Ông Massimiliano Strappetti kể lại, vào trưa Chúa nhật Phục sinh, ngày 20 tháng Tư, tại ban công chính của Đền thờ Thánh Phêrô, khi 35.000 tín hữu ban đầu đã tăng lên 50.000 trong lúc sứ điệp Phục sinh được đọc và phép lành Toàn Xá được ban, Đức Thánh Cha Phanxicô muốn thực hiện điều ý nghĩa cuối cùng và bất ngờ khi đề nghị ra Quảng trường Thánh Phêrô để chào thăm các tín hữu. Lúc đó, không tránh khỏi đôi chút lo lắng ban đầu, Đức Thánh Cha hỏi ông Strappetti: “Anh nghĩ tôi có thể làm được không?” và nhận được lời trấn an từ người y tá tận tâm. Đức Thánh cha đã đi vòng các lối đi để chào thăm mọi người.
Những cái ôm dành cho đám đông và đặc biệt trẻ em của Đức Thánh Cha được thực hiện: cái ôm đầu tiên từ khi ngài xuất viện và cũng là cái ôm cuối cùng của cuộc đời ngài...
Sau đó, mệt mỏi nhưng hài lòng, Đức Thánh Cha cám ơn trợ lý sức khỏe cá nhân của mình: “Cám ơn vì đã đưa tôi trở lại Quảng trường”. Những lời này cho thấy nhu cầu của Giáo hoàng người Argentina - người đã biến việc tiếp xúc trực tiếp với con người thành dấu ấn trong triều Giáo hoàng của mình - quay trở lại với mọi người.
Chiều Chúa nhật, Đức Thánh cha nghỉ ngơi và dùng bữa tối yên bình.
Những giờ cuối cùng
Ông Strappetti kể tiếp, k
hoảng 5 giờ 30 sáng thứ Hai, những dấu hiệu đầu tiên của sự suy yếu xuất hiện và những người chăm sóc đã kịp thời can thiệp.
Khi cảm nhận được hoàng hôn cuộc đời trần thế đang đến gần, và với niềm hy vọng sống động vào sự sống đời đời, tôi muốn bày tỏ ý nguyện cuối cùng của tôi chỉ liên quan đến nơi chôn cất.
Trong suốt cuộc đời, và trong suốt sứ vụ của tôi với tư cách là một linh mục và giám mục, tôi luôn phó thác bản thân cho Mẹ của Chúa chúng ta, Đức Trinh Nữ Maria. Vì vậy, tôi xin cho thân xác tôi được an nghỉ tại Đền thờ Đức Bà Cả, chờ ngày Phục sinh.
Tôi mong hành trình cuối cùng trên cõi trần của mình kết thúc ngay tại đền thánh Đức Maria cổ kính này, nơi tôi luôn đến cầu nguyện vào khởi đầu và kết thúc mỗi chuyến tông du, tin tưởng phó thác những ý chỉ của tôi cho Đức Mẹ Vô Nhiễm, và tạ ơn Mẹ vì sự chăm sóc dịu dàng và từ mẫu của Mẹ.
Tôi yêu cầu mộ của tôi được chuẩn bị tại hầm mộ ở gian bên, giữa Nhà Nguyện Paolina (Nhà Nguyện Đức Mẹ là Phần rỗi Dân thành Roma - Salus Populi Romani) và Nhà Nguyện Sforza của Vương Cung Thánh Đường, như được hướng dẫn chi tiết trong phụ lục đính kèm.
Mộ phải được nằm trong lòng đất; đơn giản, không có trang trí đặc biệt, chỉ có khắc chữ: Franciscus.
Chi phí chuẩn bị cho việc an táng tôi sẽ được chi trả bằng số tiền từ vị ân nhân mà tôi đã định, số tiền này đã được sắp xếp để chuyển đến Vương cung Thánh đường Đức Bà Cả. Tôi đã dự liệu đưa ra những chỉ dẫn cần thiết cho Đức ông Rolandas Makrickas, Ủy viên Đặc biệt của Kinh sĩ đoàn Liberiano.
Xin Chúa ban phần thưởng xứng đáng cho những người đã quý mến tôi và sẽ tiếp tục cầu nguyện cho tôi. Tôi đã dâng những đau khổ trong những ngày cuối đời lên Chúa để cầu nguyện cho hòa bình trên thế giới và tình huynh đệ giữa các dân tộc.
Santa Marta, ngày 29 tháng 6 năm 2022
Phanxicô
Ngày 21 tháng Tư, di chúc của Đức Cố Giáo hoàng đã được công bố, qua đó ngài yêu cầu được an táng tại hầm mộ các Giáo hoàng ở Đền thờ Đức Bà Cả. “Mộ phải ở trong lòng đất, đơn sơ, không trang trí gì đặc biệt và chỉ ghi chữ duy nhất là “Franciscus”.
Đức Thánh cha cũng giải thích rằng: “Tôi mong muốn hành trình chót trong trần thế này của mình được kết thúc tại Đền thánh Đức Mẹ rất cổ kính, nơi tôi đã đến cầu nguyện khi khởi đầu và kết thúc các cuộc tông du để phó thác những ý nguyện của tôi cho Đức Mẹ Vô Nhiễm và cám ơn vì sự chăm sóc dịu dàng và từ mẫu của Mẹ”.
Trong di chúc, Đức Thánh cha cũng cho biết phí tổn chuẩn bị ngôi mộ của ngài được trang trải với số tiền của ân nhân mà ngài quyết định chuyển cho Đền thờ Đức Bà Cả, và đã đưa các chỉ dẫn thích hợp cho Đức Hồng y Rolandas Makrickas (người Lituani), Ủy viên đặc biệt của Kinh sĩ đoàn Đền thờ này.
Di chúc được Đức Thánh cha biên soạn và ký tên cách đây ba năm, ngày 29 tháng Sáu năm 2022.
Tối thứ hai 21 tháng 4, Bác sĩ Andrea Arcangeli, Giám đốc Sở Y tế và Vệ sinh của Thành phố Vatican xác nhận chính thức qua điện tâm đồ: Đức Phanxicô qua đời vì bị đột quỵ và suy tim không hồi phục được.
Theo báo cáo y khoa, ngài có tiền sử suy hô hấp nặng vì hai lá phổi bị viêm, bị nhiễm nhiều loại vi khuẩn, bị giãn phế quản, huyết áp cao và bị tiểu đường loại hai.
Bác sĩ Arcangeli viết: “Tôi xin tuyên bố, theo hiểu biết và phán đoán của tôi, nguyên nhân tử vong của Đức Phanxicô là như đã nêu ở trên.”
Giáo sư Bác sĩ Andrea Arcangeli
Sự kiểm chứng cái chết đã được thực hiện bằng cách ghi điện tâm đồ....
Sau những xác nhận trên đây, thi hài Đức Cố Giáo hoàng, trong phẩm phục màu đỏ, có chuỗi Mân côi ở tay, đã được đặt trong quan tài, không đậy nắp, và quàn trong nhà nguyện của Nhà trọ Thánh Marta có hai vệ binh Thụy Sĩ đứng gác ở phía đầu.
Căn hộ của Đức Thánh Cha tại nhà thánh Marta và Dinh Tông Tòa đã được niêm phong. Cổng Đồng, nằm bên phải hàng cột ở Quảng trường Thánh Phêrô, chỉ mở một nửa, trong khi cờ tại Vatican và các Tòa Sứ thần Tòa Thánh trên toàn thế giới đều rủ xuống một nửa.
Linh cữu của Đức Thánh Cha được các chức sắc của Giáo triều Roma kính viếng trong ngày 22 tháng Tư.
Cùng ngày, 22/4/2025, khoảng 60 Hồng y đã quy tụ tại Hội trường mới của Thượng Hội đồng để tuyên thệ theo Tông hiến Universi Dominici Gregis về việc trống tòa và việc bầu Giáo hoàng. Ngày di quan và tang lễ đã được ấn định.
Cuộc họp thứ hai vào chiều 23/4/2025. 3 Hồng y của Ủy ban hỗ trợ Hồng y Nhiếp chính đã được chọn là: Parolin, Ryłko và Baggio.
Ngày 24/4/2025, 113 Hồng y đã hiện diện trong phiên họp thứ ba và thảo luận về Giáo hội và thế giới. Các ngài đã quyết định 2 Hồng y sẽ giúp hai bài suy niệm trước Mật nghị bầu Giáo hoàng.
Vào ngày lễ an táng, các Thượng phụ và Hồng y đồng tế được yêu cầu có mặt trễ nhất là 9 giờ, tại Nhà nguyện thánh Sebastiano, trong Đền thờ thánh Phêrô. Các Tổng giám mục và giám mục cần hiện diện trễ nhất lúc 8 giờ 30, tại cánh phải Đền thờ (braccio costantino). Còn các linh mục được yêu cầu có mặt trễ nhất lúc 8 giờ 30, tại khu vực dành riêng trên thềm đền thờ.
Cuối thánh lễ có nghi thức tiễn biệt, sau đó linh cữu Đức Thánh cha sẽ được đưa vào bên trong Đền thờ thánh Phêrô để từ đây được đưa tới Đền thờ Đức Bà Cả và an táng.
Đức Tổng giám mục Ravelli cũng thông báo rằng lúc 9 giờ sáng, thứ Tư ngày 23 tháng Tư, linh cữu của Đức Thánh cha Phanxicô sẽ được rước từ nhà nguyện ở nhà trọ Thánh Marta ra Đền thờ thánh Phêrô để các tín hữu có thể kính viếng trong vòng ba ngày.
Cuộc rước linh cữu sẽ khởi sự sau khi Đức Hồng y Nhiếp chính Kevin Farrell đọc lời nguyện.
Đoàn rước sẽ đi theo đường chính, và tiến vào Đền thờ qua cửa chính đến trước Bàn thờ Tuyên xưng Đức tin, là bàn thờ chính trên Mộ Thánh Phêrô. Tại đây, Đức Hồng y sẽ chủ sự phụng vụ Lời Chúa trước khi các tín hữu bắt đầu kính viếng.
Tại Quảng trường lúc đó đã có gần 20.000 tín hữu đang chờ đợi đoàn rước. Đoàn rước bắt đầu với ban giúp lễ, rồi tới các kinh sĩ Đền thờ, khoảng 40 giám mục và 80 hồng y. Linh cữu Đức Thánh Cha được 14 nhân viên thuộc Ban nghi lễ của Tòa Thánh vác trên vai, và hai bên có khoảng 16 cha giải tội của Đền thánh Phêrô, thuộc Dòng Phanxicô Viện Tu, cùng với hai hàng Vệ binh Thụy Sĩ. Đoàn rước tiến bước giữa các bài thánh vịnh do ca đoàn hợp xướng.
Kết thúc nghi lễ với thánh ca Lạy Nữ Vương, các hồng y, giám mục và các giám chức tiến lên trước linh cữu Đức Thánh cha để kính chào từ biệt trước khi rời Đền thờ.
Lễ di quan kéo dài hơn một tiếng đồng hồ, và lúc 11 giờ, cổng Đền thờ được chính thức mở cho các tín hữu vào kính viếng linh cữu Đức Cố Giáo hoàng.
Trong ba ngày, Đền thờ thánh Phêrô được mở cửa mỗi ngày cho đến 24 giờ đêm để các tín hữu đến kính viếng, trừ thứ Sáu thì Đền thờ được mở từ 7 giờ sáng đến 7 giờ tối. Sau đó, lúc 8 giờ có nghi thức đóng quan tài, cũng do Đức Hồng y Nhiếp chính chủ sự theo sách Nghi thức an táng Đức Giáo hoàng. Tham dự nghi thức này sẽ có 8 hồng y và một số giám mục, linh mục khác
Giả thiết thứ nhất: các vết bầm đó có thể là một “khối máu tụ rất lớn” do các mạch máu bị xẹp, sau một cơn thiếu máu cục bộ. Thông cáo y khoa chính thức mô tả Đức Cố Giáo hoàng bị đột quỵ não, sau đó bị hôn mê và ngừng tim - một tình trạng lâm sàng phù hợp với tình trạng bầm tím ở mặt, đặc biệt nơi những bệnh nhân bị bệnh nặng.
Bà Sabrina Anticol, bác sĩ thần kinh và là Trưởng khoa Đột quỵ thuộc Bệnh viện Thánh Camillo ở Roma, đưa ra giải thích thứ hai, đó là Đức Giáo hoàng Phanxicô có thể đã bị thương nhẹ vì ngã khi đứng dậy, có lẽ vì bị liệt nửa người, một hậu quả thường thấy nơi những người bị đột quỵ. Nơi những bệnh nhân rất cao tuổi và yếu, ngay cả một chấn thương như cũng có thể gây ra các khối máu tụ lớn, và ta có thể thấy được.
Giả thuyết thứ ba, xét những thay đổi thể lý liên hệ tới tuổi tác. Nơi những người già, da mỏng hơn và những mạch máu lớn dễ vỡ hơn, khiến cho những vết bầm tím dễ xảy ra hơn, ngay cả khi chỉ ấn nhẹ hoặc một cử động sau khi người ấy chết. Trong trường hợp này, tư thế của cơ thể sau khi chết có thể khiến máu tích tụ ở phía bên trái của khuôn mặt, tạo ra các vết thấy được
Bác sĩ Alfieri cho biết lần chót ông thăm Đức Thánh cha là Thứ Bảy Tuần Thánh, ngày 19 tháng Tư vừa rồi, chia sẻ bánh Phục Sinh với ngài. Khi ấy, ngài khỏe khoắn hơn và nói: “Tôi cảm thấy khỏe, tôi đã bắt đầu làm việc và ổn định”.
Bác sĩ được báo tin về tình trạng của Đức Thánh cha lúc 5 giờ 30 sáng thứ Hai, ngày 21 tháng Tư. Họ báo: “Đức Thánh cha đang rất nguy kịch, chúng ta phải trở lại nhà thương”.
20 phút sau đó, bác sĩ Alfieri đã có mặt cạnh giường của Đức Thánh cha. Ông kể lại: “Tôi bước vào phòng của ngài và ngài mở mắt nhìn. Tôi nhận thấy Đức Thánh cha không có vấn đề về hô hấp và lúc ấy, tôi đã cố gắng gọi ngài nhưng ngài không trả lời. Ngài cũng không phản ứng trước những kích thích, kể cả những kích thích gây đau đớn. Lúc đó, tôi hiểu rằng không còn làm được gì nữa. Ngài bị hôn mê rồi. Có đưa vào nhà thương cũng vô ích. Bác sĩ Alfieri nói: “Chúng tôi sẽ có nguy cơ làm cho Đức Thánh Cha chết trong lúc được đưa vào nhà thương. Đức Giáo hoàng vẫn muốn chết ở nhà. Khi còn ở nhà thương, ngài vẫn luôn mong muốn như vậy... Đức Thánh cha đã từng yêu cầu chúng tôi tránh miệt mài trị liệu, cố tình chữa trị khi không còn hy vọng gì nữa. Chúng tôi sẽ chỉ có thể kéo dài cuộc sống của ngài thêm vài ngày”.
Sau cùng, bác sĩ Alfieri giải thích: Trong những tuần lễ trước khi Đức Giáo hoàng từ trần, không thể nào buộc ngài phải nghỉ ngơi tuyệt đối hoàn toàn. “Ngài là Giáo hoàng. Trở lại với công việc là điều thuộc về việc trị liệu và ngài không bao giờ đặt mình trước nguy hiểm. Như thể gần đến giờ chót, ngài quyết định làm tất cả những gì phải làm”.
Trực tiếp truyền hình từ bên trong Đền thờ Thánh Phêrô
Tình bạn thân thiết của sơ với Đức Thánh Cha được nảy sinh qua những lần gặp gỡ và những hoạt động dấn thân can đảm cho những người bị thiệt thòi. Một sự kiện đáng nhớ là vào tháng 7/2024. Mặc dù đang trong kỳ nghỉ và dưới cái nắng gần 40 độ C của Roma, Đức Thánh Cha vẫn đến Trung tâm Luna do sơ đảm trách, để thăm những người trẻ mà theo Đức Thánh Cha bị ảnh hưởng nhiều do đại dịch.
Khi Đức Thánh Cha xuất viện, trở về Nhà Thánh Marta, nữ tu cho biết “rất vui”, nhưng cũng nói thêm là thấy ngài “rất mệt”.
Và vào khoảng 10 giờ 30’ sáng thứ Tư, ngày 23/4, sau cuộc rước từ Nhà nguyện Thánh Marta, thi hài Đức Thánh Cha được đặt trước bàn thờ tuyên xưng đức tin trong Đền thờ Thánh Phêrô, những người hiện diện và trên các phương tiện truyền thông người ta thấy hình ảnh sơ Geneviève Jeanningros đứng qua một bên, cầu nguyện trong thinh lặng rất lâu với nước mắt. Sơ khóc thương một vị Giáo hoàng của lòng thương xót đã ra đi, nhưng trên hết sơ cầu nguyện cho người bạn tinh thần đã nâng đỡ sơ trong hoạt động bác ái vì những người bé nhỏ.
Đức Hồng Y nói thêm: “Và Đức Thánh Cha còn muốn được nhớ đến qua phần mộ của mình, bằng sự hiện ngay cả khi đã qua đời, theo cách rất đơn sơ ấy, và gần bên Mẹ Thiên Chúa”.
Theo Đức Hồng Y, Đức Thánh Cha muốn để lại di sản thiêng liêng cho các vị kế vị và Giáo hội hoàn vũ qua lòng sùng kính đặc biệt Đức Mẹ của ngài, và đỉnh điểm là quyết định chọn yên nghỉ nơi đây. Các tín hữu đến kính viếng Đền thánh này, vì họ thấy cách Đức Thánh Cha cầu nguyện. Ngài dạy mọi người qua mẫu gương đời sống cá nhân chứ không qua các bài diễn văn xuất sắc hay các bài giảng tuyệt vời.
Những màn hình lớn sẽ được bố trí dọc theo đường Hòa Giải, Quảng trường Pia ở cuối đường này cũng như tại Quảng trường Risorgimento và một số địa điểm khác nếu cần, để các tín hữu có thể theo dõi lễ an táng. Ông Lamberto Giannini, Tỉnh trưởng Roma, cũng cho biết sẽ có sự hỗ trợ của các lực lượng an ninh đến từ các miền khác của Ý.
Chính phủ Ý đã bổ nhiệm một ủy viên đặc biệt để điều động các hoạt động khác nhau trong việc bảo vệ và trợ giúp dân chúng trong dịp quan trọng này. Trong số các phái đoàn các nước, được chú ý nhiều nhất là phái đoàn Mỹ do Tổng thống Donald Trump hướng dẫn và sẽ tới Roma vào thứ Sáu, ngày 25 tháng Tư tới đây, trong khi nhiều lãnh tụ khác sẽ tới đây sáng thứ Bảy, trước lễ an táng và rời Roma trong cùng ngày. Cả Tổng thống Zelensky của Ucraina cũng sẽ có mặt.
