Thiên Chúa của chúng ta tên là gì? | Giuse Phan Tấn Thành, OP. Fr: MInh Đỗ Texas

9 views
Skip to first unread message

Minh Nguyen Quang

unread,
Jul 13, 2024, 7:49:41 PM (3 days ago) Jul 13
to alphonsefamily

THIÊN CHÚA CỦA CHÚNG TA TÊN LÀ GÌ ?

Các tín đồ Islam gọi Thiên Chúa là  Allah, các tín đồ Do Thái gọi Thiên Chúa là Giavê; còn Thiên Chúa của Kitô giáo tên là gì ? Phải chăng là Chúa Ba Ngôi ?


Thật không dễ trả lời cho các câu hỏi vừa nêu, bởi vì có ít là hai điều khó khăn: thứ nhất, Thiên Chúa không có tên họ kiểu như loài người; thứ hai, mỗi dân tộc đặt tên cho Thiên Chúa theo ngôn ngữ của mình, cho nên danh xưng của Thiên Chúa không tuỳ thuộc vào tôn giáo cho bằng vào văn hoá.


Lý do thứ nhất xem ra đơn giản: trên mặt đất này, có cả tỉ con người, vì thế cần phải đặt tên cho mỗi người để xác định căn cước cá nhân và để phân biệt với những người khác; còn Thiên Chúa thì chỉ có một, cho nên không sợ lẫn lộn. Tuy nhiên, trong cuộc giao tiếp giữa con người với nhau, chúng ta cần phải đặt tên cho mỗi đối thể để khỏi bị hiểu lầm hoặc lạc đề; vì thế chúng ta tìm cách đặt cho Thiên Chúa một tên. Thế nhưng tên này tùy thuộc vào ngôn ngữ của mỗi dân tộc, chứ không phải là tên của chính Thiên Chúa.


Tôi xin lấy một thí dụ: tên riêng của ông Tổng Thống Hoa kỳ là George Bush, và tất cả các nước trên thế giới đều cố gắng đọc cho đúng tên ông ta; tuy nhiên, chúng ta gọi ông là “tổng thống” trong tiếng Việt, chứ đâu phải theo nguyên gốc tiếng Anh là President. Như vừa nói, Thiên Chúa không có tên riêng, nhưng mỗi dân tộc gọi ngài theo ngôn ngữ của mình. Vì thế nhiều danh xưng dành cho Thiên Chúa tùy thuộc vào văn hoá chứ không tùy thuộc vào tôn giáo.


Nói cụ thể, Allah không phải là tên riêng của Thiên Chúa dựa theo đạo Islam, nhưng là danh từ thuộc vùng ngôn ngữ Ả Rập. Vì thế các tín đồ Kitô giáo nói tiếng Ả Rập cũng kêu cầu Allah trong lời nguyện. Một cách tương tự như vậy, trong tiếng Việt, các kinh nguyện gần đây bắt đầu với lời xưng hô Lạy Thiên Chúa; nhưng hồi đầu thế kỷ XX thì bắt đầu bằng lời  Lạy Đức Chúa Trời.


“Thiên Chúa” và “Đức Chúa Trời” cũng vậy thôi, và chỉ được sử dụng ở trong tiếng Việt, chứ ra nước ngoài thì hết xài. Hơn thế nữa, cần phải nói rằng ở trên đất Việt Nam có 54 dân tộc, vì thế đến 54 cách xưng hô Thiên Chúa, chứ không hẳn là 54 tôn giáo.



“Thiên Chúa” có nghĩa là Chúa Trời, còn “Allah” có nghĩa là gì ?


Lẽ ra trước tiên phải hỏi  “Chúa Trời” có nghĩa là gì đã; rồi sau đó, mới bước sang ý nghĩa của từ  Allah. Chúng ta sẽ trở lại với danh xưng “Chúa Trời” khi bàn đến các danh xưng được sử dụng trong từ ngữ Hán Việt. 


