. Nhưng nếu ngài chấp nhận, ngài cho mình cơ hội để đọc một bài diễn văn cho nước Pháp, trưởng nữ của Giáo hội đã phản bội.”
Theo thông cáo của ban tổ chức, hội nghị sẽ có sự tham dự của các học giả và nhà nghiên cứu quốc tế nổi tiếng chuyên về lĩnh vực này, cả trong lĩnh vực lịch sử và thần học, và sẽ đề cập đến "những nút thắt phức tạp hơn, cả trong lĩnh vực lịch sử-ngoại giao lẫn xã hội, tôn giáo và văn hóa, điều đã dẫn đến một sự tái định hình không thể thay đổi trong mối quan hệ giữa Giáo hội Công giáo và người Do Thái trong những thập kỷ tiếp theo".
Mục tiêu của hội nghị là "Đưa ra những ánh sáng mới về những tranh luận lịch sử và thần học liên quan đến Đức Giáo hoàng Pio XII và Vatican trong thời kỳ Diệt chủng Do Thái, cũng như về mối quan hệ Do Thái-Kitô giáo ở nhiều cấp độ, nhờ những khám phá quan trọng được tìm thấy từ việc phân tích các văn khố của Vatican và sự hợp tác được tăng cường giữa các tổ chức và các nhà nghiên cứu".
Chương trình
Phiên họp đầu tiên vào thứ Hai 9/10/2023 sẽ đề cập đến các động cơ và quyết định của Đức Giáo hoàng Piô XII khi đối mặt với chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa cộng sản, nhằm cố gắng cân bằng các vai trò của ngài với tư cách là người đứng đầu Giáo hội và Tòa thánh.
Vào thứ Ba ngày 10/10, phiên họp thứ hai sẽ khám phá quan điểm của Vatican nói chung trước nạn diệt chủng Do Thái, và đặc biệt là quan điểm về các quốc gia và tôn giáo đã hình thành nên phản ứng của các quan chức, giám mục và giáo dân xung quanh Đức Piô XII.
Trong phiên họp thứ tư, gồm hai phần, sẽ thảo luận về việc giải cứu người Do Thái, đặc biệt chú ý đến lễ kỷ niệm 80 năm cuộc vây bắt ở Roma: ai đã cứu người Do Thái và tại sao? Các văn khố mới có thể cho chúng ta biết điều gì về sự kiện này cũng như lý do tại sao cuộc giải cứu lại xảy ra hoặc không xảy ra?
Vào thứ Tư ngày 11/10, phiên họp thứ năm sẽ trình bày phản ứng của các nhà ngoại giao và Sứ thần Tòa Thánh trên khắp thế giới đối với cuộc khủng hoảng người tị nạn và nỗi kinh hoàng của cuộc Diệt chủng.
Phiên họp thứ bảy, cũng là cuối cùng sẽ đi theo hành trình dẫn đến tuyên ngôn “Nostra Aetate” (1965), về liên lạc của Giáo hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Hai mươi năm sau cuộc Diệt chủng, Công đồng Vatican II đã bác bỏ chủ nghĩa bài Do Thái và nhấn mạnh mối liên hệ sâu sắc giữa Kitô giáo và Do Thái giáo.
Trước hết, Đức Hồng Y nói Thượng Hội đồng khác nghị viện ở chỗ Thượng Hội đồng là một sự hiệp hành trong đời sống Giáo hội, luôn tìm kiếm sự đồng tâm nhất trí, cũng bỏ phiếu nhưng hướng tới một sự hiệp nhất. Đó là lắng nghe Thánh Thần trong việc tìm kiếm sự thật và thiện hảo cho đến khi đạt được sự nhất trí. Ngoài ra Thượng Hội đồng có tính tư vấn chứ không phải là một cơ quan lập pháp, là quá trình lắng nghe nhau, lắng nghe cả những người đã xa Giáo hội, và đặc biệt là cùng nhau lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần.
