Thích Nhật Từ: Chúa chết vì cái tội truyền bá dị giáo...? (factcheck)
Tập 1. Chúa Giêsu bị tử hình vì tội truyền bá dị giáo? Kitô giáo và đạo Phật có bị coi là dị giáo ở thời sáng lập không?
Dẫn nhập:
* Coi trên mạng thì mới biết, hóa ra nhà sư Thích Nhật Từ có nhiều bài giảng phỉ báng xúc phạm hay nói sai lệch về đạo Chúa.
Vậy từ nay sẽ mở đăng các bài factcheck về nhà sư này ở Google Groups về các bài có chủ đề trên. Dĩ nhiên đây đây chỉ là tranh luận phản biện về giáo lý, thần học, Phật pháp và lịch sử tôn giáo, không có tính chất xúc phạm cá nhân hay đạo giáo. Mời quý vị đón coi để mở mang kiến thức về tôn giáo 👌
* Các bài phản biện này là nói theo sự hiểu biết thông thường của 1 Kitô hữu nên có thể có khác với lời giải thích đáp trả của các linh mục.
---o0o---
Tin Mới! 1 Linh Mục VN Lên Tiếng Về Sư Thầy Xúc Phạm Đạo Công GiáoTóm tắt: Chúa Giêsu bị tử hình vì tội truyền bá dị giáo.
- Khi qua đời Chúa Giêsu nói: "Lạy cha trên Trời sao cha lại bỏ con". Chúa hờn dỗi, Chúa đang trách móc lạy Cha trên trời sao không cứu Ngài vào lúc đó, trong khi Ngài đâu muốn chết. Mới tuổi 33 ai muốn chết. Bị tuyên án tử hình cái tội truyền bá dị giáo. Kinh thánh Tân ước đã 3 lần xuất hiện câu nói này, ở 3 bản: John, Lucas, Matthew
- Rõ ràng như thế, ta đâu có dấu diếm gì đâu. Chúa không muốn chết, Chúa chết rất là tức tưởi....
Theo cách nói của sư thầy này thì không thấy có điều gì tốt đẹp khi giảng thuyết về đạo Công giáo với những lời lẽ như trên. Tuy nhiên ở đây sẽ cố gắng phân tích khách quan để làm rõ ý thầy.
1. Có 3 sách Phúc âm nói về đoạn "Lạy cha trên Trời sao cha lại bỏ con"?
Thực ra câu nói trước khi chết của Chúa Giêsu là như sau: "Lạy Thiên Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi, vì sao Người lại bỏ tôi?" (Êli Êli lêma sabakthani). Câu nói này được ghi lại ở 02 Phúc âm Luca: 15: 34 và Matthew: 27: 46. Không thấy ở John có đoạn này.
Đã nói phải nói cho đúng. Không biết sư thầy thấy câu nói đó ở Phúc âm John nào vậy?
2. Chúa Giêsu bị tử hình vì tội truyền bá dị giáo?
Dị giáo là một thuật ngữ thường được sử dụng để chỉ những niềm tin hoặc quan điểm tôn giáo đi ngược lại với những giáo lý chính thống của một tôn giáo nào đó. Có 2 nghĩa đối với từ dị giáo, 1 theo nghĩa xấu và 1 theo nghĩa không xấu.
2.1. Nghĩa xấu:
Thường gọi là tà ma dị giáo để ám chỉ những tôn giáo được cho là có hại, đi ngược lại với nền tảng đạo đức và tôn giáo đương thời.
a. Ở thời Trung cổ, các người bị coi là dị giáo, nhất là đối với Công giáo và Hồi giáo, bị kết án là có tội và thậm chí bị tàn sát hay xử tội chết.
b. Ở thời nay cũng có dị giáo: Một số giáo phái dị giáo có thể gây ra những hành vi nguy hiểm, như tự sát tập thể, bạo lực, hoặc lạm dụng trẻ em. Nhiều giáo phái lợi dụng lòng tin của người khác để lừa đảo kiếm tiền hoặc kiểm soát cuộc sống của họ. Những người theo dị giáo thường bị xã hội kỳ thị, phân biệt đối xử và thâm chí bị hạn chế hoặc đàn áp...
Ngày nay, trừ nhưng phần tử tôn giáo cực đoan như (IS, khủng bố Hồi giáo) và các dị giáo gây nguy hại đến xã hội (như ở mục b), sự tự do tôn giáo được đề cao với sự thống nhất của các quốc gia ở Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (1948), Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (1966), Tuyên ngôn về việc loại bỏ mọi hình thức không khoan dung và phân biệt đối xử dựa trên tôn giáo hoặc tín ngưỡng (1981)...
Do vậy, người ta đã loại bỏ những hình thức phân biệt đối xử và thiếu tôn trọng vì lý do tôn giáo.