Bây giờ chúng ta nói đến Allah trước. Đây là một từ ngữ phổ thông trong tiếng Ả Rập để gọi các vị thần linh, chứ không phải là tên riêng của vị thần nào, tương đương với danh từ  El  trong tiếng Do Thái được sử dụng trong Kinh Thánh Cựu Ước.


Cũng nên biết rằng tuy danh xưng Allah được dùng 2697 lần trong sách Coran ( tức là Sách Thánh của Islam ), nhưng mà theo truyền thống của đạo Islam, thì Thiên Chúa có đến 99 tên. Các nhà phê bình cho rằng nên hiểu 99 tên như là 99 ưu phẩm của Thiên Chúa, trong đó ưu phẩm được nhắc đến nhiều hơn cả là Al-Rahman ( Khoan nhân ) và Al-Rahim ( hay thương xót ).


Dù sao, từ Allah ghép bởi hai từ al-ilah, một từ ngữ phổ quát trong vùng Trung đông để ám chỉ các thần linh, tương đương với danh từ Eleloah trong tiếng Do Thái. Nói cách khác, không có gì là riêng tư độc đáo của đạo Islam hay đạo Do Thái trong danh xưng dành cho Thiên Chúa. Hơn thế nữa, vào thời xa xưa, El là một từ ngữ rất chung chung, ám chỉ bất cứ nhân vật nào ( tương tự trong tiếng Việt: “kẻ”, “vị”, “đấng”, “đức” ).


Có lẽ vì thế mà vào thời các tổ phụ, người ta phải kèm thêm một thuộc từ để xác định bản tính của Thiên Chúa, chẳng hạn như như El-Elyon: ( Đấng Tối cao ), El-Shaddai ( Đấng Toàn năng ), El-Hai ( Đấng hằng sống ). Mặt khác, các học giả còn lưu ý rằng đôi khi từ el hay elohim cũng được dùng để ám chỉ các thiên sứ ( thí dụ Thánh Vịnh 139, 1; 29, 1; Gióp 1, 6 ). Dù sao, ngoài những danh xưng chung cho vùng văn hóa địa phương, người Do Thái xác tín rằng Thiên Chúa đã mặc khải riêng cho họ một tên riêng của ngài là Giavê.



Như vậy, “El” hay “Allah” là tên chung cho các thần linh; còn “Giavê” mới đúng là tên riêng của Thiên Chúa phải không ?


Nếu chỉ dựa đoạn văn của sách Xuất Hành ( 6, 2-6 ), thì phải trả lời rằng: “đúng thế”. Đoạn văn viết như thế này: “Thiên Chúa phán với ông Môsê: Ta là Giavê. Ta từng hiện ra cho Abraham, Isaac, Giacóp như El Shaddai, nhưng ta không cho họ biết danh hiệu Giavê. Tuy nhiên, ngày nay, các học giả đã đặt lại vấn đề, bởi vì xem ra người Do Thái đã biết đến danh xưng Giavê từ trước ông Môsê rồi, không những dựa theo đoạn văn Sáng thế chương 4 câu 26 ( nghĩa là vào thời con cái ông Abel ), nhưng theo sách Xuất Hành ( 6, 20 ) ngay cả bà thân mẫu của ông Môsê cũng đã mang tên là Jokebed ( vinh quang của Giavê ).


Mặt khác, Giavê không phải là bí danh hay ám số gì hết: Giavê có nghĩa là “Đấng hằng hữu”. Dù sao, tên gọi Thiên Chúa không quan trọng cho bằng niềm thâm tín về bản tính của Ngài. Thiên Chúa đã mặc khải cho ông Môsê về mối tương quan mới dành cho dân Do Thái: Ngài đã thiết lập một giao ước với họ, họ là một dân được tuyển chọn. Đối lại, người Do Thái không được thờ lạy thần linh nào nữa hết, theo như đoạn văn của sách Đệ Nhị Luật ( 6, 4-5 ) quen gọi là kinh Shema: “Hãy nghe đây, Israel. Giavê Chúa của chúng ta, chỉ có một. Ngươi hãy yêu mến Giavê Chúa của ngươi hết tâm lòng, hết sức lực”.