Dư luận đặc biệt chú ý đến thái độ im lặng của Thủ tướng Israel, ông Netanyahu. Mặc dù Tổng thống Herzog của nước này đã chia buồn với Tòa Thánh, và trên trang mạng Bộ Ngoại giao của Israel có lời chia buồn với Tòa Thánh, nhưng sau đó Thủ tướng Netanyahu đã ra lệnh xóa bỏ những lời chia buồn đó và yêu cầu các sứ quán Israel không được ghi tên vào sổ chia buồn tại các Tòa Sứ thần Tòa Thánh. Thủ tướng Israel vẫn căm hận vì Đức Thánh cha Phanxicô nhiều lần phê bình các cuộc tấn công và tàn sát của quân đội Israel tại Gaza, và kêu gọi điều tra xem có cuộc diệt chủng xảy ra tại đây hay không.
Hội đồng Bộ trưởng Ý cũng quyết định cả nước để tang Đức Giáo hoàng trong 5 ngày. Tổng thống Sergio Mattarella là Quốc trưởng đầu tiên đến viếng linh cữu của Đức Thánh cha tại nguyện đường nhà trọ Thánh Marta.
Mặt khác, thông cáo của Tòa Thánh vào ngày 24/4/2025 cho biết một nhóm khoảng 40 người nghèo, người vô gia cư, tù nhân, người di dân và những người khốn khó khác sẽ hiện diện tại thềm Đền thờ Đức Bà Cả vào thứ Bảy ngày 26/4 với bông hồng trắng trên tay, để nói lời “từ biệt” Đức Thánh Cha Phanxicô lần cuối trước khi linh cữu của ngài được chôn cất trong Đền thờ , nhưng trên hết là nói lời “cảm ơn” một vị Giáo hoàng mà đối với nhiều người trong số họ giống như một “người cha”.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho trang mạng “Koelnische Rundschau”, truyền đi chiều thứ Ba, ngày 22 tháng Tư vừa qua, Đức Hồng y Woelki, người đã từng tham gia Mật nghị bầu Đức Giáo hoàng Phanxicô hồi năm 2013 kể rằng: “Phòng của các Hồng y không có ánh sáng tự nhiên, mọi cửa sổ đều đóng kín, các mành cửa cũng bị đóng.” Phòng của các Hồng y được sắp xếp bằng cách bắt thăm.
Các Hồng y cử tri phải nộp lại tất cả các dụng vụ thông tin kỹ thuật số và cấm không được đọc báo hoặc xem Tivi. Họ cũng bị cấm không được điện thoại hoặc sử dụng các mạng xã hội. Theo Đức Hồng y Woelki, việc cấm liên lạc với thế giới bên ngoài là hạn chế lớn nhất. Trong thời gian đó, Vatican cũng bị đóng đối với mọi khách thăm viếng.
Cuộc bầu cử luôn bắt đầu với một kinh nguyện. Rồi mỗi hồng y viết tên người mình muốn chọn trên một lá phiếu. “Việc bầu cử tiến hành theo thể thức: các Hồng y tiến lên theo thứ bậc và tuổi bổ nhiệm. Mỗi người giơ cao lá phiếu và trước khi bỏ vào thùng phiếu thì tuyên bố trước mặt Chúa Kitô, Đấng sẽ trở lại, rằng mình chọn người mà mình tin là người Chúa gọi làm Giáo hoàng.” Sau đó, ba Hồng y sẽ kiểm phiếu.
Đức Hồng y Woelki mô tả vòng bỏ phiếu đầu tiên hoàn toàn mở rộng. “Nhưng dần dần người ta thấy ai sẽ hội tụ nhiều phiếu nhất. Rồi những vị khác cũng nghĩ lại. Luôn luôn có hai vòng bỏ phiếu: một ban sáng và một ban chiều, mỗi vòng bỏ phiếu như vậy kéo dài khoảng hai tiếng đồng hồ. Cần phải đạt đa số hai phần ba số phiếu để đắc cử.” Theo Đức Hồng y Woelki, với Đức Thánh cha Phanxicô đắc cử hồi năm 2013, quyết định không liên quan tới chính sách của Giáo hội, chính sách cá nhân, hoặc già hay trẻ, hay đến từ đại lục này hay đại lục kia, nhưng chỉ dựa trên sự nhìn nhận người mà Chúa chọn cho sứ vụ Giáo hoàng.
Trong khi các hồng y từ khắp nơi trên thế giới tụ họp về Roma, và với sự chú ý của toàn cầu hiện đang đổ dồn về Vatican, Giáo hội đã bước vào thời kỳ không có sự điều hành của Giáo hoàng (papal interregnum).
Việc mất đi một Giáo hoàng và chờ đợi một Giáo hoàng mới là một khoảnh khắc đau thương - nhưng cũng là điều không thể tránh khỏi, mỗi khi một Giáo hoàng mới được bầu.
Và Giáo hội có luật chi tiết về việc ai làm gì cho đến khi Giám mục Roma tiếp theo xuất hiện trên loggia – ban công chính của Đền thờ Thánh Phêrô.
Những thuật ngữ sau có thể hơi khó hiểu, cũng như cơ chế về việc ai làm gì và khi nào trong vài tuần tới. Vì vậy, để giúp độc giả nắm bắt được từ vựng để theo dõi tin tức tốt hơn, chúng tôi xin trình bày một vài thuật ngự trong thời gian trống tòa - sede vacante:
Hồng y đoàn (College of Cardinals)
Hồng y đoàn là một nhóm giáo sĩ được Đức Giáo hoàng lựa chọn để giúp ngài cai quản Giáo hội hoàn vũ, thông qua việc phục vụ trong các chức vụ cụ thể hoặc bằng cách đưa ra lời khuyên cho Giáo hoàng.
Tất nhiên, nhiệm vụ được biết đến nhiều nhất của họ là bầu ra Giáo hoàng tiếp theo, mặc dù không phải tất cả họ đều có thể hoặc sẽ tham gia vào chức năng đó.
Tuy nhiên, người ta hiểu rộng rãi rằng các hồng y cai quản Giáo hội thay mặt Giáo hoàng cho đến khi cuộc bầu cử kết thúc - mặc dù không phải họ thực hiện quyền lực của Giáo hoàng như một nhóm quyền lực.
Ngược lại, Giáo luật cho phép rằng “Trong thời gian Trống Tòa, việc quản lý Giáo hội được giao cho Hội đồng Hồng y chỉ để giải quyết các công việc thông thường và các vấn đề không thể hoãn lại, và để chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho cuộc bầu cử Giáo hoàng mới.”
Các hồng y không thể thực hiện bất kỳ cải tiến nào, hoặc làm bất cứ điều gì - bằng hành động hoặc không hành động - liên quan đến quyền và thẩm quyền của Tòa thánh. Họ cũng không thể thêm, bớt, sửa đổi, đình chỉ hoặc miễn trừ bất kỳ phần nào của luật Giáo hoàng.
Tuy nhiên, Hồng y đoàn có thẩm quyền giải thích các điểm luật gây nghi ngờ hoặc gây tranh cãi - ngoại trừ bất kỳ điểm nào liên quan đến quy trình bầu cử Giáo hoàng - và những điểm này được giải quyết bởi “phần lớn các hồng y có mặt”.
“Có mặt ở đâu?” bạn có thể hỏi.
Câu trả lời ngắn gọn là “trong phòng” nơi các hồng y thảo luận về những điều này hàng ngày.
Và những cuộc họp đó được gọi là…
Các đại hội đồng (General Congregations)
Trước mật nghị, (chúng ta sẽ tìm hiểu sau), toàn thể Hồng y đoàn, bao gồm cả những thành viên trên 80 tuổi, sẽ tổ chức một loạt các cuộc họp được gọi là “đại hội đồng”.
Các cuộc họp được tổ chức hàng ngày - bao gồm cả trong những ngày tang lễ của Giáo hoàng - tại Dinh Tông Tòa, và do Hồng y niên trưởng (chúng ta sẽ nói đến sau) điều hành.
Ngày bắt đầu cho các hội đồng được chọn bởi Vị Nhiếp chính của Giáo Hội Roma - the Camerlengo of Holy Roman Church (chúng ta sẽ nói đến sau) và các hồng y cử tri thâm niên nhất (senior) từ mỗi một trong ba “đẳng - order” của Hồng y đoàn.
Năm nay, các hội đồng bắt đầu vào thứ Ba, ngày 22 tháng 4 năm 2025.
Giáo Luật đã dự trù rằng các hội đồng chung này sẽ bắt đầu trước khi tất cả các hồng y có thể đến Roma từ khắp nơi trên thế giới, vì một trong những công việc đầu tiên là thiết lập thời gian và địa điểm để trưng bày thi hài của Giáo hoàng đã khuất để mọi người đến viếng, và sắp xếp tang lễ và chôn cất Giáo hoàng.
Ngoài những trách nhiệm trước mắt đó, các đại hội đồng được tổ chức để hồng y nhiếp chính (chỉ cần kiên trì) có thể “lắng nghe ý kiến của [các hồng y] và truyền đạt bất cứ điều gì được coi là cần thiết hoặc phù hợp” - và để các hồng y có thể bày tỏ quan điểm cá nhân của mình về bất kỳ vấn đề nào có thể xảy ra hoặc yêu cầu giải thích về các vấn đề phức tạp.
Tất nhiên, các đại hội đồng cũng là nơi mà các cử tri bắt đầu thực sự tìm hiểu nhau và khi tất cả các thành viên có thể can thiệp và nhận xét về những gì họ tin là nhu cầu cấp thiết của Giáo hội khi xem xét cuộc bầu cử sắp tới.
Đây là lần đầu tiên các ứng cử viên thực sự, thay vì chỉ là những ứng cử viên hàng đầu được cho là, bắt đầu xuất hiện. Và trong khi các đại hội đồng không nằm trong cùng một loại siêu bí mật của mật nghị, tất cả những người tham gia đều phải tuyên thệ “duy trì tính bí mật nghiêm ngặt đối với mọi vấn đề theo bất kỳ cách nào liên quan đến cuộc bầu cử Giáo hoàng Roma hoặc những vấn đề, theo bản chất của chúng, trong thời gian Trống Tòa, đòi hỏi phải có cùng tính bí mật”.
Tất nhiên, vấn đề nào liên quan đến cuộc bầu cử Giáo hoàng Roma và vấn đề nào không thường được những người tham gia giải thích.
Khi mật nghị bắt đầu, các chức năng quản lý của hội đồng sẽ chuyển từ các đại hội đồng chung sang hội đồng bầu cử.
Các hội đồng riêng (Particular congregations)
Trong khi các đại hội đồng chung mở cửa cho tất cả 252 hồng y còn sống, những người được luật pháp yêu cầu tham dự - ngay cả những người đã từ bỏ hoặc mất quyền tham gia mật nghị, như Hồng y Angelo Becciu, cũng có thể tham gia nếu họ muốn.
Nhưng một nhóm 252 người không thực sự lý tưởng để điều phối công việc hàng ngày cần thiết để duy trì hoạt động của Vatican, vì vậy “các hội đồng riêng” cũng họp trong suốt thời kỳ Giáo hoàng tạm quyền.
Các hội đồng riêng về cơ bản là các tiểu ban điều hành chịu trách nhiệm phê duyệt công việc thông thường của Giáo hội toàn cầu hoặc các vấn đề của Vatican khi cần thiết.
Các hội đồng riêng do hồng y nhiếp chính lãnh đạo, cùng với ba hồng y cử tri, được chọn bằng cách rút thăm từ mỗi một trong ba cấp bậc của hội đồng, quyết định về “các vấn đề ít quan trọng hơn phát sinh hàng ngày” - bất kỳ vấn đề quan trọng nào đều được đưa ra toàn thể hội đồng chung để bỏ phiếu đa số.
Ba hồng y cử tri mới được chọn ngẫu nhiên sau mỗi ba ngày cho đến khi mật nghị bắt đầu, tại thời điểm đó, quyền quản trị Giáo hội chuyển từ toàn thể hội đồng sang hội đồng các hồng y cử tri - các hồng y dưới 80 tuổi - trong mật nghị, những người tiếp tục chọn ngẫu nhiên ba người trong số họ để phục vụ trong các hội đồng riêng cho đến khi Giáo hoàng mới được bầu.
Vị Nhiếp chính của Giáo hội Rôma (Camerlengo of Holy Roman Church)
Vị Hồng y Nhiếp chính - trong những giới hạn được xác định cẩn thận - giống như người điều hành chính của Giáo hội cho đến khi Giáo hoàng tiếp theo được bầu, có trách nhiệm bảo vệ và quản lý tài sản và quyền lợi của Tòa thánh, làm việc với Hồng y đoàn thông qua các hội đồng riêng và chung.
Ngay lập tức, nhiệm vụ của Vị Nhiếp chính là niêm phong các căn hộ của Giáo hoàng và, sau khi tham khảo ý kiến của các hồng y cấp cao nhất trong ba cấp bậc của hội đồng, đưa ra mọi quyết định và sắp xếp liên quan đến tang lễ của Giáo hoàng - phù hợp với các chuẩn mực phụng vụ hiện hành cho sự kiện này và các chỉ dẫn mà chính Đức Phanxicô để lại cho lễ chôn cất của mình.
Đền thờ này được mở cửa từ lúc 7 giờ sáng Chúa nhật, ngày 27 tháng Tư và từ đó liên tục có các tín hữu đến kính viếng. Họ bước qua Cửa Năm Thánh rồi đến viếng mộ của ngài ở cùng hông bên trái của thánh đường, cạnh Nhà nguyện Paolina, nơi có ảnh Đức Mẹ là Phần rỗi của dân Roma.
Có những lúc đông người, khiến cho tín hữu muốn vào thánh đường phải chờ đợi khoảng hai tiếng đồng hồ.
Ban chiều, lúc 4 giờ cùng ngày Chúa nhật 27 tháng Tư, đã có 110 Hồng y đến viếng mộ Đức Cố Giáo hoàng, rồi cùng hát Kinh chiều trọng thể trong Đền thờ Đức Bà Cả, do Đức Hồng y Rolandas Makrickas, 53 tuổi, người Lituani, Phó Giám quản Đền thờ, chủ sự.
Đức Phanxicô là Giáo hoàng của đức bác ái, ngài nhắc chúng ta phải có đạo đức của lòng nhân từ. Nhà báo Blanche Streb của trang Aleteia đã học được năm bài học quan trọng về tính nhất quán của ngài, ngài luôn nhấn mạnh chân lý phổ quát: “Tất cả đều có liên hệ với nhau.”
Ngài đã về nhà Cha ngày 21 tháng 4 lúc 7h35 sáng. Tính cách, sức mạnh và lời kêu gọi chăm sóc người nghèo của ngài đã đánh dấu triều của ngài. Tôi nhớ bài phân tích của cha Grosjean, ngay sau khi ngài được bầu. Cha là một trong những người sáng lập Blog Padre, theo cha, ba Giáo hoàng cuối cùng của chúng ta, mỗi người đều có sức lôi cuốn riêng, thể hiện cụ thể cho một trong ba nhân đức đối thần: đức hy vọng của Đức Gioan Phaolô II, đức tin của Đức Bênêđíctô XVI và đức ái của Đức Phanxicô. Không phải là chuyên gia về tư tưởng của cố Giáo hoàng nhưng một số hiểu biết sâu sắc, lời dạy của ngài đặc biệt tạo ấn tượng trong tôi. Những nhân đức này nuôi dưỡng suy nghĩ của chúng ta, giúp tâm hồn chúng ta được êm dịu, để tiếng nói của chúng ta thích ứng với hành động.
1- Khuôn mặt của lòng thương xót
Làm sao khi viết những hàng chữ này tôi lại không nhớ đến Chúa nhật Lòng Thương Xót ngài thiết lập năm 2015, Năm Lòng Thương Xót? Ngài muốn Năm Thánh đặc biệt này là thời điểm thuận lợi cho Giáo hội để lời chứng của giáo dân được mạnh mẽ và hiệu quả hơn. Nhờ tự sắc Khuôn mặt của Lòng thương xót (Misericordiae Vultus) chúng ta hiểu, không chỉ những việc bác ái về thể xác là những chuyện chúng ta thấy quen thuộc và hiển nhiên, nhưng trên hết là những việc ít được biết đến như các việc bác ái về mặt tinh thần.
Phần tôi, những việc này tôi chưa hề nghe nói trước đây. Vì vậy tôi không còn nhìn các việc này như trước được nữa… tôi xin cám ơn Đức Phanxicô! Các việc làm thương xót linh hồn là: Lấy lời lành mà khuyên người, Mở dậy kẻ mê muội, Yên ủi kẻ âu lo, Răn bảo kẻ có tội, Tha kẻ dể ta, Nhịn kẻ mất lòng ta, Cầu cho kẻ sống và kẻ chết
2- Thế gian và 15 căn bệnh
Tôi nhớ lời kêu gọi khẩn thiết của ngài để chống tinh thần thế tục về mặt tâm linh, 15 căn bệnh khủng khiếp của Giáo triều, mà trên thực tế đó là những căn bệnh chúng ta cần dành thời gian để suy ngẫm…: ảo tưởng của sự bất tử nghĩ rằng mình là người “không chết, không thể thiếu”, người làm việc quá mức như Thánh Marta, sự chai đá tinh thần và tâm hồn, tinh thần quan liêu, kém phối hợp. Bệnh Alzheimer tâm linh, vinh quang phù phiếm, tinh thần phân liệt hiện sinh. Tin đồn, nói xấu, buôn chuyện. Tôn sùng các nhà lãnh đạo. Thờ ơ với người khác. Gom của cải. Thế tục, lợi nhuận thế gian và thói phô trương… Một vòng khép kín của các tệ nạn.
3- Không có đạo đức nếu không có lòng tốt
Xin ngài giúp chúng con biết làm chứng cho sự hiệp thông, phục vụ, đức tin nồng nhiệt và quảng đại, công lý và tình yêu với người nghèo, để niềm vui Tin Mừng có thể đến tận cùng trái đất và không một vùng ngoại vi nào bị tước mất ánh sáng Tin Mừng. (Tông huấn Niềm vui Tin Mừng)
Trong Tông huấn Niềm vui Tin mừng Evangelii Gaudium, ngài đưa ra bốn nguyên tắc để xây dựng một dân tộc hòa bình, công bằng và huynh đệ. Trong đó, tôi thường nghĩ đến câu: “Thực tế vượt trội hơn ý tưởng.” Đây là một rủi ro thực sự: một ý tưởng không đối diện với thực tế có thể nhanh chóng thành một hệ tư tưởng. Tương tự như vậy, không có gì lạ khi trong cuộc sống, chúng ta phải đối diện với những lo lắng, hiểu lầm hoặc ác cảm nào đó vì chúng ta bị “kẹt” trong những ý tưởng của mình. Để rồi cuối cùng chúng phai nhạt dần vào thực tế của những gì đã sống, đã gặp, đã trải nghiệm…
Ngài giải thích: “Một cách đơn giản, thực tế là ý tưởng đã được phát triển. Giữa hai điều này, chúng ta phải thiết lập một cuộc đối thoại thường trực, tránh không để ý tưởng cuối cùng bị tách khỏi thực tế. Sống trong thế giới của những từ ngữ, của hình ảnh, của ngụy biện là điều nguy hiểm. Từ đó, ngài đưa ra nguyên tắc thực tế cao hơn ý tưởng. Điều này đòi hỏi phải tránh che khuất thực tế: chủ nghĩa thuần túy của thiên thần, chủ nghĩa toàn trị của chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa bản sắc, các dự án mang tính hình thức hơn là thực tế, chủ nghĩa chính thống phản lịch sử, đạo đức không có lòng tốt, chủ nghĩa duy lý, tất cả đều là những chủ nghĩa vô lý (EG, 231).