Về sự tham gia của những người không phải giám mục, Đức Hồng Y nhắc lại rằng trong các Thượng Hội đồng trong 50 năm qua luôn có sự tham gia của giáo dân nhưng đây là lần đầu tiên giáo dân tham gia với tư cách là thành viên chính thức. Mục đích của sự tham gia này là để việc lắng nghe được tốt hơn, làm phong phú hơn.
Từ sự tham gia của giáo dân tại Thượng Hội đồng, câu hỏi tiếp theo được Vatican News đưa ra là liệu sự tham dự này sẽ là dịp để Giáo hội suy nghĩ lại về sự tham gia nhiều hơn của giáo dân vào đời sống Giáo hội, cụ thể là việc truyền chức linh mục cho người nam đã có gia đình. Đức Hồng Y nhắc lại vấn đề này đã được đưa ra trong Thượng Hội đồng về Amazon. Ngài nói: “Một số người đã tự hỏi: Làm sao có tới 1.200 linh mục của Colombia, một quốc gia có nhiều ơn gọi linh mục, đang sống ở Hoa Kỳ và Canada? Tại sao một hoặc hai trăm vị trong số này không đến Amazon? Vấn đề thiếu linh mục sẽ được giải quyết. Vì vậy, tôi nghĩ đôi khi chúng ta cần phân định hơn một chút cũng như sự thành thật khi nhìn nhận sự phức tạp của các vấn đề. Theo nghĩa này, tôi tin tưởng rằng Thượng Hội đồng sẽ là một cơ hội tốt đẹp và mạnh mẽ, một cơ hội để cùng nhau phân định về những vấn đề này”.
Và cuối cùng đối với quá trình tục hoá đang diễn ra ở xã hội phương tây và vai trò truyền tải đức tin của gia đình dường như bị gián đoạn, một câu hỏi được đặt ra “Thượng Hội đồng có thể giúp gì trong vấn đề này?”. Nhắc lại những lời của Đức Giáo Hoàng Biển Đức khi đến thăm Cộng hoà Séc, một đất nước rất tục hoá, Đức Tổng Giám Mục của Vienne nói rằng đây cũng là một cơ hội để Chúa Thánh Thần hoạt động. Thực vậy, tục hoá có thể gợi lên các câu hỏi cá nhân trực tiếp hơn về hiện sinh. Và do đó Chúa hoạt động. Tin Mừng là sức mạnh cuộc sống, truyền cảm hứng cho cuộc sống và theo nghĩa này, Đức Hồng Y tin tưởng Thượng Hội đồng sẽ là một bước tiến thúc đẩy sự hiệp thông trong Giáo hội.
Đức Hồng y Arborelius, Dòng Camêlô Nhặt Phép tuyên bố như trên, giữa lúc Đức giám mục Georg Bätzing, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức, cầu mong rằng Thượng Hội đồng Giám mục sẽ mau lẹ bỏ phiếu về các đề nghị cải tổ Giáo hội, trong đó có vấn đề truyền chức cho phụ nữ.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho tạp chí trực tuyến “National Catholic Reporter”, phóng viên Công giáo quốc gia, truyền đi hôm 13 tháng Chín vừa qua, từ Mỹ, Đức Hồng y Giám mục Giáo phận Stockholm nói rằng: “Thật là điều gây thất vọng nếu cuộc thảo luận tại Thượng Hội đồng Giám mục không thể dẫn đi xa hơn, vì thừa tác vụ linh mục vốn dành cho người nam, theo đạo lý Công giáo và Chính thống giáo”.
Đức Hồng y Arborelius là một trong hơn 360 thành viên có quyền bỏ phiếu tại Thượng Hội đồng Giám mục, từ ngày 04 đến ngày 29 tháng Mười tới đây tại Vatican, và tiếp theo đó là khóa thứ hai vào tháng Mười năm 2024.