Như vậy là từ thời ông Môsê trở đi, người Do Thái cầu khẩn Thiên Chúa là “lạy đức Giavê” phải không ?


Các tác giả không nhất trí trong vấn đề này. Có ý kiến cho rằng tiếp theo việc mặc khải danh thánh Giavê, thì người Do Thái đã kêu cầu danh xưng được coi như là tên riêng của Thiên Chúa. Có ý kiến khác cho rằng vì danh Thiên Chúa mang tính cách linh thiêng, cho nên các tín đồ không dám đụng tới nữa. Giới răn thứ hai đã chẳng nghiêm cấm “chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ” đấy ư ?


Dù sao, thì từ thời đầu Công Nguyên, các tín đồ không dám đọc tên Giavê nữa, và thay bằng tiếng Adonai. Adonai là một danh từ phổ quát, có nghĩa là “chủ, chúa, lãnh tụ” ( đúng ra ở số nhiều, bởi vì số ít là Adoni ). Danh từ này được dịch sang tiếng Hy Lạp là Kyrios, và tiếng Latinh là Dominus. Mặt khác, như ta thấy trong các thánh vịnh, các người Do Thái kêu cầu Thiên Chúa với nhiều danh xưng khác nhau: Lạy Đấng Thánh, Lạy Đấng Toàn Năng, Lạy Đấng Tín Trung, Lạy Đấng Đáng Chúc Tụng, v.v…



Dân Do Thái tin rằng Thiên Chúa mặc khải danh của Người là Giavê, nhưng họ kêu cầu ngài là Adonai. Tân Ước có thêm điều gì mới về danh xưng của Thiên Chúa không ? 


Chúng ta nên phân biệt hai khía cạnh: ngôn ngữ và nội dung. 


Về ngôn ngữ, trong Cựu Ước, Kinh thánh viết bằng tiếng Do Thái, và vấn đề danh xưng có thể khảo sát dựa theo ngôn ngữ của dân tộc Do Thái. Bước sang Tân Ước, ta thấy rằng tuy Đức Giêsu ( đọc theo nguyên gốc Do Thái là Giơ-ho-sua có nghĩa là: Giavê cứu chữa ) dùng tiếng Do Thái, nhưng bản văn Phúc Âm lại được viết bằng tiếng Hy Lạp. Vì vậy các từ ngữ của Cựu Ước được chuyển dịch từ tiếng Do Thái sang tiếng Hy Lạp. Đến khi Tin Mừng được truyền bá sang dân tộc khác, thì các từ ngữ sử dụng còn phức tạp hơn nữa.


 Nói cách vắn tắt, hai từ ngữ Do Thái vốn được coi như là riêng của đạo Do Thái Elohim và Giavê ( hoặc Adonai ) thì được dịch sang tiếng Hy Lạp là Theos và Kyrios, và tiếng Latinh là Deus và Dominusnhững danh từ này vốn đã được sử dụng để chỉ các thần linh nói chung, chứ không riêng của một tôn giáo nào. Điều này cũng xảy ra trong các ngôn ngữ châu Âu sau này, thí dụ tiếng Pháp là Dieu và Seigneur, tiếng Anh là God và Lord.


Nên lưu ý là từ deus tiếng Latinh, dieu tiếng Pháp và god tiếng Anh được dùng để gọi các thần; vì thế mà tuy cùng là một từ ngữ, nhưng khi chuyển sang tiếng Việt thì có lúc phải dịch ra “thần” ( hoặc thần linh ), có lúc được dịch là “Thiên Chúa”còn danh từ Dominus, Seigneur, Lord thì được dùng trong ngôn ngữ hằng ngày để gọi các “ông”, hoặc “ông hoàng, ông chủ”.



Đó là nói vấn đề dịch thuật ngôn ngữ, còn vấn đề nội dung thì sao?


Khi nói đến nội dung thì chúng ta gặp thấy nhiều điều mới, mà giới hạn thời giờ không cho phép tôi đi sâu. 


