Tả quân Lê Văn Duyệt là Ân nhân của Giáo hội Công giáo VN
Chúng tôi nhận được tin dưới đây mà lấy làm lạ do thông tin quá ít ỏi nên buộc phải factcheck
Factcheck
Thực ra do chưa biết nên mới thấy lạ. Hãy coi tư liệu dưới đây
Riêng đoạn 2 đoạn: quật mộ lên để voi ngựa chà đạp và vợ con bị tru di...thì không sát với lịch sử vì:
- Tả quân chỉ có 1 đứa con nuôi là Lê Văn Khôi nổi loạn làm binh biến và bị triều đình đàn áp, sau đó bị bệnh chết.
- Vợ là
bà Đỗ Thị Phẫn
sau khi cuộc binh biến bị đàn áp năm 1835 bà Phẫn còn sống nhưng không hề bị Minh Mạng làm khó dễ.
- Sau khi đàn áp được cuộc binh biến Lê Văn
Khôi, Minh Mạng sai đình thần bàn định, kết án Lê Văn Duyệt có bảy tội
đáng xử chém, hai tội đáng xử thắt cổ, một tội đáng xử sung quân, nhưng
“còn cái xương khô trong mả không thèm gia hình” nên chỉ sai san phẳng
nấm mộ, dựng bia đề tám chữ “Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ” (Nơi
tên hoạn quan chuyên quyền Lê Văn Duyệt chịu tội). Thật ra với tính khí
của Minh Mạng thì khó mà độ lượng như vậy, nên đó chỉ là bắt không được
tha làm phước, bởi ngôi mộ thật của Lê Văn Duyệt đã được vợ là Đỗ Thị
Phẫn dời đi khỏi chỗ từ lâu rồi.
Vua Gia Long và Tổng trấn Lê Văn Duyệt với đạo Công giáo
Trích: Thái độ trước sau như một của Tổng trấn Gia Định Thành đối với Công giáo
Lê Văn Duyệt là khai quốc công thần đã có công theo phò vua Gia Long từ
những ngày còn lánh nạn Tây Sơn. Năm 1802, vua Gia Long thống nhất sơn
hà, lên ngôi Hoàng Đế, đóng đô tại Phú Xuân (Huế), Lê Văn Duyệt đi theo
Gia Long ra Bắc đánh dẹp, rồi được đưa về Huế lo bảo vệ kinh thành. Sau
đó, ông được đưa vào làm Tổng Trấn Gia Định và được trao cho "Thượng
phương kiếm" là kiếm của vua dùng và được quyền "tiền trảm hậu tấu" uy
quyền như một vị phó vương (người Pháp thường gọi ông là Vice-Roi) (4).
▓ Đức Tả quân Lê Văn Duyệt
Đức cha Michel Igneau đã viết: "Trong số các quan bạn của người Pháp,
Tổng Trấn Sài Gòn đã dám đương đầu với tân vương và đám cận thần. Ngài
thẳng thắn chỉ trích hoàng tử đã chà đạp đường lối khôn ngoan và khả
kính của vua cha, và tỏ ra không biết ơn đối với những người tận tâm
phục vụ, nhờ họ mà hoàng tử được ngôi vua" (5).
Qua những lời trên có thể nói thái độ của Tổng trấn Gia Định thành Lê
Văn Duyệt với các giáo sĩ và người Công giáo trước sau như một. Trong 18
năm trị vì của triều Gia Long, không có sắc chỉ bên vực hay cấm đạo nào
nhưng đạo Công giáo tương đối tự do, dù cho thái độ của vua Gia Long
càng ngày càng lạnh nhạt đối với các giáo sĩ đã từng giúp nhà vua. Chính
vì thế vai trò của Lê Văn Duyệt đối với Công giáo không nổi bật cho
bằng thời vua Minh Mạng bắt đầu cấm đạo.
Ngày 17.2.1825 vua Minh Mạng ra chỉ dụ cấm đạo, viện cớ tầu Thétis và
Espérance lúc rời Đà Nẵng đã để lại Regereau. Giáo sĩ Pháp cho là Minh
Mạng cứng đầu, ngoan cố không nghe lời Lê Văn Duyệt và kể cả di chúc của
Tiên Vương. Thực ra Minh Mệnh chỉ sợ thế lực của Thượng Công Lê Văn
Duyệt, trong khi đó vua Gia Long không có một trối lại một điều gì về
Công giáo và hẳn nhiên Minh Mệnh vẫn còn nhớ mãi tờ dụ của vua cha mạt
sát Công giáo. Ngày 1.1.1827, vua Minh Mạng mở màn việc cấm đạo bằng
việc sai bắt Gs Taberd đưa về Huế và ra lệnh tìm bắt các đạo trưởng Tây
Dương đưa về Kinh làm thông dịch. Lúc đầu Tổng trấn Gia Định thành Lê
Văn Duyệt ém nhẹm lệnh từ Kinh Thành Huế nên các trấn miền nam không
biết để truy lùng các giáo sĩ, sau đó Bộ lễ thúc mãi, và ông nghĩ rằng
triều đình cần thông dịch nên chọn Đức Giám mục Gagelin và linh mục
Odorico rành chữ Hán Nôm gởi ra Huế (6).