Tuy ban lãnh đạo tổ chức Công nghị này vẫn nhấn mạnh rằng Thượng Hội đồng Giám mục tới đây không phải là để thay đổi đạo lý, nhưng tài liệu làm việc của Công nghị có đoạn đặt hỏi rõ ràng: có thể cứu xét việc truyền chức phó tế cho phụ nữ hay không? Một số tham dự viên, như Đức Hồng y Robert McElroy, Giám mục Giáo phận San Diego, bên Mỹ, tích cực cổ võ làm sao để vấn đề truyền chức cho phụ nữ trở thành tâm điểm của Thượng Hội đồng Giám mục, giống như Con đường Công nghị ở Đức.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho tạp chí “America” ở Mỹ hồi năm ngoái, Đức Thánh cha Phanxicô nói rằng: “sự kiện phụ nữ không thi hành thừa tác vụ thánh chức, đó không phải là một sự tước đoạt và Giáo hội phải tiếp tục phát triển một nền thần học về phụ nữ và mở rộng sự tham gia của phụ nữ vào đời sống Giáo hội”.
Giám mục tham dự Thượng Hội đồng: Chúng ta phải giải quyết vấn đề nữ phó tế và linh mục
Đức Giám mục San Francisco de Macorís ở Cộng hòa Dominica, Alfredo De la Cruz, ngài sẽ tham gia Thượng hội đồng về Thượng hội đồng vào tháng Mười tại Vatican, cho biết sự kiện này nên thảo luận về luật độc thân bắt buộc, chức phó tế và chức linh mục thừa tác cho phụ nữ, trong số những vấn đề khác.
Vị giám chức đã đưa ra nhận xét này trong một sự kiện trực tuyến có chủ đề “Cuộc đối thoại quốc tế của Giáo hội tại Thượng hội đồng.” Có điều gì sẽ thay đổi trong Giáo Hội không?” do Học viện Lãnh đạo Công giáo tổ chức và tổ chức vào ngày 18 tháng Chín.
Cùng tham gia sự kiện này còn có Đức Hồng y Seán O’Malley, tổng giám mục Boston và chủ tịch Ủy ban Giáo hoàng về Bảo vệ Trẻ vị thành niên; Luis Cabrera, tổng giám mục Guayaquil, Ecuador; và nữ giáo dân người Tây Ban Nha Eva Fernández, điều phối viên của Diễn đàn Quốc tế về Công giáo Tiến hành.
Khi được hỏi về những gì có thể thay đổi trong học thuyết Công giáo, De la Cruz lưu ý: “Trước tiên chúng ta phải tránh xa mọi thứ mà chủ nghĩa chính thống biểu thị, khỏi việc tin rằng giáo lý không được chạm tới. Đó sẽ là sự cám dỗ đầu tiên mà chúng ta có để tin rằng giáo lý không thể chạm tới được. Giáo lý ở đó để suy niệm, để thị kiến.”
Về các chủ đề mà Thượng Hội đồng nên đề cập, “dưới ánh sáng của lời nói”, De la Cruz lưu ý rằng “không còn nghi ngờ gì nữa, tính nhân vật chính của phụ nữ. Giáo hội không thể quay lưng lại với toàn bộ phong trào này, sự phát triển này, những chiến thắng này của phụ nữ. Tôi sẽ đi cụ thể hơn. Chẳng hạn, trong trường hợp chức phó tế, chúng ta phải đề cập đến thừa tác vụ linh mục.”
Ủy ban Nghiên cứu Chức Phó tế Nữ được Đức Thánh Cha Phanxicô thành lập lần đầu tiên vào tháng Tám năm 2016. Vào tháng Năm năm 2019, Đức Thánh Cha cho biết ngài không ngại nghiên cứu sâu hơn về chủ đề này, “nhưng cho đến thời điểm này thì vẫn không có tác dụng.” Vào tháng Tư năm 2020, Đức Thánh Cha đã thành lập một ủy ban mới để xem xét vấn đề.
Thánh Gioan Phaolô II đã viết trong tông thư Ordinatio Sacerdotalis năm 1994 rằng chức linh mục thừa tác chỉ dành cho nam giới và Giáo hội không có quyền thay đổi điều này.
“Về việc phong chức cho phụ nữ trong Giáo hội Công giáo, lời nhận xét rõ ràng cuối cùng đã được Thánh Gioan Phaolô II tuyên bố, và điều này vẫn còn,” Đức Thánh Cha Phanxicô nói trong cuộc họp báo trong chuyến trở về từ Thụy Điển đến Rome vào tháng Mười Một năm 2016.