Tôi chỉ ghi nhận ba điều. 


Thứ nhấtThánh Phaolô dùng danh từ Theos ( Deus, Dieu, God ) cho Chúa Cha, và danh từ Kyrios ( Dominus, Seigneur, Lord ) cho đức Kitô; Thánh Gioan thì gọi Đức Kitô bằng cả hai danh xưng đó, cụ thể là trong lời tuyên xưng của Tông Đồ Tôma sau khi chạm đến Chúa Kitô Phục Sinh.


Nhận xét thứ hai, nhiều học giả cho rằng danh xưng mới để ám chỉ Thiên Chúa trong Tân ước là “Cha”, và đức Giêsu đã dạy chúng ta hãy dùng từ này khi cầu nguyện, và Người đã nêu gương trước. Tuy nhiên, trong Phụng Vụ, các lời nguyện chính thức kêu cầu Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu ( và được hiểu về Chúa Cha ).


Nhận xét thứ ba, các nhà thần học thú nhận rằng các ngôn ngữ của con người đều mang tính cách giới hạn, không thể nào diễn tả được bản tính của Thiên Chúa, như sách Đạo Đức Kinh đã viết: “Đạo khả đạo, phi thường đạo; danh khả danh phi thường danh: đạo mà có thể diễn tả được thì không phải là đạo vĩnh cữu bất biến; tên mà có thể đặt ra để gọi nó thì không phải là tên vĩnh cửu bất biến”.



Thế trong tiếng Việt, Thiên Chúa có nghĩa là gì ?


Đây là một danh từ Hán Việt, Thiên Chúa ( hoặc Đức Chúa Trời ) không chỉ có nghĩa “Chúa trên trời” mà còn nghĩa là “Chúa cả trời đất” ( hay Chủ tể càn khôn ) nữa. 


Trong lịch sử truyền giáo, đã có nhiều cuộc tranh luận xem có nên dùng từ “Thượng đế” hay “Thiên chủ” không. Nhưng mà trong bối cảnh lịch sử văn hoá hồi thế kỷ XVII-XVIII, vì sợ gây hiểu lầm giữa quan niệm Thiên Chúa của Kitô giáo với Thượng Đế của các tôn giáo cổ truyền, cho nên người ta tránh dùng từ “Thượng Đế”, và thậm chí có lúc để nguyên tiếng Latinh  “Chúa Dêu” ( Deus ).


Dù sao, nên lưu ý là danh xưng Chúa Trời có nghĩa là đấng dựng nên trời đất, trong khi quan niệm cổ điển “Trời” có khi được hiểu là đấng Chủ Tể (ông trời), nhưng đôi khi được hiểu về thiên nhiên mà thôi (trời mưa, trời nắng thôi).


Giuse Phan Tấn Thành, OP.

Phụ Chú:  VỊ THIÊN CHÚA CỦA KITÔ GIÁO  -  MẦU NHIỆM THIÊN CHÚA BA NGÔI  ..

Thánh Phaolô viết về Đức Giêsu, “Trong Người, mọi vật trên trời dưới đất được tạo thành” (Cl 1:16)
Và chúng ta đọc trong kinh Tin kính, “Tôi tin kính một Thiên Chúa, là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất”
Thế rồi trong bài thánh thi kính Chúa Thánh thần, chúng ta hát, “Lạy Chúa Thánh thần, Đấng Tạo dựng, xin hãy đến.” 
Vậy thì cả ba đều là những Đấng Tạo Hóa sao?

Phải nhìn nhận rằng, là thụ tạo hữu hạn, chúng ta không thể  “giải thích”  thỏa đáng bản tính hoặc hoạt động của Ba ngôi Thiên Chúa.

Trong thực tế, tất cả những gì chúng ta biết về Ba ngôi là từ suy tư thần học và thiêng liêng của Hội thánh về hai nguồn: Chúa Giêsu đã nói gì về mối tương quan giữa Người với Chúa Cha và Chúa Thánh thần, và Kitô hữu – xét theo cá nhân cũng như tập thể – đã cảm nghiệm như thế nào về Cha, Con và Thánh thần trong cuộc đời của họ.