* Kitô giáo là đạo của bác ái và yêu thương, hiện là tôn giáo lớn nhất với 2,4 tỷ tín đồ, chiếm 31% dân số thế giới thì không thể nói là dị giáo.
2.2. Nghĩa không xấu:
Dị giáo là những tôn giáo có sự bất đồng, khác biệt hay đối lập với các tôn giáo khác.
Căn cứ vào các Tuyên ngôn và Công ước của LHQ nói trên, với sự tôn trọng tự do và khác biệt tôn giáo, dị giáo không đồng nghĩa với sai lầm và không đồng nghĩa với xấu mà có thể là động lực cho sự đổi mới và phát triển của tôn giáo và của xã hội.
3. Kitô giáo và đạo Phật có bị coi là dị giáo ở thời sáng lập không?Hiểu theo nghĩa dị giáo là những tôn giáo có sự bất đồng, khác biệt hay đối lập với các tôn giáo khác (ở mục 2.2).
3.1. Kitô giáo có phải là dị giáo không?
Phải nói là có. Bởi vì xứ Palestine thời đó theo Do Thái giáo. Kitô giáo khởi nguồn từ cuộc đời và những lời rao giảng của Chúa Giêsu được ghi lại ở 4 sách Phúc âm (Tân ước). Chúa Giêsu, với tư cách là một người Do Thái sống trong thời kỳ Đền Thờ thứ Hai, đã lớn lên và sống theo luật pháp Do Thái. Tuy nhiên, thông điệp và hành động của Ngài đã mang đến những đổi mới và cách hiểu mới về đức tin, dẫn đến sự ra đời của Kitô giáo.
Chúa Giêsu đã có chủ trương và hành động khác biệt so với Do Thái giáo, làm cho các giáo sĩ biệt phái Pharisêu và Sadoc phản đối và căm ghét. Đó là các khác biệt sau:
3.1.1. Quan điểm về Luật pháp:
- Do Thái giáo: Luật pháp được coi là một tập hợp các quy tắc chi tiết và cứng nhắc, cần phải tuân thủ một cách nghiêm khắc.
- Chúa Giêsu: Ngài nhấn mạnh tinh thần của luật pháp hơn là hình thức bên ngoài. Ngài dạy rằng luật pháp là một biểu hiện của tình yêu thương đối với Thiên Chúa và tha nhân, và tinh thần này quan trọng hơn việc tuân thủ từng chữ một.
3.1.2 Quan điểm về Thiên Chúa:
- Do Thái giáo: Thiên Chúa được hình dung như một vị vua quyền năng, xa cách và đòi hỏi sự phục tùng tuyệt đối.
- Chúa Giêsu: Ngài dạy về một Thiên Chúa là Cha nhân lành, luôn yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho con cái.
3.1.3. Quan điểm về Đấng Messiah
- Do Thái giáo: Người Do Thái chờ đợi một vị vua sẽ giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ và lập lại vương quốc Israel
(đấng Messiah). Chúa Giêsu không phải là đấng Messiah và không được chấp nhận khi tự xưng mình là con Thiên Chúa
- Chúa Giêsu: Ngài tự xưng là Đấng Messiah, nhưng với một vai trò khác biệt: Ngài đến để cứu rỗi nhân loại khỏi tội lỗi và mang lại sự sống đời đời.
3.1.4. Quan điểm về sự cứu rỗi:
- Do Thái giáo: Sự cứu rỗi được đạt được thông qua việc tuân thủ luật pháp và các nghi lễ. Chỉ có con cái Israel mới được cứu rỗi, dân ngoại thì không.
- Chúa Giê-su: Ngài dạy rằng sự cứu rỗi là ân huệ của Thiên Chúa, được ban cho mọi người tin vào Ngài, bất kể nguồn gốc hay xã hội.
3.1.4. Quan điểm về cộng đồng:
- Do Thái giáo: Cộng đồng Do Thái rất khép kín và coi thường người ngoại giáo.
- Chúa Giê-su: Ngài rao giảng một thông điệp bao trùm mọi người, bất kể quốc tịch, chủng tộc hay giai cấp xã hội.
Vài hành động cụ thể của Chúa Giêsu gây phẫn nộ đối với các giáo sĩ Do Thái:
- Chúa Giêsu chủ trương có thể làm những điều tốt lành vào Sabat (ngày lễ nghỉ theo ấn định của Chúa). Điều này đi ngược lại với quan niệm cứng nhắc của giáo sĩ Do Thái, những người chỉ tập trung vào việc tuân thủ luật lệ một cách hình thức: Ngài đã nhiều lần chữa lành người bệnh vào ngày Sabát, cho phép các môn đệ hái lúa vào ngày Sabát...