De la Cruz cũng chỉ ra khi tham gia sự kiện trực tuyến rằng “chúng ta sẽ phải giải quyết tình trạng độc thân bắt buộc; chúng ta sẽ phải ngỏ lời Rước lễ với tất cả những người tham dự Bí tích Thánh Thể như một bữa tiệc của Chúa và như một cộng đồng đức tin, bởi vì chúng ta nói rằng Bí tích Thánh Thể là nơi gặp gỡ của tất cả anh em. ‘À, tôi gặp anh em tôi, nhưng có một nhóm tôi không cho gì ăn’ và tôi để họ đói,” ngài nói thêm.
Điều 277 của Bộ Giáo luật khẳng định: “Các giáo sĩ buộc phải tuân giữ việc tiết dục hoàn toàn và vĩnh viễn vì Nước Trời và do đó buộc phải sống độc thân, đó là một ân sủng đặc biệt của Thiên Chúa mà qua đó các thừa tác viên thánh hiến có thể gắn bó với Đức Kitô dễ dàng hơn với một trái tim không chia sẻ và có thể tự do hiến thân hơn để phục vụ Thiên Chúa và nhân loại.”
Về những giới hạn đối với các vấn đề mà ngài đề cập, vị giám mục Cộng hòa Dominica nhận xét rằng “Đức Thánh Cha rất khôn ngoan vì đôi khi dành thời gian đó để suy ngẫm. Có những điều cần có thời gian... Khi chúng ta thường nói rằng giáo lý không thể chạm tới được, Đức Thánh Cha đã chỉ ra sự cám dỗ của sự ‘lạc hậu’. Đúng hơn, họ không đi đến giáo lý như vậy, mà đi đến những con đường mà trong đó chúng ta bày tỏ và sống đức tin.”
“Và Thiên Chúa đã nói với chúng ta một cách cụ thể qua Chúa Giêsu. Người đã chấp nhận những sự thật mà vào thời của Người rất khó giải quyết, nhưng Người đã dám. Tôi tin rằng chúng ta phải có sức mạnh của Chúa Giêsu, sự táo bạo đó, khả năng dám đề xuất những điều chưa được đề xuất,” vị giám chức nói.
Vị giám mục của San Francisco de Macorís cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo lý trong việc tìm kiếm sự thật và nhận xét rằng “khi chúng ta tìm kiếm sự thật về Thiên Chúa thì đó không thể là một điều gì đó không năng động; nó phải vận động.”
‘Khả năng tuyệt vời’
“Tôi tin rằng Thượng Hội đồng có những khả năng tuyệt vời,” Đức Hồng y O’Malley nhận xét. “Tất nhiên, phần lớn sẽ phụ thuộc vào chúng ta, các thành viên của Giáo hội, nếu chúng ta sẵn sàng giải quyết vấn đề này và để Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta.”
Trước mối quan tâm của nhiều tín hữu tin rằng Thượng Hội đồng sẽ thay đổi học thuyết của Giáo hội hoặc nó sẽ làm suy yếu việc tuyên xưng đức tin, Đức Hồng y nói rằng “ý tưởng của Đức Thánh Cha là giúp chúng ta sống điều đó. nguyên tắc tốt đẹp mà chúng ta đã nhận được từ Thánh Augustinô: sự hiệp nhất trong điều thiết yếu, tự do trong điều ngẫu nhiên và bác ái trong mọi sự.”
“Tôi tin rằng Đức Thánh Cha muốn chúng ta sử dụng mô hình cho Giáo hội về đời sống của Giáo hội sơ khai, mà chúng ta tìm thấy trong Sách Công vụ Tông đồ. Đó là nơi chúng ta thấy một Giáo hội đã phải đối mặt với nhiều cuộc khủng hoảng rất nghiêm trọng như sự phản bội của Giuđa, sự khác biệt giữa những nhóm sắc tộc và cuộc tranh luận thần học về cách tiếp nhận người ngoại vào Giáo hội,” Đức Hồng y nói tiếp.