Và đó là những lời tôi muốn ghi nhớ: chúng ta phải cảnh giác với đạo đức không có lòng tốt…!
4- Mọi thứ đều được kết nối
Tiếp nối các vị tiền nhiệm, Đức Phanxicô giúp chúng ta hiểu nhu cầu cấp thiết phải tôn trọng sự sống, trong tầm nhìn về hệ sinh thái toàn diện. Ngài nhấn mạnh rất nhiều về sự cần thiết phải nhất quán. Câu nói nổi tiếng của ngài: “Mọi thứ đều có mối liên hệ với nhau.” Một câu đơn giản nhưng phản ánh một chân lý vĩnh cửu. Đúng vậy, tất cả đều có mối liên hệ với nhau và không có lý do gì để chọn con người chống lại thiên nhiên hay thiên nhiên chống lại con người: “Trong thực tế, khi chúng ta không nhận ra giá trị của người nghèo, của phôi thai, của người khuyết tật…, chúng ta sẽ khó lắng nghe tiếng kêu của thiên nhiên. Tất cả đều kết nối với nhau” (Thông điệp Laudato si’, 117).
Cùng với ngài, chúng ta hiểu sự suy thoái môi trường có liên quan chặt chẽ đến văn hóa hình thành cộng đồng loài người, vì thế nhu cầu cấp thiết là bảo vệ các điều kiện đạo đức không thể thiếu làm nền tảng cho hành động con người. Vì một hệ sinh thái thực sự chỉ có thể toàn diện nếu được con người thực hiện, hòa giải trong chính hệ sinh thái con người và hệ sinh thái môi trường, kêu gọi mọi người tiến tới một thay đổi sinh thái toàn cầu đầy đau đớn và đòi hỏi.
5- Tầm nhìn toàn cầu về đạo đức sinh học
Về vấn đề sự sống, ngài nhấn mạnh đến tầm quan trọng phải có “tầm nhìn toàn cầu về đạo đức sinh học” Trong tông huấn Hiến chế Mục vụ Gaudete et Exsultate, ngài nhắc lại “việc bảo vệ người vô tội chưa chào đời phải rõ ràng, kiên quyết và mạnh mẽ, vì phẩm giá của sự sống con người luôn thiêng liêng, phẩm giá này đang bị đe dọa, tình yêu dành cho mọi người bất kể sự phát triển của họ đòi hỏi điều này. Nhưng cũng thiêng liêng với sự sống của những người nghèo đã được sinh ra, của những người đang đấu tranh trong cảnh nghèo đói, bị bỏ rơi, bị khinh miệt, của các nạn nhân nạn buôn người, của việc an tử ẩn giấu của người bệnh và người già, họ không được quan tâm, của những hình thức nô lệ mới và trong mọi hình thức gạt ra ngoài lề” (GE, 101). Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của đạo đức sinh học toàn cầu này, khi nó trở thành một phương thức cụ thể để phát triển quan điểm về sinh thái toàn diện.
Theo ngài, đạo đức sinh học phải được xem xét không phải từ góc độ bệnh tật và công việc ghê sợ của cái chết nhưng phải từ niềm tin sâu sắc vào phẩm giá con người. Một phẩm giá không thể thay đổi ở mọi giai đoạn và điều kiện tồn tại của con người. Ngài thực sự muốn nhắc đến tính liên tục của cuộc sống, ngài không bao giờ bỏ sót một giai đoạn nào: “Có một cuộc sống con người khi được thụ thai, khi đang mang thai, khi được sinh ra, một cuộc sống trẻ em, một cuộc sống vị thành niên, một cuộc sống trưởng thành, một cuộc sống già cả kiệt sức – và có cuộc sống vĩnh hằng. Và không ngây thơ, vì đó cũng là tồn tại sự sống con người mong manh, bệnh tật, bị tổn thương, bị hạ thấp, bị gạt ra ngoài lề, bị từ chối. Nhưng, đó luôn là sự sống con người.”
Chúng con xin cám ơn Giáo hoàng Phanxicô
Xin cám ơn Giáo hoàng Phanxicô vì cuộc sống ngài đã ban tặng. Giờ đây, đằng sau cánh cửa huyền nhiệm của Vương quốc Thiên đàng, cánh cửa mà chìa khóa được trao tượng trưng cho Thánh Phêrô, người tiền nhiệm thánh thiện của ngài, người mà Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo hội, với tâm hồn nhẹ nhàng, tôi nhớ lại lời tâm tình vĩnh cửu này: “Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết con yêu Chúa.”
Bức ảnh nầy do họa sĩ Johann Melchior Georg Schimttdner (Đức) thực hiện từ khoảng 1700. Bức tranh vẽ các thiên thần bao quanh Đức Nữ Đồng Trinh đang gỡ những nút thắt trong cuộc đời chúng ta, chân đạp trên con rắn - tác nhân gây nên nguyên tội. Họa sĩ Johann lấy cảm hứng từ câu chuyện về ông nội của cha Hieronymus là ông Wolfgang Langenmantel (1568-1637). Ông Wolfgang đã gặp một linh mục dòng Tên để xin giúp đỡ khi ông và vợ chuẩn bị ly hôn. Ông và vị linh mục, cùng cầm giải ruban trắng từng dùng trong lễ cưới của các cặp vợ chồng, và cùng cầu xin với Đức Trinh Nữ Maria. Cuối cùng thì ông Wolfgang và vợ đã không ly dị nữa để tiếp tục cuộc hôn nhân trong hạnh phúc.
Nhà điêu khắc Timothy Schmalz người Canada đã thực hiện một bức tượng bằng đồng cùng với ý tưởng đó (hình nhỏ bên phải). ĐTC Phanxicô đã đến kính viếng và làm phép tượng ngày 26.07.2022, và ngài đã hết lòng sùng kính “Đức Mẹ Gỡ Nút Thắt” trong trách vụ Giáo Hoàng, luôn tin tưởng cậy trông và phó thác mọi khó khăn cho Mẹ..., cụ thể ngay trong đại dịch Covid, hoặc những lần ngài đi đến thăm viếng nhưng nơi đang gặp khó khăn...
Nay nhân Đức Phanxicô về quê Trời, nơi không phải để “an nghỉ hay hưởng phúc” mà chính là lúc ngài sẽ dễ dàng cậy dựa vào Thiên Chúa, vào Mẹ Tháo Gỡ Nút Thắt,…, để có thể yêu thương giúp đỡ chúng ta một cách tròn đầy nhất, xin ngài giúp chúng ta chuyển tải được lòng sùng kính Mẹ Gỡ Nút Thắt đến với mọi người.
Quyết định trên đây được Hồng y đoàn đưa ra trong phiên họp Toàn thể thứ năm, bắt đầu lúc 9 giờ sáng, ngày 28 tháng Tư, tại Hội trường Thượng Hội đồng Giám mục ở nội thành Vatican, với sự tham dự của 180 Hồng y, trong đó có hơn 100 Hồng y cử tri, trên tổng số 134 vị.
Sáng ngày 07 tháng Năm sắp tới, tất cả các Hồng y sẽ cử hành thánh lễ đồng tế do Đức Hồng y Giovanni Battista Re, Niên trưởng Hồng y đoàn để cầu nguyện cho việc bầu chọn Giáo hoàng mới. Ban chiều, các Hồng y cử tri sẽ đi rước vào Nhà nguyện Sistina và tuyên thệ.
Mỗi ngày, có bốn cuộc bỏ phiếu: hai lần ban sáng và hai lần ban chiều. và để đắc cử Giáo hoàng, cần đạt được hai phần ba số phiếu.
Vì Đức Hồng y Niên trưởng và Phó Niên trưởng đều quá 80 tuổi, nên vị kế đó, theo thứ tự, là Đức Hồng y Pietro Parolin, nguyên Quốc vụ khanh Tòa Thánh, sẽ chủ trì các cuộc bầu chọn trong Nhà nguyện Sistina.
Trong khi đó, tuần cửu nhật cầu nguyện cho Đức Cố Giáo hoàng được tiếp tục với thánh lễ lúc 5 giờ chiều mỗi ngày, cho đến chiều Chúa nhật, ngày 04 tháng Năm tới đây.
Sáng hôm 28 tháng Tư vừa qua, giới báo chí đặc biệt chú ý đến Đức Hồng y Giuse Trần Nhật Quân (Zen Zikum), 93 tuổi, nguyên Giám mục Hong Kong, mới đến Roma, sáng thứ Hai, ngày 28 tháng Tư để dự các phiên họp của Hồng y đoàn, mặc dù ngài không còn quyền tham dự mật nghị bầu Giáo hoàng.
Trong các phiên họp toàn thể những ngày này, các Hồng y đặc biệt trao đổi về tình trạng cũng như nhu cầu và thách đố của Giáo hội và thế giới để xác định những phẩm tính và khả năng mà vị Giáo hoàng tương lai cần có để đáp ứng.
Ngoài ra, các phiên họp cũng là nơi thích hợp để các Hồng y tìm hiểu và quen biết nhau hơn, nhất là các vị từ các miền xa xăm trên thế giới.
Hiện tại Hồng y đoàn có 252 Hồng y, trong đó có 135 Hồng y cử tri, những vị dưới 80 tuổi, và 117 Hồng y từ 80 tuổi trở lên và không còn quyền bầu Giáo hoàng.
Trong những ngày này, sau khi Đức Thánh Cha Phanxicô qua đời, các Hồng y được Đức Hồng y Niên trưởng Giovanni Battista Re triệu tập về Roma để tham dự các Phiên họp chung để thảo luận về các vấn đề liên quan đến nghi lễ an táng cố Giáo hoàng, cũng như việc bầu Giáo hoàng mới, các vấn đề liên quan đến Giáo hội và thế giới.
Hồng y đoàn đã quyết định chọn ngày 7/5/2025 là ngày bắt đầu Mật nghị bầu Giáo hoàng.
Tính phổ quát của Hồng y đoàn
135 Hồng y cử tri dưới 80 tuổi sẽ tham dự Mật nghị đến từ 71 quốc gia: 53 vị đến từ 18 nước châu Âu, 37 vị đến từ 15 quốc gia Châu Mỹ (16 từ Bắc Mỹ, 4 từ Trung Mỹ, 17 từ Nam Mỹ), 23 vị đến từ 17 quốc gia ở châu Á, 18 vị đến từ 17 quốc gia châu Phi và 4 vị đến từ 4 quốc gia ở Châu Đại Dương.
Các Hồng y đại diện cho Giáo hội ở khắp nơi. Tính phổ quát này của Giáo hội được gia tăng qua các Công nghị Hồng y dưới thời Đức cố Giáo hoàng Phanxicô. Ngài đã định hình lại đáng kể Hồng y đoàn, tạo nên một tổ chức ít tập trung vào châu Âu hơn và mang tính quốc tế hơn. Điều này phản ánh cả khuynh hướng cá nhân của ngài là chuyển trọng tâm của Công giáo sang vùng Nam bán cầu, tập trung vào "các vùng ngoại vi", và xu hướng rộng hơn là Giáo hội trong tương lai có thể sẽ có một bộ mặt ít tập trung vào châu Âu hơn.
Đức cố Giáo hoàng muốn các Hồng y là những vị đại diện của Giáo hội ở mọi nơi, chứ không chỉ của những giáo phận hay quốc gia quan trọng. Trong 10 Công nghị Hồng y, ngài đã chọn các vị đến từ 70 quốc gia, trong đó có 23 nước trước đó chưa có Hồng y nào. Đó là các nước: Haiti, Cộng hòa Dominica, Myanmar, Panama (dù rằng Đức Hồng y Lacunza Maestrojuan sinh tại Tây Ban Nha), Capo Verde, Tonga, Cộng hòa Trung Phi, Bangladesh, Papua New Guinea, Malaysia, Lesotho, Mali, Thụy Điển, Lào, El Salvador, Luxembourg Rwanda, Brunei, Đông Timor, Singapore, Paraguay, Nam Suđan và Serbia.
Trong Mật nghị bắt đầu từ ngày 7/5/2025, có 15 quốc gia lần đầu tiên có Hồng y cử tri, bao gồm Haiti, Cape Verde, Papua New Guinea, Thụy Điển, Luxembourg và Nam Sudan.
135 Hồng y cử tri được thăng Hồng y dưới ba triều Giáo hoàng: 5 vị do Đức Gioan Phaolô II, 22 vị do Đức Biển Đức VI và 108 vị do Đức Phanxicô.
Độ tuổi của các Hồng y cử tri
Hồng y cử tri trẻ nhất là Đức Hồng y Mykola Byčok, 45 tuổi, người Úc gốc Ucraina, Giám mục giáo phận hai Thánh Phêrô và Phaolô ở Melbourne của các tín hữu Ucraina; trong khi Hồng y cử tri lớn tuổi nhất là Đức Hồng y Carlos Osoro Sierra người Tây Ban Nha, 79 tuổi, nguyên Tổng Giám mục của Madrid.
Ngoài Hồng y cử tri trẻ nhất 45 tuổi, có 5 Hồng y cử tri khác sinh vào những năm 70, trong độ tuổi 51 đến 54.
Có 50 Hồng y cử tri sinh vào những năm 40, 47 vị sinh vào những năm 50 và 31 vị sinh vào những năm 60. Nhóm tuổi có đông Hồng y cử tri nhất là nhóm sinh năm 1947, với 13 vị đã 78 tuổi hoặc ần tròn 78 tuổi.
Các Hồng y là tu sĩ
Trong số 135 Hồng y cử tri, có 33 Hồng y thuộc 18 dòng tu; đông nhất là dòng Salêdiêng, với 5 vị, tiếp đến là Dòng Phanxicô và Dòng Tên, mỗi dòng 4 vị, và Dòng Phanxicô Viện tu có 3 vị. Các dòng như Dòng Đaminh,Thánh Vinh Sơn Phaolô, Chúa Cứu Thế, Ngôi Lời, mỗi dòng có 2 vị. Các dòng còn lại Dòng Augustinô, Capuchinô, Cát Minh nhặt phép, Xitô, Thánh Clarét, Tu hội đời Pio X, Dòng Truyền giáo Đức Mẹ An ủi, Dòng truyền giáo Thánh Tâm Chúa Giêsu, Dòng Scalabrini và Dòng Chúa Thánh Thần, mỗi dòng có 1 Hồng y cử tri.
Hai Hồng y cử tri vắng mặt
Trong số 135 Hồng y cử tri có quyền bỏ phiếu bầu chọn Giáo hoàng mới, có 2 vị đã xác nhận không thể tham dự Mật nghị vì lý do sức khỏe. Do đó sẽ chỉ có 133 Hồng y cử tri tham dự Mật nghị bầu Giáo hoàng thứ 267 của Giáo hội.
Bộ Giáo luật quy định những gì?
Điều 349 của Bộ Giáo luật quy định rằng các Hồng y “tạo thành một đoàn đặc biệt có nhiệm vụ chuẩn bị cho việc bầu Giáo hoàng” và nói thêm rằng các Hồng y “hỗ trợ” Giáo hoàng “bằng cách hành động theo tinh thần tập thể khi họ được triệu tập để giải quyết những vấn đề quan trọng hơn, và với tư cách cá nhân, nghĩa là trong các chức vụ mà họ có trách nhiệm, hỗ trợ ngài trong việc chăm sóc, đặc biệt là trong việc chăm sóc hàng ngày Giáo hội hoàn vũ”. Do đó, Tông hiến Universi Dominici Gregis đã thiết lập rằng các Hồng y bầu Người kế vị Thánh Phêrô là những người chưa đến 80 tuổi trước ngày Đức Giáo hoàng qua đời "hoặc ngày Tòa Thánh trống tòa"; vì lý do này, người ta phân biệt giữa các Hồng y cử tri và những vị không phải là Hồng y cử tri.
Sau Thánh lễ “pro eligendo Pontifice”, sẽ diễn ra vào lúc 10 giờ sáng ngày 7/5/2025 tại Đền thờ Thánh Phêrô, các Hồng y dự kiến sẽ di chuyển đến Nhà Thánh Marta, nơi các ngài sẽ cư ngụ trong thời gian bầu Giáo hoàng.
Các Hồng y sẽ cư trú tại Nhà Thánh Marta
Trong những ngày này, mỗi Hồng y ở các nơi khác nhau tại Roma, và trong thời gian đó, các phòng ở Nhà Thánh Marta, nơi hiện có một số Giám mục và linh mục cư trú, sẽ phải được dọn dẹp, và một số công việc sẽ phải được thực hiện trước khi có thể chào đón các Hồng y. Những người không phải là Hồng y cử tri phải dọn ra khỏi Nhà Thánh Marta và đến một nhà khác dành cho giáo sĩ trong thời gian diễn ra Mật nghị; nghĩa là chỉ có các Hồng y cử tri có thể cư trú tại Nhà Thánh Marta trong thời gian bầu Giáo hoàng.
Phòng của Đức cố Giáo hoàng
Các dấu niêm phong trên phòng của Đức cố Giáo hoàng Phanxicô ở Nhà Thánh Marta sẽ được gỡ bỏ sau khi bầu được Giáo hoàng mới, vì các phòng và đồ đạc bên trong được dành cho Giáo hoàng mới.
4 lần bỏ phiếu mỗi ngày
Ngoại trừ ngày 7/5/2025, khi cuộc bỏ phiếu đầu tiên và duy nhất trong ngày diễn ra vào buổi chiều, những ngày tiếp theo của Mật nghị sẽ có 4 lần bỏ phiếu, 2 lần vào buổi sáng và 2 lần vào buổi chiều. Mỗi ngày sẽ có 2 lần khói từ ống khói, một lần vào cuối buổi sáng và một lần vào cuối buổi chiều, trừ khi Giáo hoàng được bầu trước và trong trường hợp đó, sẽ có khói trắng bay lên. Trong suốt Mật nghị, sẽ không có dịch vụ phiên dịch như trong các Phiên họp chung.
Hai Hồng y cử tri sẽ vắng mặt
Phòng Báo chí Tòa Thánh cũng nhắc lại rằng hiện tại có hai Hồng y đã thông báo không thể tham dự Mật nghị vì lý do sức khỏe, trong khi vẫn còn 9 Hồng y cử tri chưa có mặt trong danh sách điểm danh của các Phiên họp, nhưng không có thêm thông tin chi tiết nào về việc khi nào các ngài đến.
Việc bỏ phiếu trong trường hợp Hồng y cử tri bị bệnh
Trong buổi họp báo, tình hình của Hồng y Vinko Puljić, nguyên Tổng giám mục của Vrh Bosna (Sarajevo) cũng được đề cập đến. Ngài đang bệnh nhưng theo lời khuyên của bác sĩ, ngài sẽ có thể có mặt tại Mật nghị Hồng y và có thể sẽ phải bỏ phiếu từ Nhà Thánh Marta. Sẽ có thông báo về thời gian và phương pháp cho tình huống này hoặc bất kỳ tình huống tương tự nào.