Chẳng hạn, Chúa Giêsu nói về việc gửi Thánh thần.  Và chúng ta đọc thấy trong nhiều đoạn Thánh Kinh, các Kitô hữu hoàn toàn ý thức rằng hành động của họ là do Chúa Thánh thần soi sáng và hướng dẫn (Cvtđ 10:44; 11:12; 13:2 và nhiều thí dụ khác).
 
Dần dần, bằng nhiều cách khác nhau, ở bên Đông cũng như bên Tây, Hội thánh bắt đầu tìm hiểu mối liên hệ giữa sự sống của Ba ngôi với những hoạt động ad intra – sự sống nội tại của Thiên Chúa, và với những hoạt động ad extra - hướng ngoại, tức là những gì Thiên Chúa làm ở bên ngoài Người, trong việc tạo dựng. 

Khi Ba ngôi tương quan với nhau một cách nhiệm mầu như là “các Ngôi vị,” thì Cha, Con và Thánh Thần – Đấng nhiệm xuất từ Cha và Con – cùng một bản tính Thiên Chúa. Mỗi Ngôi vị là một khác biệt, nhưng mỗi Ngôi đều thực sự là Thiên Chúa. Từ cách nhìn này, mọi hoạt động của Thiên Chúa liên quan đến việc tạo dựng, bao gồm chính việc tạo dựng, cũng là hoạt động của cả Ba ngôi. Bởi vì chỉ có một bản thể Thiên Chúa, nên không Ngôi vị nào hoạt động độc lập. Bất cứ điều gì được thực hiện bên ngoài mối tương quan đồng hữu của các Ngài, thì tất cả Ba ngôi đều làm. Như vậy, sẽ xác đáng và cần thiết khi nói rằng Cha, Con và Thánh thần đều tham dự vào công trình tạo dựng, và trong tất cả những gì duy trì và tác động đến việc tạo dựng.

Đồng thời, như Thiên Chúa mặc khải chính mình trong Thánh Kinh, có những hoạt động riêng biệt của Thiên Chúa được gán cho Ngôi này hoặc Ngôi kia trong Ba ngôi. Hoạt động bên ngoài của Thiên Chúa được xem là thích hợp cho một Ngôi riêng xét theo “vị trí” của Ngôi đó trong sự sống nội tại của Ba Ngôi. 
Chúa Cha, vì không có khởi nguồn trong Ba Ngôi vĩnh cửu, nên được liên kết với quyền năng và tạo dựng. 
Chúa Thánh thần, được coi là sự hiệp nhất tình yêu giữa Cha và Con, nên được liên kết với sự thánh thiện, nguồn an ủi, tất cả những gì mà kinh nghiệm con người có được từ lửa và niềm vui của tình yêu. 
Chúa Con là Lời được sinh ra từ đời đời, không phải như một thụ tạo, nhưng như sự chia sẻ bản tính Thiên Chúa với Chúa Cha. Những phẩm tính như tình yêu hiếu thảo đối với Chúa Cha được gán cho Người. Là lời mặc xác phàm, nơi Người, nước Trời được mặc khải là đang hiện diện trong cuộc sống con người.

Trong khi chỉ có Chúa Con mặc lấy bản tính nhân loại và đi vào vinh quang vĩnh cửu qua mầu nhiệm Vượt qua là cái chết và sự sống lại, thì tất cả Ba ngôi đều tham gia và hoạt động trong cuộc đời và công trình cứu độ của Chúa Giêsu. Ở đây chúng ta không thể đưa ra những tham khảo Thánh Kinh cho tất cả những chân lý này. Nhưng việc nghiên cứu nghiêm chỉnh một ít đoạn Cựu Ước và Tân Ước sẽ đem lại ít nhiều ánh sáng về một Thiên Chúa, về sự sống nội tại và hoạt động ngoại tại của Thiên Chúa Ba ngôi.

Reply all
Reply to author
Forward
0 new messages