Đức Hồng y O’Malley nhấn mạnh rằng “cách để vượt qua những chia rẽ và những thách thức đó là cầu nguyện, đối thoại và Chúa Thánh Thần.”
Trong quá trình tham gia của mình, Cabrera đã đề cập đến vấn đề những hệ tư tưởng và nói rằng đây là những tầm nhìn một phần về thực tế và mỗi người trong số họ “đôi khi cố gắng tự tuyên bố mình là con đường duy nhất và ở đó chúng ta rơi vào một vấn nạn nghiêm trọng.”
“Làm thế nào để phá vỡ điều đó? Đối với chúng ta điểm quy chiếu đầu tiên là lời Chúa. Trong hai ngàn năm này, chúng ta có huấn quyền và giáo lý mà rất ít người biết đến,” vị giám mục nói. “Tư tưởng thì có, nhưng nếu phân tích lời nói, từ huấn quyền thì chúng ta có thể vượt qua được.”
Eva Fernández nhấn mạnh sự cần thiết của việc đào tạo các tín hữu: “một sự đào tạo toàn diện về cuộc sống giúp chúng ta sống đức tin của mình một cách cố kết giữa thế giới, và trên hết là trong điều chưa biết lớn lao đó - điều mà các học giả giúp chúng ta rất nhiều ở đây - giáo lý xã hội của Giáo Hội.”
Thần học giải phóng và người nghèo
Sau đó trong cuộc trò chuyện trực tuyến, De la Cruz nhận xét rằng “thượng hội đồng trở thành ánh sáng đánh thức chúng ta, giúp chúng ta tỉnh táo trước mọi vấn đề. Trong trường hợp những vấn đề xã hội, điều đó phải xảy ra, đặc biệt là ở Mỹ Latinh, với sự trỗi dậy của thần học giải phóng, vốn đã bị tấn công mạnh mẽ. “Vì vậy, những linh mục tham gia vào đời sống xã hội đã thấy mình bị bách hại và bị chối từ.”
Ngài nói thêm: “Ở Mỹ Latinh, không có gì bí mật rằng tất cả những căng thẳng xảy ra xung quanh thần học giải phóng đã khiến chúng ta ngày nay không quan tâm đến những vấn đề xã hội.”
“Thông điệp tân tự do,” Ông nói tiếp, “là người nghèo không thể được giúp đỡ, rằng phải cho người nghèo lưỡi câu để câu cá, điều đó cũng đã thấm nhuần vào Giáo hội một cách tiêu cực và điều này cũng dẫn đến việc không hành động nhất định là không lo lắng về những vấn đề xã hội.”
Ngài kết luận: “Thượng hội đồng đang khuyến khích chúng ta nhìn lại những người nghèo nhất.”
Thần học giải phóng, xuất hiện vào nửa sau thế kỷ 20, trình bày một phân tích về thực tại xã hội từ chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nhiều định đề của nó đã bị chỉ trích trong triều đại giáo hoàng của Thánh Gioan Phaolô II và bởi Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin lúc bấy giờ, Đức Hồng y Joseph Ratzinger, sau này trở thành Đức Giáo hoàng Benedict XVI.
Một số nhà tư tưởng chính của nó đã từ bỏ Giáo hội hoặc có những ý tưởng trái ngược với huấn quyền. Một số thậm chí còn trở thành chiến binh du kích, chẳng hạn như linh mục người Colombia Camilo Torres.
Vào tháng Năm năm 2022, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi một thông điệp video tới Ủy ban Giáo hoàng về Mỹ Latinh, trong đó ngài nói rằng vào thời kỳ đầu của thần học giải phóng, “phân tích theo chủ nghĩa Marx đã được sử dụng rất nhiều” và họ không có “một ý tưởng nhỏ nhất” nào về thực tế Mỹ Latinh.
Đó là Đức cha Dương Vĩnh Cường (Yang Yongqiang), Giám mục Giáo phận Chu Thôn (Zhouchun), tỉnh Sơn Đông, và Đức cha Diệu Xuân (Yao Shun), Giám mục Giáo phận Tể Ninh.