Đây sẽ là Mật nghị bầu Giáo hoàng lần thứ 76 được tổ chức theo hình thức mà chúng ta biết ngày nay, hình thức được Đức Gregorio X thiết lập vào năm 1274. Trước đó, người ta chỉ nói đơn thuần về cuộc bầu Giáo hoàng. Trong khoảng 1.200 năm đầu tiên của lịch sử Giáo hội, người kế nhiệm Thánh Phêrô, với tư cách là Giám mục của Roma, trong thực tế đã được chọn với sự tham gia của cộng đoàn địa phương. Các giáo sĩ xem xét các ứng cử viên do các tín hữu đề xuất và Đức Giáo hoàng được các Giám mục chọn ra. Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 11, việc bầu Giáo hoàng cũng bị ảnh hưởng bởi vấn đề tác động bên ngoài: các hoàng đế Roma, các vua của đế quốc Charlemagne và những người khác đã cố gắng bằng nhiều cách khác nhau để kiểm soát quá trình chỉ định Giáo hoàng.
Nguồn gốc của Mật nghị
Qua nhiều thế kỷ, nhiều thay đổi đã diễn ra và định hình nên cơ cấu của Mật nghị cho đến Mật nghị ngày nay. Giáo hoàng đầu tiên can thiệp theo hướng này là Giáo hoàng Nicola II vào năm 1059 với sắc lệnh "In nomine Domini". Văn kiện này quy định cụ thể rằng chỉ có Hồng y mới có quyền bầu Giáo hoàng. Nó đã được phê chuẩn một cách chắc chắn bởi tông hiến "Licet de vitanda" do Đức Alexandro III ban hành năm 1179. Tông hiến này đưa ra yêu cầu Giáo hoàng phải được chọn bởi đa số từ hai phần ba số phiếu bầu, một yếu tố quan trọng trong cuộc bầu cử Giáo hoàng vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
Lần bầu Giáo hoàng vào năm 1268
Vào năm 1268, có một biến cố đã diễn ra và được nhiều nguồn sử liệu ghi chép lại. Có 18 vị hồng y tụ họp tại Dinh Tông tòa ở Viterbo để bầu Giáo hoàng. Đây là "Mật nghị Hồng y" dài nhất trong lịch sử. Giáo hoàng được bầu sau 2 năm 9 tháng. Đây là thời điểm khó khăn. Trong suốt thời gian dài này, người dân Viterbo vô cùng tức giận và quyết định nhốt các Hồng y trong Cung điện. Các cánh cửa đã bị xây gạch chặn lại và mái nhà đã bị dỡ bỏ. Cuối cùng, Đức Gregorio X, tổng phó tế của Liège, lúc đó đang ở Đất Thánh, đã được bầu. Năm 1274, ngài ban hành tông hiến "Ubi periculum", chính thức thành lập Mật nghị. Tông hiến cũng xác định rằng Mật nghị phải được tổ chức ở một nơi thực sự được "khóa" từ bên trong và bên ngoài.
Mật nghị Hồng y đầu tiên trong lịch sử
Trên cơ sở những điều khoản này, Mật nghị Hồng y đầu tiên trong lịch sử, sau khi tông hiến "Ubi periculum" được ban hành, là Mật nghị Hồng y Arezzo năm 1276 với cuộc bầu Đức Giáo hoàng Innocente V. Năm 1621, Đức Gregorio XV đã đưa ra yêu cầu buộc bỏ phiếu kín và bằng văn bản. Vào năm 1904, Đức Piô X đã cấm cái gọi là quyền độc quyền dưới mọi hình thức. Yêu cầu buộc giữ bí mật về những gì đã xảy ra trong Mật nghị, cả sau cuộc bầu cử, cũng được đưa ra.
Những thay đổi từ thế kỷ 20 đến nay
Sau chiến tranh, vào năm 1945, Đức Piô XII ban hành tông hiến “Vacantis Apostolicae Sedis” trong đó đưa ra một số đổi mới. Đặc biệt, kể từ thời điểm "Sede Vacante" (Trống Tòa) bắt đầu, tất cả các Hồng y - bao gồm cả Quốc vụ khanh Tòa Thánh và các Tổng trưởng của các Bộ - đều thôi giữ chức vụ của mình, ngoại trừ Hồng y Nhiếp chính, Hồng y Chánh tòa Ân giải Tối cao và Giám quản của Roma. Với Tự sắc "Ingravescentem Aetatem", Đức Phaolô VI đã quyết định rằng các Hồng y chỉ có thể là cử tri cho đến khi họ tới 80 tuổi.
Các quy tắc bầu cử Giáo hoàng
Văn bản luật hiện hành có hiệu lực đối với việc bầu Giáo hoàng là tông hiến "Universi Dominici Gregis", được Đức Gioan Phaolô II ban hành năm 1996 và được Đức Biển Đức XVI sửa đổi vào năm 2013. Văn bản này quy định, trong số những điều khác, rằng Mật nghị Hồng y phải được tổ chức tại Nhà nguyện Sistine, được định nghĩa là Via Pulchritudinis, con đường của vẻ đẹp có khả năng hướng dẫn tâm trí và trái tim hướng tới Đấng Vĩnh hằng. Tự sắc của Đức Biển Đức XVI "De Aliquibus Mutationibus in Normis de Electione Romani Pontificis" cũng quy định rằng, sau 34 lần bỏ phiếu mà vẫn không bầu được Giáo hoàng, các Hồng y được yêu cầu bỏ phiếu cho hai Hồng y nhận được nhiều phiếu bầu nhất trong lần bỏ phiếu gần nhất, trong khi vẫn duy trì - ngay cả trong vòng bỏ phiếu thứ hai - quy tắc đa số hai phần ba phiếu bầu, cần thiết để bầu ra vị mục tử mới của Giáo hội hoàn vũ.
Ngày thứ tư 7 tháng 5, các hồng y sẽ dự thánh lễ trọng thể tại Đền thờ Thánh Phêrô, Vatican, sau đó các hồng y đủ điều kiện bỏ phiếu sẽ vào Nhà nguyện Sixtine để tham dự mật nghị, có thể kéo dài vài ngày.
Các hồng y dự mật nghị bị cấm đưa tin về các sự kiện xung quanh cuộc bầu cử giáo hoàng tương lai. Tuy nhiên, luật giữ bí mật này không phải lúc nào cũng được tôn trọng.
“Extra Omnes! Xin tất cả ra ngoài!” Đó là lời Hồng y Diego Ravelli sẽ tuyên bố ngày thứ tư 7 tháng 5 khi ngài đóng cửa Nhà nguyện Sixtine. Bên trong, 133 hồng y phải làm một nhiệm vụ nặng nề: bầu người kế nhiệm Thánh Phêrô để lãnh đạo Giáo hội công giáo. Trong vài giờ hoặc vài ngày, một giai đoạn hoàn toàn bảo mật sẽ bắt đầu. Ít nhất trên lý thuyết.
Quy tắc rõ ràng: không có thông tin nào có thể công bố hoặc nên công bố về tiến trình mật nghị, về các thảo luận không chính thức có thể diễn ra bên lề các hoạt động này. Hiến chế tông đồ Universi dominici gregisdc Đức Gioan-Phaolô II ban hành năm 1996 và được người kế nhiệm sửa đổi năm 2013 đã dành hẳn một chương thứ tư cho vấn đề này. Hậu quả cho ai bi phạm bí mật này: vạ tuyệt thông.
Không liên lạc
Do đó, tất cả các hồng y cử tri, tất cả đều dưới 80 tuổi, đều bị cấm tham gia vào bất kỳ hoạt động trao đổi thư từ nào trong suốt thời gian diễn ra mật nghị, dù qua thư, e-mail, điện thoại hoặc người đưa tin. Các hồng y còn bị cấm nhận và đọc bất kỳ loại báo nào, cũng như nghe đài phát thanh hoặc truyền hình.
Một bí mật đời đời (ad vitam)
Luật ghi rõ: “Các hồng y cử tri bị cấm tiết lộ cho bất kỳ ai bất kỳ tin tức nào liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc bầu cử, cũng như bất kỳ điều gì đã được thảo luận hoặc quyết định về cuộc bầu cử trong các cuộc họp hồng y, cả trước và trong cuộc bầu cử.”
Dĩ nhiên các hồng bị cấm ghi âm các cuộc nói chuyện hoặc chụp hình Nhà nguyện Sixtine trong suốt thời gian mật nghị. Những hình ảnh duy nhất sẽ là những hình ảnh của Vatican khi các cử tri vào Nhà nguyện và tuyên thệ trước khi cánh cửa đóng lại. Đó là giai đoạn công khai duy nhất của mật nghị.
ra, các kỹ thuật viên làm việc cho Vatican cũng phải tuân thủ nguyên tắc bí mật, đảm bảo không có camera hoặc micrô nào được đặt trong Nhà nguyện hoặc các khu vực xung quanh.
Một bí mật không giữ được
Dù có những quy định rất nghiêm ngặt, lệnh cấm phát biểu không chỉ áp dụng trong mật nghị mà còn sau đó, nhưng các hồng y vẫn thường xuyên vi phạm.
Vì vậy, sau mỗi mật nghị, người ta thường có đầy đủ thông tin chi tiết về cuộc bỏ phiếu bầu giáo hoàng. Trong một cuốn sách hấp dẫn Cuộc bầu cử Đức Phanxicô (L’Élection du pape François, nxb. Artège), nhà vatican học Gerry O’Connell liệt kê một số lá phiếu. Hồng y Bergoglio, Giáo hoàng Phanxicô tương lai có 45 phiếu ở vòng thứ hai, hồng y Angelo Scola người Ý có 38 phiếu, hồng y Canada Marc Ouellet có 24 phiếu và hồng y Mỹ Sean O’Malley có 3 phiếu.
Số phiếu bầu cho Hồng y Bergoglio tăng theo thời gian: 56 phiếu ở vòng thứ ba, 67 ở vòng thứ tư và 85 phiếu ở vòng thứ năm đạt đa số 2/3 và ngài được bầu làm giáo hoàng. Ở vòng cuối cùng, Hồng y Scola được cho là hồng y triển vọng nhất khi bước vào mật nghị có được 20 phiếu bầu, hồng y Ouellet có 8 phiếu và hồng y Vallini có 2 phiếu. Nhà báo Gerry O’Connell kể: “Mọi người vỗ tay khi kết quả cuối cùng được công bố.” Ngay sau khi tràng pháo tay kết thúc, hồng y Bergoglio đứng dậy và đến ôm hôn hồng y Scola, ngồi cùng hàng ghế với ngài.
Một tiền lệ nổi tiếng khác: một bài viết dài được đăng trên tạp chí Limes của chuyên gia Vatican Lucio Brunelli kể chi tiết mật nghị bầu Đức Bênêđíctô năm 2005. Còn mật nghị năm 2013 bầu Đức Phanxicô, ngài kể ngài ngồi gần hồng y Brazil Claudio Hummes, hồng y nhắc ngài nhớ người nghèo, nhớ “sửa chữa Giáo hội”, vì thế ngài chọn tên của Thánh Phanxicô Assisi.
Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông đã xuất bản một cuốn sách có tên là “The Next Pope: The Office of Peter and a Church in Mission”— nghĩa là “Vị Giáo Hoàng Tiếp Theo: Sứ Vụ Phêrô Và Một Giáo Hội Truyền Giáo”. Đó là một mô tả ngắn gọn về những phẩm chất mà tác giả cho là cần thiết ở một Vị Giáo Hoàng, người sẽ củng cố lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô rằng chúng ta phải là một Giáo hội của những môn đệ truyền giáo.
Dưới đây là phần đầu nói về tình trạng của Giáo Hội hiện nay.
Các Hồng y đã xin tất cả tín hữu Công giáo cầu nguyện cho các ngài, để các ngài có thể lắng nghe Chúa Thánh Thần khi phân định xem nên chọn ai làm Giáo hoàng tiếp theo.
Thông cáo viết: “Hồng y đoàn đã quy tụ tại Roma, tham gia vào các Phiên họp chung để chuẩn bị cho Mật nghị, muốn mời gọi Dân Chúa sống khoảnh khắc của Giáo hội này như một sự kiện của ân sủng và sự phân định thiêng liêng, bằng cách lắng nghe ý muốn của Thiên Chúa”.
Các Hồng y cho biết các ngài cảm thấy “cần được hỗ trợ bởi những lời cầu nguyện của tất cả các tín hữu”, bởi vì các ngài nhận thức được trách nhiệm của mình trong việc lựa chọn Người kế vị tiếp theo của Thánh Phêrô, và nhắc rằng cầu nguyện “là sức mạnh thực sự trong Giáo hội thúc đẩy sự hiệp nhất của tất cả các thành viên trong một Thân thể của Chúa Kitô”.
Các Hồng y nói thêm: “Đứng trước trách vụ lớn lao sắp tới và tính cấp bách của thời điểm hiện tại, trước hết, chúng ta cần phải trở thành những công cụ khiêm nhường của sự khôn ngoan và sự quan phòng vô hạn của Cha trên trời, trong sự vâng theo hành động của Chúa Thánh Thần”, bởi vì Chúa Thánh Thần là “nhân vật chính của đời sống của Dân Chúa, Đấng mà chúng ta phải lắng nghe, chấp nhận những gì Người đang nói với Giáo hội”.
Tuyên bố của các Hồng y kết thúc với lời cầu xin, “Xin Đức Trinh Nữ Maria đồng hành với những lời cầu nguyện này của cộng đoàn bằng lời chuyển cầu mẫu tử của Mẹ”.
HỒNG Y MÜLLER NÓI RẰNG SẼ LÀ "THẢM HỌA" NẾU MỘT MẬT NGHỊ BẦU MỘT "GIÁO HOÀNG LẠC GIÁO"
Khi mật nghị bầu giáo hoàng đang đến gần, Hồng y Gerhard Müller kêu gọi các hồng y đồng viện hãy từ chối các tiêu chí trần tục khi chọn vị giáo hoàng mới và thay vào đó tập trung vào một người sẽ duy trì sứ mệnh thiêng liêng của Thánh Phêrô.
Vatican – Hồng y Gerhard Müller đã cảnh báo về nguy cơ một vị giáo hoàng mới có thể là một “lạc giáo”, nếu đặt các giá trị của mình dựa trên "truyền thông đại chúng".
Sau khi Đức Giáo hoàng Phanxicô qua đời vào ngày 21 tháng 4, Hồng y Müller đã chia sẻ với tờ The Times về hy vọng của ông đối với mật nghị sắp tới và trách nhiệm của các hồng y trong việc bầu chọn một Giáo hoàng La Mã mới.
Vị hồng y người Đức – người sẽ tham gia mật nghị đầu tiên trong đời – kêu gọi các thành viên khác trong Hồng y đoàn hãy bỏ qua các nhãn mác chính trị như “cấp tiến” hay “bảo thủ”. Một giáo hoàng “phải là người chính thống – không cấp tiến cũng không bảo thủ.”
Ông nói thêm:
“Vấn đề không nằm giữa bảo thủ và cấp tiến, mà là giữa chính thống và lạc giáo.”
“Tôi cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho các hồng y, vì một giáo hoàng lạc giáo, người thay đổi mỗi ngày dựa vào truyền thông nói gì, sẽ là một thảm họa.”
Ông cũng lưu ý rằng việc Đức Phanxicô được truyền thông thế tục ca ngợi là một mối nguy:
“Đức Giáo hoàng Phanxicô được giới truyền thông yêu mến, và có nguy cơ rằng [các hồng y] sẽ nghĩ rằng ‘Chúng ta cần tiếp tục theo con đường này.’”
Thay vì tiếp tục theo chiều hướng đó, ông cho rằng các hồng y “có trách nhiệm chọn một người có khả năng hiệp nhất Giáo hội trong chân lý được mạc khải.”
Giáo hoàng mới không nên tìm kiếm “tràng pháo tay từ thế gian, vốn xem Giáo hội chỉ như một tổ chức nhân đạo làm công việc xã hội,” theo The Times tường thuật.
“Công giáo không phải là việc mù quáng vâng lời giáo hoàng mà không tôn trọng Kinh Thánh, Thánh Truyền và giáo lý của Giáo hội,” ông nói thêm.
Những lời này lặp lại những gì ông đã phát biểu với một phóng viên vài tuần trước, kêu gọi Giáo hội cẩn trọng cân nhắc trong quyết định chọn vị giáo hoàng kế tiếp.
“Tôi hy vọng có sự suy tư sâu sắc hơn trong Hồng y đoàn về tình trạng đức tin và Giáo hội trong thế giới hậu Kitô giáo, thậm chí là chống Kitô giáo, như ở phương Tây hiện nay.”
Các hồng y không nên tìm kiếm một ứng viên giống với vị giáo hoàng tiền nhiệm, mà là một người trung thành với Thánh Phêrô và sứ mạng được Chúa Kitô trao phó. Müller khẳng định:
“Mỗi triều đại giáo hoàng đều phải trở về với cội nguồn của nó. Cội nguồn ấy chính là sứ vụ của Thánh Phêrô, và do đó một giáo hoàng ngồi trên ngai Phêrô; không phải ngai của Phanxicô hay Bênêđictô.”
“Họ chỉ là những người tiền nhiệm theo thời gian, nhưng mỗi giáo hoàng đều là người kế vị Thánh Phêrô.”
Ông nói thêm rằng các hồng y phải gạt sang một bên những tiêu chí như quốc tịch và tập trung vào bản chất thực sự của ngôi vị giáo hoàng:
“[Các hồng y phải hiểu rằng] chúng ta không tìm kiếm một người chỉ vì phản ứng của truyền thông như: ‘Chúng ta cần một giáo hoàng giỏi truyền thông,’ hoặc những tiêu chí phụ như: ‘Giờ chúng ta cần một người châu Phi,’ hay ‘Phải quay lại chọn một người Ý,’ tất cả những điều vô nghĩa đó không liên quan gì [đến sứ mạng giáo hoàng].”
“Chúng ta phải nhìn vào chính những gì Chúa Giêsu nói về sứ vụ của Thánh Phêrô, trong lời Người phán với ông: ‘Con là Phêrô, Thầy trao cho con chìa khóa Nước Trời; con phải củng cố anh em mình trong đức tin, và con là mục tử của Giáo hội hoàn vũ.’”
Năm nay 77 tuổi, Müller được Đức Phanxicô phong Hồng y vào tháng 2 năm 2014 và từng giữ chức Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin từ năm 2012 đến 2017. Sau đó, dù ông mới 70 tuổi, Đức Phanxicô không giao cho ông một sứ vụ mới.
Trong những năm gần đây, ông trở thành một nhà phê bình nổi bật đối với một số yếu tố trong triều đại giáo hoàng vừa qua, đặc biệt là về Thượng Hội đồng về Tính Hiệp hành (Synod on Synodality).
Giờ đây, ông sẽ có cơ hội bày tỏ quan điểm của mình trực tiếp với các hồng y khác trong các cuộc họp tiền mật nghị.
Catholic Tradition & Evangelization
Lời bàn:
Lời cảnh báo của Hồng y Gerhard Müller không chỉ là tiếng nói cá nhân, mà còn là tiếng chuông thức tỉnh giữa thời điểm then chốt của Giáo hội. Trong bối cảnh hậu Kitô giáo tại phương Tây và sự nhạt nhòa của đức tin trong lòng xã hội hiện đại, viễn cảnh một vị giáo hoàng bị truyền thông điều khiển, đánh đổi chân lý để được yêu mến, thật sự là một thảm họa.