- Chúa Giêsu đã đánh đuổi các thương nhân và những người đổi tiền trong Đền Thờ Jerusalem, nơi được coi là trung tâm tôn giáo của người Do Thái.
- Ngài dành nhiều thời gian cho người nghèo, bệnh tật và bị xã hội ruồng bỏ. - Chúa Giêsu đã nói "Hãy phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại"
- Ngài thực hiện nhiều phép lạ chữa lành và trừ quỷ, cho thấy quyền năng của Thiên Chúa.
Sự khác biệt này đã dẫn đến sự chia rẽ trong cộng đồng Do Thái và cuối cùng hình thành nên một tôn giáo mới: Kitô giáo. Tuy nhiên, Kitô giáo là tôn giáo tiếp nối vì vẫn thừa hưởng nhiều truyền thống và giáo lý từ Do Thái giáo, cả hai tôn giáo đều xem Abraham là tổ phụ và Kinh Cựu ước của Do Thái giáo vẫn được coi là kinh thánh bên cạnh Tân ước.
3.2. Phật giáo có phải là dị giáo không?
Phải nói là có. Bởi vì ở vào thời Đức Phật có 2 tôn giáo lớn là Vệ Đà hay Bà La Môn giáo và Jain giáo hay Kỳ Na giáo.
- Vệ Đà: là hệ thống tôn giáo lâu đời nhất của Ấn Độ, tập trung vào các nghi lễ hiến tế để cầu xin sự ban phước của các vị thần như Indra, Agni, Varuna...
- Jian giáo: thành lập bởi Mahavira, nhấn mạnh vào phi bạo lực và tu khổ hạnh.
Đạo Phật khởi nguồn từ người sáng lập là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Có rất nhiều bộ kinh nói về cuộc đời và sự giảng dạy của Ngài, trong đó có các kinh nổi bật là Kinh A Di Đà, Kinh Pháp Hoa, Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, Tạng Tỳ Ni Đa Luật, Tạng A Tỳ Đàm, Tạng Vi Diệu Pháp...
Giáo lý của Phật giáo và Bà La Môn giáo của nhiều khác biệt và mang tính đối kháng:

3.2.1. Tín Ngưỡng
- Bà La Môn giáo: Tín ngưỡng vào nhiều vị thần, các vị thần này được cho là cai quản các hiện tượng tự nhiên và các khía cạnh của cuộc sống. Bà La Môn giáo cũng tin vào sự luân hồi và nghiệp báo.
- Đạo Phật: Không tin vào một vị thần tối cao tạo hóa. Phật giáo tập trung vào việc tìm kiếm sự giác ngộ và giải thoát khỏi khổ đau thông qua việc tu tập và thực hành các giáo lý của Đức Phật.
3.2.2. Triết Học
- Bà La Môn giáo: Nhấn mạnh đến khái niệm Brahman (Vũ trụ linh hồn) và Atman (linh hồn cá nhân). Mục tiêu của người theo Bà La Môn giáo là đạt được sự hợp nhất với Brahman.
- Đạo Phật: Giáo lý cốt lõi là Tứ Thánh Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) và Bát chánh đạo. Phật giáo nhấn mạnh tính vô thường, vô ngã của mọi sự vật và con người.
3.2.3. Thực Hành
- Bà La Môn giáo: Các nghi lễ tế lễ, cúng bái thần linh, tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về đẳng cấp.
- Đạo Phật: Tập trung vào việc tu tập thiền định, giữ giới luật, phát triển trí tuệ và lòng từ bi.
* Sự Khác Biệt Nổi Bật:
Đặc điểm
|
Bà La Môn giáo
|
Đạo Phật
|
Thần linh
|
Nhiều thần
|
Không thần tối cao
|
Mục tiêu
|
Hợp nhất với Brahman
|
Giác ngộ và giải thoát
|
Đẳng cấp
|
Hệ thống đẳng cấp nghiêm ngặt
|
Bình đẳng
|
Nghi lễ
|
Tế lễ phức tạp
|
Thiền định, giữ giới
|
Linh hồn
|
Atman (linh hồn cá nhân)
|
Vô ngã
|
Tuy nhiên lịch sử không ghi nhận có sự thù ghét của Bà La Môn dẫn hãm hại Đức Phật, như ở Đức Giêsu.
Như vậy có thể nói Chúa Giêsu và Đức Phật đều là những bậc tôn sư thành lập nên các đạo giáo mới. Các tôn giáo này khác biệt so với các tôn giáo khác đương thời nên cũng có thể coi là dị giáo dựa trên nền tảng của sự khác biệt cơ bản đó. Tuy nhiên, trong khi Kitô giáo có sự tiếp nối, canh tân từ Do Thái giáo thì đạo Phật hoàn toàn khác và mới mẻ, không có sự tiếp nối đó đối với Bà La Môn và Kỳ Na giáo.
MS