Tên hai vị được đăng trong danh sách chung kết các tham dự viên Thượng Hội đồng Giám mục tới đây, do Phòng Báo chí Tòa Thánh công bố, trưa ngày 21 tháng Chín vừa qua.
Hai đại biểu của Hội đồng Giám mục Việt Nam tham dự Công nghị này là Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng, Giám mục Giáo phận Phan Thiết, Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam và Đức cha Louis Nguyễn Anh Tuấn, Giám mục Giáo phận Hà Tĩnh, Phó Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam.
Trong cuộc họp báo để phổ biến danh sách vừa nói, Đức cha Luis Marín de San Martín, Phó Tổng Thư ký Thượng Hội đồng Giám mục, nói rằng: “Giáo hội địa phương ở Trung Quốc, đồng ý với chính quyền, đã giới thiệu tên của hai giám mục nói trên và Đức Thánh cha đã liệt kê hai vị đó vào các thành viên do ngài bổ nhiệm cho Thượng Hội đồng Giám mục này.
Đức cha Giuse Dương Vĩnh Cường năm nay 53 tuổi, từ mười năm nay là Giám mục Giáo phận Chu Thông, còn Đức cha Antôn Diêu Thuận, 58 tuổi, Giám mục Giáo phận Tể Ninh, thuộc tỉnh Nội Mông. Ngài là một trong những giám mục đầu tiên thụ phong giám mục năm 2019, sau Hiệp định tạm thời giữa Tòa Thánh và Trung Quốc về việc bổ nhiệm giám mục, tuy rằng trong thực tế, Tòa Thánh đã phê chuẩn việc bổ nhiệm Đức cha từ năm 2010. Đây là hai giám mục khác với hai giám mục Trung Quốc đã tham dự Thượng Hội đồng Giám mục thế giới về Giới trẻ hồi năm 2018: đó là Đức cha Giuse Quách Kim Cài (Guo Jincai), Giám mục Giáo phận Thừa Đức (Chengde) tỉnh Hà Bắc, và Đức cha Gioan Baotixita Dương Hiểu Đình (Yang Xiaotinh), Giám mục Giáo phận Du Lâm (Yulin), tỉnh Thiểm Tây.
Cùng với hai vị trên đây, có Đức Hồng y Stephano Chu Thủ Nhân (Chow Sau-yan), Giám mục Hong Kong, và Đức cha Norberto Phổ Anh Hùng, Giám mục Giáo phận Gia Nghĩa, đại biểu của Hội đồng Giám mục Đài Loan. Đức cha Phổ là giám mục đầu tiên người dân tộc tại lãnh thổ này.
Mặt khác, theo danh sách chung kết các tham dự viên, Đức Hồng y Luis Ladaria, 79 tuổi, Dòng Tên Tây Ban Nha, nguyên Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin, sẽ không tham dự Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới. Hồi đầu tháng Chín này, ngài đã giã từ chức vụ để nhường chỗ cho Đức Hồng y tân cử Victor Fernandez, 61 tuổi, người Argentina.
Trong danh sách 464 tham dự viên, 364 vị có quyền bỏ phiếu, trong số này có 54 phụ nữ. Danh sách tạm thời trước kia có 378 vị có quyền bỏ phiếu, trong đó có 56 phụ nữ. Đức cha San Martín cho biết vì những lý do khác nhau như bệnh tật, các tham dự viên đó không tham dự.
Đức Hồng y Kurt Koch, Bộ trưởng Bộ Hiệp nhất các tín hữu Kitô
Quyết tâm này được bày tỏ trong tuyên ngôn chung, được Đức Hồng y Kurt Koch, Bộ trưởng Bộ Hiệp nhất các tín hữu Kitô, và nữ mục sư Anne Burghardt tân Tổng thư ký Liên hiệp các Giáo hội Tin lành Luther thế giới, ký kết hôm 18 tháng Chín vừa qua, trong Đại hội lần thứ XIII của Liên hiệp, nhóm tại thành phố Cracovia, Ba Lan. Liên hiệp quy tụ khoảng 70 triệu tín hữu trên thế giới.