Hồng y Müller cho thấy rõ sự phân định quan trọng: không phải là cuộc giằng co giữa “bảo thủ” và “cấp tiến”, mà là sự phân định giữa chính thống và lạc giáo – giữa đức tin tông truyền và những thỏa hiệp ngụy trang dưới danh nghĩa “hiệp hành” hay “canh tân”. Trong khi nhiều người muốn chọn một vị giáo hoàng phù hợp với khẩu vị của thời đại, thì Hồng y Müller nhắc chúng ta rằng Giáo hội không thuộc về thế gian. Giáo hội là của Chúa Kitô – và vị giáo hoàng, trước hết và trên hết, là người kế vị Thánh Phêrô, không phải người kế vị một vị tiền nhiệm gần nhất.
Thật đáng suy ngẫm khi ngài nói rằng “mọi giáo hoàng đều phải trở về với nguồn gốc của ngôi vị – chiếc ghế của Thánh Phêrô, không phải của Phanxicô hay Bênêđictô.” Bởi lẽ, nếu rời xa nguồn mạch ấy – nơi Chúa Kitô đã đặt nền tảng Giáo hội – thì dù là ai ngồi đó, nếu không còn vâng theo ý Chúa, cũng chỉ là chiếc ngai rỗng.
Lúc này đây, tiếng nói của Hồng y Müller là một tiếng nói cần lắng nghe – không phải để gây chia rẽ, mà để nhắc nhớ: Giáo hội không thể bị dẫn dắt bởi tiếng vỗ tay của thế gian, nhưng phải vững bước theo chân lý được mạc khải.
Đức Thượng phụ nói: “Chúng tôi cầu nguyện rằng một người kế nhiệm xứng đáng Đức Giáo hoàng Phanxicô sẽ được bầu, để chúng tôi có thể tiếp tục mối quan hệ và đối thoại đại kết mà chúng ta đã bắt đầu từ nhiều thập kỷ trước, như chúng tôi cũng đã làm với Cộng đồng Anh giáo”.
Đức Thượng phụ Bartholomew là một người bạn, người anh em thân thiết của Đức cố Giáo hoàng Phanxicô. Ngài đã đến tham dự tang lễ của Đức cố Giáo hoàng tại Roma vào ngày 26/4 vừa qua.
Nhắc lại rằng năm nay, lễ Phục Sinh được tất cả các Kitô hữu trên thế giới cử hành vào cùng một ngày, Đức Thượng phụ cho biết, “Với cố Giáo hoàng Phanxicô, gần đây chúng tôi đã làm việc để đạt được thỏa thuận cùng nhau mừng lễ Phục Sinh, luôn luôn, từ bây giờ, tất cả các Kitô hữu cử hành vào cùng một ngày. Thật không may, những nỗ lực của chúng tôi đã không kết thúc kịp thời. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn hy vọng rằng tân Giáo hoàng sẽ ủng hộ chúng tôi nhiều như Đức cố Giáo hoàng Phanxicô, để chúng ta có thể đạt được cột mốc lịch sử này”.
Nhắc đến lễ kỷ niệm 1.700 năm Công đồng Chung đầu tiên Nixêa tại Bithynia – một sự kiện mà ngài và Đức cố Giáo hoàng Phanxicô đã lên kế hoạch cùng nhau kỷ niệm bằng chuyến viếng thăm thành phố này vào tháng 5, Đức Thượng phụ Bartholomew nói: “Chúng tôi hiện hy vọng rằng người kế nhiệm ngài, Giáo hoàng mới của Roma, sẽ sẵn lòng thực hiện ước mơ của Đức Phanxicô – một ước mơ mà ngài ấp ủ sâu sắc – và chúng tôi sẽ có thể cùng nhau trở lại vào năm 2025 này, năm kỷ niệm Công đồng, và thực hiện chuyến hành hương của chúng tôi”.
Đức Thượng phụ đưa ra một đề xuất: Đức Giáo hoàng mới sẽ đến thăm Tòa Thượng phụ Constantinople, nhân dịp Lễ Bổn mạng của Giáo hội Chính Thống Constantinople, vào ngày 30/11, lễ Kính Thánh tông đồ Anrê, người sáng lập Giáo hội Constantinople.
Đức Hồng y Marx, điều phối viên của Hội đồng Kinh tế, đã phát biểu để trình bày những thách thức, vấn đề và đề xuất về kinh tế, cũng theo quan điểm bền vững, với mục tiêu là các cơ cấu kinh tế tiếp tục hỗ trợ các cải cách của Giáo hoàng.
Đức Hồng y Schönborn đã phát biểu với tư cách là chủ tịch Ủy ban Giám sát Ngân hàng Vatican, trong khi Đức Hồng y Kevin Farrell, ngoài vai trò là Hồng y Nhiếp chính, còn là chủ tịch Ủy ban Đầu tư, cũng phát biểu.
Đức Hồng y Krajewski, Chánh Sở Từ thiện của Đức Thánh Cha, đã báo cáo về các hoạt động của Bộ Bác ái, và cuối cùng, Đức Hồng y Fernando Vergez, nguyên Chủ tịch Phủ Thống đốc Thành Vatican, đã chia sẻ một số thông tin cụ thể về tình hình của lãnh thổ này, đồng thời đề cập đến các công trình cải tạo.
Những chủ đề khác
Trong phần thứ hai của Phiên họp, 14 Hồng y đã phát biểu về nhiều chủ đề khác nhau, bao gồm Giáo hội học về dân Chúa; tính hiệp hành và đoàn thể tính của Giám mục như một cách để vượt qua sự phân cực; và ơn gọi linh mục và đời sống tu trì, và việc loan báo Tin Mừng, tập trung vào sự tương ứng giữa những gì chúng ta sống và những gì chúng ta loan báo. Các suy tư cũng nêu lên sự phân cực trong Giáo hội và sự chia rẽ trong xã hội như một vết thương.
Cũng có một số đề cập đến các văn bản của công đồng Vatican II như 2 Hiến chế Lumen gentium và Gaudium et spes.
Phòng Báo chí Tòa Thánh cũng cho biết chỉ có các Hồng y tham gia vào các Phiên họp chung hàng ngày này; không có thành viên nào khác của Giáo triều Roma được mời.
Chương trình đại hội lần này được Liên hiệp các nữ Bề trên Tổng quyền thế giới quyết định từ lâu, không ngờ trùng vào thời kỳ mật nghị bầu Giáo hoàng. Liên hiệp, gọi tắt là UISG, quy tụ 1.900 dòng nữ tại 97 nước. Trong toàn Giáo hội, có khoảng hơn 500.000 nữ tu. Từ năm 2013, Bề trên Chủ tịch của Liên hiệp là nữ tu Mary Barron, người Ailen, Bề trên Tổng quyền của Dòng Nữ tu Thừa sai Đức Mẹ Nữ Vương các tông đồ (Missionary Sisters of Our Lady Queen of Apostles, OLA).
Theo dự kiến, ngày 08 tháng Năm sẽ công bố một tuyên ngôn chung được bàn thảo và thông qua trong khóa họp.
Đức Hồng y Angel Fernandez Artime, người Tây Ban Nha, cựu Bề trên Tổng quyền Dòng Don Bosco, nguyên quyền Tổng trưởng Bộ các Dòng tu, sẽ cử hành thánh lễ cho các nữ tu, hôm áp ngày bắt đầu mật nghị Hồng y. Cùng với nữ tu Simona Brambilla, nguyên Tổng trưởng Bộ này, Đức Hồng y Artime sẽ lên tiếng tại Đại hội của các nữ Bề trên Tổng quyền.
Đức Thánh cha vẫn đề cao các nữ tu và nhiều lần nói rằng: “Cám ơn Chúa, các nữ tu đang giữ vai trò lãnh đạo và các chị làm việc giỏi hơn nam giới”.
Hồi đầu tháng Ba vừa qua, do quyết định của Đức Thánh cha, nữ tu Raffaella Petrini, đã thay thế Đức Hồng y Vergez làm Thống đốc, kiêm Chủ tịch Hội đồng Hồng y đặc trách Quốc gia thành Vatican.
Lễ tưởng niệm được cử hành ngày thứ Bảy, 26 tháng Tư vừa qua, với sự tham dự của 1.400 tín hữu, 10 giám mục và hơn 50 linh mục từ Đức và Ba Lan. Các vị đã cử hành thánh lễ tại Nhà nguyện Thương Khó của Chúa trong trại tập trung.
Lễ kỷ niệm được Tổng Giáo phận Munich và Freising sở tại tổ chức cùng với Hội đồng Giám mục Đức và Ba Lan. Đức Tổng giám mục Jozef Kupny, của Giáo phận Wroclaw, Phó Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ba Lan, đã chủ sự thánh lễ tưởng niệm. Sau cùng, như một kinh nguyện hòa bình, 57 ngọn nến đã được thắp lên, kính nhớ 57 vị tử đạo đã được phong chân phước hoặc phong thánh.
Đức Tổng giám mục Kupny nói rằng “Nhân dịp kỷ niệm 80 năm giải phóng trại tập trung này, một nơi đau khổ khôn tả, chúng tôi muốn tái nhấn mạnh rằng: Giáo hội đã, đang và sẽ luôn luôn đứng về phía các nạn nhân. Ba Lan và Đức, được tôi luyện nhờ kinh nghiệm về các chế độ độc tài trong thế kỷ XX, có một quyền và nghĩa vụ đặc biệt phải cảnh giác thế giới về những hậu quả chết chóc tang thương của một tình trạng, trong đó con người chiếm chỗ của Thiên Chúa và Tin mừng bị thay thế bằng những ý thức hệ do con người tạo ra. Kỷ niệm này kêu gọi chúng ta hãy tưởng nhớ, cầu nguyện và trách nhiệm”.
Tại buổi lễ, Đức cha Michael Gerber, Giám mục Giáo phận Fulda, Phó Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức, nhấn mạnh trong bài giảng rằng: “Chứng tá của các vị tử đạo ở Dachau và của Giáo hội Công giáo tại Ba Lan dạy các tín hữu Kitô rằng chúng ta không bao giờ tùy thuộc lòng thương xót của lịch sử: không những trong những năm Thế chiến thứ hai, 1939-1945, khi các Kitô hữu ở Ba Lan và nhiều nơi khác đã liều mạng cứu sống những người bị bách hại; không những ở Dachau này, không phải chỉ trong năm 1965, khi mà, bất chấp sự chống đối với nhà nước cộng sản ở Ba Lan, các giám mục Ba Lan đã gửi đến những người Đức chúng tôi lá thư hòa giải... Lá thư này là một trong những bước quan trọng nhất trong cuộc hòa giải mà đại lục chúng ta đã trải nghiệm trong nhưng thập niên sau Thế chiến thứ II”.
Trong diễn từ tại buổi tưởng niệm, ông Karl Freller, Giám đốc tổ chức “Tưởng Niệm tại miền Bavaria”, nam Đức, cho biết có hơn 2.700 linh mục và tu sĩ thuộc Công giáo, Tin lành và Chính thống, từ nhiều quốc gia, đã bị cầm tù tại trại Dachau. “Lịch sử của tất cả những người ấy là những chứng tá về đức tin và lòng can đảm, dạy chúng ta về sự cần thiết phải bênh vực đức tin của mình, cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Số phận của các chứng nhân ấy nhắc nhở chúng ta cần phải bảo vệ các giá trị của nhân loại. Những tín hữu can trường ấy đã và tiếp tục là những mẫu gương cho ngày nay, bất luận thuộc hệ phải và tôn giáo nào”.
Trong 12 năm trời, từ khi được thành lập, Dachau là nơi cầm tù khoảng 250.000 người, từ 40 quốc gia bị Đức quốc xã chiếm đóng, trong số đó có 148.802 tù nhân bị giết: 28.000 là người Ba Lan và 13.000 là người Do Thái. Trại tập trung này được quân đội Mỹ giải phóng ngày 29 tháng Tư năm 1945. Khoảng 33.000 tù nhân được giải thoát, trong đó có gần 15.000 người Ba Lan là nhóm đông nhất. Dachau là nơi hành quyết 2.579 giáo sĩ Công giáo gồm phó tế, linh mục và giám mục, trong đó có 1.780 từ Ba Lan. Hiện nay, mỗi năm có khoảng 800.000 người viếng thăm trại Dachau.
Linh mục Jacob Shanet, Chưởng ấn Tòa Giám mục Giáo phận Kafanchan, ra thông cáo cho biết vụ bắt cóc đã xảy ra vào ngày 24 tháng Tư vừa qua, tại nhà xứ của cha Amos khoảng quá nửa đêm. “Trong khi chúng tôi xin anh chị em cầu nguyện để cha Amos sớm được giải thoát, chúng tôi mời gọi dân chúng tránh tự mình thi hành công lý”.
Hồi tháng Ba năm nay, cũng tại bang Kaduna, linh mục Sylvester Okechukwu, cha sở giáo xứ Thánh Mary Tachira đã bị bắt cóc và sát hại. Sau đó, thủ phạm vụ này đã bị các lực lượng an ninh bắt.
Nạn bắt cóc người để đòi tiền chuộc mạng là một tai ương đã từng gây kinh hoàng cho cả Đức Giáo hoàng Phanxicô. Trong buổi đọc kinh Truyền tin trưa Chúa nhật, ngày 25 tháng Hai năm ngoái (2024), Đức Cố Giáo hoàng nói: “Thật là điều gây kinh hoàng những vụ bắt cóc người thường xảy ra tại Nigeria. Tôi bày tỏ sự gần gũi trong kinh nguyện với nhân dân Nigeria, cầu mong có những nỗ lực quyết tâm để chặn đứng sự lan tràn những vụ như thế bao nhiêu có thể”.
Nguồn tin của Asia News cho biết hôm 27 tháng Tư vừa qua, các linh mục ở Thượng Hải đã bị triệu đến bỏ phiếu ủng hộ việc chọn một Giám mục Phụ tá cho giáo phận này, đó là cha Ngô Kiến Lâm (Wu Jianlin), một người rất trung thành với đảng và hiện là Tổng đại diện giáo phận. Cha đã đắc cử và chỉ bị vài phiếu chống.
Ngoài ra, ngày 29 tháng Tư, diễn ra cuộc bầu giám mục cho Giáo phận Tân Hương (Xianxiang), thuộc tỉnh Hà Nam, và ứng viên duy nhất là cha Lý kiến Lâm (Li Jianlin).
Thể thức vẫn thường được nhà nước Trung Quốc thi hành, mặc dù có Hiệp định tạm thời với Tòa Thánh về việc bầu giám mục, một hiệp định rất được ĐGH Phanxicô mong muốn. Nhân danh sự tự trị của Giáo hội tại Trung Quốc, luôn được nhà nước Bắc Kinh yêu cầu, chỉ có một ứng viên duy nhất được đệ lên Tòa Thánh. Ứng viên này được chọn trong cuộc họp các giáo sĩ có đăng ký với các cơ quan do đảng cộng sản Trung Quốc kiểm soát, Đức Giáo hoàng chỉ có quyền phê chuẩn hay không phê chuẩn.
Cũng cần nói rằng hai cuộc bầu chọn giám mục này có lẽ đã được ấn định trước khi Đức Thánh cha Phanxicô qua đời. Nhưng điều ý nghĩa là người quản lý chính sách tôn giáo ở Trung Quốc đã ra lệnh không dời lại. Và đây cũng là một cách nói rằng thời kỳ đặc biệt mà Giáo hội hoàn vũ đang trải qua với tình trạng trống tòa không liên hệ gì đến các tín hữu Công giáo sống tại Trung Quốc. Nhất là vì hai cuộc bổ nhiệm vừa nói đều đặc biệt tế nhị. Như đã xảy ra cách đây vài tháng đối với Bắc Kinh: tại Thượng Hải, Giám mục Thẩm Bân (Shen Bin), cũng là người đã được Đảng chọn như một nhân vật quan trọng đối với cộng đoàn Công giáo địa phương. Đức cha là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Trung Quốc, một cơ quan không được Tòa Thánh công nhận, nay giám mục này muốn một giám mục phụ tá, mặc dù giáo phận này đã có hai giám mục phụ tá, đó là Đức cha Giuse Hình Văn Chi (Xing Wen Zhi), năm nay 62 tuổi, thụ phong Giám mục năm 2005, nhưng rồi bị thất sủng, và nhất là Đức cha Tađêô Mã Đại Thanh (Ma Daqin), năm nay 57 tuổi, Giám mục Phụ tá, từ ngày 07 tháng Bảy năm 2012, nhưng ngài đã tuyên bố rút khỏi hội Công giáo yêu nước trong buổi lễ truyền chức giám mục, nay đang bị Nhà Nước quản thúc tại Đại chủng viện Xà Sơn (Sheshan).
Hồi tháng Bảy năm 2023, ba tháng sau thủ thuật của Nhà nước Bắc Kinh, Đức Giáo hoàng Phanxicô đành phải chấp nhận việc bổ nhiệm giám mục Thẩm Bân làm Giám mục Thượng Hải, “vì lợi ích của giáo phận”, người ta hy vọng cả Đức cha Mã Đại Thanh cũng có thể tái thi hành sứ vụ như Giám mục Phụ tá, nhất là vì hồi năm 2016, Đức cha đã công khai rút lại lời tuyên bố rời bỏ hội Công giáo yêu nước. Nay với việc chọn cha Ngô Kiến Lâm làm Giám mục Phụ tá, hiển nhiên là Nhà nước Bắc Kinh không có ý định chấp nhận để Đức cha Mã Đại Thanh làm Giám mục Phụ tá.
Ngô Kiến Lâm là linh mục thuộc hội Công giáo yêu nước, từ năm 2013 đến 2023, là người điều khiển Giáo phận Thượng Hải trong thực tế và trong tư cách đó, từ nhiều năm nay, là thành hiện Hội đồng tư vấn chính trị Nhân dân Trung Quốc.
Trường hợp bầu linh mục Lý Kiến Lâm làm giám mục tại Giáo phận Tân Hương cũng là một vấn đề. Giáo phận này đã có chủ chăn là Đức cha Trương Duy Trụ (Zhang Weizhu) 67 tuổi. Ngài thụ phong giám mục bí mật năm 1991 và bị bắt nhiều lần, cả trong những năm gần đây, chỉ vì thi hành sứ vụ giám mục của mình. Cha Lý Kiến Lâm là người rất trung thành với Đảng: năm 2018 là một trong những người ký vào thông tư chính thức cấm các trẻ vị thành niên không được đến nhà thờ dự lễ.
Càng khôn lớn, tôi càng nhận thấy vai trò của Đức Giáo hoàng quá quan trọng trong Giáo hội. Khi theo dõi truyền thông, tôi nhận thấy Đức Giáo hoàng luôn là nhân vật được quan tâm, cả trong Giáo hội lẫn xã hội. Nhìn bên ngoài, Đức Giáo hoàng cũng là một con người hết sức bình thường, đơn sơ và khả kính. Với con mắt đức tin, rõ ràng Đức Giáo hoàng là người đại diện của Thiên Chúa ở trần gian. Chính Thiên Chúa quan phòng luôn ban cho Giáo hội món quà là Đức Giáo hoàng.