Đức Giám mục Taberd kể trong một bức thư đề ngày 28.4.1828 tại Huế rằng
"lúc đầu ông không biết những ý đồ thầm kín của vua Minh Mạng, nhưng từ
khi được người ta cho hay thái độ bất ưng của nhà vua đối xử với chúng
ta, ông đã khóc than về việc đó. Tôi sẽ cho các ông rõ vài nét về vị đại
thần này: ông xứng đáng được người Pháp biết danh, bởi lẽ ông là con
người duy nhất mến họ và còn nhớ các công cuộc phục vụ lớn lao của Giám
mục Pigneau và của cả quốc gia chúng ta nữa. Danh tước của ông là Thượng
công, ông đứng đầu hàng quan giai và là nhân vật độc nhất mà nhà vua
kính nể. Thấy rõ ý hướng cừu địch của nhà vua đối với thánh giáo chúng
chúng tôi. Chúng tôi bèn biên thư cho vị đại quan này và nhờ nhiều nhân
vật trần thuật với ông tình cảnh của chúng tôi, nhất là thảm trạng ở Bắc
Kỳ. Nghe kể tình cảnh khốn khổ của chúng tôi, ông la làng lên: 'Tôi
không hay biết gì hết về sự việc đó. Các cha cố Pháp có phạm trọng tội
chi mà ngược đãi họ?... Khi chúng ta bị đói kém, và cho vải sồ khi chúng
ta bị rách rưới mình trần thân trụi, không có chi hết trọi để che thân.
Đấy, như thế đấy mà vua đã trả bao công ơn bằng bấy hành vi vong ân,...
Tôi sẽ đi ra Huế và tôi sẽ tâu với nhà vua' " (7).
Tháng 12.1827, Lê Văn Duyệt về Kinh Thành Huế tâu trình vua Minh Mạng
nghe hành động của nhà vua là trái lẽ phải, trái với đường lối của vua
cha, đồng thời trình bày những hồ sơ của Gia Long nhìn nhận công ơn của
đức cha Bá Đa Lộc đối với nhà Nguyễn. Nghe lời bộc trực cứng rắn của
thượng công, Minh Mạng buộc lòng ngưng kế hoạch của mình, và ngày
29.6.1828 ba "tù nhân được phóng thích" (8).
▓ Phần mộ Đức Tả quân Lê Văn Duyệt ở lăng Ông Bà Chiểu.
Học giả Trương Vĩnh Ký thuật lại phản ứng của Thượng Công Lê Văn Duyệt
như sau: "Ngài Tổng Trấn bấy giờ đang xem chọi gà thì dụ bắt đạo chuyển
tới. Ngài kêu lên rằng: 'Làm sao chúng ta lại bắt bớ những kẻ đồng đạo
với giám mục Adran và những người Pháp mà nhờ họ chúng ta còn có cơm ăn?
Không, ngài nói tiếp, đang khi giận dữ xé dụ của nhà vua, chừng nào tôi
còn sống, người ta sẽ không làm được chuyện đó, điều nhà vua muốn thì
hãy làm sau khi tôi chết' " (9)
Tả quân lâm trọng bệnh và mất ngày 30 tháng 7 năm Mậu Thìn tại Sài Gòn
(nhằm ngày 15 tháng 8 năm 1832) hưởng thọ 69 tuổi và "cho tới giờ sau
hết, ngài vẫn còn là người bảo vệ người Pháp và các tín đồ Thiên Chúa
giáo" (10).
Với hy vọng rằng sẽ có một "Constantinus II" tại Việt Nam thì việc
truyền giáo sẽ dễ dàng hơn, các nhà thừa sai Châu Âu đã ra sức phò giúp
cho Vương Nguyễn Ánh đoạt được ngôi vua, thống trị đất nước. Nhưng thái
độ đó trải qua cùng năm tháng đã phai nhạc dần, để rồi về cuối đời, một
chỉ dụ về tôn giáo đã làm các thừa sai và dân công giáo hoàn toàn thất
vọng. Trong khi đó, một người đứng đầu hàng quan giai và là nhân vật độc
nhất mà nhà vua kính nể, một con người được các thừa sai kính trọng
nhất, luôn luôn nhớ đến sự giúp đỡ của các vị thừa sai trong những buổi
cơ hàn. Tổng trấn Lê Văn Duyệt đã dám đương đầu với vua Minh Mạng và đám
cận thần để bảo vệ các thừa sai và những người theo đạo Hoa Lang. Thậm
chí tới giờ chết ngài vẫn còn nhớ đến họ. Hai con người cùng chịu một ơn
nhưng có hai thái độ khác nhau, ngược nhau. Nhưng hai con người đó có
chung một thái độ: Tin mừng Kitô giáo không là lẽ sống của cuộc đời
mình. Hạt giống Tin Mừng đã gieo vào nhưng vẫn còn trơ trọi trong hai
con người này. Chân lý cứu độ không thể thắng được một tham vọng chính
trị. Một nền luân lý chân chính không thể thắng được dục vọng, vinh hoa
trần thế. Thiên Chúa không cần nhờ đến bàn tay quyền thế trần gian để
truyền bá đức tin. Cậy trông vào thế vua quan, chẳng bằng ẩn nấu ở bên
Chúa Trời (Tv 117) (11).
【Giacôbê Văn Trần Đức Duy, Đại chủng viện Huế】
* Riêng đoạn vợ con bị