Tuyên ngôn chung có đoạn khẳng định rằng: “Các tín hữu Công giáo và Luther, cùng nhau vui mừng về sự đồng thuận giữa hai bên liên quan đến ơn công chính hóa. Được giải thoát nhờ ơn thánh và sự tha thứ của Thiên Chúa, chúng ta được liên kết nhờ phép rửa và đức tin, nhưng chúng ta cũng ý thức về lịch sử phân rẽ mà chúng ta không thể xóa bỏ, tuy nhiên lịch sử này có thể trở nên thành phần lịch sử hòa giải của chúng ta”.
Đức Hồng y Koch cũng nói về việc Đức Giáo hoàng phạt vạ tuyệt thông cho Martin Luther và sự mô tả Đức Giáo hoàng là “Ngụy Kitô” trong các tác phẩm tôn giáo của Luther. Ngài nhận định rằng: “Vạ tuyệt thông chống Martin Luther ngày nay vẫn còn là cớ vấp phạm đối với một số người, cho dù vạ này từ lâu đã mất hiệu lực trực tiếp, khi nhà cải cách qua đời, và các tín hữu Luther không còn là kẻ thù, hay là người xa lạ đối với các tín hữu Công giáo, nhưng là những người anh chị em”.
Cũng vậy, sự kiện Martin Luther và những bản tuyên xưng của ông, gọi Đức Giáo hoàng là “Ngụy Kitô”, đó là một chướng ngại. Điều ấy cũng đáng kể, cho dù Liên hiệp Tin lành Luther thế giới không ủng hộ quan điểm ấy. Đằng sau hai ví dụ đó, xét cho cùng, có vấn đề thừa tác vụ Phêrô, mầu nhiệm Giáo hội, sự hiệp nhất và độc nhất vô nhị của Giáo hội. Vì thế, chúng ta phải đặc biệt chú ý tới điều đó, trong khi chúng ta tiếp tục cuộc đối thoại giữa Công giáo và Luther”.
Đức Hồng y Koch nhấn mạnh phép rửa như yếu tố liên kết các tín hữu Công giáo và Luther, đó là bí tích làm cho chúng ta được trở nên công chính và được hiệp nhất. Điều quan trọng là luôn nhớ điều đó, hiểu nó sâu xa hơn, và làm chứng về điều ấy trong niềm biết ơn.
Khởi từ Bí tích Rửa tội, Đức Hồng Y nhắc lời của Martin Luther: Bí tích Rửa tội là Bí tích của sự công chính hoá và hiệp nhất; và giáo huấn của Công đồng Vatican II: Bí tích Rửa tội là Bí tích “mang lại ơn cứu độ đời đời cho tất cả những ai tin”, và “thiết lập một mối dây hiệp nhất mang tính bí tích, liên kết tất cả những ai đã được tái sinh nhờ bí tích này”.
Đức Hồng Y Koch nhấn mạnh tầm quan trọng của việc luôn nhớ đến Bí tích Rửa tội, cũng như sự chắc chắn về “ơn cứu độ do Thiên Chúa ban cho chúng ta và những mối dây đại kết được Thiên Chúa ban cho chúng ta”. Ngài giải thích rằng việc ghi nhớ là cần thiết, không chỉ để hiểu rõ hơn nhưng còn để “cùng làm chứng với lòng biết ơn”. Bởi vì người Kitô hữu “là người biết tạ ơn vì Bí tích Rửa tội đã lãnh nhận”. Như thế, câu 2 Thánh Vịnh 103: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá đừng quên mọi ơn huệ của Người”, ngoài việc cổ vũ và khích lệ đại kết, còn nhắc nhở các tín hữu rằng chúng ta không được quên “những gì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta trong Bí tích Rửa tội và trong sự hiệp thông của những người đã được rửa tội”.
Tổng trưởng Bộ Hiệp nhất các Kitô hữu nói thêm, “mặc dù thực tế đôi khi các Kitô hữu ‘quên’, nhưng chính khi nhớ đến ơn cứu độ sẽ tiếp tục khích lệ và truyền cảm hứng cho cuộc đối thoại đại kết lâu đời của chúng ta”.