Lịch sử Hội thánh Công giáo luôn có sợi chỉ đỏ thiêng liêng nối kết các thế kỷ: triều đại Giáo hoàng. Lịch sử chứng kiến sự hiện diện liên tục và vững vàng của vị Giáo hoàng, người kế vị Thánh Phêrô, vị mục tử của toàn thể đoàn chiên Đức Kitô. Dẫu thế giới có đổi thay, quyền lực thế gian có thăng trầm, thì vai trò của Giáo hoàng vẫn tồn tại như một biểu tượng sống động cho tình yêu kiên trung của Thiên Chúa dành cho Hội thánh. Giáo hội không bao giờ bị bỏ rơi! Trong đức tin của người Công giáo, Giáo hoàng không chỉ là nhà lãnh đạo tối cao của Giáo hội, mà còn là một quà tặng lớn lao. Nhờ món quà này mà nhân loại được dẫn dắt, gìn giữ và hiệp nhất với nhau.
1. Nền tảng thần học về chức vụ Giáo hoàng
Chức vụ Giáo hoàng bắt rễ sâu trong mặc khải Kinh thánh. Chính Đức Giêsu, trong giây phút long trọng và quyết định, đã tuyên bố với Simon con ông Giôna: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá (πέτρᾳ), trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18). Về mặt thuật ngữ, Πέτρος (Petros) nghĩa tên riêng, giống đực, là hình thức chuyển thể của petra, có thể hiểu là “tảng đá nhỏ” hoặc “người mang tên đá”. Theo đó, Giáo huấn Công giáo cho rằng: 1. πέτρᾳ chỉ chính Thánh Phêrô, người được chính Chúa Giêsu trao quyền lãnh đạo Hội thánh; 2. Từ “tautē tē petra” – “trên chính đá này” – ám chỉ chính con người của Phêrô, người vừa tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (Mt 16,16), cũng là người được Đức Giêsu chọn để trở nên “nền tảng” của Hội thánh hữu hình. Cũng vậy, mỗi lần Mật nghị Hồng y bầu chọn Giáo hoàng, ý thức tính hệ trọng này, một Hồng y chia sẻ rằng: “Chúng tôi cảm thấy mình thật nhỏ bé. Chúng tôi phải đưa ra những quyết định có tính hệ trọng cho toàn thể Giáo hội, vì vậy xin anh chị em hãy cầu nguyện cho chúng tôi.” (Đức Hồng y Jean-Claude Hollerich, dòng Tên – nguyên là một cố vấn thân cận của Đức Thánh cha Phanxicô.)
Sau khi xác nhận điều trên, Chúa Giêsu liền trao cho vị Giáo hoàng đầu tiên “chìa khóa (κλεῖδας) Nước Trời” (Mt 16,19). Theo Thánh kinh, chìa khóa là biểu tượng của quyền bính (Is 22,22; Kh 3,7). Do quyền bính đặc biệt này, Đức Giáo hoàng – người kế vị Thánh Phêrô – có quyền tài phán trên toàn thể Hội thánh và trên mọi tín hữu. Đây là quyền hành thiêng liêng và trách nhiệm tối thượng của Đức Giáo hoàng. Chưa hết, trước khi lên trời, Chúa Giêsu không trao đàn chiên cho cả nhóm Tông đồ, nhưng gọi đích danh Phêrô ba lần: “Này Simôn, Con có yêu mến Thầy không? … Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Ga 21,15–17). Chỉ riêng điều này cho thấy, từ khởi đầu, Hội thánh được xây dựng trên sự hiệp thông, trong đó có một người giữ vai trò phục vụ cho sự hiệp nhất trong đức tin và tình bác ái.
Từ Thánh Phêrô đến Đức Giáo hoàng hiện nay, có một dòng chảy Tông truyền liên tục. Điều này không chỉ mang tính lịch sử, nhưng là một biểu lộ lòng trung tín của Thiên Chúa với dân Ngài. Khi ban cho Hội thánh vị mục tử tối cao ở trần gian, Thiên Chúa không lấy đi quyền tự do của con người, nhưng củng cố niềm tin bằng việc bảo đảm sự trung thực trong đức tin và luân lý. Thánh Irênê, vào thế kỷ II, đã viết: “Mọi Giáo hội phải quy phục Giáo hội Rôma, vì nơi đó có sự kế vị từ Thánh Phêrô” (Adversus Haereses (Chống Lạc Giáo), III, 3,2).
Theo trên, Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Lumen Gentium, cũng minh định rằng Đức Giáo hoàng – với tư cách là Giám mục Rôma và người kế vị thánh Phêrô – “là nguyên lý và nền tảng vĩnh viễn, hữu hình của sự hợp nhất giữa các Giám mục cũng như giữa các tín hữu” (LG, số 23). Thực ra ý nghĩa này nằm trong chính danh xưng Đức Giáo hoàng trong tiếng Latinh: Summus Pontifex. Trong đó Pontifex có nghĩa là “người làm cầu nối giữa thần linh và con người”. Đây không phải là một thứ quyền lực tối cao, nhưng là một trách nhiệm phục vụ. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã không ít lần nhấn mạnh rằng: “Giáo hoàng không phải là người đứng trên Giáo hội, nhưng là người đứng trong Giáo hội, phục vụ Giáo hội.” Danh hiệu “Servus servorum Dei” – “Tôi tớ của các tôi tớ Thiên Chúa” – vốn được dùng từ thời Giáo hoàng Grêgôriô Cả (thế kỷ VI), cho thấy sự đảo ngược triệt để mô hình quyền lực thế gian: càng ở vị trí cao, càng phải phục vụ nhiều hơn (Mt 20,25–28).
2. Vai trò của Giáo hoàng
Một cách cụ thể, Giáo hoàng là người giữ vai trò bảo vệ kho tàng đức tin tông truyền, người phán quyết tối hậu về những vấn đề liên quan đến tín lý và luân lý, và là điểm quy chiếu không thể thiếu cho sự hiệp thông trong toàn thể Hội thánh hoàn vũ. Trong tư cách là người kế vị Thánh Phêrô – người đã được chính Đức Kitô trao “chìa khóa Nước Trời” và quyền “buộc – tháo” (x. Mt 16,19) – Đức Giáo hoàng đảm nhận trách nhiệm gìn giữ sự trung tín đối với Lời Chúa và Truyền thống Tông đồ trong mọi thời đại. Vì sứ mạng đặc biệt này, Hội thánh dạy rằng: Đức Giáo hoàng được ơn bất khả ngộ (infallibility) trong những hoàn cảnh nhất định (x. GLHTCG 888-896), khi hội đủ ba yếu tố: Ngài nói với tư cách là mục tử tối cao của toàn thể Hội thánh (ex cathedra); Ngài công bố một giáo lý liên quan đến đức tin hoặc luân lý; Ngài muốn xác định cách dứt khoát điều đó là tín điều phải tin.
Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn Giáo hoàng như một người giảng dạy đức tin, ta sẽ bỏ qua khía cạnh mục vụ rất quan trọng. Giáo hoàng, hơn hết là vị cha chung của toàn thể dân Chúa. Người ta không chỉ lắng nghe Giáo hoàng, mà còn tìm đến ngài như một biểu tượng của lòng thương xót, của sự hòa giải, của sự nâng đỡ tinh thần. Thật cảm động khi nhìn thấy các Đức Giáo hoàng gần đây như: Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, và Đức Thánh Cha Phanxicô. Các ngài không ngừng lên tiếng bênh vực người nghèo, người di dân, những thai nhi bị đe dọa, những nạn nhân chiến tranh, và những người bị xã hội loại trừ. Từ tòa nhà Vatican, các ngài không ngồi yên trong nhung lụa, mà cúi xuống, bước ra, và hòa mình vào dòng chảy của nhân loại đang đau khổ.
Trong thế giới hôm nay, vai trò của Giáo hoàng càng trở nên quan trọng và khẩn thiết. Khi niềm tin bị xói mòn, các giá trị luân lý bị đảo lộn, và lòng người chia rẽ, thì một tiếng nói trung thực và hiền hậu có thể làm dịu cơn khủng hoảng. Thông điệp Fratelli Tutti của Đức Phanxicô là một minh chứng hùng hồn cho vai trò tiên tri và mục tử của vị Giáo hoàng. Ngài không chỉ viết cho người Công giáo, nhưng cho toàn nhân loại: “Tất cả chúng ta đều là anh em.” Khi lên tiếng mời gọi đối thoại liên tôn, chăm sóc ngôi nhà chung (trong Laudato Si'), hay khuyến khích lòng thương xót và sự tha thứ (Misericordiae Vultus), Đức Giáo hoàng thực sự là khí cụ bình an Thiên Chúa dùng để chữa lành thế giới. Có lẽ chúng ta đã nghe và cảm nhận sâu sắc các điều này trong những ngày tang lễ của Đức Thánh Cha Phanxicô!
3. Vài đặc tính của Giáo hoàng
Để dễ hiểu hơn tại sao Giáo hoàng lại là món quà của Thiên Chúa, tôi xin tóm tắt 10 đặc tính của Giáo hoàng (dĩ nhiên còn nhiều nữa) như sau:
- Người kế vị thánh Phêrô (Successor of Peter): Sự kế vị này nối kết Đức Giáo hoàng với sứ mạng và quyền bính được Chúa Kitô trao cho Phêrô, bảo đảm tính liên tục của Giáo hội Tông truyền (Mt 16,18).
- Người đại diện hữu hình của Chúa Kitô trên trần gian (Vicar of Christ): Điều này có nghĩa Đức Giáo hoàng thi hành sứ mạng mục tử thay mặt cho Chúa Kitô cách hữu hình trong Hội thánh hoàn vũ (Mt 16,19).
- Người bảo vệ và gìn giữ đức tin Tông truyền (Guardian of Apostolic Faith): Theo GLHTCG số 890–892, Đức Giáo hoàng “gìn giữ Hội thánh khỏi lạc lối và xác định các tín điều đức tin”.
- Mục tử tối cao của toàn thể Hội thánh (Supreme Pastor of the Church): Lumen Gentium, số 22: “Do Chúa thiết định, thánh Phêrô và các Tông đồ khác đã tạo thành một Tông đồ đoàn duy nhất, cũng với cách thức tương tự, Giám mục Rôma là người kế vị thánh Phêrô, cùng với các Giám mục là những người kế vị các Tông đồ luôn liên kết với nhau.”
- Chủ thể của quyền giáo huấn tối cao và bất khả ngộ (Infallible Teacher): Chúa Thánh Thần gìn giữ Đức Giáo hoàng khỏi sai lầm (x. Pastor Aeternus, Vaticanô I, 1870).
- Biểu tượng và nguyên lý hữu hình của sự hiệp nhất (Visible Sign of Unity): Lumen Gentium, số 23: “Vị Giám mục Rôma, Đấng kế vị Phêrô, là nguyên lý và nền tảng vĩnh viễn, hữu hình của sự hợp nhất giữa các Giám mục cũng như giữa các tín hữu”.
- Người có quyền tối thượng trong hành pháp và giáo luật (Supreme Legislator and Executive): Theo Giáo luật điều 331, Giáo hoàng có quyền tối thượng, trọn vẹn, trực tiếp và phổ quát trên toàn Giáo hội.
- Người triệu tập và phê chuẩn các Công đồng chung (Convener of Ecumenical Councils): Chỉ Đức Giáo hoàng mới có quyền triệu tập và phê chuẩn kết quả các Công đồng chung – những kỳ họp mang tính toàn cầu của Giám mục đoàn.
- Người đối thoại với thế giới và các tôn giáo: Đức Giáo hoàng là nhà lãnh đạo tôn giáo có ảnh hưởng toàn cầu, đại diện cho tiếng nói lương tâm của nhân loại, cổ vũ đối thoại liên tôn, liên văn hóa, hòa bình và công lý.
- Tôi tớ của các tôi tớ Thiên Chúa (Servant of the Servants of God): Đức Phanxicô xác định: “Người lãnh đạo đích thực phải có mùi của chiên, sống giữa đoàn chiên mình.” (Evangelii Gaudium, số 24).
Tạm kết
Chia sẻ trên đây có lẽ cho thấy phần nào: “Tại sao Hội thánh cần Giáo hoàng?” Đây không chỉ nằm ở lý lẽ thần học hay giáo luật, mà nằm trong kinh nghiệm thiêng liêng của Dân Chúa. Giáo hoàng không phải là một “vị vua thiêng liêng” ở Rôma, mà là người cha hiền, người anh cả, người giữ gìn kho tàng đức tin, và là người dám lên tiếng vì công lý trong tình bác ái. Khi chúng ta cầu nguyện cho Giáo hoàng mỗi ngày trong Thánh lễ – “cùng với tôi tớ Chúa là Đức Giáo hoàng…”, chúng ta không chỉ cầu cho một con người, mà là cầu nguyện cho món quà mà Thiên Chúa đã ban để gìn giữ Hội thánh qua muôn thế hệ.
Vị Giáo hoàng – với mọi giới hạn nhân loại – vẫn là khí cụ nhiệm mầu, qua đó, Thiên Chúa tỏ lộ lòng trung tín chăm sóc Dân Ngài. Giáo hoàng là tấm gương để mỗi người chúng ta cũng học biết cách sống đức tin trong sự hiệp nhất, phục vụ và hy vọng. Nhìn vào Giáo hoàng, chúng ta được mời gọi không phải là chiêm ngưỡng một vinh quang trần thế, mà là nhận ra sự hiện diện âm thầm nhưng mạnh mẽ của Chúa Kitô – Vị Mục Tử Đích Thật – đang tiếp tục chăn dắt Hội thánh qua vị đại diện của Ngài ở trần gian.
Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc S.J.
Sau đó, Trưởng ban Nghi lễ Phụng vụ Giáo hoàng, với chức năng của một công chứng viên, và hai quan chức của ban Nghi lễ làm chứng thảo văn bản chấp thuận và ghi lại tên đã chọn.
Kết thúc Mật nghị Hồng y
Tông hiến Universi Dominici Gregis xác định rằng Mật nghị kết thúc ngay khi Tân Giáo hoàng chấp nhận việc bầu chọn, “trừ khi ngài có quyết định khác”. Sau đó, một số vị được phép vào Nhà nguyện Sistine, như Phó Quốc vụ khanh Tòa Thánh, Ngoại trưởng Toà Thánh, và những người khác có trách nhiệm liên hệ với Tân Giáo hoàng.
Khói trắng và “Phòng Nước mắt”
Kết thúc nghi thức chấp thuận, các phiếu bầu và tài liệu liên quan được đốt, tạo ra khói trắng báo hiệu đã có Tân Giáo hoàng. Trong khi các tín hữu ở Quảng trường Thánh Phêrô vỗ tay reo mừng và thế giới hồi hộp chờ đợi tên của ngài, vị Tân Giáo hoàng rời Nhà nguyện Sistine và bước vào phòng thánh, nơi được gọi là “Phòng Nước mắt. Tại đây, ngài được Trưởng ban Nghi lễ Phụng vụ Giáo hoàng giúp đỡ mặc một trong ba bộ áo Giáo hoàng đã được chuẩn bị sẵn.
Nghi lễ đầu tiên: Tỏ lòng kính trọng và hát “Te Deum”
Khi trở lại Nhà nguyện Sistine, Tân Giáo hoàng ngồi trên ghế và một nghi lễ ngắn diễn ra. Một Hồng y thuộc đẳng giám mục đọc lời chúc mừng; sau đó, Hồng y đứng đầu đẳng linh mục đọc một đoạn Tin Mừng có thể là “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” hoặc “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”. Kế đó, Hồng y trưởng đẳng phó tế đọc một lời cầu nguyện cho người Kế vị Thánh Phêrô mới được bầu.
Sau nghi thức, các Hồng y lần lượt tiến đến trước Tân Giáo hoàng để bày tỏ lòng kính trọng và vâng phục, theo thứ tự phẩm trật. Cuối cùng, tất cả cùng hát bài thánh ca “Te Deum”, do chính Tân Giáo hoàng xướng.
Lời cầu nguyện của Tân Giáo hoàng tại Nhà nguyện Paolina
Trong khi Đức Hồng Y trưởng đẳng phó tế Dominique Mamberti tiến ra ban công chính của Đền thờ Thánh Phêrô để công bố: Tôi loan báo cho anh chị em niềm vui lớn lao: chúng ta có Đức Giáo hoàng! (Nuntio vobis gaudium magnum: habemus papam!) thì Tân Giáo hoàng, trước khi ra chào các tín hữu, dừng lại trong Nhà nguyện Paolina để thinh lặng cầu nguyện trước Mình Thánh Chúa. Sau đó, ngài bước ra ban công và ban phép lành tông tòa đầu tiên cho thành Roma và toàn thế giới “Urbi et Orbi”.
Đức Giáo Hoàng Lêo XIV, tên khai sinh là Robert Francis Prevost, sinh ngày 14 tháng 9 năm 1955 tại Chicago, Illinois, Hoa Kỳ. Ngài là vị Giáo Hoàng thứ 267 của Giáo hội Công giáo Rôma, được bầu chọn trong Mật nghị Hồng y vào ngày 8 tháng 5 năm 2025. Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên xuất thân từ Hoa Kỳ, đồng thời là vị Giáo Hoàng thứ hai từ châu Mỹ (sau Đức Phanxicô) và là vị Giáo Hoàng đầu tiên thuộc Dòng Thánh Augustinô (O.S.A.) kể từ Đức Grêgôriô VIII (qua đời năm 1187).
Gia đình và thời niên thiếu
Robert Francis Prevost sinh ra trong một gia đình có gốc gác đa dạng: cha là Louis Marius Prevost (gốc Pháp và Ý) và mẹ là Mildred Martínez (gốc Tây Ban Nha). Ngài có hai anh em trai là Louis Martín và John Joseph. Thời niên thiếu, ngài sống cùng gia đình tại Chicago và theo học tại Tiểu chủng viện Dòng Augustinô. Sau đó, ngài tiếp tục học tại Đại học Villanova, bang Pennsylvania, nơi ngài tốt nghiệp Cử nhân Toán học và bổ sung kiến thức về Triết học vào năm 1977.[]
Hành trình tu trì
- 1977: Ngày 1 tháng 9, ngài gia nhập nhà tập của Dòng Thánh Augustinô (Ordo Sancti Augustini , viết tắt là O.S.A.) tại Saint Louis, thuộc Tỉnh dòng Đức Mẹ Chỉ Bảo Đàng Lành (Our Lady of Good Counsel) ở Chicago. Ngài tuyên khấn lần đầu vào ngày 2 tháng 9 năm 1978.
- Thần học và Giáo luật: Ngài học thần học tại Liên hiệp Thần học Công giáo Chicago (CTU). Ở tuổi 27, ngài được gửi đến Rôma để học Giáo luật tại Đại học Giáo hoàng Thánh Tôma Aquinô (Angelicum). Tại đây, ngài được Đức Cha Jean Jadot truyền chức linh mục vào ngày 19 tháng 6 năm 1982 tại Học viện Augustinô Thánh Mônica. Ngài tốt nghiệp văn bằng Giáo luật cấp II (Licentiate) năm 1984 và bảo vệ luận án tiến sĩ vào năm 1987 với đề tài: “Vai trò của Bề trên địa phương trong Dòng Thánh Augustinô”.
Sứ vụ truyền giáo và quản lý
- 1985–1986: Ngài được gửi đi truyền giáo tại Chulucanas, Piura, Peru, khởi đầu cho hành trình phục vụ tại Nam Mỹ.
- 1987: Sau khi hoàn thành tiến sĩ, ngài được bổ nhiệm làm Giám đốc Ơn gọi và Giám đốc Truyền giáo của Tỉnh dòng Đức Mẹ Chỉ Bảo Đàng Lành tại Olympia Fields, Illinois, Hoa Kỳ.
- 1988–1998: Ngài trở lại Peru, phục vụ với nhiều vai trò: linh mục giáo xứ, viên chức giáo phận, giảng viên chủng viện và quản lý tại Chiclayo, Peru.
- 2001–2013: Ngài được bầu làm Bề trên Tổng quyền Dòng Thánh Augustinô tại Rôma, lãnh đạo dòng trên toàn cầu trong 12 năm. (https://en.wikipedia.org/wiki/Pope_Leo_XIV)
Các vai trò trong Giáo hội
- 2015–2023: Đức Giáo Hoàng Phanxicô bổ nhiệm ngài làm Giám mục Chiclayo, Peru, nơi ngài phục vụ trong 8 năm. (https://en.wikipedia.org/wiki/Pope_Leo_XIV)
- 2019: Ngài được bổ nhiệm vào Bộ Giáo sĩ (ngày 13/7/2019).
- 2020: Ngài đảm nhận vai trò trong Bộ Giám mục (ngày 21/11/2020) và làm Giám quản Tông tòa Giáo phận Callao, Peru (ngày 15/4/2020).
- 2023: Ngày 30/1, ngài được triệu hồi về Rôma, đảm nhận vị trí Tổng trưởng Bộ Giám mục và Chủ tịch Ủy ban Giáo hoàng về Châu Mỹ Latinh, đồng thời được nâng lên hàng Tổng Giám mục. Ngày 30/9, Đức Phanxicô vinh thăng ngài làm Hồng y với tước hiệu nhà thờ Thánh Mônica, chính thức nhận nhà thờ vào ngày 28/1/2024.
- 2024: Ngày 6/2, ngài được nâng lên làm Hồng y Đẳng Giám mục với tước hiệu Giáo phận Ngoại ô Albano. Ngài cũng được bổ nhiệm làm thành viên của nhiều bộ trong Tòa Thánh, bao gồm Bộ Loan báo Tin Mừng, Bộ Giáo lý Đức tin, Bộ Các Giáo hội Đông phương, Bộ Giáo sĩ, Bộ Tu sĩ, Bộ Văn hóa và Giáo dục, Bộ Văn bản Luật, và Ủy ban Giáo hoàng về Quốc gia Thành Vatican.
Thăng tiến và bầu chọn làm Giáo Hoàng
Trong vai trò Tổng trưởng Bộ Giám mục, ngài đã đồng hành cùng Đức Phanxicô trong các chuyến tông du và tham dự cả hai phiên họp của Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI về tính hiệp hành (4–29/10/2023 và 2–27/10/2024). Khi Đức Phanxicô nhập viện tại bệnh viện Gemelli, Hồng y Prevost đã chủ sự buổi lần chuỗi Mân Côi cầu nguyện cho ngài tại Quảng trường Thánh Phêrô vào ngày 3/3/2025.
Sau khi Đức Phanxicô qua đời vào ngày 21 tháng 4 năm 2025, Mật nghị Hồng y được triệu tập. Ngày 8 tháng 5 năm 2025, Hồng y Robert Prevost được bầu làm Giáo Hoàng sau bốn vòng bỏ phiếu, với khói trắng bốc lên từ ống khói Nhà nguyện Sistine báo hiệu sự kiện. Ngài chọn tước hiệu LÊO XIV, trở thành vị Giáo Hoàng thứ 267.
Diễn văn đầu tiên
Xuất hiện trên ban công Nhà nguyện Sistine, Đức Lêo XIV phát biểu bằng tiếng Ý:
“Bình an cho tất cả anh chị em. Anh chị em thân mến, đây là lời chào đầu tiên của Chúa Kitô phục sinh. Tôi muốn gửi lời chào bình an đến với gia đình của anh chị em, đến với tất cả mọi người, ở bất cứ nơi đâu. Nguyện bình an ở cùng anh chị em.”
Ngài kêu gọi mọi người cùng cầu nguyện, dẫn dắt một lời cầu nguyện ngắn và đọc một đoạn kinh thánh bằng tiếng Latinh để tôn kính các thánh và Đức Mẹ Maria. Ngài nhấn mạnh:
“Nhân loại cần đến Chúa Kitô như một nhịp cầu để được Thiên Chúa và tình yêu của Ngài chạm đến. Xin hãy giúp chúng tôi, và giúp nhau, bắc những nhịp cầu.” (https://www.bbc.com/vietnamese/articles/c98p4pl5ny1o)
Ý nghĩa và kỳ vọng
Đức Lêo XIV là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến từ Hoa Kỳ, đánh dấu một cột mốc lịch sử trong Giáo hội Công giáo. Việc ngài được bầu chỉ sau một ngày bỏ phiếu cho thấy sự đoàn kết trong Hồng y đoàn. Với kinh nghiệm phong phú trong truyền giáo, quản lý, và đối thoại liên tôn, ngài được kỳ vọng sẽ tiếp tục thúc đẩy tính hiệp hành và sứ vụ của Giáo hội trong bối cảnh hiện đại.
Với chủ đề “Những Người Lữ Hành Hy Vọng”, Năm Thánh gióng lên một hồi chuông tha thiết, kêu gọi mỗi người bước vào hành trình hoà giải với Thiên Chúa, với chính mình, và với nhau.
Hành trình của những người lữ hành hy vọng luôn phải băng ngang qua chặng đường của tha thứ và hoà giải. Người lữ hành hy vọng là người có khả năng hướng đến tương lai, chứ không để cho đời mình bị cột chặt vào những đổ vỡ đã xảy ra trong quá khứ.
Mang theo Thập Giá của đời mình, với vô vàn câu chuyện có thể đẫm đầy máu và nước mắt những người lữ hành bước vào cửa Thánh, để mở ra với chân trời thênh thang của hy vọng. Họ mở rộng những cánh cửa đã đóng kín trong chính tâm hồn mình, để tha thứ và đón nhận ơn tha thứ; để đón nhận người khác như chính mình đã được đón nhận, để được chữa lành và có thể ra đi làm những người chữa lành.
“Năm thứ năm mươi là Năm Thánh. Các ngươi hãy công bố lệnh ân xá cho toàn xứ và cho tất cả mọi người” (Lv 25,10).
Với người Việt ở khắp nơi trên thế giới, năm 2025 đánh dấu cột mốc năm mươi năm sau biến cố 1975. Sau 50 năm sống với gánh nặng của bất hoà và đổ vỡ, mất mát và đau thương… việc cử hành Năm Thánh trong Giáo Hội là dịp vô cùng thuận lợi để đồng bào người Việt hướng đến một tương lai bình an và mang nhiều màu sắc hy vọng hơn, cho chính mình và cho cả thế hệ con cháu của mình.
Ngang qua mọi thăng trầm đau khổ, những người có đức tin sẽ nhận ra rằng chính Chúa mới là chủ của mọi dòng lịch sử. Chính sự quan phòng của Thiên Chúa là cội nguồn của mọi niềm hy vọng. Với người Việt, dù sống trên đất nước Việt Nam hay ở khắp nơi trên thế giới, 50 năm là dịp đáng để nhìn lại, để suy gẫm, để tạ ơn, và để cho những vết thương của mình được chữa lành. Năm Thánh là cơ hội để những con người cùng dòng máu và nguồn cội có thể trao cho nhau sự tin tưởng và cùng hướng đến một tương lai hy vọng, cho chính mình và cho cả thế hệ con cháu.
Có lẽ phim tài liệu này phỏng vấn và có nguồn tư liệu về người Việt từ nhiều nước thuộc nhiều châu lục nhất từ trước đến giờ trong số các loại phim của Việt Nam.
1. Mật nghị bầu chọn Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II qua đời ngày 02 tháng Tư năm 2005, hưởng thọ 84 tuổi, sau hai mươi bảy năm phục vụ Giáo hội trong sứ vụ kế vị thánh Phêrô, và đã được an táng sau đó.
Hồng y đoàn khi ấy đã nhóm họp tổng cộng mười hai phiên toàn thể, để bàn luận về tình hình Giáo hội và thế giới.
Tiếp đó, lúc 10 giờ sáng, ngày 18 tháng Tư, Đức Hồng y Joseph Ratzinger, Niên trưởng Hồng y đoàn chủ sự thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô, cùng với 115 Hồng y cử tri, trước sự tham dự của 38 Hồng y trên 80 tuổi, các Giám mục, Linh mục, tu sĩ nam nữ và hàng ngàn giáo dân, để dâng thánh lễ, xin Chúa sớm ban cho Giáo hội một mục tử theo ý muốn của Ngài.
Hiện diện trong thánh lễ, còn có Ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh.
Lúc 16 giờ 30 cùng ngày 18 tháng Tư, 115 Hồng y cử tri thuộc 52 quốc gia, cùng với một số chức sắc Tòa Thánh có liên hệ tới Mật nghị Hồng y bầu Giáo hoàng, đã tập họp tại sảnh đường Phép Lành, ở tầng phía cuối Đền thờ Thánh Phêrô, cũng thuộc Dinh Tông tòa, để khai mạc nghi thức tiến vào mật nghị. Nghi thức này cũng được các đài truyền hình khắp thế giới trực tiếp trình chiếu.
Trong khi đoàn rước tiến bước hướng về nhà nguyện Sistina, ca đoàn và mọi người cùng hát Kinh cầu các thánh.
Sau khi các Hồng y an tọa trong Nhà nguyện Sistina, sách Tin mừng được đặt ở vị trí cao trọng giữa nguyện đường, để “chủ tọa trên toàn bộ các lễ nghi và quyết định của các Hồng y”.
Rồi mọi người hiện diện hát kinh “Veni, Creator Spiritus”, cầu xin Chúa Thánh Thần, sau đó Đức Hồng y Niên trưởng đọc lời nguyện, xin Chúa hướng dẫn và bảo vệ, ban cho các tôi tớ Chúa Thần Trí khôn ngoan, chân lý và an bình, để tìm biết ý Chúa và phụng sự Chúa hết lòng”.
Nghi thức khai mạc mật nghị được tiếp tục với phần tuyên thệ. Đức Hồng y Niên trưởng tuyên đọc công thức như sau: “Chúng tôi tất cả và từng Hồng y cử tri hiện diện trong cuộc bầu cử Giáo hoàng ở đây, chúng tôi tuyên hứa, buộc mình và thề trung thành tuân giữ kỹ lưỡng tất cả những quy định chứa đựng trong Tông hiến của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II “Universi Dominici Gregis”, Mục tử toàn thể đoàn chiên Chúa, ban hành ngày 22 tháng Hai năm 1996.
“Cũng vậy, chúng tôi tuyên hứa, buộc mình và thề rằng bất kỳ người nào trong chúng tôi, khi được bầu làm Giáo hoàng, theo sự xếp đặt của Chúa, thì sẽ quyết tâm trung thành chu toàn sứ vụ Phêrô Mục tử của Giáo hội hoàn vũ, và sẽ không thiếu sót trong việc hăng say khẳng định và bảo vệ các quyền thiêng liêng và trần thế, cũng như tự do của Tòa Thánh”.
“Nhất là chúng tôi hứa và thề hết sức trung thành tuân giữ bí mật, với tất cả mọi người, dù là giáo sĩ hay giáo dân, về tất cả những gì liên quan bất cứ cách nào tới việc bầu Giáo hoàng và về những gì xảy ra tại nơi bầu cử, liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến việc bỏ phiếu; không vi phạm bằng tất cứ cách nào bí mật này, dù là trong lúc hoặc sau cuộc bầu cử Giáo hoàng mới, trừ khi được chính Đức Giáo hoàng cho phép rõ ràng; chúng tôi hứa và thề không bao giờ ủng hộ hoặc hỗ trợ bất kỳ sự xen mình, chống đối hoặc bất cứ hình thức can thiệp nào mà thế quyền thuộc bất kỳ phạm vi hoặc cấp độ nào, hoặc bất kỳ nhóm người hoặc cá nhân nào muốn xen mình vào việc bầu Giáo hoàng”.
Sau đó, mỗi vị Hồng y, theo thứ tự phẩm trật, tuyên thệ theo công thức: “Tôi, Hồng y..., tuyên hứa, buộc mình và thề…”.
Vị Hồng y ấy đặt tay trên sách Phúc âm do các vị trong Ban nghi lễ mang tới, và nói thêm rằng: “Xin Chúa và sách Tin mừng mà tay tôi chạm đến đây, trợ giúp tôi như vậy”.
Sau khi vị Hồng y cuối cùng tuyên thệ xong, Đức Tổng giám mục Marini, Trưởng ban nghi lễ Phụng vụ của Tòa Thánh đã truyền lệnh: “Extra omnes”, nghĩa là những ai không tham dự Mật nghị Hồng y bầu Giáo hoàng, đều phải rời khỏi Nhà nguyện Sistina. Chỉ còn lại vị trưởng Ban nghi lễ phụng vụ, và Đức Hồng y Tomas Spidlik bắt đầu trình bày cho các Hồng y cử tri một bài suy niệm về nghĩa vụ hết sức hệ trọng đang chờ đợi các vị và sự cần thiết phải hành động với ý hướng hoàn toàn ngay thẳng trong việc bầu Giáo hoàng, chỉ tìm cách chu toàn ý Chúa và chỉ nhắm công ích của toàn thể Giáo hội mà thôi.
Sau bài suy niệm, cả Đức Hồng y Spidlik lẫn Đức Tổng giám mục Marini, cũng rời khỏi Nhà nguyện Sistina, chỉ còn lại 115 Hồng y cử tri. Cánh cửa nhà nguyện được Đức Hồng y Attilio Nicora, nguyên Chủ tịch sở Quản trị tài chính của Tòa Thánh, là người cuối trong các Hồng y đẳng phó tế, đích thân đóng lại, và bên ngoài các vệ binh được bố trí canh giữ tất cả các lối vào nhà nguyện.
Ngày 19 tháng Tư năm 2005, một ngày sau khi bắt đầu mật nghị, Đức Hồng y Ratzinger đã được bầu chọn làm Giáo hoàng thứ 265 của Giáo hội Công giáo, với tông hiệu Bênêđictô XVI.
Hai ngày sau đó, 21 tháng Tư, Đức Thánh cha Bênêđictô XVI đã tái bổ nhiệm Đức Hồng y Angelo Sodano vào chức vụ Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đồng thời tái bổ nhiệm các Hồng y và Tổng giám mục Tổng trưởng và Chủ tịch các cơ quan trung ương Tòa Thánh, và Chủ tịch Ủy ban Tòa Thánh đặc trách thành Vatican.
Sau hơn bảy năm thi hành sứ vụ Phêrô, phục vụ Giáo hội hoàn vũ, ngày 11 tháng Hai năm 2013, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI tuyên bố từ nhiệm vì lý do sức khỏe.
Sau gần hai tuần lễ Tòa Thánh trống vị do sự từ nhiệm của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Giáo hội Công giáo vui mừng được Chúa ban cho một vị chủ chăn mới, đó là Đức Thánh cha Phanxicô. Những cử chỉ, lời nói và hoạt động đầu tiên đơn sơ, khiêm tốn, nồng nhiệt của ngài đã thu hút ngay lòng quý mến của các tín hữu và thiện cảm của dư luận các giới, báo hiệu một triển vọng tích cực cho Giáo hội.
Từ thứ Hai, ngày 04 tháng Ba năm 2013, Hồng y đoàn bắt đầu nhóm các Phiên họp toàn thể để trao đổi và chuẩn bị cho Mật nghị bầu chọn Giáo hoàng. Con số các Hồng y tham dự các phiên họp này tại Hội trường Thượng Hội đồng Giám mục ở Vatican, từ 142 tới 152 vị trên tổng số 206 Hồng y, trong số này có 115 Hồng y cử tri dưới 80 tuổi. Sau khi vị Hồng y cử tri cuối cùng là Đức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Tổng giám mục Tổng Giáo phận Sài Gòn có mặt tại phiên họp, từ chiều ngày 07 tháng Ba năm 2013, ngay hôm sau đó, Hồng y đoàn đã quyết định bắt đầu Mật nghị bầu chọn Giáo hoàng mới, từ ngày 12 tháng Ba năm 2013.
Sáng thứ Ba, ngày 12 tháng Ba năm 2013, tất các Hồng y đã cử hành thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô, do Đức Hồng y Niên trưởng Angelo Sodano chủ sự, trước sự hiện diện của chín ngàn tín hữu. Rồi lúc 16 giờ 30 cùng ngày, 115 Hồng y cử tri, thuộc 48 quốc tịch, trong đó có 28 vị người Ý, bắt đầu cuộc rước vào Nhà nguyện Sistina trong Dinh Tông tòa, nơi được chọn làm địa điểm bầu Giáo hoàng.
Từ Quảng trường thánh Phêrô bên ngoài, hàng chục ngàn tín hữu và du khách, cùng với sáu ngàn ký giả và giới truyền thông thế giới bắt đầu chờ đợi và theo dõi, mắt nhìn lên ống khói gắn trên mái Nhà nguyện Sistina.
Tuy trời tối, nhưng bốn màn hình lớn được bố trí tại Quảng trường và có đèn chiếu vào ống khói, nên mọi người đều có thể thấy rõ được những gì xảy ra.
Lúc 19 giờ 42 phút, một luồng khói đen sậm từ ống khói tỏa ra, báo hiệu lần bỏ phiếu đầu tiên của các Hồng y không có kết quả.
Lúc 19 giờ 6 phút, ngày 13 tháng Ba năm 2013, khói trắng bắt đầu xông ra từ ống khói trên mái Nhà nguyện Sistina, giữa tiếng reo vui mừng của hàng chục ngàn tín hữu vẫn kiên nhẫn đứng chờ đợi hàng giờ trước đó dưới trời mưa, tại Quảng trường thánh Phêrô. Khói trắng thật rõ ràng! Các chuông của Đền thờ Thánh Phêrô được gióng lên liên hồi, báo hiệu đã có Giáo hoàng mới.
Trong khi chờ đợi, ban quân nhạc của Hiến binh Vatican, cùng với đoàn Vệ binh Thụy Sĩ và ban quân nhạc của hiến binh Italia và đoàn liên quân của nước này, tiến ra thềm Đền thờ Thánh Phêrô để sẵn sàng chào mừng Đức tân Giáo hoàng.
Một giờ năm phút sau khi bắt đầu có khói trắng, Đức Hồng y Jean Louis Tauran, người Pháp, Trưởng đẳng Phó tế, xuất hiện tại bao lơn Đền thờ Thánh Phêrô, giữa tiếng reo hò vui mừng của mọi người. Viva il Papa! Bầu trời lúc này đã tạnh mưa. Đức Hồng y Trưởng đẳng Phó tế long trọng tuyên bố:
“Tôi loan báo cho anh chị em một tin vui lớn: Chúng ta đã có Giáo hoàng. Đó là Đức Hồng y Bergoglio. Ngài lấy danh hiệu là Phanxicô”.
Sau khi bầu chọn được Giáo hoàng mới, có 2 câu hỏi được đặt ra trước khi tân Giáo hoàng lần đầu tiên mặc phẩm phục giáo hoàng: Acceptasne electionem de te canonice factam in Summum Pontificem? (Ngài có chấp nhận việc bầu chọn theo giáo luật làm Giáo hoàng không?) Quo nomine vis vocari? (Ngài muốn được gọi tên gì?)
Nếu cuộc bầu chọn được chấp nhận, thì đám đông tín hữu sẽ nghe Hồng y trưởng đẳng phó tế loan báo những lời này bằng tiếng Latinh vang vọng khắp thế giới: "Nuntio vobis gaudium magnum: habemus papam! Eminentissimum et reverendissimum dominum ..., qui sibi imposuit nomen...". “Tôi loan báo cho anh chị em niềm vui lớn lao: chúng ta có Đức Giáo hoàng! Vị đáng kính và cao quý nhất... người đã chọn tên...” Những lời này thường được loan báo từ ban công trung tâm của Đền thờ Thánh Phêrô. Tên của tân Giáo hoàng vẫn là từ đầu tiên được khắc ghi trong tâm trí không chỉ của các Kitô hữu.
Những cái tên được sử dụng nhiều nhất và những cái tên chưa bao giờ được chọn
Truyền thống đổi tên sau khi được bầu lên ngôi Giáo hoàng đã trở thành một phong tục trong nhiều thế kỷ. Nó liên quan đến nguồn gốc lịch sử của Giáo hội. Phêrô là tên của Giáo hoàng đầu tiên. “Con là Phêrô, nghĩa là Đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”, Chúa Giêsu đã nói với tông đồ Simon như thế.
Tên rửa tội được thay thế bằng tên Giáo hoàng, gần như để làm nổi bật “sự tái sinh” mà giám mục Roma được kêu gọi thực hiện sau khi được bầu. Trong số những cái tên được các Giáo hoàng sử dụng nhiều nhất sau khi được bầu là Pio, Gregorio, Gioan, Benedetto, Innocente, Leo và Clemente. Trong danh sách tên của các Giáo hoàng chưa có các tên như Giuse, Giacôbê, Anrê và Luca. Và cho đến nay, chưa có Giáo hoàng nào chọn tên là Phêrô như tên vị Giáo hoàng đầu tiên.
Tên của các Thánh và các Tông đồ
Trong nhiều trường hợp, tên của giáo hoàng được liên kết với tên của các vị Thánh, các tông đồ. Ví dụ, Đức Phaolô VI đã chia sẻ sự lựa chọn tên này như đã nói trong bài giảng vào ngày 30/6/1963: “Phaolô là vị Tông đồ rất yêu mến Chúa Kitô, người vô cùng mong muốn và nỗ lực để mang Tin Mừng của Chúa Kitô đến với mọi người, người đã hiến dâng cuộc đời mình vì tình yêu của Chúa Kitô”.
Triều đại Giáo hoàng là một chuỗi, một chuỗi các tên gọi. Đức Giáo hoàng Joseph Ratzinger đã nói trong buổi tiếp kiến chung ngày 27/4/2005: “Tôi muốn tự gọi mình là Benedetto XVI để kết nối tôi một cách lý tưởng với Đức Giáo hoàng đáng kính Benedetto XV, người đã lãnh đạo Giáo hội trong giai đoạn khó khăn do Chiến tranh thế giới thứ nhất... Cái tên Benedetto cũng gợi lên hình ảnh phi thường của ‘Giáo phụ vĩ đại của đời sống đan tu phương Tây’, Thánh Benedetto xứ Norcia”.
Đức Giáo hoàng Bergoglio đã chọn một cái tên chưa từng được một trong những người tiền nhiệm của ngài chọn. Trong buổi tiếp kiến với đại diện của các phương tiện truyền thông vào ngày 16/3/2013, Đức cố Giáo hoàng Phanxicô đã giải thích sự lựa chọn của riêng mình bằng những lời sau: “Cái tên đã đến trong tâm hồn tôi: Thánh Phanxicô thành Assisi. Với tôi, ngài là con người của sự nghèo khó, của hòa bình, người yêu thương và bảo vệ thụ tạo”.
Tên kép
Đức Gioan Phaolô I là vị Giáo hoàng đầu tiên trong lịch sử 2.000 năm của Giáo hội chọn một tên kép. Ngài tuyên bố tại buổi đọc kinh Truyền tin ngày 27/8/1978: “Tôi không có được sự thông tuệ của Đức Giáo hoàng Gioan, cũng không có sự chuẩn bị và văn hóa của Đức Giáo hoàng Phaolô, nhưng tôi ở vị trí của các ngài, tôi phải cố gắng phục vụ Giáo hội”.
Một số Giáo hoàng đã chọn tên của người tiền nhiệm. Ví dụ, Đức Gioan Phaolô II đã chọn tên của vị tiền nhiệm. Ngài giải thích tại buổi tiếp kiến chung ngày 22/8/1979: “Giáo hoàng mới đã chọn hai tên: Gioan-Phaolô. Tôi nhớ rất rõ khoảnh khắc đó, khi tại Nhà nguyện Sistine, ngài bày tỏ ý muốn của mình: Tôi muốn mang tên Gioan và Phaolô. Quyết định này có sức thuyết phục hùng hồn. Riêng tôi, đó có vẻ là một quyết định đầy sức lôi cuốn”.
+++ Khi chọn tên hiệu Lêô XIV, Tân Giáo hoàng theo đuổi hai con đường: con đường của người bảo vệ đức tin trước các cuộc khủng hoảng, như Thánh Lêô Cả, và con đường của người sáng tạo đối thoại xã hội và tâm linh trong một thế giới đang thay đổi, như Đức Lêô XIII. Sự lựa chọn mang tính biểu tượng đã làm sáng tỏ hướng đi của một triều giáo hoàng được đánh dấu bằng di sản của Đức Phanxicô.
+++Danh hiệu Lêô nhắc đến Thánh Lêô Cả (440–461) là giáo hoàng đầu tiên chọn danh hiệu này, ngài là giáo hoàng gìn giữ hòa bình trước cuộc xâm lược của những kẻ man rợ tấn công Rôma vào thế kỷ thứ 5; ngài là người bảo vệ đức tin tại Công đồng Chalcedon năm 451, công đồng này khẳng định sự hiệp nhất của Chúa Kitô trong hai bản tính: nhân tính và thiên tính. Sự can thiệp nổi tiếng của Thánh Lêô trong công đồng này thực hiện qua Thư gởi Flavian, được đọc công khai cho 350 Nghị phụ Công đồng, khẳng định “Phêrô đã nói qua miệng của Lêô”. Một cam kết bảo vệ đức tin, phản ảnh chân dung của Hồng y Robert Francis Prevost, ngài cũng là tiến sĩ giáo luật.
+++Mặc dù hình ảnh Thánh Lêô Cả vẫn là trọng tâm, nhưng khi Hồng y Prevost chọn danh hiệu Lêô XIV là ngài muốn nhắc đến Giáo hoàng Lêô XIII (1878-1903), giáo hoàng cuối cùng mang tên này và là kiến trúc sư của một Giáo hội cởi mở với những thách thức của thế giới hiện đại. Một quyết định chắc chắn phù hợp với những cải cách của Đức Phanxicô, người mà tân giáo hoàng đã tỏ lòng tôn kính trong lần xuất hiện đầu tiên.
Khi dùng danh hiệu này, Tân Giáo hoàng muốn đi theo bước chân của Đức Lêô XIII, ngài được biết đến vì đã thiết lập nền tảng học thuyết xã hội của Giáo hội. Đối diện với những căng thẳng xã hội của những năm 1880, khi phản đối chủ nghĩa xã hội và đấu tranh giai cấp (Quod Apostolici, 1878), Đức Lêô XIII đã lên án sự lạm dụng của chủ nghĩa tư bản, ngài bảo vệ quyền của người lao động. Năm 1891, ngài công bố thông điệp Tân Sự, Rerum Novarum, một văn bản sáng lập học thuyết Xã hội công giáo, vì thế ngài có biệt danh là “giáo hoàng của công nhân”. Thông điệp này là thông điệp nổi tiếng nhất triều của ngài, cho đến ngày nay vẫn là nền tảng cho học thuyết xã hội của Giáo hội.
Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết, "Đức Thánh Cha Lêô XIV đã bày tỏ mong muốn rằng những người đứng đầu và thành viên của các tổ chức thuộc Giáo triều Roma, cũng như các Tổng Thư ký và chủ tịch Ủy ban Giáo hoàng của Quốc gia Thành Vatican, tạm thời tiếp tục đảm nhiệm vai trò tương ứng của họ cho đến khi có quy định khác".
Thông báo của Văn phòng Báo chí Tòa Thánh nhấn mạnh rằng "trên thực tế, Đức Thánh Cha muốn dành một khoảng thời gian nhất định để suy tư, cầu nguyện và đối thoại, trước khi đưa ra bất kỳ đề cử hoặc xác nhận chính thức nào".
Ngày 09/5, Phủ Giáo hoàng thông báo chương trình hoạt động của Đức Thánh Cha Lêô XIV trong những ngày tới:
Thứ Bảy ngày 10/5, Đức Thánh Cha sẽ gặp các Hồng y;
Chúa Nhật 11/5, tại ban công chính Đền thờ Thánh Phêrô, ngài sẽ chủ sự buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng lần đầu tiên với các tín hữu tụ họp tại Quảng trường;
Thứ Hai ngày 12/5, dự kiến ngài sẽ có một cuộc họp với giới báo chí tụ họp tại Roma trong những tuần gần đây để đưa tin về các sự kiện từ khi Đức cố Giáo Hoàng Phanxicô qua đời cho đến Mật nghị Hồng y;
Thứ Sáu ngày 16/5, ngài sẽ gặp gỡ ngoại giao đoàn cạnh Toà Thánh;
Chúa Nhật ngày 18/5, ngài cử hành Thánh lễ khai mạc sứ vụ;
Thứ Ba ngày 20/5, Đức tân Giáo Hoàng Lêô XIV sẽ tiếp quản Đền thờ Thánh Phaolô Ngoại thành;
Thứ Tư ngày 21/5, ngài sẽ có buổi Tiếp kiến chung hàng tuần lần đầu tiên dành cho các tín hữu;
Thứ Bảy ngày 24/5, tân Giáo hoàng sẽ gặp gỡ Giáo triều Roma và các nhân viên của Quốc gia Thành Vatican;
Chúa nhật ngày 25/5, Đức Thánh Cha Lêô XIV sẽ chủ sự nhiều sự kiện: Từ cửa sổ Dinh Tổng Toà, đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng với các tín hữu tụ họp tại Quảng trường Thánh Phêrô; Nghi thức tiếp quản Đền thờ Thánh Gioan Latêranô và Đền thờ Đức Bà Cả.
Trong cuộc bỏ phiếu, 12 nghị sĩ Đảng Cộng hòa đã bỏ phiếu thuận, trong khi 10 nghị sĩ thuộc Đảng Dân chủ bỏ phiếu chống. Phiên họp do Thượng nghị sĩ James Risch, thuộc Đảng Cộng hòa bang Idaho, chủ tọa.
Với kết quả này, lãnh tụ các nghị sĩ thuộc Đảng cộng hòa, là ông John Thune, sẽ đưa việc bổ nhiệm ông Burch ra trước phiên họp toàn thể của Thượng viện để bỏ phiếu chung kết.
Trong cuộc thẩm định hơn ba tuần trước đó, tại phiên họp của Ủy ban Ngoại giao, ông Brian Burch đã trả lời những câu hỏi về vấn đề viện trợ của Mỹ ở hải ngoại, hiệp định giữa Vatican và Trung Quốc, vai trò của Tòa Thánh trong việc tìm kiếm một nền hòa bình lâu bền ở Trung Đông.
Nếu được toàn thể Thượng viện phê chuẩn, ông Burch sự từ chức Chủ tịch Catholic Vote, Phiếu Công giáo, một tổ chức chính trị Công giáo Mỹ, chuyện cổ võ những đường hướng trung thành với đạo lý Công giáo về luân lý và xã hội, nhưng độc lập với giáo quyền. Tổ chức này đã ủng hộ ứng cử viên Donald Trump trong cuộc tranh cử tổng thống và đã dành 10 triệu Mỹ kim cho những nỗ lực này.
Ông Brian Burch xuất thân từ Đại học Công giáo ở Dallas, bang Texas. Hồi năm 2020, ông đã viết cuốn sách “Một thời cơ mới cho Công giáo: Donald Trump và chính trị về công ích” (A New Catholic Moment: Donald Trump and Politics of Common Good).
Di sản hòa bình của Đức cố Giáo hoàng Phanxicô vẫn tiếp tục tỏa sáng trên thế giới đầy xung đột của chúng ta. Sự gần gũi mà ngài dành cho những người dễ bị tổn thương nhất vẫn tỏa sáng ngay cả sau khi ngài qua đời.
Biến chiếc xe mui trần thành phòng khám sức khỏe cho trẻ em ở Gaza là ước nguyện cuối cùng của Đức cố Giáo hoàng dành cho những người mà ngài đã thể hiện sự liên đới trong suốt triều đại giáo hoàng của ngài, đặc biệt là trong những năm gần đây.
Trong những tháng cuối đời, Đức cố Giáo hoàng đã giao phó sáng kiến này cho Caritas Giêrusalem, tìm cách ứng phó với cuộc khủng hoảng nhân đạo khủng khiếp ở Gaza, nơi gần một triệu trẻ em đã phải di dời. Trong bối cảnh chiến tranh kinh hoàng, cơ sở hạ tầng sụp đổ, hệ thống chăm sóc sức khỏe bị tàn phá và thiếu giáo dục, trẻ em là những người đầu tiên phải trả giá, với nạn đói, nhiễm trùng và các tình trạng có thể phòng ngừa khác khiến tính mạng của các em bị đe dọa.
Món quà này khẳng định tuyên bố của Đức cố Giáo hoàng: “Trẻ em không phải là những con số. Chúng là những khuôn mặt. Những cái tên. Những câu chuyện. Và mỗi đứa trẻ đều thánh thiêng”.
Chiếc xe “papamobile” được tái sử dụng đang được trang bị các thiết bị chẩn đoán, kiểm tra và điều trị - bao gồm các xét nghiệm nhanh về nhiễm trùng, dụng cụ chẩn đoán, vắc-xin, bộ dụng cụ khâu và các vật dụng cứu sinh khác. Xe sẽ có các bác sĩ và nhân viên y tế, tiếp cận trẻ em ở những nơi xa xôi nhất của Gaza sau khi việc tiếp cận nhân đạo đến dải đất này được khôi phục.
Trong một thông cáo báo chí, ông Peter Brune, Tổng thư ký Caritas Thụy Điển, đã viết rằng “với chiếc xe này, chúng tôi sẽ có thể tiếp cận những đứa trẻ hiện không được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe - những đứa trẻ bị thương và suy dinh dưỡng. Đây là một biện pháp can thiệp cụ thể, cứu sống vào thời điểm hệ thống y tế ở Gaza gần như sụp đổ hoàn toàn”.
Ông Brune cũng nói rằng đây không chỉ là chiếc xe, nhưng còn là “thông điệp rằng thế giới không quên những trẻ em ở Gaza”. Và đó cũng là lời mời: phần còn lại của thế giới cũng hãy ghi nhớ.
Anton Asfar, Tổng thư ký Caritas Giêrusalem nói: “Chiếc xe này tượng trưng cho tình yêu thương, sự quan tâm và sự gần gũi mà Đức Thánh Cha dành cho những người dễ bị tổn thương nhất, điều mà ngài đã thể hiện trong suốt cuộc khủng hoảng”.
Trong một thời gian dài, Caritas Giêrusalem đã phục vụ cộng đồng Gaza trong những điều kiện khó khăn. Với hơn một trăm nhân viên tận tụy lo dịch vụ chăm sóc sức khỏe, Caritas Giêrusalem phát huy di sản lòng trắc ẩn và sức mạnh của Đức Phanxicô. Ông Anton Asfar, Tổng thư ký Caritas Giêrusalem cho biết: “Chiếc xe này tượng trưng cho tình yêu thương, sự quan tâm và gần gũi của Đức Phanxicô dành cho những người dễ bị tổn thương nhất và ngài đã làm trong suốt cuộc khủng hoảng.”
Chiếc xe được điều chỉnh để phù hợp với nhu cầu của người dùng. Ông Brune nói: “Chiếc xe không chỉ là phương tiện nhưng còn là thông điệp: thế giới không quên trẻ em ở Gaza. Và đó cũng là lời kêu gọi thế giới nhớ đến trẻ em ở đây.”
Trận hỏa hoạn từ ngày 30 tháng Tư vừa qua ở vùng Jerusalem bị coi là trầm trọng nhất trong lịch sử. Nhiệt độ cao và gió nóng làm cho lửa lan tràn mau lẹ. Bảy ngàn người đã phải di tản. Về phía các cộng đoàn Công giáo, đặc biệt có Đan viện Trappiste ở Latrun bị thiệt hại nặng: tuy nhà dòng không bị cháy nhưng nông trại của Đan viện hoàn toàn bị thiêu hủy, một số đan sĩ và dân chúng địa phương bị mất gia cư phải tản cư đi nơi khác.
Còn nữ tu Eliana Kurylo, thuộc Cộng đoàn Bát Phúc Emmanuel, nói với Đài Vatican rằng: “Chúng tôi bị cháy hết các nhà phụ cận, nơi cư ngụ của bề trên chính của chúng tôi và ngôi nhà dành cho một đôi vợ chồng thuộc Chính thống giáo, đặc trách về đại kết từ nhiều năm nay. Ngôi nhà bị thiêu hủy trong nửa giờ, và rất may mắn cơ sở làm các icône, ảnh đạo vẽ trên gỗ, không bị cháy. Cả thư viện cũng không bị cháy”.
Cộng đoàn này thuộc cộng đoàn Canh tân trong Thánh Linh Emmanuel bên Pháp và được thành lập năm 1993 tại khu vực Emmaus-Nicopoli, đảm trách nơi thánh Emmaus cũng như đón tiếp các tín hữu hành hương và khách viếng thăm.
Đức cha William Shomali, Tổng đại diện của Tòa Thượng phụ Công giáo Latinh ở Jerusalem, cùng với Đức cha Marcuzzo và Ilario thuộc Tòa Thượng phụ, đã viếng thăm các khu vực bị nạn, để tìm hiểu các nhu cầu cần đáp ứng.
Hãng tin Fides của Bộ Loan báo Tin mừng, truyền đi ngày 05 tháng Năm vừa qua, cho biết cha John-Kennedy Anyanwu, Giám tỉnh Dòng Capuchino Thánh Phanxicô và Clara ở Nigeria, xác nhận tin đau buồn này: mười ba tu sĩ của dòng di chuyển từ cộng đoàn ở Ridgewa, thuộc bang Enugu để đi tới Obudi, thuộc bang Cross River. Trên đường đi, xe của các tu sĩ bị tai nạn. Ngoài bảy linh mục bị thiệt mạng, còn có sáu tu sĩ khác bị thương ở nhiều cấp độ khác nhau và đã được chở tới Enugu để chữa trị.